Góc Thân Hữu

Đắk Bla Mùa Thu Về – Nguyễn An Bình

Có đi qua con sông
Mới nghe rừng lá kể
Dòng Đắc Bla lặng lẽ
Gọi mùa thu đang về.

Từng bãi mía nương ngô
Xanh một màu sương phủ
Lời nguyền mùa nước lũ
Sông chảy ngược về đâu?

Ai kể cho đời sau
Bóng cây đôi chung thủy**
Chuyện tình in dáng núi
Tím một chiều hoàng hôn.

Em gùi nước về buôn
Mái nhà rông cao vút
Bập bùng vang tiếng hát
Say trong điệu múa xoang.

Hoa nở khắp đại ngàn
Sắt se làn mưa bụi
Hương bay cùng gió núi
Mùa cà phê thơm nồng.

Thuyền độc mộc qua sông
Đắk Bla nhuộm nắng vàng
Tình đất đỏ ba dan
Đôi bờ giăng nổi nhớ.

Kon Tum, tháng 8-2017

*Sông Đắk Bla: Bắt nguồn từ chân núi Ngọc Linh huyện Tu-Mơ-Rông. Dòng chảy khi đến huyện Kon Rẩy thì bẻ về hướng bắc nam, đoạn qua tp KonTum thì chảy ngược về hướng đông-tây nên Đắk Bla còn gọi là dòng sông chảy ngược.
**Cây đôi: Trước kia ở cửa ngõ vào tp Kon Tum có 2 cây tơ-đáp và cây si mọc chung gốc bên bờ sông Đắk-Bla gắn liền với huyền thoại đôi trai gái yêu nhau nhưng vì hận thù của hai bộ tộc nên chết đi hóa thành. Năm 2012 cây đôi nầy đã bị chính quyền chặt bỏ.

Nguyễn An Bình
***

Nguyễn An Bình
Gặp Lại Bạn Thơ Cũ Ở Phan Rang

*Gởi tặng nhà thơ Trần Văn Nghĩa(Phan Rang-Tháp Chàm)

Qua Phan Rang ghé bạn xa
Tiếng phone trong gió thoảng qua mơ hồ
Mấy mươi năm chảy dòng thơ
Trôi đi lặng lẽ bên bờ thế gian.

Tháp Chàm gió ngọn khô rang
Dẫu thời gian nhuốm muôn ngàn rong rêu
Người theo mây xám lưng chiều
Tiếng thơ đồng vọng ít nhiều trong nhau.

Chưa từng chia cốc rượu đào
Đã nghe sợi tóc bạc đầu rưng rưng
Tôi Tây Hậu-bạn Nam Trung*
Gặp nhau ấm chút tương phùng rồi đi.                                                                 

Tôi và nhà thơ Trần Văn Nghĩa có mối duyên thơ rất trể: Trước 1975 tôi và anh có nhiều thơ đăng trên báo chí Sài Gòn. Thơ anh đăng nhiều trên Tuổi Ngọc, Mây Hồng…tôi đăng nhiều trên các nhật báo, Văn Học. Anh tham gia nhóm Khuôn Mặt Học Trò ở Sóc Trăng bạn của Lê Vũ Hùng, tôi cũng là bạn của Lê Vũ Hùng khi anh lên Cần Thơ học ĐHSP. Chúng tôi chỉ quen nhau trên fb sau nầy và có dịp gặp nhau ở Cấn Thơ năm 2016.

*Tây Hậu-Nam Trung: miền Tây sông Hậu, Nam Trung bộ.

Nguyễn An Bình

Vĩnh Hảo
Điệp Khúc Yêu

Hắn xuất hiện ở đâu, người ta đứng dậy vỗ tay chào đón ầm ĩ. Nơi nào hắn đến, nơi đó rộn ràng lên và hắn luôn luôn trở thành trung tâm của đám đông, thượng khách của tất cả những cuộc nhóm họp.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Hắn, một con người đa năng, phi thường trong lĩnh vực xướng âm, ca hát, nhái giọng và một chút khôi hài trong cung cách biểu đạt bằng ngôn ngữ. Hắn có thể nhái giọng của bất cứ ai, bất cứ con người hay súc vật, thậm chí chim chóc, côn trùng… nói chung là bất cứ âm thanh nào do bất cứ thứ động vật nào phát ra hắn đều có thể nhái lại y hệt. Sự kiện này không phải chỉ đơn giản là nhờ cái thanh quản đặc biệt. Mọi người đều hiểu rằng hắn phải có một trí nhớ phi thường thế nào đó để lưu giữ những âm thanh hắn nghe được; đến khi cần, hắn lôi cái âm thanh đó ra, phát lại y hệt. Không phải chỉ nhái giọng, hắn còn có khả năng giả giọng nữa. Nhái giọng chỉ là lặp lại giọng nói đã nghe, còn giả giọng thì dựa vào giọng nói của một người rồi nói ra được cả những lời mình chưa hề nghe người ấy nói bao giờ.

Chưa hết, không những nhái giọng, giả giọng, hắn còn có khả năng phi thường về ngôn ngữ. Hắn học ngoại ngữ rất nhanh, phát âm rất chuẩn, giả giọng rất giống theo từng địa phương. Có điều chính hắn lại không thích nhồi vào đầu những ngôn ngữ nước ngoài làm gì đấy thôi. Hắn thích cái trò nhái giọng và giả giọng hơn. Vì những trò này không tốn nhiều thời gian tập luyện, không bắt hắn phải ghi nhớ mà lại thường làm khán thính giả sửng sốt hoặc cười rộ. Chỉ trong vòng vài năm, hắn trở thành một nghệ sĩ có mặt khắp các sân khấu của cộng đồng người Việt tại hải ngoại, trở thành một danh hề, vừa là một ca sĩ tổng hợp tất cả giọng của các ca sĩ lừng danh. Thỉnh thoảng, với sự cố vấn của ông bầu, hắn còn bắt chước cả giọng hát các ca sĩ lẫy lừng của Mỹ, giọng nam lẫn giọng nữ. Hắn giả giọng của mỗi ca sĩ, từ thế hệ già của thập niên 60 và 70, đến thế hệ trung niên của thập niên 80 – 90, cho đến thế hệ trẻ mới nổi tiếng đầu thiên kỷ. Hắn hát những bản ăn khách nhất của họ là hắn thành công, hốt bạc. Nào là giọng của Elvis Presley, Paul McCartney, Lobo, Phil Collins, Bob Dylan, Mick Jagger, Elton John, Paul Anka, Garth Brooks… cho đến giọng nữ như Barbara Streisand, Gloria Esteffan, Madonna, Whitney Houston, Shanai Twain, Maria Carrey, Toni Braxton, Faith Hill, Jewel, Jennifer Lopez, Christina Aguilera, Britney Spears, Dido…

Hắn tên là Năm. Nguyễn văn Năm. Một cái tên bình thường, chẳng gì đặc biệt đối với xã hội Việt Nam. Một cái tên mà khi đọc lên, người ta liền có ấn tượng là người mang tên ấy xuất thân từ miền quê, nếu không vậy thì cũng từ một gia đình ít học, hoặc từ một gia đình vẫn còn niềm tin rằng đặt tên xấu cho con thì sẽ dễ nuôi hơn, không bị ông bà tổ tiên bắt đi.

Hắn ít học. Chỉ vừa lên trung học hai năm thì phải ngưng ngang. Cuộc sống của hắn bị đóng khung ở vùng quê với ruộng vườn, bò trâu, gà vịt, chim chóc, con cò, con diệc, con mểnh, con mang… Thế giới của hắn là từ khoảnh sân nhỏ phía sau mái nhà tranh dẫn đến ruộng, ngang qua một khoảnh rừng nhỏ đầy tre gai. Trường học và bạn bè của hắn càng lúc càng xa. Ngôi trường nhỏ năm ấy không còn nữa, muốn học lớp cao hơn phải lên tận huyện. Ba má hắn thấy chuyện học chẳng thiết thực mà cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho đời hắn nên bảo hắn nghỉ ở nhà phụ giúp gia đình làm ruộng. Vả chăng, xong bậc tiểu học và hai năm trung học đối với dân ruộng ở đây thì cũng là khá lắm. Vậy rồi loanh quanh lẩn quẩn sáng ra đồng, tối về nằm nghe cải lương trước khi ngủ, thoắt cái hắn trở thành thanh niên, một chàng trai vạm vỡ, cục mịch nhưng hiền lành, ngây ngô như một đứa con nít.

Đứa con nít đó, mỗi lần thanh niên nam nữ trong xóm ấp tụ tập để ca hát vui chơi, cũng biết góp mặt làm trò cười bằng tiết mục nhái giọng, trình diễn trước đám đông rất dạn dĩ, nhưng phải lòng một thiếu nữ láng giềng thì chẳng bao giờ dám ngỏ ý. Cứ thấy cô ta là lủi mất, rồi lại đứng núp mà ngó theo, ngó theo. Cho đến một hôm bị cô ta dí vào nơi không chạy được nữa, mới chịu đứng lại nói chuyện.
“Anh trốn tui hả?”
“Đâu… đâu có,” hắn ấp úng đáp.
“Anh đi theo tui nãy giờ phải không?”
“Đâu phải, tại tui cũng đi ra ngõ đó mà…”
“Í, áo anh sao đứt hột nút ở đây vậy? Bị cô nào níu phải không?”
“Đâu có, đâu có… không có ai níu đâu.”
“Hi hi, nói giỡn đó mà. Anh muốn đi với tui ra ngoài ruộng không? Ruộng anh đã cho nước vào chưa?”
“Tát vào hôm qua rồi. Còn của nhà chị… Lộc thì sao hả? Chưa tát tui đi tát giùm cho.”
“Chưa. Hôm nay tát. Bộ tui lớn lắm hả sao kêu tui bằng chị?”
“Tại vì… tại vì…”
“Thôi anh ơi, khỏi tại với bị gì hết. Đi, đi ra ruộng không?”
“Đi chớ.”

Năm theo Lộc ra ruộng, giúp tát nước vào ruộng của cô. Bằng cái gàu đan bằng tre với bốn sợi dây, hai sợi cột trên miệng gàu, hai sợi cột dưới đít gàu, chia làm hai bên; hai người hai phía bờ ao, mỗi người nắm mỗi tay một quai, theo nhịp mà kéo nước từ ao, tát vào ruộng. Ban đầu thì Lộc hò, khi cô hết hơi thì Năm tiếp. Anh hò cả hai giọng, giọng nam rồi giọng nữ, nghe rất thú vị và đôi khi buồn cười. Lộc vừa tát nước vừa cười ngặt nghẽo, có khi phải ngưng tát, ngồi xuống bờ ao. Họ thân với nhau từ hôm ấy.
Một ngày sáng trăng, họ đi xem cải lương chung. Trên đường về ấp, họ nắm tay nhau lần đầu. Trước khi chia tay ở đầu ngõ, họ nói lời thương nhau.
“Tui thương anh lắm anh có biết không?”
“Có, có biết.”
“Vậy chứ anh thì sao?”
“Tui cũng thương… nữa.”
“Nói cho rõ ràng một chút được hôn?”
“Tui thương… em.”
“Không được, nói lại đi.”
“Anh… thương… em…”
Lộc cười sung sướng.
“Em cũng thương anh nữa. Thôi anh về đi, em vào ngủ nghen.”
Năm sau họ làm đám cưới. Đám cưới đơn giản chỉ có vài người thân trong gia đình, nhưng hàng xóm thì kéo đến thật đông. Lúc đó, ba Lộc đang ở tù cải tạo.

Một năm sau đám cưới của Lộc, ba nàng ra tù được đi Mỹ với diện H.O. Ba má Lộc và hai em đi trước. Lộc và Năm qua sau vì ban đầu chính Năm không chịu đi, muốn ở lại để còn có cơ hội chăm sóc mẹ già…

“Hơn nữa… em không biết đâu, anh yêu mảnh vườn mảnh ruộng của mình biết bao. Anh yêu con đường đất đỏ này biết bao. Có quá nhiều chuyện đẹp của hai đứa mình xảy ra ở đây, trong ấp này… anh không bỏ đi được đâu,” Năm giải thích với vợ để được ở lại.

Lộc chiều chồng, ở lại, sinh một đứa con, rồi hai đứa con, rồi cuối cùng qua thư từ và hình ảnh, thấy ba má sống bên Mỹ thoải mái quá, hai em ăn học thành công quá, Lộc muốn đưa chồng con đi. Lộc tìm mọi cách thuyết phục Năm. Thuyết phục mãi cho đến sau khi mẹ Năm mất một thời gian khá lâu, Năm mới đồng ý với vợ, quyết định lên đường.

Ba của Lộc vẫn có ý coi thường Năm ít học, là thứ nông dân dốt nát cục mịch, may mắn cưới được con gái mình. Ông cứ cằn nhằn phiền trách vợ mãi về chuyện gả Lộc cho Năm lúc ông còn trong trại cải tạo ngoài Bắc. Ông nói nếu có ông ở nhà thì con ông đâu có lấy thằng chồng tệ đến thế.
“Ông tưởng ông ở nhà thì mọi chuyện sẽ đổi khác đi à? Tui sợ không phải như vậy. Chính nhờ ông ở tù, khốn khổ, cơ cực, tủi nhục bao nhiêu ngày tháng trong đó nên mới được đền bù như ngày hôm nay,” má Lộc nói với chồng như thế.
“Đền bù cái chuyện xuất ngoại, cho con cái học hành nên danh nên phận, chứ đâu phải được đền bù lấy cái thằng nông dân ấy!”
“Suỵt, đừng có nói vậy nữa mà, hai em nó nghe được… sau này nó bắt chước cha nó, cứ khinh miệt anh rể, tội nghiệp người ta. Cái số con Lộc đã như thế, sửa đổi thế nào được. Dù gì thì hai đứa nó cũng đã hạnh phúc, có con với nhau. Thằng Năm cũng thương chiều vợ, biết lo cho con, lại hiếu thảo với mẹ nó, hiếu thảo với cha mẹ vợ nữa, vậy là tốt rồi, còn đòi hỏi chi nữa. Lỡ như con Lộc lấy phải thằng chồng có ăn học nhưng tính nết, tư cách, tâm tình chẳng ra chi thì nó còn khổ hơn. Vả lại, con Lộc cũng học hành hơn thằng Năm bao nhiêu đâu! Thằng Năm học xong lớp 7, con Lộc cũng mới hết lớp 9 thì nghỉ mất rồi.”
“Xì, bà nói sao thì nói, chứ tui vẫn thấy ấm ức, tức giùm cho con nhỏ làm sao ấy! Phải chi nó cứ ở vậy, qua đây tiếp tục đi học như hai thằng em thì hay biết mấy…”
“Làm sao biết được ngày nào ông về mà chờ đợi… Huống chi, cái chuyện tình cảm của tụi nó, đâu có chờ đợi mãi. Mình phải thương, phải hiểu hoàn cảnh của nó chứ. Thử tưởng tượng đi, ở cái ấp buồn xo ấy, quanh năm suốt tháng không có lấy một niềm vui, không có bất kỳ một trò chơi giải trí nào… không lẽ cứ để cho con mình chôn vùi tuổi xuân của nó trong công việc đồng áng? Ông không biết đâu… chính vì nhớ thương ông, bao năm vò võ một thân một mình nuôi con ở nơi chốn đói khổ cằn khô ấy, tui mới cảm thông được nỗi trống trải, cô đơn, buồn tẻ của tâm tình con người nơi ấy… Ôi, ngày này qua tháng nọ chỉ có gió hú, ve kêu, mưa dầm, đất nhão, nắng gắt, bụi mù… đôi khi giật mình giữa đêm, nghe một nỗi gì đau quặn trong lòng, cô liêu, thê thiết lắm. Có khi tưởng chừng không sao chịu đựng được nữa. Có khi muốn điên lên. Có khi chỉ muốn chết đi. Ở những nơi ấy, không có tình yêu thì không sống nổi đâu ông ạ. Chỉ nhờ tình yêu mà con người ở đó vẫn còn là con người.”
“Được rồi, được rồi, tôi hiểu, tôi hiểu, đừng khóc nữa bà. Nín đi kẻo tụi nhỏ cười.”

Vậy mà cái thằng ít học ấy, chỉ vài năm bập bẹ đi học tiếng Anh trong các lớp đặc biệt dành cho người lớn tuổi nước ngoài, đã thoắt cái, chuyển vận, trở thành đại nghệ sĩ, chẳng cần bất cứ thứ vốn liếng nhà trường nào, cũng chẳng cần bằng cấp hay nghề nghiệp chuyên môn nào để kiếm sống. Hắn giàu to thoáng chốc. Tậu một dinh thự to lớn cho mình và vợ con. Tậu luôn căn nhà nhiều phòng cho ba mẹ vợ. Tặng hai em vợ hai chiếc xe láng lẩy để đi học. Tiền vào như nước. Tiền ra cũng như nước. Bạn bè càng lúc càng đông. Hắn rộng tay chi xài, giúp đỡ vốn liếng làm ăn cho hết người này đến người nọ khiến cho nhiều gia đình cũng được phất lên. Hắn còn biết giúp tiền cho các cơ quan từ thiện xã hội, các cơ sở tôn giáo, giúp người tàn tật, nghèo đói, thiên tai ở Việt Nam, ở Phi châu, ở Nam Mỹ, ở Ấn Độ… bất cứ nơi đâu có vận động giúp người đói khổ, hắn đều vui vẻ ký ngân phiếu gởi tới.

Gia đình vợ, bà con bên vợ, cho đến những họ hàng xa của vợ hay của hắn, không còn dám khinh thường hắn nữa. Hắn bây giờ trở thành con người của đám đông, của quần chúng. Ai ai cũng biết mặt, biết tên hắn cả. Thành công rực rỡ như vậy, hắn vẫn hiền lành, dễ thương, vui vẻ, hòa hoãn với mọi người như hôm nào còn ở ruộng rẫy. Không ai gặp hắn mà không vui lên. Hắn luôn mang đến niềm vui cho kẻ khác, niềm vui vật chất hay niềm vui tinh thần.

Chỉ có một điều hắn không bao giờ hiểu nổi là Lộc, vợ hắn, tại sao vẫn không được hạnh phúc hoàn toàn như hắn nghĩ. Cô ta không bao giờ ngăn cản những điều hắn làm. Cô ta luôn khuyến khích hắn thực hiện những điều tốt, những điều mà cô nghĩ là mang lại phước đức cho gia đình, con cái. Có thể nói rằng những điều công ích mà hắn đóng góp cho đời đa phần đều do sự hướng dẫn và khích lệ của vợ. Nhưng thỉnh thoảng, Năm lại thấy vợ buồn so. Đôi mắt nàng chìm sâu xuống với một nỗi buồn lạ lùng, mang mang.
“Em có điều gì buồn hả?”
“Không, không có.”
“Em không thích anh làm chuyện ấy hả?”
“Không, em thích chứ.”
“Chứ sao… mặt em thấy buồn quá vậy”
“Anh thấy được sao?”
“Ừ, trong mắt em đó.”
“Nó như thế nào?”
“Như là em đang tìm kiếm, chờ đợi… một cái gì.”

Lộc im không nói. Nhiều lần Năm gặng hỏi mà vẫn không có câu trả lời.
“Em không biết nữa. Em thật khó nói cái cảm giác của em. Em biết, chúng ta đã có tất cả mọi thứ và chúng ta có nhau. Nhiều người ước ao có được hoàn cảnh như chúng ta. Nhưng mà… sao em vẫn thấy thiếu cái gì đó, không hiểu nổi. Em đang cố gắng tìm cho ra cái điều đó. Có lẽ một lúc nào đó em cũng sẽ tìm thấy thôi. Lúc đó, chắc em sẽ không còn buồn nữa đâu. Nhưng anh à, chỉ là chuyện nhỏ thôi. Mọi thứ ở đây, trong cuộc sống này, đều thoải mái. Em không dám đòi hỏi gì hơn nữa.”

Lộc nói vậy, nhưng rồi càng lúc nàng lại càng buồn nhiều hơn. Ăn uống ít lại. Ngủ ít lại. Nói ít lại. Mọi thứ đều không còn gì là quan trọng đối với nàng nữa. Nàng đi đứng nằm ngồi, sống và hít thở cái không khí tiện nghi trong ngôi biệt thự của một phu nhân giàu có mà vẫn cứ thẫn thờ thờ thẫn như người mất hồn. Năm giục vợ đi bác sĩ gia đình, rồi bác sĩ tâm thần. Không thay đổi được gì. Nàng vẫn buồn. Càng lúc càng lặng lẽ, ít nói và càng giống người bệnh hơn. Xanh xao, gầy mòn. Đôi mắt lạc thần. Đôi mắt của người đang tìm kiếm, chờ đợi một cái gì quay lại với mình. Năm lo sợ, chạy đôn chạy đáo, tìm bác sĩ tây-y, đông-y, thầy pháp, thầy bói… ai cũng nghĩ mình có thể chữa trị được, cũng khám, nói chuyện, cho toa, cho lời khuyên… nhưng đâu vẫn hoàn đấy. Lộc vẫn cứ ngồi thừ, buồn tiu nghỉu như người nghèo bị mất trộm.
“Em ơi, em có biết không? Em là tất cả vốn liếng của đời anh đó. Cho dù anh có ngồi trên đống vàng, tự hào trên núi danh vọng… nhưng mất em, mất nụ cười và niềm vui của em, là anh mất tất cả đó. Em nói đi, nói anh nghe em muốn gì. Em cần gì, thiếu gì, cứ nói anh nghe, chân trời góc biển nào anh cũng sẽ tìm về đây cho em. Nói đi, nói đi em. Anh sẵn sàng chịu mất tất cả, vứt hết tất cả, chỉ để giữ lại mình em cho đời anh. Chỉ một mình em thôi, là đầy đủ, là hạnh phúc cho anh rồi.”

Nàng chớp chớp đôi mắt, long lanh ngấn lệ. Năm thấy vậy thì hơi mừng. Nghĩ rằng nàng vẫn còn cảm giác đối với tình yêu của mình. Nghĩ rằng có thể những lời của mình đã gợi ý cho nàng tìm ra cái gì nàng thiếu. Nhưng rồi, nàng vẫn không nói gì cả.

Bây giờ người ta đã bắt đầu đồn đãi rằng vợ của nhà đại nghệ sĩ bị mắc bệnh tâm thần. Năm giảm bớt những buổi trình diễn để quanh quẩn ở nhà với vợ, chờ đợi nàng nói, chờ đợi nàng cười.

Cho đến một đêm, Năm về trễ. Không dám làm động giấc ngủ của vợ, Năm nằm ngủ ở sofa phòng khách. Trằn trọc một lúc, trầm tư về cuộc sống của mình với người vợ đang bệnh, Năm thiếp đi một cách mệt mỏi. Bất chợt, Năm giật mình, thấy vợ ngồi kế bên. Bàn tay của Lộc đang ắp trên má hắn. Hắn sung sướng nắm lấy tay vợ, ngồi chổm dậy:
“Em, em… không ngủ hả? Em có điều muốn nói với anh phải không?”

Lộc gật gật cái đầu. Trong bóng đêm, mái tóc nàng xõa xuống hai bên vai làm nổi bật khuôn mặt trắng bệch.
“Em nói anh nghe đi. Em buồn điều gì? Em thấy thiếu cái gì, nói đi. Anh sẽ lập tức mang cái đó về cho em bằng mọi giá.”

Lộc lắc đầu. Ngồi im một lúc, nàng bắt đầu thủ thỉ:
“Anh có biết em thương anh nhất lúc nào không?”
“Ư… lúc anh âu yếm em… phải không?”
“Không phải.”
“Lúc anh vui cười, nắm tay dắt em đi giữa phố chợ.”
“Không phải. Những cái đó là trong hiện tại. Em muốn nói cái hình ảnh đẹp ở quá khứ kia.”
“Quá khứ à? Từ lúc mới qua Mỹ, hay lúc còn ở Việt Nam?”
“Còn ở Việt Nam.”
“Vậy thì khoảng thời gian hai đứa mới quen nhau chứ gì. Có phải lúc anh giả giọng bà Thanh Thanh, hát mấy bản nhạc tiền chiến kéo nhựa cả tiếng đồng hồ không?”
“Cái đó thì chỉ vui vậy thôi, cái vui cho đám đông, đâu phải cho riêng em.”
“Vậy chứ cái gì, em nói đại đi, anh đâu có nhớ hết được.”
Lộc im.
“Xin lỗi em, để anh nói, để anh nhớ coi nào. Có phải lúc em chận anh lại, hỏi anh có phải anh đang theo em không.”
Lộc lắc đầu.
“Vậy có phải lúc hai đứa đi xem cải lương về… chia tay nhau, em nói em thương anh, anh cũng nói anh thương em, phải không?”

Lộc gật đầu nhiều cái. Năm sung sướng nói tiếp:
“Thật vậy hả, em chỉ nhớ, chỉ mong, chỉ muốn ôn lại cái kỷ niệm đó thôi hả?”
“Không phải chỉ là cái kỷ niệm đó mà là cái giọng nói của anh lúc ấy.”
“Là sao? Anh không hiểu.”
“Cái giọng nói của anh lúc ấy… nó chân tình, ngây ngô, trung hậu, dễ thương, hồn nhiên lắm, anh có biết không?”
“Ơ… chỉ vậy thôi sao? Anh đã nói gì há, à, anh nói ‘tui thương em’ rồi sau đó anh nói ‘anh thương em’… phải không?”
“Phải, nhưng cái giọng lúc đó là cái giọng thật của anh, còn bây giờ đó hả, anh chỉ nói với em bằng cái giọng của người khác mà thôi. Mỗi ngày, mỗi ngày, em cố gắng lắng nghe, để tìm lại cái giọng ngày xưa của anh, nhưng em thấy anh không còn nói bằng cái giọng đó nữa. Giọng của anh bây giờ là giọng của người khác. Ôi, anh có biết không, cho dù là giọng vàng, giọng bạc, giọng của vua, của tổng thống, của siêu sao màn bạc, của ca sĩ lừng danh… của bất cứ thượng đế, thiên thần, thiền sư, triết gia, nhà văn, nhà thơ nào đi nữa… thì vẫn là giọng giả thôi, vẫn là giọng của họ thôi. Hàng ngày anh mang những người ấy, hết người này tới người kia, mang về nhà này, để sống chung trong căn nhà này. Ôi, căn nhà đầy ắp những thượng khách. Em thật là mệt với những hình bóng của các người lừng danh nổi tiếng. Họ thật xa lạ đối với em, chẳng cho em chút thoải mái nào cả. Em không phủ nhận tất cả những thành công của anh lâu nay là do nhờ anh giả được cái giọng của họ y hệt, nhưng đó là trên sân khấu, còn ở đây, trong căn nhà này, trong đời sống hàng ngày bên nhau, em chỉ cần anh, cần cái giọng thật của anh, cái giọng mà hôm nào dưới trăng anh đã ấp a ấp úng nói lời tỏ tình đầu tiên với em… Em chỉ cần có chừng đó thôi. Em chỉ cần cái giọng một trăm phần trăm của anh, không bắt chước, không nhái, không giả, không cóp nhặt, không vay mượn của bất cứ ai trên đời. Anh cho em đi, anh hãy tìm lại giọng nói ấy cho em đi. Em van anh, hãy tìm lại cái giọng ấy cho em, đừng đánh mất nó. Anh đánh mất nó thì làm sao em tìm thấy nó được nữa, hu hu…”
“Được rồi, được rồi… để anh nói lại giọng của anh, để anh nói lại…”
“Không, giọng đó không phải của anh, của ca sĩ Vũ Linh.”
“Để xem, à giọng của anh đây rồi.”
“Không phải, đó là giọng của cựu Trung tướng Nguyễn Minh.”
“Từ từ, chịu khó một chút em ơi, đây nè, giọng anh như vầy nè, ‘anh thương em’.”
“Không phải, giọng đó của ông nghị viên thành phố.”
“Anh thương em.”
“Không, giọng đó của nhà văn Phạm Tôn.”
“Anh thương em.”
“Không, của thi sĩ Bùi Lâm.”
“Anh thương em.”
“Không phải.”
“Anh thương em.”
“Không phải.
“Anh thương em.”
“…”
“…”

Năm không thể nói lại được giọng nói cũ của hắn. Suốt ngày hắn đi ra đi vào cứ lẩm bẩm “anh thương em” mãi. Hắn không còn đi lưu diễn nữa. Báo chí nhắc đến hắn, nói châm chọc một câu rằng: “đại nghệ sĩ Nguyễn văn Năm bận đi trình diễn show Anh thương Em.” Có báo nói rằng cả hai vợ chồng đại nghệ sĩ đều trở thành những bệnh nhân tâm thần.

Những bệnh nhân ấy, người thì lắng nghe, lắc đầu, tìm kiếm, chờ đợi; người thì cứ lẩm bẩm mãi một điệp khúc ‘anh thương em’. Điệp khúc ấy, mọi cặp tình nhân trên cuộc đời đều đã từng nói qua, nhắc qua, nhưng không phải ai cũng nói được bằng giọng thật của mình.

Vĩnh Hảo

[/read]

***

Phan Xuân Sinh
Trên Đồi Hoa 

ta khóc Kiều một đoạn đời
truân chuyên đổ xuống, nghẹn lời trách than
ta khóc em chuyện bẻ bàng
chôn vùi giữa chốn hồng nhan mịt mờ
ta còn đây một vần thơ
tặng nhau chỉ để bên bờ nhớ nhau

chuyện xưa như nước qua cầu
thì thôi xin giữ lấy câu ân tình
làm chim muông dậy bình minh
hót cho nhau khúc tận tình nhớ thương
em về tô lại phấn hương
xóa tan đi khúc đoạn trường năm xưa

lòng ta trãi rộng cho vừa
ôm em vào mộng, đong đưa vỗ về
thơ ta đọng chút tái tê
ru em ngủ giữa bến mê đời nầy
em nằm yên gác đôi tay
trên đồi hoa mộng cỏ cây lặng lờ

Phan Xuân Sinh

***

Trần Văn Sơn
Lá Kinh

Loay hoay góc nhà nghỉ mệt
Vườn sương lũ bướm chập chờn
Ngân nga hồi chuông vĩnh biệt
Chuông chùa cố xứ Thiên Sơn

Chờ xe bên đường niệm Phật
Lao xao phố khói bụi mờ
Gương kinh soi ngang tầm mắt
Soi xa tận cõi nguyên sơ

Thăm rừng nghe chim nói Pháp
Ngẩn ngơ gió núi mây ngàn
Tờ kinh che vòm lá thấp
Nhẩn nha bầy sóc họp đàn

Tỉa cây nghe hoa đọc kệ
Trầm tư hương chữ ngọc trầm
Lá kinh mở trang nhất thể
Hạt gieo đất mới nẩy mầm.

Trần Văn Sơn

***

Du Tử Lê.
Nguyên Đán 1975

Tôi vẫn nghĩ, nếu có những sự kiện đáng ghi nhớ, bị thời gian xóa nhòa hay đánh cắp một cách thô bạo, khi người ta bước vào tuổi già thì, cũng có những sự kiện, thời gian đã cho thấy sự bất lực của nó. Với tôi, đó là những vết chém đã lành, vết sẹo có thể cũng đã nhạt, nhưng không vì vậy mà, con lươn nổi cộm trên da thâm, sẽ teo tóp. Nó vẫn còn đó. Nguyên trạng. Mỗi khi ta vô tình trông thấy, chạm phải hoặc, gặp một mùi hương vô tình dẫn lộ…

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Tới giờ, tôi vẫn không quên (dù không muốn nhớ) một ngày trước Giáng Sinh tháng 12- 1975, buổi chiều, đi làm về, bỏ hộp đựng thức ăn trưa lên quầy bếp, tôi thấy lá thư mang dấu bưu điện, một thành phố ở ngoại ô Paris. Mở ra, bên trong là lá thư tôi chờ đợi mỏi mòn, tuyệt vọng từ hơn nửa năm trước! Ngồi xuống sofa, những dòng quen thuộc, nhưng xiêu vẹo của chị T. tôi, khiến tôi không nén được xúc động.’

Mở đầu, chị tôi cho biết, đã nhận được tin tức của tôi, qua một lá thư tôi gửi cho chị N., ở Pháp, nhờ chuyển về Saigon cho mẹ tôi. Đó là lá thư đầu tiên của tôi, tới tay mẹ tôi, ở Saigon, sau hàng chục lá thư do Hội Hồng Thập Tự cung cấp miễn phí cho người tỵ nạn ở Camp Pendleton. Không hồi âm!!!

Chị tôi nói, lá thư ấy, như một thứ thuốc hồi sinh cực mạnh, giúp mẹ tôi tiếp tục sống được, sau một loạt tin đồn, cho rằng, tôi đã bị bắn chết ở chân cầu xa lộ Đại Hàn. Có người cúi xuống, lấy chiếc ví đựng giấy tờ tùy thân của tôi. Nhưng người đó không biết ai là thân nhân, để trao lại!

Những dòng chữ nhỏ li ti, xiêu vẹo của chị T., như những con sóng dữ nhận chìm tôi cánh bèo tội nghiệp. Biết mình chẳng thể cản ngăn, tôi để mặc xúc động tìm lối đi của nó…

Cũng vậy, Tết Nguyên Đán Bính Thìn, ngày 11 tháng 2 năm 1976, là cái Tết đầu tiên của tôi, ở xứ người. Nó không mang lại cho tôi những giây phút nghẹn ngào như đứa trẻ con bị hắt hủi. Nhưng nó vẫn là vết chém để lại trong tôi, vết sẹo con lươn nổi cộm trên da, sau bốn mươi năm, lưu lạc.

Thời gian đó, gia đình anh Q. tôi được bảo trợ về thành phố Pomona, sau khi tôi được gia đình sponsor, đón về Costa Mesa. Ngôi nhà gần trường OCC.

Khoảng cách giữa Costa Mesa và Pomona không xa lắm. Hiềm nỗi, khi ấy, với tôi, đó là cả một đoạn đường đầy rẫy bất trắc…

Nhớ lại, sau khi ra trại được hơn hai tháng, tôi xin ông bà bảo trợ cho tôi “ra giêng”. Công việc thứ hai của tôi là công nhân dây truyền trong phòng Lab của hãng Rockwell International, ở Newport Beach. Trước đấy, tôi nhận việc ở một xưởng mộc, Santa Ana, với lương căn bản 2 đồng 10 xu / một giờ. Đứng đủ 8 tiếng mỗi ngày, qua tới tuần thứ hai, tôi xỉu tại chỗ… Có được công việc thứ hai, lương gấp đôi, tôi thuê một căn apartment loại duplex, trên đường Harbor, cũng gần trường OCC. Để giữ việc và, giảm bớt những ngày mùa thu lạnh lẽo, co ro nơi mấy trạm xe buýt, tôi mua trả góp một chiếc Volkswagen số tay, cũ. Rẻ. Giống như chiếc Volkswagen tôi có, ở Saigon.

Từ ngày có xe, tôi nhớ chỉ đi thăm gia đình anh chị Q. tôi ở Pomona, đâu dăm ba lần. Đoạn đường tuy không dài lắm, nhưng mỗi lần chạy xe trên xa lộ 57, với tôi là cả một quãng dài căng thẳng, hồi hộp.

Có dễ vì thế mà buổi chiều mồng Một Tết, rơi vào ngày Thứ Ba, khi thấy tôi xuất hiện, anh chị và các cháu tôi, không khỏi bất ngờ.

Leo tới gần đầu cầu thang của căn apartment hai phòng ngủ, tầng thứ hai, chỗ ở của 6 người gồm cả lớn bé, tôi đã ngửi thấy mùi nhang quen thuộc. Một thứ mùi gợi lên sự ấm áp của gia đình VN, những ngày giỗ chạp hoặc Tết nhất. Tôi tự hỏi, ở đâu ra mà chị tôi có thể có những thẻ nhang đó? Mùi thơm làm tôi khựng lại. Tôi hít đầy lồng ngực mùi hương, những tưởng sẽ chẳng bao giờ còn có thể được thở!.!

Bước vào, hình ảnh đầu tiên nhói mắt tôi, là chiếc bàn ăn cũ, phủ khăn trắng. Trên bày một bát ăn cơm, đổ đầy gạo làm bình nhang. Mấy cây nhang cháy dở. Tàn tro rớt trên ba tách trà. Vài chén chè. Con gà luộc ốm nhom, chúi đầu trên chiếc đĩa bày một tệp giấy bản màu vàng sốt rét; in chữ Tàu đỏ. Chúng đợi tiễn chân ông bà theo tục lệ gọi là hóa vàng, sau mấy ngày Tết? Gần đấy, hai cây nến đỏ, cắm tạm trong hai chiếc đĩa nhựa mà, những giọt sáp ứa ra, bám dọc thân nến. Như những giọt lệ chờ góp nốt phần da, thịt cuối cùng của nó, cho ngọn lửa.

Tôi thấy đủ các cháu tôi. (Trừ Trâm đã được bà bảo trợ cha mẹ nuôi lo cho nhập trường Berkeley. Ánh được gửi đi trước 30 tháng 4, trôi dạt đâu đó ở Canada).

Ở một góc phòng, Huân, Hoàng Anh, đang mở cuốn tự điển Anh-Việt bỏ túi, làm bài. Góc đối diện là Yến, Trinh châm chú theo dõi một chương trình gì đó nơi chiếc TV to đùng, đặt trên một chiếc bàn gỗ nhỏ. Anh Q. tôi cũng đang theo dõi TV, từ một chiếc ghế sắt có tựa, kê gần bàn… thờ. Tôi chỉ hơi ngạc nhiên khi thấy Luân, được ông bà bảo trợ giầu có ở Hollywood chở Luân về thăm gia đình.

Không biết vì đâu, mùi nhang thoảng, không tan, tuồng bị cột, níu bởi một quá khứ mơ hồ nào đấy, làm tôi nao lòng. Tôi bất ngờ gặp lại tôi đâu đó, giữa quê nhà (?) Qua tấm kính lớn cửa sổ, tôi thấy những ngọn núi lầm lì vây quanh. Những ngọn núi xa, cao hơn, được tuyết rải lớp muối trắng, xốp. Dưới thấp, dăm cây sồi còn giữ lại được vài chiếc lá, héo. Khi gió thổi tới, những chiếc lá lạc loài, lung linh tiếng thở dài, tựa bài hát không lời, nhấn nhá nỗi buồn, chỉ nó biết!!!

Tôi chào anh Q. Anh tôi vui hẳn; chỉ chiếc ghế con gần đó, bảo ngồi xuống. Tôi “Dạ. Vâng” rồi đi thẳng vào bếp, ôm vai chị Q. Chị đang nấu một nồi canh (?) Nhiều bóng? Xu hào? Tôm khô? Cà rốt sắt nhỏ?

Vẫn nụ cười buồn nhiều hơn vui, từ mấy chục năm trước, chị nói, chị không nghĩ tôi về được ngày Mồng Một Tết. Tôi nói, tôi xin nghỉ nửa ngày vì thế mà về trễ. Tôi hỏi chị kiếm đâu ra mấy thứ “xa xỉ” bày trên bàn…thờ? Chị bảo, cả tháng trước, chị đã phải nhờ người kiếm ở chợ Tàu. “Nếu không thì cũng chịu chết thôi!” Và chị nhắc nhở:

“Em xem có việc gì ở vùng em ở, xin cho chị làm. Bất cứ việc gì. Chị sẽ về Costa Mesa ở với em.”

Chị coi như tôi có khả năng giúp chị thực hiện cái mơ ước đau đáu ấy!?! Tuy nhiên, tôi vẫn “Dạ. Vâng” dù không có một ý niệm gì, trong đầu.

Trở ra, tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh anh tôi. Huân ra khỏi bài tập của mình, kể tôi nghe chuyện bán kem cuối tuần cho một tiệm kem ở downtown Pomona và, những đồng tiền típ… Luân hồn nhiên hơn, liến thoắng kể những mẩu chuyện liên quan tới ông bà bảo trợ. Cu cậu có vẽ hãnh diện khi biết người bảo trợ của mình là một tài tử từng đóng nhiều vai phụ, cho một số phim ở Hollywood. Tôi hỏi thăm anh tôi về việc làm ở một chi nhánh Bank of America, Los Angeles…

Không ai nói hoặc nhắc lại những cái Tết ở Saigon, trước tháng 4-1975. Cũng không ai nhắc tới mẹ tôi, chị T., và anh Du tôi (đã đi tù cải tạo).

Tôi không biết có phải vì bản năng sinh tồn, buộc mọi người phải quên đi? Hay đời sống mới đã lạnh lùng chặt đứt mọi rễ cây quá khứ? Như thể đó là những thứ gì từng được coi là tốt, đẹp, nay, bỗng trở thành hầm mộ tối tăm, phải lấp, bỏ? (Dù giữa phòng vẫn là… bát ăn cơm, đổ đầy gạo làm bình nhang. Mấy cây nhang đang cháy dở. Con gà luộc ốm nhom, chúi đầu trên chiếc đĩa sành. Tệp giấy bản màu vàng sốt rét, in chữ Tàu, đợi tiễn chân ông bà… Và, hai cây nến đỏ, với những giọt sáp ứa ra, bám dọc thân nến. Như những giọt lệ chờ góp nốt phần thịt, da cuối cùng cho ngọn lửa…)
***
Khi dãy đèn thưa thớt chỉ đủ sức hắt những bóng cây cypress tù mù, xuống mấy con đường Pomona rộng thênh, tôi mới bắt đầu lái xe về lại Costa Mesa. Huân, Yến, Hoàng Anh muốn tôi ở lại, sáng mai về. Chị Q. nói chiều mồng ba Tết, cố về. Đó là ngày giỗ anh Uyển tôi – – Người bị máy bay Pháp bắn chết ở Nho Quan năm 1951. Và cũng là ngày “hóa vàng”, đưa ông bà về trời.
Tôi lại “Dạ. Vâng”; dù không nghĩ có thể trở lại.
***
Dò dẫm trên đường về, chiếc xe cũ của tôi lẻ loi bám sát vách đá, dưới chân những ngọn núi được tuyết rải một lớp muối trắng, xốp. Khi gió lay động rừng sồi dưới thấp, sót lại vài chiếc lá héo, nắn ná chưa rụng; lung linh tiếng thở dài, như bài hát không lời, chia buồn năm mới của tôi (?) Lẫn trong tiếng thở dài, tôi nghe được mùi nhang không tan, đâu đó. Tựa chúng bị cột, níu bởi một quá khứ hào hển mơ hồ nào đấy! Hình ảnh mẹ tôi, chị T. và, anh Dư tôi, cũng như vài chiếc lá héo, nắn ná chưa rụng. Âm bản câm. Lặng lẽ hiện rõ trong tôi.
Trong một giây, vô thức, tôi buột miệng: “Con đây! Me ơi!”
Gió buốt thổi vào lòng xe, qua những ke hở, cùng tiếng sóng xa lộ rì rầm, thay mẹ tôi, dội lại.

Gần khuya, về tới nhà, tôi còn tự hỏi, liệu đời sống tôi có giống “…những giọt sáp ứa ra, bám dọc thân nến, như những giọt lệ chờ góp nốt phần thịt, da cuối cùng của mình cho ngọn lửa?” Khi ngày Tết sẽ rất sớm, qua đi. Và, những chiếc lá héo, sót lại trong rừng xồi, dù nắn ná cách mấy, rồi cũng phải rụng! Nhưng, ai sẽ rụng trước?
Tôi cầu xin hãy là tôi. Trước nhất.

Du Tử Lê. 

[/read]

***

Hạt Cát –
Bãi Chiều Sa Mạc

Hồn ta là bãi chiều sa mạc,
Sương khói đùn lên ảo nắng vàng,
Ta đem tim óc đi mài miệt,
Lâu rồi mây vẫn trắng mênh mang!!!

Hoang Mạc Mộ

Ngã hồn hoang mạc mộ,
Yên sương ảo tà huân,
Đái tâm miên mật khứ,
Vân cửu bạch man man!!!

Hạt Cát

荒漠暮

我魂荒漠暮
煙霜幻斜曛
帶心綿密去
雲久白漫漫
沙沙

Hạt Cát
***

Võ Thị Điềm Đạm
Kiểm Thúy

Dũng nhìn quanh căn phòng độc thân của mình, xoa tay thỏa mãn. Gốc bếp nhỏ nhưng vừa đủ tiện nghi cho anh chàng độc thân, tủ lạnh, lò micro, bình nấu nước nhanh, bếp. Sô pha màu xanh dương đậm hơi cũ, khi kéo ra thì thành cái gường đôi, hai người ngủ rộng chán.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Bàn học kê ở gốc phòng coi gọn gàng, không một tờ báo quảng cáo, không một bao thuốc trống như thường ngày. Bộ ly tách cà phê, bình nấu cà phê cũng đã xếp sạch sẽ trên bàn salong. Tủ áo nằm kín sau cánh cửa đã được dọn sẵn một bên trống. Cái ngăn nắp tối đa của một anh chàng độc thân. Nỗi nôn nao lãng bãng càng lúc càng dầy trong cả hai tuần khi nhận được điện tín Kiểm Thúy báo giờ máy bay đến. Trí tưởng tưởng dáng Kiểm Thúy uyển chuyển nhẹ nhàng đi tới đi lui dọn cơm trong căn phòng mưòi lăm mét vuông càng lúc càng sôi động, đậm sắc nơi Dũng. Pha cho mình ly cà phê, nằm dài trên sô pha, Dũng mở TV xem trận đá banh đang diễn ra ở Italia, chờ vợ chồng Thông lại để cùng đi chợ mua thêm một ít cần dùng cho ngày mai.

Có tiếng chuông cửa, chưa kịp đứng dậy thì Thông đã đẩy cửa bước vô, không thấy Thi, vợ Thông đâu, Dũng định hỏi thì Thông bảo:
– Bà xã lo làm thức ăn, bận quá không đi theo mình được. Bà ấy có viết giấy dặn mua sắm đây.
– Làm ly cà phê rồi đi mày.
– Ờ, làm ca đêm, ngủ bù chẳng bằng ngủ đêm. Có sữa đặc không?
Dũng ngần ngại hỏi Thông:
– Mày thấy phòng như vầy được không?
– Thì độc thân vầy là bảnh lắm rồi. Chứ hồi đó tao với mày ở chung với nhau sáu năm trời thì sao?
– Gia đình Kiểm Thúy khá giả, tao sợ Kiểm Thúy chê, thất vọng như những cô khác.
– Thì mày đã cho biết rõ là mày là công nhân, chưa có nhà cửa vì chưa lập gia đình. Mày đâu có những khoe khoang khoát láo nhưng mấy thằng kia. Thành thật bao giờ cũng được lâu dài. Kiểm Thúy qua đây thì lo học tiếng Na Uy rồi vợ chồng ráng đi cày, một năm là mua được nhà. Không thấy vợ chồng tao sao? Bảo lãnh qua, học xong khóa tiếng Na Uy ba tháng là Thi đòi đi làm liền, cũng may tụi tao kiếm được việc làm nhanh. Bây giờ nhà không lớn hơn ai nhưng hai vợ chồng cùng gầy dựng mới thấy quí.
– Tao không biết Kiểm Thúy có chịu cực như vợ mày không.
– Không chịu cực thì cũng phải ráng. Thời buổi này, xã hội này, đâu có chuyện vợ ở nhà cho chồng nuôi. Mà mấy bà cũng muốn đi làm để được tự do, không lệ thuộc vô ông chồng. Đây rồi bà xã đòi đi học lái xe nữa mới mệt chứ. Mấy cô Việt Nam gì chứ nam nữ bình quyền là học đòi mau lắm.
– Chuyến máy bay ngày mai đến sớm, mày đi đón với tao được không?
– Được mà. Tao đã hứa. Đi làm về là tao ghé nhà đón Thi, rồi đi thẳng ra phi trường. Máy bay đáp lúc tám giờ sáng phải không? Thôi mình đi chợ, chút còn đưa Thi đi làm. Thi làm ca chiều. Tâm cũng đi với mày ra phi trường hả?

Kiểm Thúy trong cái quần jeans xanh đậm chật cứng, áo khoát jeans cùng màu, bên trong ẩn hiện cái áo thun màu trắng ngắn gần thấy rún, hay nói đúng hơn nếu Kiểm Thúy dơ tay lên là cái lưng quần jeans trễ thấp dưới rún độ vài centimet sẽ hở ra. Kiểm Thúy tự tin đẩy xe hành lý theo dòng người đi ra, không tỏ vẻ vui mừng rối rít vì sắp gặp người hôn phu hay rụt rè trong hoàn cảnh một thân một mình nơi xứ lạ. Cô cười vui, cố dè chừng như đã thực hiện một cuộc hành trình trên con đường còn dài, không gian nan lắm, chưa tới mức nhưng biết sức mình sẽ đạt đến. Kiểm Thúy nhìn về phía phòng đợi. Dũng cầm bó hoa đứng đó, gương mặt hớn hở như đứa trẻ thấy mẹ về chợ. Cặp vợ chồng Thọ và Thi, lấy nhau theo diện đoàn tụ, cũng do bạn bè giới thiệu. Thi đứng gần như dựa vào chồng, bụng hơi nhu nhú, nét mặt không có gì đặt biệt, hơi quê quê nữa là khác vì mái tóc dài không ra dài ngắn không ra ngắn, thưa mỏng, thả lơ lửng, nhưng trông có vẻ tự mãn, cười tươi, níu tay chồng chỉ về phía Kiểm Thúy. Tâm, bạn Kiểm Thúy, người đã giới thiệu Kiểm Thúy cho Dũng đứng bên cạnh Dũng, có vẻ lo lắng bồn chồn, nhìn Dũng như dò tìm một phản ứng nào đó, rồi nhìn Kiểm Thúy. Không ai để ý đến cái bồn chồn không được vui mấy của Tâm.

Dũng đã về Việt Nam để làm đám hỏi cách đây hơn sáu tháng, trông Dũng không khác lắm, cũng dáng điệu nhà quê dầu đã ở nước ngoài hơn mười năm. Dũng xúng xính trong bộ đồ vét màu xám đậm đen hơi rộng, hơi dài, ống quần dài, cánh tay dài, da vốn dĩ ngâm ngâm tái càng tái hơn trong ánh đèn buổi sáng sớm. Kiểm Thúy đẩy xe hành lý đưa cho Tâm trong ánh mắt hơi ngỡ ngàng của mọi người, nhưng rồi không ai để tâm lâu, ngoại trừ Dũng. Kiểm Thúy nhận hoa từ tay Dũng, nhìn Dũng cười cám ơn một cách lịch sự khách sáo như một ca sĩ trên sân khấu nhận hoa của khán giả ái mộ. Cũng lối chào lịch sự đó, Kiểm Thúy chào từng người bạn của Dũng theo lời giới thiệu. Ai cũng thầm công nhận Kiểm Thúy xinh và lịch sự, không có cái rụt rè của những cô từ Việt Nam mới qua và khen ngầm khen Dũng tốt phước. Dũng rối rít, lúng túng, tay chân thừa thải sau khi đã tặng hoa cho Kiểm Thúy. Anh thọc hai tay vào túi quần, loay hoay với cái chìa khóa xe, sóng vai Kiểm Thúy rời phòng đợi, ra bãi đậu xe. Đi được vài mét, Dũng lại gần Tâm bảo:
– Tâm! Để anh đẩy xe cho.
Tâm nhìn Kiểm Thúy đang đi cạnh mình, Kiểm Thúy gật đầu. Khi tất cả đã lên xe, Kiểm Thúy ngồi phía trước với Dũng, Tâm ngồi phía sau. Xe chạy ra xa lộ, theo hướng về Oslo, Kiểm Thúy nhìn Dũng, giọng ngọt mềm nhưng cương quyết, nói với Dũng:
– Anh đưa Thúy về nhà Tâm. Thúy muốn ở nhà Tâm một vài ngày trước.
Dũng ngạc nhiên:
– Nhưng anh đã chuẩn bị hết cả rồi như anh đã viết thư cho em trước khi em qua.
– Thúy biết, nhưng Thúy suy nghĩ kỹ rồi. Thúy muốn ở nhà Tâm một thời gian để tập làm quen với anh. Tâm đã đồng ý chia phòng với Thúy.
Dũng nhìn Tâm qua kính chiếu hậu:
– Sao Tâm không nói gì với anh?
– Loay hoay nhiều chuyện quá, em quên.
Tâm cười cầu tài.
Dũng thất vọng nhưng biết làm sao đây, chẳng lẽ ép buộc Thúy. Ép buộc để làm gì, bản tính của Dũng không thế. Dũng nói giọng buồn rầu:
– Thôi được, nếu em muốn. Chiều mai vợ chồng Thông Thi làm tiệc đãi mình. Sáng mai anh đưa em đi bác sĩ và nha sĩ. Anh đã đặt giờ. Chiều anh đón em và Tâm qua nhà Thông và Thi, bạn anh. Nhưng em và Tâm đừng nói cho ai biết là em về ở với Tâm.
– Dạ! Thúy hiểu.
Suốt đường từ phi trường về nhà Tâm ở Furuset, gần ba mươi phút. Kiểm Thúy chỉ trả lời cầm chừng những câu hỏi của Dũng. Buổi nói chuyện đầu tiên của vợ chồng Dũng và Kiểm Thúy diễn ra như một cuộc phỏng vấn mà người được phỏng vấn chỉ muốn trả lời cho xong chuyện. Dũng không còn nhận ra Kiểm Thúy duyên dáng và vui tính như những ngày mình về Việt Nam làm đám hỏi cho đúng thủ tục nước Na Uy đòi hỏi khi bảo lãnh vợ. Cô Kiểm Thúy với giọng cười trong thanh, đùa giỡn với bạn bè, thỉnh thoảng phóng tầm mắt về Dũng như dò chừng, như sợ Dũng biến mất, làm Dũng cảm thấy mình là nhân vật quan trọng. Một vai trò mà trong mười năm ở Na Uy Dũng chưa bao giờ cảm nhận trong những buổi tiệc tùng sinh hoạt cộng đồng. Ở đó Dũng tận tâm giúp đỡ âm thầm như một bổn phận, như một đương nhiên của bao thanh niên an phận khác, thán phục những lời văn hoa bóng bẩy của những người chỉ biết đến để làm nổi bật vai trò quan trọng của riêng mình.

“Chắc Thúy mệt” Dũng tự an ủi mình khi Dũng trở về căn nhà độc thân đã được dọn dẹp sạch sẽ để đón Kiểm Thúy. Căn phòng sao trống trơn thế này? Căn phòng tưởng sẽ có tiếng cười Kiểm Thúy, mùi thức ăn sẽ được hâm nóng trong bữa cơm chỉ có hai người ở cái bàn học sẽ được trưng dụng làm bàn ăn. Buồn dần dật, Dũng lôi hai chai bia trong tủ lạnh, nằm trên ghế sô pha dài vừa xem TV vừa ăn chả lụa, chẳng thiết tha gì đến cơm nước. Đầu óc chân thật, kém học của Dũng không giải thích được lý do tại sao Kiểm Thúy không muốn về ở với mình ngay. Dũng chỉ nghĩ theo bản chất chân tình của người dân quê Gò Công: “Chắc Thúy mắc cỡ? Mà mắc cỡ gì nữa! Đã làm hôn thú. Thúy qua đây vì mình bảo lãnh theo diện vợ mà. Ba má mình và ba má Thúy ở Việt Nam cũng đã làm thông gia. Biết nói sao với bạn bè đây? Thôi cứ dấu, chừng vài ba ngày cho Thúy quen nước quen cái là Thúy chịu theo về nhà mình. Chờ hơn sáu tháng nay, bây giờ chờ thêm vài ngày nữa cũng không sao. Con gái bên Việt Nam thùy mị kín đáo chứ đâu như mấy cô bên đây, mới bồ bịch là đã về nhà người ta ở ngày ở đêm rồi.” Tuy nhủ thầm tự an ủi mình như thế, nhưng Dũng vẫn còn mang máng nghi ngờ một cái gì đó mong manh không thành hình.
Chiều đó, ở căn nhà độc thân của Tâm, Tâm ái ngại nhìn Kiểm Thúy:
– Ta sợ anh Dũng biết được ý định của mi, anh không chịu tiến hành cho xong thủ tục định cư.

Kiểm Thúy tự tin:
– Nếu ông Dũng đủ khả năng để làm chuyện đó thì ông đủ thông minh để hiểu rằng cở như ông ấy ở Việt Nam chỉ đáng xách dép cho ta. Ông cứ tưởng mang cái tiếng Việt Kiều là muốn chọn cô nào thì chọn đâu.
– Ta giới thiệu, ta nói vô dữ lắm, anh Dũng mới chịu chứ đâu phải như mấy người kia. Hay mi cứ ráng thử, xem tình cảm của mi với anh Dũng có khả quan hơn không?

– Tại sao phải chờ tình trạng khả quan? Khả quan để làm gì? Ta đã quyết định từ
Việt Nam rồi. Mà thôi, tới đâu hay tới đó. Ta có cách kéo dài. Ngày mai mi đưa ta đi ghi
danh học khóa tiếng Na Uy, sớm chừng nào tốt chừng đó.
– Không được, anh Dũng đã đặt giờ cho mi khám bác sĩ, khám răng ngày mai. Ta thấy anh Dũng chuẩn bị chu đáo cho mi mà mi và ta âm thầm đi theo con đường mình đã tính toán, ta thấy sao bất nhẫn quá.
– Con trai năm thê bảy thiếp. Không lấy được ta thì chờ ba năm nữa bày keo khác. Ở Việt Nam thiếu gì người muốn có chồng Việt Kiều, mặc sức mà lựa chọn. Ta, Kiểm Thúy, lắm kẻ đưa đón, gia đình không đến nổi nghèo, làm sao mi có thể tưởng tượng là ta sẽ có một ông chồng cao chắc được thước sáu là cùng, nhà quê từ đời ông cố, làm công nhân của một hãng nước ngọt nào đó.
– Nhưng mi phải hứa là đối xử với anh ấy lịch sự đàng hoàng cho đến khi anh hoàn hồn. Và phải nhớ là trong thời gian ba năm đầu nếu anh ấy đòi ly dị là mi bị đuổi về Việt Nam đó nhá.
Kiểm Thúy ngáp mệt mõi:
– Ta không vô ơn, tiếc rằng ta không thể yêu thương ông Dũng ngay từ lúc xem hình và ta cũng không thể tự ép ta được. Ta sẽ không làm ông Dũng mất mặt với bạn bè. Mi hiểu dùm, ông Dũng chỉ là bước cầu cho ta mà thôi, nhưng ta không quay lưng chặt đứt dây cầu đâu.
Kiểm Thúy nằm nghĩ ngợi một lát rồi xoay qua Tâm:
– Mà mi coi cái xe của ông Dũng có thảm không, Toyota, chắc đời 85. Chủ nào xe nấy, qua đây mười năm rồi mà không nhà không cửa.

Sáu tháng trôi qua đúng như dự tính của Kiểm Thúy, nhưng ngoài sự dự đoán, sắp xếp của Dũng. Kiểm Thúy đem theo tiền đủ để chung sống với Tâm trong thời gian còn học khóa tiếng Na Uy. Thêm vào sự trợ giúp tiền bạc của Dũng, Kiểm Thúy kịp ăn diện theo thời trang một cách nhanh chóng. Kiểm Thúy hòa nhập nhanh vào nếp sống văn minh từ cử chỉ, cách giao tiếp, lối ăn mặc. Chứ không như những người ở Việt Nam mới qua, dầu là xuất thân từ Sài Gòn vẫn còn mang dáng dấp rụt rè, mang mặc cảm thua kém, ăn mặc có vẻ quê mùa như thế nào đó không ai có thể diễn tả được, cả năm trời. Sau khi học xong khóa Na Uy bốn tháng, Kiểm Thúy xin ngay vô khóa học nghề phục dịch nhà hàng, khách sạn nhờ vốn liếng tiếng Anh lấp lững đã học trước ở Việt Nam và dáng dấp khá lịch sự. Khi học khóa này thì học viên được cấp học bổng sống khá dư dả. Khóa học kéo dài hai năm.

Lý do thật giản dị mà Kiểm Thúy dùng để giải thích tình trạng vợ không ra vợ, chồng không ra chồng của mình với Dũng:
– Thúy muốn mình lấy nhau vì tình yêu thì tình vợ chồng sẽ lâu dài và đúng nghĩa của nó hơn. Thúy cần thời gian. Anh hiểu cho Thúy.
Dũng không hiểu cũng không được, đành biện luận:
– Chứ vợ chồng Thông với Thi, cũng lấy nhau theo diện bảo lãnh. Tụi nó sống hạnh phúc, đồng vợ đồng chồng, xây dựng nhanh chóng, không thua gì những cặp vợ chồng lấy nhau ở đây.
– Mỗi người mỗi khác. Thúy coi trọng tình yêu trong tình vợ chồng.
– Anh biết nói sao với ba má, bạn bè anh đây, ba má em nữa.
– Ba má Thúy thì để Thúy liệu. Mình đang trong thời gian tìm hiểu mà, anh đừng nói gì với ba má anh cả.
– Rồi lỡ một thời gian em không thấy yêu anh được thì sao đây.
– Đó là tùy anh. Thôi anh cho Thúy về, Thúy phải lau vườn trẻ mất cũng ba tiếng chiều nay.
– Để anh phụ với em.
– Hôm nay anh đi làm ca tối mà.
– Kệ, vô hãng tìm chỗ nào, trốn ngủ nửa tiếng là lấy lại sức.

Kiểm Thúy khôn ngoan, Dũng chân thật. Tình trạng lưng chừng kéo dài được hơn chín tháng thì Kiểm Thúy quen Hùng làm việc cho hãng Norsk Data, một hãng đang lớn mạnh, với chức vị kỹ sư trưởng phòng. Kiểm Thúy giải thích tình trạng của mình và Dũng như Thúy đã dự tính: Tình yêu không đến được, mặc dù Kiểm Thúy cố thử lòng mình mấy bận.
Hùng tìm gặp Dũng tại căn nhà Dũng. Trong căn phòng có lẽ Thúy đang chung sống với Dũng. Hùng trình bày tình yêu của anh và Kiểm Thúy, mong sự thông cảm của Dũng. Ngồi trước ly rượu, Dũng buồn buồn nói với Hùng:
– Tôi cũng đã đoán được hoàn cảnh này, không sớm thì muộn cũng sẽ đến thôi. Tôi định nói chuyện với Thúy để làm sáng tỏ tình trạng hai đứa và tôi không có ý định ly dị để Thúy phải bị đuổi về Việt Nam. Nếu không gặp anh thì Thúy cũng gặp người khác. May cho Thúy là anh đứng đắn, có chức vị. Số tôi là số bắt cầu cho thiên hạ. Tôi lo thủ tục ly dị khi nào anh chuẩn bị lo thủ tục hôn thú.
Đêm đó, hai người nói chuyện với nhau đến khuya, chuyện thể thao, chuyện chính trị, chuyện Việt Nam…. như đôi bạn thân. Hùng ra về trong tâm trạng nhẹ nhõm, yêu đời, hãnh diện với người yêu dịu dàng thanh lịch mặc dù gia đình không được hài lòng lắm vì nghĩ rằng con mình dầu gì cũng là một kỹ sư trưởng mà phải lấy vợ thừa của người khác. Hùng tự nhủ: Kiểm Thúy hiền lành, thông minh thì không bao lâu cũng lấy được lòng ba má mình. Tình yêu đâu có bắt buộc được, Kiểm Thúy nghĩ và làm như thế là đúng. Vợ chồng phải được xây dựng bằng tình yêu thì mới bền vững. Chỉ tội cho anh chàng Dũng thôi. Số phận cả, bắt cầu cho mình đi.

Dũng ngồi nhâm ly cho hết chai rượu, nghêu ngao hát :
Tình đời thay trắng đổi đen…
Tình đời còn lắm bon chen….
– Mà người ta có yêu mình đâu mà than là thay trắng đổi đen. Ừm…

Không! Tôi không còn tôi không còn yêu em nữa, không tôi không còn tôi không còn yêu em nữa em ơí!
– Thiệt không đó cha!

Dũng thiếp dần trong căn nhà của mình mà chín mười tháng trước đã chứng kiến những ước mơ chia sẻ cơm ngon canh ngọt, những ước mơ chăn gối của anh chàng độc thân chân thật.

Võ Thị Điềm Đạm

[/read]

***

Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Người Đã Đi Rồi…

Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra ngoài hiên, nơi vừa có một tiếng động nhỏ, khẽ thôi, dường như là tiếng lá rơi xuống mặt đất và mắt nàng vấp phải tia nắng vàng xuyên qua nhánh lá Thông Thiên rọi nghiêng trên thềm cửa. Không nghĩ gì hết nhưng nàng chợt ngừng lời, nhìn có vẻ chăm chú vào chút ánh sáng nhàn nhạt đó một lúc trước khi quay lại nhìn anh vẫn còn đang chờ nghe:
-…Em vừa nói đến đâu rồi nhỉ?
Anh nhắc:
-…Con người có duyên số và em tin như vậy…

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Nàng gật nhẹ:
-Đúng là có duyên số, nếu không tại sao có những chuyện không ai phụ ai, lòng cứ đau đáu nghĩ đến nhau vậy mà phải lỡ dở…
-Như chuyện của chúng ta phải không?
Nàng mỉm cười:
-Anh nghĩ chúng ta có trong trường hợp đó ư?
-Đúng vậy em ạ!Nếu không làm sao mình còn có thể ngồi trước nhau như hai người thân thiết sau tất cả những gì đã mất.
Nàng im lặng.
Đã xa lắm thời tình nhân nồng nàn.Cơn đau chia lìa đã êm như cơn lũ đi qua rồi, mặt sông lại phẳng yên, nhưng trong lòng sông vẫn còn sỏi đá ngầm.Nhưng trong lòng nàng bao nhiêu hình ảnh thời gian không thể tước đoạt, bôi xóa đi. Nên khép mi lại nàng vẫn có thể nhìn vào trí nhớ của mình, nơi ấy dĩ nhiên còn giây phút anh nắm tay nàng bùi ngùi:
-Chỉ còn một cách để vượt qua trở lực của gia đình là chúng mình phải cùng nhau đi khỏi đây một thời gian…khi trở về…mọi chuyện sẽ đâu vào đấy…
Nàng khẽ lắc đầu, không tỏ lộ sự mềm yếu nhưng trong lòng nàng là nỗi bi ai khó thể diễn tả. Nàng nói với anh, bằng suy nghĩ bấy lâu và cũng là trở lực của chính nàng:
-…Trong gia đình này em là một người chị, phải gương mẫu cho một bầy em gái nhìn vào, em sẽ làm sao khuyên dạy em mình trong khi chính em lại vi phạm vào những lỗi lầm, đó là lý do em không dám làm theo lời anh nói. Với em cách duy nhất là phải chờ đợi.
-Chờ đợi? Anh nghĩ rằng em chưa thật sự yêu anh, tình yêu có thể sống bằng sự quá tỉnh táo của em sao?
-Nhưng không có nghĩa sự mù quáng mới nói lên một tình yêu đích thực.
Sự bất đồng ấy khiến anh và nàng giận hờn nhau, dù không nói lời chia tay nhưng người này tránh mặt người kia, đến khi nàng nhận ra sự trống vắng trong tim mình vì thiếu anh thì đã muộn. Anh đã như cánh chim vút bay ra khỏi chiếc lồng tình yêu của hai người, khuất xa chân trời…
Để xua đi dòng ký ức tuôn về, nàng rời chỗ ngồi để lấy ra một tấm ảnh cũ có dòng chữ phía sau “Ngày di hành trong tuần lễ thứ 5. Tặng em”. Trao tấm ảnh cho anh, nàng hỏi:
-Anh còn nhớ tấm ảnh này không?
-Đó là nét chữ của anh, sao không nhớ!
-Em trả lại cho anh đó. Nón sắt, ba lô, giày saut, áo trận. Hình ảnh mà em từng yêu quí! Giờ không còn là của em nữa…
Anh nhìn chăm chú vào tấm ảnh đen trắng, người tân binh ôm súng ngồi bên chiếc lều dã chiến trên đồi Tăng Nhơn Phú:
-20 tuổi! Một phần ba số tuổi của mình bây giờ. Ngày ấy lên đường vô tư biết bao…
Anh chợt nhớ một giai điệu xưa kia nàng hay hát:
-…Em còn nhớ bài hát “Đời là vạn ngày sầu…”…
Nàng cất giọng khe khẽ tiếp lời anh:
-…biết tìm anh lối nào, ta quen nhau bao lâu nhưng tình đã có gì đâu…
Nàng lấy cây đàn Guitar bấm một hợp âm, rồi hát như vẫn thường một mình trong những đêm quạnh quẽ. Tất cả đều đã muộn, đâu còn lối nào cho nàng quay lại ngày xưa để chọn một quyết định khác. Anh quẹt nhanh hai mắt mình rồi chớp chớp mi, lãng tránh ánh mắt của nàng.
-…đã có lúc nào em thấy hối tiếc vì đã từ chối anh?…
Nàng gật đầu, thú nhận:
-Có chứ anh, rất nhiều lần mỗi khi hồi tưởng lại.Nhưng chỉ là lúc xưa thôi, còn bây giờ,…thời gian có thể xoa dịu nhiều thứ mà.
-Ngày ấy anh là một kẻ sa cơ lỡ vận, cứ khư khư ôm mặc cảm. Chỉ biết suy nghĩ cho mình mà không chịu suy nghĩ cho hoàn cảnh của em, bởi thế anh ra đi mà không hề biết em sẽ ra sao trong những ngày ấy. Anh…anh thật đáng trách.
Nàng an ủi anh:
-Chuyện đã qua lâu rồi, mọi thứ chẳng phải đang rất tốt đó sao?Anh đừng bận tâm nữa, em rất hiểu tâm trạng của anh hiện giờ. Nhưng hãy để cuộc tái ngộ này là để bỏ qua những lỗi lầm (Nàng cất tiếng cười nghe nghẹn nghẹn) Và nếu còn sống để còn gặp nhau lần nữa, anh biết lúc đó chúng ta sẽ thế nào không?
Anh hỏi lại:
-Thế nào hả em?
-Anh hỏi em (Nàng giả giọng run run của người già) Bà có khoẻ không? Em trả lời anh: Cơm đâu mà ăn, tui chưa..nấu!
Anh cười theo nàng:
-Vì nghễng ngãng quá rồi em nhỉ?
-…thật ra chúng ta chia tay do duyên số một phần, cái chính là do tính tình của em và anh có quá nhiều điểm tương đồng…
Anh ngạc nhiên:
-Sao lại vì quá tương đồng?
-Đúng đó anh ạ. Lúc ấy tính tình của em và anh quá giống nhau ở chỗ “Nông nổi, tự ái, ích kỷ và cố chấp!”
-Em còn có thể pha trò sao?
-Cũng may mà mình còn cơ hội gặp lại để cởi mở lòng mình…
-Anh muốn biết một điều.
-Anh hỏi đi!
-…hiện giờ em nghĩ sao về anh?
-Nghĩ về một người đang có một cuộc sống vật chất đầy đủ, tự do làm cái mình muốn, nếu đừng mơ mộng những điều viễn vong, bằng lòng với những thứ mình có thì người bạn cũ này của em đang hạnh phúc. Em thật lòng mừng khi anh được như vậy.
-Chỉ vậy thôi sao?
-Còn có thể nào khác? Khi hai chúng ta đang đứng ở hai ngả đường, có chăng là đang cùng nhìn lại một thời quá cũ, đến nỗi nhiều hình ảnh đã nhạt phai. Cuộc đời này quá buồn, đeo mang thêm một nỗi niềm là tự đưa tâm hồn mình vào ngõ cụt. Giờ thì em nghĩ sao về anh ư? Em nghĩ anh đã khôn ngoan trong quyết định của mình, nếu xưa kia anh không rời xa em, thì bây giờ cuộc sống của anh có thể rất bế tắc.
-Dù rất muộn, nhưng anh vẫn muốn nói lời xin lỗi em.
-Em hết giận anh lâu rồi, nên lời xin lỗi không cần đâu anh…
Nàng tiếp tục chăm chú vào những dây đàn “…ôi! ước mơ nhiều cũng thế thôi, đời chỉ làm bạn cùng sương gió, nghe gió đêm từng cơn ru cô đơn…”.
Buổi trưa này bất chợt, thấy những bóng nắng xuyên qua nhành cây bên hiên nhà, gió thổi nhẹ vài chiếc lá tình cờ rơi xuống tạo nên những thanh âm mơ hồ như không thực. Làm sao biết đó là chiếc lá nào trên những nhánh cây đã khô héo qua bao mùa mưa, nắng. Nàng muốn giữ, không bao giờ muốn lãng quên dù trái tim này đầy chật, ứ tràn. Dù chẳng còn gì ngoài những dòng chữ in hằn trên giấy, ở đó nỗi lòng nàng phơi bày. Tình yêu nào như gió thoảng, như hương tan. Người lại mịt mờ xa ngái chân trời. “Nhưng thôi, tiếc mà chi chim rồi bay, anh rồi đi…”
Nàng nghiêng mặt vào mái tóc, đôi vai rung lên vì cảm xúc đang che giấu. Anh đến như đem thêm nỗi buồn để nén chặt vào vết hổng trong tâm hồn nàng, nhưng điều ấy chỉ một mình nàng không ai biết, không ai hay.
***
Một sáng nào thức dậy, thấy một sợi tóc bạc bơ vơ nằm trên gối. Sợi tóc đã theo nàng chuyên chở những nỗi buồn, đau đớn của phận làm người. Sợi tóc rơi xuống như chiếc lá vàng úa rơi trong một buổi thu tàn báo hiệu mùa đã vãn. Làm sao mà biết đó là sợi tóc nào trong mái tóc dài rũ trên vai nàng suốt một thời thanh xuân. Vâng! Làm sao mà biết được, như trong vô vàn ảnh hình trong quá khứ, có dấu yêu nào đã phai mờ mà tôi không hay! Tôi phải giữ lại bằng cách nào khi thời gian quá dài có lúc sẽ vô tình tẩy xóa.
Nàng nằm im úp mặt vào gối, biết một nơi nào đó xôn xao, anh đang chuẩn bị lên đường với những tình thân tay bắt. Anh có dõi mắt tìm kiếm dù biết có một người không đến? Người ấy đang đứng trên dốc cao cuộc đời mình nhìn xuống phía bên kia, ở đó sương mù trùng vây, mịt mờ hư ảo.

Hồ Thụy Mỹ Hạnh 

[/read]

***

Trần Phù Thế
Đuổi Bóng

ta mòn hơi chạy hoài theo bóng
đuổi càng xa càng mệt thời gian
em cứ chạy và ta cứ đuổi
bóng của ta hay bóng mây tàn

có một bận ta gần bắt kịp
đưa bàn tay nắm chặt thấy như
trong hư vô nghe tiếng giã từ
nghe ảo vọng cuộc đời huyễn mộng

cũng có lúc thấy lòng sung sướng
chạy lòng vòng chẳng có lối ra
em càng xa ta càng gắng sức
từ bình minh cho tới chiều tà

rồi bóng ta bóng em thành một
chạy trên đường vĩnh cửu ngàn năm
chạy hoài chạy hoài không biết mệt
và cuối cùng ta và em và hết

Trần Phù Thế
***

Phạm Ngọc Lư
Hải Vân

Uy nghi Hải Vân !
Cõng đá đeo rừng vút lên muôn trượng
Bạt gió đè mây ngất ngưỡng
Nguy nga đệ nhất hùng sơn

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Ngạo nghễ Hải Vân !
Chót vót tầng tầng sánh vai trùng điệp
Núi đứng ngang trời lẫm liệt
Xuân thu tề tựu mây chầu
Sá gì dâu bể bể dâu
Núi vẫn trơ gan đạp ngang biển cả
Bắt sóng rửa bàn chân chai đá
Dựng chơi một dãy trường thành
Chặn đường thiên lý
Khiếp vía lữ hành
Trăm ngựa chồn chân
Ngàn xe thở dốc
Hun hút rừng sâu cây xanh mặt
Cheo leo lưng núi đá rùng mình
Đèo cao lơ lửng
Trời biển chênh vênh

Kỳ vĩ Hải Vân !
Chớn chở chập chùng
Oai nghiêm sừng sững
Ngươi mượn biển Đông ngắm hình soi bóng
Hiên ngang toan mở lối lên trời
Vẽ gió vờn mây hí lộng
Đổi thay sắc diện liên hồi
Lúc bí ẩn thâm nghiêm
Khi im lìm kỳ ảo
Ngươi uốn mình chơi vơi thượng đạo
Cong lưng thắt ruột đường đèo
Xẻ vực sâu thăm thẳm
Dựng vách đá hiểm nghèo
Trông lên chất ngất
Ngó xuống mịt mùng
Biển trời ngờm ngợp thinh không
Nhớ ra hình hài cát bụi
Thanh trọc bao phen chìm nổi
Phế hưng mấy cuộc tồn vong…
Ôi… Hải Vân, Hải Vân !
Hẻm núi hốc rừng ngàn xưa hung bạo
Chiều nay lau lách đìu hiu
Ai người khai sơn phá thạch ?
Xả thân chém đá mở đèo
Xưa đồn ải nào ai trấn thủ ?
Nay đầu ghềnh khắc khoải chim kêu
Mơ hồ bóng người lính thú
Tạc vào gạch đá hình rêu
Giăng giăng quan ải mây hoài cổ
Bàng bạc sơn đầu khói đăm chiêu
Mây trắng mênh mang
Biển trời vòi või
Nhân thế về đâu chập chờn sáng tối
Hồn xưa phương nào ấm lạnh u minh ?

Quạnh quẽ Hải Vân !
Đâu dấu chân người ngàn năm trước
Núi trông mây, mây ngó núi u hoài
Đèo cao co thắt từng khúc ruột
Thiên cổ qua về… ai nhớ ai ?

Phạm Ngọc Lư

[/read]

** *


Songthy
Hoa Thương Sắc Nhớ

Lúc nào người nghĩ đến tôi
Nhìn màu hoa trắng thả trôi nỗi buồn
Phiến đêm kỷ niệm du hồn
Trôi theo sông nhớ dỗi hờn sóng thương

Bềnh bồng tim tím tỏa hương
Ẩn vùng tóc rối vấn vương sợi sầu
Bây giờ hoa tím nơi đâu?
Mơ tình dang dở hạt ngâu rụng về

Ước gì còn mãi đam mê!
Để không trăn trở câu thề ngày xưa
Nhớ quên quên nhớ chiều mưa
Sắc hồng cánh mỏng tím chưa quên người

Phù vân trăm nhánh ngang trời
Nhánh nào nghiêng xuống tình tôi thiếu thừa…

Songthy

***

Phạm Tín An Ninh
Ba Dòng Nước Mắt

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận đuợc thư Bình, thằng bạn thân tình từ thời nối khố. Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31. Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:
“Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm một chỗ bình yên.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với mày. Bởi tao nghe mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích hợp cho những người cần một nơi để chửa trị những vết thương khó lành được trong lòng.
Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt..”

Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình. Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp lại, tha hồ mà kể chuyện xưa. Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một nơi xa tít mịt mùng ?

Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.
***
Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường làng, rồi lên trường huyện. Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần “inh”. Trong lớp bạn bè thường gọi bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang Trung đại đế, cái nơi nổi tiếng “con gái cầm roi đi quyền” đó nó ra sao. Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía sau hè. Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân. Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá. Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài gòn, trong lúc kinh tế gia đình đang lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng rủ nhau vào lính. Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần tượng của bọn tôi từ lâu lắm. Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không vui. Vì kể từ hôm nay, không còn “chúng mình ba đứa” nữa. Tôi tiễn hai thằng đến Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn gói vào Sài gòn học tiếp.

Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc đứng bên cạnh một chiếc F 5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó. Sau khi về nước chỉ có thằng Bình được lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.

Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu động cho Quân Đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có mặt. Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích delta trong các vùng địch. Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang. Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ được một tuần “anh về với em rồi anh lại đi”. Có lẽ nhờ vậy mà nó có khá nhiều mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc được trên các tần số không lục.

Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt lắm.
Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi nhà phía trước “thăm dân cho biết sự tình”, không ngờ “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”, đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà. Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm phụ rể.

Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận. Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi và chai rượu đế. Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra, nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị. Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc. Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường ba hoa với đám bạn bè.

Chỉ có thằng Bình là “số đẻ bọc điều”. Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng vẫn quanh quẩn ở Biên Hoà, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói. Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo “tán”, sau các buổi tan trường.

Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một vài hôm. Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, phi đoàn Thần Tượng ở Nha Trang có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi chợ. Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường. Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà giàu. Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành. Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng rất tự hào do chính tay mình nấu : cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao “đừng nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng” như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.
Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate. Khách khứa lên đến trăm người.

Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi “xác thân đã nhuốm mùi trần tục”, một vợ mấy con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón khách.
Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển. Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói “lắm mối tối nằm không”, đến ngày mất nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.

Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang rồi Biên Hoà. Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau như cái thời còn đi học. Mỵ Khê, bà xã của Bình cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hoà lẫn tiếng khóc của trẻ thơ. Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.

Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng cầm chân địch hơn một tuần. Biên Hoà bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà Nóc tránh pháo. Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một thằng bạn cùng khoá, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

Ngày 29.4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập, cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng. Anh em trong phi đoàn ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển..
Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường. Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội, bảo Bình thu xếp gấp về Sài gòn để kịp đưa vợ con đi. Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của nó được đặt dưới quyền của tướng tư lệnh Nguyễn Khoa Nam. Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.

Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày,thì biết tin Sài Gòn thất thủ. Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang Thái Lan.
Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện “học tập cải tạo” bất ngờ gặp Bình. Trong cái cảnh “nước mất nhà tan” này mà có được một người bạn thân thì cũng vơi được nỗi buồn. Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em. Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống trên phi cơ.

Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc mỗi thằng bị chia mỗi ngả. Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với những người khác trong vùng. Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.

Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên. Trong trại tỵ nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ chức vượt biên. Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.

Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina lúc 9 giờ rưởi tối. Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ. Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế “ứng chiến” để đối phó với những điều bất trắc. Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng khoá chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định, nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box. Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.

Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn còn hàng ria mép. Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng. Ở cách xa nhà vợ chồng Bình chừng hai mươi phút lái xe.

– Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng cháu nói bọn nó nghe.
– Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trưóc khi gặp vợ chồng Bình. Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử sao cho thích hợp.

Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á châu.
– Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.

Ông bảo người con gái đứng trong quày mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự :
– Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè, Nó hết lòng lo lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quần. Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì Bác mà gây nên cớ sự. Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào. Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó. Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống, chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết. Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai Bác gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.

Tôi đưa tay xin ngưng lời bác.
– Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác ?
– Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với Mỵ Khê sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi “mu” qua Hawaii. Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ không buồn. Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè. Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.
– Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác ?
– Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư. Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì trong đó. Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ bác.
Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.
Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó. Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.

Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi. Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự thâu đêm. Tôi chưa biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự.
– Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới này. Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người. Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng.
Mong nó trở về đây. Cháu Lina, con gái của tao cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống
– Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao ?
– Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.
– Bây giờ mày tính sao ? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày ?
– Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.
– Còn mày thì sao ?
– Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Nauy ở với mày là phúc cho tao. Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu không được thì tao lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu Lina, cho dù trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.

Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những dông tố trong đời. Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy dài trên má. Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ hello, mà nó đã thường xài từ lúc còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.

Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì. Riêng tôi đang hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.

Sáng nay, chủ nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo. Bốc ống nghe chưa kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu giây giọng nói quen thuộc của thằng Định :
– Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.
Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình :
– Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ chồng thằng Định đây. Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận. Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của nguời cùng huyết thống, nên tao theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu. Bác sĩ bên này giỏi thật.

Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi. Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn có nhiều thời gian để tâm tình với cha của nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi tao cho vui.

Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà :
– Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối. Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen vào :
– Hello, Ninh ! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.

Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.

Phạm Tín An Ninh

[/read]

***

Chạm Cửa Mùa Thu – Túy Hà

chớm thu dạ lý ra hoa
hương đưa quấn quýt thoảng qua hiên nhà
chạm vào nỗi nhớ vườn xa
mùi quen một thuở quanh ta sớm chiều

hoa thơm ủ hương người yêu
dỗi hờn giọt nắng thềm rêu hững hờ
biết là người chẳng đợi chờ
tình theo xác lá chạm hờ bến mơ

cho tím thu rụng vào thơ
rải trên cỏ lạnh mơ hồ vây quanh
cây nghiêng, mây tụ nặng cành
gió đùa tóc rối sắc xanh nhạt nhòa

cuối thu hơi lạnh dồn qua
chỉ là len lén như là gió đông
ừ thì chắc từ xa sông
quên đò bỏ bến trống không những chiều

những chiều thu biệt dấu yêu
ta đi người ở nói điều gì đây
bờ xa sông cạn gió lay
buồn lên hàng liễu đêm ngày nhớ mong

dường như có sóng trong lòng
còn đâu dạ lý vườn không quê nhà
hương hoa cũ mùi thịt da
gom thành nỗi nhớ kinh kha ngậm hờn

ngọn dao trích huyết không sờn
cắt ngang điểm dọc cuộc chơi đã tàn.
cám ơn hoa quyện khói nhang
tiễn ta qua ải gian nan đời này.

Túy Hà

***

Sáng Nói Cùng Cây Cỏ – Phạm Tương Như

Sáng nghe hoa nói với môi
Mùi hương thơm thoảng từ hơi thở nồng
Em hiền dạ ngọc trắng trong
Gieo mầm thương nhớ vào lòng riêng anh

Triệu con mắt lá ngát xanh
Đẫm sương nắng sớm long lanh cúi chào
Ướt tình ánh mắt em trao
Hồn anh say đắm dạt dào tiếng thơ

Con đường tình sử nằm mơ
Ngàn bông hoa dại ngẩn ngơ bướm vờn
Má hồng áo trắng môi son
Mướt xanh lục diệp lá non mởn đời

Thấy em cùng khắp đất trời
Thiên nhiên hoa lá gọi mời riêng anh
Anh còn nguyên cái thiên thanh
Ôm em dỗ giấc mộng lành se duyên.

Phạm Tương Như

***

 Hoa Thương Sắc Nhớ – Songthy

Lúc nào người nghĩ đến tôi
Nhìn màu hoa trắng thả trôi nỗi buồn
Phiến đêm kỷ niệm du hồn
Trôi theo sông nhớ dỗi hờn sóng thương

Bềnh bồng tim tím tỏa hương
Ẩn vùng tóc rối vấn vương sợi sầu
Bây giờ hoa tím nơi đâu?
Mơ tình dang dở hạt ngâu rụng về

Ước gì còn mãi đam mê!
Để không trăn trở câu thề ngày xưa
Nhớ quên quên nhớ chiều mưa
Sắc hồng cánh mỏng tím chưa quên người

Phù vân trăm nhánh ngang trời
Nhánh nào nghiêng xuống tình tôi thiếu thừa…

Songthy

***

Sinh Nhật Thằng Lính – Yên Sơn

Hôm thằng lính nghỉ làm, cùng chúng tôi đi ra ngoài ăn tối. Trong bữa ăn, thằng lính ngỏ lời:
“Ít hôm nữa là sinh nhật của con, con không muốn quà cáp, cũng không muốn đi ăn tiệm như mọi lần mà con chỉ muốn đi làm thiện nguyện.”
“Làm gì, ở đâu con?” Mẹ nó hỏi.
“Con muốn tới Keagan, Houston Food Bank ở đường I.10, giúp đóng hộp phần ăn cho con nít nghèo. Con nít nhà nghèo đi học trường cho ăn miễn phí; tới mùa hè không đi học nên đói. Người ta tổ chức phát phần ăn cho những đứa trẻ này.”
“Ba có nghe nói.”
“Ba muốn đi với con không?”
“Ừ! Ba đi với con.”
Lòng tôi chợt hân hoan. Lâu lắm rồi không cùng với thằng lính làm một việc gì công ích.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Trước ngày sinh nhật một hôm, thằng lính nhắc lại tôi ghi danh với Keagan. Tôi nhờ nó giúp tôi ghi danh cho lẹ. Nó nói “Ba tự tay ghi danh để biết mình muốn làm việc gì, ở khu nào.” Tôi nói, “con làm chỗ nào Ba làm chỗ đó, con ghi giùm Ba luôn.” Nó ghi danh xong, dặn tôi, “mình làm chỗ đóng hộp thức ăn, phải mang giày kín chân, mặc áo tay dài, râu tóc sạch sẽ; người ta sẽ cấp cho áo yếm và lưới bao tóc, râu; có mặt tại kho hàng đúng 6 giờ sáng.”

Sáng qua, chúng tôi thức dậy 4g45 sáng vì cần đi lúc 5 giờ. Từ nhà tôi chạy tới đó hết 45 phút vì không biết xe cộ, đường sá có vấn đề gì không. Đâu đó trong thâm tâm tôi có than phiền “đi làm thiện nguyện mà cực khổ quá!” Tôi đã nghỉ hưu từ lâu, chỉ còn phải điều hành trường dạy võ buổi chiều nên thường ngày ngủ tới 8g sáng mới dậy; vì thế, thức giấc giờ đó không phải chuyện dễ làm. Tôi đã để đồng hồ báo thức, nhưng đồng hồ chưa kịp reo thì nhà tôi đã lay tôi dậy, “anh à, dậy đi kẻo trễ giờ.” Tôi giật mình rời chăn êm nệm ấm, hai mắt ráo hoãnh, lòng vui vẻ làm vệ sinh cá nhân, gọi thằng lính ngủ trên lầu. Thằng lính đã sẵn sàng đi.

Chúng tôi tới Food Bank lúc 5g45 sáng. Tưởng mình tới sớm nhưng khi bước vào kho đã thấy khá đông người ta đang làm việc. Nhìn câu viết rất lớn trên tường làm tôi xúc động, “because of you, a child will eat today” (vì những người như bạn, một đứa trẻ sẽ được ăn hôm nay). Cạnh bên là chữ Cám Ơn” cũng khá lớn. Chợt liên tưởng đến Việt Nam, đến những trẻ em thiếu ăn, thiếu mặc, không được học hành… hình dung những em bé tả tơi ở các bãi rác, trước những quán ăn; các em bé bán vé số, đánh giày dầm mưa dải nắng… khắp mọi miền đất nước! Nước Mỹ giàu có mà vẫn lắm người nghèo dù có biết bao nhiêu chương trình trợ giúp từ chính quyền, từ các cơ quan thiện nguyện… nhưng thật sự họ đâu có nghèo bằng số đông dân tộc của tôi hiện giờ; chắc chắn không thể có những em bé cùng khổ như ở quê tôi; vậy mà nhà nước Việt Nam không hề nghỉ tới mà còn tận sức bóc lột, cướp giựt của dân nghèo; họ còn bỏ ra tỷ này tỷ nọ để xây dựng những công trình vô bổ, những tượng đài vô nghĩa mà ai cũng biết đó là những công trình bày đặt ra để ăn chia với nhau, để tiếp tục thâu tóm tiền bạc để tiêu xài phung phí, để gửi con đi học nước ngoài, để mua xe tậu nhà ở ngoại quốc… Tôi cố cầm lòng để không rơi nước mắt.

Chúng tôi được hướng dẫn rửa tay thật kỹ, xong họ phát cho áo yếm và lưới trùm tóc, chỉ cho chúng tôi chỗ đứng trong dây chuyền đóng gói. Cũng may, dây chuyền thiếu hai chỗ liền nhau. Tôi phụ trách phần cà rốt, thằng lính phụ phần dưa hấu và chuyển sang máy đóng hộp.

Có nhiều dây chuyền làm việc giống nhau từ số 1 đến số 6. Mỗi dây chyền gồm 7 vị trí: người mở bọc ny lông (mỗi bọc chứa 10 cái) gói bánh bột mỏng của người Mễ; người đặt bánh vào ngăn lớn của khay nhựa nhỏ màu đen, hình chữ nhật, có 3 ngăn; người đặt 2 miếng ham & cheese tròn dài cuốn sẵn và rau cải lên bánh; phiên tôi cho một muỗng lớn cà rốt loại nhỏ, đã gọt sẵn vào một ngăn, xong chuyển qua cho thằng lính làm đầy ngăn còn lại với muỗng lớn dưa hấu cắt vuông nhỏ; chuyển qua cho người kiểm soát trước khi đưa qua máy đóng hộp; và cuối cùng là người điều hành máy đóng và sắp vào thùng lớn. Khi thùng lớn đầy, họ sẽ gọi người tới mang đi vào kho vận chuyển.

Tiếng nhạc rap (giật) mở lớn, át cả tiếng máy, như thôi thúc mọi người cùng quay cuồng với công việc. Người ta thường nói “làm như máy” bây giờ mới thấy nghĩa lý của nó. Lâu lâu lại có người la to “bánh bột đường số 5; hoặc rau cải số 4; thịt số 2…” đến lúc hết cà rốt tôi cũng gọi, “cà rốt số 4”; thế là có một nhân viên của kho mang tới liền. Công việc bổ sung cung cấp các loại vật thực này cũng có thể là người tình nguyện như chúng tôi. Họ cũng làm liền tay, cung cấp bất cứ món nào thiếu ở bất cứ khu vực nào. Tôi bỗng nổi máu tếu gọi to, “beef steak line 4”, mọi người bật cười to. Một lúc lâu sau tôi lại gọi, “cognac line 4”, thiên hạ lại cười… làm quên đi mệt nhọc.

Từ lúc đến cho tới lúc ra về (có nghỉ tay 15 phút lúc 8g), chúng tôi múa như máy. Ngoài việc bỏ cà rốt, tôi còn nhanh tay phụ người đứng bên cạnh gở những cuốn thịt dính chùm, nhưng đôi khi cũng quýnh quán cho kịp với máy; không ai có thì giờ để nói chuyện riêng.
Xong buổi sáng, chúng tôi ra về, chân tay mỏi nhừ, nhưng lòng hoàn toàn vui vẻ, chỉ những khi nghĩ về sự khốn khổ của trẻ em VN với sự so sánh không công bằng. Thằng lính nhìn tôi hỏi, “Ba thấy sao?” “Ba rất vui, nhất là cùng làm việc thiện nguyện với con. Phải chi một ngày nào đó mình có cơ hội được làm công việc này ở Việt Nam thì vui biết mấy!” “Yes Ba, We Wish!”

Ngày 15-6-2017

[/read]

***

Chữ – Phạm Tương Như

Em đi xa, chữ về gần
Nghe anh khóc, chữ cũng tràn mực đen
Anh say tình, chữ dậy men
Nhớ em dáng nhỏ, chữ len vào hồn

Anh mất em, chữ bồn chồn
Anh xiêu bóng ngả, chữ chôn mộ sầu
Người lạc người, chữ về đâu
Câu thơ ngắt vội, chữ đau ý tình

Đêm cô đơn, chữ se mình
Nhớ em nằm mộng, chữ hình dung ra
Điếng người anh nhớ người ta
Rưng rưng nét chữ mực sa lệ nhoà

Anh đa tình, chữ bướm hoa
Khi đau tình phụ, chữ xa xót lòng
Tìm em chữ nghĩa mênh mông
Lang thang cõi nhớ chữ không bến bờ

Ai nằm trên cỏ ngu ngơ
Anh và con chữ dệt thơ yêu người
Yêu ai thương nhớ trọn đời
Chữ ơi có biết hồn tôi phiêu bồng!?

Phạm Tương Như

***

Túy Hà

Lời Nguyền
Riêng Nguyệt Khuyết

Bùa yêu trấn yểm từ muôn kiếp
ẩn trong huyết quản chảy miên man
hối hả từng phân da thịt gọi
thèm khát em ơi dáng nguyệt nằm

thức trắng gọi thầm đêm hoang mộng
em có biết rằng anh nhớ trông
nụ cười u ẩn như trêu ghẹo
đời lắm cuồng mê cũng trống không

nỗi nhớ miên man không tên tuổi
lời nguyền ứng nghiệm tự ngàn năm
em là bóng quế hay hiện thực
anh vẫn dành riêng một chỗ nằm

đêm trắng em ơi đêm trắng lạnh
trái tim khô khốc bỗng chuyển mình
nghe như tiền kiếp lên tiếng gọi
trong cơn đồng thiếp bóng nhập hình

miên man nỗi nhớ như sông chảy
ra tận biển khơi anh tìm em
biết là vô vọng mà sao vẫn
theo cuộc hải hành trong bóng đêm

không thể nào quên hoa nguyệt động
dù chỉ một lần nghe nhói đau
lá bùa trần yểm còn linh ứng
nhập hồn hóa cốt tận ngàn sau.

Túy Hà

***

Gió Ơi ! Bay Đi… – Hồ Thụy Mỹ Hạnh

Vừa leo lên giường trùm chăn thì điện thoại báo có tin nhắn, chưa mở ra xem tôi cũng biết là ai gởi tin cho tôi vào giờ này “Em ngu chua?”.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Thế mà cũng hỏi, đã ngủ thì sao tôi còn đọc được tin! Tôi bấm máy trả lời “Roi, anh ngu chua?”, rất nhanh tôi nhận lại tin “cung roi !Dang nam mo thay em”. Xạo quá trời,tôi cũng đáp lại “Em cung vay, dang mo thay anh”, “Thay gi?”, “Thay anh noi tao lao…”
Nhạc chuông báo Nguyên đang gọi, tôi áp máy vào tai hỏi:
-Chán nhắn tin rồi à?
-Ừ! Nói cho nhanh, em đang làm gì đó?
-Trùm mền rồi, chuẩn bị đi ngủ.
-Xít vô cho anh nằm với.
Tôi gắt nhẹ:
-Đừng nói cà rỡn như vậy em giận cho coi, người chi mà kỳ cục.
-Hahaha…ngu gì mà cà rỡn, anh nói thật chớ bộ.
-Hừm! Anh ba trợn hổng chịu nổi.
Tôi tắt máy luôn, Nguyên không phải là người yêu của tôi, chưa bao giờ tôi nghĩ có một ngày nào đó tôi sẽ yêu Nguyên, và có lẽ anh cũng nghĩ giống như tôi vậy. Sự thân thiết giữa tôi và Nguyên có lẽ vượt qua khỏi thứ tình cảm nhùng nhằng giữa hai người khác phái, nó giống một đôi bạn tâm giao cùng giới hơn, anh hay đùa, nói bất cứ câu gì anh thích một cách “hồn nhiên”mà không sợ bị tôi hiểu nhầm, hoặc tưởng…bở!. Kể cả khi Nguyên “nhào” vào nhà tôi mà miệng thì nói to “ I love you! Do you love me?” và choàng lấy vai tôi tự nhiên như người…Sài Gòn! Còn tôi, cùng lắm là gạt tay anh ra thôi, và chẳng…càm ràm gì về sự tự nhiên quá lố của anh. Mỗi lần gặp nhau thì những chuyện trời trăng mây gió không đầu không cuối cứ liên miên ngỡ không có điểm dừng, mà nếu phải dừng thì cuộc tán gẫu đó cũng bay theo gió không vướng lại gì ngoài một niềm vui.
Tôi có một cô bạn, không thân mà cũng không sơ, hay đến nhà tôi chơi, nàng xinh xắn và lớn hơn tôi vài tuổi, có công việc ổn định, tính tình khôn ngoan, ứng xử khéo léo.Nàng đã có lần gặp Nguyên ở nhà tôi, và có vẻ cảm tình khi thấy anh. Biết như thế nên tôi có “sáng kiến” là “tán” vào cho hai người “kết” nhau, mới nghe tôi gợi ý, Nguyên gật gù, nói kiểu không hưởng ứng mà cũng không phản đối:
-Tuỳ em, nhưng anh nói trước, bắn bia không được phải đền đạn.
Tôi nguýt anh, vì không hiểu anh đang nghiêm túc hay lại là trớt trớt:
-…làm như em có lợi lộc gì trong việc ấy, hứ…
***
Nàng! Mai Hà đến nhà tôi khi trời đã tối mà ngoài kia đang mưa tầm tả, cơn bão từ đâu đó đang ảnh hưởng thổi qua thành phố, nàng có vẻ buồn chuyện gì đó, và nhiệm vụ của tôi là làm nơi cho nàng trút bầu tâm sự cho vơi nỗi niềm, tôi mở nhạc cho nàng nghe, tôi pha trà cho nàng uống, tôi vỗ về nàng. Và nếu như nàng không chê, thích tựa vào vai người đồng giới, tôi cũng sẵn sàng luôn.
Mưa cứ rã rích, và trời về khuya, nàng nói nàng sợ lắm không dám về một mình, tôi thì không thể đưa nàng về, hơn nữa để nàng thân gái dặm trường đơn lẻ trong mưa tôi cũng không nở. Nàng gợi ý “ Hay là nhờ anh Nguyên?”. Tôi nghe hợp lý bèn gọi điện thoại cho Nguyên:
-…Anh đến nhà em gấp.
-Có điên không? Muốn nước cuốn anh đi luôn à, chuyện gì mai nói.
-Không! Ngay bi giờ cơ …(tôi phịa ra) em đ.o.. đ.o.i…đói!(Tôi dài giọng thiểu não)
-Nấu ..mì ăn liền mà ăn!
-Không còn cái gì trong nhà, trên đường qua anh ghé mua bánh mì cho em, cám ơn anh trước, em đợi đây.
Tôi tắt máy và yên chí đợi Nguyên. Quả nhiên một lát sau nghe tiếng xe của anh, vừa bước vào nhà là anh không quên “nguyền rủa” tôi:
-Chưa thấy ai đoản như em, không biết tự lo một việc đơn giản như vậy phải báo đời người ta.
-Hihihi…có vậy anh mới “liều thân” tới chứ.
Nàng đối mặt với Nguyên, không gian lạnh khiến tình người ấm hơn, anh hiểu rằng tôi muốn anh giúp tôi đưa nàng về. Cơn mưa nặng hạt giữ chân Nguyên lại trong chốc lát với những câu chuyện tầm phào:
-…Có một nàng công chúa yêu một người dân thường, Vua không đồng ý nên buộc công chúa lấy một người quyền quý do vua cha lựa chọn, nếu công chúa không ưng thuận người quyền quý kia thì chàng dân thường phải bị…xử trảm…
Tôi la lên:
-Vô lý, hổng cho người ta “ưng” thì thôi mắc gì bắt người ta bị xử trảm?
-…thế nên vua cha mới đưa ra hai điều kiện. Một là, nếu công chúa chấp nhận lấy người quyền quý, chàng trai dân thường sẽ được tha đồng thời được vua “thưởng” cho một người đẹp khác. Hai là, công chúa không chấp nhận chàng quyền quý do vua cha “chỉ định” thì chàng trai dân thường kia phải bị hành hình. Túm lại cả hai điều kiện đó đều có một kết thúc là công chúa và chàng người yêu đều phải chia…tai! Nếu là các em, các em chọn cái nào?
Tôi nói ngay:
-Em hổng chọn cái nào hết vì cái nào cũng phải mất người mình yêu.
-Ở đây là việc phải quyết định chọn một trong hai mà…
Tôi nôn nóng nói:
-Em không thể lấy một người không yêu cũng như không thể nhìn người mình yêu lấy người khác hoặc là chết vì mình.Thà em chọn cách hai rồi cùng…chết theo “chàng”, hai đứa…em sẽ cùng về nơi…chín suối!
Nguyên lườm tôi:
-Cái mặt coi vậy mà dại…trai!
Mai Hà điềm đạm hơn:
-Còn em, trước mắt “tạm thời” em để chàng lấy người khác để…cứu chàng, sau đó với quyền hành của một công chúa, em sẽ tìm cách giành lại chàng…
Tôi sửng sốt:
-Giành lại chàng? Còn ông chồng quyền quý mà “phụ vương” buộc phải lấy, để đâu?
Mai Hà mỉm cười:
-…để làm bức bình phong chứ để đâu!
Tôi rụt cổ:
-Gớm quá! Vậy là… ngoại tình rồi còn gì.
-…thời buổi nào chẳng có chuyện ấy. Chưa nói nếu không vì bị ép “oan ức” như vậy thì “công chúa” đâu phải làm việc trái đạo đó.
Nguyên kết luận:
-Qua cách đối phó của hai em, nói lên tính cách rằng em (Nguyên hướng sang tôi) chân thật nhưng nông nổi, có phần ích kỷ, rồi em sẽ khổ khi yêu một người nào đó.Còn Mai Hà, rất khôn ngoan biết dùng thủ đoạn để đạt lấy mục đích, nhưng hạnh phúc của Mai Hà nếu không thận trọng sẽ dễ gặp sóng gió vì có phần phiêu lưu…
***
Trên đường vẫn không ngớt dòng xe nối đuôi nhau toả về các ngả. Tôi đứng nép vào trạm xe bus nhưng không quan tâm đến những chuyến xe thỉnh thoảng dừng lại đón vài người lên xe trả lại một khoảng trống quanh tôi. Rồi lại vài người khác đến, họ ngồi xuống băng ghế cạnh tôi, tôi ngó ngu ngơ ra đường, mắt không định hướng vào vật gì, vì tôi đang nhìn vào bên trong suy nghĩ tôi, hình ảnh Nguyên cứ vụt nhanh, vụt nhanh xáo trộn trong đầu, mà rõ ràng nhất là mới đây vài mươi phút trước, không biết anh có nhìn thấy tôi không, nhưng tôi thì nhìn thấy anh rất rõ khi anh quay đầu lại nói gì đó với người con gái ngồi phía sau anh trước khi xe nổ máy lướt đi, tôi còn kịp nhìn thấy cô gái quàng tay qua người anh và tựa đầu vào lưng anh với nét mặt đầy hạnh phúc. Đó chính là Mai Hà! Không phải đây là chuyện tôi vẫn thường gợi ý với Nguyên ư? Sao bây giờ chứng kiến hai người với nhau trái tim tôi chợt buốt lên một cảm giác hụt hẫng và mơ hồ thấy như mình vừa để vuột khỏi tay một cái gì. Tôi đứng lặng đi một lúc rồi chợt thấy bối rối với cảm nghĩ của chính mình, may mà những cuốn sách giúp tôi bớt cảm giác thừa thải, trống rỗng của đôi tay, tôi cầm chặt lấy chúng như bám vào một điểm tựa, quay bước về một hướng khác, tôi không biết tôi đang buồn hay vui. Tôi chỉ biết một điều, ngay tức khắc tôi muốn có một chỗ nào đó chỉ có một mình tôi, nhưng đoạn đường dài chưa cho tôi về ngay được nhà, tôi ghé vào trạm xe bus này, ngồi xuống thẩn thờ. Gió vẫn miên man thổi những chiếc lá dồn vào một góc chân ghế. Tôi nhặt lên vài chiếc lá và đưa tay về hướng gió…
Hãy bay đi, gió ơi!…

Hồ Thụy Mỹ Hạnh

[/read]
***

Bến Sông Nào – Cái Trọng Ty

Đường xa chiều tối dừng cương
Ngoái nhìn mù mịt xóm vườn bên sông
Lòng ta buồn bã vời trông
Chao ôi là nhớ mây hồng tà dương

Đã xa mấy dặm chiều sương
Rượu quỳnh hâm nóng sầu vương ích gì
Chuốc cho say nhớ làm chi
Chao ôi quê quán xanh rì bản xa

Tôi kẻ lưu lạc xa nhà
Nghe trong cô quạnh mù lòa gấm hoa
Nàng xưa kẻ chợ xướng ca
So giây dạo khúc lệ nhòa tầm dương

Cái Trọng Ty
***

Bên Em Bên Anh – Phạm Tương Như

Em bên này rừng anh bên kia núi
Lá gọi lao xao, gió núi thét gào
Hồn lỡ bơ vơ duyên đời lạnh nguội
Mưa nắng riêng trời, gửi nhớ về nhau

Mắt em hạt ngâu rụng sầu lệ ngọc
Ướt dột thơ anh mái lá lều tình
Mùa mưa cô đơn oằn mình rối tóc
Áo ngủ riêng mơ, đêm lẻ bóng hình

Lòng anh đơn phương chiều nghe em khóc
Mắt đỏ môi hương xa xót tình đời
Mắt làm cửa tim hồn chìm đáy nước
Biển mắt em sâu tâm sự nào vơi

Đêm cháy lửa lòng bùng lên ngọn nhớ
Cầu nguyện em luôn môi đỏ má hồng
Hạnh phúc ấm nồng hương thơm hơi thở
Còn anh bóng núi che chở rừng thương

Chiều nay nghe mưa khung trời nước mắt
Hay em đang khóc phận bạc tình hờ
Anh cố nhiên rồi anh chờ gặp mặt
Ấm lời an ủi sợi nắng treo mơ!

Em bên này rừng có nghe chim hát
Nắng ấm tình nồng kỳ vọng tương lai
Hồng tâm an lành hoa mầm nở hạt
Anh bên kia núi chờ vạt nắng mai!!

Phạm Tương Như
15-07-2017

***

Mong Manh Hỏi Người – Trần Phù Thế

hỏi người một buổi chiều xưa
mong manh như khói đong đưa ngọn sầu
hỏi người người sẽ về đâu
còn ta về chỗ nông sâu dò tìm
một đời đợi mỏi cánh chim
chim bay biệt dạng bóng chìm biệt tăm
khổ thân chờ đợi bao năm
sống trong cô tịch âm thầm riêng mong
hỏi người xao xác tấm lòng
đã đi là hết đừng trông bóng hình
mong manh nào chút lòng tin
hỏi người có nhớ gọi mình mình ơi.

Trần Phù Thế

***

Ba Dòng Nước Mắt – Phạm Tín An Ninh

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận đuợc thư Bình, thằng bạn thân tình từ thời nối khố. Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31. Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:
“Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm một chỗ bình yên. Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với mày. Bởi tao nghe mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích hợp cho những người cần một nơi để chửa trị những vết thương khó lành được trong lòng.
Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt..”

Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình. Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp lại, tha hồ mà kể chuyện xưa. Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một nơi xa tít mịt mùng ?

Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.
***
Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường làng, rồi lên trường huyện. Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần “inh”. Trong lớp bạn bè thường gọi bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang Trung đại đế, cái nơi nổi tiếng “con gái cầm roi đi quyền” đó nó ra sao. Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía sau hè. Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân. Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá. Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài gòn, trong lúc kinh tế gia đình đang lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng rủ nhau vào lính. Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần tượng của bọn tôi từ lâu lắm. Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không vui. Vì kể từ hôm nay, không còn “chúng mình ba đứa” nữa. Tôi tiễn hai thằng đến Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn gói vào Sài gòn học tiếp.

Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc đứng bên cạnh một chiếc F 5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó. Sau khi về nước chỉ có thằng Bình được lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.

Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu động cho Quân Đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có mặt. Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích delta trong các vùng địch. Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang. Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ được một tuần “anh về với em rồi anh lại đi”. Có lẽ nhờ vậy mà nó có khá nhiều mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc được trên các tần số không lục.

Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt lắm.
Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi nhà phía trước “thăm dân cho biết sự tình”, không ngờ “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”, đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà. Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm phụ rể.

Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận. Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi và chai rượu đế. Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra, nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị. Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc. Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường ba hoa với đám bạn bè.

Chỉ có thằng Bình là “số đẻ bọc điều”. Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng vẫn quanh quẩn ở Biên Hoà, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói. Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo “tán”, sau các buổi tan trường.

Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một vài hôm. Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, phi đoàn Thần Tượng ở Nha Trang có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi chợ. Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường. Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà giàu. Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành. Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng rất tự hào do chính tay mình nấu : cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao “đừng nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng” như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.
Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate. Khách khứa lên đến trăm người.

Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi “xác thân đã nhuốm mùi trần tục”, một vợ mấy con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón khách.
Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển. Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói “lắm mối tối nằm không”, đến ngày mất nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.

Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang rồi Biên Hoà. Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau như cái thời còn đi học. Mỵ Khê, bà xã của Bình cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hoà lẫn tiếng khóc của trẻ thơ. Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.

Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng cầm chân địch hơn một tuần. Biên Hoà bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà Nóc tránh pháo. Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một thằng bạn cùng khoá, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

Ngày 29.4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập, cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng. Anh em trong phi đoàn ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển..
Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường. Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội, bảo Bình thu xếp gấp về Sài gòn để kịp đưa vợ con đi. Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của nó được đặt dưới quyền của tướng tư lệnh Nguyễn Khoa Nam. Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.

Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày,thì biết tin Sài Gòn thất thủ. Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang Thái Lan.
Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện “học tập cải tạo” bất ngờ gặp Bình. Trong cái cảnh “nước mất nhà tan” này mà có được một người bạn thân thì cũng vơi được nỗi buồn. Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em. Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống trên phi cơ.

Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc mỗi thằng bị chia mỗi ngả. Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với những người khác trong vùng. Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.

Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên. Trong trại tỵ nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ chức vượt biên. Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.

Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina lúc 9 giờ rưởi tối. Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ. Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế “ứng chiến” để đối phó với những điều bất trắc. Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng khoá chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định, nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box. Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.

Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn còn hàng ria mép. Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng. Ở cách xa nhà vợ chồng Bình chừng hai mươi phút lái xe.

– Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng cháu nói bọn nó nghe.
– Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trưóc khi gặp vợ chồng Bình. Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử sao cho thích hợp.

Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á châu.
– Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.

Ông bảo người con gái đứng trong quày mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự :
– Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè, Nó hết lòng lo lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quần. Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì Bác mà gây nên cớ sự. Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào. Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó. Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống, chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết. Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai Bác gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.

Tôi đưa tay xin ngưng lời bác.
– Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác ?
– Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với Mỵ Khê sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi “mu” qua Hawaii. Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ không buồn. Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè. Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.
– Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác ?
– Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư. Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì trong đó. Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ bác.
Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.
Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó. Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.

Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi. Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự thâu đêm. Tôi chưa biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự.
– Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới này. Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người. Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng.
Mong nó trở về đây. Cháu Lina, con gái của tao cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống
– Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao ?
– Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.
– Bây giờ mày tính sao ? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày ?
– Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.
– Còn mày thì sao ?
– Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Nauy ở với mày là phúc cho tao. Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu không được thì tao lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu Lina, cho dù trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.

Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những dông tố trong đời. Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy dài trên má. Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ hello, mà nó đã thường xài từ lúc còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.

Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì. Riêng tôi đang hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.

Sáng nay, chủ nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo. Bốc ống nghe chưa kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu giây giọng nói quen thuộc của thằng Định :
– Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.
Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình :
– Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ chồng thằng Định đây. Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận. Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của nguời cùng huyết thống, nên tao theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu. Bác sĩ bên này giỏi thật.

Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi. Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn có nhiều thời gian để tâm tình với cha của nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi tao cho vui.

Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà :
– Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối. Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen vào :
– Hello, Ninh ! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.

Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.

Phạm Tín An Ninh

***

Cám Ơn Cuộc Đời – Trúc Thanh Tâm

Đất mẹ ơi, khi con về với đất
Nên bao điều cần nói hôm nay
Xin tạ lỗi với những người đang sống
Cám ơn đời cho ta hạnh phúc, đắng cay!

Ngày ly biệt, em hãy nên bình tĩnh
Khóc nhiều rồi, đã mấy mươi năm
Cả đời ta, thăm chưa giáp nước
Nghĩ thêm buồn chuyện của thế nhân!

Đem theo anh, em đừng quên giấy, viết
Những tập thơ tình bè bạn in chung
Anh sẽ tặng để làm quà qua cửa
Thế giới bao la, chỉ một ngã tương phùng!

Chỉ biết được những giây phút cuối
Người yêu thầm và người lại yêu thơ
Anh trả lại trần gian bao vinh, nhục
Riêng tình em anh mang hết xuống mồ!

Bạn bè xa bao người hay muộn
Hãy nâng ly cạn hết rượu buồn
Anh nhớ mãi nụ cười của những người thân thích
Cõi sinh tồn nhiều lắm hoa thơm!

Tiếng chuông ngân qua tầng mây gió
Là lúc anh rời khỏi chốn mê đời
Quê hương ơi, bài thơ tình muôn thuở
Sống thật làm người khó lắm, em ơi !

Trúc Thanh Tâm

***

Ngày Về Bảy Núi Ngồi Bên
Lăng Mộ Người Xưa – Ngô Nguyên Nghiễm

*Tặng Lâm Hảo Dũng, Hoài Ziang Duy

Lửa và Máu cháy giữa quê hương
Mang cả tiếng chim gào góc phố
Năm tháng lỡ nửa đời viễn xứ
Núi chất đầy hồn đá nghìn thu …

Vách sơn hà khắc hịch thiên thư
Lữ khách chạnh lòng bên nguyệt khuyết
Ôm sử ký ngồi chờ vận nước
Kẻ nội thù đạp nát Cổ Loa !

Bóng nõ thần giờ chỉ trong mơ
Đâu diệt hết loài chim ích tắc
Gió cố hương thổi tràn mặt đất
Đau lòng sỏi đá mấy ngàn năm !

Máu và Lửa cháy giữa quê hương
Mang tiếng khóc chim quê cố xứ
Địa dư đồ hắt hiu sơn lộ
Trên gáo vàng còn chút sử thi ?

Lỡ nửa đời phi xứ bạch y
Đêm mơ tiếng voi gầm trận chiến
Vạn cốt tiền nhân như chớp hiện
Nợ ngàn cân vụt rớt biên thuỳ …

Biên cương, biên cương … khách trở về
Hài cốt quê nhà…không nhang khói !
Mắt có nhoè đi, đâu phải vội
Nén trong lòng muôn dặm biệt ly

Ừ, biên cương có tiếng chim gì
Hay núi chất cho đầy hồn đá
Năm tháng lỡ nửa đời viễn xứ
Chạnh lòng bên nguyệt khuyết quê xa !

Gió cố hương thổi suốt hàng cau
Đau lắm, địa dư đồ hiu hắt
Giặc chưa đến, nội thù đạp nát
Miếu đền trơ trọi bóng cổ nhân

Trống đồng ai vỗ giữa biên cương
Giục giã chép đầy trang sử ký
Lữ khách âm thầm bên lăng mộ
Áo người xưa treo giữa cây già…,.

Ngô Nguyên Nghiễm

***

Hát Cho Kiếm Sỹ Buồn – Nguyễn Thanh Xuân

Từ thuở cuồng phong vờn vó ngựa
Mầu trăng hoen máu đẫm chinh bào
Chém gươm lên đá cười khinh bạc
Biết một lần đi vạn thuở sầu

Ngữa mặt ta cười nghiêng chén rượu
Ta say hề! Ai tỉnh ai điên
Hiểu ta có phải trăng đầu núi
Hay ngọn lửa rừng xua cõi đêm

Từ đó mắt ta mờ hơi rượu
Áo bào che gió giữa sơn khê
Thù ai ta biết đâu mà trả
Chỉ trả cho xong một ước thề

Bây giờ thành quách điêu tàn lắm
Kiếm sĩ ngồi trong phế tích sầu
Lắng nghe rừng núi còn âm vọng
Kiếm sĩ buồn đau cúi gục đầu

Nương Tử ơi! Có phải xuân về
Hay trăng huyết dụ xuống bên kia
Ở đây nghe gió reo thành quách
Bên ngọn cờ rơi giọt máu lìa

Nương Tử ơi! bây giờ ở đâu?
Có nhớ về ta một thuở nào
Một thuở tay vờn thanh kiếm bạc
Nhưng trước tình yêu cũng cúi đầu

Ta nhớ một lần ta đã bảo
Khi tóc nàng vướng phím tỳ bà
Ta chàng kiếm sĩ từ biên trấn
Sẽ ném gươm mà nghe tiếng ca

Kiếm sĩ giờ đây buồn bã lắm
Đã lặng rồi em tiếng thét gầm
Nhưng dòng định mệnh còn bao phủ
Có gặp nhau hề chăng cõi âm

Kiếm sĩ giờ đây buồn bã lắm
Ngựa hồng đã quỵ giữa biên cương
Một thời khanh tướng ai cầu bại
Nhưng chiến chinh hề mấy xót thương

Nương Tử ơi! Ta mãi đợi chờ
Bởi vì sông núi vẫn như xưa
Ta về câu cá bên dòng suối
Và hát cho đời những tiếng thơ

Ngày về áo rách đầy manh vá
Kiếm sĩ buồn đau cúi gục đầu
Vỗ tay cười ngạo đời tranh chấp
Áo rách ta về như giấc mơ…

Nguyễn Thanh Xuân

***

Bến Đợi – Nguyễn Đức Nhơn

Sông nước chiều thu gợn sóng buồn
Mây trời bảng lảng, bóng chiều buông
Thuyền em đỗ bến phương nào nhỉ?
Có nhớ quay về thăm cố hương?

Lầu nước buồn hiu đứng đợi em
Bến xưa chiều xuống phố lên đèn
Thuyền đi bỏ lại dòng sông vắng
Bỏ lại bao mùa trăng ấm êm

Chiều xuống Mường giang nước lững lờ
Mấy mùa sương khói dệt thành thơ
Màu hoa phượng thắm đâu rồi nhỉ?
Chỉ thấy hoa tàn rơi xác xơ

Thuyền đi, đi mãi không về bến
Cốc rượu giang hồ cũng ngấm say
Có biết bao mùa hoa phượng nở?
Và biết bao mùa hoa trắng bay?

Tượng đá đìu hiu đứng đợi ai
Bến xưa ngày ngắn nhớ đêm dài
Người đi – Đi mãi – Người đi biệt
Có biết trên đầu tóc lén phai?

Nguyễn Đức Nhơn

***

Ta Là Ai ? – Hồ Chí Bửu

Ta hư hỏng cả đời – tên nát rượu
Lấy ta về em chỉ khổ mà thôi
Ta hư hỏng nên dễ dàng bị dụ
Lấy ta xong là em khổ một đời

Ta là thơ – thơ tuôn từ muôn kiếp
Ta là thơ – phủ dụ đến luân hồi
Ta là nợ – nợ nầng nhưng bất biến
Ta là người – trần gian đến rong chơi

Ta là gió – gió luồn qua kẻ lá
Ta là nguồn – nước chảy đến sông sâu
Ta là mây phất phơ trên ghềnh đá
Nhưng một điều ta biết sẽ về đâu… !

Hồ Chí Bửu

***

Sài gòn nào có mùa thu đâu em
Tháng chín chỉ lay phay gió heo may vừa chớm
Trên tàng lá me non biêng biếc xanh buổi sớm
Cũng đủ làm lao xao khúc hát giao mùa.

Em xuân thì -thuở ấy đẹp tựa nắng trưa
Vàng óng ả trải trên bờ vai thon nhỏ
Quay theo vòng bánh xe nhẩn nha thương nhớ
Ngày khai trường tìm đã vắng một người quen.

Chỉ trơ lại góc phố xưa ngơ ngác- chiếc cột đèn
Không biết ai còn nhớ con đường mang tên cũ
Và hơn thế có một cái tên trường nữ
Gia Long một thời tìm đâu áo em bay.

Đời trôi theo vòng xe đạp vẫn quay vẫn quay
Bầy chim sẻ ngày nào chắc đã bay đi mất
Nhành phong lan mướt xanh trên cây dầu cao ngất
Đã tàn chưa khi năm tháng đã xa mù.

Con phố nầy xưa em đã từng đi qua
Buổi sáng mù sương manh nha những ngày trốn học
Chỉ còn lại gốc bàng già nghẹn ngào đứng khóc
Dưới chân em xao xác chiếc lá đỏ cuối mùa.

Tôi cũng đã từng đợi em dưới những cơn mưa
Tìm đôi mắt tình nhân một thời giờ xa lắc
Thì ra chia ly bao giờ cũng làm tim ta đau ngất
Nên Sài gòn nào có mùa thu để ta đợi ta chờ.

Nguyễn An Bình

***

Lời Thương – Thái Bạch Vân

Này em, nơi đây mùa thu về rất đẹp
Anh ngắm lá thu rụng vàng trên áo em
Từ mộ xa… thấy dáng gầy em tươi mát
Yên lòng, ngàn thu anh sẽ ngủ rất ngon

Này con ,ở đây trong lòng ngôi mộ nhỏ
Mẹ thường mong con luôn viếng chốn mẹ nằm
Ngồi ngâm thơ , tay dịu dàng chăm luống cỏ
Đôi khi hí hửng cúng mẹ mấy cành bông

Này em gái, đừng mãi cười ta mê ngủ
Anh cả nào quên người sinh dưỡng chúng ta
Từ cõi vắng anh vẫn nhớ đến quê nhà
Hạnh phúc vô cùng khi mồ chôn cạnh mẹ

Này người, này chúng ta ở quanh đây đó
Mấy phương ,một cõi chung cuộc cũng vô thường
Trả vay vay trả trao nhau mãi LỜI THƯƠNG
Vũ trụ quay , LỜI THƯƠNG luôn là lẻ SỐNG

Những Ngày Thu Tím

Mênh mang gió gửi …thu về
Lá xanh nhẹ điểm úa vàng rừng cây
Nhạt nhòa nắng rụng trời tây
Hoàng hôn… hiu hắt dâng đầy nhớ thương

Những ngày thu tím mờ sương
Lá thu lót thảm con đường đón đưa
Mưa Ngâu lất phất sớm trưa
Cùng ai sánh bước vào mùa chớm yêu

Sen thu nhòa nhat gió chiều
Cúc hoa tím ngát dập dìu dáng thơ
Vĩ cầm lã lướt như mơ
Ai nâng phím nhạc dệt tơ tình nồng

Thang mây đan võng hư không
Cùng nhau hẹn ước trọn lòng uyên ương
Dù cho tan tác mười phương
Tình ta vẫn mãi vương tơ một đời

Giờ đây non nước trùng khơi
Đón mùa thu tím chơi vơi cõi lòng
Lặng nhìn lá rụng ngoài song
Mà nghe đàn khúc nhớ mong chập chùng

Người ơi lòng mãi thủy chung
Đường đời vạn nẽo , trùng phùng.. bóng mây!
Cho ta thương tưởng vơi đầy
Châu rơi ướt mộng chuỗi ngày tương tư !!

Thái Bạch Vân

***

Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Sài Gòn Ơi! Thương Lắm.
. .
Có đường nào để em đến với anh
Thành phố rộng và dòng người như chảy
Em như lạc vào nơi nào vậy
Sài Gòn buồn hay chỉ tại lòng em

Mai em về hàng cây hãy ngủ quên
Đừng vẫy gọi sẽ làm em khóc đấy
Trái tim đập những nhịp buồn biết mấy
Và vụng về như mới bắt đầu yêu

Em lang thang trong nắng ban chiều
Cứ thầm trách sao đất trời rộng quá
Cứ thầm trách sao đường chia nhiều ngả
Chẳng thể nào để em đến với anh

Em đi rồi ngày tháng sẽ qua nhanh
Chút kỷ niệm cũng tàn bay theo gió
Chỉ có em vẫn hướng về nơi đó
Mai em đi rồi, thương lắm Sài Gòn ơi!

Gió Ơi! Bay Đi…

Vừa leo lên giường trùm chăn thì điện thoại báo có tin nhắn, chưa mở ra xem tôi cũng biết là ai gởi tin cho tôi vào giờ này “Em ngu chua?”. Thế mà cũng hỏi, đã ngủ thì sao tôi còn đọc được tin! Tôi bấm máy trả lời “Roi, anh ngu chua?”, rất nhanh tôi nhận lại tin “cung roi !Dang nam mo thay em”. Xạo quá trời,tôi cũng đáp lại “Em cung vay, dang mo thay anh”, “Thay gi?”, “Thay anh noi tao lao…”
Nhạc chuông báo Nguyên đang gọi, tôi áp máy vào tai hỏi:
-Chán nhắn tin rồi à?
-Ừ! Nói cho nhanh, em đang làm gì đó?
-Trùm mền rồi, chuẩn bị đi ngủ.
-Xít vô cho anh nằm với.
Tôi gắt nhẹ:
-Đừng nói cà rỡn như vậy em giận cho coi, người chi mà kỳ cục.
-Hahaha…ngu gì mà cà rỡn, anh nói thật chớ bộ.
-Hừm! Anh ba trợn hổng chịu nổi.
Tôi tắt máy luôn, Nguyên không phải là người yêu của tôi, chưa bao giờ tôi nghĩ có một ngày nào đó tôi sẽ yêu Nguyên, và có lẽ anh cũng nghĩ giống như tôi vậy. Sự thân thiết giữa tôi và Nguyên có lẽ vượt qua khỏi thứ tình cảm nhùng nhằng giữa hai người khác phái, nó giống một đôi bạn tâm giao cùng giới hơn, anh hay đùa, nói bất cứ câu gì anh thích một cách “hồn nhiên”mà không sợ bị tôi hiểu nhầm, hoặc tưởng…bở!. Kể cả khi Nguyên “nhào” vào nhà tôi mà miệng thì nói to “ I love you! Do you love me?” và choàng lấy vai tôi tự nhiên như người…Sài Gòn! Còn tôi, cùng lắm là gạt tay anh ra thôi, và chẳng…càm ràm gì về sự tự nhiên quá lố của anh. Mỗi lần gặp nhau thì những chuyện trời trăng mây gió không đầu không cuối cứ liên miên ngỡ không có điểm dừng, mà nếu phải dừng thì cuộc tán gẫu đó cũng bay theo gió không vướng lại gì ngoài một niềm vui.
Tôi có một cô bạn, không thân mà cũng không sơ, hay đến nhà tôi chơi, nàng xinh xắn và lớn hơn tôi vài tuổi, có công việc ổn định, tính tình khôn ngoan, ứng xử khéo léo.Nàng đã có lần gặp Nguyên ở nhà tôi, và có vẻ cảm tình khi thấy anh. Biết như thế nên tôi có “sáng kiến” là “tán” vào cho hai người “kết” nhau, mới nghe tôi gợi ý, Nguyên gật gù, nói kiểu không hưởng ứng mà cũng không phản đối:
-Tuỳ em, nhưng anh nói trước, bắn bia không được phải đền đạn.
Tôi nguýt anh, vì không hiểu anh đang nghiêm túc hay lại là trớt trớt:
-…làm như em có lợi lộc gì trong việc ấy, hứ…
***
Nàng! Mai Hà đến nhà tôi khi trời đã tối mà ngoài kia đang mưa tầm tả, cơn bão từ đâu đó đang ảnh hưởng thổi qua thành phố, nàng có vẻ buồn chuyện gì đó, và nhiệm vụ của tôi là làm nơi cho nàng trút bầu tâm sự cho vơi nỗi niềm, tôi mở nhạc cho nàng nghe, tôi pha trà cho nàng uống, tôi vỗ về nàng. Và nếu như nàng không chê, thích tựa vào vai người đồng giới, tôi cũng sẵn sàng luôn.
Mưa cứ rã rích, và trời về khuya, nàng nói nàng sợ lắm không dám về một mình, tôi thì không thể đưa nàng về, hơn nữa để nàng thân gái dặm trường đơn lẻ trong mưa tôi cũng không nở. Nàng gợi ý “ Hay là nhờ anh Nguyên?”. Tôi nghe hợp lý bèn gọi điện thoại cho Nguyên:
-…Anh đến nhà em gấp.
-Có điên không? Muốn nước cuốn anh đi luôn à, chuyện gì mai nói.
-Không! Ngay bi giờ cơ …(tôi phịa ra) em đ.o.. đ.o.i…đói!(Tôi dài giọng thiểu não)
-Nấu ..mì ăn liền mà ăn!
-Không còn cái gì trong nhà, trên đường qua anh ghé mua bánh mì cho em, cám ơn anh trước, em đợi đây.
Tôi tắt máy và yên chí đợi Nguyên. Quả nhiên một lát sau nghe tiếng xe của anh, vừa bước vào nhà là anh không quên “nguyền rủa” tôi:
-Chưa thấy ai đoản như em, không biết tự lo một việc đơn giản như vậy phải báo đời người ta.
-Hihihi…có vậy anh mới “liều thân” tới chứ.
Nàng đối mặt với Nguyên, không gian lạnh khiến tình người ấm hơn, anh hiểu rằng tôi muốn anh giúp tôi đưa nàng về. Cơn mưa nặng hạt giữ chân Nguyên lại trong chốc lát với những câu chuyện tầm phào:
-…Có một nàng công chúa yêu một người dân thường, Vua không đồng ý nên buộc công chúa lấy một người quyền quý do vua cha lựa chọn, nếu công chúa không ưng thuận người quyền quý kia thì chàng dân thường phải bị…xử trảm…
Tôi la lên:
-Vô lý, hổng cho người ta “ưng” thì thôi mắc gì bắt người ta bị xử trảm?
-…thế nên vua cha mới đưa ra hai điều kiện. Một là, nếu công chúa chấp nhận lấy người quyền quý, chàng trai dân thường sẽ được tha đồng thời được vua “thưởng” cho một người đẹp khác. Hai là, công chúa không chấp nhận chàng quyền quý do vua cha “chỉ định” thì chàng trai dân thường kia phải bị hành hình. Túm lại cả hai điều kiện đó đều có một kết thúc là công chúa và chàng người yêu đều phải chia…tai! Nếu là các em, các em chọn cái nào?
Tôi nói ngay:
-Em hổng chọn cái nào hết vì cái nào cũng phải mất người mình yêu.
-Ở đây là việc phải quyết định chọn một trong hai mà…
Tôi nôn nóng nói:
-Em không thể lấy một người không yêu cũng như không thể nhìn người mình yêu lấy người khác hoặc là chết vì mình.Thà em chọn cách hai rồi cùng…chết theo “chàng”, hai đứa…em sẽ cùng về nơi…chín suối!
Nguyên lườm tôi:
-Cái mặt coi vậy mà dại…trai!
Mai Hà điềm đạm hơn:
-Còn em, trước mắt “tạm thời” em để chàng lấy người khác để…cứu chàng, sau đó với quyền hành của một công chúa, em sẽ tìm cách giành lại chàng…
Tôi sửng sốt:
-Giành lại chàng? Còn ông chồng quyền quý mà “phụ vương” buộc phải lấy, để đâu?
Mai Hà mỉm cười:
-…để làm bức bình phong chứ để đâu!
Tôi rụt cổ:
-Gớm quá! Vậy là… ngoại tình rồi còn gì.
-…thời buổi nào chẳng có chuyện ấy. Chưa nói nếu không vì bị ép “oan ức” như vậy thì “công chúa” đâu phải làm việc trái đạo đó.
Nguyên kết luận:
-Qua cách đối phó của hai em, nói lên tính cách rằng em (Nguyên hướng sang tôi) chân thật nhưng nông nổi, có phần ích kỷ, rồi em sẽ khổ khi yêu một người nào đó.Còn Mai Hà, rất khôn ngoan biết dùng thủ đoạn để đạt lấy mục đích, nhưng hạnh phúc của Mai Hà nếu không thận trọng sẽ dễ gặp sóng gió vì có phần phiêu lưu…
Trên đường vẫn không ngớt dòng xe nối đuôi nhau toả về các ngả. Tôi đứng nép vào trạm xe bus nhưng không quan tâm đến những chuyến xe thỉnh thoảng dừng lại đón vài người lên xe trả lại một khoảng trống quanh tôi. Rồi lại vài người khác đến, họ ngồi xuống băng ghế cạnh tôi, tôi ngó ngu ngơ ra đường, mắt không định hướng vào vật gì, vì tôi đang nhìn vào bên trong suy nghĩ tôi, hình ảnh Nguyên cứ vụt nhanh, vụt nhanh xáo trộn trong đầu, mà rõ ràng nhất là mới đây vài mươi phút trước, không biết anh có nhìn thấy tôi không, nhưng tôi thì nhìn thấy anh rất rõ khi anh quay đầu lại nói gì đó với người con gái ngồi phía sau anh trước khi xe nổ máy lướt đi, tôi còn kịp nhìn thấy cô gái quàng tay qua người anh và tựa đầu vào lưng anh với nét mặt đầy hạnh phúc. Đó chính là Mai Hà! Không phải đây là chuyện tôi vẫn thường gợi ý với Nguyên ư? Sao bây giờ chứng kiến hai người với nhau trái tim tôi chợt buốt lên một cảm giác hụt hẫng và mơ hồ thấy như mình vừa để vuột khỏi tay một cái gì. Tôi đứng lặng đi một lúc rồi chợt thấy bối rối với cảm nghĩ của chính mình, may mà những cuốn sách giúp tôi bớt cảm giác thừa thải, trống rỗng của đôi tay, tôi cầm chặt lấy chúng như bám vào một điểm tựa, quay bước về một hướng khác, tôi không biết tôi đang buồn hay vui. Tôi chỉ biết một điều, ngay tức khắc tôi muốn có một chỗ nào đó chỉ có một mình tôi, nhưng đoạn đường dài chưa cho tôi về ngay được nhà, tôi ghé vào trạm xe bus này, ngồi xuống thẩn thờ. Gió vẫn miên man thổi những chiếc lá dồn vào một góc chân ghế. Tôi nhặt lên vài chiếc lá và đưa tay về hướng gió…
Hãy bay đi, gió ơi!…

Hồ Thụy Mỹ Hạnh

***

Tản Mạn Chuện Buồn Vui – Yên Sơn

Trong đời người có lắm chuyện buồn vui! Chuyện buồn vui kể sao cho xiếc, nhưng tôi cũng xin được chia sẻ với mọi người những chuyện xảy ra cho tôi trong mấy ngày hôm nay! Tôi không bao giờ dám than oán bởi vẫn biết “sông có khúc người có lúc”! Dẫu biết rằng “áo quần còn có số, huống chi con người”, chuyện hên xui may rủi trên đời không thiếu gì! Tôi tin tưởng “trời kêu ai người đó dạ”, chỉ là khi ông trời cắc cớ kêu đến tên mình, tôi sẽ giả vờ như chưa hề nghe thấy!

Kể từ khi bị thôi việc ở công ty điện toán HP, vì cảm nhận cái ngành chuyên môn đầy bạc bẽo “Commercial Desktop Tenhical Support Engineer” của mình không còn chỗ đứng trong cái thế giới cạnh tranh xả láng này, mà đã “ôm cầm sang thuyền Ấn Độ”, tôi mở trường dạy võ toàn thời gian. Tất cả những lớp dạy đều vào buổi chiều tối. Ban ngày tôi có khá nhiều thì giờ rảnh rỗi, khi thì nhận dạy thế (Substitute Teacher) ở các trường Trung học, khi thì làm việc cộng đồng. Ăn cơm nhà vác và đánh bóng ngà voi. Khi thì văn thơ, lúc lại hội hè! Những nhiễu nhương này cũng làm tôi tất bật. Sợ tôi “ở không sinh chuyện” nên “nhà tôi” – my house/my wife – khuyến khích tôi tiếp tục như thế để bớt thấy trống vắng khi số tuổi chưa kịp già! Vâng, tôi quyết định không thèm già mặc dù tôi vẫn biết đang nhích dần trong hàng đi về hướng mặt trời lặn! Lòng tôi sẵn sàng bao dung, độ lượng cho những ai muốn chen lấn, cắt hàng phía trước mặt tôi. Tôi cũng dự định khi tới gần đầu “cầu định mệnh”, sẽ rất lịch sự tránh đường quanh lại khúc sau!

Sở dĩ tôi chọn nghề dạy học vì biết rằng “đang dạy gọi là còn dạy, hết dạy sợ bị mất… mát”! Đi “dạy thế” mới đầu cũng vui, nhất là dạy môn mình thích. Dạy các lớp 6, lớp 8 còn có uy nhưng gặp những lớp 11, 12 ở khu trường nhiều Mỹ đen và Mễ thì nản ơi là nản! Ở trường võ, học trò kỷ luật nghiêm minh bao nhiêu thì ở đây trái ngược hoàn toàn. Lũ học trò những lớp này, con trai đứa nào cũng cao to như con bò mộng, ăn nói bất kể, chửi thề xoành xoạch! Con gái thì đỏm dáng ra phếch, áo quần “nghèo nàn”, rách chỗ này, thiếu vải chỗ kia. Mỗi lần chúng vào lớp thì đứa nào cũng cell phone, cũng gương, cũng lược! Đôi khi chúng còn ôm nhau xà nẹo trước mặt thầy; thầy có la rầy cũng vô dụng, thầy nói thầy nghe! Đôi khi có đứa còn nhảy lên bàn thầy ngồi, head phone hai bên tai, ipod trên tay nhún nhún giựt giựt như khỉ mắc phong, thiệt không ra cái thể thống gì hết! Thầy giảng bài cứ giảng, trò ngồi đấu láo như không! Thầy tự hỏi những học trò như thế này mai mốt trưởng thành sẽ đi về đâu! Tôi chợt hiểu ra tại sao nước Mỹ có rất nhiều gầm cầu và ngả tư đèn xanh đèn đỏ có lắm người vô gia cư và nhiều kẻ lau chùi kính xe, xin tiền khách qua đường! Nghĩ lại thời học trò xưa kia của mình, của bạn bè trang lứa mà thấy thương mến vô vàn!

Đùng một cái cơn bão Katrina kéo tới! Bà con người Việt, bạn bè bên New Orleans tay xách nách mang, hớt ha hớt hãi chạy về! Ai có người thân thì ở tạm nhà người thân; ai có bạn bè trú ngụ với bạn bè; ai không có, hoặc không liên lạc được thì xông vô khách sạn nếu có sẵn một số tiền trong túi, nếu không thì nằm la liệt trong khu chợ Hongkong Mall, đường Bellaire; hoặc các chùa chiền, nhà thờ vùng Southwest Houston. Những nơi tạm trú to lớn như Georg R. Brown Convention Center dưới phố, hoặc sân Football Reliant chất chứa cả mấy chục ngàn người; vì thế cũng xảy ra lắm chuyện bi hài và vô cùng hỗn tạp lẫn hiểm nguy; thôi thì người Việt sống trong lòng người Việt an toàn hơn.

Giữa lúc dân Houston đang nỗ lực cứu giúp nạn nhân bão Katrina, bão Rita lại hung hăng xông vào vùng Vịnh Mexico! Ôi cái kinh nghiệm đau thương của Katrina qua giới truyền thông Texas, dân Houston và các vùng lân cận, nhất là các vùng bờ Vịnh, bàng hoàng hoảng hốt bồng bế nhau chạy về phương Bắc làm nghẽn tất cả mọi lối ra. Mẹ tôi và gia đình các em sống gần Galveston nên cũng chạy theo đoàn xe lũ lượt trên đường xa lộ xuyên bang North 45 và Freeway North 59. Tôi nghĩ tôi liều lĩnh có thừa nhưng rốt cuộc cũng gần như hoảng hốt, muốn chạy nhưng không biết chạy cách nào vì tất cả con lộ tiến về phía Bắc đều kẹt cứng những xe và người! Hàng ngày, hàng giờ mỏi mắt ngồi trước đài truyền hình, nghễnh tai âu lo trên các làn sóng phát thanh Việt Mỹ để theo dõi tin tức với bao nhiêu thảm cảnh xảy ra trên đường; phần tiếp tục liên lạc với Mẹ và các em. Sau 11 tiếng đồng hồ vượt qua quãng đường 42 dặm, Mẹ tôi và các em, các cháu bé tý xuất hiện trong vóc dáng hốc hác, xanh xao vàng vọt trước cửa nhà tôi! Tội nghiệp Mẹ tôi phải đứng lại một lúc anh em tôi mới dìu vào nhà được! Ôi nỗi mừng vui có khác nào những ngày chạy giặc năm xưa! Thế là mọi người quyết định không chạy đâu nữa cả! Cũng may ông trời độ lượng cho dân Houston và các vùng lân cận nên bão Rita giảm hẳn tốc độ và đổ vào Beaumont và Port Arthur thay vì Galveston! Gần chục ngày sau mọi người mới lục tục trở về chốn cũ, cùng nhau thu dọn chiến trường!

Phần đang chán ngấy cảnh “thầy trò thời đại”, phần lại ham vui giống như chính hiệu con nhà hãng xăng, thích chạy lui chạy tới; tôi tình nguyện làm việc tại một cơ quan thiện nguyện lo việc cứu giúp nạn nhân của hai cơn bão hiện đang còn sống rải rác khắp vùng. Càng đi sâu vào trong chương trình tôi càng gặp phải những điều chướng tai gai mắt! Sau vài tháng làm việc không ngừng nghỉ, cuối cùng tôi đã phải đầu hàng, phải mất hết bình tỉnh để chào thua và trả lại những rác rưởi về cho đại dương hung hiểm!
***
Buổi sáng vào sở làm – Vâng sở làm, dù chỉ là sở làm thiện nguyện – người ta hô hào, giương cao khẩu hiệu “chương trình giúp nạn nhân lánh bão ổn định cuộc sống”! Nghe rất cao thượng, rất tình người! Thực chất là có quá nhiều việc, nhiều người không nhằm phục vụ cho những khẩu hiệu đã cố tình giương cao mà chỉ nhằm phục vụ cho những mưu đồ, lợi lộc riêng tư! Sự làm việc không nhằm tận lòng giúp nạn nhân mà chỉ loanh quanh chơi trò chính trị. Họ cố tìm đủ mọi cách để tự đánh bóng mình, để làm vui lòng cấp trên, để cho đủ “con số” theo sự vẽ vời trong nội dung xin tài trợ!

Hầu hết những người trách nhiệm khi nhận lãnh “project” đều không có những khái niệm việc sẽ làm, không có kế hoạch khả thi, không đi sát với thực tế… chỉ biết thúc đẩy nhân viên vừa làm vừa tự học hỏi để công việc nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn! Ví dụ đưa một người Mỹ trắng từ một phương trời xa lạ, không có một kinh nghiệm nào về văn hóa, tập quán người Việt, về Houston để giữ vai trò phục vụ nạn nhân người Việt đang cư ngụ trong thành phố! Ví dụ như đưa một cô tóc vàng vừa xong đại học lãnh trách nhiệm giao tiếp với Cộng đồng Việt Nam trong chương trình tìm kiếm cho đủ “con số” nạn nhân Á châu đang sống rải rác trong lòng thành phố! Chưa kể tới những lủng củng trong chương trình của các sắc dân khác. Lý do “cấp trên” đặc biệt qua tâm đến người Việt Nam vì sự đóng góp tích cực và to tát của cộng đồng người Việt khắp nơi trong các vụ thiên tai vừa qua và số nạn nhân người Việt lánh nạn qua hai vụ bão rất đông ở những ngày đầu tiên. Thực tế số nạn nhân người Việt dự định ở lại Houston không nhiều. Các cha, các anh trong gia đình thường chạy đi chạy về vùng bão lụt để lo sửa chữa nhà cửa, lo dọn về chốn cũ. Các bà, các chị trong khi chờ đợi thì học nghề, học sử dụng máy điện toán, học tiếng Mỹ, hoặc lùng kiếm những sự trợ giúp thực tế. Chưa có người Việt Nam nào than oán chính quyền, kêu gọi biểu tình, trách cứ dân cư sở tại! Nội cái chuyện tổ chức Đại Hội Mừng Xuân Bính Tuất ở Khu Vực Sâu vừa rồi cũng đã gây sự ngưỡng phục và kính nễ của chính phủ và các sắc dân khác! (Khu Versaille, nơi dân Việt sống đông đúc nhất Louisianna, vùng thiệt hại nặng nề nhất, ít có bảo hiểm tàu bè, nhà cửa, đồ đạc trong nhà.)

Tôi đã cố gắng hết sức để giúp họ tìm phương cách khả thi; đã đưa ra những đề nghị thực tế những mong đồng bào mình có thể được nhờ vả phần nào! Càng làm việc với những người thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết như thế càng nản chí. Càng giao tiếp với những nông cạn càng ngả lòng! Dường như họ dồn nỗ lực chơi trò chính trị, cố tìm cách “chu toàn” những ràng buộc của cơ quan tài trợ bằng những phương pháp dễ dàng nhất, có lợi nhất cho họ. Họ dồn hết những trách nhiệm xuống người bên dưới mà không có một sự chỉ đạo nào rõ ràng, mạch lạc! Thay đổi quyết định như chóng chóng, nhảy loi choi trước những đổi thay thực tế như con chim biển đứng trên bờ cát ướt mỗi khi có đợt sóng đập vào bờ!

Tôi rời sở bất chợt về tới trường để buổi chiều hôm đó biết rằng cả ba đứa học trò học giỏi nhất, dễ thương nhất phải dọn nhà cùng gia đình đi xứ khác! Hơn 30 năm trong nghề, tôi đã có nhiều kinh nghiệm về việc học trò “đến và đi” không ước hẹn, mà thường thì những đứa học trò có nhiều triển vọng nhất lại sớm rời trường nhất vì nhiều lý do khác nhau!

Tại sao chẳng biết tại sao
Chẳng biết cách nào, chẳng biết vì đâu!

Buổi tối về tới nhà nghe vợ bảo thằng con đi lính bị thương ở cánh tay trong lúc tập trận! Cũng may là không nặng lắm nhưng khi nghe cũng xót ruột thương con. Tôi liền gọi điện thoại hỏi thăm, nó cười nói với tôi: “Ba don’t worry, I’m alright! Just an accident, bạn con made a mistake, con bị ra nhiều máu nhưng đã much better now!” Tôi đã trưởng thành trong chiến tranh, đã đối diện với sự sống chết hàng giờ, hàng ngày chưa từng chùn bước nhưng nghĩ tới khi thằng con sẽ phải đi Iraq làm tròn nhiệm vụ quân nhân cũng thấy se lòng! Tôi gạn hỏi thằng con:
“Bao giờ con đi Iraq?”
“Khoảng tháng 10 sắp tới”
“Ba tưởng dân Irap đâu có nói tiếng Quan Thoại ?”
“………”. Một khoảng yên lặng, chắc tại thằng con không biết tôi muốn nói gì.
“Thì con được học tiếng Trung Hoa gần hai năm, bây giờ lại biệt phái sang Iraq?”
Thằng con giờ mới hiểu ra cười ha hả trong phone.
“Con đi Iraq có lo không?”
Nó cười nói “Everybody phải do the same mà Ba! It’s a duty, đi lính là phải accept chứ! Nervous đâu có help được gì!”
Nó nói chuyện nửa Việt nửa Mỹ nghe buồn cười như vậy nên tôi cười theo con và cảm thấy bớt lo lắng phần nào qua sự trưởng thành của nó.
“Vậy mới phải chứ, con nhà lính không giống tính cũng giống… oai… của bố chứ”
Hình như tôi nghe có tiếng “hứ” của nhà tôi!

Hôm qua vào lại cơ quan bàn giao hết công việc, tôi về thẳng nhà chờ đợi nhà tôi từ sở về để nói lời tiễn biệt! Nhà tôi đã vào sở làm từ 4 giờ sáng để thanh toán công việc tồn đọng trước khi cùng bốn chị em lên đường trở về Việt Nam thăm thầy xưa bạn cũ trong kỳ Đại Hội cựu học sinh nhóm Trường Pháp Việt tổ chức ở Saigon (tôi hay nói đùa là nhà tôi và các chị em ngày xưa học trường “Con Chim” ở Đà Lạt). Tội nghiệp nhà tôi đêm qua đã thức trọn đêm để thu xếp hành lý sau khi lo bữa ăn tối cho gia đình.

Mãi tới bốn giờ chiều nhà tôi mới về đến nhà, rộn ràng với hành lý, giấy tờ để chuẩn bị lên phi trường đi chuyến tám giờ tối; tôi loanh quanh giúp cân hành lý và chuẩn bị ra trường dạy lớp sáu giờ. Lời tiễn biệt không nói được suông câu, một vòng tay ôm vội, một nụ hôn giã từ phớt qua, rồi việc ai người ấy tiến hành! Trên đường lái xe ra trường lòng tôi nao nao chùng xuống, tự nhiên thấy trống vắng lạ thường!

Nhà tôi là một người vợ mẫu mực và hiểu biêt. Trong suốt khoảng thời gian dài chung sống, tôi không có gì để than phiền về bổn phận, trách nhiệm làm vợ, làm mẹ, làm con dâu, làm chị em dâu trong một đại gia đình người đông kẻ tây vì những chia ly, mất mát nghiệt ngã sau khi Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam! Đây là lần đầu tiên nàng rời xa bố con chúng tôi. Chương trình mấy chị em đi với nhau năm tuần lễ, riêng nhà tôi cắt bớt đi một tuần, nấn ná lại để đưa Mẹ tôi về thăm con cháu còn ở bên nhà. Và cũng sắp đặt để đưa Mẹ tôi trở lại Mỹ. Theo nhà tôi “được cùng bốn chị em trở về chốn xưa lần này là một chuyến đi hằng mong ước!”

Nhà tôi xứng đáng được nghỉ xả hơi sau những tháng năm tận tụy với bổn phận và trách nhiệm. Tôi hỗ trợ chuyến đi của nhà tôi mặc dù trong thâm tâm tôi rất bất an, rất buồn bã, lo lắng! Không bất an lo lắng sao được sau mấy chục năm tùy thuộc vào nhà tôi! Từ việc cơm nước tới con cái một tay nhà tôi đảm nhận một cách vui vẻ. (Nhà tôi cho là tôi rất “vụng về chuyện nội trợ” như rửa bát thì bát vỡ, nước tung toé ra ngoài, tay chân quờ quạng; giặt đồ thì hỏi tới hỏi lui; ẵm con thì con cứ khóc thét từng hồi). Mặc dù bây giờ không phải bận tâm vì con cái nhưng bốn tuần lễ tới chúng tôi sẽ ăn uống làm sao đây! Nơi chúng tôi ở lại cách xa khu phố, hàng quán Việt Nam hàng tiếng đồng hồ lái xe! Con gái tôi được mẹ nuông chìu, lúc còn đi học chỉ biết sách vở trường lớp, sinh hoạt xã hội; bây giờ đi làm chỉ biết việc sở và các công tác thiện nguyện; việc bếp nước kể như pha, cùng lắm chỉ biết nấu món macroni and cheese, và giúp mẹ rửa bát sau buổi cơm tối mỗi ngày. Bố con chúng tôi lo lắm khi mẹ chúng ngỏ lời sẽ đi chơi mấy tuần với các chị em. Bố con bàn luận với nhau là cứ “phớt tỉnh” để cho mẹ đỡ bận tâm kém vui, nhưng trong đầu cứ hình dung tới những chiếc hamburger nhảy múa… mỗi ngày mà ê ẩm bao tử!

Sáng nay dậy sớm chạy đưa Mẹ tôi ra phi trường đi California trên đường về Việt Nam. Tôi ở cách xa Mẹ tôi khoảng một tiếng đồng hồ lái xe. Sở dĩ Mẹ tôi đi một mình về San Francisco (điểm hẹn với nhà tôi để cùng đi Việt Nam) vì nếu đi cùng chuyến “Frequent Mileage” của nhà tôi thì rất đắt tiền – Frequent Mileage là vé được hãng máy bay tặng sau khi mỗi một người sử dụng phương tiện di chuyển của họ nhiều lần. Trung bình, mỗi người mua vé khoảng hai mươi lần sẽ được tặng một vé với giá trị tương đương.

Mẹ tôi năm nay đã 85 tuổi. Bà cụ vẫn rất minh mẫn và khoẻ mạnh. Sau khi đến Mỹ năm năm, để giúp bảo lãnh mấy đứa con đi theo diện PIP hợp pháp, Mẹ tôi miệt mài học tiếng Mỹ ở hội cao niên dưới phố! Sau thời gian gần một năm, Cụ bắt đầu nói và hiểu được tiếng Mỹ dù nghe rất “ba xí ba tú” nhưng hàng xóm hiểu, ông xe bus hiểu, bà phát thư cũng hiểu. Khi được gọi phỏng vấn quốc tịch, Cụ lại càng miệt mài học mấy chục câu tủ bằng tiếng Mỹ. Ngày đi thi chúng tôi lo lắm! Vậy mà Cụ thi đậu ngay lần đầu! Những năm trước Cụ vẫn đi Việt Nam một mình! Bên nhà nào là mồ mả, hương khói ông bà; nào là con cháu; nào là họ hàng, anh chị em. Thế nên mỗi năm Cụ vẫn đi một lần thường vào dịp Tết hay những dịp cúng giỗ lớn. Mẹ tôi rất thích ăn trầu. Cụ nói bà Ngoại tôi đã dạy Cụ đã ăn trầu từ năm 16 tuổi. Năm xưa, khi Cụ mới qua Mỹ đoàn tụ, tôi có thử đề nghị Cụ bỏ trầu vì khó kiếm! Cụ đồng ý… nhưng chỉ được mấy hôm! Nhớ có một lần Cụ về mang trầu cau qua Mỹ, bị bắt phạt ở phi trường Los Angeles, không biết Cụ nói năng làm sao mà họ tha, chỉ bị tịch thu hết Cụ tiếc lắm! Hỏi Cụ làm sao không bị phạt, Cụ nói “nó nói tiếng Mỹ nó nghe, Mẹ cứ nói tiếng Việt và ra dấu, chắc nó nản lòng nên tha Mẹ”; nói xong Cụ cười ngất! Năm nay Cụ không về thăm vào dịp Tết Nguyên Đán vì sức khoẻ không cho phép. Cụ đã tính cuối năm nay sẽ đi nhưng khi nghe nhà tôi đi, Cụ thay đổi ý định liền, mặc dù Cụ biết là sẽ phải đi một mình tới San Francisco.

Tôi đưa Mẹ tôi ra phi trường và xin được tiễn Cụ ra tận cổng phi cơ vì Cụ đi đứng khó khăn. Tôi xin cho Cụ được ngồi xe lăn vì khoảng đường ra phi cơ rất xa. Khi người phục vụ đẩy xe Cụ gần khuất qua lần cửa, Cụ còn cố quay lại dặn tôi ăn uống đàng hoàng! Vâng, Mẹ tôi vẫn xem anh chị em chúng tôi như con nít. Mỗi cuối tuần chúng tôi tụ họp về bên Cụ, Cụ vẫn tất bật, lăng xăng trong bếp với mấy mợ con dâu và một O con gái; chúng tôi nói cách nào cũng không thay đổi được, riết rồi quen luôn. Khi ngồi vào bàn ăn, Cụ hay gắp miếng này, múc miếng khác bỏ vào từng chén cho mấy thằng con trai! Nhà tôi cắc cớ nói “Mẹ đối xử không công bình, sao Mẹ không gắp cho mấy con dâu”, Mẹ chỉ cười nói “Mẹ chỉ làm giúp các con dâu thôi mà”!

Chúng tôi có một lũ anh em trai, vài đứa em gái. Thế nhưng bao năm thăng trầm của gia đình Ba Mẹ tôi đều có các cô em dự phần. Lũ con trai chúng tôi hết đi học lại đi lính. Đứa nào còn nhỏ thì ở với gia đình một thời gian rồi cũng được Ba Mẹ tôi cho đi học xa, vì gia đình Ba Mẹ tôi ở một quận lỵ nhỏ. Có lẽ vì ít được ở gần Ba Mẹ nên lũ chúng tôi lúc nào cũng được cưng chìu. Hơn nữa, xưa kia Ba Mẹ tôi quan niệm con gái không cần học nhiều nên các cô cứ mãi loanh quanh với hai Cụ. Tôi tự nghĩ, phong tục Á Đông thường trọng nam và coi nhẹ nữ; nhà nào cũng mong có con trai để nối dõi tông đường… thật là bất công! Vì nhan nhản trước mắt, qua thời gian chiến tranh, và cả ngay trên đất nước văn minh này… thường người gần gũi nhất, khổ cực nhất, lo cho Ba Mẹ nhiều nhất lại là con gái. Như các em gái tôi chẳng hạn; hai đứa đã cùng Ba Mẹ tôi trôi nổi suốt cuộc đời, cùng Ba Mẹ tôi chạy giặc bao lần; qua bao nhiêu hoạn nạn gia đình đều do các cô gánh vác, ngay cả lần Ba tôi nằm xuống; trong khi lũ con trai chúng tôi kẻ đông người tây, hoặc đi học xa nhà hoặc mải mê chinh chiến; rồi đứa ở trong tù, đứa chạy sang Mỹ khi giặc về! Tôi đã mải mê trong chiến trận, không về thăm được gia đình gần hai năm sau cùng vì chiến trận mỗi ngày thêm khốc liệt. Thế rồi miền Nam bị cưỡng chiếm và tôi lưu lạc quê người suốt mấy mươi năm! Khi hay hung tin Ba tôi nằm xuống mà tôi đã không thể về để được nhìn mặt người Cha yêu quý lần cuối! Như vậy là tôi đã không thấy mặt Ba tôi gần 17 năm dài trước khi Người nhắm mắt lìa đời!
***
Bây giờ gần 12 giờ khuya. Mấy đứa con đã an giấc nồng. Tôi ngồi trong phòng một mình, rất tĩnh lặng. Ngó qua vuông cửa sổ, dưới ánh đèn đường vàng vọt, cỏ cây cũng yên tịnh lạ thường. Tôi quay lại nhìn lên bàn thờ, nhìn rất kỹ vào bức hình của Ba tôi! Râu tóc Người bạc phơ, đôi mắt như đang lung linh soi rọi tấm lòng tôi buồn bã! Tôi bỗng giật mình… vì vài ngày nữa đã là ngày giỗ thứ 17 của Ba tôi! Tôi đứng lên thắp nhang lên bàn thờ Phật, bàn thờ Ba và các anh tôi. Trong lòng thành khẩn nguyện cầu, xin cho Mẹ và nhà tôi đi đường bình an, sức khoẻ tốt lành, đi tới nơi về tới chốn. Quay lại bàn viết, lật bài thơ cũ đã viết cho Ba tôi năm nào, vừa đọc lại vừa rưng rưng trong lòng với nhớ thương vời vợi!

Yên Sơn

***

BóngVà Hình – Trần Phù Thế
1.
đưa tay níu bóng níu hình
đừng cho cái bóng cái tình lìa nhau
bởi hình là bóng mai sau
2.
tay nào ve vuốt bóng tình
thịt da nào cũng của mình của ta
em đừng bỏ bóng hình nha
3.
em đừng mong mỏi nơi tôi
từ lâu hình đã phai phôi lâu rồi
bóng hình xa cách hai nơi
tôi em cũng vậy lắm lời càng đau
4.
trăm năm bóng chẳng thấy hình
ngàn năm bóng vẫn một mình cô đơn
đời còn chiếc bóng nào hơn
khi hình xa bóng bóng còn một thân
5.
hình mong bóng trở lại nhà như xưa
dù trời bão tố nắng mưa
thì hình vẫn đợi vẫn chờ trăm năm
6.
bóng hình một bữa cách xa
hình ôm chiếc bóng khóc òa trong mê
bao năm bóng chưa thấy về
7.
bóng đi khuất bóng chân trời
còn hình ở lại một đời hắt hiu
bóng hình là ảo ảnh thôi
8.
đêm còn giết bóng hoàng hôn
như em từng giết linh hồn của ta
dù rằng tình cũ cách xa
ái ân ngày trước hôm qua vẫn còn
vẫn còn hơi ấm nụ hôn
dù trăm năm nữa mùi son vẫn nồng

Trần Phù Thế

***

Quê Người – Nguyễn An Bình

Nắng rải chiều lên sông
Chiếc lá vô tình rơi trên vai sóng
Lăn tăn nghe tiếng cười reo vui vỡ vụn
Cò giật mình chớp cánh bay đi
Về thôi ngày sắp tàn
Chỉ còn tôi mải mê đứng đợi
Chờ hoàng hôn gọi vọng lại tên mình
Giữa khoảng không xa ngái
Mênh mông vô định.

Tôi xa người mưa hãy còn xanh
Mảnh trăng cong oằn treo sợi nhớ
Bật thành âm thanh sắc nhọn
Cơn mơ hóa thành tia chớp âm hồn
Tiền kiếp trôi biền biệt
Tóc tơ đâu thành duyên nợ
Nên lỗi hẹn trầu cau
Cho vôi nồng phai hương lửa
Cội rễ nhạt nhòa trong cơn mê chiều
Mang niềm đau xa xứ
Cố hương đâu chỉ là một tiếng gọi
Sao lòng âm âm suốt cả phận người.
.
Người xa tôi nắng vàng cuối ngỏ
Chùm thạch thảo nhà ai không còn tím ngát
Hoa diên vĩ mõi mòn hương sắc
Sông quê chưa một lần quay về
Gương mặt nhòe không còn thấy bóng
Mùa thu chắc gì cúc tần lại nở
Con đường đột nhiên hửng nắng
Không thể xua tan sương khói quẩn quanh
Ám cả một đời cô quạnh
Thèm úp mặt vào bức tường vôi vữa
Đã xanh rêu niềm hạnh phúc bao giờ
Biết ai còn nhớ.

Em và tôi hai con chim lẻ bạn
Bay đi tìm một nửa đời nhau
Mơ khu vườn địa đàng nhiều hoa thơm cỏ lạ
Trái cấm ngọt ngào hương vị
Ô cửa mở toang bao điều bất hạnh
Dòng sông thành ngã rẻ
Rối lòng nhau những lúc muốn tìm về
Quê người thành một phần xương thịt
Xóa từng ký ức cố hương.

14-04-2017
Nguyễn An Bình

***

Quà Cưới – Hạt Cát

Ðọc xong bức email của Tân, Vy mỉm cười bâng quơ. Nàng không tin đó là sự thật, chắc là anh chàng muốn trêu nàng đấy thôi. Thời gian qua đã mấy mươi năm rồi còn gì, kể từ ngày chấm dứt năm cuối cùng của Trung Học. Có chắc nhân vật ấy là mình không hay một người nào khác mà Thành, bạn Tân, đã nhầm lẫn. Nàng đánh một email khác nhấn mạnh hỏi Tân rằng có thật vậy không. Ðược Tân trả lời là thật 100%, Vy buông mình ra ghế, thẫn thờ nghĩ ngợi. Nàng vẫn không mường tượng được đã có một câu chuyện như thế, dù nàng biết rằng Tân không đùa cho vui khi nói chuyện này. Vy vốn biết Thành từ thời ngây thơ áo trắng học trò, Thành cùng trường, cùng khoá nhưng không cùng lớp. Hồi ấy trường trung cấp tỉnh lẻ mà nàng theo học có hai cơ sở, một cơ sở cho nam sinh, cơ sở kia cho nữ sinh, hai nơi cách nhau khoảng một, hai cây số nên học sinh nam nữ ít khi biết về nhau tận tường, chỉ những học sinh ưu tú thường được các thầy cô nhắc nhở đến thì bọn học trò… nhỏ nhít như nàng mới …tò mò tìm cơ hội để …xem mặt.

Nàng không nhớ mình nghe được cái tên của anh chàng Thành này trong thời gian nào, nhưng nàng có biết mặt Thành trong một dịp sinh hoạt chung mà nàng cũng không nhớ rõ là bao giờ, và có lẽ cái tên dễ nhớ nên nó ăn sâu vào ký ức của nàng cùng với tên một vài người khác. Tân cũng là một bạn học cùng khoá với nàng và Thành nhưng Tân về trường vào năm Ðệ Tam nên nàng không biết Tân và nàng cũng không nhớ là mình đã từng nghe qua tên anh chàng hay không, mãi cho đến bây giờ, mấy mươi năm sau, nhờ phương tiện truyền thông hiện đại thời vi tính, nàng có cơ hội quen biết một vài bạn trong khoá học cùng thời, trên một lớp hoặc dưới một lớp qua trang nhà cựu học sinh ở Hoa Kỳ, mà anh chàng đảm đang việc …bao đồng cho trang nhà này – Tuân – là người được một cựu giáo sư của trường hiện thời đang ở Canada giới thiệu là học trò của ông. Tân là bạn thân của Tuân hồi ấy và cũng là một trong những bạn mà nàng mới quen.

Trước kia, Vy không biết Tân, nhưng qua những lời lẽ trong thư của Tân gửi cho bạn bè qua một danh sách địa chỉ email dài ngoằn, Vy nhận thấy Tân là người sâu sắc, trọng tình cảm và lại hay đem lời dạy dỗ từ Phật pháp, từ mẹ hiền mà an ủi bạn khiến nàng nổi tính…tò mò, bèn… gửi email cho Tân để …bắt chuyện. Qua lại thư từ với Tân vài lần, Vy khám phá ra ngôn từ của anh chàng cũng đầy tính chất trào lộng nhưng không thiếu phần lịch sự là một điều rất phù hợp với nét…tiếu ngạo, tinh nghịch …ngầm của Vy. Bề ngoài Vy thâm trầm ít nói, ở chỗ đông người nàng nghe và cười nhiều hơn. Xinh xắn, trẻ trung lại thêm tài hoa, mặc dù biết là nàng có chủ nhưng các ông yêu thích nghệ thuật văn chương trong cùng lứa tuổi với nàng vẫn rộn ràng lượn lờ chung quanh mỗi chỗ nàng tới. Ở xứ người quanh năm bận bịu việc sinh nhai, cơ hội gặp gỡ nhau rất hiếm hoi, nên mỗi khi có dịp gặp gỡ, các ông cười cợt với nhau rồi xoay qua trêu chọc nàng cốt chỉ để cho nàng được cười vui, nàng biết thế và nàng ứng xử hoà nhã khiêm cung không làm mất lòng ai nên được rất nhiều anh chàng mến mộ từ bao năm trời nay. Ðối ngược với cái thâm trầm đó là tính lém lỉnh, nghịch ngợm …ngầm tiềm ẩn trong con người nàng. Từ thuở còn là cô bé áo trắng ngây thơ cho đến bây giờ. Mỗi khi thư từ cho ai trong giới bạn bè nàng chẳng thể nào đừng …bông đùa giễu cợt được. Nàng …sợ nhất là nói chuyện với các …ông cụ non. Tân là một trong những người nàng thường xuyên đối đáp qua lại trong nhóm bạn hữu cũng bởi tính chất khôi hài cởi mở của Tân . Tân cũng biết được nàng tài hoa qua bài vở, thi ca của nàng góp mặt trên trang nhà cựu học sinh và rải rác trên một số Emagazine. Mặc dù mới quen nhưng tình nghĩa của trường xưa bạn cũ khiến họ dễ dàng thân thiết, lại thêm mối cảm thông về đạo pháp, thi ca càng làm họ tin tưởng và nể nang nhau. Họ cũng hiểu đại khái hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội của nhau, ai cũng đều có trách nhiệm, có bổn phận phải chu toàn nên mối tương quan của họ rất nhẹ nhàng thoải mái. Chưa ai biết mặt mũi của ai ra sao nhưng họ cũng chẳng cho đó là quan trọng.

Ngày hôm nay, Tân …hồ hỡi cho Vy hay chủ nhật vừa qua, Tân và một vài người bạn trong nhóm cựu học sinh ở quê nhà họp mặt với nhau, câu chuyện lan man dẫn dắt họ về những ngày xưa thân ái, tình cờ họ nhắc đến nàng, và Tân khám phá ra một điều là Thành biết nàng rất rõ, anh chàng Thành còn nói rằng ngày ấy anh ta …trồng cây si …trước cửa nhà nàng một thời gian khá dài, anh chàng kể lể đủ thứ về nàng, còn khoe với Tân là hồi ấy nàng đẹp…liêu trai, huyền ảo nữa chứ. Tân cười hì hì trong email, anh chàng bảo Vy nên viết thư về thăm Thành. Vy vẫn không sao tin được việc này. Nàng không biết anh chàng Thành có nhầm lẫn nàng với ai chăng, sao hồi đó nàng chẳng hề hay biết gì cả.

Chưa rõ câu chuyện thực hư thế nào, nhưng nó khiến Vy bồi hồi nghĩ tới một người mà trong bao nhiêu năm trời nay, mỗi lần nhớ đến nàng đều thở dài, ngậm ngùi thương cảm. Người ấy là một vị giáo sư đáng kính của nàng. Cái tình cảm đơn phương lặng lẽ cao đẹp của Người dành cho nàng tưởng chừng như rất mong manh nhưng ngờ đâu nó lãng đãng quanh nàng một cách dai dẳng trong mấy chục năm qua…

Một cô bé mười lăm ngồi lớp Ðệ Ngũ như nàng hồi ấy quả là rất ngây thơ trong sáng. Tóc bím ngang vai, áo trắng không eo dài ngang gối đi kèm quần ống rộng nửa khổ vải chín tấc theo thời trang hồi ấy, nàng nhỏ nhắn, mộc mạc, dung dị nhưng có cái nét sáng sủa, xinh xắn, dễ thương của cô học trò nhà quê trong tuổi hoa chớm nụ. Linh tính con gái cho nàng biết dường như có điều gì khác lạ ở cái nhìn trong giờ dạy của Người. Nàng không nhận định được là điều gì, vì chưa bao giờ nàng bắt gặp cái nhìn ấy một cách trực tiếp, nhưng nàng cảm nhận ra nó mỗi khi nàng cắm cúi viết bài, làm bài mà Người đang đứng đâu đó trong trách nhiệm coi ngó lũ học trò. Không chỉ riêng nàng linh cảm được điều ấy mà vài cô bạn của nàng cũng có cùng nhận xét. Người thường gọi nàng lên bảng đọc bài, trả bài khiến nàng phải chăm học hơn về cái môn này. Nàng không làm cho Người thất vọng khi bước những bước tiến rõ ràng trong môn học của Người.Mỗi tuần lớp nàng có bốn giờ dạy của Người, nàng không bao giờ dám vắng mặt trong những giờ đó. Và Người cũng như thế, nhưng chỉ là những cái ngắm nhìn không tên tuổi trong suốt chín tháng trường.

Bước sang năm Ðệ Tứ, bọn học trò con gái lớn thêm một tuổi, bắt đầu biết thẹn thùng, điệu đà, làm duyên, làm dáng và …lắm chuyện. Nàng bắt đầu nghe những lời xì xào bàn tán nhưng tính nàng lại không thích …hóng chuyện nên nàng cũng không rõ là các bạn đang bàn bạc điều gì. Năm này nàng cũng bắt đầu hé lộ ít nhiều nét e ấp, thẹn thùa của một cô thiếu nữ. Mỗi khi linh tính báo cho nàng biết là đang bị ai đó ngắm nhìn từ phía sau hay từ phía trên khi nàng đang cúi đầu viết bài thì nàng cảm thấy …hồi họp, nàng không dám cử động mạnh, không dám ngước lên hay quay về phía sau. Mãi đến thời gian gần cuối niên học, cứ sau giờ dạy của Người là mấy cô bạn thân kéo nàng lại báo cáo với nàng là khi Người đứng chỗ kia, chỗ nọ ngắm nàng thì bạn A. đã có những thái độ ra sao để lôi kéo sự chú ý của Người. Bọn học trò con gái vốn đã …lắm mồm, giờ thêm sự việc xảy ra có chiều …ly kỳ cho nên các cô tha hồ mà kháo nhau…tin …vịt. Các cô đem nàng ra trêu chọc nhưng rồi cũng chả ai có lý do nào chính đáng để nói gì, vì nhân vật …quan trọng lại hoàn toàn im lặng từ đầu đến cuối.

Hết năm Ðệ Tứ bọn học trò con gái thôi còn là những cô bé nhí nhảnh hồn nhiên vô tư lự nữa. Một vài cô …đàn chị đã bắt đầu …hẹn hò, bắt đầu bỏ ….cuộc chơi dần dần. Các cô thêm một tuổi, thêm e ấp, thẹn thùa, thêm những thứ tình cảm vu vơ trong tâm hồn trong sáng. Nàng cũng như các bạn, bắt đầu bước vào năm Ðệ Tam đã có ít nhiều cảm xúc, rung động trong cái tình cảm vu vơ của tuổi mộng mơ. Nàng hay mỉm cười e thẹn khi nhìn vào gương đã thấy đôi má mình hồng hơn, thấy đôi mắt mình long lanh hơn. Vào năm này thì các giáo sư không còn xem các cô là …trẻ con nữa, các thầy đối với học trò thân thiện, cởi mở hơn, nhất là các vị trẻ tuổi. Năm ấy có lẽ Người đã hơn ba mươi, Người thường hay đi chung với một giáo sư bạn cùng trang lứa phụ trách một môn học khác cho lớp của nàng. Cả hai vị đều được bọn học trò con gái lớp nàng mến mộ. Vì không quá nghiêm nghị, khắt khe nên tình thầy trò có chiều thân thiết hơn các giáo sư khác. Bọn con gái chia thành nhiều nhóm do điều kiện tính tình, chỗ ở chợ, quê khác biệt mà chơi với nhau. Nhóm của nàng và cô bạn thân, nhà có vườn cây ăn trái, có rẫy bái, ruộng nương xanh ngợp. Tuy là quê nhưng không xa thành thị là bao nên vào những cuối tuần thong thả, bọn con gái hay tổ chức đến nhà bạn này, bạn nọ sinh hoạt với nhau, các cô mời cả hai thầy cùng đến chung vui. Nhà các thầy ở Sài Gòn, mỗi ngày các vị di chuyển bằng xe động cơ hai bánh, sáng đi chiều về. Ðời sống ở đô thị với không gian chật hẹp, tù túng đã khiến quý thầy lấy làm vui thích khi được bọn học trò mời về nhà quê chơi. Một bầy học trò con gái và hai nam giáo sư sinh hoạt với nhau dưới bóng mát của vườn quê trái ngọt cây lành, có chim hót líu lo, có trời xanh lồng lộng, có mây trắng bồng bềnh rất là thoải mái đã trở thành những kỷ niệm êm đềm khó quên của tuổi học trò. Có một lần, đến phiên các bạn sinh hoạt ở nhà Vy. Hôm ấy Người vui vẻ lắm, trong suốt thời gian ở nhà nàng, khi ngoài vườn, lúc trong nhà Người đặc biệt chăm sóc, nhắc nhở, dặn dò Vy việc này việc nọ rất ân cần, có khi trước mặt mọi người, có khi Người gọi Vy đến bên cạnh. Người chuyện trò với ông cụ Vy, một trẻ một già rất tương đắc, người vốn dạy về Sinh ngữ Pháp mà ông cụ Vy lại là người thông thạo tiếng Pháp. Không biết nội dung câu chuyện giữa hai người ra sao, nhưng khi ai về nhà nấy rồi thì ông cụ khen Người rối rít.

Năm này ánh mắt của Người mỗi khi nhìn ngắm nàng có chiều …tha thiết và thường xuyên hơn khiến một cô bạn cùng nhóm bỗng …đâm ra ganh tỵ với nàng. Tuy vậy mức độ tình cảm của nàng và cô bạn ấy vẫn không có gì sứt mẻ quá đáng, có điều là cả hai cùng đua nhau …cố gắng…chăm học. Bản tính nàng ít oi, nhút nhát lại hay cả thẹn nên nàng không biết chuyện Người đã để ý đến nàng nhiều hơn, nàng được rõ mọi việc xảy ra là do các bạn ngồi phía sau lưng …âm thầm quan sát trong giờ dạy của Người để rồi khi xong giờ, Người bước ra khỏi cửa là các bạn kéo tới nàng …báo cáo. Nghe các bạn nói thế nàng chỉ biết e thẹn, mỉm cười chống chế …lấy lệ …“ Có thiệt hong đó, mí bồ đừng …thêm mắm dặm muối nghen, thầy …hỏng có nói dí tui cái gì hết á ” nhưng trong lòng nàng cũng không khỏi cảm thấy xuyến xao rung động. Có lần linh cảm được Người đang ngắm mình, nàng đánh bạo thu hết cam đảm giả đò nhìn lên một cách tình cờ thì bắt gặp Người chợt quay đi nhưng vẫn còn để lại ít nhiều trìu mến trong ánh mắt. Trái tim cô học trò lớp Ðệ Tam như nàng hãy còn khờ khạo lắm, nàng chưa biết , chưa nghĩ gì đến việc yêu đương, chỉ biết có người – nhất là nam giáo sư – ngắm mình thì lòng cũng thấy thinh thích, thấy bất chợt xao xuyến vẩn vơ rồi sau đó mọi sinh hoạt thường ngày cũng ùa đến mà chiếm hết thời gian còn lại.

Một buổi sáng nhằm ngày lớp nàng có hai giờ đầu môn học của Người. Chuông đã reo báo giờ vào lớp mà không thấy thầy đâu. Năm phút, mười phút, rồi nửa giờ trôi qua cũng không thấy, cả lớp bắt đầu nhốn nháo túa ra hành lang đứng ngóng ra đường. Ðứng ở hành lang trên lầu của dãy lớp học dài, bọn con gái có thể nhìn thấy bóng người xa xa trên con đường đất đỏ đầy bụi mù dẫn vào trường từ quốc lộ 13. Một bầy con gái nhấp nha nhấp nhỏm vừa trông ngóng vừa bàn qua tán lại lý do thầy đến trể …nhặng xị cả lên. Ðứa thì bảo “Chắc thầy …ngủ quên”, lại có đứa bảo “ Thầy đi …lạc”, có đứa …không ưa môn học thầy dạy còn bạo miệng nói “ …Vái cho…thầy …bị cái gì đó không đến dạy hôm nay đặng mình khỏi …trả bài”. Ðợi mãi đến hết hai giờ học thầy cũng không xuất hiện. Trưởng lớp chạy xuống văn phòng hỏi thăm thì thầy giám thị cũng không biết được gì. Ðã đến giờ dạy của một giáo sư khác nên trật tự của lớp được ổn định lại dần dần.

Ai nấy đều nghĩ rằng thầy bận việc hoặc đau bệnh thình lình không thể đến dạy nên cũng chẳng thắc mắc chi lâu. Mãi cho đến lúc sắp hết giờ học cuối, bọn học trò sắp sửa ra về thì thầy giám thị lên tận lớp báo tin Người đã bị tai nạn lưu thông trên đường đến trường, Người bị thương, gãy chân cần phải nằm bệnh viện để giải phẫu. Cả lớp nghe tin ai nấy ngẩn ngơ buồn bã, những bạn dại mồm dại miệng nói đùa hồi sáng bỗng …đâm ra hối hận, Vy cũng cảm thấy buồn như các bạn và có lẽ buồn hơn …chút xíu. Thế rồi, giáo sư khác được điều về để thay thế cho Người môn dạy ấy. Bọn học trò không thấy thích thú với vị giáo sư mới này nhưng cũng đâu làm gì khác hơn được. Mọi việc trong lớp học lại lắng động bình thường như bao lớp khác.
Bây giờ thì nhóm của Vy có thêm một việc để làm vào những cuối tuần thong thả thay thế cho việc đến chơi nhà các bạn. Ấy là tổ chức kéo nhau đi bệnh viện thăm Người. Lần nào đi, cả nhóm cũng nằng nặc phải…lôi nàng đi cho bằng được dù có nhiều lúc hoàn cảnh của nàng không cho phép, họ nói có nàng đến thăm sẽ khiến thầy được …vui vẻ mà mau lành bệnh. Bọn học trò con gái nhóm của Vy tổ chức đi thăm Người rất nhiều lần, khổ cho Người là cái chân bị thương tật của Người không …chịu lành nên cứ phải trải qua hết cuộc giải phẫu này đến cuộc giải phẫu khác, đến nỗi vào bệnh viện mà hỏi thăm vị giáo sư đã giải phẫu chân nhiều lần nằm điều trị ở phòng nào thì ai cũng biết. Người được điều trị trong bệnh viện và nằm dưỡng thương tại nhà gần …hai năm trời, mỗi lần bọn nàng đến thăm thấy thầy xanh xao gầy gò, đứa nào đứa ấy cũng muốn …rớt nước mắt, gặp được bọn nàng, Người vui mừng lắm, ánh mắt Người sáng hẳn lên, nhất là khi Người nhìn nàng, ánh mắt có thêm tia nhìn trìu mến đậm đà . Ðến thăm thầy tại bệnh viện rồi tại nhà, trước sau chỉ thấy có người em gái của thầy thôi, bọn Vy không dám hỏi thầy …”cô” đâu mà chỉ đoán chắc là thầy chưa có …cô.
Thời gian cứ trôi qua, bọn con gái mỗi ngày mỗi thêm lớn, kiểu cách sinh hoạt có nhiều thời giờ rảnh rổi trong lứa tuổi thơ ngây không còn nữa, ai nấy cũng có thêm trách nhiệm trên vai, thêm công việc để lo lắng thay thế cho mấy ông anh bà chị đã đi ra khỏi nhà với tiểu gia đình của họ. Những cuộc viếng thăm Người thưa dần đi. Vy cũng không ngoại lệ.

Khi Người có thể đi dạy trở lại với sự hỗ trợ của cái nạng gỗ vì chân gãy còn yếu thì hướng đi của Vy đã bắt đầu rẽ sang một ngả khác. Sinh hoạt ngày càng đắt đỏ khó khăn, đồng lương hưu của ông cụ Vy khó thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu áo quần, sách vở, bút mực cho nàng và đám em ba đứa nên nàng có ý định thôi học. Thời gian Người trở lại trường chính là lúc Vy đã chập chững đi vào con đường … hẹn hò, đưa đón, sắp sửa …theo chồng …bỏ cuộc chơi. Năm đó lớp nàng đã được chuyển sang học bên trường dành cho nam sinh. Người không có giờ dạy lớp Vy nhưng thỉnh thoảng thầy trò có đụng mặt nhau ngoài sân trường, cửa lớp, Vy cúi đầu lí nhí chào Người, hỏi dăm ba câu thăm sức khoẻ Người rồi tiếp tục đường ai nấy đi. Một hôm, buổi sáng, vừa ló mặt vào lớp thì nhóm bạn nàng vội vã kéo nàng lại một góc rồi bắt đầu…sỉ vả “…Chùi ui, bồ …ác thì …ác…vừa vừa thôi, hẹn nhau đưa đón thì kiếm chỗ nào xa xa một chút. Ở ngay trước cổng trường, thầy đứng ngoài hành lang văn phòng nhìn ra thấy, thầy …biến sắc, trông thầy…buồn hiu …tội nghiệp lắm á”. Trời đất ơi! Vy làm sao mà biết được chuyện này, người ta đưa đón Vy cũng giống như bao kẻ khác, thì cứ đậu xe chờ ở trước cổng trường thôi mà. Nhưng rồi Vy cũng nghe lời các bạn, không cho người ta đón ở cổng trường nữa.

Ít lâu sau đó, Vy được người ta ngỏ lời cầu hôn và nàng đồng ý nên chuẩn bị chia tay các bạn. Ngày cưới gần kề, bọn Vy lại tụ họp nhau bàn tán, cả bọn đắn đo việc có nên mời hai vị thầy đến dự hay không, bạn thì bảo nên, bạn khác lại cho rằng không e Người sẽ …khổ tâm, bàn qua tán lại cả bọn đồng ý không cho Vy gửi thiệp mời hai vị ấy.

Sau hôn lễ một thời gian, tới lui thăm nhà được vài bận, một hôm Vy nhìn thấy có chiếc đồng hồ báo thức loại dành để chưng bày trên bàn trang điểm rất nhỏ nhắn và xinh xắn xuất hiện trong nhà. Trước đến giờ, Vy chưa từng thấy vật ấy, hỏi thì các em nàng nói là của ông anh ở xa gửi về cho.Vy cũng không bận tâm về nó lắm cho đến một ngày kia khi Vy ghé viếng nhà cô bạn thân thiết nhất từ trước đến giờ, cô bạn cho Vy biết rằng Người quá đau buồn đã xin chuyển đi nơi khác, không còn dạy ở trường nữa, đồng thời cô hỏi Vy đã có nhận được quà cưới từ Người không? Vy ngạc nhiên vô cùng, bảo với bạn “… Bọn mình không có mời Người đến dự mà làm sao có quà”.Cô bạn kể lại cho Vy hay rằng Người biết việc Vy kết hôn nên đã chuẩn bị sẵn một món quà cho Vy rồi, không ngờ bọn Vy đã chẳng cho Vy mời nên Người không thể đến, nhưng Người đã mang món quà ấy trao lại cho một cô bạn trong nhóm, nhờ cô đưa tới cho nàng, và cô bạn đã gửi đến gia đình cha mẹ nàng sau ngày cưới ít hôm. Vy tức tốc trở lại nhà, gạn hỏi mẹ và các em, cuối cùng mẹ nàng xác nhận quả thật có món quà ấy và có cả lời chúc phúc với nét chữ thân quen của Người, món quà ấy chính là chiếc đồng hồ báo thức xinh xắn mà Vy thấy lạ trong nhà. Mẹ bảo không cho Vy biết vì sợ tâm lý Vy bị xao động sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc. Cầm chiếc đồng hồ trên tay Vy ngơ ngẩn hàng giờ. Mường tượng đến hình ảnh Người chống chiếc nạng gỗ vất vả đi tìm một món quà nhỏ bé xinh xắn mà đầy đủ ý nghĩa để làm quà cưới cho nàng, rồi mường tượng đến nét mặt buồn bã của Người khi trao món quà này cho cô bạn, rồi lại mường tượng hôm cử hành hôn lễ, có thể Người đã đứng ngồi đâu đó bên chiếc nạng, lặng lẽ nhìn theo Vy bước vào xe hoa mà lòng xót xa khiến Vy ngậm ngùi thương cảm.Vy thở dài rồi thở dài, nàng không ngờ tình cảm Người dành cho Vy lại sâu đậm đến như vậy, trong khi Vy hồn nhiên vô tình hẹn hò đưa đón trước mắt Người rồi lại thản nhiên cười cợt bên cạnh người ta.

Biết được ngọn ngành của chiếc đồng hồ, Vy không thể nào không mang nó theo về nhà riêng với nàng. Trời ơi! Bày chiếc đồng hồ này trên bàn trang điểm ở đầu giường là vô tình mỗi ngày Vy đều trông thấy nó. Người …bắt Vy mỗi ngày phải nhớ đến Người dù có nhớ cũng chẳng để làm chi.Và cứ thế, chiếc đồng hồ ấy nằm trên bàn phấn của Vy qua năm này tháng nọ. Mỗi tuần lễ khi thu xếp lại vật dụng cho ngăn nắp trên bàn phấn là Vy có dịp cầm nó lên, nàng nâng niu lau quét bụi bám vào nó rồi khẽ khàng đặt xuống. Chuyện của Người thỉnh thoảng trong lúc vui vẻ nàng có kể lại cho người ta nghe nhưng nàng không cho người ta biết sự tích của chiếc đồng hồ ấy, nàng chỉ nói đại khái là quà bạn bè tặng ngày cưới. Nó cứ nằm mãi ở đấy trong một quảng thời gian liên tục mấy năm dài cho đến khi nó cũ kỹ và các con nàng làm rơi xuống đất khiến máy móc bị lệch lạc thì nàng cất nó vào hộc tủ bàn trang điểm ấy. Lâu lâu khi thu dọn sắp xếp lại hộc tủ, bắt gặp nó nàng ngậm ngùi cầm lên ngắm nghía một lúc rồi đặt nó vào chỗ cũ. Vy chỉ không nhìn thấy được nó kể từ khi lìa xa đất nước ra đi.

Bao nhiêu năm đất khách quê người, thỉnh thoảng hình ảnh của Người vẫn hiện ra trong tâm tưởng Vy, mỗi lần nhớ đến là mỗi lần Vy không tránh khỏi nỗi niềm thương cảm. Dạo trước khi mới liên lạc được với một vị cựu giáo sư của trường trú ngụ tại Canada, Vy có hỏi thăm vị ấy về tin tức Người nhưng không có kết quả gì, rồi khi có tin tức của nhóm cựu học sinh, Vy lại tìm được một cô bạn cùng lớp hồi ấy, tuy ngày xưa không thân lắm nhưng hôm nay đất khách quê người, gặp được bạn cũ cả hai mừng lắm,Vy có hỏi bạn về Người nhưng bạn ấy cũng không biết gì hơn. Ðến bây giờ câu chuyện đã thuộc về dĩ vãng mấy mươi năm rồi, tình cờ mà Tân nhắc đến Thành khiến nỗi niềm kia sống lại trong lòng Vy.
Ðến bây giờ tuổi đời càng chồng chất Vy càng hiểu rõ rằng tình cảm đơn phương lặng lẽ mà sâu đậm ấy của Người không phải là Người không muốn thố lộ cùng Vy, nhưng đã có nhiều lý do khiến Người không thể bày tỏ cho Vy biết sớm, Người âm thầm chờ đợi một cơ hội vào một thời điểm thuận tiện hơn nhưng rồi cái cơ hội thuận tiện ấy chẳng bao giờ có được vì đã quá nhiều bất trắc xảy đến cho Người, cuối cùng rồi Người lại lặng lẽ chôn kín cái tình cảm ấy vào món quà cưới tặng nàng. Ðến bây giờ nàng mới hiểu rõ hẳn Người đã nhiều lần đè nén tâm tư trong những ngày nằm dưỡng thương chính vì Người không muốn nàng phải chịu khổ. Người hiểu được rằng nếu như Người quyến luyến, ân cần với nàng nhiều hơn, rõ nét hơn thì hẳn nàng cũng sẽ không cầm lòng được. Vì rõ ràng nàng cũng e thẹn, xao xuyến và rung động mỗi khi gặp mặt Người, nàng cũng khó dấu là nàng đã manh nha một thứ tình cảm khác hơn tình thầy trò thuần túy. Ngày xưa khi bị bạn bè trách là vô tình thì nàng tự chống chế rằng Người đã không nói gì, nàng là con gái làm sao có thể tùy tiện hành động để chứng minh nàng không vô tình. Nàng không nghĩ ra rằng vì không muốn lôi kéo nàng vào sự khổ ải mà Người cứ âm thầm lặng lẽ như thế. Ðến bây giờ Vy mới hiểu được rằng tình cảm, tình yêu của Người đối với nàng thật là bao la vị tha, Người đã không vì yêu chính bản thân mình mà mong cầu chuyện mãn nguyện để làm khổ Vy. Ba bốn năm dài từ khi nàng chỉ là một nụ hoa đồng mộc mạc, Người đã nâng niu, chăm chút, đã diệt bao nhiêu cỏ dại một cách âm thầm cho đóa hoa đồng nội nàng được khởi sắc, rồi Người lại đè nén nỗi đau đớn tấm thân thương tật của mình mà tiếp tục giữ gìn để đóa hoa ấy được hé nở hồn nhiên, rạng rỡ cho đến một ngày có kẻ khác đến hái đi. Ðến bây giờ nàng mới hiểu được rằng tình yêu ấy của Người dành cho nàng không phải là thứ tình cảm vu vơ có cũng được, không cũng được, như nàng từng nghĩ ngày xưa. Nếu là một thứ tình cảm vu vơ có cũng được không cũng được, Người đâu cần phải đau buồn, đâu cần phải nghĩ ngợi để tìm một vật có ý nghĩa làm quà cưới cho nàng, đâu cần đến nỗi phải xin chuyển đi nơi khác sau khi nàng lấy chồng. Phải là một thứ tình yêu sâu sắc đậm đà khó phôi pha mới khiến Người làm nên bao nhiêu việc ấy. Ôi ! càng nghĩ Vy càng thẫn thờ, càng nao nao ngậm ngùi , nàng càng trân trọng mối tình lặng lẽ cao đẹp ấy của Người.

Vy đem mối u uẩn hàm tình này kể lại cho Tân nghe và hỏi Tân có biết tin tức gì của Người không.Tân nghe rồi cũng bùi ngùi cảm động, anh chàng vốn là người trọng tình cảm,nhất là những tình cảm đẹp đẽ như của Người đã dành cho Vy.Tân hứa sẽ cố gắng tìm kiếm tin tức của Người hộ Vy, cho dù nếu như Người không còn trên cõi đời này nữa thì Tân cũng sẽ tìm nấm mộ của Người để đến thành kính nghiêng mình thắp hai nén hương, một là chính bản thân Tân thắp cho Người, một là thay thế Vy mà thắp.

Hạt Cát

***

Hai Người Mẹ Nhỏ – Võ Thị Điềm Đạm

Lắng tai nghe động tĩnh từ phòng ngủ có cánh cửa hơi he hé, Kamilla xếp vội bộ áo mưa vô ba lô đi vườn trẻ của em trai mới bốn tuổi, Jørgen. May mà tối hôm qua xem dự báo thời tiết trên TV, thấy sẽ có thể mưa ngày mai nên Kamilla vội xếp gọn gàng, đặt bộ áo mưa ngay lối vào cho dễ nhớ để sáng nay thấy mà đem đi. Kamilla biết, nếu trong ba lô của Jørgen không có bộ áo mưa hôm nay là mấy cô giáo vườn trẻ sẽ bực mình, sẽ lo lắng, sẽ hỏi tới hỏi lui, và sẽ hỏi về mẹ.

Thở dài, nghiêng người nhìn vào phòng khách, Kamilla gọi nhỏ:
– Đi, Jørgen.
Cậu bé đang ngồi xem chương trình truyền hình thiếu nhi buổi sáng, ngồi xếp bằng, cách TV không quá một mét. Say mê, Jørgen không quay đầu nhìn chị, không trả lời mặc dù em nghe tiếng chị thúc đi, tiếng thúc đi quen thuộc mỗi sáng.
– Đi lẹ Jørgen. Chị trễ học.
Im lặng
– Lẹ đi Jørgen!
– Chút xíu nữa.
– Không chút xíu gì hết, lẹ, ra chị mang giày cho.
Im lặng.
Nhón từng bước chân, Kamilla đi nhanh vô phòng khách, vói lấy cái TV-remode nằm trên sô pha, bấm nút of. Ngón tay trỏ để lên đôi môi hồng bóng hơi chu chu, ra dấu im lặng, Kamilla kéo tay em, giúp em đứng dậy. Đã quen cảnh này, mắt liếc nhìn về phía cánh cửa phòng ngủ hơi hé mở, Jørgen nương theo tay chị kéo, cũng nhón bàn chân trắng hồng trên nền gỗ màu nâu lợt bóng. Kamilla luồn mấy ngón tay vào mớ tóc nâu ẩn chút đo đỏ có những lọn quăn quăn, gãi gãi đầu em. Jørgen thích lắm, đầu dựa vào người Kamilla, đưa ngón tay cái lên miệng, mút.
Đặt em lên ghế đẩu, khụy chân, cúi người, tay vuốt vuốt bàn chân mụm mẫm, mang cho em đôi vớ len, Kamilla thì thầm:
– Em giỏi, chiều chị lại vườn trẻ đón em rồi hai chị em mình đi chợ, rồi chị mua cho em cây kem trái banh nghen, cây kem có viên kẹo chanh ở giữa đó, ngon lắm. Em giỏi nghen. Chị mang giày cho em nghen. Đôi giày bata ngầu ghê đi nè. Mình đi lẹ nghen, tám giờ rưỡi rồi. Chị sợ bị trễ học. Mẹ ngủ. Em giỏi nghen.
– Dạ… mẹ ngủ.
***
Tiếng lục đục phía góc bếp làm Thảo thức dậy. Thảo quay nhìn về nơi có ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn treo lòng thòng từ mái nóc nhà thấp. Nhìn dáng người lui cui bên lu nước gần cái bếp có mấy cục than hơi ửng đỏ, yên lòng, Thảo lật tấm mền nỉ màu nâu xậm có in hình mấy cành bông đỏ cam và lá xanh xanh tô điểm, rón rén ngồi dậy. Dụi mắt, cúi đầu tìm kiếm đôi dép mủ màu xanh lợt mà Thảo đã xếp ngay ngắn dưới gầm giường tối hôm qua. Ánh đèn mờ quá, chiếc dép nằm ở chân giường, chiếc dép nằm lẫn trong những chiếc khác chiếc ngổn ngang xấp ngửa. Thảo chưa kịp xỏ chân vô dép thì người đàn bà quay lưng lại, nói, giọng thì thào:
– Ngủ đi con, còn sớm mà.
– Ngoại luộc khoai xong chưa? Ngoại luộc đậu phọng xong chưa?
– Chưa, còn sớm, ngoại bắt nước đây, ngủ đi con.
– Bữa nay con đi học được không ngoại?
– Hôm qua giờ coi bộ em chơi, để ngoại đem em theo ngoại, con đi học rồi về lẹ đặng cho em về nhà chơi. Dang nắng dang nôi cả ngày ngoài đường biểu làm sao mạnh được. Thôi kệ, ráng! Mong sau đừng mưa là được. Ngủ đi con.
– Con để cái nón ở nhà, ngoại bắt Tí Em đội nghen ngoại.
– Con đội đi, để ngoại cho em đội cái nón lá này của ngoại cũng được. Trưa học về nắng lắm.
– Không được, thằng Tí Em này khôn lắm, điệu lắm, nhất định nó không chịu đội nón của ngoại đâu. Học về, con đi dọc dọc lề đường, đi xát nhà người ta, không sợ nắng đâu ngoại. Mình ráng để dành tiền mua cho Tí Em cái nón vải nghen ngoại.
– Ờ… ngủ đi con.
– Hôm qua còn đậu phọng luộc hả ngoại? Để con lột vỏ, kho nước mắm đường tiêu trưa nay ăn nghen ngoại.
– Ờ… học về nhớ ghé chợ mua bó rau muống. Nhà còn dầu chiên, con dập tỏi chiên rau, có chút rau chút cải cho em ăn.
– Dạ. Nước sôi kìa ngoại, để con bỏ mấy trái bắp luộc chung luôn. Kệ, èo uột nhưng chắc ngọt lắm đây, bắp đầu mùa mà, Tí Anh, Tí Em khoái lắm. Hôm qua con phụ ông Ba Cụt khiêng mấy bao bắp xuống xe lam, ông cho cả rổ, đủ người hai trái sáng nay đó ngoại.
***
Như đa số các vườn trẻ, dọc theo hai bức tường dài năm mét là hai băng ghế thấp phía dưới. Hai dãy tủ rộng dài bốn mươi centimet treo cao vừa đủ tầm tay người lớn nhưng nếu là trẻ em thì phải đứng trên băng ghế mới vói tới, cả thảy hai mươi bốn cái tủ với bảng tên bên ngoài. Dưới mỗi cái tủ là ba cái móc áo, mỗi cái móc áo nhìn như ngón tay cong lại, sẵn sàng chịu đựng sức nặng của quần áo mưa, ba lô, bộ áo liền quần mùa đông. Chiều rộng hơn ba mét của căn phòng vừa đủ chỗ cho cánh cửa dẫn vào căn phòng rộng ấm áp bên trong và hai cánh cửa cầu tiêu.

Không nhìn nhưng Kamilla cảm nhận ánh mắt cô Hilde đang đứng dựa vào ngạch cửa trò chuyện cùng mẹ của Alex và thỉnh thoảng phóng về mình. Kamilla biết, biết là cô Hilde chỉ chờ hai mẹ con Alex đi về là cô sẽ kiếm chuyện hỏi này hỏi nọ. Muốn tránh, muốn dẫn Jørgen về trước nhưng kẹt nổi là vừa mặc cái áo khoát mùa xuân thì Jørgen đòi đi tiểu.
Tiếng kéo nước từ cầu tiêu phía bên phải, tiếp theo đó là tiếng Jørgen vọng ra:
– Xong rồi.
Đang nói chuyện, cô Hilde xoay về phía cầu tiêu, giọng hơi diễu:
– Xong rồi thì sao nữa?
Tiếng Jørgen:
– Em nói với Kamilla.
– Ô… em còn đang ở vườn trẻ mà. Nào, bây giờ bắt đầu nghen. Em kéo quần lên được chứ? Xong! Em kéo khóa quần lên được chứ? Kéo từ từ thôi! Xong! Em cài nút quần được chứ? Xong! Em cài dây nịt được chứ? Xong hết! Đó, thấy chưa, em giỏi lắm mà…
Tiếng Alex cười to. Trong cầu tiêu im bặt. Mẹ của Alex kéo tay con đi như để tránh cho Jørgen phút mắc cỡ khi ra khỏi toalett. Kamilla cười hùa, cười nho nhỏ. Vừa ra khỏi cầu tiêu, Jørgen chạy lại Kamilla đang ngồi chờ trên băng ghế, dúi đầu vào chị, dấu mặt, dơ ngón tay cái lên miệng, mút. Mặc áo khoát cho em, Kamilla mong sao cô Hilde nói câu từ giả quen thuộc mỗi ngày. Nhưng không, giọng cô Hilde hơi thấp:
– Hôm nay mẹ làm ca chiều?
– Dạ.
– Hãng Ringnes làm ba ca phải không? Tuần rồi mẹ em cũng làm ca chiều?
– Dạ.
– Lạ vậy! Phải đổi ca chớ.
– Dạ… hãng cần người.
– Mẹ làm thêm ca đêm?
– Dạ… lâu lâu một lần.
– Rồi ai lo cơm nước cho hai em?
– Mẹ làm cơm sẵn.
– Hai em ở nhà một mình suốt đêm?
– Dạ không, có dì Målfrid lại ngủ chung.
– Mỗi đêm? Dì Målfrid không có con sao? Không có gia đình sao?
– Ơ… không… ơ… dì ở… ơ… một mình.
– Em nhớ nhắc mẹ đưa Jørgen đến vườn trẻ buổi sáng để cô nói chuyện với mẹ.
– Dạ.
– Em không thể thay mẹ đưa đón Jørgen hoài được. Cô phải nói chuyện với mẹ em.
– Dạ.
Sợ bị hỏi tiếp, Kamillla xoay người ngồi xụp xuống nền gạnh bông, cài nút áo khoát cho em. Bằng cách này, Kamilla chấm dứt lời hỏi han. Cô Hilde lắc đầu lộ vẻ bất lực, nói:
– Cám ơn cho ngày hôm nay, Jørgen! Chào tạm biệt! Ngày mai mình gặp lại nghen Jørgen.

Cài cẩn thận móc cửa gỗ của vườn trẻ, Kamilla quay nhanh người vì sợ chạm phải ánh mắt lo âu với nhìn theo của cô Hilde bám vào lưng hai chị em từ nãy giờ. Kamilla hiểu là các cô giáo ở vười trẻ đã bắt đầu đánh dấu hỏi về những lời giải thích của mình về mẹ. Nhưng biết làm sao đây! Thở dài. Nắm bàn tay em mụn mĩm, Kamilla kéo em đi lên quãng đường dốc hướng về phía chiếc cầu sắt.

Cái hờn tủi trong cầu tiêu khi nãy chưa tan trong lòng Jørgen, nhắm đã qua khỏi ánh mắt của các cô giáo vười trẻ, em trì tay chị, không chịu đi. Dừng lại, Kamilla cúi nhìn em. Đưa ngón tay cái lên miệng, Jørgen dựa đầu vào chị, một dấi hiệu tìm nơi nương tựa của một đứa bé luôn luôn cảm thấy thiếu một điều gì đó. Cảm động, Kamilla ngồi thụp xuống, biểu:
– Chị làm ngựa nha! Mình chạy một hơi là tới siêu thị. Mình ghé vô mua một cây kẹo mút nghen. Chị một cây, em một cây, nhưng mình không được ăn kẹo bây giờ, phải ăn cơm chiều trước, chờ đến chương trình truyền hình thiếu nhi mới được ăn kẹo nghen… hi… hí… hí…
***
Sức nóng tháng tư xuyên qua mái tole, bao trùm căn nhà một phòng rộng ba mét dài năm mét đang hâm hấp chịu đựng từ khi mặt trời qua khỏi chóp cây điệp tây phía trước nhà ông Tám Đế. Không quan tâm đến sức nóng hầm hầm bao quanh, Thảo ngồi bệt trên nền xi măng, đầu cúi nghiêng nghiêng, tay viết lia lịa lên quyển tập nằm vừa đủ bề rộng chiếc ghế nhựa thấp màu nâu. Ngưng tay, Thảo lướt mắt đọc hàng chữ trong quyển sách nằm trên nền xi măng, ngòi viết lại tiếp tục. Ráng tập trung tư tưởng để viết cho xong bài văn vì Thảo chỉ mượn được quyển sách Việt Văn của Phương Thanh buổi trưa này thôi, nhưng Thảo vẫn lắng tai nghe chừng hơi thở của Tí Em đang nằm im thiêm thiếp trên cái giường mét tư kế bên.

Tí Em lại trở bịnh. Gần năm tuổi mà ốm tong, nhỏ xíu như đứa bé ba tuổi con nhà bình dân, Tí Em nằm trên giường lúc mê lúc tỉnh. Nghe tiếng em cựa mình, để cẩn thận cây viết trên quyển tập đang viết dở, Thảo vội lết lại gần giường, hỏi:
– Tí Em uống nước đậu nành rang nghen, chị có pha đường cho ngọt ngọt, ngon lắm, thơm lắm.
– Dạ.
Tiếng thì thào hơi khàn khàn vì lớp đờm nơi cổ.

Hồi sáng, nấu một ấm nước lớn, Thảo bỏ chén đậu nành vừa mới rang vô ấm nước, trút hết bịch đường một ngàn mua bên nhà dì Tám, quậy đều, để yên, chờ nguội. Thảo cẩn thận chế hỗn hợp nước đậu nành rang đã ngã sang màu nâu vàng vô chai coca cola nhựa trắng trong đã lột mất nhãn hiệu. Vặn nút chai thật chặt, Thảo cột một đầu dây nylon màu xanh quanh cổ chai, đầu dây kia cột vào viên gạch. Đặt viên gạch xuống nền xi măng, Thảo thả cái chai nước đậu nành rang vô lu nước lạnh. Bằng cách này, Thảo có chai nước lạnh cho Tí Em uống cả ngày, uống nước lạnh cho mau giảm nhiệt.

Những chiều Tí Em chơi khỏe, Thảo tranh thủ chạy ra chợ phụ dọn hàng đường đậu bột mè dùm dì Tám. Dì nghèo, dì trả công cho Thảo bằng gói đường bịch bột, bằng mấy con cá khô dư mọn, bằng chén mắm hem còn sót lại. Đậu mọt đậu teo, dì Tám để dành cho Thảo, dăm ba bữa được một núm tay. Dì Tám chỉ Thảo rang đậu ngâm lấy nước cho Tí Em uống vừa giảm nhiệt vừa có chút bổ dưỡng mỗi lần Tí Em trở bịnh.
***
Trên giường nệm êm, dựa vào chị, miệng mút cầm chừng ngón tay cái, mắt hơi lim nhim nhưng Jørgen vẫn ráng chờ nghe chị đọc đến chỗ thằng Albert Årberg làm cơm chiều với ba nó. Lắng nghe động tĩnh, biết em đã ngủ say, Kamilla bước xuống giường. Cúi hôn lên vầng trán phẳng, Kamilla kéo nhè nhẹ tấm mền được bọc bằng lớp vải mịn màu xanh dương dậm có hình ngôi sao vàng lợt lên phủ kín tận cổ, chỉ chừa gương mặt trắng hồng đang ngon giấc. Ngón tay cái đã rời khỏi miệng. Hơi thở nhẹ thanh thảng.

Tắt đèn, Kamilla đóng cửa phòng Jørgen, thở dài khi thấy mẹ vẫn còn ngồi trong nhà bếp. Không muốn để mẹ chú ý, Kamilla đi thẳng vô phòng tắm, làm vệ sinh cá nhân buổi tối. Nhìn gương mặt mình trong tấm gương lớn, nghĩ đến câu nói của Jørgen khi nãy: “Ba của Albert Åberg giỏi há Kamilla? Em muốn có ba.”, Kamilla ráng nuốt cục nghẹn bỗng trồi lên trong cổ họng, hít thật mạnh để xóa tan cảm giác nồng cay trong sóng mũi và chớp chớp hàng mi để ngăn chận dòng nước mắt chực trào ra.

Kamilla vừa có sinh nhật sáu tuổi, mẹ sanh Jørgen được một tháng thì ba đòi ly dị để dọn đến một thành phố khác, nơi có người đàn bà sắp sanh cho ba một đứa con. Từ khi ba không còn về nhà mỗi chiều thì không hiểu sao, cứ mỗi tối sau chương trình thiếu nhi là em Jørgen bắt đầu khóc. Tối nào cũng khóc. Em khóc dai dẳng, khóc nức từng cơn, khóc không biết mệt. Mẹ phải bồng Jøren đi tới đi lui, đổi em Jørgen từ vai phải sang vai trái, từ ẵm nằm đến ẵm đứng, em Jørgen vẫn khóc, khóc nức, khóc liên tục. Mẹ khóc theo. Mẹ chửi ba. Mẹ chửi ông bà nội. Có hôm đóng cửa dặn Kamilla ngồi im một chỗ coi TV, mẹ gói kín em Jørgen trong cái bao mền lông cừu trắng tinh, đặt em vô xe, mẹ đẩy xe em Jørgen đi trong đêm tối lạnh căng căng. Chờ mẹ lâu quá, người ta bắn nhau trên TV, Kamilla dấu mặt trong cái gối ôm, ngủ gục trước TV. Mẹ trở về khi em Jørgen thôi khóc, trong căn nhà rộng vắng tiếng cười.

Một tối, đang xem TV trong khi tiếng khóc của em Jørgen ưng ức cả tiếng đồng hồ, Kamilla đói bụng, đòi mẹ làm thức ăn tối. Mẹ hét, tiếng hét lấn át tiếng em Jørgen khóc. Mẹ mắng Kamilla hư. Mẹ chưởi Kamilla không hiểu nỗi khổ nhọc vì phải cưu mang hai đứa con nhỏ một mình. Mẹ dằn em Jørgen xuống sô pha. Em Jøren khóc to thêm. Mẹ vô bếp làm thức ăn cho Kamilla. Em Jørgen khóc thét từng cơn. Kamilla lại sô pha, định ẵm em lên. Loay quay vụng về, hai chị em té lăn. Mẹ chạy ra phòng khách. Mẹ bế em Jørgen lên. Mẹ mắng Kamilla.

Từ đó, mỗi khi đói, nhìn gương mặt mẹ, Kamilla biết khi nào thì mình nên tự vô bếp, tự cắt bánh mì, tự thoa bơ, tự thoa một lớp chocolate, tự rót ly sữa, ngồi trước TV vừa ăn vừa xem. Không bao lâu thì em Jørgen thôi khóc đêm nhưng gương mặt mẹ bỗng dưng lạnh băng. Có những lúc thấy mẹ không quay người khi tiếng em Jørgen cựa mình thức dậy, Kamilla chạy vào phòng em, bế em, chơi với em. Dần dần, Kamilla hiểu tiếng khóc của em Jørgen là dấu hiệu đòi phải được thay tả, hay muốn bú từ một trong sáu bình sữa âm ấm mẹ đã pha sẵn mỗi ngày trong thùng bình thủy hình tròn lớn như trái bí rợ, hay phải được bế, được chơi cùng…

Mẹ không ngủ được nên mẹ phải uống rượu cho dễ ngủ. Mẹ buồn nên mẹ phải có rượu để giải khoây. Lúc đầu mẹ chỉ uống rượu tối thứ sáu và thứ bảy. Từ từ, thêm một ngày trong tuần, thêm vài ngày trong tuần, mỗi ngày. Càng uống rượu, mẹ càng im lìm. Càng uống rượu, mẹ càng để mặc đứa con gái bảy tuổi lo cho thằng em một tuổi. Mẹ dặn Kamilla không được kể cho các cô giáo vườn trẻ, cho ba, cho hàng xóm rằng mẹ uống rượu, ngay cả ông bà ngoại ở tận miền tây nên hai ba tháng mới đến thăm.

Cứ hai tuần, ba đón hai chị em Kamilla về nhà ba chơi. Người đàn bà của ba tử tế nuông chiều hai chị em Kamilla khi có mặt ba. Nhưng ba phải đi làm nhiều, làm cả tối cuối tuần để vừa cấp dưỡng cho cái gia đình mới, vừa cấp dưỡng cho hai chị em Kamilla. Những khi ba vắng nhà, gương mặt người đàn bà của ba đổi hồng tươi thành đen xám, giọng nói đổi từ đường ngọt thành muối thành chanh. Người đàn bà của ba nói xấu mẹ từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Bà mắng mỏ hai chị em từ cách ăn đến cách chơi. Bà không cho hai chị em Kamilla đến gần em bé vừa sanh, bà sợ hai chị em sanh lòng ganh tỵ mà làm hại đứa bé.

Ba mắng Kamilla độc miệng khi Kamilla kể cho ba nghe. Ba than Kamilla bị ảnh hưởng của mẹ. Còn bé quá, không đủ sức chống đỡ, uất ức, Kamilla không chịu đi theo những ngày cuối tuần ba được phép đón hai chị em. Kamilla không theo ba thì em Jørgen cũng không theo được.

Không còn ở chung nhau nữa, ba mẹ lại gây nhau nhiều hơn, gây qua điện thoại, gây trước mặt hai con, gây ở văn phòng Cố Vấn Gia Đình… Mẹ không muốn hai chị em đi thăm ba thường xuyên nên mẹ bênh vực, hỗ trợ ý tưởng không muốn thăm ba của Kamilla. Mẹ thù ba. Mẹ hận người đàn bà đang sống với ba. Mẹ cấm ông bà nội đến thăm hai cháu. Mẹ tuyệt giao với gia đình bên nội. Ba giận dữ. Ba nản lòng. Ba bỏ cuộc. Người đàn bà của ba cố dấu niềm vui. Lòng hận thù của mẹ được vuốt ve. Những giọt nước mắt được Kamilla cố ngăn, cục nghẹn nơi ngực được Kamilla cố nuốt ngược mỗi lần ai đó nhắc đến ba. Hình ảnh ba mờ dần trong tâm em Jørgen.
***
Thảo thương Tí Em lắm. Mẹ sanh Tí Em khi Thảo mới sáu tuổi và Tí Anh được ba tuổi. Tí Em thiếu tháng, cái đầu nhỏ thua trái cam, da nhăn nhún khô xám, tay chân cong cong que củi, hầu như không bao giờ cử động. Mẹ bịnh liên miên trong mấy tháng cưu mang Tí Em và khi sanh thì mất máu nhiều quá nhưng mẹ không thể nằm lâu ở nhà thương vì ba không có tiền. Nằm ở nhà thương được hai ngày, chân mẹ yếu, người mẹ lả, ánh mắt mẹ lờ đờ, ba phải cõng mẹ từ ngoài đầu con hẻm vừa chật vừa quanh co không chiếc xích lô nào vô được. Dì Năm Hiển, dì Hạnh ở cùng con hẻm, rảnh được phút nào là chạy qua thay nhau trông chừng mẹ vì ba phải đi làm công cho người ta. Lương tuần vừa đủ trả nợ nhà thương, vừa đủ đông đầy hủ gạo, tiêu đường mắm muối. Nghỉ một ngày là đói một ngày. Sáng sớm ba nấu nồi cháu có chút rau chút cá cho bốn mẹ con. Ba vớt một tô nước cháo lỏng để dành cho Tí Em. Con bé Thảo sáu tuổi pha đường vô nước cháo, thay mẹ cho em bú. Con bé Thảo sáu tuổi đỡ mẹ ngồi dậy, đút cháo cho mẹ. Thằng Tí Anh ba tuổi, không biết vòi vĩnh, chạy lăng xăng làm chuyện này chuyện kia theo lời chị sai biểu.

Ba nhắn người ra Quảng Ngãi kêu ngoại. Ngoại tất tưởi vay tiền đi tàu lửa vào Nam. Ngoại còn đang ngơ ngáo giữa dòng người, ngoại còn đang loay hoay hỏi đường đón xe lamt ở ga Hòa Hưng thì mẹ tắt thở. Mẹ đi nhẹ nhàng lắm, nhẹ như bước chân ba rón rén cài cửa đi làm mỗi buổi sáng sớm. Mẹ không nói một tiếng nào với Thảo và Tí Anh. Hai chị em thức dậy khi cái bụng cào cào muốn ăn và tiếng Tí Em ngoa ngoe đòi bú. Cho Tí Em bú, hai chị em mỗi người một tô cháo có mấy con tôm khô làm chất ngọt và nước mắm làm ngon miệng con trẻ. Chờ hoài không thấy mẹ kêu, con bé sáu tuổi ham chơi với em, không nghĩ, không thắc mắc chi cả.

Con bé sáu tuổi và thằng em ba tuổi ngơ ngơ ngác ngác khi một người đàn bà coi bộ già lằm rồi, vừa bước chân vô nhà là hỏi tên mẹ mình rồi ôm hai chị em, tiếng nói hòa nước mắt:
– Cái Thảo, cu Tí đây mà. Ngoại đây con. Bây không nhìn ra ngoại hở? Ờ, mà cái hồi ba mẹ bây đưa tụi bây ra thăm ngoại, con Thảo mới ba tuổi, cu Tí còn bú mẹ. Mà mẹ bây đâu? Em đâu?
Hai đứa bé hoảng sợ, rống khóc theo tiếng bà ngoại vừa khóc vừa rú:
– Ôi Trời… con tôi… con tôi sao thế này… con ơi là con… sao con không chờ mẹ…

Từ đó, ba lầm lũi sáng sớm đi, âm thầm chiều tối về. Từ đó, hai chị em có bữa cơm chắc bụng, Tí Em ngủ ngon giấc theo tiếng bà ngoại ru à ơi trưa chiều. Chưa được nửa năm, bốn bà cháu chờ ba buổi tối, chờ ba ngày hôm sau, chờ ba một tuần… Ba không bao giờ về nữa.

Xin được chỗ ngồi khiêm nhường ngoài đầu hẻm nhỏ nối với một con hẻm lớn, và số vốn nhỏ nhoi vay được của dì Năm Hiển chỉ đủ cho bà ngoại luộc khoai từ, khoai mì, khoai lang, khoai sọ… bày trên cái sàng có đường kính độ hai gang tay, bán sáng sớm, bán chiều tối. Bốn bà cháu chia nhau bữa cơm trắng có dĩa cá kho keo, có tô canh rau xanh lờn vờn tóp mỡ thơm.

Nhưng hai lá phổi của Tí Em yếu quá. Chút hơi lạnh là em ho, ho kéo đờm. Chút trở trời là hai lá phổi hành em nóng sốt, sốt mê mang. Ngoại dành dụm tiền đưa em đi bác sĩ. Toa thuốc bác sĩ cho dài quá. Toa thuốc bác sĩ biểu phải uống liên tục cả năm. Lời bác sĩ khuyên phải ăn uống tẩm bổ, tránh dầm mưa dầm nắng. Nghe thì nghe vậy. Biết thì biết vậy. Nhưng làm sao bây giờ? Cất toa thuốc trong túi áo cánh, lận lời bác sĩ khuyên vào lưng quần, ngoại nhắm mắt nuôi cháu và chỉ biết cầu Trời đừng trở nắng trở mưa bất chợt.
***
– Chiều nay câu lạc bộ thiếu nhi Haugerud có tổ chức disco, tụi mình đi chung không?
Giọng Krister náo nức, mắt nhìn lướt qua đám bạn sáu đứa đang ngồi vẽ quanh cái bàn vuông rộng, ánh mắt đậu lâu trên gương mặt Kamilla hồng sáng. Cả bàn nhao nháo:
– Ghé nhà tao!
– Ờ, nhà thằng Krister gần đó.
– Đem theo mấy dĩa CD Mc Music.
– Khỏi cần, chắc câu lạc bộ có dĩa đó.
– Tao có dĩa mới nhất của Blackstreet.
– OK… đem theo luôn đi.
– Mấy giờ?
– Sáu giờ rưỡi.
– Sớm vậy?
– Chơi trước cho vui.
– Kamilla, đi chứ?
Vén mái tóc vàng óng qua vành tai… ngước mắt nhìn nhanh về phía Krister… ngưng cọ vẽ… cúi đầu để mái tóc phủ che một phần gương mặt… cái cọ vẽ đưa tới đưa lui một cách vô thức… giọng hững hờ:
– Để coi.
Cả nhóm bỗng dưng im lặng, những đôi mắt trao đổi nhanh. Tiếng thày Morten yêu cầu học sinh dọn dẹp trước giờ ra chơi phá tan những dấu chấm than vừa tô đậm trong đầu năm cô cậu học trò lớp 5A trường Haugen, một trường tiểu học nằm phía ngoài thủ đô Oslo. Dấu chấm than được vẽ lên trong đầu những người bạn cùng lớp vì hai chữ “để coi” là cách trả lời thường xuyên trên môi người bạn gái khả ái ít nói này. Ai cũng hiểu nghĩa cặp chữ “để coi”.

Vừa mở cửa, mùi thức ăn thốc vào mũi làm Kamilla tháo nhanh dây giày, bỏ cái ba lô ngay lối vào, chạy vào bếp, reo nho nhỏ:
– Mẹ làm mì Ý hả mẹ? Làm nhiều nhiều nha mẹ để… Kamilla im bặt.
– Ờ. Con coi ăn một hủ yaourt cho đỡ đói rồi làm bài. Chút bốn giờ con đi đón em, mình ăn chiều chung luôn.
– Dạ.

Cố dấu nỗi vui rộn ràng dâng ngấm ngầm làm sóng mũi ngây ngây nồng, những niềm vui hiếm hoi đến bất chợt, Kamilla mở tủ lạnh rót cho mình một ly nước cam tươi Florida màu vàng thẫm, chọn hủ yaourt dâu xanh, vào phòng mình. Không thể nào làm bài được… ánh mắt Krister… lời bàn bạc náo nức cho tối disco sẽ có ở câu lạc bộ thiếu nhi… giọng mẹ ngọt ngào… mùi nước sốt cà có thịt bầm chiên thơm… cái quần ống xòe màu hồng nhạt, cái áo sát cánh cũng màu hồng nhạt của bà ngoại tặng từ hôm sinh nhật chưa có dịp mặc… Kamilla lăn ra giường êm, thiếp dần.

Như những bữa ăn có đủ ba mẹ con, bao giờ Jørgen cũng ngồi đầu bàn, Kamilla và mẹ ngồi hai bên. Đẩy cái dĩa bàn ra phía trước, giọng Jørgen nũng nịu:
– No rồi.
– Ăn cho hết đi em, giỏi chị cho tráng miệng.
– Tráng miệng gi?
Đưa mắt nhìn mẹ, Kamilla chờ.
– Mẹ mới mua hộp kem Mousse có lớp chocolate, mẹ để trong tủ đá.
– U… m… ngon chưa. Ăn thêm nghen Jørgen.
– Mẹ…
Kamilla ngập ngừng, tiếp:
– Tối nay câu lạc bộ thiếu nhi… có mở disco từ bảy giờ đến tám giờ, mẹ cho con đi lúc sáu giờ rưỡi nha mẹ.
– Ờ… mẹ đi làm ca tối lúc mười một giờ. Con phải về ngay.
– Dạ! Mẹ ăn tráng miệng không? Con lấy cho mẹ luôn… lẹ lẹ Jørgen… chị phải sửa soạn.
– Để đó mẹ dẹp cho.
Vui mừng, quên hết, Kamilla chạy ào vô phòng tắm, đánh răng, ngắm nghía mái tóc vàng lóng lánh thả dài vừa qua khỏi vai hơi cong ngược ra ngoài… lục tìm cái băng đô màu hồng… không… cái băng đô màu trắng… chứ không thôi nhiều màu hồng quá… quần hồng… áo hồng… vậy là giày trắng… gọi điện thoại báo cho nhỏ Erna… thôi đừng… cho tụi nó ngạc nhiên chơi… chắc Krister ngạc nhiên lắm đây…

Bước chân như nhảy nhót chợt đứng lại ở lối đi từ phòng tắm dẫn đến ba phòng ngủ nằm kế nhau khi Kamilla liếc nhìn về bộ sa-long da màu đỏ rượu chát trong phòng khách. Jørgen ngồi trong lòng ghế bành rộng, hai chân xếp bằng, đang mãi mê theo dõi chương trình Sesam Sesam, ngón tay cái trong miệng thỉnh thoảng mút. Màu rượu vàng nâu nhạt long lanh trong chiếc ly tròn như nửa quả trứng ngỗng, thấp chân, đứng bên cạnh chai cognac màu nâu có dòng chữ trắng. Mẹ ngồi đó, đọc báo. Như con nai vàng đang nhảy nhót vui chơi trong đám cỏ non xanh tươi chợt vểnh tai lắng nghe tiếng chân cọp đói đi lần tới, tim Kamilla nhói đau.

Chạy ào vô phòng, gieo mình lên giường, dùi mặt trong gối, Kamilla ráng giữ tiếng nấc nhưng nước mắt thì cứ ròng ròng không muốn ngưng. Giận dử, Kamilla bật ngồi dậy… nhưng rồi xìu xuống nhanh. Em biết! Em biết… chỉ châm ngòi vào đống lá khô nâu là ngọn lửa bùng lớn. Mẹ bắt đầu lôi những chuyện từ bao năm trước để chửi ba, mắng người đàn bà đã có hai mặt con với ba, trách ông bà nội bỏ bê cháu… Em biết! Nếu em lẳng lặng đi chơi, em Jørgen sẽ gục ngủ trong lòng chiếc ghế bành rộng thỉnh thoảng nức lên mút nhanh ngón tay cái vì gọi hoài mà không có chị Kamilla đến dỗ, bụng trống rỗng và màn ảnh TV vô tình tiếp tục chương trình dành cho người lớn. Em biết! Mẹ sẽ rót thêm nửa ly, rồi nửa ly, rồi nửa ly, rồi nằm dài ra sô pha. Và ngày mai, ánh mắt cô giáo vườn trẻ đậu lâu trên gáy mình. Cô giáo sẽ tìm cơ hội trống người để hỏi về mẹ.

Cứ thế, diễn đi diễn lại, một vài lần trong tuần và rồi sáng mai Kamilla phải gọi điện thoại đến hãng để báo mẹ nghỉ bệnh. Càng tệ hơn nếu những cuối tuần có thêm người đàn ông lạ cùng chia chai martin màu trắng nét chữ xanh, cười dỡn, ói mửa… ngủ lại. Kamilla dấu tất cả. Không ai biết mẹ đã giảm giờ làm việc 50% theo giấy báo bệnh của bác sĩ. Hàng xóm không ai thắc mắc vì sao Kamilla thường xuyên đi chợ và đưa đón em Jørgen. Nhà trường, vườn trẻ cằn nhằn vì mẹ Kamilla thường vắng mặt trong tối hội họp, ít khi đến họp thường năm… nhưng không tìm hiểu thêm. Bạn bè trong lớp đã quá quen những lời từ chối khi mời Kamilla dự tiệc sinh nhật hay rủ về nhà chơi sau giờ học. Bạn bè không còn quan tâm vì sao Kamilla không bao giờ rủ bạn về nhà hay tổ chức tiệc sinh nhật. Ông bà nội không được đưa cháu về chơi, đành phải tự an ủi bằng những món quà đắt tiền gởi cho cháu dịp sinh nhật, Giáng Sinh. Ông bà ngoại bắt đầu đoán ra hoàn cảnh bít bùng của con gái nhưng Kamilla khôn khéo bênh vực, bao che mẹ. Báo chí, TV kết án chính quyền làm ngơ cho chủ nhân các nước chậm tiến dùng trẻ em dưới mười hai tuổi phải làm việc trong các hãng xưởng. Nhưng báo chí, TV không biết rằng em Kamilla là người mẹ nhỏ của em Jørgen, Kamilla là người chăm sóc mẹ những khi mẹ ”quá ly”. Kamilla sợ nhân viên Văn Phòng Bảo Vệ Trẻ Em đưa hai chị em cho người khác nuôi, mỗi người một nơi, không được lo cho em Jørgen yếu đuối luôn nương vào chị vì mẹ căn dặn, mẹ dọa, mẹ hứa sẽ không bao giờ bước chân vô tiệm rượu.
***
Thảo đến tuổi đi học, ngoại lao đao vượt qua từng vấn nạn tiền nong. Mỗi năm ít nhất phải có một bộ đồng phục gồm váy xanh đậm và cái áo cổ lá sen màu trắng, lệ phí mỗi học kỳ, sách giáo khoa, tập vở, bảo hiểm trường, bảo quản trường… trăm ngàn thứ, mai thứ này, mốt thứ kia. Bà ngoại luộc thêm thúng đậu phụng, ráng ngồi bán cho hết sàng khoai rổ đậu, về đến nhà là mọi người giăng mùng sửa soạn đi ngủ. Tí Anh ở nhà trông em. Những hôm Tí Em khỏe, hai anh em ra đầu hẻm chơi quanh quẩn bên thúng đậu sàng khoai với hy vọng được ngoại mua cho chén chè có nhiều nước dừa béo ngậy.

Lo cho hai em ăn sáng, Thảo đi học. Ngồi trong lớp, chạy ngoài sân trường giờ ra chơi, lòng bé Thảo không mấy phút được yên lâu. Thảo thắc mắc không biết Tí Anh có dẫn Tí Em ra nắng chơi lâu. Thảo bâng khuâng sao Tí Em gần ba tuổi rồi mà đi chưa vững. Thảo lo lắng vì tiếng ho Tí Em hơi khàn khàn hồi sáng sớm. Thảo sờ sợ khi bầu trời vần vần chuyển mưa, sợ ngoại đem cái rổ còn khoai luộc, đậu phọng luộc về chiều nay, lấy vốn đâu mà mua khoai mua đậu cho ngày mốt. Con bé Thảo bảy tám tuổi lo nghĩ băn khuăn khi nhảy cò cò trong sân trường. Con bé Thảo tám chín tuổi vui mừng khi vừa nghĩ ra được món dừa kho keo mặn mặn beo béo sẽ làm cho hai em ăn chiều nay thì tiếng đồng thanh của cả lớp đọc theo cây thước cô giáo chỉ trên bảng cắt ngang gương mặt tươi vui của Tí anh Tí Em trong đầu…

Những hôm Tí Em lên cơn sốt, ho xù xụ, ho có lớp đờm làm nghẹn hơi thở, lớp đờm làm hơi thở kéo khè khè, thường lắm, mỗi tháng vài ba lần, mỗi lần năm ba ngày, thế là Thảo phải nghỉ học ở nhà trông em. Cũng may là trường cho Tí Anh học lớp buổi chiều. Nhưng buổi sáng trong lớp học, đầu óc con bé Thảo quanh quẩn trong căn nhà một phòng mái tôn hừng hực, đôi mắt dõi trông chừng vì con bé Thảo biết Tí Anh khờ lắm, Tí Anh ham chơi lắm, Tí Em không nghe lời anh, Tí Em theo anh ra chơi ngoài nắng…
– Con mua chi mà nhiều khoai lang quá vậy? Bán làm sao hết? Mà sao nhiều củ èo èo quá, làm sao luộc bán?
– Con tính rồi ngoại. Lợi lắm ngoại. Con mua nguyên bao khoai, rẻ hơn mua ký.
– Nhưng…
– Mình lựa mấy củ khoai tốt tốt mình luộc bán. Mấy củ èo èo sùng sượng, con gọt bỏ, con cắt bỏ chỗ sùng sượng, con xắt phơi khô, xắt to bằng ngón tay con nè ngoại. Ngoại cho con tiền thêm, con mua dừa nạo. Sáng sớm con hấp khoai khô, đem lên trường bán. Một gói một ngàn, khoai khô hấp nóng trộn dừa nạo, rải chút muối mè, ngon lắm ngoại.
– Nhưng con phải đi học. Ngoại…
– Không sao đâu ngoại. Con lên trường sớm hơn, con bán cho tụi bạn con. Nếu bán không hết buổi sáng sớm thì con sẽ hỏi nhờ dì Hạnh bán nước sinh tố giữ dùm con. Ra chơi con chạy ra bán tiếp, lúc ra về con bán tiếp. Bạn con thương con, bạn con mua dùm con. Mình kiếm thêm được đó ngoại.
– Bữa nào em bịnh thì sao?
– Thì nghỉ bán. Hay là mình làm thêm một thau nhỏ cho ngoại bán.
– Không được.
– Dạ… không được… người ta cho mình chỉ đủ chỗ để được cái thúng… mình bày thêm người ta ghét… người đuổi thì khổ.
– Hay là để ngoại xin bà chủ nhà trước, cho thì mình bán thêm. Ngoại thấy món khoai lang khô hấp trộn dừa nạo ngon lắm đó.
– Vậy là mình phải mua hai cái thau mới, hai cái khăn mới đắp lên trên, nhìn sạch sẽ thì người ta thích mua.
– Ờ… mua thau mới… cha mày… bày thêm… mấy ngàn một cái thau… rồi khăn mới… mấy ngàn nữa… tiền đâu đây?
– Dạ… chắc bốn năm ngàn gì đó… cả khăn nữa chắc cở chục ngàn.
– Chục ngàn đồng… vậy là hai chục ngàn đồng… cha mày… tiền đâu…
– Hay là con thử bán trước. Từ từ có lời, mình để dành, mình có thêm vốn, mình mua thêm thau, khăn cho ngoại bán.
– Cha mày… bày đặt… chưa bắt đầu mà tính đủ chuyện… ờ… mà ráng coi sao… bán món này không cần bỏ vốn nhiều… bán không hết đem về cho em ăn… cha mày… khôn lõi!

Sách vở thiếu trước hụt sau, lệ phí học kỳ hẹn lên hẹn xuống, ngày học ngày nghỉ, cô giáo thương tình lắm mới được ở lại lớp, chứ không thôi là bị đuổi từ lâu. Lớp hai ở lại, lớp ba ở lại, tụi bạn cùng tuổi lên cấp hai mà Thảo vẫn còn đang ì ạch ở lớp năm. Nản lắm! Nhưng ngoại bắt học. Thảo cũng muốn học nữa bởi Thảo biết mình học không thua gì tụi bạn, Thảo biết tại vì phải nghỉ học hoài nên theo không kịp bài. Thảo biết vì không theo học được các lớp luyện thêm nên học kỳ nào cũng lạch đạch hạng ba mươi, bốn mươi.

Bác sĩ biểu là em Tí Em bị suyển nặng, phải hít thuốc ngày bốn lần để ngừa cơn suyển. Vị chi mỗi tháng phải hít một ống thuốc màu nâu, mấy trăm ngàn đồng Mỗi khi cơn suyển kéo đến làm ngực Tí Em như bị thắt chặt, lớp đờm trong phổi dầy đặc, khí quản nở ra khiến không khí không vô mà cũng không ra được, Tí Em phải hít ống thuốc màu xanh, loại thuốc mắc tiền hơn. Những tháng mưa nhiều và lạnh, cơn suyển đến thường hơn.
***
Cô giáo hướng dẫn lớp 5A, bà hiệu trưởng, cô y tá trường, cô giáo xã hội, đại diện văn phòng Bảo Vệ Trẻ Em, nhà tâm lý giáo dục và mẹ của Kamilla; bảy người ngồi quanh cái bàn hình bầu dục trong phòng họp có cửa kính lớn nhìn ra khoảng rừng thông nhỏ nằm sát trường. Sau phần giới thiệu, bà hiệu trưởng mở đầu:
– Mặc dù quí vị thừa biết nhưng tôi cũng nhấn mạnh để bà Hagen, mẹ em Kamilla hiểu là tất cả những gì được bàn thảo trong căn phòng này hoàn toàn bảo mật. Và cũng xin thưa với bà Hagen, mục đích buổi họp này là tìm hiều, thảo luận để mong đưa đến những giải pháp hầu giúp đỡ em Kamilla và gia đình chứ không phải là một phiên toà xét xử gia đình bà. Xin mời cô Aud Vestby, cô giáo hướng dẫn lớp 5A.

Tay cầm cây viết, tay lật mở quyển sổ dầy khổ A5 trước mặt, nhìn chừng những hàng chữ được ghi chép li ti vì không muốn bỏ mất một chi tiết nào trong những điều mình đã chuẩn bị trình bày trong buổi họp này, cô bắt đầu:
– Tôi rất vui khi chúng ta thu xếp được buổi họp đầy đủ các ban ngành như vầy chỉ sau hai tuần báo động. Là giáo viên hướng dẫn lớp em Kamilla trong hai năm liên tiếp nhưng tôi lấy làm tiếc là không có cơ hội tìm hiểu em sâu hơn vì nhìn chung em là một học sinh ngoan, có trách nhiệm với sự học của mình, áo quần tươm tất, thức ăn trưa mang theo đầy đủ. Nhưng dần dần, có những đặc điểm làm tôi lưu ý đến mỗi khi em biểu lộ sự già dặn hơn tuổi.
– Cô có thể cho biết thêm chi tiết về sự già dặn hơn tuổi của em Kamilla.
– Đó là tinh thần trách nhiệm hiếm có ở lứa tuổi ham chơi này. Vì không thường làm kịp bài vở về nhà, em xin phép được ở trong lớp vào giờ ra chơi để tranh thủ làm bài. Trong những bài văn ngắn tự do, em thường có những nhận xét, những nghĩ suy, những cách kết thúc hay giải quyết vấn đề như một người trưởng thành. Những đề nghị của em khi được hỏi tới, rất thực tế chứ không vì cho sự ham vui thường có ở tuổi này, cho vừa ý bạn bè hay bốc đồng. Tôi tiếp tục?
– Xin mời!
– Một đặc điểm nữa là em không bao giờ kể về gia đình mình trong giờ chuyện trò đầu tuần hay sau các kỳ nghỉ lễ, trong khi các em khác nôn nao giơ tay chờ được phép. Tôi chỉ nêu những gì tôi đã ghi chú. Phần nhận xét và phán đoán để đi đến một giải pháp là thẩm quyền của quí vị, những người có kiến thức sâu rộng về đề tài này.
– Xin được nghe tiếp.
– Trong khoảng vài tháng gần đây, em Kamilla thường đi học trễ và bị đau bụng. Lúc đầu tôi không quan tâm nhưng khi thấy em bị đau bụng thường xuyên, tôi đã giới thiệu em lên văn phòng y tá trường. Xin chị y tá cho biết ghi chú của chị.
– Cám ơn! Xem kỹ sổ sách, tôi thấy em chỉ đến văn phòng của tôi một lần và được ghi chú là có triệu chứng khó tiêu, đã gởi giấy yêu cầu ba mẹ đưa em đi bác sĩ. Đến khi chị Aud hỏi tôi về chứng đau bụng thường xuyên của em Kamilla, tôi liên lạc với bác sĩ gia đình Hagen thì được biết là mẹ em chưa bao giờ đưa em đến để khám về chứng đau bụng này…
– Kamilla không cho tôi biết gì về điều này cả và tôi cũng không thấy Kamilla bị đau bụng ở nhà.
– Vâng, chúng tôi ghi chú điều này. Xin cô Aud tiếp tục.
– Cám ơn! Mỗi lần được chia nhóm để hợp tác biên khảo một đề tài nào đó, các em trong lớp phản đối khi có Kamilla trong nhóm. Các em than phiền là Kamilla hầu như không bao giờ đến họp. Cố ý theo dõi, tôi được biết Kamilla hầu như không đến dự sinh nhật nhà bạn, không bao giờ tổ chức sinh nhật ở nhà.
– Kamilla không muốn.
– Xin bà để cô Aud trình bày cho xong rồi chúng ta sẽ có ý kiến sau.
– Kamilla không bao giờ tham dự các buổi tiệc do câu lạc bộ thiếu nhi vùng này tổ chức. Theo tôi nhật xét, em Kamilla không phải là nạn nhân của những ác-ý-bỏ-rơi thỉnh thoảng xẩy ra trong trường học. Em là một đứa trẻ cứng mạnh khi nói về mặt tâm thần. Em được bạn bè thương mến. Nhưng con nít là con nít. Rủ đi chơi một vài lần mà không được là quên ngay, không rủ nữa. Mời sinh nhật mà không đi, không được mời sinh nhật “trả lại” là tên người này không nằm trên danh sách mời về sau. Trong giờ đàm thảo mùa xuân dành riêng cho mỗi học sinh, cách đây ba tuần, tôi “quay” em Kamilla về những liên hệ hiếm khi của em với bạn bè trong lớp. Em tìm cách giải thích, biện hộ. Nhưng nửa chừng, em bật khóc. Em kể rằng em thương em Jørgen tính tình yếu đuối, em Jørgen không muốn rời chị, em sợ em Jørgen phải ngồi nhà một mình vì mẹ phải ngủ để có sức đi làm…
– Tôi thường làm ca đêm, cuối tuần…
– Chúng tôi cố gắng hiểu hoàn cảnh người-mẹ-nuôi-con-một-mình của bà. Xin cô Aud tiếp tục.
– Cám ơn. Em không muốn bạn bè đến chơi vì em không muốn bạn bè biết về mẹ mình…
– Tôi…
– Xin bà! Xin mời cô Aud.
– Một điều tôi để ý nữa là những truyện em Kamilla thường mượn ở thư viện nhà trường là những truyện lấy gia đình làm hậu cảnh. Chính vì những điều đã nêu, tôi muốn có buổi họp này để các cơ quan có thẩm quyền phán đoán và tìm một giải pháp.
– Xin bà Hagen cho ý kiến về những nhận xét của cô hướng dẫn lớp 5A.

Bà Hagen nhìn ra cửa sổ, sức sinh động trên đôi mắt hơi đục không còn bao nhiêu. Im lặng thật lâu, quay nhìn mọi người, gương mặt có vẻ thách thức nhưng giọng lại khàn khàn nhừa nhựa:
– Kamilla không dự sinh nhật hay tiệc tùng, không mời bạn bè đến nhà là vì tính cháu khép kín không muốn giao thiệp. Kamilla thương em nên Jørgen quyến chị, không muốn rời chị, đó là điều tự nhiên thôi. Kamilla không thích kể về mình, về gia đinh thì đó chỉ là cá tính đặc biệt của em, không ai dạy em điều này. Tôi là mẹ, Kamilla không săn sóc tôi. Ở nhà, Kamilla không bao giờ đau bụng. Gia đình chúng tôi không có nhu cầu cần sự giúp đỡ của các cơ quan công quyền. Tôi không hiểu tại sao phải có buổi họp này.
– Xin mời nhà tâm lý giáo dục.
– Trước hết, tôi có lời ngợi khen cô Aud đã báo động với nhà trường kịp thời và nhà trường thu xếp nhanh chóng để có được buổi họp này. Tôi cũng đã đọc qua những ghi chú của vườn trẻ Eplebakken, nơi chăm sóc em Jørgen. Em Kamilla thường bị đau bụng ở trường mà không bị đau ở nhà, nguyên nhân có thể vì em có quá nhiều lo âu ở nhà. Em không muốn dự sinh nhật bạn bè vì em hiểu ý nghĩa của sự cho và nhận, em không nhận vì em biết mình không có gì để cho. Nghĩ đến đây, tim tôi thắt đau. Mười tuổi! Em Kamilla đã đánh mất tuổi thơ. Sự già dặn quá tuổi của em Kamilla là do sự tôi luyện qua nhiều năm, từ khi em còn rất nhỏ, có thể từ bốn hay năm tuổi. Khả năng ứng biến, sức chịu đựng đã tôi luyện em thành người có trách nhiệm. Một trách nhiệm quá nặng cho một đứa trẻ. Em đóng vai trò người mẹ cho Jørgen mà ngay cả chính em cũng không nhận ra. Với em, đó chỉ lả điều đương nhiên. Một người mẹ chưa đầy mười tuổi! Thưa bà Hagen, chúng ta phải làm việc với nhau rất nhiều. Chúng ta phải trả lại tuổi thơ cho em Kamilla. Cùng với nhà trường, tôi sẽ liên lạc với văn phòng xã hội, Bảo Vệ Thiếu Nhi, Cố Vấn Gia Đình… để tìm một giải pháp giúp đỡ gia đình bà. Chúng tôi cần thiện chí hợp tác của bà. Chúng ta phải trả lại tuổi thơ cho em Kamilla.
***
– Bà Hai, chủ tiệm giày An Thịnh bên Bà Chiểu trả lương sáu trăm ngàn đồng một tháng đó ngoại.
– Con còn nhỏ mà bán được gì.
– Dạ, bà Hai nói con dọn dẹp, dọn hàng, làm hộp, tập bán từ từ. Chừng con quen chuyện thì bà Hai cho con bán. Bà Hai nói hôm bà đi chợ Văn Thánh thăm dì Tám, bà thấy con giỏi, chịu khó phụ dì Tám nên bà có lòng thương. Dì Tám nói dùm thêm cho con đó ngoại.
– Làm cả ngày vậy rồi làm sao đi học? Từ sáng sớm cho tới chiều tối hả con?
– Con nghỉ học cho đến chừng nào bà ngoại hết bịnh thì con xin đi học lớp đêm.
– Đường xá xa xôi.
– Bà Hai cho tiền đi xe buýt nữa ngoại.
– Làm từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối rồi còn đi học đêm thì sức đâu mà chịu nổi.
– Dạ… chứ ngoại coi; Tí Em phải hít thuốc mỗi ngày bốn cử, bịnh là phải hít thêm thuốc xanh, mà em bịnh hầu như mỗi tháng, đây rồi tới mùa lạnh là Tí Em còn bịnh thường hơn. Bây giờ ngoại bịnh không bán buôn gì được, hai tuần nửa vô trường, con lên học cấp hai là phải đóng đủ thứ tiền, Tí Anh cũng phải đóng tiền, mua sách vở… Ban ngày con đi làm, ngoại ở nhà, không phải dang nắng dang nôi, coi chừng Tí Em. Con sẽ xin mượn bà Hai vài trăm để đóng tiền trường và mua sách vở cho Tí Anh. Từ từ mình kiếm thêm vốn cho ngoại tìm chỗ bán trong mát. Con được bà Hai thương cho làm là phước lắm ngoại.
– Ờ… mười một tuổi đầu… Tính vậy cũng được đi, hôm nào Tí Em khỏe, ngoại lãnh vé số bán thêm.

Thảo xếp đặt công chuyện nhà trước khi ra đường đón chuyến xe buýt dưới bầu trời chưa tan sương, chiều chạng vạng đi làm về ghé mua cho hai em bịch khoai chiên, tối rờ thăm chừng trán Tí Em trước khi nhét kỹ lại mép mùng. Trưa nghỉ ngơi nửa tiếng, Thảo dệt nhiều ước mơ, trong đó có nụ cười Tí Anh và Tí Em, có bóng dáng bà ngoại đi chợ về giỏ đầy thức ăn. Thảo đâu biết rằng bà ngoại dấu không cho đứa cháu biết những cơn đau thắt phần trên bụng đến bất chợt, đau quằn lưng, đau đổ mồ hôi trán. Cơn đau quặn càng ngày càng thường hơn. Đường gân máu trong phân càng ngày càng nhiều. Bà khóc thầm cho đứa con gái mới mười một tuổi đầu đã có hai đứa con để chăm lo. Bà thương cho đứa con gái đã đánh mất tuổi thơ từ lâu mà không hề biết.

Võ Thị Điềm Đạm

***

Lòng Em – Thiếu Khanh

Giả dụ lòng em hình chữ nhật
Anh sẽ nhân chiều rộng với chiều dài
Nhưng đâu biết lòng em bao dài bao rộng
Nên ngần ngừ anh sợ nhân sai

Giả dụ lòng em như quyển vở
Ơ bên trong ruột giấy trắng ngần
Anh do dự lâu rồi chưa dám mở
Em có bài thơ nào chép trước rồi chăng

Và giả dụ một đêm vàng tẩm mật
Lòng em vừa mở cửa gặp lòng anh
Giữa vũ hội hai lòng cùng múa hát
Không thơ anh hoa lá cũng chung tình

Lòng anh chín mời lòng em cắn nhé
(Hãy yêu anh kẻo uổng cả lòng nhau!)
Vui biết mấy khi về nhà dối mẹ
Rằng lòng em bay nón lúc qua cầu.

Your Heart

Should a rectangle be your heart
I will multiply its width by length
But I don’t know how long each part
So I hesitate over my numeral strength

Should a notebook be your heart
With entirely plain paper inside
Opening it I dare not start
For fear another poem has been implied

And should there be a honey night in trance
Your heart just opens to meet mine
At the festival the two sing and dance
Without my poem things are also fine

My ripen heart offers you as a pie
(Let show love and let not waste love!)
How happy to mother you lie
Crossing a bridge your heart flies above.

(Translated into English by Nguyễn Đức Kim Long)
Thiếu Khanh

***

Nguyễn An Bình
Thả Rông

Đừng thả rông ánh mắt
Em ơi-đời đảo điên
Sẽ có người đánh cắp
Lòng anh phải ngả nghiêng.

Chỉ thả rông tiếng cười
Khi nhìn nhau-bối rối
Đủ nhớ để chia phôi
Dù anh không hề nói.

Đừng thả rông vòng tay
Luôn nồng nàn ấm áp
Anh chỉ sợ một ngày
Em mất dần cảm giác.

Chỉ thả rông nỗi nhớ
Khi mình phải xa nhau
Trong một ngày đầy gió
Mới hiểu hết niềm đau.

Đừng thả rông làn tóc
Có người dỏi theo mây
Để hương tình xao động
Làm bao kẻ ngất ngây.

Chỉ thả rông cơn buồn
Anh trải lòng san sẻ
Cô đơn sẽ không còn
Trong trái tim nhỏ bé.

Và em đừng giận dỗi
Ho anh được thì thầm
Chỉ thả rông vạt cúc
Khi em nằm bên anh.

Nguyễn An Bình

***

Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Dư Âm Chiều

Anh đi thoáng qua đời
Câu thơ tình bỏ lại
Chỉ là loài hoa dại
Em mơ gì cho mình

Nắng vàng rơi lặng thinh
Tất cả đều sâu lắng
Thiên đường xưa chấp cánh
Hồn nhiên nào tuổi ta

Anh dường như thoáng qua
Không kịp lời từ giã
Mùa xuân rồi mùa hạ
Héo hắt nỗi đợi chờ

Chỉ còn những câu thơ
Vẫn xanh màu lá mới
Vẫn yêu thương vời vợi
Chung thủy với em thôi

Anh giờ đã xa rồi
Còn mình em phố lạ…

Hồ Thụy Mỹ Hạnh

***

Nguyễn An Bình
Lời Tình Trên Tháp Chuông

Tôi khắc tim mình lên thánh giá
Lời tình thắm đỏ tựa môi son
Ngày sau mưa hóa thành giọt lệ
Có đủ làm đau một vết thương?

Nhớ tà áo tím ngày đi lễ
Dấu nhỏ chân ai đến giáo đường
Em thả dốc tình lên phố núi
Đồi thông non đẩm ướt mùi sương.

Nắng không đủ ấm làn da mỏng
Cũng đủ làm say khách qua đường
Chiếc xe thổ mộ vừa khua nhẹ
Cho tóc bồng bềnh gió cao nguyên.

Vòm cung cửa sổ nghe em hát
Trong bản thánh ca ngọt tiếng đàn
Có thấu tình tôi sau lời nguyện
Hay đã bay theo phấn thông vàng?

Mai xa phố núi sầu không hết
Lăn mãi theo em phúc âm buồn
Nhớ một trái tim giờ hóa đá
Nhớ một lời tình trên tháp chuông.

17-6-2017
Nguyễn An Bình

***

Phạm Ngọc Lư
Hải Vân

Uy nghi Hải Vân !
Cõng đá đeo rừng vút lên muôn trượng
Bạt gió đè mây ngất ngưỡng
Nguy nga đệ nhất hùng sơn

Ngạo nghễ Hải Vân !
Chót vót tầng tầng sánh vai trùng điệp
Núi đứng ngang trời lẫm liệt
Xuân thu tề tựu mây chầu
Sá gì dâu bể bể dâu
Núi vẫn trơ gan đạp ngang biển cả
Bắt sóng rửa bàn chân chai đá
Dựng chơi một dãy trường thành
Chặn đường thiên lý
Khiếp vía lữ hành
Trăm ngựa chồn chân
Ngàn xe thở dốc
Hun hút rừng sâu cây xanh mặt
Cheo leo lưng núi đá rùng mình
Đèo cao lơ lửng
Trời biển chênh vênh

Kỳ vĩ Hải Vân !
Chớn chở chập chùng
Oai nghiêm sừng sững
Ngươi mượn biển Đông ngắm hình soi bóng
Hiên ngang toan mở lối lên trời
Vẽ gió vờn mây hí lộng
Đổi thay sắc diện liên hồi
Lúc bí ẩn thâm nghiêm
Khi im lìm kỳ ảo
Ngươi uốn mình chơi vơi thượng đạo
Cong lưng thắt ruột đường đèo
Xẻ vực sâu thăm thẳm
Dựng vách đá hiểm nghèo
Trông lên chất ngất
Ngó xuống mịt mùng
Biển trời ngờm ngợp thinh không
Nhớ ra hình hài cát bụi
Thanh trọc bao phen chìm nổi
Phế hưng mấy cuộc tồn vong…
Ôi… Hải Vân, Hải Vân !
Hẻm núi hốc rừng ngàn xưa hung bạo
Chiều nay lau lách đìu hiu
Ai người khai sơn phá thạch ?
Xả thân chém đá mở đèo
Xưa đồn ải nào ai trấn thủ ?
Nay đầu ghềnh khắc khoải chim kêu
Mơ hồ bóng người lính thú
Tạc vào gạch đá hình rêu
Giăng giăng quan ải mây hoài cổ
Bàng bạc sơn đầu khói đăm chiêu
Mây trắng mênh mang
Biển trời vòi või
Nhân thế về đâu chập chờn sáng tối
Hồn xưa phương nào ấm lạnh u minh ?

Quạnh quẽ Hải Vân !
Đâu dấu chân người ngàn năm trước
Núi trông mây, mây ngó núi u hoài
Đèo cao co thắt từng khúc ruột
Thiên cổ qua về… ai nhớ ai ?

Phạm Ngọc Lư
***
Bích Huyền
Mùa Thu Trong Nhạc Và Thơ

Mỗi chiếc lá như một bông hoa đẹp vô cùng đến nỗi có một nhà văn đã gọi mùa thu là mùa xuân thứ hai của trời đất.

Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu

Thấy chiếc lá ngô đồng rụng mọi người đều biết là thu đã trở về…
Các văn thi sĩ Đông phương đã có một số hình ảnh diễn tả mùa thu. Những chiếc lá vàng đã bắt đầu rơi. Một vài cánh nhạn từ phương xa bay về. Hoa cúc đã nở bên liếp dậu thưa. Sương đã bao phủ cảnh vật và rừng phong đã xơ xác lá. Riêng Lưu Trọng Lư đã vẽ lại một cảnh thu đầy những âm thanh:

Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô

Hình ảnh con nai vàng thẫn thờ đạp trên thảm lá khô xào xạc tạo nên những âm thanh buồn bã của mùa thu tựa như một nỗi tiếc nhớ xa xôi…

Mùa thu của Việt Anh không còn nữa nhưng hình ảnh thu xưa cứ làm vương vấn mãi. Vâng Không Còn Mùa Thu ca khúc của Việt Anh qv&cb vừa thưởng thức trong giọng hát Hồng Nhung…

Ở Đông phương sự cảm thông giữa thiên nhiên và con người thật sâu sắc. Mỗi mùa màng như một người bạn cũ cứ đến hẹn lại về. Mỗi lần thu tới ta vẫn nghĩ rằng mùa thu năm nào của ta lại trở về thăm ta.

Mùa thu vẫn luôn luôn là một cái gì đó xa xôi kín đáo bình dị và mênh mông cho nên thu bao giờ
cũng xưa. Ta thấy như thu ở thời xưa mà về. Và ta cũng thấy lòng lắng dịu bình yên.

Thu từ trời mà xuống…
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẩn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
(Huy Cận)

Mùa thu mới về trời bớt nóng và thêm hơi mát. Có ai thổi cơm mà khói nhẹ mơ hồ đâu đây. Chưa có sương mù cũng chưa hẳn là sương mờ chỉ là đôi thoáng sương mơ mỏng manh như chiêm bao… Không biết có phải sương thu mới nhóm hay đó chỉ là sự huyền ảo của chính hồn ta?
Trong bài Ký Viễn Lý Bạch có một câu thơ làm ta say mê xúc động:
Tương tư hoàng lạc diệp
Vàng rơi từng cánh tương tư

Vì tương tư mà lá vàng đã rơi từng cánh hay chính mỗi chiếc lá vàng đã mang mối tương tư của ta trải đầy trong gió…

Anh yêu dấu em gửi đến anh một chiếc lá vàng mà em nhặt được bên thềm nhà vắng như gửi về anh nỗi nhớ nhung da diết.

Ở miền Bắc nước ta mùa thu là mùa cưới. Không biết do tục lệ nào hay vì đó là mùa của những hạt cốm Vòng màu xanh ngọc và màu đỏ thắm của trái hồng chín mọng mà mọi người coi như biểu hiện của sự kết hợp lứa đôi?

Chúng ta hãy nghe Xuân Diệu giải thích:

“Mùa thu là mùa yêu nhau yêu nhau bằng linh hồn là mùa của những tâm hồn yêu mến nhau. Người ta ngoan hơn dịu dàng hơn để mười hay hai mươi ngón tay đan với nhau và lắng nghe trời xanh ôm lấy lứa đôi như một tấm áo che sương. Đó là những giờ thân mật dạo qua hàng cây bước như ngờ ngợ hồn như giao hòa”

Xuân người ta vì ấm mà cần tình
Thu người ta vì lạnh sắp tới mà cần đôi
Cho nên không gian đầy những lời nhớ thương.
Những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau.

Và lòng ta nghe thấy tất cả những du dương của những âm thanh diệu kỳ ấy…

Gọi Mùa Thu Mơ một ca khúc rất… mùa thu của Phạm Anh Dũng. Mùa thu thật mơ màng thật đẹp và lại càng đẹp hơn với giọng hát Duy Trác cùng với nghệ thuật hòa âm của Duy Cường vừa nghe.

Mùa thu màu sắc đường nét của khung cảnh bóng dáng của con người cho đến không gian thời gian… Tất cả đều rất mơ hồ không rõ nét không xác định mà bảng lảng trong màn sương khói của những giấc mộng và những kỷ niệm không phai.

Và rồi… không hiểu sao buồn chở một hồn đầy?
Không gian như có giây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu

Bích Huyền

***

Mang Viên Long
Tuyệt Huyết Ca Của Đặng Tấn Tới

Tại sao tôi chọn đọc thi phẩm “Tuyệt huyết ca” mà không là “Thi Thiên” (tác phẩm thứ tư, phát hành mùa Thu Quí Sửu), hay thi phẩm mới nhất vừa phát hành trong mùa Xuân 1974 là “Trúc Biếc” của Đặng Tấn Tới ? Tại sao là một tập thơ mỏng manh, được in ra vội vàng trong một năm đầy biến cố (mùa hè 1972), kỹ thuật trình bày cũng xoàng xỉnh, mà không là một tập nào trong 04 tập thơ xem như được độc giả lưu ý nhiều nhất ?

Chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca” tôi cần nói tới hai điều :

1-Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của kẻ sĩ Việt Nam (hay nói cách khác: Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của người nghệ sĩ Việt Nam) hai mươi năm “lạnh nghe hồn réo mười phương, Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn”.

2-Minh chứng, lần chót nhưng không phải là thừa thãi, không có sự phân chia (không phải sự tìm hiểu, nghiên cứu) nào trong Thi ca là thích hợp ; hay nói cách khác, không thể uốn nắn, xếp loại một cách gượng ép, cứng nhắc, với nhiều ác ý để từ đó đưa ra những luận cứ nhất thời rất hàm hồ, về những thi phẩm đã được giới thiệu.

Phần một (xin tóm tắt) : Thi phẩm “Tuyệt Huyết Ca” gồm 27 đoạn thơ song thất lục bát, tất cả 108 câu thơ, chung quanh một nhan đề chính đã được chọn. Sử dụng lối thơ cổ truyền Việt Nam để diễn tả những khúc ca máu hồng tuyệt vời của dân tộc, Đặng Tấn Tới đã dồn hết rung cảm tích tụ kỳ diệu bao năm giữa “Trăng cổ độ ố mầu tăng hải, Trải thu phần quan tái vài bông”, trong cảnh tượng đời sống ghê khiếp như ma quái “Người vất vưởng tận hang cùng cốc. Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương” vào thời gian được ghi nhận là biến loạn nhất trong hai mươi năm chinh chiến.

Tôi tạm chia “Tuyệt Huyết Ca” thành một bố cục như sau : Đoạn một : (08 câu đầu) Tình cảm mang mang thúc đẩy lần viết (hay lần mở) từng trang tuyệt huyết của Dân tộc. Đoạn hai : (72 câu tiếp) có thể chia làm 04 tiểu đoạn. Tiểu đoạn a: (08 câu) Viết (hay mở) với tư thái thong dong, trang trọng, chua xót và có chút gì như là chán nản. Tiểu đoạn b : (16 câu) . Những trang đầu tiên – là một cuộc tao ngộ kỳ bí, đưa đẩy tác giả túy lúy trong cảnh “Sông nước chảy chiêm bao máu rạng. Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương”. Tiểu đoạn c: (16 câu) . từ cuộc hội ngộ “chung tuyệt huyết” tri kỷ trên, thảm cảnh ma quái trần gian tỏ lộ sáng ngời như đời sống ngày đêm của Dân tộc đã hai mươi năm “Người vất vưởng tận hang cùng cốc/ Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương/ Máu khô thịt nát bên đường, Rợp mầu tinh huyết đò dương đắm chìm”. Tiểu đoạn d : (32 câu) . Thái độ tìm thấy khi đã kinh qua cảnh đoạn trường (ở đây cũng là tâm sự, thái độ của kẻ sĩ – hay nghệ sĩ, đối với mọi biến động) : Giải quyết những nỗi ưu tư bi thiết bằng sự an ủi của chính mình, bằng sự xoa dịu của đôi mắt nhân ái trầm buồn của Phật Lão, và sau rốt, bằng vào sự hy vọng (vẫn còn hy vọng) : “Non nước cũ rạng ngời sông núi / Trời trong xanh muôn tuổi thơ ngây / Nước trôi mây cuốn chưa đầy / Ngày sương nắng biếc hồng rây ánh vàng”. Đoạn 3 (28 câu cuối): Con người đau khổ thống thiết từ đầu (cuộc tao ngộ) đã đổi khác : Ở đây là một cõi mới, một đời sống tiên cảnh lạ thường, hay là một cõi chiêm bao mộng mị của đa số nghệ sĩ Việt Nam. Nhờ đâu con người (em Nguyên Thủy) đã chết với máu me, với hình hài tiều tụy, với xương trắng cát lạnh, đã được sống lại vào đoạn kết ? Nhờ đâu? Xin thưa : Nhờ niềm hy vọng. Nhờ ước mơ. Nhờ mơ tưởng. Nhưng phải chăng mọi hy vọng ở tương lai cũng chỉ là chiêm bao ? Đoạn kết : “Mây gió nổi trôi ngàn bước mộng/ Bàn chân không lùa sóng vô biên/ Ta đi dạo khắp cõi miền/ Này là phố thảo kia triền xóm hoa”.

Đặng Tấn Tới trong “Tuyệt Huyết Ca” không phải u mặc như Tâm Thu Kinh, cũng không gảy những đoản khúc du dương (hân hoan hay bi lụy) liếc ngó đời sống với đôi mắt nhuốm đượm màu sắc Lão Trang – một thái độ ẩn dấu, e dè, nản chán – đó là thái độ hay tâm sự của kẻ sĩ hiện thời. Trong 108 câu thơ ở “Tuyệt Huyết Ca” đã kéo được tấm màn cho ngần ngại cho thấy rõ ràng một hình ảnh của nhà thơ : Đây là những hình ảnh trung thực, gần gũi, linh hoạt, chứa chất nhiều tâm sự bi đát (không giấu diếm – qua những cái nhìn, đến tư tưởng) có thể đại diện cho đa số kẻ sĩ (hay nghệ sĩ) hiện thời : Thương nhớ quê hương, xót xa vì vận nước, nhưng chỉ thể hiện bằng những thái độ tiêu cực (Than thân trách phận, buồn nản, tuyệt vọng, hy vọng, mơ ước, mộng mị, chiêm bao, và thoát tục : Một tính chất biểu hiện hiển nhiên trong vài năm gần đây tâm sự, quan niệm, đời sống của người nghệ sĩ (hay kẻ sĩ) rất phù hợp với vận nước, cùng những cố gắng khai phá cho Thi ca một lối thoát). Sự chuyển biến tâm tư trên có thể giải thích tóm tắt : Quá Đau Khổ Ngao Ngán -> Thất Vọng -> Quá Thất Vọng -> Hy Vọng – > Trở Về Với Mình = Mộng / Ước / Chiêm Bao / Thoát Tục, v.v…. Tất cả những trạng thái tình cảm quanh co nầy đã được ghi dấu trong “Tuyệt Huyết Ca” bằng một giọng trầm tĩnh, trang trọng nhưng lại quá lâm li bi đát.

Tình cảm đó là :
Mang mang cát bụi lên đường
Những xương máu cũ phai hường là đâu?
Trăng cổ độ ố mầu tang hải
Trải thu phần quan tái vài bông
Nao nao gió giục sang hồng
Rụng bao nhiêu cánh giữa lồng nhân sinh
Ngậm ngùi thương cảm :
Ghé trong mây trắng môi cười
Một xe cát bụi xô người ra đi

Và :

Vin sắc máu trong tòa hồng sử
Tay run mầu lữ thứ cô hương
Lạnh nghe hồn réo mười phương
Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn
Nồng nhiệt, tha thiết :
Ta uống cạn giòng trong bích ngạn
Cuộn tâm bào ức vạn sinh linh
Quá giang ca ngộ cô tình
Lấp mầm sinh tử như mình như ai
Người thoáng hiện di hài cuối nguyệt

Đoạn trường:

Hồn đau nhỏ máu tơ đồng
Mấy cung hồ rợn mênh mông gió gào
Sông nước chảy chiêm bao máu rạng
Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương

Chán nản :
Mây trôi lớp lớp vô thường
Trời xanh còn lại con đường chim bay
Nhìn thấy:
Người vất vưởng tận hang cùng cốc
Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương
Máu khô thịt nát bên đường
Rợn mầu tinh huyết đò dương đắm chìm

Và :

Phơi xương trắng ngoài đêm cát lạnh
Vùi đó đây từng mảnh thân non
Đất bay đá chạy chi còn
Bi thương cổ lục héo mòn tân thanh !

Vì thế, tâm sự :
Trường thu hận tan tành sông núi
Bao mạng người làm củi nung tim
Mây ơi nở nụ im lìm
Chở hồn hoa trắng bay tìm tình tang
Tiếng kêu thương trầm thống còn vọng mãi muôn đời:
Nghìn thu trước ai tình xanh mắt
Nghìn thu sau hiu hắt hồn hương
Cùng nhau về tụ đầu sương
Long lanh chút mộng cuối đường tài hoa.
***
Không kể đến những tâm sự được giải bày mạch lạc trong một bố cục chặt chẽ (điều nầy cố ý hay vô tình ? Tác giả đã : “Ta cũng sầu mở quá độ chơi”) phô diễn và liên kết từng dòng xúc cảm, từng chặng thăng trầm, như một lan tràn tươi mát của suối nguồn. Ngoài một lối sử dụng thể thơ song thất lục bát độc đáo, mới lạ, tuyệt vời nhất trong những áng thơ song thất lục bát đã có tự cổ chí kim (Tôi chịu trách nhiệm về những phát biểu đã nói hôm nay cho tới ngàn sau), không có một câu thơ nào trong 108 câu của “Tuyệt Huyết Ca” tì vết, suy suyễn (mà bạn có biết là tại sao có 108 câu?). Tôi có thể ví như một xâu chuỗi hạt, 108 hạt ngọc đều ngời sáng và quí giá như nhau. Không chú trọng tới những ưu điểm hình thức, điều quan trọng tôi muốn nói lên khi chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca”, phân đoạn và dẫn chứng, rằng không có sự phân chia nào trong Thi ca là thích hợp cho mỗi tác giả, không cố định và bắt buộc phải chịu dán cái nhãn hiệu kỳ quặt xa lạ đối với họ (Thi sĩ) Rằng Thơ phải đọc bằng tâm hồn, rung cảm tự nhiên, đọc và mê man tàng tịch trong mỗi dòng mỗi chữ. Rằng thơ phải như thế – xúc cảm ; nồng nhiệt, phẫn nộ, hay đau xót, hân hoan cũng phải chảy vào lòng người bằng ngõ ngách sâu khuất nhất của tâm hồn. Chứ không phải là một kỹ thuật dụng chữ. Dụng ngôn. Đao to búa lớn. Tôi có thể vắn tắt : Sự rung cảm truyền đạt bền bỉ và sâu sắc là phần quyết định chân giá trị của một thi phẩm chứ không phải : Viễn mơ, Dấn thân, Thiền hay một cái gì ngộ nghĩnh khác.

Mang Viên Long

***

Nguyễn Đức Nhơn
Bóng Thời Gian

Hưng phế ngàn năm giấu mặt
Cổ kim luận tội anh hùng
Trái đất ngàn năm què quặt
Sao khuya rớt giữa muôn trùng

Hình nộm mặc áo long bào
Xua tay đuổi bầy ngạ quỷ
Mặt nạ ngàn năm giấu kỹ
Bùa mê rải khắp tinh cầu

Mặt đất khép kín hà đồ
Lạc hồn bùa mê thuốc lú
Ngậm ngải đi tìm quá khứ
Rừng xanh áo vải khăn sô

Tượng đá cúi mặt ngủ vùi
Hình như một lần mở mắt
Cát sỏi bầm gan tím mật
Giật mình khép vội con ngươi

Trống đồng phù điêu bỏ phế
Hưng vong tuổi đất dạy thì
Nhật nguyệt ô đề bạch thố
Lần tay tính tuổi sao Vi.

Nguyễn Đức Nhơn
***

Trần Vấn Lệ
Ít Khi Nhiều Khi

Rất ít khi sáng mưa chiều nắng
Mà nhiều khi sáng nắng chiều mưa…

Đôi khi buồn nhớ chuyện đời xưa
Chen lẫn lộn chuyện mưa chuyện nắng
Chuyện chẳng có gì cũng nghe nằng nặng
Cũng hờn ghen buồn tủi không đâu.

Chuyện tình yêu không cuối không đầu
Thường lửng lơ lửng lơ phát ghét!
Tình không trọn là tình ly biệt
Lúc trọn thì… là cái gánh trăm năm?

Ai cũng sợ chia công sợ làm
Thà cứ giung giăng như Tiên như mộng?
Tình yêu đó phải chăng cái bóng?
Cái hình dung chỉ hiện ở thơ văn?

Người ta chỉ núi người ta thề trăng
Yêu dẫu chết trong lòng một ít
Còn hơn sống nhiều mà nhiều khi không thích
Cứ mỏi mòn như cuộc chiến chưa ngưng…

Bao nhiêu tang thương sau cuộc chiến đã ngừng
Bao nhiêu thuyền nát giữa trùng dương tuyệt vọng!
Thà sáng mưa rồi chiều hửng nắng
Thà không nghĩ gì rồi lẳng lặng quên đi…

Những sáng mưa không thấy nữa ai về
Những chiều nắng…chắc chi không biền biệt?

Trần Vấn Lệ

***

Lê Văn Trung

Ngang Qua Gò Dưa
Chạnh Nhớ Thi Sĩ Búi Giáng

Ôi huyệt mộ trần gian này muôn thuở
Ông nằm nghe sương rớt hột bình nguyên
Ngàn thu biếc tung tăng bầy dê nhỏ
Lá cồn lay xao xác gió xa miền
Ông nằm nghe tiếng chiều xanh nức nở
Con dế buồn vọng tới bến vô biên
Con bướm trắng con chuồn chuồn cánh đỏ
Con chồn loang những sắc mượt lông mềm

Ông đã đi từ bình minh nguyên thuỷ
Ông đã về từ cõi tịnh tinh khôi
Một con mắt khóc người xa buổi ấy
Còn một con dõi mông cháy bên trời
Ông đã đi đã đành là đi vậy
Mà trần gian không nở khóc chia phôi
Trái tim đỏ vẫn ngời dòng máu chảy
Một vì sao rực lửa phía xa xôi

Mây trắng mãi bồng bềnh muôn vạn nẻo
Quê nhà ơi vượn hú cuối chân đèo
Hồn ông với hồn thiên thu lạnh lẻo
Dòng sông trôi bờ quạnh bến hoang liêu
Hồn ông với hồn trăng sao rạng chiếu
Rừng truông khuya lồng lộng gió muôn chiều
Hồn ông với hồn đất trời vi diệu
Đã vạn lần hổn hển một tình yêu

Ông đã đi từ mang mang nguồn cội
Ông trở về từ thăm thẳm cao xanh
Trần gian hỡi trăm năm chừng ngắn ngủi
Một lần qua là từ biệt sao đành
Ông đã đến và đi riêng một cõi
Đã phai vàng thổn thức mấy thu xanh
Đã hò hẹn đã tương phùng chờ đợi
Đã chia lìa muôn ngàn nẻo lênh đênh

Ông đã đi mà vạn lần gởi lại
Linh hồn ông thao thức mấy phương người
Ông đã về mà lòng sầu cháy mãi
Trái tim nồng nhịp mỏi chốn xa xôi
Mở đôi mắt muôn vì sao nhấp nháy
Khép bờ mi chìm mộng cuối chân trời
Ông đã đi đã đành là đi vậy
Mà trần gian không nở khóc chia phôi

Các em hỡi những nàng tiên Mọi nhỏ
Tình lao xao da thịt cháy hương rừng
Các em hãy về đây quì bên mộ
Khóc một lần thương tiếc bóng thanh xuân
Nghe xương máu ngấm trong hồn cây cỏ
Tận cõi về thăm thẳm của riêng ông
Ông đã đi mang mang hồn thiên cổ
Vẫn còn đây lời Phụng Hiến sau cùng.

Lê Văn Trung

***

Nguyễn Đức Nhơn
Một Thoáng Mông Manh

Hồn tróng vắng như một chiều tắt gió
Nghe trong lòng một thoáng nhớ mong manh
Mình xa nhau bao lâu rồi em nhỉ ?
Đôi mắt buồn còn gợn sóng long lanh ?

Em có biết, mùa xuân không trở lại
Khi trên đầu đã phủ kín màu mây
Trời đất bao la nhưng lòng người chật hẹp
Nên cuộc tình ta đã vuột khỏi tầm tay

Đêm không ngủ nằm vắt tay lên trán
Nghĩ vu vơ đủ thứ trên đời
Nghĩ về em bao năm trời xa cách
Có còn vui như cái thuở ban đầu ?

Giọt nước mắt ngày xưa còn sót lại
Cũng rơi theo số phận con người
Trên trái đất còn bao nhiêu nước mắt ?
Để rót vào lòng trong khoảnh khắc ưu tư…

Nguyễn Đức Nhơn

***

Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Dư Âm Chiều

Anh đi thoáng qua đời
Câu thơ tình bỏ lại
Chỉ là loài hoa dại
Em mơ gì cho mình

Nắng vàng rơi lặng thinh
Tất cả đều sâu lắng
Thiên đường xưa chấp cánh
Hồn nhiên nào tuổi ta

Anh dường như thoáng qua
Không kịp lời từ giã
Mùa xuân rồi mùa hạ
Héo hắt nỗi đợi chờ

Chỉ còn những câu thơ
Vẫn xanh màu lá mới
Vẫn yêu thương vời vợi
Chung thủy với em thôi

Anh giờ đã xa rồi
Còn mình em phố lạ…

Hồ Thụy Mỹ Hạnh

***

Hạt Cát
Quà Cưới

Ðọc xong bức email của Tân, Vy mỉm cười bâng quơ. Nàng không tin đó là sự thật, chắc là anh chàng muốn trêu nàng đấy thôi. Thời gian qua đã mấy mươi năm rồi còn gì, kể từ ngày chấm dứt năm cuối cùng của Trung Học. Có chắc nhân vật ấy là mình không hay một người nào khác mà Thành, bạn Tân, đã nhầm lẫn. Nàng đánh một email khác nhấn mạnh hỏi Tân rằng có thật vậy không. Ðược Tân trả lời là thật 100%, Vy buông mình ra ghế, thẫn thờ nghĩ ngợi. Nàng vẫn không mường tượng được đã có một câu chuyện như thế, dù nàng biết rằng Tân không đùa cho vui khi nói chuyện này. Vy vốn biết Thành từ thời ngây thơ áo trắng học trò, Thành cùng trường, cùng khoá nhưng không cùng lớp. Hồi ấy trường trung cấp tỉnh lẻ mà nàng theo học có hai cơ sở, một cơ sở cho nam sinh, cơ sở kia cho nữ sinh, hai nơi cách nhau khoảng một, hai cây số nên học sinh nam nữ ít khi biết về nhau tận tường, chỉ những học sinh ưu tú thường được các thầy cô nhắc nhở đến thì bọn học trò… nhỏ nhít như nàng mới …tò mò tìm cơ hội để …xem mặt.

Nàng không nhớ mình nghe được cái tên của anh chàng Thành này trong thời gian nào, nhưng nàng có biết mặt Thành trong một dịp sinh hoạt chung mà nàng cũng không nhớ rõ là bao giờ, và có lẽ cái tên dễ nhớ nên nó ăn sâu vào ký ức của nàng cùng với tên một vài người khác. Tân cũng là một bạn học cùng khoá với nàng và Thành nhưng Tân về trường vào năm Ðệ Tam nên nàng không biết Tân và nàng cũng không nhớ là mình đã từng nghe qua tên anh chàng hay không, mãi cho đến bây giờ, mấy mươi năm sau, nhờ phương tiện truyền thông hiện đại thời vi tính, nàng có cơ hội quen biết một vài bạn trong khoá học cùng thời, trên một lớp hoặc dưới một lớp qua trang nhà cựu học sinh ở Hoa Kỳ, mà anh chàng đảm đang việc …bao đồng cho trang nhà này – Tuân – là người được một cựu giáo sư của trường hiện thời đang ở Canada giới thiệu là học trò của ông. Tân là bạn thân của Tuân hồi ấy và cũng là một trong những bạn mà nàng mới quen.

Trước kia, Vy không biết Tân, nhưng qua những lời lẽ trong thư của Tân gửi cho bạn bè qua một danh sách địa chỉ email dài ngoằn, Vy nhận thấy Tân là người sâu sắc, trọng tình cảm và lại hay đem lời dạy dỗ từ Phật pháp, từ mẹ hiền mà an ủi bạn khiến nàng nổi tính…tò mò, bèn… gửi email cho Tân để …bắt chuyện. Qua lại thư từ với Tân vài lần, Vy khám phá ra ngôn từ của anh chàng cũng đầy tính chất trào lộng nhưng không thiếu phần lịch sự là một điều rất phù hợp với nét…tiếu ngạo, tinh nghịch …ngầm của Vy. Bề ngoài Vy thâm trầm ít nói, ở chỗ đông người nàng nghe và cười nhiều hơn. Xinh xắn, trẻ trung lại thêm tài hoa, mặc dù biết là nàng có chủ nhưng các ông yêu thích nghệ thuật văn chương trong cùng lứa tuổi với nàng vẫn rộn ràng lượn lờ chung quanh mỗi chỗ nàng tới. Ở xứ người quanh năm bận bịu việc sinh nhai, cơ hội gặp gỡ nhau rất hiếm hoi, nên mỗi khi có dịp gặp gỡ, các ông cười cợt với nhau rồi xoay qua trêu chọc nàng cốt chỉ để cho nàng được cười vui, nàng biết thế và nàng ứng xử hoà nhã khiêm cung không làm mất lòng ai nên được rất nhiều anh chàng mến mộ từ bao năm trời nay. Ðối ngược với cái thâm trầm đó là tính lém lỉnh, nghịch ngợm …ngầm tiềm ẩn trong con người nàng. Từ thuở còn là cô bé áo trắng ngây thơ cho đến bây giờ. Mỗi khi thư từ cho ai trong giới bạn bè nàng chẳng thể nào đừng …bông đùa giễu cợt được. Nàng …sợ nhất là nói chuyện với các …ông cụ non. Tân là một trong những người nàng thường xuyên đối đáp qua lại trong nhóm bạn hữu cũng bởi tính chất khôi hài cởi mở của Tân . Tân cũng biết được nàng tài hoa qua bài vở, thi ca của nàng góp mặt trên trang nhà cựu học sinh và rải rác trên một số Emagazine. Mặc dù mới quen nhưng tình nghĩa của trường xưa bạn cũ khiến họ dễ dàng thân thiết, lại thêm mối cảm thông về đạo pháp, thi ca càng làm họ tin tưởng và nể nang nhau. Họ cũng hiểu đại khái hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội của nhau, ai cũng đều có trách nhiệm, có bổn phận phải chu toàn nên mối tương quan của họ rất nhẹ nhàng thoải mái. Chưa ai biết mặt mũi của ai ra sao nhưng họ cũng chẳng cho đó là quan trọng.

Ngày hôm nay, Tân …hồ hỡi cho Vy hay chủ nhật vừa qua, Tân và một vài người bạn trong nhóm cựu học sinh ở quê nhà họp mặt với nhau, câu chuyện lan man dẫn dắt họ về những ngày xưa thân ái, tình cờ họ nhắc đến nàng, và Tân khám phá ra một điều là Thành biết nàng rất rõ, anh chàng Thành còn nói rằng ngày ấy anh ta …trồng cây si …trước cửa nhà nàng một thời gian khá dài, anh chàng kể lể đủ thứ về nàng, còn khoe với Tân là hồi ấy nàng đẹp…liêu trai, huyền ảo nữa chứ. Tân cười hì hì trong email, anh chàng bảo Vy nên viết thư về thăm Thành. Vy vẫn không sao tin được việc này. Nàng không biết anh chàng Thành có nhầm lẫn nàng với ai chăng, sao hồi đó nàng chẳng hề hay biết gì cả.

Chưa rõ câu chuyện thực hư thế nào, nhưng nó khiến Vy bồi hồi nghĩ tới một người mà trong bao nhiêu năm trời nay, mỗi lần nhớ đến nàng đều thở dài, ngậm ngùi thương cảm. Người ấy là một vị giáo sư đáng kính của nàng. Cái tình cảm đơn phương lặng lẽ cao đẹp của Người dành cho nàng tưởng chừng như rất mong manh nhưng ngờ đâu nó lãng đãng quanh nàng một cách dai dẳng trong mấy chục năm qua…

Một cô bé mười lăm ngồi lớp Ðệ Ngũ như nàng hồi ấy quả là rất ngây thơ trong sáng. Tóc bím ngang vai, áo trắng không eo dài ngang gối đi kèm quần ống rộng nửa khổ vải chín tấc theo thời trang hồi ấy, nàng nhỏ nhắn, mộc mạc, dung dị nhưng có cái nét sáng sủa, xinh xắn, dễ thương của cô học trò nhà quê trong tuổi hoa chớm nụ. Linh tính con gái cho nàng biết dường như có điều gì khác lạ ở cái nhìn trong giờ dạy của Người. Nàng không nhận định được là điều gì, vì chưa bao giờ nàng bắt gặp cái nhìn ấy một cách trực tiếp, nhưng nàng cảm nhận ra nó mỗi khi nàng cắm cúi viết bài, làm bài mà Người đang đứng đâu đó trong trách nhiệm coi ngó lũ học trò. Không chỉ riêng nàng linh cảm được điều ấy mà vài cô bạn của nàng cũng có cùng nhận xét. Người thường gọi nàng lên bảng đọc bài, trả bài khiến nàng phải chăm học hơn về cái môn này. Nàng không làm cho Người thất vọng khi bước những bước tiến rõ ràng trong môn học của Người.Mỗi tuần lớp nàng có bốn giờ dạy của Người, nàng không bao giờ dám vắng mặt trong những giờ đó. Và Người cũng như thế, nhưng chỉ là những cái ngắm nhìn không tên tuổi trong suốt chín tháng trường.

Bước sang năm Ðệ Tứ, bọn học trò con gái lớn thêm một tuổi, bắt đầu biết thẹn thùng, điệu đà, làm duyên, làm dáng và …lắm chuyện. Nàng bắt đầu nghe những lời xì xào bàn tán nhưng tính nàng lại không thích …hóng chuyện nên nàng cũng không rõ là các bạn đang bàn bạc điều gì. Năm này nàng cũng bắt đầu hé lộ ít nhiều nét e ấp, thẹn thùa của một cô thiếu nữ. Mỗi khi linh tính báo cho nàng biết là đang bị ai đó ngắm nhìn từ phía sau hay từ phía trên khi nàng đang cúi đầu viết bài thì nàng cảm thấy …hồi họp, nàng không dám cử động mạnh, không dám ngước lên hay quay về phía sau. Mãi đến thời gian gần cuối niên học, cứ sau giờ dạy của Người là mấy cô bạn thân kéo nàng lại báo cáo với nàng là khi Người đứng chỗ kia, chỗ nọ ngắm nàng thì bạn A. đã có những thái độ ra sao để lôi kéo sự chú ý của Người. Bọn học trò con gái vốn đã …lắm mồm, giờ thêm sự việc xảy ra có chiều …ly kỳ cho nên các cô tha hồ mà kháo nhau…tin …vịt. Các cô đem nàng ra trêu chọc nhưng rồi cũng chả ai có lý do nào chính đáng để nói gì, vì nhân vật …quan trọng lại hoàn toàn im lặng từ đầu đến cuối.

Hết năm Ðệ Tứ bọn học trò con gái thôi còn là những cô bé nhí nhảnh hồn nhiên vô tư lự nữa. Một vài cô …đàn chị đã bắt đầu …hẹn hò, bắt đầu bỏ ….cuộc chơi dần dần. Các cô thêm một tuổi, thêm e ấp, thẹn thùa, thêm những thứ tình cảm vu vơ trong tâm hồn trong sáng. Nàng cũng như các bạn, bắt đầu bước vào năm Ðệ Tam đã có ít nhiều cảm xúc, rung động trong cái tình cảm vu vơ của tuổi mộng mơ. Nàng hay mỉm cười e thẹn khi nhìn vào gương đã thấy đôi má mình hồng hơn, thấy đôi mắt mình long lanh hơn. Vào năm này thì các giáo sư không còn xem các cô là …trẻ con nữa, các thầy đối với học trò thân thiện, cởi mở hơn, nhất là các vị trẻ tuổi. Năm ấy có lẽ Người đã hơn ba mươi, Người thường hay đi chung với một giáo sư bạn cùng trang lứa phụ trách một môn học khác cho lớp của nàng. Cả hai vị đều được bọn học trò con gái lớp nàng mến mộ. Vì không quá nghiêm nghị, khắt khe nên tình thầy trò có chiều thân thiết hơn các giáo sư khác. Bọn con gái chia thành nhiều nhóm do điều kiện tính tình, chỗ ở chợ, quê khác biệt mà chơi với nhau. Nhóm của nàng và cô bạn thân, nhà có vườn cây ăn trái, có rẫy bái, ruộng nương xanh ngợp. Tuy là quê nhưng không xa thành thị là bao nên vào những cuối tuần thong thả, bọn con gái hay tổ chức đến nhà bạn này, bạn nọ sinh hoạt với nhau, các cô mời cả hai thầy cùng đến chung vui. Nhà các thầy ở Sài Gòn, mỗi ngày các vị di chuyển bằng xe động cơ hai bánh, sáng đi chiều về. Ðời sống ở đô thị với không gian chật hẹp, tù túng đã khiến quý thầy lấy làm vui thích khi được bọn học trò mời về nhà quê chơi. Một bầy học trò con gái và hai nam giáo sư sinh hoạt với nhau dưới bóng mát của vườn quê trái ngọt cây lành, có chim hót líu lo, có trời xanh lồng lộng, có mây trắng bồng bềnh rất là thoải mái đã trở thành những kỷ niệm êm đềm khó quên của tuổi học trò. Có một lần, đến phiên các bạn sinh hoạt ở nhà Vy. Hôm ấy Người vui vẻ lắm, trong suốt thời gian ở nhà nàng, khi ngoài vườn, lúc trong nhà Người đặc biệt chăm sóc, nhắc nhở, dặn dò Vy việc này việc nọ rất ân cần, có khi trước mặt mọi người, có khi Người gọi Vy đến bên cạnh. Người chuyện trò với ông cụ Vy, một trẻ một già rất tương đắc, người vốn dạy về Sinh ngữ Pháp mà ông cụ Vy lại là người thông thạo tiếng Pháp. Không biết nội dung câu chuyện giữa hai người ra sao, nhưng khi ai về nhà nấy rồi thì ông cụ khen Người rối rít.

Năm này ánh mắt của Người mỗi khi nhìn ngắm nàng có chiều …tha thiết và thường xuyên hơn khiến một cô bạn cùng nhóm bỗng …đâm ra ganh tỵ với nàng. Tuy vậy mức độ tình cảm của nàng và cô bạn ấy vẫn không có gì sứt mẻ quá đáng, có điều là cả hai cùng đua nhau …cố gắng…chăm học. Bản tính nàng ít oi, nhút nhát lại hay cả thẹn nên nàng không biết chuyện Người đã để ý đến nàng nhiều hơn, nàng được rõ mọi việc xảy ra là do các bạn ngồi phía sau lưng …âm thầm quan sát trong giờ dạy của Người để rồi khi xong giờ, Người bước ra khỏi cửa là các bạn kéo tới nàng …báo cáo. Nghe các bạn nói thế nàng chỉ biết e thẹn, mỉm cười chống chế …lấy lệ …“ Có thiệt hong đó, mí bồ đừng …thêm mắm dặm muối nghen, thầy …hỏng có nói dí tui cái gì hết á ” nhưng trong lòng nàng cũng không khỏi cảm thấy xuyến xao rung động. Có lần linh cảm được Người đang ngắm mình, nàng đánh bạo thu hết cam đảm giả đò nhìn lên một cách tình cờ thì bắt gặp Người chợt quay đi nhưng vẫn còn để lại ít nhiều trìu mến trong ánh mắt. Trái tim cô học trò lớp Ðệ Tam như nàng hãy còn khờ khạo lắm, nàng chưa biết , chưa nghĩ gì đến việc yêu đương, chỉ biết có người – nhất là nam giáo sư – ngắm mình thì lòng cũng thấy thinh thích, thấy bất chợt xao xuyến vẩn vơ rồi sau đó mọi sinh hoạt thường ngày cũng ùa đến mà chiếm hết thời gian còn lại.

Một buổi sáng nhằm ngày lớp nàng có hai giờ đầu môn học của Người. Chuông đã reo báo giờ vào lớp mà không thấy thầy đâu. Năm phút, mười phút, rồi nửa giờ trôi qua cũng không thấy, cả lớp bắt đầu nhốn nháo túa ra hành lang đứng ngóng ra đường. Ðứng ở hành lang trên lầu của dãy lớp học dài, bọn con gái có thể nhìn thấy bóng người xa xa trên con đường đất đỏ đầy bụi mù dẫn vào trường từ quốc lộ 13. Một bầy con gái nhấp nha nhấp nhỏm vừa trông ngóng vừa bàn qua tán lại lý do thầy đến trể …nhặng xị cả lên. Ðứa thì bảo “Chắc thầy …ngủ quên”, lại có đứa bảo “ Thầy đi …lạc”, có đứa …không ưa môn học thầy dạy còn bạo miệng nói “ …Vái cho…thầy …bị cái gì đó không đến dạy hôm nay đặng mình khỏi …trả bài”. Ðợi mãi đến hết hai giờ học thầy cũng không xuất hiện. Trưởng lớp chạy xuống văn phòng hỏi thăm thì thầy giám thị cũng không biết được gì. Ðã đến giờ dạy của một giáo sư khác nên trật tự của lớp được ổn định lại dần dần.

Ai nấy đều nghĩ rằng thầy bận việc hoặc đau bệnh thình lình không thể đến dạy nên cũng chẳng thắc mắc chi lâu. Mãi cho đến lúc sắp hết giờ học cuối, bọn học trò sắp sửa ra về thì thầy giám thị lên tận lớp báo tin Người đã bị tai nạn lưu thông trên đường đến trường, Người bị thương, gãy chân cần phải nằm bệnh viện để giải phẫu. Cả lớp nghe tin ai nấy ngẩn ngơ buồn bã, những bạn dại mồm dại miệng nói đùa hồi sáng bỗng …đâm ra hối hận, Vy cũng cảm thấy buồn như các bạn và có lẽ buồn hơn …chút xíu. Thế rồi, giáo sư khác được điều về để thay thế cho Người môn dạy ấy. Bọn học trò không thấy thích thú với vị giáo sư mới này nhưng cũng đâu làm gì khác hơn được. Mọi việc trong lớp học lại lắng động bình thường như bao lớp khác.
Bây giờ thì nhóm của Vy có thêm một việc để làm vào những cuối tuần thong thả thay thế cho việc đến chơi nhà các bạn. Ấy là tổ chức kéo nhau đi bệnh viện thăm Người. Lần nào đi, cả nhóm cũng nằng nặc phải…lôi nàng đi cho bằng được dù có nhiều lúc hoàn cảnh của nàng không cho phép, họ nói có nàng đến thăm sẽ khiến thầy được …vui vẻ mà mau lành bệnh. Bọn học trò con gái nhóm của Vy tổ chức đi thăm Người rất nhiều lần, khổ cho Người là cái chân bị thương tật của Người không …chịu lành nên cứ phải trải qua hết cuộc giải phẫu này đến cuộc giải phẫu khác, đến nỗi vào bệnh viện mà hỏi thăm vị giáo sư đã giải phẫu chân nhiều lần nằm điều trị ở phòng nào thì ai cũng biết. Người được điều trị trong bệnh viện và nằm dưỡng thương tại nhà gần …hai năm trời, mỗi lần bọn nàng đến thăm thấy thầy xanh xao gầy gò, đứa nào đứa ấy cũng muốn …rớt nước mắt, gặp được bọn nàng, Người vui mừng lắm, ánh mắt Người sáng hẳn lên, nhất là khi Người nhìn nàng, ánh mắt có thêm tia nhìn trìu mến đậm đà . Ðến thăm thầy tại bệnh viện rồi tại nhà, trước sau chỉ thấy có người em gái của thầy thôi, bọn Vy không dám hỏi thầy …”cô” đâu mà chỉ đoán chắc là thầy chưa có …cô.
Thời gian cứ trôi qua, bọn con gái mỗi ngày mỗi thêm lớn, kiểu cách sinh hoạt có nhiều thời giờ rảnh rổi trong lứa tuổi thơ ngây không còn nữa, ai nấy cũng có thêm trách nhiệm trên vai, thêm công việc để lo lắng thay thế cho mấy ông anh bà chị đã đi ra khỏi nhà với tiểu gia đình của họ. Những cuộc viếng thăm Người thưa dần đi. Vy cũng không ngoại lệ.

Khi Người có thể đi dạy trở lại với sự hỗ trợ của cái nạng gỗ vì chân gãy còn yếu thì hướng đi của Vy đã bắt đầu rẽ sang một ngả khác. Sinh hoạt ngày càng đắt đỏ khó khăn, đồng lương hưu của ông cụ Vy khó thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu áo quần, sách vở, bút mực cho nàng và đám em ba đứa nên nàng có ý định thôi học. Thời gian Người trở lại trường chính là lúc Vy đã chập chững đi vào con đường … hẹn hò, đưa đón, sắp sửa …theo chồng …bỏ cuộc chơi. Năm đó lớp nàng đã được chuyển sang học bên trường dành cho nam sinh. Người không có giờ dạy lớp Vy nhưng thỉnh thoảng thầy trò có đụng mặt nhau ngoài sân trường, cửa lớp, Vy cúi đầu lí nhí chào Người, hỏi dăm ba câu thăm sức khoẻ Người rồi tiếp tục đường ai nấy đi. Một hôm, buổi sáng, vừa ló mặt vào lớp thì nhóm bạn nàng vội vã kéo nàng lại một góc rồi bắt đầu…sỉ vả “…Chùi ui, bồ …ác thì …ác…vừa vừa thôi, hẹn nhau đưa đón thì kiếm chỗ nào xa xa một chút. Ở ngay trước cổng trường, thầy đứng ngoài hành lang văn phòng nhìn ra thấy, thầy …biến sắc, trông thầy…buồn hiu …tội nghiệp lắm á”. Trời đất ơi! Vy làm sao mà biết được chuyện này, người ta đưa đón Vy cũng giống như bao kẻ khác, thì cứ đậu xe chờ ở trước cổng trường thôi mà. Nhưng rồi Vy cũng nghe lời các bạn, không cho người ta đón ở cổng trường nữa.

Ít lâu sau đó, Vy được người ta ngỏ lời cầu hôn và nàng đồng ý nên chuẩn bị chia tay các bạn. Ngày cưới gần kề, bọn Vy lại tụ họp nhau bàn tán, cả bọn đắn đo việc có nên mời hai vị thầy đến dự hay không, bạn thì bảo nên, bạn khác lại cho rằng không e Người sẽ …khổ tâm, bàn qua tán lại cả bọn đồng ý không cho Vy gửi thiệp mời hai vị ấy.

Sau hôn lễ một thời gian, tới lui thăm nhà được vài bận, một hôm Vy nhìn thấy có chiếc đồng hồ báo thức loại dành để chưng bày trên bàn trang điểm rất nhỏ nhắn và xinh xắn xuất hiện trong nhà. Trước đến giờ, Vy chưa từng thấy vật ấy, hỏi thì các em nàng nói là của ông anh ở xa gửi về cho.Vy cũng không bận tâm về nó lắm cho đến một ngày kia khi Vy ghé viếng nhà cô bạn thân thiết nhất từ trước đến giờ, cô bạn cho Vy biết rằng Người quá đau buồn đã xin chuyển đi nơi khác, không còn dạy ở trường nữa, đồng thời cô hỏi Vy đã có nhận được quà cưới từ Người không? Vy ngạc nhiên vô cùng, bảo với bạn “… Bọn mình không có mời Người đến dự mà làm sao có quà”.Cô bạn kể lại cho Vy hay rằng Người biết việc Vy kết hôn nên đã chuẩn bị sẵn một món quà cho Vy rồi, không ngờ bọn Vy đã chẳng cho Vy mời nên Người không thể đến, nhưng Người đã mang món quà ấy trao lại cho một cô bạn trong nhóm, nhờ cô đưa tới cho nàng, và cô bạn đã gửi đến gia đình cha mẹ nàng sau ngày cưới ít hôm. Vy tức tốc trở lại nhà, gạn hỏi mẹ và các em, cuối cùng mẹ nàng xác nhận quả thật có món quà ấy và có cả lời chúc phúc với nét chữ thân quen của Người, món quà ấy chính là chiếc đồng hồ báo thức xinh xắn mà Vy thấy lạ trong nhà. Mẹ bảo không cho Vy biết vì sợ tâm lý Vy bị xao động sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc. Cầm chiếc đồng hồ trên tay Vy ngơ ngẩn hàng giờ. Mường tượng đến hình ảnh Người chống chiếc nạng gỗ vất vả đi tìm một món quà nhỏ bé xinh xắn mà đầy đủ ý nghĩa để làm quà cưới cho nàng, rồi mường tượng đến nét mặt buồn bã của Người khi trao món quà này cho cô bạn, rồi lại mường tượng hôm cử hành hôn lễ, có thể Người đã đứng ngồi đâu đó bên chiếc nạng, lặng lẽ nhìn theo Vy bước vào xe hoa mà lòng xót xa khiến Vy ngậm ngùi thương cảm.Vy thở dài rồi thở dài, nàng không ngờ tình cảm Người dành cho Vy lại sâu đậm đến như vậy, trong khi Vy hồn nhiên vô tình hẹn hò đưa đón trước mắt Người rồi lại thản nhiên cười cợt bên cạnh người ta.

Biết được ngọn ngành của chiếc đồng hồ, Vy không thể nào không mang nó theo về nhà riêng với nàng. Trời ơi! Bày chiếc đồng hồ này trên bàn trang điểm ở đầu giường là vô tình mỗi ngày Vy đều trông thấy nó. Người …bắt Vy mỗi ngày phải nhớ đến Người dù có nhớ cũng chẳng để làm chi.Và cứ thế, chiếc đồng hồ ấy nằm trên bàn phấn của Vy qua năm này tháng nọ. Mỗi tuần lễ khi thu xếp lại vật dụng cho ngăn nắp trên bàn phấn là Vy có dịp cầm nó lên, nàng nâng niu lau quét bụi bám vào nó rồi khẽ khàng đặt xuống. Chuyện của Người thỉnh thoảng trong lúc vui vẻ nàng có kể lại cho người ta nghe nhưng nàng không cho người ta biết sự tích của chiếc đồng hồ ấy, nàng chỉ nói đại khái là quà bạn bè tặng ngày cưới. Nó cứ nằm mãi ở đấy trong một quảng thời gian liên tục mấy năm dài cho đến khi nó cũ kỹ và các con nàng làm rơi xuống đất khiến máy móc bị lệch lạc thì nàng cất nó vào hộc tủ bàn trang điểm ấy. Lâu lâu khi thu dọn sắp xếp lại hộc tủ, bắt gặp nó nàng ngậm ngùi cầm lên ngắm nghía một lúc rồi đặt nó vào chỗ cũ. Vy chỉ không nhìn thấy được nó kể từ khi lìa xa đất nước ra đi.

Bao nhiêu năm đất khách quê người, thỉnh thoảng hình ảnh của Người vẫn hiện ra trong tâm tưởng Vy, mỗi lần nhớ đến là mỗi lần Vy không tránh khỏi nỗi niềm thương cảm. Dạo trước khi mới liên lạc được với một vị cựu giáo sư của trường trú ngụ tại Canada, Vy có hỏi thăm vị ấy về tin tức Người nhưng không có kết quả gì, rồi khi có tin tức của nhóm cựu học sinh, Vy lại tìm được một cô bạn cùng lớp hồi ấy, tuy ngày xưa không thân lắm nhưng hôm nay đất khách quê người, gặp được bạn cũ cả hai mừng lắm,Vy có hỏi bạn về Người nhưng bạn ấy cũng không biết gì hơn. Ðến bây giờ câu chuyện đã thuộc về dĩ vãng mấy mươi năm rồi, tình cờ mà Tân nhắc đến Thành khiến nỗi niềm kia sống lại trong lòng Vy.
Ðến bây giờ tuổi đời càng chồng chất Vy càng hiểu rõ rằng tình cảm đơn phương lặng lẽ mà sâu đậm ấy của Người không phải là Người không muốn thố lộ cùng Vy, nhưng đã có nhiều lý do khiến Người không thể bày tỏ cho Vy biết sớm, Người âm thầm chờ đợi một cơ hội vào một thời điểm thuận tiện hơn nhưng rồi cái cơ hội thuận tiện ấy chẳng bao giờ có được vì đã quá nhiều bất trắc xảy đến cho Người, cuối cùng rồi Người lại lặng lẽ chôn kín cái tình cảm ấy vào món quà cưới tặng nàng. Ðến bây giờ nàng mới hiểu rõ hẳn Người đã nhiều lần đè nén tâm tư trong những ngày nằm dưỡng thương chính vì Người không muốn nàng phải chịu khổ. Người hiểu được rằng nếu như Người quyến luyến, ân cần với nàng nhiều hơn, rõ nét hơn thì hẳn nàng cũng sẽ không cầm lòng được. Vì rõ ràng nàng cũng e thẹn, xao xuyến và rung động mỗi khi gặp mặt Người, nàng cũng khó dấu là nàng đã manh nha một thứ tình cảm khác hơn tình thầy trò thuần túy. Ngày xưa khi bị bạn bè trách là vô tình thì nàng tự chống chế rằng Người đã không nói gì, nàng là con gái làm sao có thể tùy tiện hành động để chứng minh nàng không vô tình. Nàng không nghĩ ra rằng vì không muốn lôi kéo nàng vào sự khổ ải mà Người cứ âm thầm lặng lẽ như thế. Ðến bây giờ Vy mới hiểu được rằng tình cảm, tình yêu của Người đối với nàng thật là bao la vị tha, Người đã không vì yêu chính bản thân mình mà mong cầu chuyện mãn nguyện để làm khổ Vy. Ba bốn năm dài từ khi nàng chỉ là một nụ hoa đồng mộc mạc, Người đã nâng niu, chăm chút, đã diệt bao nhiêu cỏ dại một cách âm thầm cho đóa hoa đồng nội nàng được khởi sắc, rồi Người lại đè nén nỗi đau đớn tấm thân thương tật của mình mà tiếp tục giữ gìn để đóa hoa ấy được hé nở hồn nhiên, rạng rỡ cho đến một ngày có kẻ khác đến hái đi. Ðến bây giờ nàng mới hiểu được rằng tình yêu ấy của Người dành cho nàng không phải là thứ tình cảm vu vơ có cũng được, không cũng được, như nàng từng nghĩ ngày xưa. Nếu là một thứ tình cảm vu vơ có cũng được không cũng được, Người đâu cần phải đau buồn, đâu cần phải nghĩ ngợi để tìm một vật có ý nghĩa làm quà cưới cho nàng, đâu cần đến nỗi phải xin chuyển đi nơi khác sau khi nàng lấy chồng. Phải là một thứ tình yêu sâu sắc đậm đà khó phôi pha mới khiến Người làm nên bao nhiêu việc ấy. Ôi ! càng nghĩ Vy càng thẫn thờ, càng nao nao ngậm ngùi , nàng càng trân trọng mối tình lặng lẽ cao đẹp ấy của Người.

Vy đem mối u uẩn hàm tình này kể lại cho Tân nghe và hỏi Tân có biết tin tức gì của Người không.Tân nghe rồi cũng bùi ngùi cảm động, anh chàng vốn là người trọng tình cảm,nhất là những tình cảm đẹp đẽ như của Người đã dành cho Vy.Tân hứa sẽ cố gắng tìm kiếm tin tức của Người hộ Vy, cho dù nếu như Người không còn trên cõi đời này nữa thì Tân cũng sẽ tìm nấm mộ của Người để đến thành kính nghiêng mình thắp hai nén hương, một là chính bản thân Tân thắp cho Người, một là thay thế Vy mà thắp.

Hạt Cát

***

Nguyễn An Bình
Cầu Vồng Mưa

Đợi gì mưa lén hôn môi
Sợi mưa tháng sáu đưa người đi xa
Sân trường cuối một mùa hoa
Ve sôi phượng bỗng vỡ òa trên vai.

Đợi gì mưa lạnh mềm tay
Nghe lay phay nhớ một ngày không nhau
Tình đầu chuốc những hư hao
Nên hàng hiên quán gió nhàu gọi em.

Đợi gì mưa quá chông chênh
Nên người đánh mất tuổi tên tình cờ
Sớm mai biết có ai chờ
Tiễn mùa hạ cũ bụi mờ dấu chân.

Đợi gì mưa rớt tháng năm
Thương câu hạnh ngộ đời trầm luân nhau
Khoảng trời mây trắng bay cao
Mang đi tuổi ngọc trôi vào hư không.

Đợi gì mưa ướt đường trơn
Em xa bỏ lại nỗi buồn sớm trưa
Nhớ người áo lụa ngày xưa
Tình tôi thắp nắng trong cầu vồng mưa.

Nguyễn An Bình
***

Mang Viên Long
Sen Hồng Nở Giữa Mùa Trăng

Ngày Đức Phật Thế Tôn thị hiện đản sanh – PL 2555 lại đến với tất cả chúng ta – những nguời con Phật trên khắp hành tinh này . Mùa Sen Hồng lại nở giữa ngàn trăng đang ngát hương mầu nhiệm và không ngừng xoa dịu bao nỗi ưu phiền thương đau ; mãi mãi hiến dâng bao niềm hy vọng an hòa cho cõi nhân gian đầy biến động với lẽ sinh diệt vô thường của kiếp người nổi trôi mê lầm ; đã và đang ngời ngời rực sáng trên khắp hành tinh…Hơn 25 thế kỷ đã đi qua – ngày ánh Đạo Vàng đầu tiên tỏa chiếu ở Ca Tỳ La Vệ vẫn mãi trường tồn trong muôn triệu trái tim của người con Phật của cả nhân loại và của muôn loài chúng sinh . Hôm nay và mai sau. Sen Hồng sẽ mãi mãi nở giữa mủaTrăng bất diệt trong tâm hồn mỗi người con nguyện đi theo con đường an lành giải thoát của Đấng Cha Lành…

Cảm nhận được sự thiêng liêng thiện lành của ngày Đức Phật ra đời – Ni sư Thích nữ Diệu Quả đã thành tâm ghi lại xúc cảm qua mấy vần thơ giản dị mà đầy xúc cảm :
“ Ngày Phật Đản hiện lên vầng trăng sáng
Giữa bầu trời tỏ rạng ánh quang minh!
Quét bóng đen – sạch hết cõi vô minh…
Dạy nhân loại thực hành theo Bỉ Trí.
Ngày Đán sanh đấng Từ Bi vô nhị…
Cứu muôn loài thỏat khỏi mọi đau thương (…)”

(Kính Mừng Ngày Phật Đản)

Triệu Nguyên Phong trong bài “Một Khúc Sông Quê “ đã chỉa sẻ niềm hân hoan trong mùa trăng tháng Tư lịch sử:
“ Tháng Tư
lễ hội hoa đăng
Bồ giang ơi! Một khúc sông quê nhà
Tam giang ôm nước nguồn xa
Mây giăng đầu núi- mặn mà tình trăng (… )”

Nhà thơ Nguyễn Khôi cảm tác từ “ Vọng Tiếng Chuông Chùa “ vào một đêm Ban Mê khó quên trong đời thắm đượm đạo vị:
“ Đêm Ban Mê nằm nghe tiếng gió
Vọng tiếng chuông khuya giữa núi rừng
Một thoáng ngày xưa – ngàn dặm biếc
Trăng vàng sáng mãi cõi lòng tôi (..)”

Hình ảnh khó quên trong đời có lẽ cũng là đêm Rằm tháng Tư ở ngôi chùa quê thanh vắng nên thơ – cùng nhau vào chùa lễ Phật nguyện cầu an lành cho tất cả – Trần Minh Nguyệt đã ghi lại một kỷ niệm về “ Chùa Quê “ như thế rất sâu sắc :
“ Rằm tháng Tư em đi chùa – lễ Phật…
Quy y thiện quả kính dâng hương!
Chùa quê soi bóng trăng trong sáng
Pháp nhũ trùm giăng rộng đất trời !”

Cùng có chung cảm nhận về hình ảnh “ lễ Phật “ của những nữ Phật tử son trẻ chân phác nhân hậu – Tâm Không – Vĩnh Hữu đã xúc cảm ghi lại trong bài “Em Quỳ Lễ Phật “ dài 25 câu thơ- VHT xin trích giới thiệu bốn câu mở đầu:
“ Em quỳ rạng rỡ nét vui
Như sen một đóa vừa ngoi khỏi bùn
Chắp tay tâm sáng diệu thường
Như trăng lồng lộng ngát đường quê xưa (..)”

Nhà thơ Nguyễn Miên Thượng với “ Trăng Sáng Nghìn Xưa “ gồm 5 khổ thơ mới dã ghi lại ngày lịch sử Phật Đản Sanh bằng tấm lòng ngưỡng vọng tri ân – VHTxin chỉa sẻ cùng Bạn đọc 1 đoạn :
“ Trăng rực rớ khắp Ca Tỳ La Vệ
Trời tháng Tư ngào ngạt sắc hương hoa
Cả trần gian như bừng sáng- chan hòa
Cung nghinh đón Đấng Thế Tôn thị hiện (..)”

Trần Ba nhìn ánh trăng Rằm tháng Tư cũng cảm thấy có gì khang khác? Trong màu trăng dường như cũng tỏa hương…
“ Trăng Rằm vằng vặc muôn nơi
Dưới trăng – ta dạo nhớ lời Cha xưa…
Ánh vàng bàng bạc xa đưa
Màu trăng Phật đản như vừa ngát hương?”

Hoa Sen đã được ghi nhận như một biểu tượng thiêng liêng mầu nhiệm từ ngàn xưa để hướng tâm về điều thiện lành tinh khiết. Hướng tâm về Phật. Hoa Sen Hồng cũng vừa được Việt Nam chọn làm “ Quốc Hoa “.Trong bài “ Cảm Tác Mùa Sen “ – Trịnh Thị Vui đã bày tỏ :
“ Tháng Tư sen nở
Bừng dậy sắc hương
Không gian reo hát
Đón mừng Thế Tôn (…)”

Với bài thất ngôn bát cú – Sơn Bình chân thành ghi lại xúc cảm về “ Rạng Ánh Hào Quang” mà chính mình đã cảm nhận được nhân ngày Phật đản sinh :
“ Lành thay! Phật hiện cõi trần gian
Nhân loại nương theo ánh đạo vàng
Cứu thế – kim ngôn xua khổ lụy
Độ nhân – diệu pháp thoát nguy nàn
Đạo mầu dẫn lối qua bờ giác
Tà kiến dần xa cõi lụy phiền
Đuốc tuệ Như Lai soi khắp nẻo
Muôn đời còn rạng ánh hào quang”
Hoàng Hà với “ Tháng Tư Hoa Nở”:
“ Hoa Tâm nở ngát vườn hồng
Tiếng kinh sưởi ấm bao lòng tháng Tư
Cành thương đơm trái nhân từ
Long lanh mắt Phật ngọt lừ giọng con”

Nhà thơ Ngô Cang có được phút giây “Hành Thiền Dưới Bóng Chùa Quê” trong ngày Đức Phật đản sinh thật đáng ghi nhớ :
“ Trước cổng tam quan hoa sen nở
Thoảng thơm giữa nắng tháng Tư xanh
Hành thiền theo từng nhịp thở
Phút giât lắng dọng mãi trong anh
(…) Ta bước đi “tâm Phật rộng vô bờ”
Khi nhìn giọt sương trên đóa sen nở trắng
Hương thơm sắc thắm
Giữa ngày Khánh Đản nắng quê hương (..)”

Từ niềm vui vô biên của ngày Đức Phật thị hiện bao tâm hồn đã nhận được vô lượng pháp nhũ nhiệm mầu để tìm thấy niềm an lạc chứng ngộ tri kiến giải thoát cho cuộc đời khổ đau huyễn mộng của mình. Cấn Sách ( Thích Trung Viện ) đã bày tỏ niềm vui lớn ấy trong bài “ Thong Dong”:
(..) “Lỡ chân
nghỉ lại Ta bà
Tỉnh mơ thức giâc
lỡ làng chiêm bao
Trời cao
vững bước tiêu dao
Hướng về quê Phật
rạt rào niềm vui (…)”
Trần Đới với “ Gậy Thiền “ rất ấn tượng :
“Gậy thiền
trên đỉnh
thong dong
Bên vành nón
rạng nắng Xuân
mới về
Hoàng y
từng bước
đề huề
Đường mây trắng dựng
bốn bề hư không (..)”

Nhà thơ Kiều Trung Phương với “ Rửa “ thật vi tế sâu sắc:
“Quay về
gội rửa
thân tâm
Trong bến đục
rửa
mê lầm
phù hoa
Soi gương
ta hỏi chính ta
Bao mê hoặc
có thoát ra
rửa mình?”

Nhà thơ Nguyễn Nguyên An với 2 bài tứ tuyệt “Lành” & “Tát” ngan ngát hương đạo :
“Gắng trồng cây xanh
Tròn trịa lòng thành
Chung quy hữu báo
Dù chỉ mầm xanh”

V à
“Thời gian sắp cạn
Nhoảnh lại hư không
Chắp tay ta tát
Cạn sạch biển lòng”

Hòa cùng niềm vui chung ngày Đức Phật đản sanh – Nguyễn Thị Hiệp đã ghi lại cảm nhận về” những ngày Thầy Thích Tâm Mẫn “ nhất bộ nhất bái” ( tại Quảng ngãi tháng 7 năm Mậu Dần ) với lòng thành kính tri ân :
“Bước một bước dần về cõi tịnh
Lễ một lạy độ tận hằng sa
Tâm Từ một cõi ta bà
Nhân gian mát rượi Cà Sa Ánh Vàng (…)”
(Kính Dâng Thầy)

Vườn Hoa Tâm mùa Phật Đản có được nhiều hương sắc tươi thắm để cúng dường lên Đức Phật Thế Tôn là nhờ vào nhiều bàn tay trí tuệ của nhiều nhà thơ đạo hữu chung góp. Đây là một mảnh vườn nhỏ xinh xắn . gom góp bao cánh hoa thơ – như những nén tâm hương từ bốn phương kính dâng mừng ngày Khánh Đản. Người giữ vườn trân trọng cám ơn quý nhà thơ thân hữu đã luôn gắn bó với Vô Ưu – dành cho trang thơ những tác phẩm tâm đắc để Vô Ưu ngày càng xứng đáng với lòng tin yêu của Bạn Đọc…

Nhân mùa Phật Đản Sinh PL 2555 – chân thành gởi đến quý Đạo hữu quý anh chị em văn nghệ sĩ và gia đình lời cầu chúc: “Mãi mãi an lảnh trong Tình Yêu Thương Vô Bờ của Chư Phật!”

Lập Tâm tịnh thất
Phật đản PL 2555

Huệ Thành
Mang Vi ên Long

***

Hồ Chí Bửu
Quán Chiều Mưa

Quán cóc liêu xiêu – chiều thứ bảy
Ta ngồi tâm sự với ta thôi
Uống ly rượu đắng hồn tê tái
Mưa vẫn âm thầm – mưa cứ rơi

Ta quẳng đời mình trong gió lốc
Yêu em là xả láng đời mình
Yêu em là bỏ đời đơn độc
Tìm chút duyên tình trong phiêu linh

Ta lỡ phong trần – đời mạt kiếp
Yêu nhau thì cũng chỉ giả vờ
Giang hồ ai cũng là đại hiệp
Ta vẫn cóc cần – ta có thơ

Thì gã làm thơ – chiều ly biệt
Tay vẫy chào nhau phút ngậm ngùi
Còn chăng một chút tình tha thiết
Sông lạnh mây mờ sông cứ trôi..

“Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười nhìn lớp sóng lô nhô “ (*)
Ta khinh mạn -cho đời mình trôi miết
Về…về đâu ? Sông chẳng có bến bờ…

Hồ Chí Bửu
* thơ Nguyễn Bắc Sơn..

***

Phù Sa Lộc
Mừng Thêm Một Tuổi Già

Cứ Tết là giựt mình
Tuổi già chồng thêm một
Coi kiếng càng thêm kinh
Tóc dầy hơn sợi bạc

Quẩn quanh căn phòng nhỏ
Đụng bên nầy thuốc Tây
Quờ bên kia thuốc Bắc
Thuốc Nam trên kệ đầy

Một ngày bao cữ uống
Lúc nhớ thì đúng liều
Khi quên mới biết thiếu
Có bữa lại uống nhiều

Buổi sáng đi thể dục
Bạn chỉ vài tuyệt chiêu
Cho hết đau mình mẩy
Tập hoài bịnh chẳng tiêu

Tuổi già đi lọm khọm
Không dám trèo thang cao
Bước qua mấy chỗ thấp
Có khi bị té nhào

Sui gia tới kêu cửa
Dòm hoài chẳng biết ai
Huống chi là gái đẹp
Chắc lưỡi lại kêu trời

Thương quá thời tuổi trẻ
Thằng cha chưa kịp biểu
Thằng con đã ngóc đầu
Bây giờ kêu rát cổ
Nó có thèm nghe đâu !

Phù Sa Lộc

***

Nguyễn An Bình
Sài Gòn Mưa – Anh Và Em
1.
Sài Gòn có những cơn mưa bất chợt đi qua
Bụi đường rác rưởi tự nhiên được cuốn sạch
Xe trôi trên cầu vượt sủng ướt
Khúc cua tình cờ đầy bất trắc
Con đường đôi lúc biến thành sông
Nước mênh mông nước
(Tự dưng thấy lòng con người nhiều khi quá cạn
Tình yêu lại nở trên đất đai khô hạn)
Trong màn mưa bạc trắng
Wifi cũng sợ hải chập chờn đua nhau chạy trốn
Âm thanh nhạc chờ quen thuộc bỗng nhiên tắt ngún
Lòng cảm thấy nhớ cồn cào
Chẳng biết giờ nầy em đang ở đâu
Dưới hàng hiên tránh gió
Hay trong một quán cà phê nhỏ
Nghe tiếng hát một thời liêu trai
Nhẩn nha đếm những giọt mưa dài
Đang rùng mình chạy trên phố lạnh.

2.
Sài Gòn có những cơn mưa dai dẳng
Dù đó chỉ là cơn mưa trái mùa phản phúc
Dự báo thời tiết còn phải chào thua
Huống chi anh và em làm sao đoán được
Bao giờ chúng mình sẽ buông rời tay nhau
Cuộc sống có bao điều nghịch lý
Dù lòng luôn nghĩ đến điều ngược lại
Cô đơn không làm cho ai mất thở
Cũng đủ làm con tim lạc nhịp
Sài gòn còn đang mưa
Có ai đó đội mưa tìm đến nhau – quay quắc
Phải chăng họ sợ tình yêu thất lạc
Giọt mưa thảng thốt tràn xuống bờ môi
Chợt thèm nụ hôn nồng nàn một ngày mưa trở gió
Anh lại nhớ đến em
Giữa không gian tiếng dương cầm mưa dạo khúc
Sao ta lại ơ hờ đến thế – khi còn có thể
Phải vậy không – em – Sài Gòn của tôi?

22-5-2017
Nguyễn An Bình

***

Trần Văn Sơn
Lá Kinh

Loay hoay góc nhà nghỉ mệt
Vườn sương lũ bướm chập chờn
Ngân nga hồi chuông vĩnh biệt
Chuông chùa cố xứ Thiên Sơn

Chờ xe bên đường niệm Phật
Lao xao phố khói bụi mờ
Gương kinh soi ngang tầm mắt
Soi xa tận cõi nguyên sơ

Thăm rừng nghe chim nói Pháp
Ngẩn ngơ gió núi mây ngàn
Tờ kinh che vòm lá thấp
Nhẩn nha bầy sóc họp đàn

Tỉa cây nghe hoa đọc kệ
Trầm tư hương chữ ngọc trầm
Lá kinh mở trang nhất thể
Hạt gieo đất mới nẩy mầm

Trần Văn Sơn

***

Nguyễn Đức Nhơn
Khách Lạ

khách về đây trời đất thênh thang
gió mùa bấc tháng giêng lồng lộng thổi
hàng dương liễu đón chào khách mới
khách đường xa rũ áo phong trần

khách về đây sông nước ngại ngùng
con thuyền nhỏ chở đầy sóng gió
trở về neo trên bờ bến lạ
thuyền bập bềnh giữa bến chiều hoang

trên bờ kia ai mất ai còn?
con phố cũng vắng người qua lại
khách bỗng thấy cõi lòng tê dại
đường trăm năm lề đá xanh rêu

khói vàng ươm nắng ngả màu chiều
con gió bấc cũng ngập ngừng lịm tắt
bóng chiều đỗ trên bờ vai áo bạc
khách mân mê râu tóc, ngại ngùng…

kìa nhà ai cửa khép lạnh lùng?!
khách ngờ ngợ bước lần qua lối nhỏ
con chó già ngủ vùi trước ngõ
đàn gà con quấn quýt sau lưng!

khách băn khoăn chân bước ngập ngừng
từng nhịp thở gõ đều trên nỗi nhớ
kìa ai lạ? khách sửng sờ hỏi nhỏ
ai ngồi kia cúi mặt im lìm?

khách bàng hoàng, nghe máu ứa về tim
hàng dương liễu cũng gục đầu thổn thức
khách lặng lẽ quay về sông nước
bến chiều xa khói cũng mơ hồ!

ghềnh đá ôm nhau ngọn sóng xô đùa
con nhạn trắng bay đi lặng lẽ
mùi hương lạ bỗng dưng lại nhớ
bến bờ xưa đâu còn chút dư âm!

khách trở về nơi bến đỗ trăm năm
chống sào đợi tuổi già qua mái tóc
đêm lạnh ngắt bến sông vàng trăng mọc
thuyền lênh đênh trên nỗi nhớ bập bềnh.

bến sông vắng lòng người cũng vắng
sương giăng mờ bến cũ bóng đò xưa
trăng đêm nay trăng mờ đêm nguyệt tận
gió đông về lạnh lẽo ngọn đèn khuya.

Nguyễn Đức Nhơn

***

Phạm Cao Hoàng
Đi Giữa Chiến Tranh

quê cũ mười năm mây lớp lớp
mười năm mưa khóc buổi sang mùa
dưới trời sương lạnh rơi tan tác
rét mùa đông cũ rét lê thê

đường tôi đi có bom và đạn
có hận thù trên mỗi dấu chân
ai thả vào hồn tôi mới lớn
những mùa xương máu ngập tang thương

đường tôi đi có mùa hoa rụng
những cánh hoa màu tim tím xưa
có phải màu hoa trên áo lụa
bay bay chiều gió lộng em về

đường tôi đi có khói hoàng hôn
quyện trong mưa bấc sắt se buồn
có phải me tôi bên bếp cũ
đốt lò sưởi lạnh cuối mùa đông

ai thổi vào hồn tôi khúc nhạc
ngàn năm réo gọi kiếp đời tôi
nơi đây có kẻ tìm non nước
lang thang bên những mộ bia người

ai bắn vào hồn tôi trái nổ
đứt từng mạch máu nát tim tôi
vỡ vỡ chiều nay tôi sắp vỡ
chiến tranh chiến tranh bao giờ thôi

Phạm Cao Hoàng

***

Phạm Ngũ Yên
Một Chút Buồn Đầu Thu

Nếu có kiếp sau mình đi lại từ đầu
Cùng nắm tay nghe những đường gân nóng hổi
Những hoa sứ của một thời nông nỗi
Vừa buông cành bay hết cả về anh

Biết nói gì khi anh vẫn là anh
Vẫn cứ chậm chân trên góc đường nắng gió
Biển sáng hiền ngoan nhưng cuối ngày chảnh chõ
Thổi vào đất liền bao điệp khúc mưa mưa

Em một thời con gái giấu se sua
Biết giữ tiếng cười riêng cho những ngày vụng dại
Những hương sắc như chưa từng tung tãi
Riêng với đời – và riêng một anh thôi…

Ngày trở mình theo tiếng gọi… anh ơi
Em chợt lớn khôn nhưng cũng vừa té ngã
Những hạnh phúc phù hư những giọt sầu rất lạ
Chảy ngược xuống đời làm sông khóc bao la…

Em có còn cửa biển của … người ta
Cho một cánh buồm héo hon cuối đời về neo lại…
Cho những bước chân suốt một thời kinh hãi
Rượt đuổi tình yêu nên trượt một chỗ dừng…

Mùa thu rồi mà cây vẫn dửng dưng
Chưa đủ lá vàng để màu xanh bức rức
Những ngọn điện bâng khuâng nơi nhà ai vẫn thức …
Thắp môt lần mà cháy suốt già nua

Mưa tạnh rồi em đã hết buồn chưa?
Khi tình đã bớt đau và bàn tay bớt lạnh
Góc giường chênh vênh bóng trăng gầy kiêu hãnh
Tiếng hạt nẩy mầm trong góc lá xuân xanh

Ly cà phê buồn va vào chiếc muỗng lanh canh
Như em va vào anh một đôi lần lầm lỡ
Thời gian chậm rì nhưng cả hai người đều lỡ
Đều về đến sau trên những vạch vôi đời

Để cuối cùng giọt lệ chảy song đôi
Em ghẻ lạnh đời mình thêm chút nữa
Từng chiếc lá khẽ khàng nơi ngạch cửa
Có người đàn bà ngồi thả nhớ bay cao

Không phải tình đầu cũng không thể tình sau
Mà sao hôm nay giữa bốn bề vàng ấm
Có người chờ nghe một lời tình sâu đậm
Nhưng đã lạt rồi từ những tháng năm

Em thật gần nhưng cũng rất xa xăm
Niềm vui oằn rơi trên nỗi buồn thừa mứa
Những tiếng mưa quen tạt bên ngoài cánh cửa
Vẫn âm thầm khép lại từng đêm…

Đi suốt một chặng đường mới tìm gặp được em
Nên nếu vắng em anh không thể nào chịu được
Bởi ngực trái râm ran một điều đau nhức
Làm nên khổ đau mà vui sướng tột cùng…

Có những cuộc tình như sợi khói mông lung
Mà phút chốc quấn tim mình quá chặt
Nỗi nhớ trong anh và nỗi buồn em. Có thật
Nên có bao giờ anh quên được em đâu?

Nov. 2016
Phạm Ngũ Yên

***

Lâm Chương
Cơ Ngơi Ngày Cũ

Phía trước nhà ngoại tôi, có hàng cây duối. Thân cây sần sùi già cỗi, to cỡ người ôm. Cây không cao, tàn không lớn, mà chi chít lá rậm. Trong ấy thường lẩn khuất những con rắn lục màu lá non. Chung quanh gốc cây, người ta chất những nồi đất nứt vỡ, và ông táo cũ bằng gạch nung. Trong xóm có người đau bệnh, thân nhân thường đến đây đốt nhang khấn vái, còn lại những chân nhang tàn qua bao năm tháng. Ngoại tôi nói, có thần linh trú ngụ nơi cây duối. Và những con rắn lục là binh gia của ngài, không ai dám sát hại. Bọn trẻ nhỏ cũng kiêng dè, tránh tới gần chơi giỡn làm ồn, sợ thần linh quở phạt.

Bên kia hàng duối là gò đất cao. Ðất khô cằn chai cứng. Ngoài những cỏ gấu, cỏ may và những bụi chùm hôi chịu được nắng hạn, không có cây gì mọc nổi trên khu đất gò. Vì địa thế cao, không úng nước, nên được chọn làm đồng mả riêng cho dòng họ ngoại tôi. Người trong thân tộc, tha phương bất cứ nơi nào, khi chết cũng đem về chôn ở đây. Có những cái mả xây bằng đá ong, lâu đời đến nỗi không ai biết nắm xương tàn của ông bà cố tổ dưới mộ tên gì, liên hệ huyết thống ra sao. Hồi nhỏ, nghe đồn khu gò đồng mả có ma. Nhất là sau khi dì Út tôi chết trong tuổi còn thanh xuân, tiếng đồn càng dễ sợ hơn. Chỉ tưởng tượng đến những đêm trăng lạnh mù sương, dì hiện hồn về, xoã tóc ngồi trên mộ mà khóc, cũng đủ làm đám trẻ nhỏ rợn mình. Gợi trí tò mò, năm ba đứa chúng tôi, núp dưới chân khu đất gò, rình coi ma. Ma đâu không thấy, nhưng đôi khi thấy những cục lửa màu xanh lân tinh từ trên gò, không biết nơi cái mộ nào, lảo đảo bay lên đọt tre. Tôi kể cho ngoại nghe hiện tượng này. Ngoại bảo, đó là hồn người chết bay lên trời. không nên nhìn, e hồn ma sẽ theo về nhà. Dù thương dì Út, nhưng không bao giờ tôi muốn dì trở về dưới hình bóng một con ma. Lúc còn sống, dì Út là người thanh tú hơn hết trong các chị em của má tôi. Da dẽ trắng trẻo mịn màng, và mỗi khi dì tháo búi tóc ra, tóc đen mướt, buông dài xuống quá lưng. Tôi hay nâng mái tóc của dì, đưa lên mũi hít thở. Dì cười, hỏi:
-Ngửi thấy thế nào?
Tôi nói: -Nghe mùi của dì.
-Mùi dì ra sao?
-Mùi vú, và mùi dầu dừa.
Dì nhéo tai tôi:
-Ðừng nói mùi vú. Người ta cười chết.

Thuở còn bé tí teo, tôi thường hay khóc đêm. Má tôi cho mằn vú để tôi dễ ngủ, đã thành thói quen. Khi ở nhà ngoại, tôi ngủ với ngoại hoặc dì Út, cũng không bỏ được tật mằn vú. Vú của ngoại thì teo tóp nhùng nhằng như cái túi da nhão nhẹt. Tôi thích vú dì Út hơn. Xoè bàn tay nhỏ của tôi mà xoa cặp vú căng phồng tròn trịa của dì, thật đã. Bóp mềm mềm như cái bong bóng. Nhưng lần nào tôi bóp, dì cũng hất tay tôi ra.

-Ðừng!
Tôi hỏi:
-Ðau hả?

Dì nói: -Mày cứ sờ mò nắn bóp hoài, làm sao dì ngủ được? Hãy nằm nghiêng qua bên kia, quay lưng lại phía dì! Nằm như thế, tôi lại trằn trọc hoài, khó ngủ. Một lúc sau, độ chừng dì đã ngủ, tôi quay qua mằn vú.
Dì thức giấc:
-Lại nữa! Mày muốn dì đuổi qua giường ngoại không?
Tôi nín thinh. Ðể im bàn tay trên vú. Cái đầu vú nhỏ xíu của dì kẹp giữa hai ngón tay tôi.
Và tôi êm đềm đi vào chiêm bao. Năm hai mươi mốt tuổi, dì soi gương đối bóng mỉm cười, hay chải chuốt và chưng diện áo quần. Dì trở chứng bất thường. Không thích ánh sáng, hay rúc vào buồng, nói chuyện nho nhỏ, cười khúc khích một mình. Mọi người cho rằng, dì mắc bệnh “cõi âm”. Dân gian thời bấy giờ giải thích, dì bị một vong linh đàn ông nào đó, theo quyến rũ tư tình. Nghĩa là bị ma ám. Sắc diện dì vàng võ khô héo dần. Năm sau, dì chết đi trong niềm đau xót của gia đình ngoại tôi. Tôi thương dì Út hết sức. Nhìn lên bàn thờ, di ảnh của dì ngó tôi không chớp mắt. Ban ngày tôi không sợ. Nhưng ban đêm mường tượng lại đôi mắt ấy, tôi sợ đến khủng hoảng tinh thần. Tôi cầu mong dì đừng hiện về nhát tôi, tội nghiệp.
Ðương nhiên, dì Út tôi được chôn trên khu đất gò đồng mả. Mộ xây bằng đá ong. Ngôi mộ nào cũng thế. Sao những cọng cỏ may phất phơ theo gió trên mộ dì Út lại mang màu ảm đạm thê lương, làm tôi muốn khóc?

Năm xưa. Có hai thầy trò địa lý người Tàu, đi ngang qua xóm, dừng chân nhìn thế đất gò đồng mả, tấm tắc khen là nơi linh địa. Nghe thế, ông ngoại tôi mời về nhà, cơm nước đãi đằng tử tế, hỏi chuyện tương lai. Thầy Tàu cho biết, tổ tiên được chôn trên gò đất này, thì đời sau con cháu sẽ phát về hướng quan trường, phúc lộc. Ông lại nói thêm, phải chi cái gò nằm dựa lưng vào con sông thì tuyệt.

Ông ngoại tôi hỏi:
-Tuyệt ra làm sao?
Thầy Tàu bảo:
-Gò đất dựa lưng con sông. dù không được như hàm rồng long mạch, nhưng cũng tựa như kình ngư quẫy sóng. Con cháu dù không phát vương, cũng có thể cầm gươm vạch đất, chia cắt giang sơn, cát cứ một vùng, ngước mặt mà làm minh chủ, sứ quân.Ông ngoại tôi chắc lưỡi, tiếc sức người không dời được con sông Vàm Cỏ Ðông về bên gò đất, cho con cháu mai sau được nhờ. Nhưng trời đã khiến vậy. Chịu thôi. Con cháu chỉ được làm quan lớn, hưởng nhiều phúc lộc, thoát được số phận hẩm hiu của bao đời cha ông còng lưng cày bừa trên những ruộng đồng rẫy bái, cũng an ủi lắm rồi.
Ðể đáp lại tấm lòng người đã tha thiết gọi mời, ân cần chiều đãi, ông thầy Tàu ở lại mấy ngày, giúp ngoại tôi đo đạc đất đai, định hướng mồ mả, đóng cọc yểm bùa trấn yêu chung quanh gò đất. Ông bảo, muốn đời sau hưng thịnh, thì đời này phải khai thông nguồn mạch ẩn tàng trong lòng đất. Xong việc, ông khăn gói ra đi, để lại tên học trò. Ngoại tôi mừng. Không nắm được thầy, thì cột chân học trò. Cũng là một cách giữ ông thần độ mạng nho nhỏ trong nhà. Và người con gái của gia đình làm sợi dây thân ái, nối với tên học trò Tàu, biến hắn thành con rễ.

Thời gian thấm thoát. Cặp vợ chồng Tàu Việt cho ra đời đến sáu đứa con đầu gà đít vịt. Tôi là một trong sáu đứa này. Mấy chục năm qua, dòng họ ngoại tôi chưa có ai khá nổi. Ðừng nói chi đến chuyện ngóc đầu lên để làm quan triều đình.
Sự kiên nhẫn đợi chờ nào cũng có giới hạn. Ngoại tôi hỏi chàng rễ Tàu:
-Sao người trong dòng họ nhà ta chưa khá?

Ba tôi, tức chàng rễ Tàu, nói:
-Ngộ lâu piết.
-Thế sao thầy của mày bảo cái khu gò mả nhà ta là linh địa?
-Nó lâu phải thầy của ngộ.
-Vậy nó là ai?
-Là người cùng một làng với ngộ, ở pên Tàu.
-Sao mày đi chung với nó?
-Ở pên Tàu, nó nghèo, ngộ cũng nghèo. Nó rủ ngộ qua Việt Nam làm giàu. Nhưng xứ

Việt Nam cũng nghèo quá. Nó dẫn ngộ li chỗ này chỗ kia hoài. Ngộ than mỏi cẳng. Nó muốn pỏ ngộ, nên pảo ngộ ở lại nhà nị. Có cơm ăn, có vợ ngủ. Ngoại tôi trợn mắt:
-Trời đất! Sao lúc đó, mày không nói?
Ba tôi trả lời tỉnh bơ: -Nị không hỏi. Ngộ nói làm chi.
-Bây giờ nó ở đâu?
-Ngộ lâu piết.
-Nó có phải là thầy phong thủy địa lý không?
-Nó cũng như ngộ thôi. Piết chi mà làm thầy.
-Khốn nạn! Vậy mà nó bảo khu gò mả nhà ta là linh địa.
-Nó gạt nị, pảo lất của nị linh thiêng. Nị tin nó làm chi. Lất chỉ có tốt hay xấu thôi. Làm gì có lất linh hay không linh? Ruộng vườn nhà nị, gò cao lất cứng. Trồng trọt vừa lủ ăn là may rồi. Ngoại tôi tức khí, chửi đổng:
-Tổ cha thằng Chệt tha phương cầu thực, dám gạt ta!
Dù có tức, thì chuyện cũng đã đâu vào đấy, như một tiền định. Ông ngoại tôi tuổi già sức yếu. Không còn cơ hội trở mình. Ðành bỏ hết những vọng động lo toan. Làm người sằn dã.
Sống theo tinh thần Lão Trang. Hoà mình cùng trời đất. Yên phận với những nương xanh, bờ
cỏ, vườn cây.
Ba tôi nói:
-Nị là người trường thọ.
Ngoại tôi nạt:
-Lại nữa. Mày muốn bắt chước thằng Chệt tha phương cầu thực, gạt ta sao?
-Ngộ là con rể của nị. Lâu dám gạt nị. Năm nay nị gần pảy mươi, nhưng sức còn dẻo, lòng dạ thảnh thơi. Không làm thầy pói cũng piết, nếu không gặp tai nạn pất lắc kỳ tử, thì nị còn sống được nhiều năm nữa. Như thế không gọi là trường thọ sao?

-Ừ! Mày cũng có lý. Nhưng từ nay, ta cấm mày không được dùng hai tiếng nị ngộ với ta.
Phải gọi ta là cha, và xưng là con.
-Lược! Nị làm cha, ngộ làm con.

Tám mươi ba tuổi, ông ngoại tôi thanh thản từ giả cõi đời. Nhiều năm sau, má tôi kể lại cho đám con đầu gà đít vịt nghe chuyện tình duyên của má. Anh em chúng tôi cười nôn ruột.

Tôi hỏi:
-Tình duyên của má, nghe có vẻ quái đản. Vậy má có yêu ba không?

Má nói:
-Má không biết tình yêu là gì. Nhưng sống với nhau lâu năm, má cũng thương vì ổng có trách nhiệm gia đình, và biết lo cho các con.

-Lần đầu ngủ chung, ba có tâm tình gì với má không?
-Ngôn ngữ bất đồng. Ổng thủ thỉ thù thì xí xô xí xào bằng tiếng Tàu. Má không hiểu. Ổng xáp lại gần vuốt ve. Má cự tuyệt, hất ổng ra.

Anh tôi nheo một con mắt, chọc quê: -Má hất ổng ra, mà có sáu đứa con lai giống. Nếu không hất, chắc tụi con phải có đến hàng tá anh em. Chúng tôi lại cười nghiêng ngửa.
Một lần khác. Nhân lúc ba tôi nhắc lại quãng đời tuổi trẻ, tôi hỏi:
-Ba ơi! Ở bên Tàu, dòng họ mình có ai nổi tiếng trong lịch sử không?

Ông nói:
-Có chứ. Lâm Xung là một trong một trăm lẻ tám vị anh hùng Lương Sơn Pạt.

Thời kỳ chiến tranh nha phiến, tổng trấn lưỡng Quảng, Lâm Tắc Từ, lổ nha phiến của pọn Anh xuống piển. Và trong cuộc trường chinh của Mao Trạch Lông, có Lâm Pưu làm lến chức thống tướng.

-Còn ở Việt Nam, họ Lâm có ai nổi tiếng không?
-Mày học chữ Việt mà không piết ông Lông Hồ làm thơ nổi tiếng sao? Tên thật của ổng là Lâm Tấn Phát.
-Còn ai nữa không?
-Trong quân lội pây giờ, cũng có họ Lâm làm chức lớn. Bên Lục Quân có Lâm Quang Thơ, Lâm Quang Thi. Bên Hải Quân có Lâm Nguơn Tánh.
-Mấy ông ấy đâu có bà con gì với mình?
-Gốc gác cùng một ông tổ họ Lâm ở pên Tàu. Sao lại không pà con?
-Nhưng mấy ông ấy làm tướng. Còn nhà mình nghèo quá.
-Mới qua Việt Nam, thằng Chệt nào cũng chỉ có hai cái hòn dái treo tòn ten dưới háng.
Xây dựng sự nghiệp pan đầu, pằng cách quảy cặp gánh li mua ve chai, pán đồ cũ. Khá hơn, thì mở tiệm pán pánh pao, hủ tiếu. Piết chút ít chữ Tàu, thì mở tiệm pán thuốc Pắc cho pà con Việt Nam. Lâu dần, mới khá lên lược. Cũng như tụi pây lang li lính, piết lâu vài chục năm sau,
lược làm quan lớn. Quân lội Việt Nam sẽ có thêm vài ông tướng họ Lâm.

-Ấy là chuyện tương lai xa vời, còn mù mịt lắm. Hiện tại, tụi con đang làm lính tác chiến, lúc nào cũng có thể phủi chân lên ngồi trên bàn thờ.

-Sống ở lất nước này, phải hy sinh cho lất nước này, lền ơn tổ quốc.
-Ba nói nghe dễ sợ quá!
-Sao lại sợ? Tao ở pên Tàu qua lây, tin có ông Trời sắp lặt mọi chuyện. Như chuyện tao
với má tụi pây, cũng do ông Trời lịnh.

Anh tôi cải:
-Phải nói là do ông ngoại định.
Ba tôi lý luận:
-Ông Trời khiến ông ngoại. Ông ngoại ép má tụi pây phải chịu tao.
-Như vậy là má bị ép duyên!
Chúng tôi la lên. Lại được một trận cười nữa

Ai cũng có hai nơi, quê nội và quê ngoại. Anh em tôi chỉ có một quê ngoại làm chỗ đi về. Ba tôi bảo, nên học chữ Tàu, để ngày nào đó, sẽ về thăm quê nội. Chẳng đứa nào có được ý niệm, hoặc hình ảnh thân yêu gì về một quê nội xa xôi. Và cũng không bao giờ tha thiết sẽ đặt chân lên một nơi chốn, mà tất cả anh em tôi đều cảm thấy bơ vơ lạc lõng. Vì thế, chúng tôi không chịu học chữ Tàu. Ba tôi lại bảo, phải tập nói tiếng Tàu. Cái loại ngôn ngữ líu lo như tiếng chim, khó nghe khó nói. Anh em tôi không nghe không nói được. Rốt cuộc, ba tôi phảI tập nói tiếng Việt, nếu không muốn trở thành một người câm suốt ngày trong gia đình. Lý do cũng dễ hiểu. Mỗi lần ông la rầy bằng tiếng Tàu, chúng tôi giương mắt ngó cái miệng của ông, và cứ trơ ra, chẳng có phản ứng gì cả. Tức quá, ông học tiếng Việt để chửi chúng tôi cho hả dạ.

Vì thiếu quê nội, nên bao nhiêu tình cảm, tôi dồn về một quê ngoại mà thôi. Từ ngày ông ngoại tôi mất, gia đình nhà ngoại càng sa sút thêm. Chính sự sa sút này, làm tôi nặng lòng vớI bà ngoại nhiều hơn. Miệng đời thường nói, không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời. Không biết các đời trước ra sao, chứ đến đời ngoại thì tàn mạt. Nhiều người cho rằng, nhà hướng ra hàng cây duối, nên phong quang bị quỷ thần che ám. Cửa nhìn về đồng mả, nên vận mạng bị âm khí người chết phong tỏa. Vì hai điều khắc kỵ ấy, mà ngoại tôi không mong gì ngóc đầu lên nổi. Nhưng nhà cửa đất đai đã có sẵn như thế từ đời trước rồi, còn biết đổi dời đi đâu nữa?
Những năm chiến tranh ác liệt, xóm làng nhà ngoại cũng tan hoang. Ðầu tiên là khu đồng mả. Quân du kích lợi dụng địa hình gò đống lô nhô, chiếm lấy cao điểm, biến nơi đây thành bãi chiến trường, tấn công phe địch. Phía Quốc Gia phản công bằng cách dùng phi pháo cày nát khu đồng mả, đánh bật quân du kích ra ngoài. Khi chiến trường im tiếng súng, thì mả mồ cũng tanh banh, quan tài bật nắp. Xác chết của người đời nay, nằm lẫn với xương trắng của người đời xưa. Nhưng xác chết được mau chóng thu dọn, người ta mang đi đâu không biết. Rải rác còn lại những đầu lâu xương trắng người đời xưa.

Dưới cơn mưa mùa tháng bảy, ngoại tôi dầm mưa, gom lại từng khúc xương, chôn về huyệt cũ. Rồi ngoại thắp đèn đốt nhang trên bàn thờ khấn vái, và khóc còn hơn trời sầu đất thảm. Ðám con cháu ái ngại nhìn ngoại, nhưng chẳng đứa nào chạnh lòng khóc theo.

Tôi cầm tay ngoại: -Thôi đi ngoại ơi, tổ tiên ngày xưa lúc mới chết, đã được khóc một lần rồi. Bây giờ chỉ còn xương cốt. Lẽ nào mỗi lần nhìn thấy nắm xương là mỗi khóc?
Ngoại mếu máo: -Thời mạt pháp, quỷ dữ lộng hành. Người chết không yên mồ mả. Người sống làm sao sống được?
-Ngoại đừng lo chi cho hao tổn tinh thần. Người sống cứ ăn cơm vào, là tiếp tục sống thôi.

Ngoại tôi đang khóc, bổng ngừng lại, giận dữ điểm ngón tay vào mặt tôi:
-Tổ cha thằng
Tàu lai đầu gà đít vịt. Nói vậy mà nghe được sao? Làm người phải có nguồn cội. Ðừng nói theo kiểu bội nghĩa vong ân. Mày chỉ nghĩ đến ông bà cố tổ nội của mày nằm ở bên Tàu, chứ có thương xót chi người ở đây!
Bà con anh em bên ngoại tôi, đang cố tạo vẻ mặt rầu rầu cho phù hợp với nỗi sầu ai oán của ngoại, bỗng cười rộ lên. Ngoại cũng gạt nước mắt, cười theo.

Nhiều lần, sau những cuộc đụng độ giữa hai phe lâm chiến, xóm làng nhà ngoại tiêu điều thê thảm. Người ta dùng xe ủi, khai quang cây cối chung quanh khu đất gò. Những hàng tre, lùm bụi trong xóm cũng bị san bằng trống trải. Hàng cây duối, mà ngày nào đó, ngoại tôi nói có thần linh trú ngụ, cũng không còn nữa. Chẳng biết thần linh di tản nơi nào? Có dẫn đám binh gia rắn lục của ngài theo? Bây giờ, nhà ngoại đứng trơ vơ giữa đồng không mông quạnh. Ngó lên khu đất gò, mộ bia xiêu lệch, như những nấm mồ hoang. Quân du kích không còn nơi ẩn núp, lui sâu hơn vào những vùng hẻo lánh. Ban đêm. Thỉnh thoảng, họ về làng kiếm ăn, và rỉ tai ngoại tôi:
-Quân ngụy ác ôn. Cày mồ phá mả. Hủy diệt màu xanh. Triệt tiêu mầm sống. Phá hoại làng mạc. Ðem bom đạn giết hại dân lành…
Ngoại nói:
-Nếu các ông không núp ló trên khu đất gò, không rình mò bắn lén, thì bom đạn đâu có động đến mồ mả nhà tôi.
-Mẹ chiến sĩ đừng nói thế. Luận điệu mất lập trường của mẹ, dễ bị phê bình chỉ trích là phản cách mạng.
-Tôi có nhập bè kết đảng với ai đâu, mà bảo là phản?
-Mẹ nói thế là có ý gì?
-Tôi không có ý gì hết. Chỉ yêu cầu các ông, kéo nhau vô rừng mà đánh nhau. Ðừng lảng vảng chung quanh đây. Tôi sợ bị vạ lây. Tôi già rồi, chỉ mong được yên thân cho đến ngày nhắm mắt.
-Công cuộc giải phóng đất nước còn nhiều khó khăn, đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ. Mẹ ích kỷ, chỉ muốn được yên phần mẹ. Tư tưởng như thế, nhân dân không thể chấp nhận.
Ngoại tôi không dám nói tiếp. Khi người ta đã viện lý do giải phóng, thì không từ nan bất cứ biện pháp sắt máu nào. Khi đã lạm dụng đến hai tiếng nhân dân, thì mọi cá thể đều không nghĩa lý gì.Mãi lâu sau, có người hỏi ngoại:
-Già rồi, còn sợ chết hay sao?

Ngoại ngước mặt, nhìn trời: Thân phận hèn mọn như con trùn con dế, còn ham sống thay. Huống chi ta! Nếu đứng bên ngoài mà trông, nhà ngoại rất bề thế. Nhà rộng ba gian, nền cao lót gạch, mái ngói âm dương. Dù tường vôi loang lở nhưng còn thể hiện được cái quá khứ sung mãn một thời. Vào bên trong rỗng tuếch, mới thấy hết được sự suy sụp của thời gian, phơi bày ra nỗi nghèo nàn cơ cực. Ðồ đạc cũ kỹ, lâu ngày mối mọt hư hao. Cối xay lúa, và cối giã gạo chiếm gần hết gian nhà giữa. Hồi nhỏ, mỗi lần nghe tiếng xay lúa rồ rồ, tiếng giã gạo cùm cụp, thế nào tôi cũng ngủ gục. Có khi còn nằm lăn ra bên cạnh cối xay, thiếp đi một giấc ngon lành. Cái âm thanh và hình ảnh nghèo nàn thân thuộc ấy, tiềm tàng ăn sâu vào tâm thức, đeo đẳng theo tôi suốt đời. Nhiều khi bồi hồi nhớ lại, tôi tưởng chừng còn nghe tiếng cối xay đang rền rĩ trong đầu, và mềm lòng đến ứa nước mắt. Gian nhà trên, có bộ ván gõ. Mỗi tấm ván dày cỡ gang tay. Qua bao thế hệ thấm đẫm mồ hôi, mặt ván lên nước bóng ngời. Những trưa mùa hè, nằm trên bộ ván, nghe mát lạnh tấm lưng. Sát vách, có ba cái tủ thờ bằng cẩm lai khảm xa cừ, chạm hình cảnh và người. Tôi ngắm hoài không chán. Lớn lên, mới biết những hình ấy lấy sự tích từ truyện Tàu. Ðặc biệt hơn nữa, nhà ngoại có cái rương bằng gỗ, rất to. Tôi chưa từng thấy nhà ai có cái rương to đến thế. Cái rương to như chiếc xe bò. Phía dưới có gắn bốn bánh xe, cũng bằng gỗ. Ngoại tôi nói, vào thời trước, mỗi lần chạy giặc Tây, người trong gia đình phải đẩy cái rương chạy theo. Có lần ngoại mở nắp rương, tôi thấy bên trong toàn là chén dĩa bằng sứ, và những nồi đồng, mâm thau cất giấu lâu ngày không dùng, nên bị rỉ một lớp ten xanh.

Tôi hỏi:
-Chạy giặc, sao còn đẩy cái rương theo?
Ngoại nói:
-Bỏ lại, Tây sẽ lấy hết.
-Ở bên Tây không có những thứ này sao?
-Xứ nó nghèo, làm sao có được của quý? Nó qua xứ mình để ăn cướp.

Tôi tin lời ngoại, nhưng vẫn thắc mắc. Tây qua xứ mình chỉ để cướp đi những chán dĩa, nồi đồng, mâm thau thôi sao?
Ngày còn thơ ấu. Những buổi trưa, tôi thường nằm ngủ trên bộ ván gõ nhà ngoại. Khi thức dậy, thấy những tia nắng xuyên qua những lỗ hở trên mái nhà, dọi xuống. Trong tia nắng, có vô số hạt bụi bay vơ vẩn, như những sinh vật li ti đang bơi trong không khí. Không biết tại sao, cảnh tượng này, lại gây cho tôi một nỗi buồn khôn tả. Ðang buồn, nhìn vào phía trong lại thấy cái rương quá to. Ðiều kỳ lạ, là càng nhìn cái rương càng to ra, và tôi có cảm tưởng mình càng bé lại. Thế là tôi khóc.

Ngoại tôi cằn nhằn:
-Thằng nhỏ này có cái thói không chừa được. Lần nào ngủ trưa dậy, cũng khóc.
Cậu tôi là người rất dữ dằn, doạ nạt cỡ nào, tôi cũng không nín. Cậu bỏ tôi trong cái thúng. Ðặt cái thúng vào chiếc gióng. Cột dây thòng tôi xuống giếng.

-Nếu mày không nín. Tao thả rớt xuống luôn.
Tôi vừa khóc vừa nói:
-Thả rớt luôn đi.

Cậu từ từ thòng tôi xuống chạm mặt nước. Nước làm ướt đít tôi.
Cậu hỏi vọng xuống:
-Mày chịu nín không?
Tôi khóc, không trả lời. Cậu hạ thêm. Nửa người tôi ngập trong nước.Giếng quá sâu, không đủ ánh sáng. Nước lại lạnh. Thành giếng cũng toát ra hơi lạnh. Tôi quơ tay ra ngoài, đụng phải thành giếng rong rêu trơn nhớt. Cảm giác rờn rợn luồn vào da thịt, làm tôi khiếp vía. Hình như tôi bị ngộp. Không biết vì giếng sâu thiếu dưỡng khí, hay sự sợ hãi làm tôi khó thở. Tôi nhắm mắt lại, và muốn được chết ngay, để thoát cái cảnh bị hành hạ khốn nạn này.
Có tiếng ai la nheo nhéo trên miệng giếng. Và cậu kéo tôi lên. Tôi thấy ngoại đang khóc.Ngoại nhấc tôi ra khỏi cái thúng, mắng cậu: -Mày độc ác. Doạ kiểu này, nó hoảng hồn
chết luôn làm sao?

Cậu chống chế:
-Nó mà hoảng hồn? Thằng này lì lắm. Thiên lôi tầm sét, chưa chắc đã làm nó sợ.

Ngoại dẫn tôi vào nhà, ôm tôi và khóc. Trong khi ngoại khóc, tôi lại nín khe. Thương ngoại bao nhiêu, tôi oán cậu bấy nhiêu. Từ đó trở đi, nơi nào có cậu, tôi đều tránh mặt. Nghe tiếng nói tiếng cười của cậu, tôi cũng ghét. Ấn tượng một lần bị thả xuống giếng, tôi không bao giờ quên.
Sau này, cậu bỏ nhà theo Việt Minh. Trong gia đình ai cũng nhắc nhở, nhớ thương. Riêng tôi lại mong, cậu đi đâu thì đi luôn cho rồi. Ðừng về nữa. Thế nhưng, thỉnh thoảng cậu vẫn ghé về thăm nhà. Tôi chỉ chào hỏi qua loa, rồi lẩn mất. Những chuyến đi về của cậu, càng về sau, càng thưa dần. Rồi cậu đi biền biệt, bặt tin luôn. Ðến khi nghe tin cậu mất, mọi người trong thân tộc bàng hoàng. Má tôi chảy nước mắt như mưa. Ngoại xót xa rên xiết từng đêm. Tôi không hề xúc động, dửng dưng như người chưa từng quen biết. Cậu là người duy nhất trong dòng họ ngoại tôi, khi chết không đem được xác về chôn trên khu đất gò đồng mả.
Cái chết của cậu, một kẻ trở về kể lại, nghe cũng rất ly kỳ. Cậu đặc trách công tác nội thành. Lâu lâu, về mật khu để báo cáo tình hình. Một buổi chiều. Cậu cùng vài ba đồng chí về gần tới mật khu.Bỗng nghe bên đường, trong cây rậm, có tiếng hô lớn:
-Tất cả đứng lại. Giơ tay lên!

Cậu nói:
-Ðường sá xa xôi, mệt lắm rồi. Ðừng đùa, đồng chí ơi!
-Tao bắn bể đầu. Chứ đùa với mầy hả?

Những người cùng đi với cậu dừng lại, sửng sốt. Ðây là địa phận an toàn của Việt Minh, sao bị phục kích?
Từ trong cây rậm, ra lệnh:
-Thằng cha quấn khăn rằn trên cổ, đứng lại. Những người khác tiếp tục đi.
Cậu ở lại. Người ta dẫn cậu đến một cái chòi của rẫy bắp, trong rừng. Nơi đây, cậu được ăn một bữa cơm chiều với khô trâu. Sau đó, cậu bị chính những người đồng chí của mình kết tội, lợi dụng công tác nội nội thành, làm gián điệp cho Tây. Người ta trói, và dẫn cậu đến một cái giếng lạn, loại giếng bỏ hoang lâu ngày, khô nước. Cậu bị đập đầu, xô xuống giếng. Giữa rừng già mênh mông, tìm cái giếng để đem xác cậu về, không là chuyện dễ.

Vợ cậu, người tôi gọi bằng mợ, nhan sắc mặn mà, sắc sảo khôn ngoan. Mợ quyết chí trả thù chồng, làm đơn khiếu nại, tố cáo kẻ giết chồng mợ. Ðể tránh con mắt dò xét của người lạ, mợ giấu đơn từ vào trong chiếc nón lá, và chằm kín lại, trông như chiếc nón bình thường. Một ngày mưa, mợ đội nón lá ra đi. Tôi đứng trước thềm hiên, trông theo người đàn bà khốn khổ. Thấy mưa rả rích trên hàng dừa trước ngõ. Mưa mù tận ngoài bưng. Mưa khuất rặng cây xanh ở phía chân trời.

Ngoại tôi chạy theo, níu áo:
-Con ơi, người chết không sống lại được. Con khiếu nại, tố
cáo cho ra lẽ, thì chuyện cũng đã rồi.

Mợ nói:
-Người ta giết oan chồng con. Lẽ nào con cắn răng im lặng?
-Nếu không im lặng, con làm gì được ai?
Mợ nghẹn lời, rồi bật khóc. Cương quyết dứt áo ra đi.
Ngoại tôi lủi thủi quay vào. Ðầu tóc ướt mem. Ngồi rũ trong bếp.

Những ngày sau. Ngoại bồn chồn không yên, trông mợ trở về. Không phải để nghe mợ báo tin, trả được thù chồng. Ngoại chỉ sợ người ta sẽ thủ tiêu luôn cả mợ. Rồi mợ cũng về trong bơ phờ thất vọng. Những đồng chí cũ của cậu đều làm ngơ, không ai nhận trách nhiệm về cái chết của cậu.
Cái gan của mợ, chẳng biết lớn tới cỡ nào. Mợ nhất định rời khỏi nhà ngoại. Rời khỏi cái nôi của đại gia đình dòng họ nhà chồng, dẫn mấy đứa con nheo nhóc về vùng kiểm soát của Lực Lượng Liên Minh giáo phái Cao Ðài. Không lâu sau, mợ lấy một sĩ quan của Lực Lượng Liên Minh. Dựa thế lực chồng mới, báo thù cho người chồng cũ. Máu oan cừu của cả hai phe lại âm thầm đổ xuống. Không phải qua những đụng độ trên chiến trường, mà bằng những thủ đoạn rình rập chặt đầu, bắn giết thủ tiêu nhau. Và đó cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến sự tàn mạt cho gia đình ngoại tôi. Bởi các đồng chí cũ của cậu, coi gia đình nhà ngoại là thù địch, luôn luôn theo dõi, gây ra nhiều nỗi khó khăn. Theo thời gian, nhà ngoại đổ xiêu rách nát. Bà ngoại tôi bỏ nhà, lên khu đất gò, nằm kế bên mả ông ngoại. Má tôi rầu rĩ ho lao, cũng vội vàng lên chiếm một chỗ trên khu đất gò. Ba tôi từ bên Tàu, theo ông thầy phong thủy địa lý giả mạo sang đây, bị bỏ rơi ở nhà ngoại. Ngoài người vợ Việt Nam, và mấy đứa con lai Tàu, ông không còn liên hệ họ hàng với ai. Khi má tôi từ giả cõi đời, ông buồn tình, không thiết sống nữa. Thế là ông tự động đứt mạch máu não, hôn mê mấy ngày trước khi bơi qua sông Nại Hà, theo cho kịp má tôi. Ðối với bên vợ, ba tôi là người ngoại tộc, nhưng cũng được đặc ân chôn trên khu đất gò đồng mả dòng họ ngoại tôi.Thời thế xoay nhanh đến chóng mặt. Mặt đất cũng biến đổi dị thường sau những thăng trầm dâu bể. Mồ mả tiên tổ bao đời của ngoại tôi, được lệnh bốc đi nơi khác. Trên quê hương xứ sở, còn có nơi nào được nằm yên vĩnh viễn? Thôi thì hốt cốt, dồn chung lại, hoả táng một lần cho xong. Khu đất gò, bây giờ là văn phòng Ủy Ban Nhân Dân Xã. Từ trên văn phòng Ủy Ban nhìn xuống, cái nền nhà cũ của ngoại, mọc lên hai dãy nhà kho, dùng chứa nông phẩm Hợp Tác Xã. Và vườn cây ăn trái phía sau nhà ngoại cũng bị san bằng, biến thành sân đá banh.
Dòng đời, và tất cả cơ ngơi của ngoại tôi, chỉ còn trong hồi tưởng.

Lâm Chương

***

Hoàng Anh 79
Thánh Ca Buồn Trong Gió

Mỏi mòn đợi dưới lầu chuông
Em đi biền biệt dặm đường chim bay
Mùa đông có chút heo may
Cơn mưa ngày cũ đến nay đã già

Chuông nhà thờ vọng nhẩn nha
Nhớ em tóc xoã mượt mà câu kinh
Thôi thì ta cứ nín thinh
Khoác lên chiếc áo làm linh mục buồn

Đứng trên sườn dốc mù sương
Dường như phía trước cuối đường lá phai
Ngậm ngùi sông núi thở dài
Nghe trong tiếng gió có bài Thánh ca

Sầu riêng chỉ một mình ta
Chắc rồi Chúa chẳng đi qua nơi nầy
Biết tình chết tận chân mây
Mà sao lòng vẫn đắng cay muôn phần

Nửa đêm mừng Chúa xuống trần
Lạy ngài ban chút hồng ân kiếp nàn
U mê cứ ngỡ thiên đàng
Tỉnh ra mới biết hỗn mang đất trời!

Hoàng Anh 79

***

Cái Trọng Ty
Khoái Châu

Ô lý sầu giăng ngàn dặm thẳm
Khoái châu bản địa bẻ kiếm treo
Oán ca nguyệt tận phường vô cảm
Nào hay thu tứ động bờ tây

Chuốt thêm túy lúy sầu viễn xứ
Đêm đêm ngóng vọng bến sao mờ
Thời lai mấy độ đời du thủ
Mắt bão đèn khuya vạn lý sầu

Phượng đã bao mùa trên bền cũ
Xanh xanh sóng nước vỗ bờ xa
Tráng sĩ ra đi không trở lại
Mồ hoa cỏ dại mấy thu phai

Vọng cố hương hề tiên tổ cội nguồn
Bến cộ đò xưa một chấm xanh
Đã mấy mươi mùa trăng cổ lục
vọng tiếng vô thanh tử cấm thành

Ta chôn tâm sự vô phương giãi
Có loài lau cỏ bạc mái đầu
Đêm kinh động sao mù mịt nháy
Tỉnh dậy mơ hồ nghe vó câu

Năm tháng chìm theo đạn réo tên bay
Hỡi những hồn ma ôm súng ngũ
Chân ôm mông mị về biên tái
Lính trận chết rồi ai khóc cho ngươi

Cũng đành thôi người bạn chiến chinh
Kiếp dã tràng xe cát phù vinh
Nhớ thương người bão dông trần thế
Đành thôi cuộc diện khuất sông hồ

Cái Trọng Ty

***

Nguyễn Đức Nhơn
Đường Vắng

Ta ngồi trên lưng ngựa
Mang kiếm sét giầy cùn
Gõ nhịp trên đường vắng
Bóng chiều bay mông lung

Lũ quạ xòe cánh mỏng
Lượn quanh bờ chiến hào
Quạ kêu vang rừng núi
Còn tanh mùi binh đao

Rừng giáp rừng hiu quạnh
Ta hát bài sơn ca
Núi rừng vang tiếng vọng
Chim giật mình bay xa

Cũng bày trò chiến quốc
Cũng hợp tung liên hoành
Bủa vây trùm trời đất
Trò chơi còn mới toanh

Con ngựa già đuối sức
Ta thấy lòng quặn đau
Con ngựa già ngã gục
Ta nát cả tâm bào

Ta lột giầy vứt kiếm
Ném mũ cởi chiến bào
Một mình trên đường vắng
Ta và ta dìu nhau

Ta cười vang cười ngất
Bầu rượu cạn từ lâu
Bỗng dưng ta muốn khóc
Khóc đến tận ngàn sau.

Nguyễn Đức Nhơn

***

Cao Thoại Châu

Em Là Người
Phiên Dịch Của Đời Tôi

Chiều lên xanh những nốt dương cầm
Sóng sánh trong mắt người yêu dấu
Vời vợi xa hồn tôi không bến đậu
Chỉ thấy nặng lòng vời vợi nhớ thương em

Tôi đang nghe giữa cuộc đời buồn
Tiếng em thấm vào hồn tôi thơm thảo
Giai điệu ấy làm sao tôi hiểu
Khi không lời phiên dịch của riêng em

Đêm nằm nghe chớp bể mưa nguồn
Ánh chớp giật mưa rừng bão biển
Lòng tôi đấy khi không nổi sóng
Giữa bốn bề đá dựng chênh vênh

Tôi đi chưa hết tháng năm buồn
Mưa và nắng ở hai đầu tít tắp
Tình em cho nồng nàn như nước mắt
Và ngậm ngùi day dứt nợ đời nhau

Đêm nằm nghe cơn gió qua cầu
Tôi mơ thấy mênh mông những nước
Tiếng róc rách không sao ngủ được
Khi thiếu lời phiên dịch của riêng em.

Cao Thoại Châu

***

Chu Thụy Nguyên
Bóng Quê Chìm Khuất

Và lửa vườn trăng nhen đã lâu
Bờ khuya tơ liễu rụng bên cầu
Bao nhiêu trăng nữa đầy non nước?
Người biệt, người trông, mắt đã sâu

Bóng nhạn về non thắp lửa hương
Chuyển rung bờ bãi sóng xô cuồng
Nghe rưng rưng gió hồn oan thác
Vai mẹ gầy hơn gánh nước non.

Đã mấy mùa hoa trên cỏ biếc?
Em thôi thắt bím nụ hồng tươi
Đã nghe lịm tím đời con gái
Gió chướng nồm nam lệ tả tơi.

Ly khách buồn đi chẳng thấy về
Ly hương cách xứ nỗi lê thê
Nhìn con nước lớn, ròng trăn trở
Khuất mất đâu rồi hình bóng quê?…

Chu Thụy Nguyên

***

Ngô Nguyên Nghiễm
Đường Gian Nan Chạy Suốt Kiếp Người

Bóng dáng của Vũ Hữu Định như một con ngựa hoang, ngày tháng chất chồng trên vó ngược mà chính bản thân chủ nhân cũng không lường trước được phương hướng để định vị cuộc đời trước mặt. Đã là hóa thân loài ngựa hoang, sự thuần hóa là điều không tưởng, bước đi nhảy vọt không hai chắn mắt, vì vậy hướng tương lai như chiếc bóng phù ảo, cứ chạy đuổi miệt mài trong cái hư không vô cùng tận. Có lẽ định mệnh quy cách cho một số phận đầy nghiệt ngã, khiến Vũ Hữu Định cứ rong cương cất vó vô định hình trong không gian lưu trú, lãng bạt suốt bề dài tuổi thanh niên. Cũng có lẽ bao nhiêu bất trắc cứ đổ đầy trên số phận nhà thơ, đem tất cả phong trần thế gian phủ chụp cho nát nhàu kiếp số. Long đong và nghiệt ngã bám đầy trên vai áo Vũ Hữu Định không biết bắt đầu từ lúc nào, nhưng khi anh gặp tôi tại Sài Gòn, hình như gió bụi cộng sinh đã là chiếc bóng gắn chặt vào cuộc đời, không tách rời khỏi được số phận và thơ Vũ Hữu Định. Chan hòa tan nát trong sự vần vũ của vũ trụ, bản thân như hạt cát lẻ loi giữa sa mạc, cái mất đi còn có hình thể gì đâu mà phải phân trần, nhưng cái còn lại của một tâm thức người thơ trụ lại được trong cái an nhiên, thì đó là cái khó được thử thách thật quyết liệt. Vũ Hữu Định biến hóa sự nghiệt ngã trở thành sự tịch tịnh hằng ngày trong hành xử với thế sự và chính bản thân, như một đóa sen hồng điềm đạm thanh khiết giữa tứ bề sương khói phủ vây. Trong đời tôi, giao tiếp thân tình với bằng hữu bốn phương, dĩ nhiên cũng gặp nhiều khuôn mẫu tuyệt vời trong cuộc sống. Nhiều nhân dáng chuyên chở từ tâm thức kỳ diệu gần như những đạo vị, được hóa thân tự tại, dù có quay cuồng trong nghiệt ngã… Vũ Hữu Định là một con ngựa bạch lãng bạt phiêu du dưới những giọt trăng vàng, đói hớp sương tạo dựng sự sung mãn cho khí thơ, hiện thành bất chợt luân lưu hòa nhập với từng đoạn đường trường sải vó qua truông.
Thản nhiên bước lên cuộc sống không giây phút bình yên, Vũ Hữu Định không bao giờ thiếu nụ cười cợt đùa với thế sự chung quanh. Thoạt đến thoạt di, là phương chăm hành sự khiến có lúc anh em quan tâm chờ đón cũng không định được phương hướng dừng chân của Vũ Hữu Định. Thật ra, hoàn cảnh bất hợp lệ khiến đời sống anh có một sự thay đổi lớn, luôn lăng ba vi bộ trước biến động trên lộ trình. Chính vậy, phần vì tế nhị với bạn bè, phần vì lãng bạt của tính nghê sĩ, Vũ Hữu Định di chuyển thường xuyên để khỏi phiền hà cho bằng hữu, hơn nữa sự ra đi cũng là những bước thơ rơi, giúp nhà thơ hóa hiện nhiều tác phẩm tuyệt cùng. Trong đời, có lẽ Vũ Hữu Định là một trong những nhà thơ viết dễ dàng và nhanh chóng trên bất cứ hoàn cảnh nào. Thơ Vũ Hữu Định bộc phát thật tự nhiên, như hoa phải nở, trăng phải soi và sương phải phủ mờ vạn vật. Bất chợt trên đường hoạn lộ, nhập tâm vào cuộc lữ hành và khiến thơ hóa hiện bằng những tinh túy vừa rơi rụng, làm nảy nở từng đóa hoa lung linh giữa trời đất…
Năm 70 cách đây hơn 40 năm, thời loạn ly giữa bao nhiêu tin chiến sự làm cuồng rối cuộc sống của quê hương, anh em văn nghệ cật lực bày tỏ tiếng nói của tuổi trẻ bằng những tạp san, rải rác hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Mỗi tờ báo đều có quan điểm riêng, nhưng tụ chung vẫn là mặt trận phản đối chiến tranh diệt chủng. Sự gặp gỡ tên tuổi hằng ngày trên các báo chí văn nghệ, đã giúp trong lòng anh em hình thành một sự quen biết vô hình, nhưng trân trọng nhau một cách chân thành. Đến khi có dịp giáp mặt thăm viếng, thì đã như mối thâm tình giữa những cố nhân. Vũ Hữu Định lếch thếch bộ hành qua cây cầu chữ Y dài gần 700m, vào tìm tôi ngay buổi trưa ngày giáng sinh 1971, nhốt cả hồn thơ trong một vóc dáng thấp đậm người, mà nụ cười là điểm chính yếu luôn hiện diện trên môi anh. Phong phanh trong chiếc sơ mi bỏ ngoài, lẹp xẹp đôi dép Lào bước vào tệ xá. Người mà Vũ Hữu Định gặp đầu tiên là Nguyễn Thành Xuân và Trương Quang Vinh, lần lượt xưng tên rồi khoác vai nhau kéo vào hàn huyên. Bản tính Vũ Hữu Định xuề xòa, cởi mở mà sự thong dong của anh hình như thể hiện được cung cách tự nhiên trong đời sống. Tôi chưa hề nghe Vũ Hữu Định than thở, dù từ thời gian 1970 – 1974 anh đi – về với tôi tại thư trang Quang Hạnh hầu như thường xuyên. Mỗi lần xuất xử với chuyện đời, Vũ Hữu Định thường về kể tôi nghe những diễn biến mà anh lượm nhặt được từ bốn phương trời, quy cũ lại và đưa ra trò chuyện với nhau.
Những kỷ niệm của nhiều người bạn làm văn nghệ, mỗi người có cách xử thế riêng biệt, đậm tính khí của tâm hồn mỗi cá thể. Nét tiêu dao phong thái của một Trần Kiêu Bạt có tính cách giang hồ, đậm nét lãng bạt Nam bộ và hy sinh như phong thái của Lương Sơn Bạc. Cung cách của một Nguyễn Bắc Sơn, lại đăm chiêu giữa cái khí cốt phương Đông, gác kiếm ngay trên trận chiến rượu tàn, mà phá phách chơi ở mọi điếm lữ trần gian. Phạm Nhã Dự thì lãng đãng trong sương mù của 18 thôn vườn trầu, mọi khí hậu tinh sương đều được nhà thơ cung hiến hết cho bằng hữu tâm giao, mà đối với anh, mới cũ vẫn tứ hải giai huynh đệ. Một Hà Thúc Sinh thì nhẹ hẫng bước phong lưu với đồng điệu, đến nỗi: “ Hà Thúc phu nhân coi buồn lắm/ Sữa thiếu làm sao tiếp rượu chồng”…Hằng hà sa số bằng hữu văn nghệ, cái tâm của anh em nhiều khi ảnh hưởng cực kỳ với sáng tác. Hình như tất cả chân thật của cõi lòng, dù ở bất cứ hoàn cảnh phủ chụp nào, cũng là một hạnh ngộ để nhào nắn giữa khuôn đời. Tôi cảm nhận, Vũ Hữu Định có một chút lãng bạt của Trần Kiêu Bạt, sự tự tin nhẹ nhàng của Hà Thúc Sinh, hòa – hoa – nghĩa – khí- chân – thành với đời sống như Phạm Nhã Dự, chút nghiêm cẩn rộng mở cái tâm bát ngát bốn phương như trường hợp Nguyễn Lê La Sơn…Chính vậy, bôn ba trong cuộc đời đầy hệ lụy, nhưng Vũ Hữu Định vẫn giữ vững được bản sắc du hành tuyệt diệu cho thơ. Đến đâu thơ cũng tràn ngập trên thần trí, tràn ngập cả không khí vây quanh. Tôi không hiểu ở thời đại Thiền sư Basho, khi chống gậy dặm ngàn sương gió, phong vũ có dồn dập ảnh hưởng đến phong thái ông như thế nào. Mà ngàn bài Hai Ku kỳ diệu lắng động cả thiên thu. Chỉ có điều hình ảnh của Vũ Hữu Định cũng có dáng dấp lênh đênh, trôi nổi giữa trần gian, trong cái tâm còn quầy quả xáo trộn vô thường, khác hẳn điều hạnh phúc an nhiên thiền vị của Basho, trên bước thiền hành. Thơ Vũ Hữu Định vẫn gieo hoa giữa không gian, đầm đìa cả một trời nghiệp chướng của nhân sinh, mà những khúc trường ca lỡ vận là một hướng nhìn tan tác tội nghiệp của kiếp người: “Ta đã hát khúc hát đời lỡ vận/ Hát âm u trong đêm tối một mình”, mà nhiều lúc tàn canh uống từng giọt rượu cô đơn để chợt thấm đẫm trách nhiệm cương thường: “Ta đã hát khúc đời lỡ vận/Khúc hát buồn như một khúc sông con/ Khúc hát cay như những lần uống rượu/ Khúc hát chua như một đĩa cũ mòn/ Khúc hát đời cha nay đến đời con”. Chợt nhớ trong bao lần ngẩng bóng để lãng quên, nhưng làm sao được, ở quê xa vẫn chợt ẩn hiện man mác đến đau lòng: “Mười năm cha mẹ đau chân sỏi/Sớm lặn truông xa, chiều lội bãi cồn”.
Vũ Hữu Định có một sự cương nghị trong cuộc sống, dù phôi pha có phủ đầy trên số kiếp nhưng đời thường anh vẫn trầm tĩnh đến độ phớt lờ những khắc nghiệt đó. Hình như, trong những cuộc giao tiếp, thần thái Vũ Hữu Định hòa đồng trong nếp sống hồn nhiên của mọi người, nhưng những đêm dài lẻ loi, đầy vơi ý nghĩ trên chén rượu, làm sao không bừng cháy những ám ảnh riêng tư: “Thời đại thánh thần đi mất biệt/ Còn lại bơ vơ một giống sầu/ Rót mãi, bao nhiêu tình cũng cạn/ Nâng ly, nhìn thấy tóc bạc mau”, những câu hỏi thường đặt ra như một cách tự vấn: “Anh là một gã giang hồ tới/ Lòng hoang như con lộ không đèn/ Ngồi với hồn sầu ly rượu cạn/ Sao mới vài ly mà đã say?”
Thế là, Vũ Hữu Định lưu vong sống trong Thư trang Quang Hạnh của tôi, thấm thoát cũng gần 4 năm, bắt đầu từ cuối năm 1971-1974. Thời gian vật đổi sao dời, đối với con chim di Vũ Hữu Định như một cái cớ để xếp cánh tạm lắng trong không gian ân tình. Tôi thường xuyên chở Vũ Hữu Định trên xe Honda 67, lúc thăm viếng A.Khuê, lúc qua Phạm Duy, hẹn hò Phạm Chu Sa…Đi xe máy thật ra là một phương tiện để di chuyển nhanh gọn, tránh cho Vũ Hữu Định những cuộc tra xét bất chợt giữa lộ trình. Năm 1973, có hai chuyến di chuyển đầy kỷ niệm, khắc sâu thêm tình cảm của Định với đồng bằng miền Nam, mà anh thường cười nói, nghĩa khí bạt ngàn trên từng cọng lúa. Trưa hè 1973, tình cờ Phạm Trích Tiên có lời nhắn gởi mời về thị trấn Tân An (Long An) cách Sài Gòn hơn 50 cây số, mà Phạm Trích Tiên rào đón, ngày cuối tháng lương bổng dồi dào, để khỏi mất mặt với phương xa. Thật tình tôi ngại đường xa và túy tửu vô chừng, nhưng Vũ Hữu Định lại phấn khởi, đốc xúi tôi làm một chuyến di chuyển cho biết một tỉnh lỵ miền Tây gần gũi Sài Gòn nhất. Chiều ý, tôi cũng đèo Vũ Hữu Định trên chiếc hắc mã 67, về hội ngộ Phạm Trích Tiên sau gần 6 tháng không gặp mặt. Cái đến thì tự khắc sẽ đến, sự chờ đợi của Phạm Trích Tiên cũng được đáp ứng với hiện diện của hai gã phiêu linh. Tiệc tùng đầy rẫy, rượu tràn khóe môi, tửu phùng tri kỷ, ngàn ly cũng chưa đầy. Ông Phạm Trích Tiên thì như hủ chìm, ông Vũ Hữu Định thì như rồng gặp nước…thơ thẩn vun vẫy tứ phương, ca ngâm loạn nhịp nào ai hay ai biết, vì thần trí gởi cả cho gió ngàn bay. Trong tiệc rượu tới giai đoạn tung khai lý lịch, hai nhà thơ chợt hét lên ôm chầm nhau trong một phút cảm ngộ tuyệt vời. Tôi còn ngơ ngác nhìn tìm hiểu, thì Phạm Trích Tiên cho hay khi nhắc đến gia đình, thì ra Vũ Hữu Định lại là con nuôi của người cô ruột Phạm Trích Tiên khi anh lưu lạc vào miền Tây khoảng tuổi thiếu niên. Thì ra mọi sự thế đều được an bày, có tránh được định mệnh đâu, mà phải thở than? Như trên chuyến đò ngang, kẻ thất phu cũng hiểu rằng giữa dặm trường vẫn còn tiếng gió sương vương vãi: “Chạnh lòng ngó chuyến đò ngang/ Tiếng kêu sương gió dặm đường quạnh hiu”.
Bản tính của Vũ Hữu Định là cả vì anh em, nên tôi chưa bao giờ nghe anh than phiền một ai, dù rằng trong đời sống phiêu lãng anh cũng gặp nhiều chuyện trái ngang thế thái nhân tình. Nhưng chỉ có một lần duy nhất, không biết Nguyễn Đức Sơn có thái độ ngang trái gì với chàng thi nhân gió bụi phong trần này, mà trong đời tôi chưa hề thấy cơn giận dữ nào khiến phủ lấp đầy vơi trên khuôn mặt luôn luôn nở nụ cười của Vũ Hữu Định. Ngày 29/07/1973 tại tệ xá, Vũ Hữu Định nghiêm chỉnh bày tỏ thái độ với Nguyễn Đúc Sơn trên một bức tâm thư, đích danh tranh luận chính kiến với danh dự của một kẻ sĩ…Tôi cũng không lạ gì tính khí trái trời của các chàng thi sĩ đầy vẻ độc tôn, để dành giựt ngôi vị bắc đẩu. Một việc làm nghi kỵ khiến đời sống chao đảo, đưa đẩy vào cái hư vị phù du, mà danh vọng chỉ làm bận lòng cho thơ. Tình cảnh Vũ Hữu Định trong giai đoạn cùng cực của nẻo sống, nên chỉ có danh dự là sự tự trọng chân thành. Anh trao tôi xem bản văn ngỏ với Nguyễn Đức Sơn, khiến tôi cũng buồn lây cho sự thế xáo trộn, thiện ác huyễn hoặc ẩn hiện giữa lớp người. Định tâm, tôi khuyên giải Vũ Hữu Định suốt hai ngày ròng rã, mới lấy được bản văn ngỏ lưu lại với thiên thu. Vũ Hữu Định thản nhiên bỏ lại những phiền toái sau lưng, lững thững lướt vào gió bụi. Bây giờ, thị phi không còn đọng trên nếp áo, nhà thơ chỉ biết nghiêng tai lắng nghe trời đất, vạn vật, để ôm cả buổi chiều rơi rụng vào thơ: “Anh có nghe bên đường tiếng chim kêu/ Con chim chi buồn chết cả buổi chiều”, hoang vu cô độc nhớ nhung chất chồng trên cả đường đi lối về, với: “Những con đường núi sâu hun hút/ Những phố đìu hiu không nhớ tên” và :“Thấy gì không giữa bao la?/ Bỗng nghe tim động nỗi nhà quạnh hiu.”
Bóng dáng khiêm tốn khi đứng vươn vai so bì với thiên địa, bản chất hạo nhiên lại là chân khí tuyệt diệu của thi nhân. Vũ Hữu Định thản nhiên trước mọi cuồng rối vây phủ chung quanh. Trong tâm thức chắc chỉ còn cô đọng một khối oan khiên cho riêng mình, mà nhiều khi số phận đã khiến nhà thơ trải lòng cảm ngộ với những bóng hình phủ chiếu xuống thân ta: “Chiều khó thở ngồi bên quán xếp/ Một miếng khô, một xị rượu nồng/ Nhai là nói với đời lận đận/ Uống là nghe sầu cháy long đong……Ta là khách, còn cô hàng là chủ/ Cũng có trong lòng một hố sâu.”
Trường đời dàn trải đầy nghịch cảnh gai góc, khiến suốt quãng đường đi qua của Vũ Hữu Định quay quắt như con vụ cuồng xoay. Cái điêu linh không thoát thành lời, họa chăng chỉ có thơ gieo từng hạt lân tinh trên đường phiêu bạt, đã làm cháy xém đi những tang thương chất chồng trên suốt một kiếp người…

Ngô Nguyên Nghiễm

***

Hồ Chí Bửu
Gởi Ti Ti…

Đùa thôi em – tình mình không có thật
Em quay về là tình chết trăm năm
Ta thức tĩnh khi biết mình sẽ mất
Một tinh cầu xa tít ở xa xăm..

Khi mọi thứ đã ngoài vòng tay với
Mơ mộng chi để chuốc khổ cho mình
Ta vẫn biết đâu có vòng tay đợi
Làm ấm lòng hạnh phúc quá chơi vơi

Em thả bắt còn ta vờ đưa đẩy
Một chút tình diệu vợi phía bên kia
Chưa đến đông mà lòng ta run rẩy
Khi chim quyên đã quên mất lối về

Em vẫn thế – Mong rằng em vẫn thế
Đừng nảo nùng trong một cuộc phân ly
Em vẫn thế – Mong rằng em vẫn thế
Bước chân buồn biền biệt dấu sơn khê

Ta vẫn thế – Suốt đời ta đơn độc
Gió theo mây và lá rụng về nguồn
Chạm đến em là chạm vào cơn lốc
Ta mỉm cười mà nước mắt mờ tuôn…

Hồ Chí Bửu
***

Songthy
Xuân Quê Tôi

Bạn đã bao giờ đến quê tôi
Một lần, dù chỉ một lần thôi
Thăm vùng sông nước ngàn thương ấy
Xa rồi lòng lưu luyến khôn nguôi

Quê tôi ruộng lúa trải mênh mông
Màu mỡ phù sa ngập cánh đồng
Lúa thơm xanh ngát chân trời rộng
Dập dìu cò trắng xoải thinh không

Cây trái bốn mùa đơm lá hoa
Trên cành chim ríu rít hòa ca
Chái bếp nhà ai vương khói ấm
Tình quê sao tha thiết đậm đà

Đất Vĩnh quê tôi đó bạn ơi!
Xuân về, dù cách trở ngàn khơi
Như cánh chim non lìa xa tổ
Niềm thương nỗi nhớ chẳng hề vơi…

Songthy

***

Mh. Hoài Linh Phương
Cúc Tím Trời Tây Hoài Nhớ Trời Đông

Cúc tím buồn mênh mang
Như hồn em son sắt
Một đời tình tan hoang
Người ngàn xưa xa khuất

Vạt cúc tím bên hiên
Mong manh trong ngày nắng
Cúi đầu trong ngày mưa
Qua từng mùa im vắng

Em ngàn thu áo tím
Kỷ niệm đầu chưa quên
Mối tình ngày thơ dại
Hoa tím buồn không tên

Những cánh nhỏ đơn sơ
Nở trên vùng địch đóng
Khi dừng bước quân hành
Thương em miền hậu tuyến.

Gọi tên loài cúc dại
Như tên người tình xa
Chiến chinh dài ngút mắt…
Trên đoạn đường người qua…

Người về đâu, ai biết?
Thiên đường nào, ai hay?
Thủy chung màu cúc tím
Bên hiên đời chiều nay…

Mh. Hoài Linh Phương

***

Nguyễn Đức Nhơn
Sau Một Đêm Say

Sáng thức dậy bỗng thấy mình lạ hoắc
Sau một đêm trằn trọc giữa cơn say
Đầu thì nặng như ngàn cân treo sợi tóc
Mà hồn thì nhẹ hều như gió như mây

Bước ra cửa thấy một ngày đổi mới
Bầu trời cao và những đám mây bay
Con chim khách đậu trên bờ giậu đổ
Mà bìm đâu đã phủ kín bao ngày

Châm điếu thuốc khói tảng lờ theo gió
Mà còn nghe đâu đó chút hương thừa
Ta lục lạo trong muôn ngàn ký ức
Vẫn thấy mình còn lạ hoắc lạ huơ

Sờ râu tóc, râu thì dài tóc ngắn
Tóc le the từng sợi bạc trên đầu
Râu thì phủ năm chòm dài suôn đuột
Che nụ cười vừa chết đứng trên môi !…

Nguyễn Đức Nhơn

***

Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Em Là Nàng Tiên Của Anh

Bị lay gọi, nàng vùng dậy với tư thế của một con hổ đang chuẩn bị tấn công con mồi. Hai bàn tay xòe ra những ngón như móng vuốt vươn thẳng hai cánh tay về phía trước sẵn sàng cho một động tác…cào,cấu! Cùng với vẻ mặt căng thẳng, mắt lừ lừ nhìn vào “đối phương”, quai hàm bạch ra, tiếng nói nghẽn giữa hai hàm răng:
-Gư…ư…ư…gừ! anh giải thoát cho nó phải không? Tui sắp bắt được quả tang thì anh phá đám phải không? Nó đâu rồi hả?
Chàng ngơ ngác hỏi lại;
-Cái gì bắt quả tang? Nó nào?
Nàng òa lên khóc:
-Tui thấy rõ ràng anh và “nó” ôm nhau tình tứ, tui núp trong bụi cây, sắp nhảy ra bắt tại trận thì anh giải thoát cho nó…
Chàng càng sửng sốt:
-Hồi nào? Ở đâu?
-Vừa mới tức thì! Tui nằm mơ thấy rõ ràng…
Chàng ngẩng lên trần nhà, mắt nhắm lại, vẻ mặt nhăn nhó, như khẩn thiết cầu xin đáng tối cao ban cho điều gì:
-Trời ơi! Ngó xuống mà coi, đã đến nước này rồi.
Nhưng ngay tức khắc chàng đủ thông minh để chuyển tình hình sang hướng có lợi, chàng sực nhớ ra một cách để vỗ về nàng, mà chàng biết sẽ làm nàng hạ hỏa, dù chàng đã xử dụng nhiều lần nhưng kết quả bao giờ cũng thành công:
– Như vậy là em vừa nằm mơ thấy anh có mèo đúng không? Thảo nào em dãy dụa la lối quá xá nên anh phải gọi em dậy. À! Anh nhớ ra rồi, người ta nói giấc mơ thường ngược lại với đời thật, có nghĩa là em thấy anh ngoại tình, ngược lại là anh không…ngoại tình! Em thấy bắt được quả tang tức là …không bắt được quả tang! Túm lại ngược với giấc mơ em vừa thấy thì anh là người chồng chung thủy, còn em vẫn là nàng tiên của anh…
Vừa nói chàng vừa quan sát vẻ mặt của …Nàng tiên! Được vuốt ve bởi hai tiếng ngọt ngào ấy, con hổ bỗng biến ngay thành con mèo (Không biết bắt chuột) hiền lành, quẹt nước trên đôi mắt ràng rụa, nàng còn tỏ ra ngờ vực một chút nên hỏi lại:
-Thật chứ? Mơ là ngược lại đời thật, vậy em thấy em còn sống là em …chết ư?
-Ồ! Điều đó thì lại khác, bởi vì em là …nhân vật chính! Em làm sao mà chết được. Giống như trong phim ấy, nhân vật chính mà chết là hết phim sao?
Nàng lại nghe có lý, nên gật gù:
-Nhưng anh cũng phải hứa với em không được để mắt đến ai…
-Tất nhiên rồi, nhìn mỗi mình em đã đầy hai con mắt, còn nhìn ai được nữa!
Nàng lại có vẻ muốn…vùng lên:
-Ý anh muốn ám chỉ là em mập quá phải không?
Hơn ai hết, chàng là người biết phải đối phó với vợ của mình ra sao, trong bất cứ tình huống nào:
-Phụ nữ mập mới đẹp, mới lâu già. Chứ ốm á? Nhìn khô khan hổng có tí nhựa sống. Anh chỉ thích nhìn phụ nữ…mập thôi!
Nàng sửa lại:
-Nhìn vợ chứ cấm nói chung chung là nhìn phụ nữ!
Chàng cao giọng:
-Đúng! Vợ anh nói rất chính xác, anh vừa nói lộn. Phải nói là chỉ thích nhìn vợ thôi!
Nàng nhoẻn miệng cười, rồi sực nhớ ra một điều quan trọng, nàng hỏi:
-Trong ví anh chưa để tấm hình nào của em phải không? Sao em vô ý thế cà…Sáng mai anh đưa em đi chớp một tấm hình chân dung, anh phải cất trong ngăn đầu trong ví, để mỗi lần mở ví ra là anh nhìn thấy em ngay, cũng là để nhỡ có ai nhìn vào cũng biết là anh có vợ rồi, các cô đừng hòng tơ tưởng, mơ mộng đến anh nữa…
Vế cuối cùng trong câu nói của nàng chợt làm chàng thấy mình còn có… triển vọng! nghĩa là nếu chàng chưa có vợ, thì các cô (tức là số nhiều nhé) tha hồ mà tơ tưởng, mơ mộng được chàng ghé mắt đến. Rồi chàng sẽ ứng phó sao nhỉ? Tha hồ mà lựa chọn chứ sao! Tuyệt thế đấy, khi ấy hẳn là chàng sẽ bận tâm lắm vì biết chọn ai, bỏ ai? Bỏ thì thương mà vương thì tội, thôi thì cứ tuyển ra vài cô xinh nhất ( nhưng hổng có tính ghen tuông giống như cái cô nàng đang bên cạnh chàng đây) thế rồi chàng sẽ “bố trí ” cho mỗi nàng ở một chỗ, gió mát trăng thanh chàng thích ghé đến cô nào thì ghé, còn các cô thì tranh nhau để lấy được lòng yêu thương của chàng, chẳng cô nào dám làm phật lòng chàng, chàng thích đi đêm về hôm tùy thích. Tan sở thay vì về thẳng nhà chàng sẽ tụ họp bù khú với bạn bè, rượu chè thâu đêm cũng chả bị ai gọi điện thoại kêu về hay lùng xục tìm kiếm. Chàng cũng không bị bạn bè gọi là anh chàng …râu quặp! chàng cũng chả cần vận động đầu óc để nghĩ ra cách “đối phó” với những cơn tam bành vì cái máu hoạn thư của vợ.
-Anh nghĩ gì mà thích chí cười hớn hở vậy?
“Hồi tỉnh” khỏi… giấc mơ! Chàng nói trớ đi bào chửa cho sự tưởng tượng của mình, vì không khéo, nó có thể trở thành tưởng…voi!
-Ờ…ờ ! Anh đang nghĩ có tấm hình của em trong ví, cô nào nhìn thấy cũng quay khỏi anh một trăm tám mươi độ, anh khỏi cần tìm cách mời đi nơi khác đó mà…
Nàng vỗ hai tay vào nhau một cái đầy vẻ dứt khoát:
-Thế nên không chần chờ gì nữa, sáng sớm là phải đi chớp bóng ngay!
Chàng gật gù:
-Phải…phải, còn bây giờ thì yên cho anh ngủ. Sáng mai anh còn phải đi làm, đến công ty mà ngủ gục thì còn ra gì. Mấy cô ở đó là chúa lắm chuyện, lại xì xào nọ kia.
Chàng cố tình ngoác miệng ngáp dài một cái, rồi kéo chăn trùm kín (chủ yếu là hai lỗ tai) giả vờ ngáy đều đều. Nàng cũng không muốn chàng bị lỡ giấc ngủ, nàng cũng hiểu sức khỏe là thứ rất cần thiết đối với chàng, vì chàng là trụ cột của gia đình, cơm áo gạo tiền đều từ cái sức khỏe đó mà ra, ôi nghĩ mà thương quá, chàng đâu thể tưởng tượng rằng nàng yêu chàng quá chừng. Nếu không có chàng thì đời nàng vô nghĩa, nên lúc nào nàng cũng sợ một cô ả xấu xa nào đó cướp mất chàng đi. Phải giữ gìn sức khỏe cho chàng để chàng có thể vừa làm việc kiếm tiền nuôi nàng, vừa sống đến răng long đầu bạc với mình. Nên nàng thôi không nói nữa để chàng ngủ, còn nàng nằm yên mà không ngủ được thì tư tưởng lại…làm việc rất tích cực. Nàng nhớ lại giấc mơ vừa rồi, cố nhớ lại nét mặt của “cô ả” nhưng không thể nào nhớ được, dường như nàng chưa từng gặp ả ở bất cứ đâu, vậy mà giờ đây ả bất ngờ xuất hiện trong giấc mơ của nàng còn cả gan kề vai, cận má với chàng, thật đáng ghét, nếu có một phép lạ nàng sẽ ước trên đời này biến mất hết không còn giống cái, à! Như vậy không ổn, biến mất hết giống cái thì tất nhiên mẹ, chị, em gái, con gái và thậm chí cả nàng cũng không phải là ngoại lệ! Thôi vậy, chỉ ước biến mất những người con gái đẹp chung quanh chàng, còn bi nhiêu cứ tự nhiên mà …tồn tại! Và bỗng nhiên nàng chợt sực nhớ câu nói vừa rồi của chàng “Mấy cô ở đó là chúa lắm chuyện…” Á à , vậy là chỗ làm việc của chàng có đến mấy cô, mấy cô phải rất thân mật với chàng thì mới có thể tán chuyện với chàng chứ, thậm chí còn quan tâm, để ý mới biết chàng ngái ngủ. Hừm! Nàng lay mạnh vai chàng:
-Anh nói mấy cô ở nơi làm việc của anh là chúa lắm chuyện, như vậy là trước đây họ thường la cà nói chuyện gì với anh lắm nên anh mới biết như vậy phải không???
Chàng cựa mình, lè nhè đáp:
-Ai thèm nói gì chứ?Nghe nói đến vợ của anh là ai cũng xanh mặt liền…
Nàng vùng dậy :
-Cái gì ?Tại sao phải xanh mặt? Em dễ sợ lắm sao?
Chàng tỉnh người, vội vàng bào chửa:
-Không phải em dễ sợ mà là anh dễ sợ, bởi vì cô nào có ý định “xáp” vô anh là anh bảo ngay rằng, tui có vợ rồi đi chỗ khác dùm cho, chứ vợ tui biết tui nói chuyện với mấy cô là…là..tui không được tiếp tục nói nữa…, bởi vậy các cô hay nói rằng chỉ đi ngang qua anh thôi cũng…sợ! Đâu ai còn dám đến gần anh..
-Thật chứ?
-Thề với em!
-Được rồi anh ngủ tiếp đi, phải ngủ nhiều thì mới khỏe anh ạ.
Mắt của chàng đã díp lại, thầm mong nàng thôi đừng nhớ ra điều gì nữa trong vô số điều trong đầu mà đối với nàng thì điều gì cũng quan trọng.Còn nàng thì tiếp tục nằm suy nghĩ. Nhớ lại những ngày còn trăng mật, trong những câu chàng nói, nàng thích nhất là câu “Nếu sau này em chết trước anh, anh thề không lấy ai nữa, sẽ nguyện sống độc thân thờ em …”. Dường như lâu lắm rồi nàng không nghe chàng nhắc lại câu này, một câu quan trọng như vậy mà sao nàng lại quên nhỉ? Phải hỏi chàng ngay bây giờ rằng chàng có còn nhớ câu nói hay nhất thế kỷ ấy không, chứ sáng mai lỡ quên mất. Nàng lại lay chàng, nhất định hỏi thêm một lần này nữa rồi sẽ để yên cho chàng ngủ, sức khỏe là quan trong nhất đối với con người mà.
-Này anh ơi dậy em hỏi một câu này nữa thôi…
Chàng vẫn nhắm mắt,nhưng sử dụng miệng rất nhuyễn:
-Gì nữa hả nàng tiên của anh?
……………………………………..
Tôi (Người nghe chuyện của họ) mới nghe đến đây đã xanh mặt. Hú hồn! May quá, vì tôi là phụ nữ, chứ nếu là một trang nam nhi? Thì tôi phải làm sao nếu gặp được một nàng tiên …quá yêu chồng như thế. Trời ơi! Chắc là tôi đành phải chọn cách thờ chủ nghĩa độc thân tới già, không dám lấy vợ…
Nhưng tôi lại là phụ nữ? À…ờ…Thì …thì nếu lập gia đình tôi cũng giống như “Nàng” vậy thôi. Phụ nữ ai chả thế.

Hồ Thụy Mỹ Hạnh

***

Nguyễn Đức Nhơn
Tri Kỷ

Đâu còn sống được bao lâu nữa
Nên chẳng còn gì để luyến lưu
Ta như chiếc lá rơi ngoài ngõ
Chiếc lá ươm vàng, chiếc lá thu

Một mai em hỡi ta về đất
Em có buồn không em hỡi em ?!
Thôi cứ để cho lòng thanh thản
Bận bịu làm gì chuyện thế gian

Ta vẫn biết đời ta là cát bụi
Rồi sẽ tan đi một sớm một chiều
Nếu có ai nhỏ dùm giọt lệ
Thì cũng chỉ là giọt lệ thôi!

Ta một đời trầm luân bể khổ
Mượn rượu giải sầu sáng xỉn chiều say
Qua bao năm sao dời vật đổi
Tay trắng vẫn còn tay trắng tay

Một mai nếu có người tri kỷ
Nhắc lại đời ta trong tiệc vui
Thì cũng chỉ là thêm men đắng
Cho nồng thêm cốc rượu vậy thôi

Đời cứ thản nhiên trôi, trôi mãi
Đâu biết chuyện gì theo phía sau
Đâu biết chuyện gì chờ phía trước
Đến lúc đụng đầu mới biết đau !

Thôi nhé hồn thơ ta đã cạn
Mạch sầu ta cũng đã nguôi ngoai
Cho ta gởi đến người tri kỷ
Một chút vui buồn, một chút thôi!…

Nguyễn Đức Nhơn

***

Hồ Chí Bửu
Chia Tay Tôi Tình Ơi !

Cười lên nửa tiếng. Điên rồ
Đàn ru lỡ nhịp – Đợi chờ cố nhân
Ngước nhìn. Mấy dặm phù vân
Soi gương ta thấy chỉ ngần ấy thôi..

Hỏi đời – Thì đã nghẹn lời
Hỏi tình – Ngực trái nghe vời vợi đau
Hỏi người – Thì đã xa nhau
Hỏi ta thì đã vẫy chào tình nhân

Chào nhau – Thoáng cũng bâng khuâng
Nghĩa là ta sắp xa dấn – Dần xa
Kiếp người – Biển rộng bao la
Tiễn nhau mới biết rằng ta phụ người…

Hồ Chí Bửu

***

Hạt Cát
Trầm Bổng Chuông Ngân

Long lanh sương tụ ngọc,
Thanh thoát một hồi chuông.
Bình minh chim thức giấc,
Bảng lảng hồn muôn phương.

Gần đây, khi làm việc một mình trong phòng vắng canh khuya, tôi thường hay nối kết vào trang nhà Thiền Tông Việt Nam để nghe ba tiếng chuông ngân nga trầm bổng. Cũng không biết tại sao tôi lại thích nghe mấy tiếng chuông nàỵ

Hàng tuần tôi vẫn đến chùa lễ Phật, vẫn nghe đều đều tiếng mõ tiếng chuông, vậy mà những tiếng chuông tôi nghe ở chùa đã không lưu lại ấn tượng trong tôi nhiều như tiếng chuông mà tôi nghe được nơi trang Thiền Tông.

Có lẽ tiếng chuông ở chùa vang lên trong một khung cảnh mà con người bị chi phối ít nhiều bởi môi trường chung quanh. Dù mọi người đều trang nghiêm lễ lạy không ai nói với ai lời nào nhưng hình như âm thanh của tiếng chuông vừa vang lên đã bị lấn át bởi những tiếng động khác hoặc bởi va chạm với quá nhiều vật cản.Thỉnh thoảng vào các ngày lễ lớn, nhà chùa cũng có thỉnh mấy hồi chuông trống Bát Nhã, tiếng chuông trống trầm hùng ngân vang cũng khiến lòng người nao nao xúc động nhưng cảm giác đó hoàn toàn không như cảm giác khi tình cờ nghe một tiếng chuông thong thả ngân vang lúc mình đang làm một điều gì đó. Tiếng chuông không chờ không đợi,ta nghe nó một cách hững hờ — mà để lại những ấn tượng khó phai trong ký ức ta .

Tiếng chuông đó gợi cho tôi một cảm giác thân thương êm đềm mà có lẽ đã từ lâu tôi không còn bắt gặp.Tiếng chuông dường như đưa tôi đi về một vùng trời bồng bềnh mây trắng chiều hôm, có nắng mông mênh phai vàng nhè nhẹ, có gió mơn man hai hàng tre trúc biếc xanh thấp thoáng mảnh trời trong vắt ở một chốn quê êm ả cuối ngàỵ Tiếng chuông tan loãng trên đầu cây ngọn cỏ sương khói chập chờn cô liêu man mác như những lời thơ chan chứa màu quê.

渡江

幽煙蒼竹雜歸人
高底鐘聲薄暮雲
遠去關山啁哳鳥
呷茶慢慢渡江津

Ðộ giang

U yên thương trúc tạp quy nhân,
Cao để chung thanh bạc mộ vân.
Viễn khứ quan sơn trù triết điểu,
Hạp trà mạn mạn độ giang tân.

(Hạt Cát)

Qua sông

Em về ngõ trúc xanh xanh
Chuông ngân mây trắng mong manh chiều tà
Chim bay ríu rít quan hà
Thong dong hớp một ngụm trà qua sông

Ðang thơ thẩn đếm bước trên đường mòn xóm vắng chiều quê,rồi không dưng nghe được một tiếng chuông thong thả vang lên, hỏi lòng ai không xúc động rưng rưng. Cả đất cả trời dường như lắng động mà quyện lấy cái âm ba ngân vọng chơi vơi ấỵ Bầy chim vừa tung cánh ríu rít bay lên dường như cũng đang vỗ cùng nhịp điệu bổng trầm của tiếng chuông về một phương trời thăm thẳm nàọ Còn ta, đi hết lối mòn xóm quê, ghé vào quán cốc bên đường, hớp một ngụm trà, lắng nghe không gian tĩnh mịch, ta ung dung đợi chuyến đò sang … Ôi !Tiếng chuông ngân thanh thoát trong một buổi chiều quê! Nhớ thương sao trời đất, âm thanh thuở đó.

Chuông ngân vàng sóng lúa,
Sương khói đọng hoàng hôn.
Bồng bềnh mây du tử,
Hiu hiu lòng nước non.

Tiếng chuông đưa tôi về những đêm rằm tịch lặng, thơm ngát hương trầm, pha lẫn ngọc lan,dạ lý.Tôi nằm ngủ lơ mơ dưới chân Phật Bà, trong Quan Âm Các lộ thiên lồng lộng trời mâỵ Hít thở không khí thơm lành, nghe tiếng chuông ngân văng vẳng bên taị Không gian ấy, thời gian ấy sao mà êm đềm và chậm rãi bình yên biết baọTiếng chuông ngân nga trong giấc ngủ lơ mơ mới thật là kỳ thú, một cảm giác an lành tan loãng trong gió nhẹ thoảng hương tạo ra một thứ không gian trầm tịch vi diệu, tôi đắm mình trong giấc ngủ mơ màng, trong không gian trầm tịch đó.

Đêm thẳm tình mây gió,
Man mác trăng ngọc lan.
Khói trầm thơm tiếng kệ,
Sâu lắng hồi chuông tan.

Thuở ấy tôi chỉ là một con bé 7,8 tuổi đầụ Ðối diện với nhà tôi, cách một khoảnh vườn và quốc lộ 13 là một ngôi chùa nhỏ. Vườn chung quanh chùa nằm sát quốc lộ, rộng vài ba sào đất. Trong vườn trồng vài loại cây ăn trái, bốn bên có rào có cổng. Mặt tiền chùa hướng ra đường, chiếc cổng dẫn vào khuôn viên chùa nằm sát đường, ở chính giữa khu đất. Lối đi từ cổng vào độ vài chục thước. Vào tới sân đánh một cái vòng cung quanh Quan Âm Các mới đến chánh điện. Hồi đó, tôi chẳng để ý chi tới chuyện của người lớn nên hoàn toàn mù tịt về lịch sử của ngôi chùạ Ai lập ra, hồi nào, ai đến ai đi, ai thường hay lui tới ? Tôi chỉ biết là khi tôi bắt đầu biết nhận thức thì ngôi chùa đã nằm ở đấy rồị Gọi là chùa chứ thật ra có lẽ chỉ là một am đường do ai đó tạo lập cho một bậc trưởng thượng trong gia đình an dưỡng tuổi già. Bởi tôi vẫn thường hay sang chơi nhưng ít thấy thiện nam tín nữ nào đến cúng kiến lễ lạy gì cả. Chỉ có một vị sư bà,chúng tôi quen gọi là bà Chín, kinh kệ sớm hôm. Chùa chỉ có một gian. Mái lợp ngói âm dương, vách ván mỏng tanh. Bàn thờ Phật nằm giữa ngay cửa lớn ra vào, vách mặt trước phía trái trổ một khung cửa sổ chấn song nhưng không có cửa để đóng lạị Cạnh cửa sổ kê một bộ ván ngựa gỗ mỏng, chị em tôi thường hay ngủ trên bộ ván nàỵ Vách phải cũng có một khung cửa sổ chấn song, một bộ bàn ghế cũ kỹ được kê sát khung cửạ Sau bàn thờ Phật là hậu liêu được ngăn ra bằng một tấm vách có hai cửa nhỏ hai bên đi vàọ Phía sau lại có hai bộ ván gỗ nằm hai bên lối đị Lối đi mở cửa ra sân sau kê đầy lu, ảng chứa nước dọc hàng hiên. Qua hết mảnh sân con là nhà bếp. Nhà bếp chỉ có mái che và vách lá ba bên chứ chẳng có cửa nẻo gì cả. Ngoài mấy ông lò và ít cái nồi ám khói treo lủng lẳng trên vách, một bộ ván gỗ xấu xí nằm chỏng trơ, một chiếc bàn tròn thấp đã nhẵn mặt kê cạnh chiếc tủ lưới con con, trong có mấy cái chén mấy cái đĩa, chẳng còn gì khác hơn. Chùa cũ kỹ, nhưng có lẽ Quan Âm Các vừa được kiến tạo nên hãy còn mới mẻ lắm. Mái lục giác lợp ngói lưu ly xanh biếc che phía trên, tượng Phật Bà Quán Âm cao gấp rưởi người thật, trắng muốt, đứng trên tòa sen, tay cầm bình nước Cam Lộ và nhành dương, mái cũng khá rộng trụ trên 6 cái cột to, chung quanh chân cột có xây bệ đá lên cao chỉ chừa khoảng trống cho lối đi vào ở phía trước và phía saụ Nền nhà được nâng khỏi mặt đất, có bậc tam cấp đi lên và lát gạch bông mát rượi, thừa thãi chỗ cho hai chị em tôi tha hồ lăn sãi trên tấm chiếu trải sau lưng tượng. Trên bệ đá và chung quanh chân cột chưng bày mấy chậu hoa, kiểng. Có hoa ngâu, hoa chùm nụm, hoa dạ lý, hoa lài, nguyệt quế, hoa mười giờ, hoa móng tay, hoa vạn thọ. Trong các loại ấy tôi thích nhất là hoa dạ lý. Dạ lý có lá nhỏ như lá cây chùm nụm, hoa trắng, cánh li ti và nhọn hơn hoa mai rất nhiềụ Ban đêm hương bay phảng phất ngọt ngàọ Có lẽ vì vậy nên ngườI ta gọi là hoa dạ lý hương chăng? Khoảng sân bên hông chùa còn có một cây ngọc lan rất tọ Hai chị em tôi thường len lỏi trong mấy lùm cây ăn trái, tìm đến cây ngọc lan để hái hoa dâng lên cúng Phật. Hoa ngọc lan hay gọi nôm na là hoa sứ, từng búp hoa trắng muốt nõn nà như ngón tay con gái, tỏa ra một mùi thơm thoang thoảng . Các cô gái vườn quê thuở đó muốn …điệu đà thường hay hái hoa ngọc lan cài vào mái tóc. Người ta vẫn thường hay nói hoa dạ lý và hoa ngọc lan sống lâu năm sẽ có tinh linh cho nên mấy loại cây đó ưa được trồng trong sân chùạ

Tôi cũng không nhớ rõ vì đâu, dạo ấy hai chúng tôi được lệnh sang chùa ngủ …cho có bạn với sư bà. Chiều chiều, chị hai tôi và tôi ăn cơm xong là chúng tôi ôm cặp chạy qua . Hồi ấy tôi học lớp Tư hay Ba nên bài vở không nhiềụ Học bài xong, trời chiều hãy còn sáng. Trong khi chị hai tôi lịu địu trong hậu liêu với sư bà hoặc học bài của chị thì tôi hay thơ thẩn trong vườn chùa dưới mấy gốc cây ăn tráị Như ổi, xoài, phù quân. Hồi đó tôi mê trái phù quân lắm. Cái vị chua chua ngọt ngọt của nó hấp dẫn tôi hơn trái trứng cá và chùm giuột. Tôi cũng ưa săm soi mấy chậu hoa, kiểng và đi lang thang trên lối sỏi quanh Quan Âm Các. Có lúc tôi ngồi bệt xuống chân cột Quan Âm Các, mê mẩn ngắm vạt nắng cuối ngày le lói chiếu lên mấy cụm mây trôi lãng đãng trên nền trời trong vắt biếc xanh và tôi mường tượng rằng tiếng chuông của sư bà cũng đang chập chờn bềnh bồng trong những cụm mây ấỵ Tôi thả hồn theo chuông, theo mây tưởng tượng ra những chân trời xa lạ có bà Tiên từ ái áo trắng thướt tha, có nàng công chúa đẹp tuyệt trần đang nằm ngủ say chờ phép nhiệm màu, v.v… Lúc ấy, bao nhiêu nhân vật tôi ưa thích trong truyện cổ tích đều được tôi cho trôi nổi bềnh bồng theo mây hết cả. Khi trời tối hơn chút nữa, chúng tôi đem chiếu ra trải trong Quan Âm Các nằm ngắm trời trăng mây gió và nói chuyện tào laọ Tôi thích nhất là vào những đêm rằm, nằm ngắm mặt trăng tròn dành dạnh treo lơ lững trong khoảng không gian huyền hoặc lấp lánh ánh saọ Cái trí óc bé bỏng của tôi lúc bấy giờ lại đầy ắp những câu chuyện thần tiên. Nhìn ánh trăng loang loáng chiếu xuống cây cành trong vườn tôi cứ tưởng chừng như có ai đem tráng một lớp ngân nhũ lên trên ngàn lá, tưởng chừng như tôi cũng đang là một cô tiên bé bỏng dạo chơi trong vườn Thượng Uyển của bà Tây Vương Mẫu ở cung Giao Trì. Nằm ở đấy, tha hồ cho tôi hít thở không khí thơm lành đầy hương vị nhà thiền mà thuở đó tôi nào có biết. Nằm ở đấy, tôi nghe tiếng chuông ngân nga hòa lẫn tiếng dế giun ru êm trong đêm thâu tĩnh mịch cho đến khi ngủ lơ mơ. Tôi biết là tôi chỉ ngủ lơ mơ thôi, bởi vì khi đêm hôm chầm chậm đi vào sâu lắng hơn thì sư bà sẽ đánh thức, bắt chúng tôi dậy vào bên trong. Thường thì chúng tôi bỏ mặc chiếu ở đấy, mắt nhắm mắt mở chạy a vào bộ ván gõ kê phía trước leo lên ván tiếp tục mơ màng. Mọi vật trầm lắng, tĩnh mịch hơn. Không khí quanh tôi phảng phất hương huyền đàn lẫn với hương hoa ngoài cửa sổ hắt vàọ Tôi đắm chìm trong giấc ngủ cho đến lúc lại chập chờn trong tiếng chuông khuya .

Chuông khuya vang trầm bổng,
Chân vọng tiếng ngân dàị
Lòng nhân gian chợt mở,
Quên sạch nỗi trần aị

***

Thời gian ấy quả thật rất êm đềm đối với tôi, tôi cứ ước ao sao mỗi ngày đều được như thế. Nhưng rồi chuyện sang ngủ đêm bên chùa của chị em tôi chỉ kéo dài đâu được đôi ba tháng cho đến khi gia đình chúng tôi phải dời đổi chỗ ở xa hơn. Và rồi thời gian lại trôi qua một cách tình cờ, càng lớn lên, càng bận rộn với nhiều việc linh tinh khác. Tôi xa dần khung cảnh mái chùa xưạ Trong giấc mơ của tôi nhiều năm sau này vẫn hay thấy lại khung cảnh ngôi chùa nhỏ bé ấỵ Tận thâm tâm, tôi biết đó là ngôi chùa cho tôi nhiều cảm xúc êm đêm tuổi thơ. Nhưng trong giấc mộng tôi không tìm thấy được những hình ảnh cũ, quá nhiều thay đổị Hoa kiểng trong sân không còn được chăm chút xinh xắn gọn gàng ngăn nắp nữạ Thay vào đó là cây cối rậm rạp um tùm, Quan Âm Các và tượng Phật Bà biến đi đâu mất.

Tháng ngày chồng chất, tôi lớn lên lại đi biền biệt quê ngườị Biết bao năm tha hương đất khách, dù rằng tôi cũng có tham gia sinh hoạt tại ngôi Phật tự địa phương nhưng tôi thực sự chưa bao giờ nghe tiếng chuông ngân vang thong thả nào khơi động lòng hoài niệm của tôị Nhớ nhà nhớ quê tôi tìm về nguồn cảm hứng thi ca, văn chương hoài cổ, tôi tò mò tìm kiếm những âm ba quen thuộc của tiếng chuông và tôi bắt gặp ít nhiều tiếng chuông đồng cảm nhưng vẫn thấy những tiếng chuông ấy không trọn vẹn, dường như thiêu thiếu một cái gì. Ðiều đó cũng dễ hiểu, tôi làm sao có thể tìm lại được khung cảnh và tâm thức như thời xa xưa bé bỏng kiạ Nhưng mà rồi, tôi vẫn mơ, mơ một ngày nào được nghe lại tiếng chuông thời thơ ấu ấỵ Cho đến lúc gần đây,tình cờ tiếng chuông của trang nhà Thiền Tông đã dẫn dắt tôi đi về chốn cũ và nhắc nhở tôi ít nhiều dư âm những tiếng chuông xưạ
***
Xưa thật là xưa…Ta hãy lắng nghe tiếng chuông của Thi Phật Vương Duy đời Ðường khi ông về vui thú cỏ cây ở Võng Xuyên.
Là một trong ba đại thi hào lừng lẫy vào thời đại hoàng kim của thi ca Trung Quốc và cả thi ca nhân loại, lại là một mệnh quan triều đình, đồng thời cũng là một cư sĩ, tiếng chuông của ông nhẹ nhàng thanh thoát và cũng mộc mạc giản dị vang lên giữa xóm làng yên ả chiều hôm mây trắng mênh mông, núi xa man mác, lão ngư ông tiều lác đác về thôn. Mây trắng, mây và mây, mây trên núi chiều vàng lãng đãng, mây bàng bạc che kín cửa sài khiến lòng người lâng lâng thoát tục. Mặc ai xa mã náo nhiệt phồn hoa, ông thong dong ngày tháng với cỏ cây hoa lá. Lăng thảo Dương hoa, thâm sơn bạch vân, ngư ông tiều giả, sơn tăng thôn phu v.v…với ông đều là bạn hữụ Ông nghiên cứu Phật học năm 30 tuổi và học thiền với Thiền Sư Ðạo Quang. Ông ăn chay trường. Thi ca ông chất ngất thiền ngôn, Phật tính nên người đời sau tặng ông danh hiệu Thi Phật để phân biệt với Thi Tiên Lý Bạch, Thi Thánh Ðỗ Phủ và Thi Quỷ Lý Hạ.

歸輞川作

谷口疏鐘動
漁樵稍欲稀
悠然遠山暮
獨向白雲歸
菱蔓弱難定
楊花輕易飛
東皐春草色
惆悵掩柴扉

Quy Võng Xuyên tác

Cốc khẩu sơ chung động,
Ngư tiều sảo dục hị
Du nhiên viễn sơn mộ,
Ðộc hướng bạch vân quỵ
Lăng mạn nhược nan định,
Dương hoa khinh dị phị
Ðông cao xuân thảo sắc
Trù trướng yểm sài phi
(Vương Duy)

Về Võng Xuyên làm (*)

Nhẹ nhàng chuông ngân thung lũng
Ngư tiều lác đác dời chân
Núi xa hoàng hôn lãng đãng
Ngõ về mây trắng mông mênh
Cỏ Lăng mềm mại khó vững
Hoa Dương nhẹ hẩng dễ lên
Bờ đông cỏ xuân thắm đượm
Buồn buồn liếp cửa gài then.

Một tiếng chuông khác cũng vào thời nhà Ðường. Ðó là tiếng chuông của Giả ÐảọThời trẻ ông đi thi nhiều lần không đỗ bèn vào chùa làm tăng ở Lạc Dương, pháp danh Vô Bản, đến kinh đô ngụ ở chùa Thanh Long. Vì vậy ta không lạ gì khi tiếng chuông mà ông Giả nghe được là tiếng chuông trong đêm tĩnh mịch, non ngàn núi thẳm nơi mái chùa xưa lẫn khuất đâu đó khi mới sang thụ Nơi mà người thiền nghe dế gáy nỉ non quanh chỗ ngồi, khỉ vượn chuyền cành ngay trên chốn hạc dừng chân, tiếng chuông trầm hùng ngân vọng giữa canh khuya tịch mịch trên sông dường như đã khiến mặt nước rờn rợn sóng xao, màu trăng bàng bạc trên bến soi rọi khắp cùng thiên địa sáng quá, rõ quá làm lầu đá kia cũng toát lên một làn hơi lạnh lẽo, làm người và vật chẳng còn phân biệt đâu là chỗ của riêng aị Ai chủ ai khách, đâu dế đâu người, đâu hạc đâu viên? Cả một không gian im lắng nhưng sống động nhiệm màu theo tiếng chuông khuya ngân vang trầm bổng. Có chăng ai nghe được tiếng chuông này mà lòng không chút rưng rưng ?

早秋寄題天竺靈隱寺

峯前峯後寺新秋
絕頂高窗見沃州
人在定中聞蟋蟀
鶴曾棲處掛猿猴
山鐘夜度空江水
汀月寒生古石樓
心憶懸帆身未遂
謝公此地昔年遊

Tảo thu ký đề Thiên Trúc Linh Ẩn Tự

Phong tiền phong hậu tự tân thu,
Tuyệt đính cao song kiến Ốc Châụ
Nhân tại định trung văn tất suất,
Hạc tằng thê xứ quải viên hầụ
Sơn chung dạ độ không giang thuỷ,
Đinh nguyệt hàn sinh cổ thạch lâụ
Tâm ức huyền phàm thân vị toại,
Tạ công thử địa tích niên dụ

(Giả Ðảo)

Đầu thu gửi về chùa Thiên Trúc Linh Ẩn(*)

Sau trước non ngàn mới vẻ thu,
Cao ngất bên song ngắm Ốc châụ
Người thiền giun dế gáy rỉ rả,
Hạc đậu vượn hầu chuyền lau nhaụ
Hiu hắt nước khuya trầm chuông núi,
Lạnh lùng trăng bãi rợp mái lầụ
Nhớ cánh buồm treo lòng chưa thỏa,
Ông Tạ từng chơi đấy năm naọ

Cùng thời với thi Phật Vương Duy, ta còn nghe được một tiếng chuông khác của Mạnh Hạo Nhiên. Mạnh Hạo Nhiên cũng là một đại thi hào của thời Thịnh Ðường, là người mà cả Vương Duy, Ðỗ Phủ, Lý Bạch đều kính trọng. Ông chuộng khí tiết nên hầu hết cuộc đời ẩn cư ở Lộc Môn. Thi ca của ông chan hòa hình ảnh u cư của người ẩn dật.
Tiếng chuông chùa núi văng vẳng hư không trên đường về Lộc Môn trong buổi chiều tà đã khơi dậy nỗi niềm bát ngát của thi hào Mạnh Hạo Nhiên. Bến Ngư Lương kẻ qua người lại tranh nhau ồn áo náo nhiệt đã chẳng ảnh hưởng gì đến tâm tình của người ưa thanh nhàn u tịch, bởi vì ở Lộc Môn đã có vầng trăng bàng bạc chiếu soi đầu cây ngọn cỏ sương khói lững lờ đang chờ ông. Lộc Môn ấy là chốn ẩn cư tịch mịch, cửa đá nẻo tùng quanh năm quạnh quẽ chỉ đón nhận bước chân của khách ưa chuộng thói tiêu dao tự tại lui tớị

夜歸鹿門山歌

山寺鳴鐘晝已昏
漁梁渡頭爭渡喧
人隨沙岸向江村
余亦乘舟歸鹿門
鹿門月照開煙樹
忽到龐公棲隱處
巖扉松徑長寂寥
唯有幽人自來去

Dạ quy Lộc Môn ca

Sơn tự minh chung trú dĩ hôn,
Ngư Lương độ đầu tranh độ huyên.
Nhân tùy sa ngạn hướng giang thôn,
Dư diệc thừa chu quy Lộc Môn.
Lộc môn nguyệt chiếu khai yên thụ,
Hốt đáo Bàng Công thê ẩn xứ,
Nham phi tùng kính trường tịch liêu,
Duy hữu u nhân tự lai khứ.
(Mạnh Hạo Nhiên)

Khúc hát đêm về Lộc Môn(*)

Ngày tàn chùa núi tiếng chuông ngân,
Tranh vượt Ngư Lương lắm rộn ràng.
Người theo bờ cát về xóm bến,
Ta cỡi con thuyền xuôi Lộc Môn.
Lộc Môn trăng chiếu ngời cây cỏ,
Bỗng thấy Bàng Công chốn ẩn thân.
Cửa đá nẽo tùng luôn quạnh quẽ
Lui tới dành riêng kẻ chuộng nhàn .

Một thi nhân khác với tiếng chuông vang lên trong nắng hồng sương mai núi sâu rừng thẳm, đường lối quanh co vào cổ tự vắng vẻ thâm u, hoa lá che kín cửa thiền khiến khách ngẩn ngơ nhìn lại bốn bề, chỉ thấy chim chóc rộn ràng với ánh sơn quang, thấy bóng nước trong ao đầm yên tĩnh lặng lờ chẳng màng chi tới buồn vui nhân thế. Ðất trời tưởng chừng như vắng bặt trong cái vận chuyển không ngừng, nhưng không phải vậy, tuy thinh không vắng bặt mà đầy ắp diệu âm. Có ai đồng ý với tôi chăng ? Tiếng chuông vang lên trong không gian tĩnh mịch ấy cũng là một diệu âm. Ðó là tiếng chuông của Thường Kiến,thi nhân đời Ðường trong bài “Ðề Phá Sơn tự hậu thiền viện”.

題破山寺後禪院

清晨入古寺,
初日照高林。
曲徑通幽處,
禪房花木深。
山光悅鳥性,
潭影空人心。
萬籟此俱寂,
惟聞鐘磬音。

Đề Phá Sơn tự hậu thiền viện

Thanh thần nhập cổ tự ,
Sơ nhật chiếu cao lâm .
Khúc kính thông u xứ ,
Thiền phòng hoa mộc thâm .
Sơn quang duyệt điểu tính ,
Đàm ảnh không nhân tâm .
Vạn lại thử câu tịch ,
Duy văn chung khánh âm .
(Thường Kiến)

Ðề thiền viện sau chùa Phá Sơn(*)

Sớm mai vào thăm chùa cổ,
Rừng cao chơm chớm nắng hồng.
Lối quanh núi đồi lặng lẽ,
Cỏ hoa che kín thiền phòng.
Ánh núi ca vui chim chóc,
Bóng đầm chẳng bận tấm lòng.
Muôn tiếng thinh không vắng bặt,
Chỉ nghe ngân vọng khánh chuông.
***

Ðấy là một vài tiếng chuông của người xưa trong kho tàng thi ca Trung Hoạ
Trở về với thi ca hoài cổ Việt Nam ta, ta hãy ghé mắt, lắng tai nghe một tiếng chuông gần hơn, khoảng vài trăm năm sau Thi Phật nhà Ðường, Vua Phật Trần Nhân Tông đời Trần của Việt Nam tạ Một đấng quân vương, một bậc hùng tài vĩ lược, một người đã từng nắm trong tay quyền uy tối thượng, đứng đầu một triều đại làm kinh hồn khiếp vía đội quân viễn chinh hùng mạnh bậc nhất thế giới vào thế kỷ 13, đã từng sống trong điện ngọc cung son, rồi sau cùng là Tôn Tổ sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm trên đỉnh Yên Tử vẫn còn kế tục cho đến bây giờ. Thân danh như thế, uy quyền như thế …vậy mà tiếng chuông để lại trong tâm hồn Ngài, trong thi ca Ngài cũng lại là tiếng chuông ngân vang trên sông nước chiều hôm bóng tà cỏ áy, trong chốn thâm sơn tĩnh mịch lá úa hoàng hôn. Tiếng chuông mộc mạc đơn sơ mà giao hòa cùng khắp đất trời, có năng lực thẩm thấu tận ngọn nguồn tâm cảm, có công dụng phá tan ám chướng si mê. Tiếng chuông giản dị như chân lý thiền ” Cơ tắc xan hề khốn tắc miên – “Ðói cứ ăn đi, mệt ngủ liền” của một Thiền Tổ gióng lên hẵn nhiên là ẩn tàng diệu dụng thâm sâụ

武林秋晚

畫橋倒影蘸溪橫
一抹斜陽水外明
寂寂千山紅葉落
濕雲和露送鐘聲

Vũ Lâm Thu Vãn

Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại minh
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc
Thấp vân hoà lộ tống chung thanh
(Trần Nhân Tông)

Chiều thu làng Vũ Lâm(*)

Suối khe lồng bóng cầu treo,
Long lanh ngấn nước nắng chiều nghiêng soị
Núi non quạnh quẽ lá rơi,
Phôi pha sương khói mây trôi chuông rền.

Và cũng lại là mây, tiếng chuông bao giờ cũng ngân vọng xa xăm, tưởng chừng như có thể tan loãng ra trong những áng mây bàng bạc khiến cho mây đã bồng bềnh càng thêm nhẹ tênh, càng thêm bồng bềnh càng đưa lòng người phiêu phiêu vô trước.
Tiếng chuông ngân vang từ một ngôi chùa cổ ở thâm sơn cùng cốc phải chăng nhắc nhở ta rằng nơi sâu thẳm nước non kia dường như đang tàng ẩn một chân lý huyền nhiệm khó thể kiếm tìm nào đó mà thật ra con người sống nơi ấy chẳng hề phí công tìm kiếm điều gì. Trăng ngàn gió núi, mây nước trời không, tặng vật của thiên nhiên trước mắt đã là chân lý muôn đời có sẵn.
Nếu không phải vậy,sao một ông tăng hỏi thiền sư Triệu Châu :
– Chân lý tối thượng là gì ?
Và thiền sư trả lời:
– Cây bách trước sân…

諒州晚景

古寺淒凉秋靄外
漁船蕭瑟暮鐘初
水明山靜白鳥過
風定雲閒紅樹疎

Lạng Châu Vãn Cảnh

Cổ tự thê lương thu ải ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắc mộ chung sơ.
Thuỷ minh sơn tĩnh bạch điểu quá,
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.
(Trần Nhân Tông)

Cảnh chiều Lạng Châu(*)

Mây thu lạnh lẽo chùa xưa
Thuyền ngư xao xác thoảng đưa chuông chiều
Cò bay non nước quạnh hiu
Gió yên mây nhẹ liêu xiêu lá hồng.

Tiếp theo tiếng chuông của vua Phật Trần Nhân Tông, tôi tình cờ bắt gặp tiếng chuông của một bậc hào sĩ, giữa ải quan mắng con chớ khóc lóc theo nhi nữ thường tình mà hãy lo gầy dựng nên công nghiệp lẫy lừng để trả thù nhà nợ nước, là đấng sinh thành của một khai quốc công thần nhà Hậu Lê – Triều đại khiến quân xâm lược nhà Minh phải cuốn gói chạy dàị Ðó là Nguyễn Phi Khanh, bài thơ này của ông nằm trong phần phụ lục Ức Trai thi tập do phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa ấn hành năm 1972

Tiếng chuông chiều của Nguyễn Phi Khanh gióng lên ở chốn làng quê. Nhìn bóng tùng khóm trúc phất phơ. Nâng chung rượu ngắm màu thu man mác. Trời rộng trăng ngàn, mây cao nhạn tít, lang thang gậy trúc dạo bước chiều hôm bỗng nghe một tiếng chuông ngân lờ lững. Lòng nhân thế chợt lâng lâng quên đi phiền toái, phên trúc khép rồi là cách biệt nhân gian.

村居

松筠三徑在
歲晚薄言歸
把酒看秋色
攜筇步夕暉
雲空山月出
天闊塞鴻飛
忽聽昏鐘報
呼童掩竹扉

Thôn cư

Tùng quân tam kính tại
Tuế vãn bạc ngôn quy
Bả tửu khan thu sắc
Huề cùng bộ tịch huy
Vân không sơn nguyệt xuất
Thiên khoát tái hồng phi
Hốt thính hôn chung báo
Hô đồng yểm trúc phi
(Nguyễn Phi Khanh)

Ở quê(*)

Bóng tùng xanh ba dãy,
Năm hết gửi ít lời
Ngắm thu nâng chén rượu
Chống gậy dạo chiều lơi
Mây cao trăng lấp ló
Trời rộng nhạn chơi vơi
Bỗng nghe chuông chiều vọng
Bảo trẻ gài phên thôị

Và tiếng chuông tiếp theo là của một người họ Nguyễn vốn là con cháu ngoại tộc họ Trần, người từng một thời oanh liệt giúp nhà Hậu Lê dựng nghiệp, lừng lẫy với bài Bình Ngô Ðại Cáo, sau mười năm gian khổ kháng chiến chống quân Minh được liệt vào hạng đệ nhất khai quốc công thần, được phong tước Quan Phục hầụ Ðó là một trong những con người tài ba lỗi lạc của lịch sử mà năm tháng cuối đời lại bị một nỗi oan khiên bi thảm trong vụ án Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi là nhà văn hóa, nhà chính trị, nhà quân sự và một nhà tư tưởng lớn mà cả cuộc đời đã tận tụy lo cho dân, cho nước.

Tiếng chuông của Nguyễn Trãi trong thời gian này có lẽ là lúc ông đã về trí sĩ ở Côn Sơn, huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương năm 60 tuổị Phải chăng đấy là tiếng chuông chùa Côn Sơn, nơi mà Băng Hồ tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại nhà thơ đã sống ẩn dật ở đó và cũng là nơi mà một phần tuổi ấu thơ của ông đã trải quạ

Trai phòng vắng lặng mưa gió suốt đêm thê lương ảm đạm, gối khách ngẩn ngơ nghe tiếng mưa rơi giọt giọt đếm canh tàn, nghe khóm trúc xạc xào cọ vào song cửa, tiếng chuông vang lên trong giấc điệp mơ màng khiến tâm tư con người không thể an nhiên chìm vào giấc ngủ say sưạ Cảnh này tình này, u tịch nào hơn, phải chăng đây là một tiếng chuông cảnh tỉnh, quan trường sớm nắng chiều mưa, phú quý hiển vinh rồi cũng như mây trôi nước chảỵ Án Lệ Chi Viên chỉ là một cái cớ của những sự tranh dành quyền lực chốn cung đình thâm sâu bí ẩn. Than ôi ! Công hầu khanh tướng ! Cho dù truyền thuyết rắn báo oán chỉ là một tấm bình phong che đậy những âm mưu chính trị nhất thời nhưng nó cũng đã soi rõ tính chất vô thường của vạn vật.

聽雨

寂寞幽齋裡
終宵聽雨聲
蕭騷驚客枕
點滴數殘更
隔竹敲窗密
和鐘入夢清
吟餘渾不寐
斷續到天明

Thính Vũ

Tịch mịch u trai lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu tao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.
(Nguyễn Trãi)

Nghe Mưă*)

Mơ màng phòng trai vắng lặng,
Suốt đêm nghe tiếng mưa rơi
Giật mình xác xao gối khách
Ðếm canh từng giọt chơi vơi
Khóm trúc xạc xào song cửa
Chuông ngân mộng mị bồi hồi
Ngâm vịnh chán còn chưa ngủ
Nối,ngưng cho đến sáng trời

Gần với thời đại chúng ta hơn, có tiếng chuông của một thi sĩ tiền bối ảnh hưởng ít nhiều triết lý thiền môn. Cố thi sĩ Quách Tấn (1910 – 1992) là một trong Bàn thành tứ hữu (dân Bình Định gọi Hàn Mặc Tử là Long, Chế Lan Viên là Phượng , Quách Tấn là Quy và Yến Lan là Lân), là người đại diện cuối cùng của trường phái thơ cổ điển Việt Nam tiếp theo thi sĩ Tản Đà. Tiếng chuông chùa đối vớI ông là một âm điệu nhu nhã thiêng liêng văng vẳng từ tiềm thức thâm sâu nên tiếng chuông thường hay trỗi dậy mỗi khi ông trông thấy phong cảnh u tịch của chùa chiền non nước …

“Trăng lên đồi Trại thủy
Chuông khua ngời âm ba
Bồi hồi mây khóa viện
Sân Bồ đề sương sạ”

Tiếng chuông trong hồn cố thi sĩ Quách Tấn là tiếng chuông mơ hồ nhận diện một cõi nhân gian hư ảo, chuông đã tạnh rồi nhưng không gian không ngừng âm ba của tiếng ngân trầm tịch, ngân mãi,ngân mãi với gió ngàn mây trắng chiều hôm…

Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.”

Tiếng chuông rơi trong bóng chiều, rơi xuống cõi
lòng nhân thế khiến tâm hồn con người thêm lãng đãng,niềm mây nước mênh mông,dạt dào tình cố
cựu …

Mây nước nhuốm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân.”

Chùa cũ, chùa cổ, mái chùa thấp thoáng tỏ mờ trong áng mây trắng bàng bạc xa xăm của bậc ẩn giả hạc nội mây ngàn tháng ngày phong nguyệt tiêu dao như hư như thực, tiếng chuông ngân vang như có như không. Kìa những vòng sóng long lanh trên hồ mây biếc liễu, vòng sóng hay âm ba của tiếng ngân vang vọng, vang vọng mãi ngàn năm. Có là không mà không cũng không nốt.

Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh.”
(Giọt trăng – Quách Tấn)

Lại thêm tiếng chuông của một thi sĩ thiền sư hiện đại, tuy bây giờ ông chẳng phải là một thiền sư đầu tròn áo vuông như ngày trước nhưng dù thế nào đi nữa, tiếng chuông trong thi ca, trong tâm hồn của ông vẫn đầy hơi hướm mê ngộ vọng chân, vẫn bâng khuâng khơi động tâm tư người ta tới tận cùng sâu thẳm.
Ta hãy nghe tiếng chuông ngân vọng theo sóng nước đêm trăng, màu thu bàng bạc, một chiếc thuyền con buông lái, trăng và chuông tan loãng vào nhau đi về cõi xa xăm tịch tĩnh. Hư vô chìm ngập không gian, đâu bến đâu bờ ?

Thuyền ai buông lái đêm rằm
Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào …
(Ðộng hoa vàng – Phạm Thiên Thư)

Chao ôi ! Hạt thiên thư ! Hạt thiên thư !Tiếng chuông vang vọng chơi vơi dần dần thấm đẫm vào từng hạt bụi của thế giới nàỵ Ôi ! hạt bụi nhỏ nhoi nhưng mà một khi thấm đẫm tiếng chuông ngân nó có khả năng làm đảo lộn diện mục của vũ trụ, đó chính là nguyên nhân tạo tác nên nỗi thiên thư bồng bềnh. Có phải thế chăng, hỡi bác Thiên Thư ? (Vạc rằng hỡi bác Thiên Thư, mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ ?)

Chuông ngân chiều lặng trầm tư
Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng
(Ðộng hoa vàng – Phạm Thiên Thư)

Và sau rốt,nói đến âm ba của những hồi chuông kim cổ mà quên nhắc tới tiếng chuông Hàn Sơn Tự quả là một thiếu sót lớn laọ
Hàn Sơn Tự là một cổ sát (cảnh chùa xưa) nổi tiếng ở phía Tây trấn Phong-Kiều thuộc tỉnh Tô Châu,Trung Quốc. Ðược xây dựng vào niên hiệu Thiên-Giám đời Lương (502-519) và đã được đặt tên là Diệu Lợi tự. Về sau chùa được gọi là Phong Kiều tự vì ở gần cầu Phong Kiềụ Đến đời nhà Đường vì có hai thiền sư là Hàn San và Thập Đắc đến trụ trì ở đó nên chùa lại được đổi tên là Hàn San tự. Chùa từ thời đó đến nay đã trải qua nhiều lần trùng tu nên không còn giữ được kiến trúc ban đầu nữạ Nếu so với các ngôi chùa khác ở Trung Quốc thì chùa Hàn San không có gì đáng kể về mặt kiến trúc nhưng lại rất nổi tiếng nhờ có bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế.
Đây, tiếng chuông Hàn Sơn Tự, tiếng chuông trên bến Phong Kiều, trong lòng kẻ lữ thứ, đêm dài nằm trên thuyền nghe quạ kêu sóng vỗ, ngắm đèn chài leo loét sông khuya đắm chìm trong trăng tà sương lạnh mà ngậm ngùi thân thế, tất cả những thứ đó phủ trùm lên vạn vật một cảnh sắc thê lương nhưng tiếng chuông ngân tình cờ nửa đêm đã làm lữ khách ấm lại tấc lòng cô quạnh, đã khơi dậy hứng thú cho một giai thoại thi ca còn được truyền tụng ngàn năm. Ta hãy lắng nghe tiếng chuông này với tấm tình của một kẻ tha hương linh đinh sóng nước quê người mới thấm thía hết nỗi niềm của nó.

楓橋夜泊

月落烏啼霜滿天
江楓漁火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bài thơ này đã có rất nhiều thi sĩ tiền bối dịch theo nghĩa chính rồi, tôi muốn thổi cho nó một luồng gió mới mát mẻ nên xin phóng dịch lại theo ý riêng gọi là hoài niệm cổ nhân vậỵ

Quạ kêu sương lạnh trăng tà.
Đèn chài giấc muộn la đà bến sông.
Chùa Hàn trầm bổng hồi chuông.
Nửa đêm gọi khách bềnh bồng Cô Tô.

Trên đây chỉ là một vài tiếng chuông tiêu biểu kim cổ đó đây mà tôi biết được và nảy sinh niềm cảm khái với nó. Hẳn nhiên là còn hằng hà sa số tiếng chuông khác mà tôi chưa có cơ hội được nghe, vì vậy không tránh khỏi điều khiếm khuyết. Nhưng dù thế nào, nói tóm lại, nhân thế cổ kim đã gióng lên rất nhiều hồi chuông trầm bổng, người gióng chuông và người nghe không ai giống ai nhưng âm điệu bổng trầm của tiếng chuông thì muôn đời không khác.Tâm hồn của nhân gian cao khiết khinh an thì tiếng chuông là một âm giai thanh nhã dẫn đưa tới con đường giải thoát. Tâm hồn đầy si mê sân hận lọc lừa thì tiếng chuông là một âm thanh lanh lảnh dụng công thức tỉnh vô minh. Khi ông Huỳnh Trung Chánh viết rằng: “Tuy thiền tông tuyên bố là ” bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” và phủ nhận mọi hình thức lễ bái, mà tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng khánh, tiếng tụng niệm, tiếng hét… của chư thiền tổ đều hàm chứa một diệu dụng vô song. Theo sơ tổ, rung động của âm thanh có thể tạo nên những sự rung động sâu xa nơi tâm thức. Âm điệu tán tụng đúng mức có diệu dụng thức tỉnh kẻ mê đắm dục lạc, hóa giải tham sân si, trao truyền an lạc. Nhịp mõ khoan thai phá tan loạn động, hồi trống dồn dập triển khai tinh tấn, và tiếng chuông thanh thoát nhiệm mầụ Âm ba đặc thù của tiếng chuông : ngân nga, bàng bạc, trầm sâu, xoáy chuyển, có công năng thẩm thấu tận đáy nguồn tâm thức, vừa cao vút thông suốt tam thiên, vừa xuyên thủng cõi u minh địa ngục. Điều đó đã giải thích tại sao, tiếng thác đổ ầm ỉ, tiếng trời long đất lở, tiếng trống kèn rầm rập của ba quân… không lay chuyển chư thiền sư trong cơn đại định, nhưng một tiếng chuông nhỏ lại có diệu dụng thức tỉnh vị ấỵ..” Trong truyện ngắn Tan Loãng Trong Mây ắt hẳn ông đã chiêm nghiệm được diệu lý đó.

Và như thế,mặc ai nghe ai không nghe, tiếng
chuông vẫn làm đủ bổn phận của nó, vẫn hy vọng rằng một sớm một chiều nào đó mọi người đều nghe ra tiếng bổng trầm nhu nhã làm chấn động tâm tư và người ta sẽ nhớ ngẩn nhớ ngơ khi không gian vắng bặt tiếng chuông.

Cuối cùng xin mượn 4 câu thơ của Thiền Sư Viên Học thời nhà Lý để kết thúc bài viết tản mạn lan man nàỵ

聞鐘

六識常昏終夜苦
無明被覆久迷慵
晝夜聞鐘開覺悟
懶神靜卻得神通

Văn chung

Lục thức thường hôn chung dạ khổ,
Vô minh bị phú cửu mê dung.
Trú dạ văn chung khai giác ngộ,
Lãn thần tĩnh khước đắc thần thông

(Viên Học Thiền Sư)

Nghe chuông(*)

Sáu trần ám ảnh khổ đêm trường
Tối tăm che lấp mãi mơ mòng
Nghe chuông sớm tối lòng khai mở
Hết lười thì sẽ được thần thông

Hạt Cát

[/read]