Mạc Phương Đình

Mạc Phương Đình 1

Buồn Vui Cùng Bạn

thơ vẫn cứ bập bềnh như thế
nhiều nỗi buồn, chút ít niềm vui
vừa nghe tin bạn về miên viễn
không khóc mà đau với ngậm ngùi

bao năm bỏ xứ đi luân lạc
vốn liếng còn chi, ngoài bạn bè
thân phận làm thuê cho đủ sống
quê nghèo lá rách cũng nghiêng che

cuối tuần họp mặt dăm ba đứa
bắc ghế ngoài sân nói chuyện đời
đọc lại thư nhà bè bạn gửi
xem hình què cụt bỗng chơi vơi

lâu lâu gửi chút tình qua biển
lá nát tìm đâu được lá lành
lá rách đậm đà trong nghĩa nặng
thời gian lây lất cũng trôi nhanh

mai kia chẳng hẹn con đường ấy
mình sẽ gặp nhau, nở nụ cười
tay bắt mặt mừng không hổ thẹn
thiên đường, địa ngục vẫn cùng vui.

Chiều Cuối Năm

có những chiều cuối năm như thế
thân quê người, đầu ở quê hương

dẫu chân bước đi, ngõ lạ xa đường
mắt như thấy cành mai đang nở
xoè cánh bướm khoe mùa xuân rực rỡ
nắng vàng rơi từng giọt xôn xao
mắt thơ ngây ấm áp hoa đào,
có những chiều cuối năm như thế
cây bút ngập ngừng dòng chữ run run

dòng thư thăm sao vướng mắc câu buồn
đôi chút bâng khuâng tình người dâu bể
một thủa đi tìm dòng đời tử tế
mong cho nhau ngày tháng trùng phùng
giọt lệ mừng, chén rượu say chung,
những chiều cuối năm nhìn trời nhìn đất
giấu vào tim một khối ngậm ngùi
nhắc riêng mình điều còn điều mất
bẻ nụ sầu cắm giữa niềm vui.

Trên Đỉnh Mùa Xuân

người đi qua, mùa xuân đã nở
đoá thơ ngây khoác áo bình yên
xanh như ngọc trái sầu rụng xuống
để bàn tay vội vã trăm miền

nghe điệu nhớ vàng theo ánh nắng
con chim chuyền cất giọng trên cao
hương mai đẫm chút tình gió bụi
câu hát ru pha dấu nghẹn ngào

trên dốc đời mùa xuân đếm nhịp
còn cưu mang xa lạ một dòng
mây lơ lửng quay ngang ngõ cũ
nhắc nhớ gì một bước long đong

xin gói trọn niềm đau một thuở
mang đi theo vào đỉnh mùa xuân
gởi cho gió mịt mù nhân ảnh
người có nghe hoa cỏ thật gần .

Thu Của Một Thời

có một thời đêm đêm chờ trăng
chừng như ngày tháng chẳng xoay vần
vàng rơi trên lá, trăng hay nguyệt
một nhánh sầu tư dưới bước chân

có một thời dấu đời loang lổ
cả bốn mùa ngày nào cũng thu
em khoe áo hạ xanh như nắng
sợi khói trong thơ bỗng mịt mù

có một thời theo mầu gối lạ
gói thời gian pha khúc ru khuya
em đi va vấp theo đường mới
cứ ngỡ thu sang bóng nguyệt về

một thời mổi ngày thôi chờ em
mắt ngộp màu thu đẫm nụ tình
nồng cả tương tư trong giấu lệ
em đi chân buồn trong lênh đênh

một thời mơ tưởng thu là mộng
để lá vàng bay mãi với trăng
dỗ giấc mơ chìm đêm tiếng nhạn
góc hồn đọng mãi chút bâng khuâng

Người Về

Người về thắp nắng trên cao
rót câu hát cũ chảy vào tim ta
nắng chia nửa gió đường xa
người chia nỗi nhớ vỡ oà tiếc thương
giận chi nhịp guốc sân trường
còn khua sợi tóc lỡ vương một lần
mỉm cười dấu nửa màu trăng
thơ ngây con mắt đánh vần nét thơ
thả ngày theo bước bơ vơ
buông dòng mực tím ngẩn ngơ đường về
ngoài sân đầy rụng hoa lê
trong tim giọt máu tỉ tê một mình .

Soi Mình

Soi gương nhìn thấy bóng mình
soi em tìm lại chút tình đã xa
thuyền xưa lỗi ngón tay ngà
xuôi dòng mắt đợi xót xa mắt người

tìm đâu ngõ khép nụ cười
để quên chất ngất một đời hẹn nhau
thời gian dẫu vẫn xưa sau
vẫn chưa đủ trọn một câu thơ buồn

bẽ bàng đau một dại khôn
gọi thơ vẽ lại nụ hôn tháng ngày
em từ để phấn hương bay
ngẩn ngơ bỏ chén rượu đầy mình ta

bến đời xế bóng mây qua
thôi mai đừng nỡ về xa ngập ngừng
trong hồn bỗng thoáng rưng rưng
như xuân vừa đuổi vầng trăng xuống đời

Cốc Rượu Khuya

Quán khuya chợt mắt nhận nhau
bỗng dưng kỷ niệm ngẩng đầu nỗi vui
hai mươi năm, khoảng ngậm ngùi
bao nhiêu dốc khó đau đời lãng quên
chia từng bóng nhớ không tên
bước chân lầm lũi dẫm trên đỉnh sầu
tuổi xuân theo nước chân cầu
trôi qua mờ mịt giữa mầu nhân gian
tấc lòng đau với quan san
hận dòng nước đục ngỡ ngàng biển khơi
mộng xưa lấp biển vá trời
bọc thây da ngựa thác lời mẹ cha
mười năm trong cõi ta bà
nỗi hờn nỗi giận, xót xa nỗi mình
bàn tay cầm giữ lênh đênh
nâng ly nốc cả gập ghềnh vào tâm
đắng cay chén rượu thăng trầm
âm ba từng đợt sóng ngầm gọi nhau .

Khám Phá

em là nắng là mưa hay là gió
là ánh trăng hay đốm lửa đêm sao
là cỏ thơm hay lộc non mới nở
mà bỗng dưng anh ngào ngạt hoa đào

nắng bỡ ngỡ rớt buồn trên mái tóc
sợi mai xưa lấp lánh chút tà huy
mưa lặng lẽ lối về ôm mộng cũ
ngọt môi anh cắn vỡ trái xuân thì

bờ cỏ thơm còn xanh xao viễn xứ
lời trăm năm chưa nói được vài câu
nghe lộc non tràn đêm câu tình tự
tiếng yêu em rạo rực nước chân cầu

về góp lại từng hạt mưa hạt năng
hạt lửa sao cùng cộng cỏ trăng đầy
em nhật nguyệt dấu mình mơn mởn nở
để hồn anh say khướt cả đêm nay .

Nhớ Sài Gòn

Nhớ Saigòn buổi chiều mưa bất chợt
mái hiên nào anh đã đứng cùng em
cơn mưa ngắn đủ cho mình quen biết
và cho nhau một nỗi nhớ êm đềm

nhớ Sàigòn, những hàng cây bóng mát
ta chờ nhau vào những buổi tan trường
những chiếc lá bay trong chiều kỷ niệm
xuôi dòng đời như những sợi tơ vương

nhớ Saigòn, con đừờng qua Chợ Cũ
một đêm nào mình đã nắm tay nhau
trăng mười tám phía bờ sông rọi lại
ánh trăng khuya lấp lánh nụ hôn đầu

nhớ Saigòn một mình anh ngóng đợi
chuyến tàu đêm em trở lại sân ga
tàu đến chậm trong màn mưa buổi tối
mừng ôm nhau mưa, nước mắt nhạt nhoà

nhớ Saigòn ngày chia tay lặng lẽ
em trở về vàng võ ánh đèn khuya
đêm chôn dấu nỗi buồn anh để lại
bánh xe lăn qua vũng nhớ đầm đìa

nhớ Sàigòn, một nửa đời ở đó
bao yêu thương xin giữ lại cho mình
từng góc phố từng con đường năm cũ
vẫn từng ngày theo gót kẻ lênh đênh.

Mạc Phương Đình

Lương Thư Trung

Lương Thư Trung

Thơ Lâm Hảo Dũng,
Ngọn gió-nồm-nam thổi cuối trời…

Nhắc tới thơ văn vùng sông nước Hậu Giang, không thể không nhắc đến nhà thơ Lâm Hảo Dũng, có lúc anh còn ký bút hiệu Mây Viễ n Xứ (1). Lâm Hảo Dũng bắt đầu làm thơ từ thời còn đi học tại trường trung học Hoàng Diệu (Sốc Trăng) và sau này khi vào đời, anh tiếp tục làm thơ viết văn cùng thời với các lớp văn nghệ sĩ như Trần Phù Thế, Lưu Vân, Triều Uyên Phương, Trầm Mặc Nghệ Thế và rồi Phù Sa Lộc, Nguyễn Bạch Dương, Ngô Nguyên Nghiễm, Hà Thúc Sinh, Lâm Chương, Tô Đình Sự, Trần Hoài Thư… Tác phẩm đã xuất bản: Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà (thơ), Đi Giữa Thời Tan Nát (thơ), Tóc Em Dài Em Cài Bông Hoa Lý (thơ)

Lâm Hảo Dũng quê làng Bố Thảo, Sốc Trăng. Nói về quê Bố Thảo của anh, tác giả cho biết:”Quê Bố Thảo của tôi cũng bình dị như bao làng quê khác, người dân sống bằng nghề ruộng rẫy, không có nét dặc biệt như ở Kế Sách nổi tiếng về cây trái, Phú Tâm có bánh pía, mè lau … Năm 19 tuổi tôi dã rời xa quê, đi học, đi làm và đi lính. Châu Đốc đối với tôi mới thật sự là có nhiều kỷ niệm, cảnh núi sông, bạn bè văn nghệ như Ngô Nguyên Nghiễm, Lưu Như Thủy, Nguyễn Thanh Xuân, Trấn Biên Thùy, Cao Thoại Châu (di lính, gặp ở Pleiku)”.
Thiệt tình ra, cái nét bình dị của làng Bố Thảo cũng là cái nét tiêu biểu của bao làng mạc miền Tây Nam nước Việt. Cũng năm ba bụi tre làng, cũng hàng bần dưới mé sông; cũng bao mái nhà lá đơn sơ, cũng gốc cà gốc ớt, cũng dưa leo đậu đũa, hàng cau, vườn trầu, đống rơm, bông so đũa, cọng rau om, rau thơm, bông điên điển, mương lạch, đìa bàu… Tất thảy đều nói lên cái nét đơn sơ mà thân thiết với đời sống người dân nơi sông nước miền Tây Nam này . Xin mời bạn cùng tôi ghé lại thăm căn nhà của thi sĩ qua bài thơ “Nhà tôi”

“Ơi những ngày xưa dưới mái nhà
Mẹ ngồi lựa thóc ngắm mây xa
Những lo mưa sớm bên đồng nội
Làm mất màu tươi mấy gốc cà

Xanh ngắt một màu bên liếp rẫy
Giàn dưa leo sớm bỏ vòi cong
Còn ghen đậu đũa vừa đơm trái
Hay lũ rau thơm đám cúc tần

Có mấy hàng cau nhỏ thế thôi
Mẹ thường nhắc nhở những khi vui
Một mai đám cưới không lo thiếu
Trầu tốt cau ngon thuốc đượm mùi

Đây đống rơm khô dưới gốc gòn
(Là nơi tôi rải mộng lang thang)
Chờ em từ thuở con trăng tối
Cho đến trăng đầy em mới sang

Thèm quá nồi canh chua cá lóc
Chút bông so đũa cọng rau om
Ai lên phố thị mà không nhớ?
Mùi vị dưa nồng điên điển thơm

Mười mấy năm rồi đi biệt xứ
Nhà tôi còn đó mẹ tôi không?
Nghe thương những cánh chim tu hú
Mãi gọi bên sông điệp khúc buồn.”

Ngôi nhà của Lâm Hảo Dũng chỉ chừng ấy nét bình dị quen thân mà khắn khít biết bao! Dường như ai đã từng sanh ra và lớn lên nơi các làng quê đều nghe như mái nhà của tác giả cũng chính là mái nhà yêu dấu của chính mình. Bức tranh quê nơi sông nước miền Tây còn được Lâm Hảo Dũng làm đầy thêm bằng những tâm cảm thiết tha qua nỗi lòng của một đứa con xa quê nhớ về mẹ già qua bài thơ “Về với má” trong thi tập “Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà”. Ở đó, chúng ta bắt gặp lại dòng sông Hậu với nắng, mà lại là “nắng lưa thưa” mới tuyệt diệu. Bạn có nhớ ra “nắng lưa thưa” là nắng gì không? Xin thưa cùng bạn “nắng lưa thưa”là nắng vào lúc gió nồm nam thổi qua có mang theo hơi nước từ vùng biển Rạch Giá, Cà Mau làm mây đen như báo hiệu trời muốn chuyển mưa ; và những vạt mây đen ấy kéo qua che khuất ánh sáng mặt trời làm cho bầu trời đang nắng bổng dịu mát lại; khi mây bay qua khỏi, bầu trời lại chan hòa ánh nắng…Chỗ này, chỗ kia lác đác những vạt mây đen như vậy làm cho nắng cũng lưa thưa man mác cả một vùng; tức là khi thì nắng, khi mát, cứ thay nhau liên tiếp đến khi trời quang mây tạnh. Rồi tác giả còn dẫn ta về thăm lại cây dừa lão, thăm lại mùa lúa chín, thăm lại mấy gốc bần, giàn mướp khía, cây bình bát, dây me đất, đám ô rô, đám mái dầm, mùi thơm cúc tần cùng hương thơm loài rau có tên sao nháy, cùng vị chua của mớ lá vang…, hết thảy những hình ảnh và hương vị đồng quê ấy càng làm nỗi nhớ của người con xa quê chập chùng thêm biết bao…:

“Con cũng muốn về thăm lại má
Thăm dòng sông Hậu nắng lưa thưa
Có cây dừa lão thân gầy qúa
Đứng khóc theo mùa con nước đưa
Thấy nhớ làm sao mùa lúa chín
Má ngồi khâu áo ở đầu sân
Thương thằng hai đã nằm trong đất
Thằng Út mơ màng tính vượt biên
Con gởi buồn theo mấy gốc bần
Mấy giàn mướp khía mới đơm bông
Mấy dây bình bát dây me đất
Và đám ô rô lũ mái dầm
Má biết con yêu thích cúc tần
Cái hương sao nháy rất thanh tân
Từ khi con bỏ quên đời lính
Lòng chết còn thương những lá vang”

Còn nữa, nào là kinh xáng múc, rồi có cả tiếng chim bìm bịp kêu mỗi lần nước lớn, cùng tiếng chim tu hú gọi Tết về nơi những bụi tre sau nhà cứ vang vang bên tai mỗi ngày nhưng nay không còn nghe lại nữa càng làm vấn vương hoài trong tâm tưởng của tác giả qua lời trách móc nhẹ mà đau như cắt ruột:

“Ai cắt lià chi từng núm ruột
Mà kinh xáng múc cạn khô dòng
Mà chim bìm bịp chim tu hú
Cũng trốn bay về chốn biển đông.”
(Về với má)

Đời sống người dân quê nơi các làng mạc miền Nam chỉ mơ xã hội yên bình để làm một người dân bình thường hầu lo cày bừa cắt gặt kiếm sống qua ngày; nhưng ước mơ bình dị ấy nhiều lúc thời cuộc biến đổi, xã hội loạn lạc, đâu phải ai cũng sống an cư lạc nghiệp được với ruộng vườn của mình. Chính vì thế, trong dân gian có thêm hạng “phó thường dân”, tức là hạng người thấp kém, chưa được là người dân bình thường như mọi người, nên họ là hạng người không bằng ai ngay tong làng quê của mình, nói gì đến các nơi chợ búa phố phường! Tuy vậy, Lâm Hảo Dũng lại “chỉ muốn làm phó thường dân” thôi, mà lại là “phó thường dân Nam bộ”mới là đúng mực Nam Kỳ, tức cũng là một phó thường dân như mọi phó thường dân nhưng rất chịu chơi, không ngán ngại điều gì. Mời bạn nghe tác giả tả nỗi lòng của mình qua niềm mơ ước làm một người dân quê quèn ấy:

“Phó thường dân tà tà đi bát phố
Ngắm quần loa ống túm áo chim cò
Ngắm tóc dài của tiểu muội tiểu thơ
Đâu cần biết ngày mai mưa hay nắng
( Phó thường dân dường như lười biếng tắm)
Đi giữa đồng thèm hát khúc hoài lang
Áo bà ba ai xanh tím đen vàng
Chàng yêu hết nên đem về nhốt kín
Phó thường dân thích giăng câu đặt trúm
Thích lai rai nghe gío mới se buồn
Ngủ dật dờ bên xáng múc chiều hôm
Đời trôi chậm hay nhanh chàng bỏ mặc”

(Tôi Chỉ Muốn Làm Phó Thường Dân Nam Bộ)

Nhưng rồi Lâm Hảo Dũng cũng đành trách than cùng số phận của kẻ xa quê biền biệt mấy mươi năm:

“Phó thường dân mấy mươi năm biệt xác
Bỏ đồng không hiu quạnh gái quê hiền
Bỏ mất hồn thương mãi tiếng chim quyên
Là vĩnh biệt đất nồng thơm sửa mẹ

(Tôi Chỉ Muốn Làm Phó Thường Dân Nam Bộ)

Nỗi thất vọng về một mơ ước đơn giản ấy không thành lại chính là nỗi thất vọng lớn vô cùng, nếu không muốn nói là nhiều lúc nhà thơ của chúng ta tuyệt vọng đến kinh hoàng… Nỗi tuyệt vọng không làm được “phó thường dân Nam Bộ” đó cứ mãi làm cho tác giả càng thấy nhớ mây, nhớ trăng, nhớ con đường làng quê đến não nùng:

“Tôi có cuồng chưa có hóa điên
Khi nhìn mây trắng nóc trời xanh
Con trăng đất khách mà như ngỡ
Đi giữa làng quê của Việt Nam”
(Tên Lữ Hành Phương Đông”

Để rồi thi nhân thả hồn mình hồ nhập cùng hồn quê qua những ngày thân ái cũ:

“Tôi vẫn thèm nghe mắt để trông
Cái hồn cây cỏ thở mênh mông
Những hàng ổi dại bầy chim sẻ
Xô nát rừng phong rực sắc hồng

Những chiếc đầm bay kênh kiệu quá!
Đâu vải quê nghèo áo của tôi
Ai trong buổi tiệc mà không nhớ
Màu cá đồng xanh lục tỉnh ơi!”
(Tên Lữ Hành Phương Đông)

Có thể nói Lâm Hảo Dũng dù ở bất cứ nơi đâu hồn anh cứ mênh mang về một nỗi nhớ quê nhà. Như lời kể của tác giả, một trong những địa danh làm nên nỗi nhớ của nhà thơ là Châu Đốc, một tỉnh lỵ vùng biên giới Việt-Miên một thời lúc tuổi thanh xuân dạt dào nhựa sống anh đã dừng chân và để lại hồn mình miên man trôi theo dòng nước mát với những mùa trăng trên bến nước Cửu Long và nay vẫn còn đọng lại trong trái tim người thì sĩ đầy lãng mạn qua những dòng thơ vừa tình tứ mà ngọt ngào, vừa êm đềm mà tha thiết biết bao với dòng sông, ngọn núi, ánh trăng cùng người yêu bé nhỏ một thời dù nay đã lâu quá rồi và cũng xa quá rồi một thời nhiều nhựa sống ấy … :

“em khóc dòng sông khóc nước sông
ta đi sầu ngát tận trong lòng
nhớ trăng đầu núi trăng đông nội
và những mùa trăng sông Cửu Long

em ở bên kia trời cách biệt
mắt buồn vây kín núi Sam xa
ta như lữ khách không nhà cửa
ngủ đậu trên chùa mỗi tháng ba

em khóc dòng sông đó phải không
ngàn năm vẫn nhớ má em hồng
vẫn yêu đường đá miền Châu Phú
những chuyến đò đêm nước ngược dòng

bởi ta lười biếng làm sao thấy
em đẹp như là hoa hướng dương
vu vơ em hát hay ta hát
mà tóc tung bay rất ngập ngừng

em khóc dòng sông đó phải không
đêm mơ về thấy chín con rồng
vẫy đuôi trên nóc Tây An Tự
đón hội Long Hoa một tối rằm”

(Bài thơ gợi nhớ về Châu Đốc)
Dĩ nhiên rồi, Lâm Hảo Dũng làm sao quên được những bạn bè ngày cũ của anh nữa qua bốn câu kết bài thơ với nỗi lòng chân thành cùng bằng hữu thật tha thiết:

“ta nhớ một đời riêng để nhớ
những mùa trăng cũ bạn hiền xưa
Cồn Tiên bên quán ngồi châm thuôc
rượu ngất ngây hồn vị tiễn đưa”

(Bài gợi nhớ về Châu Đốc)

Nhớ về Châu Đốc là thế, ở đó có nét đẹp riêng của một tỉnh lẻ miền Tây Nam Nam phần mà ai đã có ghé qua và ở lại đó rồi mới thấy được cái nơi tưởng chừng như quạnh quẽ đìu hiu ấy vậy mà rồi khi rời xa hồn vẫn bâng khuâng lưu luyến mãi hoài …

Lâm Hảo Dũng là một chàng trai lớn lên giữa thời chiến, cũng như anh, những chàng trai thời ấy không chọn cho mình cái nghề đánh giặc thế mà rồi cũng phải lên đường ra trận. Có bận anh về qua Năm Căn, Cà Mau với dòng sông Trẹm như một kỷ niệm khó quên dù nay không còn chiến tranh như bao mùa binh biến cũ với lời thơ vừa như tâm tình vừa như trách móc:

sontrem

“Ấy dòng sông Trẹm tôi quen
Nắng cao để lắng vị phèn đỏ hoe
Người đi đâu biết sang hè
Chỉ nghe quanh quẩn tiếng ve gọi sầu
Em khăn tắm quấn ngang đầu
Nhìn tôi con mắt bạn thù ai hay?

Ấy dòng sông Trẹm xưa nay
Còn thương cây mắm rễ cài trên không
Lênh đênh em một chiếc xuồng
Ðời tôi lính trận cỏ bồng chân mây
Xa nhà mượn chén rượu cay
Khóc khi mai biết tuổi đầy buồn lên

Ấy dòng sông Trẹm tôi quen
Nhà ai đã vội đốt đèn đêm nay
Dầu mù u ngọn lắt lay
Em nơi âm phủ khói bay tìm về
Hận người con muỗi vo ve
Nằm trong cuộc chiến bạn bè giết nhau

Ấy dòng sông Trẹm trôi mau
Nước đi nhắc lại cái màu thời gian
Nhớ hồi ở miệt Năm Căn
Rải quân mấy cụm đóng đồn giữ dân
Mùa khô con cá thưa dần
Tôi xui xẻo biết em làm giao liên
Ấy dòng sông Trẹm tôi điên
Thề không trở lại đi thuyền năm xưa.”

(Ấy dòng sông Trẹm tôi quen)

Là một người lính, Lâm Hảo Dũng nay đóng quân ở nơi này mai nơi khác như một kẻ giang hồ phiêu bạt. Rời Nam Căn miệt U Minh, nhà thơ và người lính Lâm Hảo Dũng lại ra trấn thủ vùng cao nguyên Pleiku, Kontum như một thách đố với con người vốn sanh ra và lớn lên từ miền châu thổ đồng bằng. Nhưng cũng chính nhờ vào những chuyến đi mang nhiều thay đổi ấy, tác giả đã cho người đọc có những câu thơ viết về vùng cao nguyên xa mù ấy thật dạt dào:

“Con đường ấy vẫn hoen màu bụi đỏ,
Gió lơ thơ nghe nắng mới ngập hồn.
Anh sống thở trong tâm hồn trai trẻ,
Nghe nỗi buồn đâu đó đến phân vân.

Hoa cúc dại thắm trên đường xa tắp,
Và quê hương tha thướt lá xanh trà.
Em có thả những chòm mây nhung nhớ,
Cho rừng hoang im vắng tiếng chim ca.

Đời viễn khách mơ hồ không biết được,
Bước chân vang rộn rã buổi quay về.
Em mắt biếc hồn nhiên bên cánh cửa,
Gửi hư ơng nồng quay quắt bóng người đi .”
(Chiều hàm Rồng)

Ngày nay dù qua đi hơn 35 năm, nhưng đọc lại những câu thơ Lâm Hảo Dũng viết về vùng ba biên giới với những địa danh một thời ngập tràn khói lửa, lòng tôi sao thấy nao nao về một nỗi hiểm nguy ghê rợn của ngày nào … Những địa danh như núi Phượng Hoàng, Pleiku, KonTum, Tân Cảnh, Daksut, Dakpet, Ngok Long, Poko, Konko, Dakbla, Đường 14, và nhiều địa danh khác là những dấu binh lửa một thời khó phôi pha trong lòng người lính và nhà thơ Lâm Hảo Dũng. Xin mời bạn đi vào một vài chứng tích ấy qua một vài câu thơ của tác giả:
“Một mai về lại tam biên đó
Hãy ngắm Poko núi Phương Hoàng
Thấy tao như một vầng trăng nhỏ
Ngủ dưới chân rừng đêm tối đen”

(Một mai về lại tam biên đó)

Và trong “Tân Cảnh hồn tôi”, Lâm Hảo Dũng cho người đọc thấy được khói lửa chiến tranh đang ngùn ngụt cháy ở nơi vùng núi đồi cao nguyên với núi rừng bao la ấy và lúc nào cũng ngan ngát cái dũng khí của một người lính trận nhớ núi nhớ rừng:

“Từ dạo tôi rời thị trấn núi
Bỏ con đường dốc nắng lưa thưa
Bỏ chùa hiu quạnh hàng thông đứng
Bỏ giáo đường im bóng xác xơ
Những trưa quán cốc nhìn mưa xám
Còn thấy mây mù đỉnh Ngok Long
Giặc cắt đường về trên Daksut
Hỏi đồn Dakpet lạnh lùng không?
Ai lên Trí lễ mùa cam chín?
Ngắm hộ dùm tôi cảnh Phượng Hoàng
Địch chở đạn bom về gởi bán
Nên trong mùa gặt ngút điêu tàn
Quê hương buồn gởi theo biên giới
Những lá rừng xanh mới của tôi
Hãy ngang tàng lớn đừng kinh khiếp
Cho đất miền cao đẹp núi đồi”

Mặc dù trên những mặt trận mà người lính thi sĩ ấy đi qua đầy những vết tích chiến tranh với biết bao gian nguy, thế nhưng khi biết mình sắp đổi về đồng bằng, Lâm Hảo Dũng thấy nhớ lại những ngày lãng mạn một thời qua bốn câu kết trong bài “Pleiku Sầu Gởi Lại”

“Đời lính trận trên cây cầu sống chết
May còn em làm ấm chút vui lây
Rời bỏ núi tôi sắp về châu thổ
Lửa buồn ơi đem hỏa táng tôi đây”

Nhưng có lẽ hình ảnh chiến tranh rõ nét nhất nơi con đường 14 với mùa Hè Đỏ Lửa năm nào :

“Ai biết con đường loang máu đổ
Những hồn lưu lạc dưới Poncho
Những hồn vất vưởng bên bờ suối
Đi hái hoa xuân mọc dưới mồ
Ta bỗng cười khan đùa chiến trận
Bình Tây chưa chết vẫn còn đây
Hạ Lào đi suốt vùng biên giới
Nhìn Ngok Tu Ba xác ngập đầy
Hè nay ta lại trên đầu súng
Chợt xót xa cho khách chiến bào
Đang đốt đời trong cao điểm đó
(Bao giờ thấy lại ngọn Chư Pao?)

(Đường số 14)

Và viết về mùa hè năm 1972 đã qua rồi ấy, Lâm Hảo Dũng có một bài thơ khó làm cho người đọc bỏ qua được với mấy câu thơ mà mỗi lần đọc lại tôi vẫn nghe lòng mình buồn vô hạn…:

“Khi em bỏ Pleiku về với biển
Một ngày vui tôi kiếm cũng không ra
Nắng tháng năm nóng theo màu cuộc chiến
Tôi lên rừng săn đuổi đám mây xa
Đồi Lam Sơn để ngóng về Tân Cảnh
Dakto ơi !tôi tạm biệt bao giờ
Rồi soát điểm rồi nằm quanh Trung Tín
Rồi hoa đời chưa nở đã tuơi khô
Cho tôi thấy một mùa hè đỏ sắc
Đẹp não nùng trong từng gốc gai thơm
Và trên những chỗ ngồi ươn ướt đất
Bằng hữu tôi vừa trút thở linh hồn”
(Đã qua rồi một mùa hè) (1972)

Theo nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, “Lâm Hảo Dũng có hai câu thơ đọc nghe nhức nhối, như luồng điện dí vào da thịt. “Chư Pao ai oán hờn trong gió.
Mỗi một khăn tang một tấc đường. ”
Câu thơ của những ngày hè đỏ lửa 1972, khi chốt Chư Pao của Bắc quân cắt ngang đường tiếp tế cho Kontum đã biết bao nhiêu chiến sĩ hai bên hy sinh và biết bao nhiêu tấn bom đạn đã đổ trên mỏm núi.”(2)

Lâm Hảo Dũng còn nhiều lắm những bài thơ viết về chiến tranh như vậy, nên làm người đọc có cảm tưởng anh đang viết bút ký chiến tranh bằng thơ. Nhưng có lẽ cũng ghi nhận thêm một điều này nữa là ngoài những nỗi nhớ mang mang về chốn cũ kể cả nơi làng quê vùng đồng bằng và các vùng chiến địa cao nguyên một thời mà anh đã xông pha nơi các trận mạc ấy, Lâm Hảo Dũng khi chợt nhận ra mặt trận nào rồi có ngày sẽ êm tiếng súng, chiến tranh nào rồi cũng kết thúc một thời kỳ và người lính trẻ năm nào rồi cũng phải giã từ vũ khí với màu thời gian phảng phất trên mái tóc điểm sương khi tuổi đời thấp thoáng ở ngưỡng cửa năm mươi, cái tuổi mà người xưa gọi là “Ngủ thập tri thiên mệnh”, và rồi tác giả có bài thơ “Cho tôi hoài ở tuổi năm mươi”. Chắc có lẽ bài thơ này tác giả làm khi anh vào độ tuổi năm mươi ấy, nay thì đã qua rồi cái thủa “năm mươi” rồi mà sao nghe như vẫn tha thiết lắm về một ước vọng xa xăm …

Cho tôi hoài ở tuổi năm mươi
Để tôi thấy tôi còn xuân sắc
Mây vẫn chở khoảng trời xanh ngan ngát
Tôi sợ rồi ai gọi tiếng buồn ôi

Tôi cô đơn ôm bóng tối cuộc đời
Tôi kinh khiếp đếm thời gian lặng lẽ
Tôi còn trẻ nghìn năm tôi vẫn trẻ
Đừng mang tôi rời bỏ tuổi năm mươi
Đêm quạnh quẽ tưởng chừng như lắng đọng
Tiếng tôi rên từng nhịp thở rung đều
Tôi cứ chờ triệu ngàn năm ánh sáng
Một bóng hình tôi ghét gọi người yêu

Cho tôi hoài ở tuổi năm mươi
Tôi thấy có thiên đường và địa ngục
Tôi bật cười đâu hay tôi sắp khóc
Tình yêu ơi tôi chối bỏ lâu rồi”

Dĩ nhiên rồi, làm sao ở mãi tuổi năm mươi, làm sao níu lại được thời gian, phải không thưa anh? :

“Thế là tôi lừa dối chính tôi thôi
Thế là tôi chôn sống trái tim người”
(Cho tơi hồi ở tuổi năm mươi)

Vốn thi sĩ là những nghệ sĩ với một tâm hồn lãng mạn vơ bờ và tâm hồn Lâm Hảo Dũng cũng bềnh bồng trong sơng nước giĩ trăng lãng mạn ấy . Với bài thơ “Tôi Vẫn Biết Em Buồn Bên Mái Lá”, là một trong những vần thơ chan chứa cái chất lãng mạn ấy:

“Tôi vẫn biết em buồn bên mái lá
Hàng bụp thưa đôi búp nhú ơ hờ
Đất xa trời bao năm mà đất nhớ
Những ngày giông đêm tối hẹn hò mưa”

Nhưng điều tôi muốn ghi nhận nơi đây là cái chất quê nhà ở trong thơ Lâm Hảo Dũng nó bền bỉ biết dường nào ! Khi bạn nghe ra những chữ như “thương hàng cau ngan ngát”, “em hãy cắn giùm tôi vài quả ổi”, “chùm mận tươi khi gió chuyển mùa sang”, “Nhớ đầu doi cuối vịnh”, “mái chèo”… là bạn sẽ cảm nhận nơi thơ Lâm Hảo Dũng dù có trải qua bao năm tháng dài bao lâu đi chăng nữa và tuổi đời dù có không được “ở hoài tuổi năm mươi” đi nữa, thơ anh vẫn thênh thang một trời quê nhà yêu dấu ấy :

“Em có mắt của một đời xa xứ
Thương hàng cau ngan ngát mấy chân vườn
Thương chết được nhưng bao giờ thấy lại
Bóng hình tôi về ngủ giữa hồn em
Tiếng chim hót sao nghe buồn qúa đổi
Bởi ngày qua nắng tắt sợi thu vàng
Em hãy cắn giùm tôi vài qủa ổi
Chùm mận tươi khi gío chuyển mùa sang
Tôi vẫn biết em buồn bên mái lá
Hỏi giòng sông đưa nước đến bao giờ?
Sông xa nguồn chắc sông sầu muốn khóc
Nhớ đầu doi cuối vịnh mái chèo khua
Đâu chỗ vá trên áo người cô phụ
Một thời xưa duyên dáng cuốn qua rồi
Nghe đứt ruột tưởng chừng trong đáy cốc”
(Tôi vẫn biết em buồn bên mái lá)

Tóm lại, theo thiển ý của tôi, cho dù có phải trải qua những mùa chinh chiến cũ, cho dù có phải lang bạt kỳ hồ ở bất cứ gốc biển chân trời nào, hồn thơ của Lâm Hảo Dũng chính là ngọn gió nồm nam vùng Bố Thảo (Sốc Trăng) mãi hoài mang hương đồng cỏ nội vùng sông nước Hậu Giang thổi mãi tận cuối trời … Chính vì thơ anh là ngọn gió nồm nam vùng Bố Thảo ấy nên cái nét đặc sắc của nó là mát và ngọt. Cái mát của gió và cái ngọt của sông nước Hậu Giang, của những mảnh vườn ngào ngạt hương hoa, của những cánh đồng lúa vàng bông trĩu ngọn làm thành những câu thơ chuyên chở được cái hương nội cỏ đồng dù quê mùa đó nhưng êm đềm; dù nghèo khó đó mà thơm tho, thanh bạch; dù giản dị đó mà thâm thuý vô cùng. Cái nét đặc thù ở thơ Lâm Hảo Dũng là do cái tinh chất của gió, của nước, của ruộng rẫy, của vườn quê làm nên những câu thơ mang phong cách rất riêng và rất trữ tình của vùng châu thổ miền Tây Nam nước Việt vậy !

Phụ chú:
(1) “Trần Phong Giao và những người viết trẻ” của Trần Hoài Thư, trên mục “Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn Hữu” trang VOA, ngày 03-11-2010
(2)Bài “Giới thiệu thơ Lâm Hảo Dũng” của Nguyễn Mạnh Trinh, trang báo Người Việt Boston, ngày 28-2-2009

Lá Thư Văn Nghệ
Gởi Nhà Thơ Cái Trọng Ty

Mến chào anh Cái Trọng Ty,
Dù cùng nơi cư ngụ với anh ở Houston cách nay cũng vài ba năm, dù cùng có dịp cụng ly với anh vài ly rượu ấm hôm nào, dù cùng ngồi nhiều buổi cà phê Nguyễn Ngọ với anh trong những dịp cuối tuần, nhưng tôi chưa lần nào nghe anh kể về những bài thơ anh viết, những gian truân trong mỗi bước chân đời, những trăn trở về những thời khốn khó mà anh đã có những ngày phải để hết tâm tư mình cố vượt qua nó! Anh thì điềm đạm, khiêm nhường, thích lắng nghe với nụ cười hiền, ít nói, càng làm cho người quen biết quanh anh càng khó nhận ra ở anh có một đời sống tâm hồn vô cùng phong phú qua gần năm mươi bài thơ mà tôi vừa tình cờ đọc được qua một trang nhà…

Thật thế, thưa anh. Với tuổi trẻ, anh đã có một thời khoác chiến y với súng trên vai đi vào miền gió cát bụi mù… Và những ngày tuổi đôi mươi ấy có lần anh đã ghi lại vào một buổi chiều trên bải biển Tuy Hòa (Phú Yên) với “cuộc rượu bốn người”:

“năm ấy ra trường về phố biển
trời Tuy Hòa màu áo trận buồn hiu
bờ cát vắng dấu giày saut sóng xóa
quán bên đường nhìn xuống biển mù khơi”

(Cuộc rượu tay tư)(*)

Thế rồi, theo dấu binh lửa, ba người bạn của anh từ chiến trường Kontum xuôi về miền duyên hải cùng vui trong “cuộc rượu” ấy nay đã tản lạc hết rồi, để anh ngậm ngùi ngồi ghi lại cái bi thảm của một thời chinh chiến cũ:

“soi mình một bóng trên đồi đá
ngọn nến võ vàng áo trận phai
màu nắng chiều vàng màu thuở đó
quán nhậu ngày mưa tìm ở đâu
ta về như nắng về xa lạ
thấy cả chiều xưa cuộc rượu tàn.”

(Cuộc rượu tay tư)

Rồi đời lính chiến ấy như mãi hoài làm anh nhớ lại những buổi di hành, những chiều dừng quân, những lúc hiểm nguy, những lần thoát chết trong đường tơ kẻ tóc… Nỗi nhớ ấy mang trong anh biết bao địa danh trải dài suốt dãy đất miền Trung khô cằn qua từng nhịp thở của một người lính trẻ… Hết làng ven biển Lương Sơn với hàng dừa vi vu trong gió chiều của Nha Trang ngày nào rồi quay về Phan Rí Cửa, Tuy Phong của Phan Thiết với gạo trắng hạt dài ngon cơm ngày mùa mới gặt; rồi lại ngược lên Sông Pha bên này chân đèo Ngoạn Mục với núi rừng cao nguyên chớn chở, nhìn về phía bên kia đèo cao vòi vọi, khách lữ hành nhìn thấy quận lỵ Đơn Dương của Đà Lạt nằm ẩn mình dưới chân đèo bao bọc bởi gió thông reo; và anh lại phải trở xuống miền xuôi để xuôi về Nam qua Mường Mán (Phan Thiết) vào những ngày binh lửa sắp tàn với sân ga một thời hiu hắt…

“Lương Sơn xa lắc đồi rỉ máu
ta ngựa cuồng quay quắt chiến trường xưa
đồng đội cũ đâu lưng từ nổi chết
suy gẫm đời chung thân thế phiêu du”

(…)

“rừng âm u còn vọng tiếng quân đi
khuya Mường Mán
đường qua Ga hiu hắt
đơn vị tàn
sông núi cũng tàn theo…”

(Tháng tư bẻ súng)

Thế nhưng người lính chiến ấy với tâm hồn lãng mạn của một thi sĩ anh không quên ghi lại những mối tình qua mỗi chặng dừng quân trên đường ra trận:

“quê em tận đồng sâu heo hút
lúa ngoài đồng lép hạt gió Lào khô
buổi sáng di quân quay quắt em nhìn
sau tay áo có lệ nhòa giấu kín
trong bụi mù tôi thấy bóng em trôi…”

(Tình em rau đắng)(*)

Và rồi, với những niềm riêng thổn thức trong lòng khi cảnh vật chung quanh tiêu điều, hoang phế làm anh chợt nhớ lại quê mình:

“đời rong ruổi rừng thâm u muỗi vắt
chút nước sình gạn lọc nấu nồi canh
những gói cơm khô nhai hoài nhạt thếch
thèm bát canh chua. mẹ nấu chiều xưa

tình tôi một cánh chim trôi dạt
đáy ba lô mệt nhọc những âu lo
chân bước xuống thuyền lính thú lên ngàn
nghe vượn hú nhớ vườn quê da diết

giữa đêm trăng non bãi gò hoang dã
lửa ma trơi nhòe nhoẹt gió đồng không
ngày lưới đạn đêm trói mù hỏa pháo
biết bao giờ em hỡi chút tình quê.”

(Tình em rau đắng)

Nhớ quê, nhớ Mẹ, và rồi người lính Cái Trọng Ty ấy lại nhớ bạn, nhớ đồng đội một thời nay đã ra người thiên cổ từ độ nào:

“đầm hoang chạy mãi về phương bắc
đơn vị hành quân trục lộ Tuy An
chi khu cằn cỏi kề núi đá
thôn xóm đìu hiu đất triệt người
đường vắng chiều lên dốc Đại Hàn
trường sơn xa hút ngày sắp hết
nương rẫy nhà ai khói thở ra

đất sầu lạnh lẽo mờ hốc đá
quanh quẩn đồng chiều địch bắn nheo”
…..

“ngày đó đơn vị về Củng Sơn
Củng Sơn khí độc da xanh mét
bốn hướng trời tru
đất diệt người
bên kia Trường Sơn cọp gầm rú
chàng bơ vơ giữa núi rừng già
một tối qua đèo địch phục kích
xác nằm phơi suối độc sông sâu
chàng không về lại Nha Trang cũ
biển chiều nay đỏ quạch máu người
mẹ già xa như khói trà hôm sớm
con của mẹ vùi thây nơi xó rừng…”

(Qua đầm Thị Nại)
[*Tưởng niệm Trung Úy Phước.Bạn tôi]

Thưa anh,

Theo dấu chân anh, tôi cũng nhận ra trong từng địa danh anh dừng lại dường như nơi nào anh cũng để lại chút tương tư. Chẳng hạn như anh về Sông Mao, Chợ Lầu, Phan Rí thuộc vùng Phan Thiết, anh cũng có “những đêm trăng hoang dại” để thấy đời “bạc bẽo” mà nhớ hoài, nhớ mãi tới tận bây giờ…

“về sông mao
về chợ lầu phan rí
phòng tuyến dài từ dạo ấy sang xuân
sân ga vắng phố chàm trăng hoang dại
tháp hời khuya chìm vô vọng trăm năm
đồi sương đọng dấu giày mờ cỏ lát
trảng lưa thưa mưa xóa bãi mìn chông”
….

“đêm hôm ấy trăng khuya đồi bát ngát
tôi theo trăng về muộn trước sân ga
nghe xa vắng còi tàu qua phố chợ
thân xác bọt bèo sống chết như chơi
dòng sông đục nước trôi mù mịt sóng
cuồn cuộn tai ương
đời bạc bẽo vô cùng

(Đêm trăng hoang dại)

Trong những ngày lang bạt theo những dấu chân di hành qua khắp các vùng đất khô cằn ấy, người lính-làm thơ ấy ngồi nghĩ lại phận mình cùng thân phận tuổi trẻ của những người cùng thế hệ anh mà đành buông tiếng thở dài “thiên địa bất nhân”, một lời trách mà cũng là một lời ta than đất trời, với tôi, nghĩ cho cùng lời than trách ấy không lấy gì làm quá đáng:

“dòng sinh tử dường như đùn ải bắc
cõi nhân quần chuyển động bến lao xao
tôi bơ vơ buổi chiều vàng chướng khí
trên vách đời mờ tỏ dấu chân em
lòng thấm lạnh tôi quay về ấp ủ
đêm vỗ về từ cội rễ tâm linh

sao ngơ ngác khi đất trời chuyển dịch
cấy tinh trùng thai nghén cuộc nhân sinh
chí cùn sức kiệt dài mơ ước
bão tố vần xoay thiên địa bất nhân…”

(Thiên địa bất nhân)

Qua những lời trách móc vừa qua, hình như anhmuốn nhìn lại mình thêm một lần để cạn tỏ những suy tư về mình, về tha nhân, về thân phận con người chẳng khác nào một chu kỳ giữa đến và đi qua những làn sóng nhấp nhô vổ vào chân cầu chơi vơi giữa dòng nước mùa nào cũng chảy xiết:

“như một lần tôi qua cầu độ nhật
dưới sông sâu nước chảy luân hồi
chỉ thấy tôi trôi
cùng mây về với biển…”
….
“sóng nước vô hồi
chẳng thấy biển về đâu
khúc dạo đầu bên kia cầu phổ độ
mưa hạc vàng thẩm thấu những đời xa…”

(Sóng nước luân hồi)

Với dòng nước trôi ngang qua cầu “phổ độ” không hề ngừng lại ấy, anh cũng phải nhận ra rằng sau những mùa chinh chiến tàn dường như cũng đồng nghĩa với những ngày tháng dài dằng dặc phải qua những trại tù Trà Bương, Xuân Phước không hẹn ngày về:

“tuyệt đường Kỳ Lộ lưu đày
kiếp tù thay vật kéo cày vỡ hoang
dấu chân mộ huyệt rũ tàn
xó rừng Xuân Phước gian nan nẽo về

xương tàn bóng ngã dài lê
vàng mai hú vọng Em về đêm mưa
vườn Uyên phương ấy mùa xưa
nhớ người u ám nắng vừa khuất mây

tù qua đây đất loay hoay
nghe trong lao nhục lưỡi cày khổ đau…”

(Bên dòng Trà Bương)
Thế nhưng, trớ trêu thay, khi người lính được trở lại nhà thì anh cũng phải chứng kiến bao cảnh đời đổ nát của những người chung quanh trong đó có bạn bè mình mà nghe như “khúc tù ca” còn âm ỉ mãi mãi trong lòng:

“ra khỏi trại tù ngỡ ngàng hụt hẫng
quê hương lầm than đoạn đời cơ khổ
gặp lại mày một thời thân aó khố
những ân tình cũ thoáng bơ vơ…”

(Khúc tù ca)

Rồi nào là cha đau bại liệt, nào là vợ con nheo nhóc, rồi nào là một hôm người vợ lính ấy lại bỏ quê chồng về lại quê mình, Phan Thiết, thật chia cắt đoạn trường. Đứt ruột kẻ ở đã đành mà còn đau lòng người đi nữa! Quả thật hậu quả của chiến tranh thật bi thảm biết dường nào! Nhà thơ Cái Trọng Ty là người cùng quê với anh bạn một thời gốc Huế ởcố đô, anh thay bạn diễn tả lại nỗi lòng kẻ phải xa lìa vợ con giữa những ngày cam khổ ấy:

“Huế nắng Huế mưa nặng tình da diết
mày cô đơn chăn chiếu rộng một mình
bữa đói bữa no từng bữa mong manh
cha mẹ qua đời quê nhà tách biệt…”

(Khúc tù ca)

Thưa anh,

Qua những ngày chinh chiến, qua những năm tháng tù đày nhưng dường như với người lính làm thơ như anh không phải không có“một thời để nhớ”,phải không anh? Một thời để nhớ ấy của anh thấp thoáng qua những vần thơ của anh mà tôi vừa bắt gặp, nếu không lầm, có lẽ đó là:

“anh thoáng thấy môi em tròn buông xả
nơi nụ cười vô ngại
rót từ tâm…”
…..

“ngôn ngữ nào chuyên chở nụ hoa lành
tình cứ thế bềnh bồng thơm hạnh phúc

khi có em
ghé thăm ngày tháng mới
chốn không gian đi ngược với thời gian
những ước ao len lén chợt nồng nàn”
….

“đêm có muộn
trăng trôi hoài ra biển
mà ngày mai chỉ tội nhớ nhau thôi
mối tình đó lặng câm thăng hóa
ấp ủ kín bưng thuyền ngược sóng đời

phố phù hoa
đoá phong lan xa quá
cánh tay ngà mơ mộng gối đêm mưa
em đi qua đời anh tình khách lạ
đêm thu mình ôm kín mảnh tình riêng”

(Chỉ là mây sao)

Với“Chỉ là mây sao”vừa kể hay chỉ là mộng tưởng trong mối “tình vọng tưởng” sau đây của anh chắc cũng là những kỷ niệm một thời đáng nhớ ấy nữa của riêng anh?

“tình u mê làm loài chim bói cá
sóng đong đưa nghìn dặm kiếm tìm em

tình vọng tưởng chỉ là Hương nguyệt mật
dẫu hân hoan chỉ là chốn riêng mình
nơi eo gió hạnh phúc tròn túi mật
nơi cội nguồn cách biệt.móng tăm xa…”

(Tình vọng tưởng)

Rồi tôi lại bắt gặp ở anh một thời đáng nhớ nữa qua các vần thơ trong “Chuyến đò ba bến”, “Tháp hời trăng cổ lũy”, “Sợi nắng”, “ Màu thời gian”, “Bèo chơ vơ tiếng sóng”, “Có một mùa trăng xa như biển”, “ Thư tình trên cát” vân… vân… Mỗi mỗi câu thơ qua những bài thơ ấy đều chuyên chở những kỷ niệm một thời, dĩ nhiên trong những niềm nhớ tưởng ấy có nỗi buồn man mác như gió chiều nhẹ thổi qua vườn nhà cũ mà nghe ra xao xuyến biết dường nào!!! Nhưng bài thơ “Mẹ”mà tôi được đọc có lẽ là niềm thương nhớ trong anh vô bờ bến bởi lẽ trên cõi đời này không ai chiếm trọn trái tim mình bằng người sanh ra và nuôi nấng dưỡng dục mình từ lúc mới lọt lòng mẹ cho chí đến những ngày khôn lớn… Người con có hiếu ấy lại có một tâm hồn nghệ sĩ nữa thì tình thương mẹ tăng lên gấp bội phần qua những vần thơ chan chứa biết bao tình mẫu tử:

“đêm ấy giữa mịt mù sóng biển
con đã xuống thuyền
sinh tử đỏ đen
ngoãnh lại bờ xa
thấy lờ mờ phố nhỏ
Mẹ vẫn đứng ngồi dưới ngọn đèn khuya
thắp một nén nhang
trước bàn thờ Tiên Tổ
nguyện cầu cho con sóng nước bình yên…”
(…)

“đêm nay mưa ướt trong hơi thở
đêm đoạn đành
con phải vượt biên
thuyền đã biển khơi
giữa hai lằn ranh giới
con chỉ muốn quay về hơi ấm Mẹ thôi
nhớ thương mà quay quắt trong lòng
đời Mẹ ngày một héo hon
nỗi mất còn ngày một ngọn gió thu
thăm thẳm trong tim
ngọt ngào tiếng Mẹ
một đời con
con ve sầu chưa lột xác
nhặt nhạnh thu gom
những quá khứ hao mòn
tóc Mẹ ưu phiền thêm bạc trắng ra
như cánh buồm giạt gió mưa nhòa.”

(Mẹ)

Thưa anh,

Qua gần năm mươi bài thơ của anh mà tôi vừa đọc được, theo thiển ý của tôi, có thể đúc kết lại thành một chuỗi thời gian dài tạo thành một dòng sống liền mạch trong tâm hồn anh qua“những ngày lính chiến- những lúc tù đày và một thời để nhớ” với những bài thơ đa phần làm theo thể tự do mà như dòng nước từ trong núi thẳm của cõi lòng anh với chút lãng mạn của người nghệ sĩ nócứ rì rào tuôn chảy mãi hoài bất tận vậy! Dường như ở đó, thơ anh là tiếng nói của lòng anh đã đành mà nó còn cưu mang nỗi niềm của những người lính trẻ một thời với thế hệ của anh giữa những ngày mùa chinh chiến cũ nữa!

Như phần đầu lá thư tôi có nhận xét:“Anh thì điềm đạm, khiêm nhường, thích lắng nghe với nụ cười hiền, ít nói…” và có lẽ chính vì cái nét ít nói rất dễ mến ấy khi tôi tình cờ đọc được những suy tư của anh về chiến tranh, về cuộc đời, về những kỷ niệm một thời đáng nhớ với những trăn trở của người lính trẻ ngày nào cùng cách nhìn đời của một người già dặn của anh hôm nay càng làm cho tôi càng thêm thích thú biết bao!

Hôm nay qua rồi gần bốn mươi năm cuộc chiến đã tàn mà chừng như nỗi niềm người lính-làm thơ Cái Trọng Ty vẫn man-thiên nỗi nhớ thuở nào! Phải thế không, anh Cái Trọng Ty?

Mến chúc anh cùng gia đình luôn luôn bình an và hạnh phúc mãi mãi…
Thân mến,

Lương Thư Trung

Luân Hoán

Luan Hoan

Buồn Đầy
Mặt Trăng Tháng Tư

hôm nay mười bốn trời trong
đêm Montréal rộng thong dong mây nằm
trời xa mà ngó thật gần
ngỡ như tay vói đụng trần trời cao

tôi ngồi lặng lẽ đếm sao
nụ mờ nụ sáng đều thao thức buồn
nỗi buồn nhè nhẹ dễ thương
lẫn vào trong gió bay luồn đến tôi

từ ngày chưa được thôi nôi
tôi đã quen biết sao trời, vầng trăng
lên năm mẹ dạy hiểu rằng
có mặt chú Cuội chị Hằng ở trên

nhiều năm sau đêm đêm
tôi nằm mơ sẽ được lên trăng vàng
và thấy cây đa rõ ràng
chị Hằng chú Cuội lang thang đâu rồi ?

mẹ tôi dạy: muốn lên trời
ông Lê Thương bảo mượn đời cái thang
tôi chăm chỉ sống đàng hoàng
vui buồn sướng khổ thời gian đã giàu

cái-thang-đời, đâu có đâu
vậy mà tôi đã từ lâu nay trèo
lúc chầm chậm khi vèo vèo
tôi qua từng chặng giàu nghèo thế gian

không cách chi chạm trăng vàng
để rồi một bữa giận nàng Hằng Nga
đêm ấy trời đẹp lắm mà
chị Hằng tuột xuống nóc nhà chúng tôi

mươi giây sau chợt rụng rời
chị Hằng đón mẹ lên trời hồi mô
mẹ đi bỏ nụ ca dao
còn đang mớm dở tình vào hồn tôi

tình thương của mẹ chưa vơi
người chưa truyền hết nỡ rời chúng con
nhìn trăng đêm ấy bồn chồn
tháng tư đúng giữa ngày rằm Đản sinh

Phật hiền cũng chỉ làm thinh
nhìn tôi im lặng đứng bên giường người
hình như Phật còn mỉm cười
tòa sen đang đỡ Ngài ngồi sáng ra

tôi đã không dám khóc òa
cũng không lau giọt lệ sa xuống cằm
hiểu ra đời của thế nhân
mỗi người chừng mực chia phần đã lâu

lần đầu được hiểu niềm đau
lạc người yêu dấu rộng sâu thế nào
không bám thơ thẩn ca dao
lựng chựng đứng dậy đi vào nhà trong

ngâm ngấm buồn khắc vào lòng:
lạc thôi, không mất, mươi năm là cùng
mẹ đang ở trên không trung
tôi sẽ lên gặp khi cùng cuộc tôi

đúng năm mươi ba (53) năm rồi
con sẽ gặp mẹ mấy hồi mẹ ơi !
trăng rằm không sáng hết trời
chỉ lòng tôi giữ sáng ngời ánh trăng

hình như trăng mượn ánh đèn
trên bàn thờ mẹ cằn nhằn chi tôi:
-con hư không giữ được người
lành lặn nguyên vẹn như hồi mẹ sinh!

không gió, lửa nến lung linh
bất giác nước mắt vô tình chảy ra
mở cửa tôi rời khỏi nhà
vợ tôi đang cúng bà gia chưa từng…

chạy hoài không có chỗ dừng
tôi quay về đứng sau lưng vợ hiền
tủ thờ thiếu đủ gia tiên
cười thầm thằng bé điên điên thế nào

tôi đâu hiểu tôi ra sao

Chiêm Bao
Giữa Siêu Thị

vào shop lười biếng tháp tùng
vợ hiền dắt cháu truy lùng đồ “vente”
tạm thời làm Hồng Thất Công
“cầm gậy đánh chó” nhìn mông thả giàn

ngỡ vừa gia nhập Cái Bang
lim dim mắt đục mơ màng linh tinh
đang mang trọng trách trong mình
cứu hiền diệt ác an bình thế gian

giữa chợ mơ gặp cây đàn
ngửa mũ gảy khúc tình tang lượm tiền
người người qua lại liên miên
bình tỉnh tự tại an nhiên dạo tình

không để ý các em xinh
xúm quanh im lặng hoan nghinh nhân tài
chơi qua chừng năm bảy bài
ngừng tay ngó đám chân dài im ru

“thị tại môn tiền náo” ư ?
không “nguyệt lai” cũng hồ như đã “nhàn”
trong ta tâm tịnh bình an
chợ đông vẫn thấy nhẹ nhàng lặng yên

vài phút nhắm mắt lim dim
giống y điệu bộ em thiền êm ru
ở Carrefour Anjou
mà ta cảm nhận đang tu trong chùa

thấy gì vợ cũng ham mua
ví tiền mỏng mảnh chào thua quay về
đúng lúc ta rời cơn mê
cùng nhau ghé quán no nê bù trừ

ngày cuối tuần qua cái vù !

Vùng Thanh Thoát

một bữa nọ tình cờ tinh nghịch đặt
bàn tay che vừa kín cửa thiên đường
thân phát sốt theo động tiên vun mãi
trời không mưa mà tay ngấm mật hương

sự mầu nhiệm vẫn từng giây biến hoá
từ u mê bỗng linh hoạt khác thường
rồi từ đó mỗi ngày tôi mỗi đặt
bàn tay lên cõi sống văn chương

nhận rất rõ mình trưởng thành từng phút
qua khe hoa mướt ngọt tình sương
đời ghen tức lắm lần ngăn tay đặt
nên đôi khi tâm thức thiếu bình thường

em, nghiệp chủ kho tàng vô giá đó
riêng mà chung nhờ đồng dạng môi trường
cùng thanh thoát mở lòng cho tay đặt
nên thơ thơm từ thềm cửa thiên đường

cảm ơn lắm ngọn đồi linh hiển mộng
chúm chím cười chờ phân phát yêu thương
đã quì gối bao lần không đếm nổi
và còn hơi nguyện tiếp tục cúng dường

em nghiệp chủ, nằm nghiêng hay nằm ngửa
đứng hay ngồi không sai biệt nguồn hương
điều kỳ diệu của từng lần tay đặt
đều ban cho những khác biệt lạ thường

tôi đã lớn đã khôn từng bữa một
vẫn nức lòng chờ đợi lớn khôn thêm

Yêu Và Thất Tình

đâu có yêu ai để thất tình
chỉ toàn thinh thích những em xinh
sóng là của biển vô cùng tận
chưa tiến thêm lên đã quay mình

cứ thế mà giàu những ước mơ
nhiều khi còn bạo phổi làm thơ
em Y, em X, em J … nữa
thật giả thành ra khá mơ hồ

cho dẫu rằng yêu hay là không
thất tình cao lắm cũng vài năm
trái tim không hạn bao nhiêu chỗ
nhưng dễ dầu chi em mãi nằm

thơ thẩn nhiều khi chỉ vẽ trò
mười thằng thi sĩ chín ngài cho
nhớ thương bành trướng theo con chữ
một gã dường như giỏi giả đò

em cứ tha hồ hãnh diện đi
trăm năm còn mãi nét xuân thì
từ trong máu thịt người thi sĩ
lắng đọng thơm tình ngọn tuyệt thi

thơ mới cũ gì cũng có em
dẫu “tân hình thức” cũng xêm xêm
mắt môi mông ngực linh tinh nữa
những thứ tình yêu vốn rất thèm

tôi bảo chưa yêu, em có tin ?
ghê chưa, tôi quá đỗi hợm mình
nhưng thôi, tha thứ em yêu nhé
em có tôi và tôi có em

Chợt Thấy Nụ Tình Xưa

tưởng rằng lòng rất bình an
hóa ra có chút bàng hoàng, bâng khuâng
nghìn trùng xa chợt hoá gần
như hơi thở chạm tay chân ngày nào

vẫn còn đây cái hàng rào
nằm trong hẻm nhỏ mở vào lòng ta
lẫy hờn tưởng chỉ thoảng qua
sao trong đuôi mắt mở ra ngàn trùng

vẫn còn nguyên nỗi ngại ngùng
buổi chiều gót biếc ghé chùng tiếng thơ
những con cá nhỏ trong hồ
thong dong hay chỉ giả vờ lắng nghe

cái gì như chút sắt se
ngày xa xưa ấy thoáng đè nội tâm
mảnh dằm yên ngủ bao năm
chợt ngo ngoe thở, hương trầm xót xa

hoá ra là vậy, hoá ra
nụ tình khác với nụ hoa rất nhiều

Tình Cho
Một Nửa Của Nhau
* Nhân ngày tình nhân 2008

chỉ vừa tròn bốn mươi năm
“người dưng khác họ” ăn nằm với nhau
nắng mưa dụ tóc thay màu
ta chưa dám phỉnh em sầu chia đôi

tình trồng nở đỏ cánh môi
câu thơ ăn cắp của đời nở hoa
ngấm từng cái véo thiết tha
ghiền từng cái ngắt mặn mà yêu thương

trải trăng vừa kín góc vườn
xuân phong nhất độ chung giường thủy chung
nguồn tình bất tận xổ tung
kể từ nồi đậy khíp vung vơi đầy

hú hồn, thuở ấy… hôm nay
chắc ta đã phải đưa tay vào còng
cảm ơn chiều tặng cơn dông
giọt mưa tiếp tục trổ bông đến giờ

Hương Thu

mùa thu không đến tình cờ
lòng như vẫn gặp bất ngờ lạ chưa
bắt đầu từ một cơn mưa ?
bắt đầu từ ngọn gió đưa hững hờ ?

tôi đâu nhớ chắc hôm nào
mùa thu đã bước chân vào phố tôi
sáng ra mở cửa ngẩn người
một chiếc lá rụng bùi ngùi bay qua

ngó lên cành trước hiên nhà
vàng phai chín đỏ nằm dài bên nhau
thế là mùa thu bắt đầu
thời gian xê dịch theo màu lá cây

nước trời chứa sẵn trên mây
hình như sắp sửa thả bay xuống trần
gói vội một chút bâng khuâng
ra xe xuống phố ngắm dung nhan người

lạnh chưa hỡi những em tôi
váy còn hở cả cánh đùi trắng thơm
giày còn bày ngón chân thon
màu sơn móng tợ môi son đậm đà

tôi cho xe chạy lướt qua
mùi hương thánh nữ hay là hương thu
hương gì cũng chẳng của tôi
của trời đất với của người đang yêu

thu dang tay rộng thêm nhiều
và tôi chợt thấy mình yêu đất trời
yêu em điều hẳn nhiên rồi
trái tim mới rợi như hồi mười lăm

Hương Bài Thơ Cũ

bốn mốt năm xa chợt sáng nay
hương bài thơ cũ gợn chân mày
tiếng vàng thỏ thẻ reo hồn nhạc
đánh thức tình vui mở cánh bay

đứng lại trên hè ngã tư xưa
một thời chờ đợi run tay đưa
đôi câu viết vội trên bao thuốc
tim đập liên hồi quên gởi thưa

kịp nhớ bàn tay rất thẹn thùng
giấu ngay vào vạt áo rung rung
quay mình thả bước nhanh theo bạn
nhưng gót chừng như vướng nhớ nhung

em khuất dần trong đám bạn bè
ta vào trở lại quán cà phê
trái tim rộn rã chưa kịp tĩnh
và suốt cả ngày như vẫn mê

ta vậy, còn em… đến bây giờ
mới hay em vẫn đợi chờ thơ
những hôm qua ngã tư quen ấy
ta vắng, em buồn lo ngẩn ngơ

tội nghiệp cho em đã hết lòng
vì thơ, đã vội vã qua sông
mang theo tất cả bao câu chữ
truy niệm cuộc tình chẳng trổ bông

cảm tạ tình em nuôi dưỡng thơ
ươm thơm thương nhớ đến bây giờ
cũng may thơ chính là em đấy
ta với em là… cũng chính thơ

vốn hiểu lòng nhau đã quá lâu
từ hôm mắt chạm mắt lần đầu
bài thơ không chở nguồn ngôn ngữ
chỉ đựng tình yêu trao gởi nhau

vẫn nhớ đêm trong cánh võng xanh
đêm trên nền phản ván yên lành
mắt tình quấn quít tay không chạm
hạnh phúc reo theo gió lướt mành

sẽ nhắc nhiều hơn kể nhiều hơn
cửa đông mãi ngát những hương thơm
hương bài thơ cũ chưa hề cũ
vẫn mới tinh khôi ở trong lòng

Vùng Thanh Thoát

một bữa nọ tình cờ tinh nghịch đặt
bàn tay che vừa kín cửa thiên đường
thân phát sốt theo động tiên vun mãi
trời không mưa mà tay ngấm mật hương

sự mầu nhiệm vẫn từng giây biến hoá
từ u mê bỗng linh hoạt khác thường
rồi từ đó mỗi ngày tôi mỗi đặt
bàn tay lên cõi sống văn chương

nhận rất rõ mình trưởng thành từng phút
qua khe hoa mướt ngọt tình sương
đời ghen tức lắm lần ngăn tay đặt
nên đôi khi tâm thức thiếu bình thường

em, nghiệp chủ kho tàng vô giá đó
riêng mà chung nhờ đồng dạng môi trường
cùng thanh thoát mở lòng cho tay đặt
nên thơ thơm từ thềm cửa thiên đường

cảm ơn lắm ngọn đồi linh hiển mộng
chúm chím cười chờ phân phát yêu thương
đã quì gối bao lần không đếm nổi
và còn hơi nguyện tiếp tục cúng dường

em nghiệp chủ, nằm nghiêng hay nằm ngửa
đứng hay ngồi không sai biệt nguồn hương
điều kỳ diệu của từng lần tay đặt
đều ban cho những khác biệt lạ thường

tôi đã lớn đã khôn từng bữa một
vẫn nức lòng chờ đợi lớn khôn thêm

Gởi Thiếu Khanh

sáng mùng một nhận lì xì
từ anh bạn gởi qua vi tính rằng:
chúc anh chị vui vẻ ăn
một cái tết ấm tuần trăng mật tình
riêng chị tiếp tục xinh xinh
để anh bút mãi rung rinh chữ vàng

vân vân và rất tàng tàng
gói lì xì nặng vô vàn tình thân

thật ra, xin được phân trần
bạn tôi viết rất bình dân gọn gàng:

… dồi dào sức khỏe, bình an,
hạnh phúc
và chấm xuống hàng
ký tên

bút danh vừa cứng vừa mềm
dương âm bằng trắc đi kèm đủ đôi
Thiếu Khanh chững chạc chịu chơi
thơ văn đã có một đời sống riêng

cho xin lỗi nghe, bạn hiền
ba hoa là thú tôi ghiền, trời cho
níu lời chúc bạn khai thơ
vừa chạy vừa viết nửa giờ lái xe

đưa cháu đến trường rồi về
xuất hành khai bút cặp kè đã xong
năm nay con ngựa phiêu bồng
chúc tôi cùng bạn vẫn thong dong hoài

cho thòng thêm:
thăm những ai
má hồng có ý lai rai với tình

chúng tôi rủng rỉnh thơ tình
muốn mừng tuổi gởi bọn mình nụ hôn !

Luân Hoán

Lữ Quỳnh

Lữ Quỳnh-001

Nơi Nghìn Trùng Con Gió Bay

Trịnh Công Sơn mất ngày 1-4-2001. Như thế anh bước qua thế kỷ 21 được tròn ba tháng. Vượt qua năm 2000 và bước vào thế kỷ 21 là niềm vui của anh. Chỉ tiếc rằng thế kỷ này không được vinh dự giữ chân anh lâu, không còn hân hạnh ghi dấu những ca khúc mới của Trịnh Công Sơn nữa.

Năm 2000 trở thành cái mốc thời gian khắc nghiệt với Sơn từ nhiều năm trước. Nhìn quanh nhau tuổi đời đã xế, sức khỏe đã mòn, dù có thách đố thời gian đến đâu bằng sự sáng tạo miệt mài, yêu thương cuồng nhiệt, cố kéo dài ngày ra đến 1 – 2 giờ sáng hôm sau để tham lam nhìn ngắm cuộc đời, cỏ cây trời đất, thì cũng chẳng làm thay đổi được gì cái khoảnh khắc 365 ngày ấy. Rất nhiều lần đi chơi với nhau, Sơn luôn nói: Tụi mình phải vượt qua năm 2000, chỉ còn mấy năm nữa thôi.

Chỉ có mấy năm nữa thôi, thời gian tưởng chừng quá ngắn ngủi ấy, thế mà Sơn đã bị rơi rụng quá nhiều bạn bè. Ở Hội Âm nhạc Sài Gòn, nơi anh thường lui tới làm việc mỗi ngày, các nhạc sĩ Xuân Hồng, Diệp Minh Tuyền, Ngô Huỳnh, Phạm Trọng Cầu đã lần lượt ra đi. Trước đó, năm 1995, anh Văn Cao ở Hà Nội, và gần đây Thái Bá Vân, Hoàng Thiệu Khang, Định Giang… Nhìn lại quanh mình sao bạn bè vắng đi nhanh quá, Sơn bắt đầu bị ám ảnh nhiều về sự bấp bênh của đời sống. Những cái chết được gọi tên quá nhịp nhàng.

Một cú điện thoại nửa đêm: Quỳnh à, anh Văn Cao mất rồi. Hoặc: Xuống ngay đi, Mây vừa gọi vào, Thái Bá Vân… Hoàng Thiệu Khang kêu đau ngực, một mình lấy taxi vào bệnh viện Nguyễn Trãi buổi chiều, thì mới tối, điện thoại reo: Anh Khang đưa về nhà rồi, đêm nay liệm. Sao đời sống phù du thế. Mới ngồi quán với nhau tối qua mà. Khang khỏe mạnh, chưa một lần đi bác sĩ, dạy học suốt tuần không mỏi, ăn uống điều độ, luôn nói với Sơn bằng giọng giả Huế: Sơn lo sức khỏe của Sơn đi. Còn moa thì đủ sức rồi, năm 2000 với thế kỷ 21 có nghĩa chi mô. Thế mà anh ra đi tức tưởi vào một buổi chiều tháng 8, chỉ còn 4 tháng nữa là tới năm 2000!

Sau mỗi cú phone nghiệt ngã như thế, bạn bè kéo đến bên Sơn. Và lần nào cũng thế, một chai Chivas mới được mở ra, rót một ly cho người vừa nằm xuống, một cây nhang được đốt lên, cắm vào cái chai nhỏ. Bạn bè lần lượt cụng ly với người vừa mất. Im lặng. Khói hương tỏa quanh bàn và những hồi ức làm mọi người cay mắt. Ngoài trời đêm dày đặc. Gió rúc vào vòm hoa giấy cổ thụ trước nhà.

Một buổi sáng ngồi ở quán Văn Nghệ đường Trần Quốc Thảo, thấy nhạc sĩ Ngô Huỳnh đạp xe đi ngang, Sơn chỉ anh ấy và nói: Ngô Huỳnh bị gan nặng lắm, nghe không qua khỏi, hôm nào tụi mình ngồi với anh một bữa. Ngô Huỳnh tác giả bài Con Kênh Xanh Xanh. Và bữa rượu chưa kịp mời thì được tin anh mất.

Từ đó ra đường gặp một người vẫy tay, mình phải đưa tay chào vội. Làm được gì cho nhau thì chớ chần chừ. Vì đời sống nhiều bất trắc quá. Để không bao giờ ân hận bởi một sự lười biếng cỏn con, một vô tình không đáng có.

Trịnh Công Sơn trầm mình trong suy tư về cái cõi tạm của đời người. Ai cũng phải một lần chào vĩnh viễn nhân gian. Nhưng giã từ cách nào đây. Quỹ thời gian còn ít, nên phải liệu mà chi tiêu hợp lý. Từ đó những bài hát của anh là lời tỏ tình với cuộc sống, lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa cùng mặt đất mà anh đã một thời chia sẻ những buồn vui cùng mọi người. Trong bài Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng, anh nói lên lòng yêu tha thiết cuộc sống cùng nỗi tuyệt vọng khốn cùng của phận người: Tôi là ai mà còn khi dấu lệ. Tôi là ai mà còn trần gian thế. Tôi là ai, là ai, là ai… mà yêu quá đời này!

Ca khúc của anh gắn liền với cảm xúc máu thịt. Bằng tâm hồn rất nhạy cảm, anh ghi nhận từng rung động, để rồi dùng thứ ngôn từ phù thủy của mình viết ra. Em còn nhớ hay em đã quên, Chiều trên quê hương tôi, Huyền thoại mẹ, Xin trả nợ người, Hoa xuân ca, Con mắt còn lại, Bống bống ơi… là những ca khúc tôi từng được anh chia sẻ với.

H. trong Hoa xuân ca là tên người con gái Hà Nội xinh đẹp ở cạnh nhà Tôn Thất Văn, một họa sĩ nổi tiếng, nơi mà mỗi tuần bạn bè kéo về ăn uống vui vẻ. H. thường xưng hô với Sơn là Monsieur và em. Một buổi chiều tôi chở anh về nhà Văn trên chiếc P.C sơn màu vàng cam (mà Phạm Trọng Cầu gọi là màu nắng), anh đã dùng vỏ bao thuốc lá viết lên lưng tôi. Lúc xuống xe, anh chép lại lên giấy những dòng nhạc và nhẩm hát: Cây sẽ cho lộc và cây sẽ cho hoa… Tôi nói chắc anh đặt tên bài này là Hoa ca? Sơn nói không, mình đặt là Xuân ca.

Trong Hoa Xuân Ca
có hai câu hay và rất tượng hình:

Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ
Em suối kia rất ngọt và tôi đứng hai bờ.

Bài Con Mắt Còn Lại, anh lấy ý từ hai câu thơ của Bùi Giáng: Còn hai con mắt, khóc người một con. Hai lời đầu được viết trong buổi chiều uống rượu ở nhà Tôn Thất Văn, làng Báo chí. Anh em hát lui hát tới bài này rất vui. Lúc ra về, trời tối, rượu thấm, Sơn ngồi sau vỗ vai tôi: Quỳnh à, mình ghé chỗ Quế H. đi. Quế H. đang trọ ở nhà khách bộ Đại học ngay hồ Con Rùa. Tại đây, Sơn lấy Con Mắt Còn Lại ra, cười hát với nhau. Rồi cảm hứng thế nào anh viết luôn lời 3 tại chỗ. Lấy phone gọi hát cho bạn bè nghe lời mới giữa đêm khuya khoắt. Con Mắt Còn Lại để lại nhiều kỷ niệm rộn ràng nhất.

Trong cuộc nhân sinh thực hư mù ảo này, Trịnh Công Sơn đã vắt kiệt đời mình để sống. Lúc vui chơi giữa đời biết đâu nguồn cội, anh vẫn nghĩ đến cái hữu hạn của phận người và luôn linh cảm về sự chia lìa một ngày nào đó.

Trịnh Công Sơn đã bỏ lại bạn bè, người thân và hàng triệu khán-thính giả vô cùng yêu mến anh để ra đi vĩnh viễn. Trịnh Công Sơn đã giã từ cái trần gian cay cực lẫn huy hoàng mà anh yêu tha thiết này để về nơi Nghìn Trùng Con Gió Bay. Tôi mong rằng ở nơi ấy, vẫn có những sớm mai ửng hồng hay những hoàng hôn lao xao gió, vẫn có cái nắng lạ trên bức tường rêu của chốn quê nhà. Để anh không bao giờ thấy mình hiu quạnh.

Anh Sơn ơi, anh đã yên nghỉ, nhưng sao lòng bạn bè vẫn không nguôi, bởi tấm lòng anh còn đó. Hay bởi cuộc chia tay vội vã thiếu lời giã từ nhau?

Bao Nhiêu Năm,
Rồi Cũng Chỉ Là Khoảnh Khắc
* Gửi Phi Long và các bạn còn, mất một thời.

Lần nào về cũng thế, tôi dành ngày đầu tiên đến thăm anh. Và lần nào cũng thế, Xí ra mở cổng với câu chào cậu mới về, rồi trong lúc tôi thắp một cây hương cho anh, Xí pha xong tách cà phê đặt trên chiếc bàn nhỏ cạnh chỗ ngồi. Bàn thờ anh lúc nào cũng đầy hoa với vài chai rượu mà lúc sinh thời anh thường uống. Chiếc PC màu nắng không còn thấy ở cạnh, có lẽ nó được cất đi để mở rộng cửa thông ra phòng trước, vừa kê sẵn chiếc bàn dài với ghế để tiếp khách. Cũng gần tới sinh nhật của anh rồi.

Tôi ngồi nhìn chân dung anh, một trong số ảnh từng được cùng nhau xem để chọn in catalogue trong những lần triển lãm với Đinh Cường và các bạn. Bức ảnh hôm nay, sau gần mười một năm, thêm màu thời gian và khói hương trở nên buồn bã thế nào.
Cây hương tỏa khói, đang lụn dần.

Đêm cuối trước khi rời quê hương cách nay mười mấy năm, tôi đã không ngồi với anh. Đó là một đêm Sài Gòn mưa lớn, tôi với Tôn Thất Văn và bạn bè ngất ngưởng trong những tiệc rượu tiễn đưa, nối nhau từ quán này qua quán khác. Sáng hôm sau từ phi trường tôi áy náy gọi về chào anh, anh chúc tôi lên đường và tôi hẹn anh sẽ trở về sớm. Sài Gòn không còn mưa, nhưng bầu trời ở phi trường hôm đó thật ảm đạm.

Nợ anh một ly rượu giã từ, để mãi xót xa, khi nghe bạn bè kể lại, trong những lần gặp nhau, anh thường trách tôi, tại sao phải ra đi. Trách tôi không phải vì không có người đi lang thang với anh trong thành phố lúc bốn năm giờ sáng, nhìn những bếp lửa hồng của người lao động mở hàng sớm bên đường. Trách tôi không phải vì không biết gọi cho ai lúc nửa đêm để chỉ kể về một giấc mơ. Trách không phải từ nay không còn thỉnh thoảng ghé nhà uống rượu nghe cháu Hải chơi guitar classique. Cũng không phải ngồi với nhau trên sân thượng lúc bốn giờ sáng chờ ngày ửng hồng để ra quán miến gà đường Lê Thánh Tôn, không phải để ăn, mà để nhìn thành phố chuyển động trong đôi mắt nồng nàn của một thiếu phụ trẻ. Rồi đến studio của anh Đinh Cường.

Tôi biết anh trách tôi vì anh nghĩ rằng tôi sẽ không hạnh phúc ở xứ người. Tôi làm sao vui được khi thiếu bằng hữu chung quanh. Ở nơi đó tôi sẽ san sẻ với ai những niềm vui nỗi buồn. Tôi phải làm việc mỗi ngày nhiều hơn tám tiếng để tồn tại. Tôi sẽ không còn tiếng cười vui của những buổi trưa uống rượu vang, nghe Xu kể chuyện tiếu lâm ở tầng bảy Saigon Center. Từ nay trên đất khách làm sao tôi đón được giao thừa như ở Việt Nam. Nhớ những năm cũ, anh thường ghé tôi sau khi đón giao thừa ở nhà, ngồi uống với nhau ly rượu đầu năm lúc hai giờ sáng. Anh thường lên nhà với Tịnh. (Tịnh còn nhớ không một giao thừa năm 1986 (?), không nhớ âm lịch là năm gì, Tịnh lái xe đưa anh Sơn và Hà qua quận 8, lên nhà mình lúc bấy giờ ở tầng 2 chung cư Phạm Thế Hiển, mang theo chai Ararat hiếm hoi, uống với nhau một ly rồi về). Ôi cái thời nghèo khó mà ấm áp làm sao. Cúng giao thừa bằng một bình hoa cau rẻ tiền, mà xúm nhau khen là hoa trắng ngần quá đẹp. Chiếc bánh chưng mà cứ mỗi sáng ba mươi tết hằng năm, anh Đinh Cường trên chiếc mobylette đem cho. Các cháu giờ đây tuổi đã trên dưới bốn mươi vẫn nhớ các anh mỗi lần nhắc những kỷ niệm.

Mười một năm cũng chỉ là khoảnh khắc thôi. Đến một tuổi nào đó người ta sẽ nghĩ về thời gian như ngắm một mặt sông phẳng lặng, tưởng nó ngừng trôi mà thực ra đang âm thầm chảy. Ở một tuổi nào đó người ta sẽ lần lược mất đi những người bạn. Chỉ mất đi mà không có sự bù đắp. Một hôm anh Đinh Cường gửi cho tôi tấm ảnh chụp chung, trong đó hai người bạn thân thiết đã ra đi, với giòng chữ chỉ còn lại chừng này, thôi hãy giữ mình và sống như từng sống với nhau. Lời anh làm tôi bần thần mãi.

Mười một năm. Tấm ảnh anh được cắt ra từ bìa sau một cuốn sách, đặt khiêm tốn trên kệ sách phòng tôi. Một góc nhỏ dành cho anh. Không hương, không hoa. Chỉ có chiếc ly thủy tinh và chai Black Label, chập chờn ngày tháng cũ….

Một Ngày Mà Trăm Năm

Thức giấc với bình minh hoa hồng
tiếng sóng biển báo tin anh đến
lòng bao la hạnh phúc
em đếm từng bông hoa
không phải triệu đóa
mà nhiều vô cùng với em

ngày mở ra rực rỡ
rộn ràng nhịp tim
chờ anh đến
biển hôm nay xanh
những chú còng gió
đuổi nhau trên đồi cát
và em đuổi anh
trên tháng ngày cuồng điên nỗi nhớ
biển sẽ dìm anh
sẽ dìm em
xuống đáy sự khát khao.

Nhưng mà anh đâu đến
biển dối gạt em rồi
đóa hồng lụi tàn nhanh
vì tưới bằng nước mắt
bức điện tín màu xanh
đưa tin anh về đất *

em đứng dưới tàng cây
ngoài kia trời dậy sóng
bão nổi và mưa tuông
lòng em mùa biển động
nước mưa hòa nước mắt
gió níu cành khăn tang
em bám bờ cát lạnh
một ngày mà trăm năm!

Sông Sương Mù

Bởi không còn cách nào hơn để trấn tĩnh đám trẻ, người đàn bà đã nói vào tai chúng nó mỗi khi nghe tiếng đạn rít qua đầu và nổ chát trên xóm chợ: súng dưới đồn bắn đi đó mà, các con cố ngủ đi đừng sợ. Lâu dần câu nói đó trở thành điệp khúc và không còn hiệu nghiệm để giữ tâm hồn đám trẻ yên ổn như những lần đầu. Bé Phượng bắt đầu thắc mắc, khi nhận ra sự hốt hoảng của mẹ. Mỗi lần nghe tiếng đạn réo, môi mẹ run rẩy những lời cầu nguyện, hai cánh tay vội vàng ghì lấy chị em nó vào lòng. Người đàn bà lúc đó, vì bản tính tự vệ, đã cố thu rút mình và đám con lại thật nhỏ, vô tình quên đi sự ngột ngạt và đau đớn của chúng nó. Đám trẻ vì sợ hãi quá, không dám khóc, nhưng vẫn cố đưa hai bàn tay nhỏ bé ra gỡ dần vòng tay mẹ để có thể ngẩng cao cổ thêm một chút cho hơi thở được nhẹ nhàng. Bé Phượng lớn hơn cả, thỉnh thoảng bị mẹ bỏ quên được ngồi thư thả trong một góc hầm, tuy thế nó cũng không dám có một cử động nhỏ nào, nó phải ngồi ôm gối và gục đầu xuống mỗi lần nghe tiếng đạn bay qua và nín thở chờ tiếng nổ vang lên tức ngực, mới đưa mắt lấm lét nhìn mẹ, bây giờ chỉ còn là một khuôn mặt tái xanh với đôi mắt như lồi hẳn ra ngoài chân mày vì khiếp đãm. Những lần đó trông mẹ tội ngiệp quá chừng và nó muốn khóc.
Đã nhiều ngày qua, không có đêm nào là không nghe tiếng nổ rền trong khu vực quận, do đó trong lần nghỉ hành quân mới nhất dù không tới nửa ngày, người chồng cũng đã loay hoay mang những tấm ván xuống đặt dưới hầm để tránh hơi đất cho lũ trẻ. Người đàn bà rất hài lòng vì nghĩ rằng nàng và đám con có thể ngủ luôn dưới hầm, tránh được những lần hốt hoảng đến ẵm đứa này quên kéo đứa khác mỗi lần choàng tỉnh giữa tiếng đạn pháo kích, chạy từ nhà trên xuống chiếc hầm ở cạnh bếp.
Bé Phượng lúc đó có vẻ thích thú với chỗ ngủ mới, nhưng dần dà rồi nó cũng bực mình vì mỗi lần súng nổ là mỗi lần cát từ trên hầm rơi xuống mắt nhức nhối. Đã xót mắt đến không ngủ được, mà xuýt xoa thì bị mẹ mắng tại sao ngủ không chịu nằm nghiêng nằm sấp. Trong bóng tối của chiếc hầm, con bé không dám hé răng. Nó trở mình quay mặt vào thành đất, những giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má làm dịu lòng nó lại.

Công việc mỗi ngày của bốn mẹ con thật giản dị. Sáng sớm bé Phượng mang áo quần dơ của các em xuống bến sông giặt, trong khi người đàn bà loay hoay nhóm bếp nấu một nồi khoai lớn cho đám trẻ ăn lai rai cả ngày thay quà vặt, và một nồi cơm dành cho buổi trưa vì nàng thường ở chợ về trễ. Khi nào bé Phượng ở bếp lên, cũng là lúc người đàn bà sửa soạn xong quang gánh để ra chợ. Nàng dặn con, câu nói mọi ngày tưởng như không thay đổi, dù chỉ một tiếng:
– Nhớ chơi với em ngay miệng hầm, đừng đi đâu xa nghe Phượng ?
Con bé vâng lời mẹ. Nhưng có những buổi sáng trời tốt, không gian im tiếng súng, nó vẫn thèm dẫn em ra bến sông chơi. Ở đó nó có thể ngồi trên một thềm đá, nhìn sương mù trên mặt sông dày đặc và chờ đợi những chuyến đò ngang xuất hiện, lúc đầu chỉ nghe tiếng chèo khuấy nước, tiếp theo là nửa con đò rồi người lái với vành nón mờ nhạt hơi sương. Bé Phượng cảm thấy thích thú khi nhìn cảnh vật bên sông dần dần hiện ra trong sương mai mỗi lúc một tan dần. Sự xuất hiện của cảnh vật như một khám phá riêng của nó. Kìa ngọn cây, kìa mái nhà, kìa người gánh nước…
Nhiều lần bé Phượng muốn hai đứa em mình cùng tham dự vào trò chơi đó, bằng những câu đố: “sau cây bàng là cái gì?” rồi chờ một chút cho sương loãng dần để nhận ra là cái nhà và đố tiếp sau cái nhà là cái gì? cho đến khi nắng đã lên rực rở giữa sông, và trò chơi trong sương mù chỉ còn như giấc chiêm bao. Nhưng những đứa em của Phượng có vẻ không khoái trò chơi ấy. Chúng nó thích khom lưng lăn những trái vông trên cát để tưởng tượng đến dấu xe hoặc xé những ngọn lá chuối vấn kèn thổi te te bắt chước người dân vệ gác cầu. Đám trẻ có đời sống riêng thật vô tư. Trong những lần pháo kích, chúng nó đã sợ hãi vì tiếng nổ vang dội khủng khiếp, chứ chưa biết sợ hãi về những gì xảy ra đằng sau tiếng nổ ấy. Người đàn bà thường cẩn thận bắt chúng ngồi dí dưới hầm, cho đến khi nàng biết chắc những chiếc xe cứu thương đã chở hết nạn nhân ra khỏi khu vực. Người đàn bà quen dần cảnh đổ nát của chiến tranh, nàng không còn sợ hãi và lo lắng quá về cái tai nạn từ trời cao trút xuống ấy nữa. Thật khó mà trốn thoát. Sống phút nào hay phút đó, người đàn bà nghĩ thế, và cảm thấy bình tỉnh lại. Điều lo lắng nếu có ở nàng là sự lo lắng đôi khi như mối bận tâm thường trực, về người chồng mà những cuộc hành quân liên miên đã giữ chân chàng tận vùng đồi núi phía bắc quận lỵ từ nhiều tuần lễ nay.

Không nhìn hết được mặt sông vì sương mù dày đặc, nhưng bé Phượng cũng biết mặt sông sáng nay thật phẳng lặng. Trời lành lạnh. Trong không khí như có bụi nước. Con bé không để ý nó đã dậy sớm hơn mọi ngày. Dòng sông yên tĩnh trắng ngần sương mù nhìn xa như một giãi lụa. Những giọt sương còn rơi tóc tách thật nhỏ và êm đềm từ những ngọn lá cao xuống các tàu lá thấp. Bé Phượng bước xuống bến sông đặt nắm áo quần dơ trên một tảng đá, rồi khom mình đưa tay khoáy nước. Nước lạnh quá làm nó rụt tay về, nhưng rồi lại nhúng xuống, lần này sâu hơn và nó mỉm cười nhìn theo sóng nước phía sau bàn tay di động. Nó im lặng với sự nghịch ngợm đó được một phút thì ngẩng mặt lên, bỗng dưng có cảm giác phía sau mình đang có người nhìn trộm. Nó e dè thoáng chút sợ hãi, từ từ quay mặt lại. Vẫn sương mù dày đặc trong các cành cây. Con bé yên tâm ngồi nhìn ra sông và bắt đầu nhúng mớ đồ dơ xuống nước. Nó không biết rằng cái cảm giác có người nhìn trộm đó chẳng nhầm lẫn chút nào, bởi người đàn ông đang ngồi thu mình dưới một gốc cây bên mé nước lúc đầu đã đứng dậy định tiến về phía nó nhưng sau nghĩ thế nào lại ngồi xuống như cũ, ánh mắt đăm đăm nhìn ra mặt sông có vẻ ngóng đợi. Gã cho tay vào túi áo móc bao thuốc lá lấy một điếu gõ gõ xuống mặt đồng hồ rồi gắn lên môi. Gã cho tay vào túi quần để tìm hộp quẹt, túi bên trái rồi túi bên phải. Gã quên hộp quẹt đã hết và chiếc vỏ không đã bị gã ném xuống dòng sông từ bao giờ.
Cuối cùng người đàn ông gở điếu thuốc ra khỏi môi lăn lăn giữa hai ngón tay trỏ và cái, rồi có lẻ như không dằn được sự thèm một hơi thuốc, gã đành đứng dậy một lần nữa nhích bước lần về phía con bé xin lửa. Tuy những ngọn lá khô đã ướt đẫm sương đêm không gây ra tiếng động nào dưới mỗi bước chân người đàn ông, con bé vẫn linh cảm thế nào một lần nữa quay lại và ngở ngàng đứng dậy, trong tay còn nguyên nắm áo quần đang giặt dở. Người đàn ông đưa một bàn tay ra phía trước như muốn trấn tĩnh sự kinh ngạc của bé Phượng. Gã nói:
– Bác cần một que diêm.
Con bé vẫn đứng lặng, trong khi gã tiến thêm vài bước. Bấy giờ Phượng có thể nhìn thật rõ người đàn ông. Đó là một kẻ lạ, quá lạ đối với nó trong khu vực này. Gã đội một chiếc mũ lưỡi trai bằng nỉ xám, áo quần màu cứt ngựa nhưng không giống như đồ lính mà cha nó thường mặc. Cách phục sức đó làm cho người đàn ông có vẻ gọn gàng và nhanh nhẹn ra. Bé Phượng vẫn nhìn sững gã cho đến khi gã mỉm cưới nhắc lại câu nói cũ:
– Bác cần một que diêm, cháu có mang theo đấy không?
Con bé lắc đầu. Nó đứng yên một lúc mới nói:
– Bác đợi cháu chạy về nhà lấy ra cho nhé?
Người đàn ông đưa tay cản:
– Thôi, cám ơn cháu. Bác đâu cần lắm.
Rồi đưa mắt nhìn ra mặt sông vẫn còn dày đặc sương mù, gã hỏi:
– Sáng nay cháu dậy sớm hơn mọi ngày hả?
Bé Phượng có vẻ lúng túng:
– Sáng nào cháu cũng ra đây, thế sáng nào bác cũng có đây để thấy cháu cả à?
Người đàn ông mỉm cười với nó không nói gì. Tự nhiên con bé thấy sự xa lạ lúc đầu đối với người đàn ông không còn nữa. Nó hỏi:
– Bác ra đây làm gì thế bác?
Đưa tay chỉ ra sông gã nói:
– Bác đợi đò.
Con bé cũng nhìn ra sông nghĩ ngợi một lúc rồi ngẩng mặt lên:
– Cháu cũng thế. Sáng nào cháu cũng đợi đò. Trước khi nhìn thấy chiếc đò, cháu đã biết nó sắp tới bờ nhờ tiếng chèo khuấy nước…
Người đàn ông chợt cười thành tiếng.
– Thế bây giờ…
– Bây giờ thì đò chưa sang đâu, bác ra bến sớm quá. Hay bác thử gọi đi.
– Gọi đò trong lúc không nhìn thấy gì bên kia sông cả, bác chẳng muốn chút nào. Trời sương mù nhiều quá.
Bé Phượng ngẩng lên nhìn người đàn ông.
– À, bác có thích sương mù không bác?
Người đàn ông vẫn nhìn ra sông ậm ừ một lúc mới trả lời:
– Ờ thích, thích ghê đi chứ.
Con bé ngồi xuống nhưng chưa vội nhúng mớ áo quần xuống nước. Nó hỏi:
– Thế bác ở bên kia sông hả?
– Ờ…
– Nhà bác chỗ nào nhỉ. Khi hết sương mù rồi, cháu có thể nhìn thấy không?
Khuôn mặt người đàn ông bỗng nghiêm lại. Gã đưa mắt nhìn xuống con bé và ngay lúc đó cả hai người cùng nghe tiếng chèo khuấy nước.
– Không, nhà bác ở sâu bên trong nữa . Đò sắp vào bờ rồi phải không cháu?
– Dạ.
Bé Phượng đứng dậy nhích sang một bên chờ cho mũi đò cặp bến. Khi người đàn ông bước xuống lòng thuyền rồi, nó mới giật mình hỏi:
– Sáng mai bác có ở đây nữa không bác?
– Có.
Gã đáp gọn nhưng giọng gã làm cho con bé cảm thấy buồn buồn. Đò quay mũi, nó thấy người đàn ông đứng bất động giữa lòng thuyền. Con bé nhìn theo cho đến lúc con đò, cả vành nón của người lái nhạt nhòa trong sương trắng. Tự nhiên nó cảm thấy ngậm ngùi.

Một đêm thật yên tĩnh. Người đàn bà sửa lại thế nằm cho hai đứa con nhỏ, rồi ra trước miệng hầm ngồi nhìn vẩn vơ khu vườn trăng. Thật ra thì nàng nhìn mà chẳng thấy gì hết. Có chăng, ánh trăng chỉ làm tăng thêm trong lòng người đàn bà nỗi nhớ nhung chồng cộng với sự lo lắng đến chảy nước mắt. Bé Phượng vẫn chưa ngủ, suốt buổi tối nó cứ bị hình ảnh người lạ mặt buổi sáng ám ảnh hoài. Chiếc mũ lưỡi trai màu xám che đôi mắt thật trìu mến của gã làm nó cảm thấy bâng khuâng như chưa bao giờ có cảm xúc đó. Thấy mẹ đang sụt sùi trước miệng hầm, nó nhổm dậy khom lưng bước ra ngoài ngồi xuống cạnh. Người đàn bà vuốt tóc con gái:
– Sao chưa chịu ngủ?
Con bé im lặng một lúc, rồi trả lời mẹ bằng một câu hỏi khác:
– Sao mẹ ngồi đây mãi thế?
Rồi cũng không đợi câu trả lời, nó nắm tay mẹ hỏi tiếp:
– Sao mẹ lại khóc?
Người đàn bà nhìn qua một phía khác dấu nước mắt, nhưng những giòng nước mắt lại tuôn nhanh khi nàng đột ngột hỏi con:
– Phượng có nhớ cha không?
Con bé trả lời bình thản:
– Cha đi hành quân để làm gì vậy mẹ? Cha lâu về quá, có lẽ cha chẳng nhớ gì tụi con cả.
Người đàn bà gõ nhẹ lên đầu đứa bé.
– Đừng nói bậy. Dễ dầu gì cha về được khi mặt trận còn sôi động hoài.
Dĩ nhiên là bé Phượng không hiểu gì lắm, nhưng nó giữ im lặng. Ngườu đàn bà nói:
– Ngày mai con ở nhà trông hai em, mẹ sẽ nấu sẵn cơm và thức ăn cho các con trọn ngày. Mẹ đi thăm cha. Mẹ sẽ bảo với cha Phượng ở nhà rất ngoan, rất giỏi….
Bé Phượng ngẩng mặt nhìn mẹ. Dưới ánh trăng khuôn mặt con bé mũm mĩm khác mọi ngày.
– Mẹ nhớ bảo cha cố về cho được nhá.
Người đàn bà gật đầu. Hai mẹ con ngồi bên nhau một lúc, rồi người đàn bà đẩy con xuống hầm. Bấy giờ trời đã khuya. Trước khi thiếp ngủ, bé Phượng còn nghe mẹ dặn:
– Sáng mai khi hai em còn ngủ, con chịu khó đem chiếu ra sông giặt nhé. Nhà chỉ còn một chiếc mà tụi trẻ đái dầm bấy nay…
Con bé không nhớ mẹ còn dặn gì nữa không vì ngay lúc đó nó đã ngủ vùi trong hơi đất quen thuộc.

Lúc bé Phượng thức dậy thì người đàn bà không còn ở đó. Nó nhìn vào những thức ăn và nồi cơm nấu sẵn, nghĩa là mẹ phải dậy sớm lắm và giờ này đang đứng bên quốc lộ chờ xe. Bé Phượng nhớ lời mẹ dặn đêm qua, sáng nay phải mang chiếu ra bến giặt. Nó vội đắp lại chiếc chăn trên bụng cho hai em rồi ôm chiếu ra bến sông. Đi được một quãng, nó tần ngần đứng lại vài giây rồi quay trở về.
– Tại sao mình không mang theo hộp diêm nhỉ? Biết đâu bác ấy chẳng cần tới?
Con bé nghĩ thế và cảm thấy lòng vui lạ lùng. Một sự náo nức xuất hiện trong tâm hồn, lúc đầu thì không nhận ra nhưng sau đó nó hiểu.
– Hẳn giờ này bác ấy đã có mặt ở đấy rồi. Không biết bác thức dậy lúc nào mà có mặt ở đây sớm thế…,
Bé Phượng tự hỏi nữa mà chẳng thèm đến sự trả lời nào. Nó bước thoăn thoắt về phía bờ sông. Trời vẫn như mọi hôm, đầy sương mù và dòng sông vẫn là giãi lụa trắng bát ngát.
Vắt chiếc chiếu lên một tảng đá, bé Phượng đưa mắt nhìn quanh tìm kẻ lạ. Vẫn những ngọn cây sương mù ôm kín, vẫn gốc cây quen thuộc bên mé sông nơi người đàn ông xuất hiện hôm qua, vẫn bến nước tĩnh lặng này, nhưng kẻ lạ thì không thấy. Con bé thất vọng ngồi xuống một tảng đá. Tự nhiên nó cảm thấy thiếu vắng một cái gì trong tâm hồn. Kẻ lạ đã sai hẹn với nó.
Bé Phượng ngồi im như một pho tượng không biết trong bao lâu cho đến khi nó sờ phải hộp diêm trong túi áo và sực nhớ tới câu nói dịu dàng của người đàn ông khi hỏi xin một chút lửa,cũng là lúc nó cảm thấy nước mắt mình chảy vòng đôi mi và dòng sông trước mặt mịt mùng hơn bởi sương mù. Trong sự yên tĩnh đang có của buổi sớm, bỗng con bé nghe tiếng đạn réo qua đầu rồi tiếp theo những tiếng nổ dữ dội chung quanh. Bé Phượng nằm ngay xuống một kẻ đá, cố thu mình thật nhỏ. Tảng đá còn ướt đẫm sương. Hơi lạnh từ đất tỏa lên thấm qua lớp vải áo làm nó run cầm cập.
Chờ cho trái đạn sau cùng nổ dứt một khoảng lâu, bé Phượng mới ngồi dậy. Hình ảnh đầu tiên trong tầm mắt nó là dòng sông rực rỡ ánh nắng. Sương mù chỉ còn vướng vất trên những vòm cây cao bên kia sông. Con bé nhìn chăm con đò đang neo trong bờ dưới một khóm tre. Con đò sáng nay đã không sang ngang, mà kẻ lạ cũng không có mặt để chờ đợi.
Bé Phượng đứng dậy uể oải kéo chiếc chiếu thả chìm xuống nước. Nó nhớ lời mẹ dặn đêm qua và giặt vội vàng khi chợt nghĩ giờ này hai em nó hẳn đã thức dậy. Hẳn phải thức dậy ngay, khi có tiếng nổ đầu tiên rồi chứ. Nó nghĩ vậy và cảm thấy nóng lòng quá đổi. Bỗng có tiếng người nói phía sau:
– Thôi đừng giặt nữa cháu à…
Con bé hớt hãi quay lại. Người lính bước xuống những bậc cấp bằng đá. Nó nhận ra người lính có vẻ quen thuộc, hình như là bạn của cha. Người lính nói:
– Giặt chiếu làm gì sớm thế ?
Con bé ngửa mặt lên nhìn người đàn ông:
– Mẹ cháu bảo nhà chỉ còn một chiếc mà tụi em đái dầm…
Người lính cười buồn:
– Thôi vứt chiếu đi, theo chú về nhà…
Con bé tần ngần mở to mắt nhìn người lính:
-Mẹ cháu dặn…
Người lính quay mặt đi:
– Chú biết rồi, nhưng bây giờ không cần thiết nữa.
Con bé hớt hãi và nước mắt nó bắt đầu chảy nhanh xuống má.
– Nhưng còn các em cháu…
Người lính nói chậm rãi:
– Cháu dại quá. Cháu nhớ loạt đạn pháo kích vừa rồi chứ? Thôi về nhà chú đi…

Bé Phượng ngồi thụp xuống đưa hai bàn tay bưng mặt khóc thét lên. Trong khi người lính kéo thấp mũ lưỡi trai xuống và khịt khịt mũi. Người lính nhất định không cho bé Phượng trở lại chiếc hầm cũ. Anh nghĩ con bé sẽ khóc thật nhiều trong những ngày đầu nhưng rồi nó sẽ nguôi quên và nhất là khi quốc lộ được khai thông và mẹ nó có thể trở về với nó. Mỗi buổi chiều người lính thường dẫn con bé ra sông chơi, nhưng nó có vẻ thích đến đó vào buổi sáng hơn. Buổi sáng thì người lính dậy muộn, hơn nữa cũng không mấy khi anh được ở nhà ban đêm. Bé Phượng sau ngày hai em chết không có dịp để nhìn sông sương mù, không còn dịp để nhớ lại hình ảnh kẻ lạ mà nó gặp buổi sáng nào trên bến nước.
Một buổi chiều người lính dẫn bé Phượng đi dọc theo bờ sông. Con bé tung tăng như một chú sóc nhỏ. Tóc nó bay rối trong gió. Thỉnh thoảng nó ngồi thụp xuống một bãi cỏ để chờ người lính lừng khừng đi tới. Nó bắt đầu nguôi quên thật, tâm hồn trẻ thơ có khác. Lúc hai người đến một khúc quanh của dòng sông, người lính dừng lại. Anh lấy thuốc lá gắn lên môi, rồi cho tay vào túi quần lấy hộp quẹt. Hộp quẹt chỉ còn một que diêm. Người lính đưa que diêm và hộp quẹt trống ra trước mặt bé Phượng , ý chừng cho nó cùng hồi hộp vì chỉ còn một que diêm cuối cùng. Anh thu đốm lửa giữa hai bàn tay xòe ra, nhưng đóm lửa đã tắt khi sắp kê vào đầu điếu thuốc. Người lính không có vẻ bực mình ném vỏ diêm xuống cỏ, lấy điếu thuốc ra khỏi môi rồi buông thõng hai tay nhìn con bé mỉm cười.
Con bé cười trả người lính, đoạn chạy đến đám cỏ nhặt chiếc vỏ hộp quẹt mân mê trong lòng bàn tay. Nó nghĩ sao chú này giống bác ấy thế. Tự nhiên nó cảm thấy lòng lâng lâng buồn.
Hai người, một già một bé đi bên nhau, không nói với nhau một tiếng. Bỗng họ dừng lại khi thấy đám đông trước mặt. Bây giờ con bé mới hỏi:
– Cái gì thế chú?
Người lính nghĩ ngợi một lúc, rồi nói:
– Hình như xác địch ấy mà, hắn bị bắn chết đêm qua…

Bé Phượng tần ngần một chút rồi không tránh được tò mò, nó kéo tay người lính chen vào đám đông. Bỗng con bé dừng hẳn lại. Nó vừa nhìn thấy chiếc mũ lưỡi trai bằng nỉ xám, rồi chỉ trong một giây sau thản thốt nhận ra xác chết là người đàn ông, kẻ lạ mặt mà nó đã gặp một lần trên bến sông. Nó bỏ đám đông nắm tay ngươi lính kéo đi. Nó buồn bả, lấy làm tiếc là lần trước không có sẳn hộp diêm cho bác ấy mồi điếu thuốc.

Bóng Đêm Vô Biên
* Tặng chị Nguyệt Mai

1 .mở mắt thấy sớm mai
sương hồng trong cánh lá
lòng reo vui âm thầm
ngày mới. ngày mới đến
con đường như dài thêm
tiếng cười xanh trong mắt

2. sao ngày qua quá mau
đóa hồng chưa kịp nở
tiếng cười chưa đủ vang
đã hoàng hôn tím ngắt

3. ta bóng đêm vô biên
lòng mở. như lai hiện
bạn bè về linh hiển
ấm áp một quan hoài

4. rồi ta chờ sớm mai
mà đêm dài bất tận!

Áng Mây Vàng

giọt nước đựng trời mây
tàn hương bay lấp lánh
lắt lay bóng mẹ về
tóc con chừ điểm bạc

tám năm ngày mẹ đi
vẫn nụ cười trên mộ
trần gian đường gập ghềnh
hoàng hôn đời lệ nhỏ

một năm rồi mười năm
chỉ dài như hơi thở
thanh tịnh quang chân tâm
áng mây vàng tưởng niệm

Bóng Thời Gian

sao môt ngày qua nhanh quá
mới bình minh đã hoàng hôn
chưa kịp mở lời yêu dấu
trái tim kia vội chập chờn

sao một tuần qua nhanh quá
thứ hai thôi chủ nhật rồi
chưa kịp hẹn mà đã lỡ
ngập ngừng giọt đọng trên môi

rồi tháng cũng qua vội vã
với gian truân chuyện cuộc đời
chưa nhận ra mùa nắng hạ
đã đông về xám tuyết rơi

cả bốn mùa đi. rồi lại
tuổi vui buồn lặng lẽ trôi
bấm đốt tay nghe đầu bạc
quạnh lòng. chờ đất gọi mời

Lữ Quỳnh

Lữ Kiều

Lữ Kiều

Xuôi Dòng

I. Những vết thương tuổi nhỏ

Đập Đá. Đó là tên một cái đập ngăn hai dòng nước, một bên là sông Hương, một bên là nước từ con sông nhỏ Vân Dương chảy ra. Thời 1953 – 1955, chúng tôi ngồi với nhau trên bờ đập, nhìn về phía làng Vân Dương. Chúng tôi gồm có tôi, Lữ Quỳnh, Nghi Hữu, Lê Trọng Nhạn, những người bạn mới quen nhau ở lớp đệ thất trường Nguyễn Tri Phương. Lữ Quỳnh với câu chuyện ở Mỹ Lợi. Nghi Hữu với rất nhiều tên làng quê. Nhạn với làng Phước Tích, ngôi nhà cổ, lò gốm cạnh con sông Ô Lâu cùng những bóng ma Hời. Đó là những câu chuyện làng quê trong 9 năm chiến tranh chống Pháp vừa chấm dứt khi chúng tôi bước vào trường trung học.

Đêm trăng sao trên đầu, gió mang hơi nóng từ mặt sông chịu nắng suốt một ngày hạ, còn chúng tôi thì thả hồn tưởng tượng theo những lời thầm thì kể chuyện nửa hư, nửa thực. Giờ đây, nhớ lại, vẫn còn cái rùng mình thảng thốt khi bước chân vào làng Vân Dương. Nghi Hữu chỉ lên cây đa cổ thụ:
– Đây là chỗ treo cổ mấy tay Việt gian!

Giọng Hữu nghiêm trọng, tự tin, ra vẻ từng trải trước sự ngờ nghệch của người bạn trẻ thành phố. Nghi Hữu nói:
-Mi biết không, có buổi tối tau rình coi. Nơi sau đình kia mấy người tù bị trói ké, quì xuống. Họ nói gì tau nghe không rõ. Rồi một người đọc bản án, tau chỉ nghe được tiếng: Xử tử! Người ta tròng thong lọng vào cổ, dẫn tử tù đến gốc đa, một người leo lên cột dây vào cành đa. Phải lựa cành chắc. Có lần khi treo cổ thì cành dãy, tử tội rơi xuống, phải làm lại…

Hữu nói tiếp: có buổi sáng, dắt trâu ra đồng, tau thấy bốn cái xác bị treo tòn ten, hình như một cái chưa chết, trợn mắt dòm tau, tau chạy té đái…Mạ tau nói, có đêm ma thắt cổ về gõ cửa sau nhà tau xin ăn, mạ tau mở cửa thì thấy ma biến mất, nhưng mạ tau kịp thấy nó rõ ràng, miệng mấy con ma đỏ lòm, lưỡi dài thòng đến tận ngực!

Cửa sau nhà Nghy Hữu mở ra một cánh đồng ruộng. Tôi và Lữ Quỳnh theo các bạn dẫn trâu ra đồng ăn cỏ, băng hết cánh đồng là làng Ngọc Anh, Lai Thế. Ở đó có bạn Trần Ngọc Thái, Hoàng Kim Can.

Can ngồi trên bờ ruộng khô, chỉ tay ra xa, nói:
– Tụi bay thấy ngôi nhà ngói to đùng không? Nhà cụ Thượng đó. Tây đốt không cháy! Còn cái cầu gỗ kia, đó là nơi người ta chém đầu bọn theo Tây!

Bọn theo Tây là ai, tuổi 12 của tôi chưa hình dung ra. Can kể thêm:
– Tau đi xem chém đầu, dễ sợ lắm. Tiếng dao chém xuống cổ nghe cái Phụp! Phải chém nhiều lần đầu mới rời khỏi cổ. Máu chảy có vòi…Thân hình người bị chém gồng cứng lên, hai chân đạp loạn xạ một hồi mới ngừng.
– Thiệt hả?
– Thiệt. Trời lúc đó chạng vạng, nhưng tau đứng gần nên thấy rõ. Mà lạ lắm tụi bây biết không.Tử tội bị trói dẫn ra đầu cầu, quì xuống, bị chém., rồi đứt đầu, giãy chết mà không la một tiếng. Mấy người đao phủ cũng vậy. Yên lặng như tờ…Chỉ có tiếng dao chém Phụp!
– Sợ không?
– Vài ngày sau tau mới sợ, không dám qua cầu. Người ta đồn đêm đêm có mấy con ma cụt đầu hóng mát trên cầu.

Tôi xanh mặt. Không thể tưởng tượng đứng hóng mát mà không có đầu. Can càng hù tới: Mi biết không, trong xóm tau nhiều người đi khuya về bị ma thu, sáng ra thấy mình nằm giữa bụi tre gai, phải chặt cả bụi tre mới lôi ra được, sau đó người bị ma thu trở nên điên điên khùng khùng, phải lên nhờ ôn (tức hòa thượng) trên chùa Trúc Lâm trị bệnh tà!

Có lần trên trảng cát ở quê Lữ Quỳnh, làng Mỹ Lợi, bạn kể cho tôi nghe về cảnh tượng Tây về làng. Bạn nói: Tây đi lùng, lùng sục tìm những du kích Việt Minh. Mỗi lần vậy, dân làng chạy vô núi trốn, đứng trên cao nhìn về làng trông thấy khói bốc lên là biết Tây đốt nhà. Bạn chỉ một nấm mồ, nói, mộ chị Tú. Lần đó chị trốn không kịp, bị Tây đen rạch mặt bắt (sau này tôi mới biết đó là những người lính châu Phi thuộc địa Pháp, người Sénégal hay rạch mặt). Chúng kéo chị vô giữa vườn chuối hãm hiếp chị. Lần đầu tiên tôi nghe từ hãm hiếp, không hình dung ra được rõ nhưng lờ mờ nhận ra đó là một điều gì rất ác độc tàn nhẫn.

Bạn kể tiếp: khi dân làng trở về, họ tìm thấy chị Tú trần truồng, máu me, bất tỉnh. Khi tỉnh lại, chị không nói một lời, mắt mở trừng trừng và bắt đầu nôn ói. Tiếng chị Tú nôn ói liên tục, vang to trong đêm. Cả làng lo sợ, yên lặng lắng nghe. Sau bốn ngày đêm, tiếng ói nhỏ dần rồi tắt. Chị chết.

Thời chiến tranh , tuổi thơ các bạn tôi đã chứng kiến những cảnh như vậy. Có thể có những điều vui, an lành hơn, nhưng chính những hình ảnh tang thương khốc liệt ấy đã để lại vết thương trong tuổi nhỏ các bạn.

Những vết thương của tuổi thơ! Có lẽ tôi nói hơi quá, nhưng điều chúng tôi trải qua trong những tháng năm tàn khốc ấy là những đòn roi quất lên tâm hồn của một thế hệ, vết thương còn rỉ máu khi chúng tôi bước vào môi trường học đường, gặp nhau và trở thành bạn của nhau. Đã là bạn, thì nỗi đau riêng trở thành đau chung. Nếu vết thương không được chữa lành, biến thành sẹo, dù sẹo lớn hay nhỏ, sẽ định hình những tính cách bất lợi cho cuộc đời về sau của họ. Bao nhiêu tội ác – giết người, cướp của, kể cả giết người hàng loạt – hoặc nhẹ hơn, bệnh tâm thần, lệch lạc tình dục, mất khả năng hội nhập xã hội, nghi ngờ sự thiện… đều bắt đầu bằng những vết thương tuổi thơ như vậy.

Thế nhưng, điều kỳ diệu đã xảy ra. Những vết thương tuổi nhỏ đã được băng bó, xoa dịu và chữa lành những năm sau đó, sau ngày im tiếng súng, bằng môi trường văn hóa, xã hội, giáo dục của đất Thần kinh.

Tôi muốn nói đến trường Quốc học, đến tất cả những mái trường công và tư ở Huế, tôi muốn nói đến môi trường giáo dục tuyệt vời mà tuổi thơ bất hạnh của chúng tôi được hưởng, đến những lớp học mà khi bước vào chúng tôi được an toàn giữa tình bằng hữu, tình thầy trò…Tôi biết ơn môi trường văn hóa với tính truyền thống, tiếp nối không bị chặt đứt khỏi quá khứ, thể hiện bằng những giá trị tinh thần, giá trị tâm linh. Tất cả điều ấy là những liều thuốc trị liệu tuyệt vời chữa lành những vết thương kia kịp tránh khỏi biến thành sẹo. .. Đồng thời giúp chúng tôi trưởng thành, vững vàng, biết yêu cái đáng yêu, biết ghét và chống cái phải chống, nhất là chống lại sự tổn thương do chiến tranh .Từ đó, đã hình thành một thế hệ 60 bản lĩnh, yêu hòa bình, phản chiến sau này…

Những thập niên nửa sau thế kỷ 20, đất nước đã có những bước đi lịch sử phức tạp. Chúng tôi đã tham dự lịch sử, theo cách của mình, đã có những con đường rẽ, đã có những cuộc chia ly vì ý thức, đã có nhiều khác biệt giữa những người bạn tuổi nhỏ cùng đi một đường, thế nhưng vẫn có những mẫu số chung nối kết chúng tôi, đó là những giá trị nhân văn, đạo đức của thời trẻ, những giá trị ấy lớn theo đời, hình thành bản lĩnh và nhân cách một thế hệ, dù ở đâu, làm gì, với ai.

Có thể còn nhiều điều phải suy nghĩ, phải bàn lại những cái được, cái mất của một thời, nhưng với tất cả sự khiêm tốn, tôi tự hào về thế hệ mình.

II. Cô giáo cũ

Năm 1961, cô giáo vừa rời trường Sư phạm và dạy môn Triết học lớp đệ nhất văn chương và vạn vật trường Quốc học.

Bấy giờ cô 24 tuổi, chúng tôi ở độ tuổi đôi mươi. Cô đẹp. Đẹp và dịu dàng. Cô vừa lập gia đình xong. Những lời giảng triết lý của cô về sự Thật, về cái Thiện, về cái Đẹp đã cùng ánh mắt và nụ cười của cô đi vào lòng bọn trai trẻ chúng tôi, lũ bọn trai mà: “hồn lưu lạc chưa hề thờ một Chúa…” trong câu thơ của Huy Cận.

Bốn mươi năm sau, chúng tôi gặp lại cô. Thời gian xa cách tưởng như không hiện hữu, bởi vì cô vẫn là cô, cho nên chúng tôi vẫn là những chàng trai thời đệ nhất trong xác phàm của những trung niên hư hao. Tôi nói điều đó với Châu Văn Thuận, chàng trưởng lớp đệ nhất C1 ngày ấy, vẫn mang quả tim nồng nàn không có tuổi vượt qua bao tai ương. Đôi mắt cô không còn đen như trước, đã có những vẫn đục vì đời, vì người, vì tháng năm, nhưng nụ cười của cô vẫn dịu dàng xinh đẹp như ngày nào. Và nhất là tấm lòng cô, bất chấp thời gian, vẫn nguyên vẹn sự hồn nhiên tin cậy, tin người, tin đời, tin điều tốt lành, tin những lời cô giảng 40 năm về trước. Có thể chúng tôi giờ đây già hơn cô, đã trải qua bao tai ương cay nghiệt của lịch sử, chúng tôi là một thế hệ nghi ngờ, hoang mang cho nên cần vô cùng một chút lòng tin. Của tin còn một chút này (Nguyễn Du). Của tin ấy còn đầy trái tim cô giáo cũ.

Có lần tôi cùng cô dự một đám tang. Cô mặc một màu đen, trang điểm kín đáo. Cô vẫn muốn đến với mọi người bằng dung nhan đẹp nhất, như hoa nở cho đời. Lần ấy, tôi ngồi cạnh cô, nhìn sóng mũi thanh tú của cô (hình như đó là dấu nhấn trên khuôn mặt cô, như điểm nhấn trong bức tranh vậy), tôi nghe tiếng tụng kinh buồn bã, ngửi mùi trầm hương, lòng ngậm ngùi về sự tàn phai của kiếp người, những tình yêu chết đi không cứu vãn được. Tôi nói điều đó với cô, cô trả lời:
– Không, ở tuổi nào, người ta cũng bắt đầu yêu được…

Giọng cô chân tình, xác tín làm tôi bang hoàng. Có thật ở tuổi nào cũng có thể yêu? Hình như ngày ấy, tôi tưởng lòng mình là viên đá chạm đáy hồ không còn loạn động vì những đợt sóng đời. Lời cô làm tôi tỉnh thức. Cô đã truyền cho tôi lòng tin cậy. Tôi nhớ đến một nhân vật của Dostoievski, nàng Sonia tội nghiệp đã đem tình yêu của nàng phục sinh chàng sinh viên sát nhân tội lỗi.

Tôi nhớ đến người bạn gái trong căn nhà cuối hẻm, nàng sống một mình chịu đựng bao nhiêu khổ lụy, nàng là nỗi khổ, nhưng nàng vẫn dành cho cuộc đời nụ cười bao dung, nhẫn nại và tin yêu.

Hình như ai cũng cần một niềm tin. Cũng như một chút may mắn. Cô giáo cũ đã giúp tôi nhìn ra điều ấy…

Đêm ấy, tôi gọi điện thoại cho người bạn gái bất hạnh, tôi nói rằng tôi cầu mong em hãy yêu như thể chưa hề bị ai phụ bạc.

III. Nụ cười an nhiên của bạn

Tôi đến thăm chị Bùi Ấu Lăng vào buổi sáng. Chị bệnh, đang nằm thiêm thiếp, cố gắng nhỏm dậy khi tôi bước vào. Chúng tôi là đôi bạn nửa thế kỷ, đủ thân tình để ngồi lại với nhau trong những phút khó khăn này.

Tôi nói với chị rằng, chịu đựng thân xác mình cũng mỏi mệt lắm, nhưng thôi, phải thương lấy nó vì thân xác chung thủy với ta cho đến phút cuối đời.

Chị cười, nụ cười An Nhiên Tự Tại của một người đã chiêm nghiệm giới hạn của sống – chết.Bởi chị đã qua đau khổ nên hiểu hạnh phúc. Đã thấm thía tình đời nên hiểu giá trị sự sống. Trong đó có những ràng buộc với người thân, mà vì họ, đôi khi ta phải quên đi thân mình, nhưng cùng vì họ, phải giữ lấy xác phàm hư hoại, đứng dậy sau mỗi lần ngã xuống, với một nụ cười. Nụ cười cho mọi người, nhưng nước mắt cho riêng mình.

Chị đã chiến đấu với căn bệnh trầm kha trên mười năm, 10 năm với người bệnh dài vô tận so với người không bệnh. Là thầy thuốc, là con bệnh, là người bạn, tôi chia xẻ với chị điều ấy, về cuộc sống triển hạn, cho dù tôi biết rằng chúng ta không thể gánh dùm nhau nỗi đau, nhưng làm nhẹ đi một ít, một chút thôi, thì biết đâu, có thể …
Trong ánh sáng mờ đục của căn phòng chị đang nằm, tôi thấy mọi chuyện mù mờ hư ảo như quá khứ…như trí nhớ…

Tôi nhắc đến một thời tuổi trẻ, ngôi trường cũ, những người bạn còn, mất, ở gần hoặc ở xa. Đôi mắt chị sáng lên, như thể sống lại những ngày vui cũ.

Đó là những năm tháng đầu thập niên 60, chị là chị Cả trường Đồng Khánh bước chân vào lớp đệ nhất văn chương trường Quốc Học. Chị Cả có nghĩa là người nhận phần thưởng danh dự toàn trường (điều chị đã ghi trong tiểu sử của mình, để thấy chị trân quý phần thưởng năm đệ nhị C 1959-1960 của trường Đồng Khánh). Chị nhớ đến những ngày học tập và văn nghệ, những buổi thuyết trình hằng tháng cho toàn trường tham dự mà chị là người khởi đầu với bài nói chuyện “Du xuân qua các miền Đất Nước”. Chị kể về ban Thi Ca Học Sinh của đài phát thanh Huế mà anh bạn Trần Ngọc Thao làm trưởng ban, chị làm phó ban, có Huỳnh Văn Uyên thổi sáo. Trần Ngọc Thao sau này là nhà văn Cung Tích Biền.

Tôi nói về cuốn biên khảo “Hoa Tiên: một tình yêu đích thực” vừa in xong, thơm mùi giấy mới vừa đem từ nhà xuất bản về, chị trân trọng kí tặng bản đầu tiên cho tôi. Đó là cuốn luận văn cao học văn chương của chị, trình bày năm 1974 tại viện đại học Đà Lạt trước ban giám khảo gồm có kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, học giả Giản Chi và giáo sư Lê Hữu Mục, là những tác giả hàng đầu của văn học miền Nam, mà tên tuổi của họ bảo đảm cho chất lượng luận văn của chị.

Không phải chỉ là một luận văn, mà là một công trình nghiên cứ nghiêm túc của thầy và trò, là tình yêu với áng cổ văn xuất chúng bị quên lãng vì người, vì đời, vì thời gian…

Đã 35 năm, bản thảo cuốn sách nằm đáy tủ. Hình như cả thời thanh xuân Bùi Ấu Lăng gắn liền với chữ nghĩa tác phẩm Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, lúc còn đi học, lúc làm sinh viên sư phạm Việt văn, lúc đi dạy ở trường Bùi Thị Xuân Đà lạt và cuối cùng là luận văn cao học cũng về tác phẩm ấy. Chị cười. Chị kể về những ngày mưa gió Đà lạt, tìm vô Chi Lăng để gặp cụ Giản Chi, để phiên âm từng dòng thơ Hoa Tiên, bàn bạc từng cách đọc các dị bản…

Tôi nói với chị rằng giờ đây số người biết đến Hoa Tiên không nhiều, nhất là về người nhuận sắc Hoa Tiên là Nguyễn Thiện, một tác giả cùng quê và có bà con với Nguyễn Du, đối tượng nghiên cứu của luận văn. Tôi nói về công phu phiên âm và tổng kết những dị bản của tác phẩm. Và nhất là chị đã chỉ ra hơi thơ Truyện Kiều trong bản Hoa Tiêu nhuận sắc…Chị nói, ừ, thì theo Thầy khó lắm nhưng mình học được rất nhiều, từ kiến thức đến nhân cách. Những ngày ấy, chị mới 32 tuổi.

Giờ đây sau 35 năm, chị cho in lại, giới thiệu lại một tác phẩm bị quên lãng, như trả nợ cho tiền nhân. Sách giữ nguyên chữ nghĩa 35 năm trước, không đổi một chữ. Chị cười, nụ cười an lạc, càng an lạc khi hơn trong chữ nghĩa, vì chữ nghĩa không có tuổi, còn chúng tôi thì mang nặng gánh thời gian…

Buổi sáng trong căn phòng mờ ảo, chúng tôi nhắc đến những mối tình học trò tan vỡ và bền chặt. Tôi ngồi, nghe chị nói lòng nhẹ nhàng nghĩ về những điều không nói được giữa hai người, nhưng vẫn chia xẻ được bằng im lặng. Tôi nghĩ đến những tế bào ung thư đâu đó trong chúng ta. Có Hoại mới có Diệt. Đơn giản thôi, cớ sao lòng ta sắt se làm vậy!

Tôi nói với chị, nỗi đau như ly rượu đắng, đôi khi ta thử nghiêng ly chia bớt cho người. Mắt chị long lanh. Có thể vì hàng nước mắt sắp rơi, nhưng cũng có thể vì một nụ cười sắp hé lộ.

Tôi gỡ miếng thuốc dán trên bụng chị. Đó là miếng dán có tên DUROGESIC, loại thuốc giảm đau cực mạnh của nền y học hiện đại.

Tôi nói: Bạn hãy cố gắng ngủ đi, quên đi, quên cơn đau, quên mình, quên người. Thực ra, quên cũng là một đức tính.

IV. Sen

Tôi qui y ở chùa Từ Hiếu, một ngôi chùa cổ cách thành phố khoảng bảy cây số, trên đường đi lên Vạn Niên. Thời gian qua, không thể nhớ những bước chân tuổi thơ chạy trên những viên sỏi sân chùa cũ. Nhưng không quên, không bao giờ quên màu nước xanh ngọc bích của cái hồ bán nguyệt nằm ở mặt tiền, bước qua khỏi cổng tam quan là nhìn thấy. Ôi, màu nước in hình trời, cây cỏ, bóng chùa, cái màu xanh rêu phong mà không cũ, đầm ấm sâu thẳm mà vẫn sáng láng rực rỡ hào quang của ngọc bích. Trên mặt hồ ấy là những đóa sen hồng, sen trắng. Và bên cạnh màu hồng, màu trắng kia là màu lam khói hương của tà áo mẹ tôi.

Sau này, tôi còn dịp nhìn những sen hồng sen trắng khắp miền đất nước. Sen hồ Tịnh Tâm, ở Tây Lộc, sen ở Đồng Tháp, trong rừng tràm của khu Xẻo Quýt. Sen trên những đồng sen bát ngát ở Campuchia. Sen ở vườn thượng uyển bên Tàu. Thậm chí, tôi cũng tò mó ngắm những loài hoa rất gần với sen như bông súng, hoa nénuphar ở ngoại ô Paris, trong vườn của họa sĩ Claude Monet.

Nhưng chỉ có sen ở hồ bán nguyệt chùa Từ Hiếu gây cho tôi cái bồi hồi về một vẻ đẹp và một tình cảm lạ lùng, mà mỗi khi hình dung lại, tôi tưởng như đó là những người bạn thân thiết luôn luôn trung thành với tôi từ tuổi thơ cho đến giờ tóc đã bạc. Bởi vì, trong cánh sen kia, hình như thấp thoáng màu khói hương của tà áo mẹ tôi, và nụ cười bất tuyệt của đức Phật.

Năm 1995, con mắt của tôi bị bệnh, thị lực kém hẳn đi. Có những đêm trực ở bệnh viện, bước xuống những bậc cấp cầu thang để đi thăm bệnh, tôi dò dẫm từng bước. Tôi không còn quyền vấp ngã, vì tôi không còn gượng dậy được. Đêm dài, tôi không ngủ. Tôi nghĩ đến lúc trước mắt tôi chỉ còn màu đêm vĩnh viễn. Se sắt vô cùng. Tôi nhớ đến từng khuôn mặt người thân, ở gần, ở xa, còn hay mất. Tôi nhớ mẹ tôi. Dù ở tuổi nào, dù cuối cuộc đời, khi mất mẹ, người ta vẫn cảm thấy mồ côi. Tôi nhớ đến những đóa sen ở ngôi chùa cũ, người bạn không bao giờ thay lòng đổi dạ trong đời tôi. Và tôi vẽ những bông sen trong tâm cảnh ấy.

Trong những đêm không ngủ ấy, tôi vẽ sen bằng chất liệu màu nước. Cho nhanh. Cho đỡ mất công nhìn kỹ vì mệt mắt. Tôi thích những đài sen – vì tôi biết trong ấy có những hạt sen thơm tho – rồi những chiếc lá sen còn tươi xanh lục. Tôi vẽ những chiếc lá sen khô cuốn lại, tan tác đen nâu như ống thổi lửa. Tôi vẽ sen hồng cạnh sen trắng. Sau này, có thì giờ, tôi dùng chất liệu sơn dầu, vẽ trên giấy hoặc trên bố, tôi vẽ những nhụy hoa tàn, những cánh hoa tàn rơi trên mặt bàn mà mẹ tôi vẫn cẩn thận dùng một cái chổi đót bé tí quét gom trong tờ giấy, rồi gói lại. Mẹ không nỡ vất đi cái gì thuộc về hoa sen.

Vẽ sen say mê như vậy trong khoảng hai năm, đột nhiên tôi không còn hứng nữa. Đó là thời gian tôi đọc bộ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Đó là thời gian tôi đọc những câu thần chú trong mật tông có liên quan đến sen; thậm chí, tôi có dịp tỉnh táo để nhìn những bức họa hoa sen được thể hiện bởi bao nhiêu họa sĩ và thiền sư.

Tôi nhìn thấy ảnh chụp một đóa sen được vẽ trên đá tại vùng núi ở Hi Mã Lạp Sơn, nơi tuyết phủ quanh năm, và nơi ấy không có hoa sen, người vẽ chưa thấy đóa sen bao giờ.

Tôi hiểu ra, sen không chỉ là một đóa hoa, mà là một cái gì hơn thế nữa. Thời nhỏ, tôi cũng là một cậu bé trong đoàn Phật tử, cũng được đính một huy hiệu hoa sen trên ngực áo. Hình như huy hiệu ấy, ở Huế, phát xuất từ chùa Từ Đàm, do họa sĩ Phạm Đăng Trí vẽ (tôi biết rằng, tờ báo Phật giáo tên là Liên Hoa do thầy Thích Đức Tâm chủ biên cũng do họa sĩ Phạm Đăng Trí trình bày).

Vấn đề không phải là hình dáng sắc màu của hoa mà là điều đóa hoa sen gợi cho lòng ta. Như tích “niêm hoa vi tiếu”, khi Phật đưa đóa sen cho tăng chúng và mỉm cười thì chỉ có đệ tử Ca Diếp mìm cười đáp lại. Dù chỉ là huyền thoại, nhưng tôi cũng hiểu được cái vô ngôn của nét đẹp kia. Sen chỉ là cái cớ. Cái cớ cho người ta bước tới, hay dừng lại, tinh tiến hay vô minh. Cái cớ cho điều lành hay điều dữ. Cho tâm an lạc, hay sự loạn động. Và trong cõi ta bà này, sen – với tôi – là cái cớ để yêu thương hay từ biệt cuộc sống này. Bời chỉ là cái cớ, cho nên nó hữu hình mà vô hình, như ngọn núi xanh mà không phải là ngọn núi xanh.

Hay nói theo lời kinh, không chỉ là cái cớ mà còn là phương tiện. Để tự mình tìm thấy khuôn mặt thật của mình (Bản lai diện mục).

Tôi không vẽ sen được nữa. Bởi vì những đóa sen hồng sen trắng trở thành một ý niệm. Như mẹ tôi, như bạn tôi trở nên một phần trí nhớ của đời tôi. Cái phần đã tạo nên nhân cách của mình, và từ đó, số mệnh của mình.

Có những đêm ngồi thao thức dưới ngọn đèn, tôi tự hỏi nếu không có những cành sen ở hồ bán nguyệt chùa Từ Hiếu, thì đời tôi sẽ ra sao. Ra sao? Tôi không biết nữa, nhưng chắc chắn sẽ khác.

Những dòng này viết cho bạn tôi, để trả lời một câu hỏi. Cám ơn bạn đã gợi cho tôi bao nhiêu điều se sắt mà tôi tưởng đã vượt qua, nhưng nào tôi có vượt qua được đâu, dù có trầm tư bao nhiêu lần về Tứ Diệu đế.

Lữ Kiều

1 6 7 8 9 10 18