Thiên Lý

Thiên Lý

Trong Sương Mù

Sương mù giăng khắp chân mây
Một màn trắng đục phủ dày trên cao
Tôi đi chẳng biết hướng nào
Khói vây quanh, tưởng đang vào thiên thai

Thoảng đưa trong gió hương lài
Xa nghe tiếng sáo theo hoài bước chân
Nhác trông bóng hạc bay gần
Vẫy đôi cánh mỏng khuất dần vào mây

Để lại giữa đám sương dày
Những vòng sắc đủ màu quay nhẹ nhàng
Sắc xanh, đỏ, tím, cam vàng
Rực lên một ánh hào quang sáng ngời

Hồn tôi mơ đến cõi trời
Lẫn trong nhịp mõ là lời kinh thơ
Tôi mơ đến được bến bờ
Nương theo Phật pháp đón chờ từ bi

Trắng lòng, trắng cả lối đi
Đời như sương khói nên vì tu tâm
Nhân từ tỏa ngát hương trầm
Gieo xuống dương thế hạt mầm yêu thương

* Một buổi sáng sương mù
trên đường đi Albuquerque

Lời Tỏ Tình Dưới Trăng

Tôi gặp Thắng trong căn bếp nhỏ ở chùa Quang Minh. Lúc ấy, cả hai đều bận rộn với công việc “công quả” của mình. Thắng thì loay hoay sửa cái ống nước rỉ ở dưới bồn rửa chén, còn tôi và các chị bạn khác thì đang bận dọn dẹp những chén dĩa dơ sau một bữa cơm chay cho cả trăm Phật Tử đến dự nhân ngày lễ Phật Đản. Khi xếp lại những chồng dĩa sạch để cất lên một ngăn tủ trên cao. Tôi cố kiễng chân và nhảy lên hai ba lần để đặt chồng dĩa giấy lên ngăn tủ. Do sức đẩy mạnh của tôi, nên có một chồng rổ nhựa, rổ nhôm trên ngăn tủ đã đồng loạt rơi xuống đúng ngay lúc Thắng vừa quay đầu ra khỏi cái bồn. Rổ rơi lốp bốp lên đầu chàng rồi mới chạm xuống đất vang lên một âm thanh lớn. Thắng ôm đầu la lên:
– Úi da, đau quá!
Tôi hốt hoảng nói lớn:
– Thôi chết, em xin lỗi, em xin lỗi!
Cùng với tiếng nói của tôi là mấy câu hỏi dồn của các chị bạn:
– Cái gì vậy? Làm sao để rớt đồ dữ vậy Như?
Tôi ngượng ngùng, ấp úng:
– Tại cái tủ cao em cố với…
Tiếng chị Thuận cắt ngang:
– Lần sau mà với không tới thì nhờ người khác lấy dùm, em đừng có ráng với, có ngày đổ hết chén là mệt đó. May là chỉ có mấy cái rổ thôi. Ủa, mà ai để rổ trên ngăn cao vậy? Rổ người ta để dưới gầm tủ này chứ.
Thắng nói giọng như rên:
– Tôi để đó, tại sửa cái sink nên tôi phải dẹp bớt mấy cái rổ ở dưới, bỏ nó lên cao cho rộng chỗ. Rồi xoa đầu mình Thắng tiếp- Ui da, đau quá.
Chị Thuận lại gần Thắng hỏi:
– Đâu, đưa chỗ đau tui coi chảy máu trắng chưa? Xạo quá, có mấy cái rổ mà làm như là gạch rớt xuống đầu hổng bằng.
Thắng cười cười:
– Sao chị biết tôi xạo?
Chị Thuận nói như diễu:
– Biết chứ sao không, tôi rành mấy ông cựu Không Quân như anh quá mà. Bây giờ anh muốn ăn vạ gì đây?
– Thôi nghe, đừng có móc tôi nữa, tôi muốn hỏi cái cô nào mà liệng rổ lên đầu tôi đó, giận tôi cái gì thì nói ra làm gì mà nặng tay quá vậy. Tôi muốn cô đó phải chuộc lỗi đó nhé.
Tôi ngập ngừng:
– Anh muốn em chuộc lỗi …làm sao?
Thắng đưa cái đèn pin cho tôi nói:
– Cô chịu khó cầm cái đèn này soi dùm tôi để tôi dán keo vô cái ống này coi. Nãy giờ tôi vừa làm vừa soi một mình, mỏi tay, mỏi mắt quá trời.
Tôi hăng hái:
– Ồ, tưởng anh bắt chuộc lỗi gì lớn lao chứ cầm đèn pin thì dễ quá.
Tôi cầm cái đèn soi cho Thắng, chàng bảo tôi soi bên trái, rồi sang phải, dơ lên cao chút nữa, lại hạ thấp xuống chỗ này. Chưa hết, chàng còn sai tôi đi lấy đinh, lấy vít, lấy kềm. Lấy không đúng cỡ cứ phải chạy lên chạy xuống tìm kiếm, mỏi cái chân. Làm thợ vịn để chuộc lỗi coi vậy mà cũng mệt ghê! Tôi chỉ biết làm nhiệm vụ cho đến khi chàng sửa xong cái ống nước rỉ. Mấy chị bạn đã về bớt, còn lại chị Thuận và tôi cùng hai người đàn bà lớn tuổi trong căn bếp.Tôi nghe Thắng bắt chuyện với chị Thuận. Lần này tôi không để ý đến câu chuyện của hai người, hình như chị Thuận cũng thân với Thắng lắm thì phải? Tôi lẳng lặng thu dọn tàn dư đinh, ốc mà Thắng vất bừa bãi trên sàn nhà vào cái thùng đồ nghề của nhà chùa, rồi quay sang nhặt những cái rổ sắp lên nhau cất vào ngăn tủ phía dưới bồn.

Sau lần làm thợ vịn chuộc lỗi ấy, tôi chỉ xemThắng như một người quen giống như bao nhiêu người tôi quen đến chùa tự nguyện làm việc. Nhưng rồi, tôi đã bắt đầu chú ý đến chàng nhiều hơn khi tôi biết trước kia Thắng đã từng là lính Không Quân. Tôi rất có cảm tình với chữ “lính” bởi nghe qua chữ ấy, nó bao hàm một sự gian khổ, can trường, một đời sống kỷ luật gắt gao trong tập luyện. Nó còn hiển hiện một hình ảnh hào hùng, hiên ngang của những chàng trai mang trên người bộ quân phục. Với chữ “lính”, tôi cũng thấy lại hình ảnh của cha, của anh tôi trong thời chinh chiến đã qua.

Tôi còn nhớ vào năm mùa hè đỏ lửa 72, khi anh tôi đang chuẩn bị thi tú tài toàn phần, mà anh lại lười biếng không chịu ôn luyện bài vở, cứ rong chơi suốt ngày. Mẹ tôi thì nuông chiều anh hết sức làm cha tôi tức giận nói:
– Mày mà thi rớt kỳ này tao “tống” mày vào lính cho mày nên người. Bằng tuổi mày đã có khối thanh niên trai tráng cận kề với súng đạn, chết chóc mỗi ngày, chứ đâu có phải sung sướng như mày nhởn nhơ, chỉ ăn rồi học mà cũng không chịu khó.
Mẹ tôi xót xa nói:
– Trời ơi, sao ông lại muốn đưa con mình vào chỗ chết vậy?
Cha tôi nói giọng bực bội:
– Sao lại là chỗ chết, đâu phải đi lính ai cũng chết. Bà nuông chiều nó cho lắm vào để nó hư thân, con trai từng ấy tuổi rồi mà cứ núp sau áo mẹ, học cũng không ra hồn thì làm sao nên người, tôi quyết định rồi, nó đậu hay rớt gì cũng vào lính.

“Đi lính để nên người” vỏn vẹn năm chữ ấy của cha tôi mà ý nghĩa cho anh trai tôi biết chừng nào. Anh đã thực sự trưởng thành sau chín tháng vào trường Bộ Binh Thủ Đức học. Lần đầu anh về phép thăm nhà, tôi thấy anh thay đổi không ngờ được. Trông anh thật oai nghiêm trong bộ đồ lính. Tuy anh đen và gầy hơn hồi còn ở nhà, anh vẫn khoẻ mạnh, xách thùng nước nặng như không. Mẹ tôi là người ngạc nhiên nhiều nhất khi thấy vẻ công tử bột của anh đã mất hẳn. Đặc biệt là anh tôi lại hiền ra, không cáu gắt hay cú đầu tôi như trước nữa. Tôi thán phục đời lính quá chừng. .. Và tôi cũng đã thầm mơ ước nếu anh tôi mà giới thiệu cho tôi một ông “bồ” là lính thì vui biết mấy! Nhưng dạo ấy tôi chưa đủ lớn để nói chuyện bồ bịch, cũng chưa tới tuổi yêu thì chiến tranh đã kết thúc.

Anh tôi mất tích luôn từ cái ngày “giải phóng miền nam”. Không biết anh đã ngã gục ở chiến trường nào? Hay anh bị bắt làm tù binh? Hoặc anh đã trốn thoát được ra hải ngoại? Mẹ tôi như người chết dở, buồn rũ rượi … Rồi sau đó cha tôi bị lệnh đi tù. Nỗi buồn lo, sợ hãi lẫn nhớ thương con trai và chồng dai dẳng làm mẹ tôi suy sụp tinh thần, mẹ đau ốm liên miên. Cuối cùng mẹ đã từ biệt tôi ra đi mãi mãi… Tôi bơ vơ giữa cuộc đời nghèo khó, sống dựa nơi cửa chùa làm đủ mọi nghề để nuôi thân và nuôi cha tôi ở trong tù…

Bao nhiêu khốn khổ của ngày cũ đã đi qua, sao hình ảnh người lính của thời chinh chiến vẫn còn phảng phất trong tôi mãi. Nhiều khi buồn, tôi hay lái xe xuống khu Wesminter đến chỗ tượng đài hai người lính Việt – Mỹ, đứng hàng giờ nhìn bức tượng mà tưởng nhớ đến cha và anh tôi, rồi lại khóc một mình. Sau này, khi quen người đàn ông nào, tôi cũng hỏi người ấy trước kia làm gì, nếu không phải là lính thì tôi không muốn quen nữa… Và tôi cứ chờ đợi, cứ mơ mộng về một người lính xa xưa đến nỗi héo mòn cả tuổi xuân mà tôi vẫn phòng không gối chiếc…
Nghĩ đến Thắng, người lính năm xưa lòng tôi thấy vui vui làm sao.Tôi hí hửng khoe với 3 bà bạn ở chung nhà:
– Mấy chị biết không, em mới quen được một anh chàng hồi xưa là lính Không Quân đó, oai chưa!
Tôi vừa dứt câu thì đã được nghe bao nhiêu lời diễu cợt lẫn cảnh giác kế tiếp. Đầu tiên, chị Hoà trề môi nói ngay:
– Ôi trời, lính Không Quân hả, “danh tiếng muôn đời”, tiếng xấu không đó nghe. Hào hùng cũng dữ, mà trăng hoa cũng lắm.
Chị Thúy tiếp:
– Nè, hồi xưa Như có nghe câu “cầu nào cao bằng cầu ông Đốc, lính nào dóc bằng lính Không Quân” không? Lính Không Quân ghê lắm đó, cẩn thận đi em.
– Ê, bà còn quên câu “đường nào dài bằng đường Phi Đạo, lính nào xạo bằng lính Không Quân” đó nghe. Tiếng chị Hậu chen vào.
Chị Hoà lắc đầu, nhìn tôi châm chọc:
– Ờ, mà Không Quân nào thèm quen đứa nhà quê như mày hả Như? Mấy tay đó chỉ thích con gái đẹp, nhảy đầm giỏi thôi.
Câu nói của chị Hoà làm tôi nổi tự ái lên cãi:
– Thôi đi, ông đó bây giờ đâu còn là Không Quân nữa, ổng cũng già rồi, đàn bà đẹp nào mà chịu quen mấy ông già…
Chị Hoà ngắt ngang:
– Ấy, ấy tại mày không biết đó thôi, mấy ổng ỷ có cái “ mác” Không Quân hồi xưa đó, đâu có nghĩ là mình già, nên hãy còn lả lướt lắm. Hỏi chị Thúy mày kìa kinh nghiệm tình trường với các chàng Không Quân ra sao, nói cho nó biết đi Thúy.
Chị Thúy cười cười:
– Mấy chàng đó chỉ thích “mì ăn liền” thôi.
Tôi ngơ ngẩn hỏi:
– Là sao hả chị?
– Là “ready lên giường” đó. Không có chuyện hẹn hò romantic đâu cưng à.
– Thiệt vậy sao?… Ngừng một chút, tôi tiếp… Nhưng mấy chị ơi, theo em nghĩ thì đâu phải ông Không Quân nào cũng xạo. Mấy chị lên án lính Không Quân dữ quá.
Chị Thúy đổi giọng đồng tình:
– Ờ há, biết đâu chừng chàng của con Như hiền lành chất phác thì sao.
Chị Hòa lại trề môi:
– Úi trời ơi, tao chưa nghe lính Không Quân nào mà hiền lành, chất phác hết, toàn là “bán trời không mời thiên lôi” cả.

Tôi chợt nhớ đến lời nói đùa của chị Thuận hôm Thắng than cái đầu bị đau: “tui rành mấy ông cựu Không Quân như ông quá mà”. Lòng tôi chùng xuống một nỗi buồn vu vơ. Tôi nói:
– Em chỉ mới quen ổng ở chùa thôi chưa có gì hết mà, mấy chị nói làm em xuống tinh thần quá.
– Là dặn dò em theo kinh nghiệm của tụi chị để em cẩn thận chứ đâu có ai nói cho em nản làm chi. Chị Hậu ôn tồn nói.
Tôi nhìn chị Hậu hỏi:
– Ồ, hôm nào em rủ ổng lại đây chơi ăn cơm với tụi mình há, lúc đó cho mấy chị tha hồ mà phỏng vấn ổng về cái vụ “danh tiếng muôn đời” của Không Quân nghe , được không?
Chị Hoà hỏi:
– Mày dám rủ không? Mà ổng dám tới mới là Không Quân thiệt đó.
– Em rủ chắc ổng tới.
– Vậy chừng nào? Chị Thúy hỏi
Chị Hoà nhìn lên tờ lịch:
– Để coi, cuối tuần tới đi, chủ nhật mình đóng cửa sớm, tao sắp xếp thợ cho mày nghỉ ở nhà nấu nướng nghe Hậu, rồi chị cười, sẵn dịp tụi mình coi mặt chàng cựu Không Quân của em Như chúng ta luôn.
Giọng chị Thúy và chị Hậu: – OK!
***
Thế là Thắng đã trở thành người bạn chung của bốn đứa chúng tôi. Bốn người đàn bà độc thân cùng sống với nhau dưới một mái nhà. Chị Hoà là người lớn tuổi nhất trong nhóm. Chị đang làm chủ một tiệm nail, căn nhà mà chúng tôi đang ở là của chị Hoà. Chị ly dị chồng, hai con gái lớn đã lập gia đình ra ở riêng.Chị Hậu là em họ chị Hoà, hãy còn độc thân, chị đến từ tiểu bang Arizona để làm nail cho tiệm chị Hoà. Chị Thúy thì góa chồng, được con gái bảo lãnh từ VN sang khoảng 5, 6 năm gì đó. Do bất đồng về cung cách sống cũng như sinh hoạt trong gia đình các con. Thúy giận con dọn ra ngoài, tấp vào ở với chị Hòa và Hậu. Chị Thúy làm việc ở một tiệm bánh. Người nhỏ tuổi hơn các chị là tôi. Đời sống tôi cũng cô độc, tôi theo cha định cư ở Mỹ theo diện H.O. Thời gian đầu, hai cha con tôi sống ở Concord với một người bà con xa bên mẹ. Sau đó vài năm cha tôi qua đời, tôi dọn về Nam Cali trôi dạt vào làm việc ở hãng medical vùng Irvine này, vì muốn đi làm gần nhà, nên tôi đã mướn một phòng ở nhà chị Hoà cho tiện.

Cuối tuần nào Thắng cũng ghé qua nhà chơi, gọi là chơi chứ thường chẳng có ai ở nhà. Thỉnh thoảng thì Thắng gặp chị Thúy, có khi thì gặp chị Hòa vài phút rồi chị lại tất tả chạy ra tiệm. Hậu cũng thế, nghề nail cuối tuần là ngày bận rộn hơn cả. Còn tôi, thì cũng hiếm hoi lắm mới gặp được chàng, vì hãng tôi hay làm“overtime” cuối tuần. Dù chẳng gặp được ai thường xuyên trong nhà, Thắng vẫn đều đặn ghé qua hàng tuần để “duyệt” một danh sách sửa chữa lặt vặt cho chúng tôi mà không hề nhận một thù lao nào. Có tuần chàng sửa cái sink bị nghẹt, cái lò hư, cái máy giặt không chạy. Có tuần thì máy lạnh có vấn đề, máy tưới cỏ bị hư…

Tôi không biết Thắng siêng năng như vậy với mục đích gì, tôi đoán hoài không ra được mục đích của chàng. Tôi chỉ biết chàng là một người bạn tốt, bên cạnh tấm lòng tốt của chàng, sự “cảnh giác” về cựu không quân của các chị đã dần dà tan biến… Ai cũng khen Thắng nhanh nhẹn trong công việc, hoạt bát trong xã giao, tài giỏi trong những chuyện sửa chữa. Đồng thời tôi cũng nhìn thấy sự thay đổi đôi chút từ ba chị. Chị Hậu bắt đầu trang điểm nhiều hơn, chị Thúy tự nhiên thích diện đồ “fashion” để cho trẻ ra. Chị Hòa vốn lười biếng chuyện bếp núc nay lại hay sưu tầm các món nhậu để ra tay nấu nướng đãi Thắng…Chỉ có tôi vẫn là “bà nhà quê” muôn thuở, có điều tôi cảm thấy vui hơn mỗi khi gặp chàng, niềm vui gặp một người bạn, một người đã từng là lính cho tôi có nhiều cảm mến. Thỉnh thoảng nhìn Thắng, tôi lại nghĩ đến Long anh trai tôi, anh mà còn sống thì chắc cũng cỡ tuổi Thắng hiện giờ…

Tình cảm con người thật là khó hiểu vô cùng, người ta có thể ghét nhau lúc đầu rồi lại thương nhau về sau. Tôi đã nhiều lần bắt gặp ánh mắt tha thiết của chị Hậu nhìn Thắng, cử chỉ làm điệu của chị thật khác thường lúc ngồi chuyện trò với chàng. Tội nghiệp cho chị, một thời xuân sắc qua nhanh với những mối tình không có đoạn kết khiến chị lỡ hết tuổi xuân. Nhưng so với số tuổi của chị hiện tại, thì mùa xuân hình như chưa qua hẳn, chị biết sửa soạn khéo léo, nên từ cách ăn mặc, trang điểm đều toát ra vẻ thanh tao, trẻ trung. Chị Hậu cũng là một người đẹp đó chứ, chị có khuôn mặt trái soan tròn, nhìn rất phúc hậu, thêm nụ cười với hai cái lúm đồng tiền sâu sâu bên má duyên dáng làm sao. Đôi mắt chị hình chiếc lá được viền xâm rất khéo càng làm nổi bật lên một màu đen dịu dàng toát ra từ ánh mắt. Tôi nghĩ chị Hậu mà quen Thắng thì cũng xứng, cả hai người đều có vóc dáng cao ráo, Thắng cao hơn chị Hậu nửa cái đầu. Chị Hòa cũng vui vẻ với Thắng không kém. Chị có khuôn mặt đẹp “after” như mặt pho tượng Mannequin, chị rất mãn nguyện với vẻ đẹp sau khi “sửa chữa” hoàn chỉnh của mình, gặp người phụ nữ nào mà thấy xấu một chút là chị khuyên đi thẩm mỹ. Chị hết sức tán dương sự màu nhiệm của thẩm mỹ đã biến đổi cái xấu thành đẹp một cách nhanh chóng không ngờ được. Tôi cũng là người “bị” chị thuyết phục nhiều lần về chuyện sửa sắc đẹp. Có một lần, chị làm tôi bực mình khi chị bình phẩm tôi:
– Mặt mũi mày coi cũng được mà người mày ốm quá Như à, vú vê chả thấy gì hết, đi bơm lên nhìn cho hấp dẫn một chút. Hà tiện tiền làm chi, chết có mang theo được đâu.
Tôi cau có gắt lớn:
– Kệ em đi, chị nói kỳ cục quá! Mẹ em sinh ra em chỉ có vậy thôi, không có khuyết tật là tốt lắm rồi. Người ta nhỏ con thì cái gì cũng phải nhỏ mới cân xứng chứ, cần gì phải đi bơm. Em không có muốn nghe chuyện sửa sắc đẹp nữa đâu đó.

Từ đó, chuyện sửa sắc đẹp của chị không còn dành cho tôi. Chị Thúy thì rất vui tính, chị hay nói chuyện tếu lâm. Chị không đẹp lắm mà nhìn rất có duyên, tôi thích chị Thúy và chị Hậu nhiều hơn chị Hoà. Không biết rồi trong ba chị này ai sẽ là người Thắng đặt vào trái tim chàng. Thắng sống độc thân đã lâu nghe nói chàng cũng ly dị, vợ chàng là người Mỹ, chàng có một đứa con trai cũng đi lính, hiện đang ở North Carolina với vợ con. Thắng làm thợ bảo trì cho một công ty cơ khí, chàng hay dành thì giờ rảnh rỗi đến chùa sửa chữa vặt. Chàng nối đây điện làm đèn chớp nháy chung quanh các tượng Phật, chàng chỉnh “timer” những bóng đèn tắt mở tự động ở ngoài cổng chùa.Chàng đóng lại cánh cổng gãy, sửa cái trần dột…Tóm lại, tất cả những hư hao từ lớn đến nhỏ nào ở chùa, Thắng đều lãnh trách nhiệm làm. Tôi mến tấm lòng tốt đẹp và sự năng nổ của chàng.

Một chiều chủ nhật đẹp trời, Thắng mời cả bốn người chúng tôi lại nhà chàng chơi rồi sau đó đi ăn tiệm. Chàng ở trong khu town house Garden Grove. Căn nhà nhỏ xinh mà cũng có được ba phòng. Mặc cho ba bà ngồi tán chuyện với Thắng, tôi hỏi chàng cho tôi đi xem chung quanh nhà, bởi tôi cũng đang dành dụm tiền để mua một căn nhà town house nhỏ cho riêng mình… Dạo một vòng, tôi thấy thích kiểu nhà town house ở khu này vô cùng, bên ngoài còn có cái hồ bơi xanh mát. Tôi cứ tấm tắc khen hoài, khiến chị Hòa phải gắt lên:
– Thôi Như à, mày giống như nhà quê ra tỉnh thứ thiệt đó, thấy cái gì cũng lạ, cũng đẹp. Ngồi xuống đi.
Tôi ngượng ngùng chống đỡ:
– Thì hồi nào tới giờ em có được đi nhiều như chị đâu mà biết.
Sau màn tán gẫu là đi ăn. Thắng nói sẽ chở 4 đứa chúng tôi trên chiếc xe của chàng. Khi ra xe, Thắng có ý muốn tôi ngồi phía trước thì chị Hoà đã nhanh nhẹn đẩy tôi ra băng sau nói:
– Mày nhỏ con ngồi sau đi, bự như tao ba đứa ngồi băng sau sao vừa.
Tôi nói:
– Ngồi đâu cũng được mà.

Thắng chọn một nhà hàng sang của Nhật, mọi người đều có vẻ chuộng món sushi, trừ tôi ra. Sợ bị chị Hoà lại “nhiếc móc” tôi là nhà quê, nên cũng đành phải gọi sushi theo mấy chị cho… sang. Nhưng khi món ăn bưng ra, tôi không chịu được mùi cá sống, phản ứng tự nhiên là tôi đưa tay che miệng để khỏi ụa. Chị Hoà cau mày hỏi:
– Mày sao vậy Như? Bất lịch sự quá!
Tôi ấp úng:
– Em… chưa quen mùi này, khó..chịu… lại muốn ụa, tôi phải đứng lên chạy nhanh ra ngoài. Tôi nghe tiếng chân người phía sau, quay lại, tôi thấy chị Thúy. Chị hỏi tôi:
– Như làm sao thế? Có bị cái gì không mà không ngửi được mùi cá?
Tôi dựa lưng vào tường nói:
– Chắc tại em không thấy khoẻ trong người, nghe mùi cá sống em ghê quá.
– Sao hồi nãy Như còn order làm chi?
– Em order đại thôi, người ta có món gì khác không chị?
– Có chứ. Tiếng Thắng chen vào, làm tôi và Thúy giật mình quay lại
Chị Thúy hỏi:
– Ủa, anh Thắng ra đây chi vậy, Như với Thúy vô bây giờ nè.
– Ờ thì ra coi Như làm sao, nếu Như không thích sushi thì anh gọi món khác cho Như, thôi vào đi. Thắng dịu dàng bảo.
Tôi bước vào bàn trở lại lén nhìn chị Hòa. Chị lườm tôi khó chịu nói:
– Làm mình làm mẩy quá vậy cô nường.

Tôi im lặng, Thắng gọi người bồi bàn nấu cho tôi một tô bánh canh Nhật, chàng bảo món này dễ ăn lắm Như à… Tôi cố nuốt từng muỗng bánh canh nhạt thếch… Bữa ăn cũng trôi qua trong sự vui vẻ của mọi người.
Lúc Thắng dừng xe trước cửa nhà chàng để chúng tôi chuyển sang xe của chị Hoà. Thắng cố ý giữ tôi lại trong xe và hỏi nhanh:
– Như à, anh có chuyện muốn nói riêng với Như, thứ bảy tới Như có làm overtime nữa không?
Tôi lắc đầu:
– Dạ không, có chuyện gì quan trọng không anh?
– Chuyện riêng thôi, à, hay Như cho anh số cell của Như đi. Quen Như bao lâu rồi mà không có số phone của Như.

Vừa nói, Thắng vừa sờ túi áo rồi tặc lưỡi: – Ồ, mà anh lại không có cây viết nào ở đây. Để coi trong ngăn này coi.
Tôi nhìn Thắng loay hoay tìm cây viết, thầm hỏi không biết anh muốn nói chuyện gì với mình mà có vẻ cuống lên thế nhỉ? …Chợt tôi nghe tiếng chị Thúy gọi to:
– Như ơi, lên xe về.
Tôi nói vội:
– Thôi thứ bảy anh tới chơi đi rồi Như cho anh số cell của Như sau.
Nói xong, tôi hấp tấp ra khỏi xe của Thắng, tôi nghe Thắng nói vói theo:
– Đợi tới thứ bảy cũng hơi lâu, thôi đành chờ. Bye Như nghe.

Thắng vẫy tay tạm biệt và nhìn theo xe chúng tôi cho đến khi khuất hẳn cuối đường. Trên xe, tôi bị chị Hòa cằn nhằn về chuyện tôi buồn nôn chạy ra ngoài, chị nói tôi làm như người thai nghén, ghê cơm tanh cá. Tôi bỗng thấy ấm ức cho mình và ghét cái miệng lải nhải của chị. Tôi nói chị Thúy mở nhạc lên nghe, tiếng chị Hòa cùng tiếng nhạc quyện vào nhau làm tôi thiếp đi nhanh trong giấc ngủ.

Đêm nay trời có trăng thật đẹp, bóng trăng tròn sáng rõ cả một khoảng sân rộng phía sau nhà. Tôi bước ra sau vừa đi, vừa ngắm trăng đang di chuyển theo mình. Tôi thấy lại thời thơ ấu, cũng một đêm trăng, anh Long và tôi đang đi bên cạnh nhau để thi đua xem ai đi mau hơn trăng. Đi một hồi tôi mỏi chân quá, đòi nghỉ chơi thì anh lại rủ tôi chạy để xem trăng có chạy nhanh như mình không. Tôi nghe lời anh chạy mà mắt thì cứ ngước lên nhìn trăng, không thấy những vật cản ở phía trước, nên tôi đã bị vấp té xước cả đầu gối…Lần cuối cùng anh em tôi gặp nhau là lần anh về phép đầu năm 75, anh cho tôi xem một cuốn thơ dày cũ nát, là cuốn thơ kỷ niệm của một người bạn trước lúc hy sinh đã tặng cho anh. Trong đó có bài thơ “Hoa Nở Để Mà Tàn” của Xuân Diệu là bài anh rất thích, anh dạy tôi đọc theo anh say sưa:

Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để mà tan
Người gần để ly biệt
Hoa thu không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in nét đau.

Tôi chầm chậm bước chung quanh vòng cỏ ngoằn ngoèo lẩm nhẩm đọc lại từng lời thơ cũ ấy mà lòng nhói đau. Tôi nhớ đôi mắt đỏ ngầu của cha, khuôn mặt mếu máo của mẹ. Tôi nghe rõ tiếng khóc nấc nghẹn của mình trong ngày nghe tin anh mất tích… Thẫn thờ thả mình xuống chiếc ghế, tôi ngồi bó gối, áp một bên má lên hai cánh tay, mắt hướng về bóng trăng. Nơi tôi đang cố tìm lại cảnh gia đình quây quần bên mâm cơm đạm bạc thuở nào…Rồi từ ánh trăng, tôi mơ màng thấy một luồng ánh sáng rực rỡ chiếu ra… Thấp thoáng trong vùng sáng đó là bóng dáng anh Long đang đi đến phía tôi cùng với một cô gái rất đẹp trong bộ đồ trắng, trên đầu cô cũng đội một vòng hoa màu trắng. Anh tôi gọi:
– Kìa Như, đứng dậy đi thay đồ chứ, hôm nay là ngày cưới của anh, có bố mẹ đến dự nữa nè.
Tôi mừng rỡ chạy lại gần anh hỏi:
– Đâu, bố mẹ ở đâu hả anh Long?

Anh không trả lời, tôi ngơ ngác nhìn quanh, có một đám mây xanh nào vừa kéo tới lẫn trong luồng sáng rực kia, làm chói lòa cả một góc trời trước mắt. Tôi không còn nhìn thấy anh tôi và cô gái nữa, Tôi hốt hoảng gọi:
– Anh Long, anh Long.
Tiếng gọi của tôi đã đánh thức tôi. Mở mắt ra, tôi thấy một người đàn ông mặc áo trắng ngồi trước mặt mình mờ mờ, lung linh. Tôi dụi mắt:
– Ủa, anh Thắng.
Thắng mỉm cười:
– Trời ơi, Như ngồi ở đây mà sao không khoá cửa trước, ngủ kiểu này ăn trộm vô nhà khiêng chủ nhà đi chắc cũng không biết.
Tôi ngượng ngùng:
– Như mới chợp mắt một chút thôi, bộ anh đến lúc Như đang ngủ hả, sao anh không gọi Như dậy?
– Gọi làm gì, thấy Như ngủ ngon quá, trông giống con mèo cuộn mình trên ghế. Như mơ thấy người yêu cũ hả, Long nào thế?
– Long là anh trai Như đó, không biết Như chợp mắt từ lúc nào mới vừa thấy anh Long đây, rồi anh lại biến mất. Buồn quá.
– Như ngủ đúng 14 phút 20 giây tính từ lúc anh đến đây. Anh trai Như bây giờ ở đâu?
Tôi buồn bã nói nhỏ:
– Anh Long mất tích lâu rồi, không biết bây giờ anh ở đâu nữa… Rồi như sợ Thắng hỏi thêm, tôi vụt đứng dậy nói tiếp- thôi để Như đi rửa mặt đã.
Tôi chưa kịp bước đi thì Thắng đã nắm tay tôi kéo lại:
– Thôi đừng, Như rửa mặt làm chi mất hết nét hồng hào của cái mặt ngái ngủ.
Tôi gỡ tay Thắng ra:
– Anh chọc quê Như hoài.
Thắng nghiêm mặt nói chậm rãi:
– Như, anh muốn nói chuyện này với Như, ngồi xuống đi, mấy bà kia đâu hết rồi?
Tôi ngồi xuống nói:
– Chị Hậu với chị Hòa đi làm chắc tới gần mười giờ mấy chị mới về, còn chị Thúy thì về nhà con gái ăn sinh nhật cháu ngoại rồi. Tối nay chị ở lại đó.
Thắng cười cười:
– Anh có chuyện muốn nói với Như, đang lo mấy bà có ở nhà, may quá lại gặp được một mình Như ở đây.
Tôi tò mò hỏi:
– Có chuyện gì vậy anh?
– Ờ, là thế này, đầu tháng mười một này có cuộc hội ngộ khoá cựu sinh viên sĩ quan không quân của tụi anh ở San Antonio, anh muốn mời Như đi với anh. Như đi nhé.
Tôi hỏi lại:
– San Antonio ở đâu hả anh?
– Ở Texas cách Houston khoảng 3 tiếng lái xe.
– Vậy anh có mời mấy chị kia đi luôn không?
Thắng lắc đầu:
– Không, chỉ mời có mình Như thôi.
– Sao vậy anh? Như đi mà không có mấy chị kia Như ngại quá…
Thắng ngắt ngang lời tôi, giọng bực dọc:
– Anh nói lại là anh chỉ muốn có một mình Như đi với anh thôi, sao Như cứ muốn kéo mấy bà bạn vào theo là thế nào?
Tôi cúi mặt nhìn xuống chân mình nói:
– Tại anh là bạn của mọi người trong nhà, không phải chỉ riêng Như…
Thắng lại cắt ngang lời tôi, chàng cao giọng nhấn mạnh:
– Nhưng anh chỉ thích có Như, anh thích Như… Nói cho rõ là anh có cảm tình với Như nhiều hơn hết. Như biết không?

Tôi nhìn Thắng sững sờ… tưởng như có một mảnh trăng vừa rớt xuống chính giữa tôi với chàng. Ánh vàng phản chiếu rõ đôi mắt đắm đuối, nồng nàn kia đang xuyên suốt vào tận trái tim sầu héo của tôi. Ánh vàng rọi sáng trên vai áo chàng, trên mái tóc đã điểm bạc, trên vầng trán in dấu tích thời gian… Tôi bối rối di di ngón chân mình trên đất tự hỏi; có thật như lời anh nói không? Sao anh lại thích đứa “nhà quê” như mình mà không phải là Hậu, Thúy, hay Hòa… Thắng nhích ghế lại gần tôi, chàng chống hai khuỷu tay trên đầu gối, rồi đưa hai bàn tay nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi nói tiếp:
– Như, hãy nghe anh nói; anh biết Như đã lâu kể từ khi anh bắt đầu vào chùa làm đèn. Vẻ hiền dịu với tính giản dị của Như đã gây chú ý cho anh rất nhiều…Đã bao nhiêu lần anh muốn làm quen với Như, nhưng mà lúc nào Như cũng quanh quẩn bên mấy bà, nên anh chẳng có dịp nào để bắt chuyện được. Mãi đến cái hôm Như làm rớt rổ lên đầu anh, thì anh mới quen được Như. Rồi Như mời anh về nhà chơi, trời ơi, lúc đó anh vui biết là bao, nghĩ rằng anh sẽ được bày tỏ những tâm tình riêng tư của anh cho Như nghe, sẽ được đi chơi với Như, sẽ được ở bên Như hoài…Nào ngờ, Như biến anh thành bạn chung của mọi người trong nhà. Anh vì tha thiết muốn gặp Như cứ phải đến đây hàng tuần, cố tìm một việc gì làm để chờ Như. Còn dặn lòng mình phải kiên nhẫn. Đôi lúc, anh cảm thấy buồn vì Như thờ ơ quá, rồi anh lại giận chính mình sao Như ngay đó mà anh không thể bày tỏ những điều riêng cho Như biết. Sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn, anh không thể chờ đợi lâu hơn nữa, vì vậy anh đã quyết định phải nói với Như một lần… một lần như đêm nay… Nói thật với Như nhé, có nhiều đêm anh mơ thấy Như trong giấc ngủ… lại còn ao ước một ngày nào… Như sẽ… bằng lòng về sống với anh cho hết cuộc đời còn lại…

Tôi im lặng nghe từng lời của Thắng như đang tận hưởng một dòng nước mát từ từ thấm nhẹ vào những góc cạnh khô nứt trong tâm hồn mình. Hơn hai mươi năm qua, tôi đã đắm chìm trong cuộc hành trình mơ tưởng về một tình yêu với người lính. Tôi đã sống với những mộng ước viễn vông, với sự chờ đợi héo hắt, với niềm hy vọng thật mong manh. Tất cả đã vắt kiệt gần hết sự ướt át của thời tuổi trẻ trôi nhanh theo năm tháng, cho tôi ngỡ là trái tim lẫn tâm hồn mình đã chết héo tự lâu rồi. Thực lòng tôi cũng cảm mến Thắng, nhưng tôi vốn là đứa hay mặc cảm tự ti, cứ khép mình trong một thế giới an phận, biệt lập.Tôi không dám nghĩ đến một ngày nào có một người đàn ông, một người là cựu lính chiến, sẽ đến bên tôi để nói những lời tỏ tình khi tuổi xuân của tôi đã ngày càng ở xa. Thế mà đêm nay, dưới bóng trăng, tôi đang có Thắng ở bên cạnh, đã cho tôi những lời tình êm như mơ, nhẹ như dòng nước đang lan rộng dần, tràn ngập lên môi, lên mũi, lên mi cho những giọt nước mắt hạnh phúc trào ra trên má tôi không kềm được…
Thắng chuyển qua ngồi trên chiếc ghế cạnh sát bên tôi, chàng quàng tay qua vai tôi hỏi giọng lo lắng:
– Kìa, sao Như khóc vậy? Anh nói làm Như buồn sao?
Tôi bặm môi lắc đầu, lấy ngón tay chậm nước mắt.Tôi ấp úng nói:
– Như vui cũng … khóc… Như cũng sợ… không biết… anh nói… thiệt lòng không?
Thắng nâng mặt tôi lên:
– Như, nhìn thẳng vào mắt anh đi, anh không bao giờ nói dối Như. Tại sao lại nghi kỵ anh vậy, Như chạm tự ái anh rồi đó.

Tôi cúi xuống im lặng, nghĩ đến câu: “Đường nào dài bằng đường Phi Đạo, lính nào Xạo bằng lính Không Quân”… Tiếng Thắng tiếp:
– Như à, trước khi anh lấy vợ, ngay cả lúc gặp người vợ trước, anh chưa từng có một cảm giác nào đặc biệt như cảm giác lúc gặp Như, nhất là bây giờ… Ngừng một lúc, Thắng chỉ lên mặt trăng nói , Như nhìn lên mặt trăng đi, hôm nay là ngày 14 sám hối đó, trăng 14 là mảnh trăng đầu cho 2 ngày 15, 16. Nó trong sáng rõ ràng như tấm lòng của anh, tròn đầy như tình cảm anh dành cho Như.
– …
– Như có thể không tin anh… Như cũng có quyền không thích hay không thương anh, nhưng hãy cho anh cái quyền. ..thương Như, nghĩ đến Như, anh chỉ mong là Như sẽ đi dự họp hội ngộ với anh nhé?
– …
– Như nói gì đi chứ!
Tôi nhìn Thắng hỏi:
– Anh muốn Như nói cái gì bây giờ?
– Nói gì cũng được, nói là Như đi dự hội ngộ với anh.
Tôi gật đầu:
– Như sẽ đi, hôm đó anh có mặc đồ quân phục không?
– Có chứ!
– Hôm nào có dịp anh mặc đồ bay vào cho Như coi với. Như chưa bao giờ nhìn thấy quân phục của binh chủng Không Quân ra sao.
Thắng trợn mắt:
– Như nói thiệt không? Chưa bao giờ thấy quân phục không quân hả, sao vậy?
Tôi gật đầu:
– Như nói thiệt, hồi đó ba Như với anh Như đi lính bộ binh, Như chỉ thấy bộ đồ lính của ba với anh Như thôi. Như chưa thấy những người lính mặc đồ khác bao giờ. Lúc 75, Việt Cộng vào Như mới học lớp 8 à, đâu có biết gì về lính không quân như anh đâu.
Thắng cười:
– Ok, mai anh chở Như lại nhà anh chơi, anh lấy đồ bay mặc cho Như coi, chịu không?
Tôi mỉm cười gật đầu, Thắng nhìn tôi đăm đăm, ánh mắt biết nói của chàng sao tha thiết đến thế. Tôi hỏi chàng:
– Sao anh nhìn Như hoài vậy, bộ mặt Như còn ngái ngủ hả?
Thắng phì cười:
– Không, tại Như dễ thương quá.
Vừa nói chàng vừa đưa tay vuốt tóc tôi, rồi mạnh dạn hôn nhẹ lên trán tôi… Chợt có tiếng động phía sau, tôi và Thắng cùng quay lại, bóng chị Hậu vừa lướt qua cánh cửa. Chắc chắn là chị đã nhìn thấy Thắng hôn tôi. Tôi ngượng ngùng đứng dậy, bỏ mặc Thắng chạy theo Hậu:
– Chị Hậu, chị Hậu mới về hả?
Tôi nghe tiếng Thắng phía sau:
– Anh ra đằng trước hút thuốc một chút.
Không trả lời Thắng, tôi đi quanh tìm chị Hậu, thấy chị đang đứng gần cánh cửa phòng giặt. Tôi nói:
– Em cứ tưởng là chị với anh Thắng thương nhau…
Hậu cắt ngang lời tôi:
– Thương hồi nào… Thắng thương em thì có…
Tôi ấp úng một cách ngớ ngẩn:
– Ảnh mới vừa…
Chị Hậu lại cướp lời tôi:
– Mới vừa tỏ tình với em xong chứ gì. Thắng nhờ chị sắp xếp để gặp em riêng lâu rồi, nhưng chị bảo anh ta phải tự cố sắp xếp lấy.
Tôi tròn mắt ngạc nhiên:
– Sao chị không nói với em? Em đang phân vân vì cứ nghĩ đến câu: “đường nào dài bằng đường Phi Đạo…” mà chị nói hôm bữa.
Chị Hậu cười lớn:
– Không đâu, chàng cựu Không Quân của Như đặc biệt đó, chàng thuộc người chân thật nhưng chắc là chỉ chân thật với Như thôi. Ủa, mà ổng trốn đi đâu rồi?
– Ổng đi ra ngoài hút thuốc. Tôi vừa nói vừa xếp mấy cái chén sạch vào ngăn tủ.
Chị Hậu bước ra, giằng lấy cái chén trên tay tôi:
– Thôi, ra ngoài đó nói chuyện với người ta đi, đừng làm bộ luẩn quẩn ở đây nữa.
Tôi ngần ngại một lát, chị Hậu đẩy tôi tới giục:
– Đi đi!
Tôi bước ra ngoài sân trước, nhìn quanh tìm Thắng. Chàng đứng bên cạnh cây Tùng xanh cao, mắt ngước nhìn lên trời. Tôi đi nhẹ đến sau lưng chàng hồi hộp hỏi:
– Ủa, sao anh bảo ra đây hút thuốc?
Thắng quay lại nhìn tôi mỉm cười:
– Anh định hút thuốc, nhưng thôi…Rồi Thắng quàng tay qua vai tôi xiết nhẹ, chàng cúi xuống thì thầm. – Anh muốn hôn Như quá…
Tôi mắc cỡ quay đi, hỏi sang chuyện khác:
– Ngày mai anh có đến chơi không?
– Có chứ, ngày mai anh sẽ đến chở Như đi chơi, Như muốn đi chơi đâu?
– Như muốn đi ngắm biển, đêm trăng trên biển chắc đẹp lắm hả anh?
– Ừ, đẹp lắm.
Tôi nhắc thêm:
– Rồi anh sẽ mặc quân phục cho Như coi nữa.
Thắng cười cười:
– Ừ, sẽ cho Như thấy hình ảnh của người lính Không Quân… già.

Nói xong, Thắng nâng mặt tôi lên, nhẹ nhàng đặt môi chàng lên môi tôi một nụ hôn dài say đắm. Tôi chơi vơi trong cảm giác lâng lâng, ngẩn ngơ nhìn bóng trăng đang lặng lẽ dấu một nửa mặt sau làn mây, chỉ hắt ra một chút ánh sáng mờ ảo kỳ diệu. Ánh sáng của tình yêu sau bao nhiêu năm dài u tối, tôi nhắm mắt lại nghe trái tim đập lên từng nhịp bồi hồi. Đêm nay tôi sẽ mơ một giấc mơ đoàn tụ thật vui, thật ngọt ngào có cha mẹ, có anh Long và có Thắng…

Ta Còn Nợ Nhau

Ngày xa anh, lòng em đầy u uẩn
Tưởng ân tình như dứt được từ đây
Đêm một mình bên gối, mắt lệ cay
Tim đau đớn trào lên bao thổn thức

Nghĩ đến anh sao cứ hoài ấm ức
Sớm mai buồn, chiều lại thấy bơ vơ
Em ra vào quanh quẩn với âu lo
Sợ anh ốm biết ai người săn sóc?

Đã bao lần, em dặn mình đừng khóc
Phải vững lòng chèo chống với cô đơn
Phải tĩnh tâm không nghĩ đến tủi hờn
Phải can đảm sống trọn đời cô độc

Thời gian đổi thay nhanh trên màu tóc
Nỗi ưu phiền ám ảnh lẫn ngày đêm
Anh võ vàng, tiều tụy đến tìm em
Mình đau xót nhìn nhau… rồi lệ ứa

Bỗng, giận dỗi …dường như …không còn nữa
Chỉ là đây ánh mắt ngập thương yêu
Lệ vui mừng trôi hết những quạnh hiu
Những cay đắng, uất hờn theo dĩ vãng

Mình trở về thành phố xưa êm vắng
Vì chữ “tình” ta còn mãi nợ nhau
Vì chữ “quên” ta làm lại từ đầu
San sẻ hết cho cuộc đời sau cuối…

Tìm Nhau

Tìm nhau từ lúc nổi trôi
Tìm nhau bạc tóc dẫu đời phù du
Tìm trong gió cát bụi mù
Trong cô liêu rụng, đau vùi nỗi đau
Trong nghìn kiếp đợi mong nhau
Trong hơi sương muộn bạc màu trăng khuya

Yên Sơn

Họa

Tìm nhau từ thuở cách chia
Qua bao dâu bể đành lìa tình mơ
Đêm, tìm kỷ niệm vào thơ
Nhớ người xưa lại ngẩn ngơ nỗi lòng

Thiên Lý

Tìm Nhau

Tìm nhau trong giấc mơ hồng
Đôi ta cùng uống chung dòng thơ say
Trăng như tan loãng vào mây
Gió khe khẽ ủ vòng tay ân tình
Đêm cô quạnh chỉ một mình
Em như chiếc bóng theo hình nơi xa
Tìm anh trong chén rượu ngà
Hơi men nồng đẫm lệ nhòa mắt sâu
Yêu thương tím cả trời sầu
Tâm tư chôn hết vào câu thơ buồn…

Tình Thơ Trên Giấy

Từ khi mình quen nhau
Em mới tập làm thơ
Gởi bao niềm yêu dấu
Vào cõi mộng vu vơ

Những đêm nhìn trăng sáng
Ngơ ngẩn một nỗi lòng
Thẫn thờ bên giấy trắng
Viết hoài chữ nhớ mong

Có đôi lần ao ước
Bóng trăng là bóng anh
Dõi theo em từng bước
Trên những chuyến độc hành

Thơ viết đầy trang giấy
Từ dạo mình quen nhau
Em rụt rè biết mấy
Nào dám tỏ bày đâu

Từ khi mình quen nhau
Trăng tròn rồi lại khuyết
Buồn len trong mắt nâu
Em lo ngày ly biệt
***
Rồi từ lúc quen nhau
Tháng tư làm rạn vỡ
Anh tù tội vùng sâu
Tình ta đành dang dở…

Mấy mùa trăng em đợi
Tin anh vẫn bặt tăm
Lòng ngổn ngang trăm mối
Nỗi buồn thương xa xăm

Một chiều mây tím giăng
Hãi hùng nghe tin dữ
Anh chết giữa mùa trăng
Nơi đồi cao mưa lũ

Anh nằm lại trên đồi
Thân chôn cùng cỏ mục
Giữa bốn bề đơn côi
Hồn đau trong khổ nhục

Tan nát cả cõi lòng
Quay cuồng theo giông bão
Hết rồi chữ nhớ mong
Con tim sầu áo não

Chưa bao giờ em nói
Được một lời cùng anh
Mấy mùa trăng em đợi
Chỉ ghi vào thơ xanh

Tình thơ còn trên giấy
Mãi mãi tháng tư nào
Tìm nhau hoài không thấy
Nửa đời tim xé đau…

Một Thời Giông Bão

Đã mấy năm rồi bặt tin anh
Buồn, lo, thương, nhớ lệ năm canh
Con khóc đòi cha mà đau ruột
Biết nói làm sao để dỗ dành

Tin báo về anh ở trại tù
Nghẹn ngào, mừng rỡ mở tờ thư
Bỗng thêm lo lắng vì xa lạ
Địa chỉ hòm thơ chốn mịt mù

Vắn tắt anh ghi chỉ mấy dòng
Hỏi thăm con có khoẻ hay không?
Xin em tiếp tế vài ba thứ
Để giúp anh qua lúc đói lòng

Em xót xa trong nỗi thẫn thờ
Chuyện đời cơm áo với con thơ
Giữa cơn giông bão em phải cố
Gồng gánh hai vai trách nhiệm chờ

Con bồng con dắt quá thảm thê
Cuộc sống không anh thật não nề
Sóng gió bao lần xô em ngã
Thương con, gắng dậy đợi anh về

Năm tháng trông mong đã mỏi mòn
Thân tàn sức kiệt dạ héo hon
Em đang lây lất từng giây phút
Tiếng nấc nghẹn sâu nỗi tủi hờn
*
Không kịp cho con những dặn dò
Mẹ đi trong giấc ngủ như mơ
Cha về một buổi chiều thu tím
Chết lặng hồn đau chẳng thể ngờ

Rồi cha thay mẹ đẩy thuyền trôi
Dắt díu con qua trận bão đời
Thuyền dẫu chòng chành, cha vững lái
Giữ tay chèo đưa con tới nơi

Tự do yên ấm ở chốn đây
Cái giá mà cha đã tù đày
Còn bao xương máu người ngã xuống
Còn cả trăm điều rất đắng cay

Một thời giông bão đã đi qua
Mấy mươi năm đâu dễ xoá nhoà
Mỗi tháng Tư về cơn sóng nhớ
Muôn người ký ức nổi phong ba

Đêm nằm nghe tiếng thời gian
Một đời mơ mắt lệ tràn dấu son
Căn nhả nhỏ mảnh vườn con
Ngày ngày đọc sách dưới vòm thông xanh
Chiều ra đan áo bên mành
Nhìn bao lá rụng từ cành thu sang
Thảnh thơi ngắm mặt trời vàng
Từ từ khuất bóng bên hàng núi tây
Ráng chiều nhuộm đỏ chân mây
Đàn chim vỗ cánh theo bầy bay xa
Gió reo trên ngọn thông già
Vẳng đưa tiếng trẻ hát ca bên đồi
Mặt hồ thoáng bóng ai ngồi
Thuyền câu dăm chiếc thả trôi theo giòng
Chiều đi giữa khoảng trời không
Màu chiều yên tĩnh lắng trong tâm hồn
Chuông chiều buông mấy tiếng buồn
Từ nơi xa vắng cõi hồn chơ vơ
Căn nhà nhỏ, mảnh vườn thơ
Trở mình thức dậy… giấc mơ tan rồi.

Thuyền Lá

Xa xa một chiếc thuyền trôi
Mỏng manh như chiếc lá rơi giữa giòng
Bóng chiều pha tím mặt sông
Trăng soi ánh biếc mênh mông giải vàng
Trong làn sương phủ mơ màng
Thuyền theo gió đẩy nhẹ nhàng thong dong
Bâng khuâng lòng tự hỏi lòng
Biết thuyền có ghé bến mong thuở nào?

Ngẩn Ngơ

Chiều rơi chút ánh nắng tàn
Chiếu vài tia mỏng dưới giàn hoa mây
Gió nhè nhẹ thổi hơi say
Chân trời điểm dấu chim bay xa vời
Chìm trong cõi mộng chơi vơi
Dòng thơ ngày cũ một trời thu xưa
Thoảng nghe khúc nhạc dưới mưa
Ngẩn ngơ lại nhớ thuở chưa biết buồn .

Buồn

Một ngày nào mình đã quên nhau
Giữa cảnh trời thu lá đổi màu
Bài thơ dang dở buồn trên giấy
Viết nữa làm chi, thêm nỗi đau

Những buổi chiều thu gió giận hờn
Trút hàng lá đổ khóc cô đơn
Trăng soi sầu muộn cho tình khuyết
Nửa mảnh thơ rơi buốt lạnh hồn

Đêm Buồn Cuối Năm

Đêm buồn khai rượu một mình
Cụng ly với bóng trút tình tự tâm
Nghe ngoài hiên gió than thầm
Cây chưa xanh lá mà năm qua rồi
Nhấp ly rượu, sao đắng môi
Nồng cay lên mắt, bồi hồi nhớ quê
Chập chờn như tỉnh như mê
Đón năm mới đến lòng tê tái buồn

Mộng Đêm Xuân

Đêm mơ, thấy lạc giữa rừng
Bốn bề yên lặng, côn trùng ngủ say
Ô kìa, trăng rớt trên cây
Ngàn sao chụm lại gần mây tỏ tình
Đêm mơ, ngồi khóc một mình
Bên con suối vắng, nhớ hình bóng ai
Nhẹ nhàng gió lướt qua vai
Nghe như những tiếng thở dài của đêm
Đêm mơ, thấy anh cùng em
Chèo con thuyền nhỏ êm đềm trên sông
Trăng theo đôi bóng khua giòng
Rải lên mặt nước vàng trong ánh ngà
Mơ màng sương phủ mây xa
Núi non mờ ảo, bao la đỉnh trời
Thuyền đi không định hướng, nơi
Cứ trôi, trôi mãi bên đời mơ thôi
Đêm mơ, thấy mộng vỡ rồi
Con thuyền tan tác, trăng thời gãy đôi!
Nửa vầng trăng gãy chơi vơi
Cuốn vào mây nỗi nhớ người trong mơ
Nào ai hiểu được tình thơ
Đêm xuân mộng thắm vương tơ não nùng

Tháng Mười Năm Đó

Ta hẹn nhau bờ sông không tên
Một chiều thu phố đã lên đèn
Sương mờ giăng nhẹ bên kia núi
Anh dạo cung đàn khúc nhạc quen

Trời tháng mười hoàng hôn xuống nhanh
Chim sớm bay về tổ trên cành
Phương tây mang sắc hồng pha tím
Quyện khói sương chiều lên mỏng manh

Anh hát em nghe bản nhạc “ Chiều”
Cung trầm giai điệu luyến buồn hiu.
Hiện trong ký ức nào xa thẳm
Hình ảnh quê mình xưa dấu yêu

Hơi lạnh từ sông lên buốt da
Em co ro muốn trở về nhà
Anh bảo, hãy ngồi thêm tí nữa
Để anh bàn tính chuyện đôi ta.

Anh tặng em một chiếc nhẫn xinh
Hẹn năm sau đám cưới chúng mình
Em cười sung sướng rơi giòng lệ
Chợt ấm lòng nhau mấy phút tình

Trời tháng mười hôm ấy nhiều sao
Em bồi hồi lẫn cả nôn nao
Khi nghĩ đến ngày xa vùng núi
Về bên anh miền biển ngọt ngào.

Rồi từng thu qua em vẫn mong
Niềm thương nỗi nhớ ngập trong lòng
Đếm lá rơi buồn theo năm tháng
Mỏi mòn em đợi hoá như không .

Anh ra đi tìm một thiên đường
Nơi nhiều bóng sắc ngát mùi hương
Say trong men rượu tình quên lãng
Hẹn ước tan rồi câu yêu thương

Trời tháng mười gió bay lang thang
Cuốn lá rơi xao xác tiếng đàn
Bên khung cửa nhỏ em ngồi nhớ
Chiều vắng bên sông đã úa vàng

Vầng Trăng Thơ Ấu

Tôi dắt em về thơ ấu xưa
Vùng trời êm mát bóng xanh dừa
Có lời ru nhẹ trong hơi gió
Kẽo kẹt trưa hè nhịp võng đưa

Tôi dắt em về một đêm trăng
Cùng nhau vui chạy nhảy tung tăng
Và nghe bà kể bao huyền thoại
Chú cuội cây đa với chị Hằng

Rồi thả hồn theo những giấc mơ
Đêm trăng sương lạnh phủ xa mờ
Bóng Hằng Nga lướt trên sân cỏ
Mang chiếc đèn lồng sáng ánh tơ

Trung thu như giấc mộng thần tiên
Riú rít vui sao hội rước đèn
Lân múa rộn ràng khua trống nổi
Trăng cười hiền dịu sáng trên hiên

Tôi yêu màu nến đỏ lung linh
Thắp sáng đèn hoa đủ dạng hình
Yêu đêm trăng rạng ngàn sao thẳm
Yêu tiếng em cười trong thủy tinh

Em hỏi tôi: sao trăng biết đi
Trăng theo em mãi để làm gì?
Em trốn trăng ngồi sau gốc mía
Vẫn thấy trăng cười rung khoé mi

Trăng theo em, trăng cũng theo tôi
Ta nắm tay nhau chạy xuống đồi
Đón ánh trăng vàng xem chú cuội
Chờ Hằng Nga đến để vui chơi

Mấy chục năm dài thơ ấu qua
Ta không còn dịp ngắm trăng ngà
Không còn thấy lại đèn hoa nữa
Cả bóng trăng vàng như cũng xa

Ta dắt nhau về thơ ấu xưa
Một đêm trăng lác đác sao thưa
Vẫn trong hơi gió lời ru nhẹ
Và nhịp võng nào đưa cứ đưa.

Thiên Lý

Thái Bạch Vân

thacc81i-bacca3ch-van

Giữa Dòng Hư Ảo

Sao cứ mãi mê tìm tuyệt đối
Để bao lần hụt hẫng riêng mang,
Có gì đâu mãnh đời hư huyễn
Mà phải mang nặng cả tâm cang.

Buổi mai hồng reo vui tở mở
Với bình minh ngời rạng ánh quang,
Bỗng mấy chốc tà dương bao phủ
Chiều cô tịch giữa cảnh hôn hòang

Mộng cũng thế và thực cũng thế
Giữa ta bà hạc vắng lầu hoang*
Nụ cười buồn trôi theo gíó cuốn
Bàn tay nào níu giữ thời gian

Trăng sao như cười đùa giễu cợt
Thấy những gì sau vết sao băng?
Phải chăng lời rì rầm khấn nguyện
Thế nhân thôi trói buộc nhọc nhằn

Bể mênh mông ôm dòng hư ảo
Sóng xô trào biển lệ nhân gian
Cho một ngày vui khi tận thế
Xóa sạch đi” xe cát dã tràng”…. …

*Lầu Hoàng Hac hoang liêu khi
Hac vàng đã bay đi
(trong Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hịệu )

Nụ Cười Buồn

Lệ buồn ơi hãy cứ rơi mau
Tuôn trào đi trút bớt mạch sầu
Trong sâu lắng , trôi về cổ mộ
Để đàn ai vuốt dịu cơn đau

Đêm giá lạnh, đèn hiu hắt bóng
Tiếng gió ru nhạc khúc tiêu dao
Bên nụ cười buồn, Anh ,muôn thuở
Lời thì thầm ấm áp gữi trao

Anh ở đây chờ em suốt kiếp
Cứ về như thuở mới quen nhau
Dù dòng đời lắm điều nghiệt ngã
Gió quay chiều xoáy lốc lên cao

Nín đi em, cơn sầu bão nổi
Cho tình em trân qúy ngọt ngào
Và thời gian tròn xoay miên viễn
Hạnh phúc tràn cỗ mộ xưa sau

Bờ Xa

Tàu theo nước mù khơi
Bước chân nào phiêu lãng
Con tim nào chơi vơi
Bóng mây chùng viễn xứ

Gọi biển , biển xa vời
Gọi bờ, bờ cách biệt
Gọi gió , gió cuối trời
Gọi người, người câm nín

Hải giác phủ sương mờ
Phưong nao tìm bến đỗ
Chuỗi ngày dài chơ vơ
Nghe tim chừng thổn thức

Đèn khuya lặng lẽ chờ
Mơ màng trong thinhvắng
Nghe đêm buồn dệt thơ
Nghe tình sầu cô tịch

Tiếng còi tàu trong mơ
Tiếng rì rào sóng vỗ
Trăng vàng treo lững lơ
Lời thì thầm cõi nhớ

Đèn tàu ai mé bờ…?

Ngộ Cố Nhân

Khúc khuỷu tương giang mấy phiến sầu
Ai ngồi ngửa mặt hứng mưa ngâu
Người đi… mỏi đợi bên thềm vắng
Lắng tiềng lạc rung vọng bên cầu

Cô đơn một cõi nhìn trăng khuyết
Chếch chếch rèm khuya bóng khuê lâu
Núi trắng quanh co triền mây trắng
Nhành liễu cam lồ ngộ cố nhân

Ngày tháng trôi trôi dòng miên viễn
Vó câu rong ruổi lạc lối về
Cuộc tình vô khứ đâu bến đợi
Tương Giang cuồn cuộn sóng lê thê

Có phải tình xa thiên niên tuế
Và cả tình sầu vạn kiếp mê?!
Hac vàng đâu tá , chàng Thôi Hiệu?!
Hoàng lâu rêu phủ cạn ước thề

Mây Tím

nhớmãi mùa thu nắng chẳng say,
ngập ngừng mây tím thoáng baybay.
cùng ai sánh bước Ðồi Sim Tím,
đắm đuối hồn hoa mộng cuối ngày.

mây tím vương vương lượn nẻo trời,
tình ta nhưvẫn mãi chơi vơi.
hương yêu phong kín, tình chan chứa,
chuỗi mộng long lanh quá tuyệt vời.

chênh chếch tà dương giọt nắng mơ,
hoàng hôn mâytím dệt ngàn thơ.
màu sim tím ngắt, đàn nâng phím,
Trỗi khúc nhạc tình đẹp ước mơ.

mây tím giăng giăng tím cảtrời,
tình ta vương vấn mãi người ơi!
hoa sim tím ngắt màu thương nhớ,
lắng… bước chân ai vọng dưới đồi…

Thái Bạch Vân

T.Vấn

Về Nhà Văn Khuất Đẩu

Khuất Đẩu. Đó là một cái tên rất mới trong làng văn chương cả hải ngọai lẫn trong nước. “ Mới “ không theo cái nghĩa ngày xưa nhà văn Mai Thảo dùng để chỉ “ những người viết mới “, tức những cây viết mới nổi nhờ vào vài bài thơ, vài truyện ngắn được đăng trên các báo văn học. Đúng hơn , “ người viết mới Khuất Đẩu “ chỉ mang một phần trong cái ý nghĩa “ mới “ mà Mai Thảo đã từng ám chỉ.

Khuất Đẩu không còn trẻ. Ông sinh năm 1940 tại Bình Định. Tên thật là Trương Đẩu. Nhưng lại có cái tên mọi người thường gọi là Trương Thanh Sơn. Khi tác phẩm “ Những tháng năm cuồng nộ “ của ông xuất hiện trên trang mạng Talawas tháng 3 năm 2010 dưới bút hiệu viết tắt K.Đ, người đọc đã bị “ bất ngờ “, cái bất ngờ gây cảm giác “ thú vị “ cho cả người đọc lẫn người viết. Bất ngờ là vì cái giọng văn già dặn, từng trải, chắc nịch, gọn và khô ấy đã thể hiện thật xuất sắc nội dung những điều ông muốn gởi đến người đọc. Tác phẩm chinh phục người đọc, nhưng không ai biết tác gỉa là ai, như nhà văn Nguyễn Lệ Uyên đã viết “ K.Đ, cái bút danh mới toanh và lạ hoắc “. Theo ghi chú về tác phẩm trên Talawas, thì “ Những tháng năm cuồng nộ “ được sưu tầm bởi Thư Quán Bản Thảo của nhà văn Trần Hòai Thư, không thấy nói gì thêm về tác giả. Sau đó, một số truyện ngắn ký tên Khuất Đẩu được Talawas giới thiệu, một cách gián tiếp cho biết K.Đ là hai chữ viết tắt của Khuất Đẩu. Gần đây, khi trang T.Vấn & Bạn Hữu đặc biệt giới thiệu nhà văn Khuất Đẩu và tác phẩm qua bài viết của anh Đỗ Xuân Tê và sự góp nhặt của anh Ngộ Không với chuyên mục Tác Giả Tác Phẩm, chúng tôi nhận được sự liên lạc từ chính nhà văn Khuất Đẩu hiện sinh sống trong nước. Qua bản thảo mới nhất vừa được hiệu đính lại “ Những tháng năm cuồng nộ “, chúng tôi ghi nhận tác phẩm này do Khuất Đẩu viết xong năm 2004, hiệu đính lần thứ hai năm 2009 ( tức bản do Thư Quán Bản thảo sưu tầm và gởi đến Talawas ), và hiệu đính lần cuối năm 2011 ( bản này do nhà văn Khuất Đẩu gởi đến T.Vấn & Bạn Hữu , đã được dùng để thay thế bản năm 2009 trong chuyên mục Tác Giả Tác Phẩm – Khuất Đẩu).

Vừa xuất hiện, cái tên Khuất Đẩu đã tạo được cho mình một vùng ánh sáng khiến nhiều con mắt để ý tới.

Trước hết, là ở đề tài ông lựa chọn. Đó là số phận của người dân quê ở liên khu V, Nam, Ngãi, Bình, Phú qua 9 năm kháng chiến rồi qua thời “hai mươi năm nội chiến” và sau 75. Những gì xẩy ra chung quanh ông trong suốt 70 năm làm người, đã trở thành những mối ám ảnh khôn nguôi. Những mối ám ảnh ấy không phải là chỉ có ông mới phải chịu đựng. Rất nhiều người khác, sống ở trong nước hay nơi xứ người, cũng có cùng những mối ám ảnh mà ngay cả cái chết cũng không giải tỏa được. Sự khác biệt chỉ là ở chỗ, ông đã nói được thay họ một vài trong những điều họ muốn nói. Với khả năng sử dụng chữ nghĩa văn chương tích lũy hơn 60 năm, khi nói ra, chữ nghĩa của ông đã mang đủ sự trưởng thành già dặn cần thiết để chuyên chở tâm tư của ít nhất hai thế hệ người Việt, ở cả hai bên bờ Thái Bình Dương.

Kế đến là tính cách kẻ sĩ nơi Khuất Đẩu, thể hiện ở chi tiết ông hiện còn sinh sống ở Việt Nam. Cái đảm lược tóat lên từ những trang sách viết dưới giá treo cổ mà ông cay đắng gọi là “ sự liều mạng “ ấy quả thật đáng được ngưỡng mộ. Vì thế, mỗi trang viết của Khuất Đẩu, đều biểu trưng cho một sự chấp nhận, nếu không muốn nói là dũng cảm. Có lẽ, thái độ ấy có sự nâng đỡ từ những nỗi thống khổ cao nhất mà những nhân vật của ông đã can đảm chịu đựng.

Truyện vừa “ Lão Tiền Bối “, tác phẩm viết xong năm 2006 và được hiệu đính lần cuối năm 2011 trước khi gởi đến T.Vấn & Bạn Hữu ( chúng tôi đã giới thiệu tác phẩm này trong mục Góc Văn ) của Khuất Đẩu là một bằng cớ khác của “ sự liều mạng “. Đọc truyện này, người ta liên tưởng ngay đến một nhân vật khác có thật ở ngòai đời và những màn kịch vừa xẩy ra khiến tác phẩm “ Lão Tiền Bối “ viết từ năm 2006 có vóc dáng một “ kịch bản nay mới được dàn dựng”. Tôi nhớ có một nhà văn nào đó ở trong nước đã cho rằng nhà văn là “ con chim báo bão “. Cũng chẳng sai bao nhiêu so với “ kịch bản Lão Tiền Bối “ nói đến ở đây.

Theo lời nhà văn Khuất Đẩu, với truyện vừa Lão Tiền Bối , hợp cùng truyện dài Những Tháng năm cuồng nộ và truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, ông đã hòan thành xong bộ Trio về cùng một chủ đề . Qua 3 tác phẩm này ( hiện được lưu trữ trên T.Vấn & Bạn Hữu), người cùng thời và các thế hệ mai sau sẽ có cơ hội hiểu và biết thêm nhiều điều về những tháng năm cuồng nộ của một giai đọan lịch sử não lòng.

Ngoài bộ ba truyện dài và truyện vừa nêu trên, còn có Người Tử Tù viết năm 1970, các truyện ngắn và một số thơ không vần, đã được đăng tải trên Thư Quán Bản Thảo, Talawas, Tiền Vệ, Thông Luận và Văn Chương Việt.

Thay mặt người đọc, thay mặt những người đã từng chịu thống khổ trong giai đọan lịch sử ấy, chúng tôi xin cám ơn nhà văn Khuất Đẩu.

Ngộ Không,
Lão Điên Chữ

1.

Tôi biết Ngộ Không Phí Ngọc Hùng trong một dịp hết sức tình cờ. Mùa hè năm 2010, tôi đưa con gái đi thăm trường Rice University ở Houston để chuẩn bị cho năm đầu tiên nhập học. Ở thành phố ồn ào bụi bậm này, ngoàii vài người bạn cùng xuất thân ở một quân trường trên Đà lạt năm xưa, tôi còn biết có anh bạn tù chung trại Vĩnh Quang ngoài Bắc hồi đầu những năm 1980s. Đó chính là nhà thơ Ngọc Tự quen thuộc của chúng ta kể từ ngày trang T.Vấn trở thành sân chơi chung T.Vấn & Bạn Hữu. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở một quán cà phê trong khu phố Việt Nam. Vừa tay bắt mặt mừng, vừa hỏi thăm nhau đôi câu về gia đình, công ăn việc làm, Ngọc Tự vừa lôi con di động cũ mèm ra bấm số lia lịa. Anh bảo “có ông bạn già điên chữ này hay lắm, mình muốn Vấn làm quen !”. Chỉ vài phút sau, ông bạn già điên chữ của Ngọc Tự xuất hiện. Chẳng là nhà ông ở ngay trong khu dân cư trước mặt, bước qua một con đường là tới quán cà phê quen thuộc của nhiều người Việt ở Houston. Tôi được biết tên ông là Phí Ngọc Hùng, ngọai hiệu Ngộ Không. Đó là lần đầu tiên tôi nghe đến cái tên Ngộ Không. Nhìn ông, mặt tôi hẳn là “cứ đực ra như ngỗng đực” (chữ của Ngộ không). Ông già trước mặt tôi kia trông không có vẻ gì là “điên chữ” cả. Ông nhanh nhẹn, họat bát, tay móc thuốc, tay khuấy ly cà phê một cách hết sức tỉnh táo và điệu nghệ. Ông vốn là một người tốt nghiệp và làm việc trong ngành kiến trúc (cùng lớp với nhà văn nữ Trùng Dương). Bỏ của chạy lấy người dạt đến Mỹ năm 1975. Sau mấy chục năm làm việc, nay ông về hưu, suốt ngày ông ăn với chữ, “tửu lạc vong bần” (lại chữ của Ngộ Không) với chữ, suốt đêm ông ngủ với chữ, hễ mở miệng ra là nói chữ, nên con “trâu chậm uống nước đục” Ngọc Tự (mới đến Mỹ chưa được vài năm) vốn vẫn còn phải đánh vật với cơm ăn áo mặc hàng ngày bèn độc mồm độc miệng gọi ông là “lão điên chữ”.

Chỉ vài phút gặp gỡ, cái cởi mở họat bát của Ngộ Không đã chinh phục ngay được tôi. Và câu chuyện giữa những người bạn có chút lòng với chữ với nghĩa không thể tránh khỏi không nói đến chữ đến nghĩa. Ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên đó, tôi đã nhìn thấy trước mặt tôi một con người không phải chỉ gặp một lần rồi quên.

Thế nên, vào mùa hè năm sau, khi trang Web cá nhân T.Van.Net trở mình thành sân chơi chung cho nhiều bạn hữu, tôi đã trịnh trọng gởi đến Ngộ Không lời mời tham dự. Với phong cách rất đáng yêu của một người coi trọng nghĩa bằng hữu hơn bất cứ thứ hư danh, hão danh nào, ông mau chóng nhận lời.

2.

Từ cái mốc sau biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, về lãnh vực văn học nghệ thuật ở hải ngọai, chúng ta được biết đến rất nhiều những cây bút mặc dù tuổi không còn trẻ nhưng lại chưa hề được nghe nói đến ở miền Nam hồi trước biến cố lịch sử nói trên. Nói theo nhà văn quá cố Mai Thảo, chúng ta phải gọi những cây bút này là “ những người viết mới”. Mới theo nghĩa so sánh với “những người viết cũ”, tức những người ít nhiều đã thành danh trong bối cảnh văn học nghệ thuật miền Nam trước năm 1975. Tuy mới viết, nhưng tuổi đời không còn trẻ, lại đã kinh qua nhiều thăng trầm cùng với đất nước, nên những tác phẩm của “ những người viết mới “ này mang vóc dáng khác hẳn với tác phẩm của những cây bút trẻ (cả tuổi nghề lẫn tuổi đời) sau này (phần nhiều là ở trong nước). Có thể nói, khó mà so sánh sự “ hơn thua “ giữa tác phẩm của “những người viết mới” và tác phẩm của “những người viết cũ “. Mặt khác, những tác giả đã thành danh từ trước biến cố lịch sử 1975, sau này, dù đã ra sinh sống ở hải ngọai, phần lớn đều không có những họat động viết lách đáng kể, cụ thể là những tác phẩm được phổ biến, nên bộ mặt văn học nghệ thuật Việt Nam hải ngọai có sự hiện diện của nhiều tên tuổi “Mới” hơn là “ Cũ”.

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng, người chưa hề có bất cứ một tác phẩm nào xuất bản nhưng lại sở hữu một gia tài chữ nghĩa đồ sộ hơn rất nhiều nhà văn đã từng thành danh , là một trong “những người viết mới” ấy.

Hơn mười năm nay, kể từ ngày về hưu, “ông già điên chữ” quay qua làm việc “ tòan thời gian” (fulltime) với chữ. Ông viết ngày viết đêm, viết không ngày nghỉ, viết không ngày lễ, viết như chưa bao giờ được viết, viết như sợ ngay ngày mai cái chết sẽ đến bắt ông đi.

Hơn mười năm tích lũy, gia tài chữ nghĩa của ông khiến người đọc (tôi – T.Vấn ) , mới chỉ lướt qua đã muốn ngộp thở.

Chỉ với sơ sơ những gì tôi “thu họach” được ở lần gặp gỡ mới đây, lợi dụng lúc chén ông chén tôi chuyếnh chóang, tôi đã “dụ” ông bỏ vào thanh nhớ (memory stick) của tôi những bài ưng ý nhất và đã được gọt dũa xong xuôi. Về nhà, mở ra coi, tôi tá hỏa tam tinh. Không kể những sưu tầm đầy tính bác học về “ Chữ Nghĩa Làng Văn”, về “Tác Giả Tác Phẩm”, chỉ riêng những bài viết ( tạm gọi là truyện ) , nếu in ra trên khổ giấy 11×8, cỡ chữ 10, cũng phải trên ba ngàn trang. Đó là chưa kể những bài vở dành riêng cho trang TV&BH . Bài cho năm 2013, ông đã hòan tất từ cuối năm 2012. Mỗi năm ông chỉ gởi bài cho người chủ biên một lần vào dịp cuối năm.Tất nhiên, trong năm, nếu có những nhu cầu, theo đề nghị của người chủ biên, ông vẫn luôn luôn đáp ứng nhiệt tình và… nhanh chóng. Mới đây, ông thông báo đã hòan tất xong tòan bộ bài vở (của riêng ông) năm 2014, 2015 cho trang TV&BH.

Hèn gì anh bạn Ngọc Tự gọi ông là “lão điên chữ”. Còn người bạn trẻ Lưu Na thì gọi ông là lão Khọm (theo tên một… con khỉ, nhân vật trong Bản Lai Diện Mục Ký, mà nhiều phần người đọc nghĩ là chính tác giả Ngộ Không). Khọm theo nghĩa đen là khòm. Ngồi gõ máy hàng ngày từ mười năm nay, lưng ông đã khòm theo sức nặng của những con chữ lúc nào cũng háo hức tuôn ra trên đầu các ngón tay.

Ông còn ngồi như vậy được bao lâu nữa? Thất thập cổ lai hy. Ngộ Không Phí Ngọc Hùng đã vượt qua ngưỡng cửa “cổ lai hy” rồi. Thời gian đâu phải là… bạn ông để đùa cợt mãi được.

Ở cái tuổi quá lão này, ông viết để làm gì ? Chắc chắn không phải là phương cách mưu sinh. Ông đâu cần phải mưu sinh bằng chữ nghĩa. Vả lại, dù muốn, ông – cũng như hầu hết người viết ở hải ngọai – chẳng thể mưu sinh bằng chữ nghĩa. Hình như cũng không phải lấy cái danh hão “nhà văn”, hay nhà này nhà nọ. Cho đến nay, chính thức, ông chưa từng có tác phẩm nào được in thành sách, được xuất bản bày bán trên các kệ nhà sách hẳn hoi. Có người bảo, chưa có văn, chưa có thơ in thành sách, chưa thể thành nhà văn nhà thơ. Có lẽ vì vậy nên có nhiều người viết cố gắng bằng mọi cách in cho được một tập văn, một tập thơ, rồi hì hục gởi biếu hết ông nhà văn này, bà thi sĩ kia, mãi mà đống sách in ra chưa vơi đi được một nửa, làm chật cả nhà để xe.

Vậy thì động cơ nào thúc đẩy Ngộ Không Phí Ngọc Hùng cặm cụi từ hơn mười năm nay bên cạnh chiếc máy tính, quên hết tất cả mọi sự trên đời , ngọai trừ tủ rượu lúc nào cũng đầy ắp và lòng nhiệt tình với anh em bằng hữu xa gần?

Thì đây, chúng ta đã có Bản Lai Diện Mục Ký, bản “tự thú trước bình minh” của lão điên chữ Ngộ Không Phí Ngọc Hùng.

Trong bản (tạm cho là hòan chỉnh nhất, vì Ngộ Không chưa bao giờ ngừng hòan chỉnh những bài đã viết của mình) đã giới thiệu trên T.Vấn &BH hồi tháng 10 năm 2011 có đọan mở đầu như sau :

“ . .. Tôi bắt đầu chuyện viết lách như cái nghiệp dư vào cái tuổi có hơi trễ nải. Vào cái lúc những người khác đã bẻ bút cáo lão về hưu, thong dong với ngày trời tháng Bụt thì tôi lực đực với cái bàn gõ và gõ lóc cóc như…mõ sớm chuông chiều. Chẳng phải là nhà văn, không dây dưa với những câu hỏi cùm nụm cùm nựu là viết cho ai? Viết để làm gì?. Thú thực một điều, tôi viết để dối già và tự cảm thấy thích viết vậy thôi. Vậy mà bạn bè vẫn hay nắc nỏm hỏi là chuyện có thật không? Nói cho ngay, tôi lấy cái thật của mình để làm cái giả và lộng giả thành chân là thế. Hoặc như gặp bằng hữu trong lúc tửu lạc vong bần, rồi góp nhặt sỏi đá qua những chuyện họ kể lể, hiểu theo nghĩa chẳng là như thị ngã văn…” (Ngộ Không – Bản Lai Diện Mục Ký).

Thế là chúng ta có câu trả lời từ chính cửa miệng ông: tôi viết để dối già và tự cảm thấy thích viết vậy thôi.

Nhưng chữ nghĩa Ngộ Không không đơn giản như cái cách chúng ta thường hiểu. Chỉ trong một đọan văn ngắn, ông đã manh nha cho thấy đó chưa hẳn là câu trả lời… đích thật.

Chúng ta đọc tiếp, ngay sau đó là: Vậy mà bạn bè vẫn hay nắc nỏm hỏi là chuyện có thật không? Nói cho ngay, tôi lấy cái thật của mình để làm cái giả và lộng giả thành chân là thế.

Nếu đọc hết Bản Lai Diện Mục Ký (có thể gọi là Tự Truyện như ông đã xác định đó là truyện có thật), chúng ta sẽ thấy không phải ngẫu nhiên mà ông có bút hiệu Ngộ Không. Và bút hiệu ấy bộc lộ thêm một điều: ông viết không phải chỉ để dối già.

Hãy đọc một đọan:

“. . . Một ngày như mọi ngày, đến bữa ăn có chú tiểu đem một phần cơm rau tập tàng bỏ trước cửa cốc, lấy đũa gõ nhẹ lách cách rồi lặng lẽ bỏ đi. Cơm chay đạm bạc nhưng cũng chẳng đến nỗi nào như ăn cá bị chứng hóc xương. Tôi cố gắng nuốt một ngày một bữa như sư, nếu ăn cơm không hết thì để ở cửa. Ở đấy có cả một bầy khỉ, nào ông nội, bà ngọai, chú dì cô bác, họ hàng hang hốc nhà khỉ dành ăn kêu chí choé. Trừ một con khỉ đã già, đã khọm, lần mò tới ngồi bên cửa chăm chú dòm tôi đang đọc sách. Nó là giống khỉ đít đỏ mầu nâu sẫm, chứ không phải là… mầu xám u ám của cảnh chùa.

Tả chân về nó cũng dễ thôi: Nó có cái mặt ốc tiêu thu lu trong đám lông lưa thưa, khiến ai cũng thấy thấy đôi mắt tinh anh của nó với cái mũi chun chun rất…khỉ. Cái đuôi ngắn ngủn như cái chổi cùn, lúc nào cũng khoe khuẩy một cách tháo động. Nói chung thì với bộ lông thưa thớt, không che dấu nổi lớp da mốc bạc vì mưa nắng cùng cái tuổi…lá vàng với rừng lá thay chưa. Cũng có thể vì vậy, nó lười biếng không dành ăn với đám trẻ, thản nhiên dòm…tôi, rồi từ từ tới sát và đưa tay ra khều tôi làm quen. Quen rồi nó đưa tay khỉ của nó lên tóc tôi, mầy mò tìm chấy, rận và bỏ vào miệng nhóp nhép. Bá ngọ nó chứ…Chẳng lẽ có chấy rận thật. Tôi cũng thò tay lên đầu…như nó.

Xế trưa hôm sau, chú tiểu lên cốc nhắn sư bác thỉnh tôi xuống thọ trai và tụng kinh chiều. Tôi dựa theo dốc đá, bám theo các thân cây lò dò xuống. Nó nhảy qua nhăm nhánh cây để dẫn đường, đến một mõm đá, ngồi gãi đầu, gãi cằm, chờ tôi. Khi đến cửa chùa, sư đã chờ sẵn, nó chạy tới nắm tay sư trụ trì lắc lắc ra cái điều xập xoài chào hỏi. Sư gọi nó là…“Ngộ Không”. Bản lai diện mục, thấy mặt đặt tên, tôi gọi nó là…Lão khọm.

Tôi hỏi cớ sự gì nó có cái tên nghe ngộ, sư cho biết trước nó ma lắm. Từ ngày thửa được cái tên đầy…thiền tính, nó như…thuần tính hẳn ra, ai nó cũng kết thân, lại thích làm quen với…”ngộ nhân” mới đến chùa…như tôi. Ngộ tiếng Bắc kỳ cũ còn có nghĩa là dở người, chẳng giống ai. Thế nên mặt tôi bẹt ra như bánh đa nhúng nước, hay tôi cùng giuộc với giống… khỉ. Sư làm như không hay, vì còn đang bận bịu với tích xưa.

Chuyện Tu Bồ Đề tổ sư hỏi con khỉ dẫn đường cho thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh, lúc ấy còn là hầu vương, rằng: “Ngươi ở đâu mà ra”. Hầu vương thưa: “Nguyên nơi núi Hoa Quả có hòn đá lớn, kết tinh nhật nguyệt lâu ngày, rồi một đêm mưa vang lên tiếng nổ, đá nứt hai và sinh ra tôi”. Nghe nói sư tổ tiếp “Vậy là thiên địa sinh ra ngươi, thôi để ta đặt tên cho”. Sư tổ gật gù “Ta đặt cho ngươi họ là Tôn, bỏ bộ khuyển, còn chữ tử, chữ hệ, tức còn trẻ, còn khôn”. Sư tổ chép miệng: “Phật pháp có trí, tuệ, chơn, như, hải, đĩnh, “ngộ”, v..v..Trong 12 chữ đó, tính tới tính lui thì ngươi nằm vào chữ Ngộ, thôi thì ta đặt tên ngươi là… Ngộ Không”.

Chả hiểu ăn mắm ăn muối gì, cái lưỡi tôi đá cái miệng với sư rằng ắt hắn Ngộ Không là…không ngộ chăng. Vừa cãi chày cãi cối xong thì có tiếng chày…” (Ngộ Không – Bản Lai Diện Mục Ký)

Ngộ Không là… Không Ngộ.

Tôi ngờ rằng cái lẽ “không ngộ” cũng có liên quan đến “câu hỏi cùm nụm cùm nựu là viết cho ai? Viết để làm gì?” của ông. Cuối đời, người ta hoặc tìm đến tôn giáo để được an ủi vì sống bao nhiêu năm mà vẫn không hiểu tại sao mình sống chỉ để đợi chết, hoặc tìm đến sách vở chữ nghĩa để tham khảo suy nghĩ của nhân lọai tân cổ về ý nghĩa làm người.

Mười năm sống “toàn thời gian” bên bàn máy, nghiền ngẫm đã thiên kinh vạn quyển, bằng con mắt của kẻ đã kinh qua biết bao những thăng trầm vinh nhục của một đời người, vui cũng lắm mà khổ cũng nhiều, thế mà vẫn… không ngộ, nên ông vẫn còn mê mải lặn ngụp trong mớ chữ nghĩa… chết tiệt, thì không gọi là “lão điên chữ” thì gọi là gì?

Lời Tình Cuối
Gởi New Orleans

Cuối cùng , thì tôi cũng đã trở lại New Orleans, với nỗi thôi thúc của một người đi tìm thời gian đã mất và tâm tưởng đậm nét một New Orleans thuở trời đất chưa nổi cơn gió bụi. Con đường dẫn vào thành phố vẫn thế. Vẫn tấp nập người qua kẻ lại. Vẫn cái nóng hừng hực của mùa hè nhiệt đới và hơi gió biển ướt át rậm rịt. Chiều đang xuống dần. Sinh họat một ngày cuối tuần đang rục rịch những chỉ dấu nhộn nhịp. Cho đến khi chúng tôi tìm được một bãi đậu xe khá khuất nẻo thì trời đã tối hẳn. Khu French Quarter đèn đuốc đã sáng rực. Khách bộ hành bước kín lòng đường. Tiếng nhạc ồn ào trổi lên từ mọi góc phố, quán bar, nhà hàng, khiêu vũ trường. Những đôi trai gái nhún nhẩy trên hè phố với trang phục tươi mát như chính số tuổi của họ. Giữa đám đông cuồng nhiệt ướt đẫm đam mê ấy, tôi có cảm tưởng mình là kẻ lạc lõng. Bước đi giữa sự ồn ào cố hữu của New Orleans mà tâm tư tôi cứ đắm chìm trong những hồi ức ngày này bao năm trước. Hệt như những cố nhân chia tay nhau thuở mắt sáng môi tươi, cuối đời bỗng do những tình cờ định mệnh ngẫu nhiên gặp lại . Cả hai bên đều ngơ ngẩn nhìn nhau, cố tìm trong khuôn mặt già nua thảm não ấy của nhau những âm hao ngày cũ . Càng cố tìm càng khiến nhau thêm thảm hại. Biết vậy nhưng làm sao mà cưỡng lại được.

Ôi cố nhân ! Ôi New Orleans ! Ôi những hồi ức vừa dịu dàng, vừa đanh đá đâm những mũi kim đau buốt . Tôi đã gặp lại New Orleans sau 7 năm từ lần gặp gỡ đầu tiên đầy kỷ niệm và sau 6 năm từ trận bão thế kỷ Katrina tàn phá thành phố khởi nghiệp của Louis Armstrong, người nhạc sĩ Jazz vĩ đại nhất của mọi thời đại. Và trong đáy cùng tiềm thức, câu thơ cũ của Linh Vũ được trích dẫn trong một bài viết về thành phố này năm 2008 , bỗng bật lên như có ai đưa tay chạm vào nút bí ẩn trong đầu : “Mai gió sớm có đêm nào ghé lại / Thổi Blues xanh phố cảng một nốt buồn .. .”

Đêm nay, có tôi ghé lại. Ngóng tìm những điệu Blues buồn từ những nhạc sĩ cong người trên cây kèn đồng sáng lóang dưới ánh vàng vọt của ngọn đèn đường cuối phố.

Như kẻ mộng du, tôi thấy mình đứng trước cửa quán Café Du Monde. Như 7 năm trước, chúng tôi phải vất vả lắm mới kiếm được chiếc bàn trống. Sau cơn hồng thủy, quán cà phê lừng danh với hương vị cà phê đặc thù Pháp quốc và chiếc bánh bọc đường Beignets có vẻ như vẫn giữ được phong độ cũ. Tôi ngó quanh quất, cố tìm hình bóng người hầu bàn da đen năm xưa, đã cho tôi được chụp chung một bức hình . . . kỷ niệm. Cũng có vài người da đen , nam và nữ, chạy lăng xăng bận rộn, nhưng không phải người tôi muốn tìm. Tôi tự hỏi mình, anh chàng hầu bàn đẹp trai và duyên dáng năm xưa, có còn bám trụ New Orleans không hay đã lưu lạc phương nào. Đang còn ngẩn ngơ hình dung trong trí khuôn mặt người hầu bàn 7 năm trước, thì một cô gái còn rất trẻ bước lại , nở một nụ cười thật xinh, hỏi chúng tôi muốn uống gì, bằng một giọng nặng âm hưởng khiến tôi nhận ra ngay cô là một người Nga. Quả đúng vậy. Cô tên Vanessa, sinh viên du học tại trường đại học nổi tiếng của thành phố. Cũng như người hầu bàn da đen 7 năm trước, cô vui vẻ chụp chung với tôi một bức hình.

Tôi biết, rồi đây bức hình chụp với cô gái sinh viên người Nga hầu bàn ở quán Café Du Monde sẽ lại trở thành một thứ kỷ niệm , tuy không khó quên nhưng cứ mỗi lần nhắc đến New Orleans hẳn là tôi sẽ nhớ đến cô, như giờ đây tôi đang cố tìm trong đám đông người chộn rộn chung quanh hình bóng anh chàng da đen năm nào. Vanessa đã bưng ra cà phê và dĩa bánh Beignets. Hai con gái của tôi vội vã bốc bánh ăn thử, để xem bánh có mùi vị như thế nào mà bố chúng đã nhiều lần viết về những chiếc bánh phủ bột đường trắng xóa. 7 năm trước, chúng còn quá nhỏ để hôm nay nhớ đến bất cứ điều gì, dù chúng đã từng ngồi tại quán này, từng ăn chiếc bánh này, kể cả nhấp môi vào ly cà phê này.

Hình như, với tôi, cà phê đã bớt thơm, bánh đã bớt vị ngọt hấp dẫn. Tôi cũng chợt nhận ra nét xô bồ của một tiệm bán thức ăn đông người ra vào. Điều mà 7 năm trước đây tôi đã không cảm thấy. Trong không khí, mùi mồ hôi người đã làm hơi gió biển bớt tinh khiết, cộng thêm với cái nóng khác thường của mùa hè năm nay , làm trí não tôi không còn được cảm giác thỏai mái mà tận hưởng những giây phút tái ngộ thành phố tôi hằng nhắc đến trong suốt 7 năm qua.

Hay là , chỉ vì tôi đã thất vọng với những gì tôi nhìn thấy. New Orleans sau cơn bão tàn phá Katrina, dù đã 7 năm vẫn không hồi phục được sự mất mát quá lớn lao. Đằng sau những đường phố màu sắc, bên trong những âm thanh cuồng nhiệt của đêm hè nhiệt đới, tôi vẫn nhận ra nét thảm não của khuôn mặt người chưa hết nỗi kinh hòang.

Theo bước chân tíu tít của hai con, tôi thấy mình đứng đối diện với con đường Bourbon lừng danh. Tôi cố tìm trong không khí chút hơi nóng của những bộ ngực trần nhẩy nhót khêu gợi. Hoặc mùi nước hoa của những mỹ nhân đến từ khắp nơi cho ngày hội Mardi Gras đêm trước ngày vào mùa chay hãm mình cho thân xác đền tội, thứ tội tổ tông truyền không ai dạy ai mà ai cũng rất thành thục trong việc . . . phạm tội. Chẳng thấy gì ! Chẳng ngửi được gì ! Chỉ nghe những âm thanh cuồng nhiệt, tiếng người cười nói, và hơi nóng hực lửa mùa hè hắt lên từ lòng đường sau một ngày tắm đẫm mặt trời bây giờ là lúc tỏa ra cơn giận dữ.

Hết rồi sao ? Những người muôn năm cũ giờ ở đâu ? Lại nhớ bài thơ viết từ năm 1999 của Phan Xuân Sinh:
………
những tay nhạc Jazz trong phòng
những chiếc ngực trần trên phố
đêm Bourbon, vội vàng tiếng thở
những người con gái sống về đêm
giữa New Orleans, đứng dựa cột đèn
môi em cuộn vòng từng hơi thuốc
người đến, người đi, giữa khuya hiu hắt
mà sao em vẫn đứng đợi ai ?
nghe như em, bật tiếng thở dài
người con gái da đen topless
giọt mồ hôi trên sàn. Thấm mệt
đôi vú xệ dài, u uất gái làng chơi
ta. khách lạ lạc xứ người
mang hồn phương đông, văn vật
……..

(Chào New Orleans – Phan Xuân Sinh 1999)

Bỗng dưng, tôi bật tiếng thở dài. Hàng chữ Bourbon trên tấm bảng tên đường dường như đang nhẩy múa theo điệu nhạc rập rình phát ra từ những quán rượu chung quanh. Tôi chưa uống ly rượu nào từ lúc đặt chân đến New Orleans. Phải chăng vì vậy mà tôi không cảm thấy mình có chung một tần số với những gì đang diễn ra chung quanh . Tôi giật mình tự hỏi : Mình đến đây để tìm những kỷ niệm đã đánh mất hay đến đây để hưởng những ngày nghỉ mùa hè cùng với gia đình ? Nhìn vợ tôi cần mẫn một cách cam chịu, luôn chăm sóc hai con và đáp ứng những nhu cầu của chúng mà tôi nhận ra mình quả là một con người ích kỷ.

Chỉ tại mi đó, hỡi New Orleans ! người tình già nua xơ xác.

T.Vấn
(Kỷ niệm đúng 6 năm ngày cơn bão thế kỷ Katrina tàn phá New Orleans )

Tái Bút:
Năm 2005, khi cơn bão Katrina nhận chìm New Orleans trong biển nước, tôi đã viết : Lời tình buồn gởi New Orleans. Rồi từ đó, mỗi năm, cứ đến mùa bão tháng 8 , tôi lại tưởng nhớ đến New Orleans trên trang viết của mình. Có lẽ, bài viết này của năm 2011 sẽ là bài viết cuối cùng của tôi gởi đến New Orleans, như lời chia tay với cái hồn của thành phố. Tại sao ? xin trích đọan cuối bài viết về New Orleans của năm 2007 (New Orleans : Gởi thêm một chút tình buồn ) :

. . . Cũng như Sài Gòn thân yêu của tôi đã được mệnh danh là “ Hòn Ngọc Viễn Đông “, thành phố New Orleans đã được văn hào Mỹ Mark Twain nhắc đến trong tác phẩm của mình với bí danh lâu đời “ the city that care forgot “ nhằm ám chỉ cái phong cách tự nhiên, không cầu kỳ khách sáo của thành phố cũng như nhấn mạnh đến tính cách “ buông thả “ ( carefree nature ) của phần lớn cư dân của New Orleans. Trong bầu không khí luôn hừng hực nỗi đam mê cháy bỏng của nhạc Jazz, hòa lẫn cùng hơi nóng của đêm nhiệt đới, hơi nóng từ thân thể đầy nhựa sống những cô gái có nước da cháy nắng và khét mùi nước biển , thành phố lúc nào cũng có tư thế sẵn sàng cho những buổi lễ hội. Nhưng đó là ấn tượng về New Orleans những ngày Pre-K. Thứ ấn tượng đã khiến cho du khách không thể lẫn New Orleans với bất cứ thành phố nào khác mà họ đã đặt chân tới, thứ ấn tượng mà khi rời khỏi New Orleans người ta sẽ phải nhớ để mang theo, và trong mỗi chặng dừng chân trên đường lữ thứ, người ta sẽ phải giở ra, “ ngửi “ lại để ngậm ngùi.

Cái không khí đặc thù ấy, nay có còn không?

Anh bạn tôi, cư dân hơn 20 năm của New Orleans, người cương quyết bám trụ ngay từ những ngày thê thảm nhất của thành phố, người có cảm quan nhậy bén với từng vùng đất , con người nơi anh bước qua, đã cho tôi câu trả lời buồn bã không kém. Có lẽ đã hết rồi một New Orleans của lịch sử, của truyền thống, của thứ biểu tượng văn hóa thuần khiết và hoang dã . Anh bảo tôi hãy so sánh Sài Gòn của những năm 80s với những năm tháng chúng ta hãnh diện về Sài Gòn như “ Hòn Ngọc Viễn Đông “ của thế giới, rồi đem cảm gíac đó liên tưởng đến New Orleans bây giờ so sánh với New Orleans thời Pre-K. Làm tôi lại nhớ đến một bài hát của người bạn nhạc sĩ, mà Sài Gòn với anh như là một phần máu thịt không thể tách rời . Khi xa Sài Gòn những năm 80s, anh đã viết về Sài Gòn, có những câu : “ . . . còn đâu hồn công viên, còn đâu hồn giáo đường, còn đâu . . . còn đâu hồn người Sài Gòn “ ( Thành phố Lá me Bay – Trần Lê Việt ). Những năm tháng ấy, Sài Gòn đã không còn là Sài Gòn , vì hồn người Sài Gòn đã theo với những chuyến xe lửa chuyển tù cải tạo đi khắp vùng đất nước, đã theo với những chiếc ghe vượt biên lênh đênh trên biển cả mênh mông, đã theo với những đòan người bị cưỡng bách rời bỏ thành phố về những vùng kinh tế mới rừng thiêng nước độc. Như vậy là tôi đã hiểu rằng, thể xác của New Orleans bây giờ vẫn còn đó, buồng ngực French Quarter đã gần lấy lại được nét phong độ xưa, nhưng trái tim – cái hồn người New Orleans – hình như vẫn chưa quay trở về, chưa muốn quay trở về hay sẽ không muốn quay trở về.

Thế là quá đủ cho một trận thiên tai. Không có cái hồn của người Sài Gòn thì Sài Gòn cũng chỉ là một thành phố hãnh tiến như bao thành phố khác ở Châu Á. Không có cái hồn của người New Orleans thì New Orleans cũng chỉ là một thành phố ồn ào như bao thành phố khác của nước Mỹ.. .

T. Vấn

Vĩnh Tuấn

Vnh_Tun

Hãy… Đừng…

Đừng như là tình nhân
Tình tan nát dập bầm
Hãy như là huyền thoại
Để tình đẹp trăm năm
Cứ coi như cố nhân
Tình sẽ giữ thật gần
Hãy như là nắng ấm
Để tình trải mênh mông.

Tháng 5 Quen Em

Tháng năm quen em phượng hồng chớm nở
Đỏ cả hồn ta đỏ cả tim ta
Mùa xuân đi qua tình yêu thật lạ
Ở chổ sau cùng nẩy lộc đơm hoa

Tình yêu em trao một trời mùa hạ
Đốt cháy tim nầy một thuở giá băng
Mỗi nơi thân quen mỗi con đường nhỏ
Bóng dáng liêu trai vẫn mãi chập chùng

Xin cảm ơn em mùa xuân tiền kiếp
Chim đã mang về hạt giống tình yêu
Cấy lên thân ta cây sầu rã mục
Nở ra vô cùng hạnh phúc thiên thu

Nơi chốn giá băng mặt trời vừa mọc
Em là vầng dương sưởi ấm cuộc đời
Ta xin nâng niu cuộc tình đến chậm
Em đã ân cần gửi tặng riêng ta

Xin

Xin đêm hãy ở với ngày
Sóng ở cùng biển, cây tươi cùng rừng
Xin em hãy ở với tình
Để ta đem hết tử sinh với người
Xin đất hãy ở cùng trời
Để đôi ta ở một đời với nhau.

Đỉnh Phù Vân

Thì thôi bốn bể xa gần
Trời trăng mây nước xoay vần mà chơi

Lên non gọi gió ru hồn
Tìm trong mạch đá xanh rờn rong rêu
Cũng như ánh nắng buổi chiều
Cũng như ánh nguyệt tiếng tiêu hao gầy
Đi đi cho hết kiếp nầy
Hôm này là mộng mai ngày sắc không
Dẩu rằng tim vẫn còn hồng
Đời nay đã thế còn mong nổi gì?
Đem cung đem kiếm bẻ đi
Rằng điên rằng dại xin ghi tạc lòng
Hỡi ôi chiếc lá trên không
Ngẩn ngơ bay lượn mấy vòng xanh xao
Chim kia lạc lối phương nào
Tiếng kêu vời vợi tan vào bóng mây
Chập chùng núi biếc ngàn cây
Ru hồn vào mộng ngủ say tuyệt vời
Tóc ai lộng gió tơi bời
Cho ta gửi một trận cười xót xa

Khác

Ban đêm khác với ban ngày
Như tôi khác với người thôi ấy mà
Trăng lên khác với trăng tà
Nên tôi mùa hạ. Người thời mùa đông
Chỗ đứng khác với chỗ nằm
Nên tôi vẫ cứ xa xăm với người
Buổi sáng khác với buổi chiều
Nên tôi vất vả một đời bên nhau
Sung sướng khác với niềm đau

Vĩnh Tuấn

Songthy

Song Thy

Tâm Sự Gửi Ba

Có những điều rất là thầm kín
Đã từ lâu con giấu trong lòng
Không dám nói… chỉ nhờ chữ viết
Thương ba nhiều, ba biết hay không!

Từ những ngày con còn bé bỏng
Bàn tay ba chăm sóc ân cần
Có đêm con biếng ăn sốt nóng
Trán ba hằn nhiều những vết nhăn

Con vô tư niềm vui đèn sách
Gánh nặng thêm chồng chất vai gầy
Chợt một ngày tim con quặn thắt
Nhìn tóc ba bạc trắng như mây

Không dịu dàng như tình của mẹ
Nhưng lòng cha đại lượng bao dung
Suốt đời lo cho bầy con trẻ
Ôi! Tình cha cao quý vô cùng

Những yêu thương trong lòng ấp ủ
Mà sao không nói được thành lời
Trước tình cha, bao nhiêu ngôn ngữ
Cũng trở thành vô nghĩa mà thôi

Con đủ lớn, làm cha làm mẹ
Mới hiểu được lòng của mẹ cha
Xin tạ ơn đất trời thượng đế
Đời chúng con diễm phúc còn ba.

Tìm Đâu
Tia Nắng Hạ

Ta thân cây cằn cỗi
Khẳng khiu giữa tuyết đông
Đời tơ vương trăm mối
Còn chi mà đợi mong

Đâu rồi ngày tháng cũ
Biêng biếc màu lá xanh
Mặc gió mưa vần vũ
Vẫn đùa cợt trên cành

Như bóng câu qua cửa
Thời gian vùn vụt trôi
Tuổi xuân còn đâu nữa
Hoàng hôn trên cuộc đời

Chơ vơ cùng băng giá
Ôn nỗi nhớ nhạt nhòa
Tìm đâu tia nắng Hạ
Những tháng ngày đã qua…

Mưa Ru Biển Vắng

Mưa trên biển vắng hoàng hôn
Thương đời dang dở biển chôn nỗi buồn
Sầu nào hơn tiếng mưa buông
Thiên di một cõi mưa tuôn khóc người

Mưa ru tự chốn trùng khơi
Vỗ về sóng bạc về nơi mịt mù
Mưa gieo nguyện ước thiên thu
Khi tình tan vỡ mưa ru khóc tình

Nổi trôi một kiếp phù sinh
Choàng cơn mộng ảo phận mình hư vô
Mưa ru tiếng nhạc mơ hồ
Nỉ non như những vần thơ khóc đời

Thôi đừng ru nữa mưa ơi!
Cho ta đi trọn kiếp người lênh đênh

Giáng Sinh Này
Anh Có Đến Thăm Em ?…

Giáng Sinh nầy anh có nhớ đến em!
Khi tuyết trắng rơi tan tác bên thềm
Khi ngọn gió đông lùa qua khe cửa
Còn nhớ chăng anh mật ngọt môi mềm!

Giáng Sinh nầy anh có nhớ đến em!
Nhớ những con đường vắng vẻ thân quen
Nhớ ngày xưa mình cùng nhau chung bước
Hạnh phúc ngọt ngào tỏa sáng bóng đêm

Giáng Sinh nầy anh có đến thăm em!
Mình cùng ôn bao kỷ niêm êm đềm
Đừng để yêu thưong chìm vào quên lãng
Mỗi Giáng Sinh về lòng xót xa thêm

Giáng Sinh nầy anh có đến thăm em!
Tay đan tay xem Thánh lễ nửa đêm
Cùng quỳ bên nhau thiết tha cầu nguyện
Cho tình đôi mình mãi thắm đẹp thêm…

Chia Ly…

Cơn gió nào thổi qua cửa nhỏ!
Hạnh phúc nào không có đắng cay!
Tình yêu nào không phút đắm say!
Đời sao như sương bay trong gió!

Nỗi buồn theo bước chân qua ngõ
Rớt rơi đầy lá cỏ ngoài sân
Nốt nhạc lòng trầm bỗng ngại ngần
Tình ngày ấy thời gian nào bôi xóa

Trăng thu buồn khi mờ khi tỏ
Cây si buồn lại bỏ ta đi
Cội bồ đề im lặng cũng vì
Đời vụn vỡ … phân ly chiều thu ấy …

Cũng có thể không là gió thổi
Qua những vuông cửa nhỏ mùa thu
Mà chính thu đang vui với gió
Thổi vào ta lá đẫm sương mù

Tình vụn vỡ không là số nhỏ
Mà phải là hằng số buồn đau
Từ chia xa sắc không biến hiện
Đáp số là vẫn mãi cần nhau

Nên chia ly chỉ là hiện tượng
Bản chất người thương hận như nhau.

Sao Em Chợt Đến

Không có em ai chờ ru tiềm thức
Không có em ai vào mộng đêm đêm
Không có em ai cười nói dịu êm
Không có em đời giăng buồn bỏ ngõ

Em chợt đến chợt đi! Hỡi dòng sông nhỏ
Mỗi gót hồng giẫm nát chân tình tôi
Đôi môi hồng chia sẻ nỗi buồn trôi
Vui chưa dứt em vội đi biền biệt

Lại hỏi lòng sao khung trời tha thiết
Ngỡ ngàng nhiều như con sóng ra khơi
Đời đang vui bỗng in dấu chơi vơi
Vần thơ cũ phơi sầu mầu giấy mực

Em là gió mây trời hay hiện thực
Ngõ hồn đầy kỷ niệm bóng ngày qua

Tình Còn Đó

Tình còn đó quyện lòng nhung nhớ
Người chờ người trăn trở sầu ly
Bao năm rổi lệ vẫn hoen mi
Sương điểm tóc xuân thì tình lỡ …

Thi ảnh buồn đượm vần bỡ ngỡ
Cám ơn người chuyên chở vào thơ!

Sắc Tím …

Tím nào cũng tím vấn vương
Nhuộm Thi Nhân tím yêu thương thuở nào
Tím buồn tim đượm xuyến xao
Tím rơi nhung nhớ lao đao một đời

Quá giang nắng tím chiều rơi
Tiểu Thư ngày ấy khép thời mộng mơ
Ngủ vùi vùng đất tím ngơ
Rừng chiều lịm chết vần thơ tím tình

Người ơi, bóng vẫn cần hình
Khung trời nhạt tím một mình có vui!
Tím sim xưa đã ngủ vùi
Giữa chiều biền biệt ngậm ngùi ý thơ

Tím thường vơ vẫn cùng mơ,
Người thơ khóc ngất đôi bờ tím hoang
Bài thơ xưa của Hữu Loan
Sao mà vẫn mới giữa hoang vu chiều

Thi Nhân hỡi! Gió lên nhiều
Ghét ghê sắc tím mãi trêu phận người…

Tiễn Em

“Người sao ngoảnh mặt làm ngơ
Quay lưng cất bước chẳng chờ tôi theo
Lặng nhìn dạ bỗng buồn hiu
Người về phương ấy chín chiều ruột đau”
St

Tiễn em ra phi trường
chân buồn ngập ngừng vương
ôm bờ vai thật thương
mắt xa xăm ướt lệ
người phương ấy đi về
người buồn tênh ở lại
dõi bước theo dáng ai
thôi nhé kể từ đây
nhớ dáng em gầy gầy
nhớ nụ cười chiều ấy
hồn quyện gió trời mây
mai nầy buồn biển nhớ
tượng đá dõi bóng chờ
dáng chim nhỏ nên thơ

Bao giờ em trở lại
Người em gái tôi mơ !!!

Ai Về Còn Nhớ Sóc Trăng

Ai về còn nhớ Sóc Trăng
Dáng người con gái da ngăm mượt mà
Em như hoa súng thướt tha
Nấu canh nêm mắm đậm đà vị hương
Nếu người có để lòng thương
Cùng đi lễ hội phật đường Chùa Dơi
Lâm Thôn điệu múa gọi mời
Hương tình kết chặt một đời có nhau
Mái tranh cổng trước vườn sau
Khói lam quyền quyện lao xao dáng chiều
Hởi người trai nếu hữu duyên
Khi vui còn nhớ gái Miên “Sóc Vồ”!?

Chào Buổi Sáng
* Xin được nối gót Chào Buổi Sáng của Quên Đi

Ánh bình minh là ngày ta mong đợi
Cuộc đời vui khi thấy ánh mặt trời
Chuyện đời vui khi tình bạn vời vời
Hãy giữ mãi tiếng cười vui rạng rỡ

Ánh mắt đó, vòng tay không bỡ ngỡ
Tia nắng hòa tiếng chim hót ví von
Lời yêu thương tình bằng hữu mãi còn
Chào buổi sáng, đón một ngày vui mới…

Vầng Trăng Thiếu Phụ
* Viết cho bốn vầng trăng Sang Thảo Oanh Lan

Trăng xưa ấy rạng ngời tươi trẻ
ngẩn ngơ nhìn dáng vẽ Nghê Thường
bước chân chim lòng thoáng vấn vương
trăng đôi tám ngập ngừng e ấp

Trăng đêm nay cớ sao hiu quạnh!
vầng trăng xưa luống chạnh nhớ nhung
thoáng cô đơn xa cách nghìn trùng
vầng trăng đó để lòng nhung nhớ

Vầng trăng hỡi chứng lời thệ nguyện
sao hững hờ nghe chuyện con tim
thời gian ơi, đánh mất đâu tìm
hình bóng cũ êm đềm ngày ấy

Trăng chênh vênh rơi qua kẽ lá
Dáng hao gầy trăng thiếu phụ chơ vơ!!!

Xao Xuyến Chờ Thu

Lá đỏ ướm vàng mùa thu đến
Tiển bước hạ buồn ngơ ngẩn đi
Bình minh sương mờ thơ vận ý
Hoàng hôn bảng lảng bóng xuân thì

Gửi sầu theo chiếc lá thu bay
Sao lòng tê tái bấy lâu nay
Tự cổ trăng thu hoài hư mộng
Bóng hình cô lữ xót xa trông

Non cao khắc gửi tình trên đá
Biển rộng sóng xô bóng nhạt nhòa
Thu xưa tư lự sầu vạn cổ
Đêm về quê khách dạ xót xa

Chân bước mỏi mòn chờ thu tới
Đêm thu gối mộng một mình ta

Nét Chữ Dại Khờ

Hoàng hôn đến viết lời thơ vớ vẫn
Lại quên lời kinh thánh chúa bảo ban
Đêm qua đi thương chữ viết vội vàng
Ngày thổn thức xõa nắng vàng thơ thẩn

Dẫu biết thế bóng theo chân ngớ ngẫn
Chữ dại khờ lẫn theo gió miên man
Hòa trong mây thành những giọt mưa tan
Rơi rơi mãi lem chữ đời rất vội

Đêm lại đến ngày đi qua muôn lối
Trăng tủi hờn vì lẫn ánh ban mai
Vẫn đợi chờ thương nhớ chữ nồng say
Nên lạc bước bến sông ngâu ngày ấy

Đời mất nhau ngỡ ngàng từng trang giấy
Bước chân ai lạc giữa mấy vần thơ
Ta tìm nhau qua nét chữ ngày mơ
Tình yêu đến đêm hát lời kinh thánh …

Lời Gió Thì Thầm

Gió mơn man trên tóc
Hỏi sao đến nơi này?
Nhờ sóng bạc cuốn đi
Nỗi cô đơn trống vắng

Gió hôn ngoan lên má
Hỏi sao đến nơi đây?
Nhờ sóng tình ru lại
Niềm hạnh phúc dâng đầy

Gió lay nhẹ bờ vai
Hỏi sao mãi ơ thờ!
Nhờ sóng xô xa vắng
Mang ước vọng tương lai.

Gió xoa nhẹ đôi tay
Hỏi sao còn giá lạnh?
Nhờ sóng vỗ nhạt nhòa
Niềm khắc khoải chơi vơi

Gió thổi áng mây đời
Hỏi sao mãi đợi chờ?
Hỏi sao mãi đơn côi?
Hỏi sao hoài nhung nhớ?

Gió thì thầm vui nhé!
Đời như một giấc mơ
Thoáng qua như cơn gíó
Thời gian chẳng đợi chờ…

Miền Tây Mùa Nước Nổi

Miền Tây thương mến quê tôi
Đến mùa nước nổi hoa trôi bềnh bồng
Phù sa mầu mở ruộng đồng
Cho bông lúa tốt, thơm mầm gạo ngon

Trên trời chim hót ví von
Bên đồng vịt lội, trích con tìm mồi
Bông Điên Điển thắm vàng trời
Hoa Tràm nở rộ, lá mùi thoảng thơm

Gió đưa hương ủ rạ rơm
Xuồng con đầy cá, gạo đơm đầy nồi
Đẹp sao đẹp lắm quê tôi
Xa rồi mới luyến nhớ hồi tuổi thơ

Miền Tây cảnh đẹp như mơ!
Như tranh thủy mạc bao giờ phôi pha
Nước Nổi dâng tận trời xa
Ngập tình sông nước đậm đà tình quê . . .

Lời Tự Tình Trong Đêm

Tôi hằng mơ mơ về nơi xa lắm!
Mi khép rồi hồn thắm nụ môi xinh
Tìm lại anh nơi cõi thật an bình
Chấp đôi cánh đôi mình nương theo gió

Tôi vẫn mơ mơ về nơi xa lắm!
Không hận thù đầm ấm chữ yêu thương
Ánh dương hồng rọi sáng chốn nghê thường
Xua bóng tối sương đêm về nhân thế

Tôi vẫn mơ mơ về nơi xa lắm!
Không đua chen không tham lợi cầu danh
Hoa nở, cỏ xanh, chim hót trên cành
Mây quyện bóng trăng lành soi muôn lối

Tôi vẫn mơ mơ về nơi xa lắm!
Không tỵ hiềm nghi ngại mất niềm tin
Lời dối gian nhoà nhạt mối ân tình
Đời vẫn thế … nghìn năm đời vẫn thế

Tôi vẫn mơ mơ về nơi xa lắm!
Môi mắt chờ anh có nhớ không anh!
Giấc ngủ ngoan đêm ru bến yên bình
Đời chỉ có một lần … thôi ngủ nhé!

Đan Tình Hoa Lá

Lá hoa kết mảnh thời gian
Trắng hoa xanh lá mênh mang hữu tình
Bướm say vì nhụy hoa xinh
Tiếc thương hoa rụng một mình chơ vơ

Lá buồn tiếc ngẩn tiếc ngơ
Đan tình dệt nhớ hoa giờ còn đâu
Hoa rơi để lá tương sầu
Trái non e ấp kết mầu lá hoa

Nhìn hoa dạ những xót xa
Một thời hương sắc . . . . bóng nhòa thời gian

Đôi Mắt

“Đôi Mắt” em cả bầu trời thu gọn
Có bóng trăng, giọt nắng bình minh
Có biển lòng dậy sóng hương tình
Cả vũ trụ em gom trong đáy mắt

Khẻ đọc tiếng lòng em chôn chặt
Lau giùm em nước mắt canh đời
Cười với anh bằng khóe mắt có đuôi
Anh cảm thấy chơi vơi bay bổng

Đôi mắt em cả bầu trời mơ mộng
Cả màu Thu nhuộm lá vàng Thu
Chút hư không nhoà nhạt sương mù
Trong giếng mắt hồ Thu trong vắt

Thương em với hương lòng ngây ngất
Đắm hồn mơ đôi mắt ngây thơ
Suối mắt kia ru mộng trong mơ
Anh nắn nót vần thơ yêu “Đôi Mắt” . . .

Mưa Ngày Chủ Nhật

Mưa trút đều sáng ngày chủ nhật
Mây nhuộm màu xám xịt không gian
Gió lao xao thức giấc muộn màng
Cây oằn oại tiếng than non nỉ

Chiếc chăn đơn ấm tình cô lữ
Khắc khoải lòng lữ thứ xa nhà
Càfé đầu ngày vị đắng riêng ta
Từng giọt rơi hiền hòa trong tách

Chủ nhật buồn gió mưa ray rứt
Như tiếng lòng đáy vực sầu miên
Hạnh phúc, cô đơn cứ mãi trốn tìm
Miền ký ức muộn phiền trăn trở

Ngụm cà phê có trôi niềm nhớ!
Dấu nỗi buồn tim vỡ qua đây
Đầu ngón tay nhẩm tính từng ngày
Anh còn đó . . . hay say niềm vui mới

Mưa còn rơi em còn mãi đợi
Càfé đầu ngày từng ngụm cô đơn . . .

Tự Tình Trong Đêm

Tôi hằng mơ mơ về nơi xa lắm!
Mi khép rồi hồn thắm nụ môi xinh
Tìm lại anh nơi cõi thật an bình
Chấp đôi cánh đôi mình nương theo gió

Tôi vẫn mơ mơ về nơi xa lắm!
Không hận thù đầm ấm chữ yêu thương
Ánh dương hồng rọi sáng chốn nghê thường
Xua bóng tối sương đêm về nhân thế

Tôi vẫn mơ mơ về nơi xa lắm!
Không đua chen không tham lợi cầu danh
Hoa nở, cỏ xanh, chim hót trên cành
Mây quyện bóng trăng lành soi muôn lối

Tôi vẫn mơ mơ về nơi xa lắm!
Không tỵ hiềm nghi ngại mất niềm tin
Lời dối gian nhoà nhạt mối ân tình
Đời vẫn thế … nghìn năm đời vẫn thế

Tôi vẫn mơ mơ về nơi xa lắm!
Môi mắt chờ anh có nhớ không anh!
Giấc ngủ ngoan đêm ru bến yên bình
Đời chỉ có một lần … thôi ngủ nhé!

Tuổi Hạc Buồn Của Mẹ

Mẹ là chiếc nón thương yêu
Nắng che mưa đội sớm chiều bên con
Thân cò ngày tháng hao mòn
Nón xưa tơi tả héo hon thân già

Mẹ buồn như ánh chiều tà
Hắt hiu vạt nắng nhạt nhòa chờ đêm
Mẹ là ánh sáng dịu êm
Ru thầm bên gối cho đêm nhuộm hồng

Mẹ là chiếc võng con nằm
Ầu ơ kẻo kẹt bao năm qua rồi
Tuổi thơ vụt cánh lên ngôi
Còn đâu ngày tháng mộng thời xuân tươi

Mẹ ơi sao nói nên lời
Tình con dâng mãi tuổi đời cưu mang
Lòng con thương mẹ vô vàn
Biển đông sóng cuộn đong tràn công ơn

Nhìn mẹ xế bóng hoàng hôn
Bước chân mệt mỏi rêu buồn bủa vây
Mẹ ơi con hát đây này:
“À ơi! Mẹ sống vui vầy cùng con”

Trời giăng giăng tím mờ sương
Tuổi đời sao mẹ, sáng dường hoa đăng
Cầu trời mẹ được an nhàn
Tình con thương mẹ tỏa ngàn sao đêm . . .

Songthy

1 6 7 8 9