Ngô Nguyên Nghiễm

Ng_Nguyn_Nghim

Nghiêu Minh:
Cuộc Phiêu Hốt Tang Bồng
Của Kẻ Lãng Tử Tài Hoa
***
Tiểu Sử Văn Học: NGHIÊU MINH

– Tên thật: Nguyễn Văn Minh
– Các bút hiệu khác: Đặng Thiên Gia Hộ,
Lê Cần Sơn, Mạnh Thần
– Sinh 1944
– Quê quán: Mười Tám Thôn Vườn Trầu (Hốc Môn), Gia Định
– Hiện cư ngụ: Maryland, Hoa Kỳ

Tác phẩm đã xuất bản:
– Khóc Trên Đường Đi, Hát Trên Đường Về (tập nhạc 1984)
– Trăng Mật (thơ 1992)
– Chợ Trăng (tập nhạc 2000)
– Dấu Xưa (thơ 2002)
– Mẹ Thường Hằng (thơ song ngữ, 2005)
– Thiền Trong Cõi Tục (thơ 2013)

CD & Video
– Mẹ Thường Hằng (thơ & nhạc, video)
– Em, Người Tình Nhân Tôi (thơ nhạc)
– Bởi Có Em Tôi Ở Lại Đây (nhạc)
– Mẹ, Em Và Nguồn Dấu Yêu (nhạc)
– Em, Người Tình Nhân Tôi (nhạc)
– Khúc Tình Ca Xanh (nhạc)
– Sao Em Biết Mùa Thu Không Trở Lại (nhạc)
– Ngõ Yêu (nhạc)

Ngoảnh lại chút quá khứ, thời gian trôi nồi lãng du của tuổi trẻ, những khinh khoái tang bồng trong từng bước lăng ba vi bộ trên khu vườn đa sắc nghệ thuật, thật tình tôi cũng không thể giải thích được vài sự thân quen tri kỷ của bằng hữu văn nghệ thời xa xưa…Cái hay của bạn bè văn nghệ miền Nam, nhiều lúc ngẫm nghĩ như những cuộc tương phùng của bức tranh vân cẩu, hợp lại một cách tình cờ phù ảo, rồi tan đi như những áng mây tụ tán vô thường. Nhưng khác với thế thường nặng nề nghiệp chướng, người dấn thân vào định kiếp văn chương lại trồng đầy trong thế giới hóa sinh riêng mình, những búp sen đầy rẫy ân tình và tài hoa, bất chợt nhặt được vô tình trên bước đường chợt bước qua. Cảm ngộ tài năng của nhau, thường không cần quen mặt bắt tay, nhưng những câu thơ, âm ba lời nhạc, những nét phiêu lưu thần khí trên những họa phẩm hay tác phẩm điêu khắc…đã làm chấn động tâm thức giao cảm, rồi mặc nhiên như mối thân quen tiền kiếp vọng về.

Gần nửa thế kỷ trước, hầu hết bóng dáng phiêu bồng của bằng hữu ngất ngưởng trên không gian văn nghệ thời bấy giờ, đều căng đầy sức sống của lứa tuổi đôi mươi. Khoảng tuổi thanh xuân tràn ngập hỏa khí, dương tính trong cuộc đời cũng như sáng tác. Mỗi văn nghệ sĩ bộc phát tài hoa như những biến hóa đa dạng trong khung trời sáng hóa, mỗi một tiểu vũ trụ đầy ấp thanh khí tiêu dao. Nhìn quanh, phong thái văn nghệ miền Nam nở rộ trăm hoa hương sắc, mỗi tay bút như đã vạch riêng cho mình và cho văn nghệ một tiểu vũ trụ sáng hóa kỳ diệu. Đến nay, không khí lãng bạt xa xưa đã định hình không thể chối cải dược, về một lớp người sáng tạo dòng văn chương Việt, đáng hảnh diện cùng văn chương nước ngoài. Lớp văn nghệ sĩ đó, giờ trải cuộc đời lưu lạc hiện diện khắp cùng thế giới, trải rộng tinh hoa sáng tạo rực rỡ khắp hành tinh nầy…Lớp tuổi Cung Tích Biền, Viên Linh, Trần Tuấn Kiệt, Phan Bá Thùy Dương, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Lâm Chương, Trần Hoài Thư, Phạm Nhã Dự, Nguyễn Cát Đông, Trần Yên Thảo, Nguyễn Tôn Nhan, Lâm Hảo Dũng, Hoài Ziang Duy, Nghiêu Minh…thật sự đóng góp rất nhiều trí tuệ và hóa thân cùng cực trong văn nghệ bên cạnh cuộc sống đầy cuồng rối hôm nay.

Thập niên 60-70 thế kỷ qua, nhìn lại như bèo trôi gió dạt vẫn loáng thoáng trong trí nhớ nhiều hình ảnh kỳ diệu của bạn bè văn nghệ. Ngoài những thâm tình đã có với bao la bằng hữu, tôi đến với Nghiêu Minh cũng bằng một sự tình cờ như định nghiệp sắp đặt. Trưa một ngày cuối đông năm 1973, nhà thơ Trăng Thệ Hải (Vũ Đình Trường) phiêu hốt qua tệ xá, trên tay khệ nệ một cặp táp căng phòng, chắc có lẽ đầy rẫy tài liệu, giấy tờ gì đây. Trăng Thệ Hải thưởng ngao du đây đó, thình thoảng tạt qua thư trang loáng thoáng vài thời khắc thăm viếng nhau rồi lại tách bước biền biệt như cơn gió chợt thoảng. Trà nước đãi bạn để kéo dài câu chuyện tham thảo cùng nhau như Trăng Thệ Hải đề nghị, tôi ngờ ngợ chuyện văn chương, nên sẵn sàng trong thư giản. Trăng Thệ Hải với tên cúng cơm thường gọi giữa anh em văn nghệ đồng song với nhau là Thành nhà báo, vì tài bay nhảy kinh doanh, tổ chức xuất bản tạp san văn nghệ quảng cáo, hoặc những đêm thơ trình diễn tại nhiều tụ điểm như Hầm Gió, Phấn Thông Vàng .v.v.Khệ nệ xấp xếp lên bàn giấy, một bên là bản thảo bài vở bạn bè văn nghệ thời vàng son, một bên là một xấp biên lai quảng cáo của các nhà tài trợ, Trăng Thệ Hải vào chuyện đang làm tờ báo xuân với tham gia nhiều tên tuổi như Phạm Nhã Dự, Hà Thúc Sinh, Lâm Chương, Nguyễn Lê La Sơn, Thụy Miên, Yên Bằng, Nghiêu Minh….Ngoài việc mời tôi cộng tác, Trăng Thệ Hài chuyển đọc các tác phẩm anh em có mặt trong tờ báo. Phần đông, ngoài bao dàn các tin thời sự, sớ táo quân, chuyện văn nghệ, ca sĩ thời thượng của tay bút Trăng Thệ Hải, tác phẩm bằng hữu góp mặt là những bài thơ tâm đắc, sở trường của các văn gia thi sĩ. Chính vậy, cầm bản thảo tò mò đọc, cái chú ý trước tiên trước mênh mông thơ phú, câu đối, tranh biếm họa…là một kịch truyện Mùa Xuân Hoa Giấy và một đoạn nhạc đệm cho bài kịch nói cùng tên Mùa Xuân Hoa Giấy, được giới thiệu rút từ bài Tóc Mây, trong tập Mười Thể Phách Cho Tình Yêu, của tác giả Nghiêu Minh. Thời mà những kịch thơ của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng là những bóng mát cho cuộc trình diễn thơ nhạc sân khấu. Hay những vở kịch nói bác học kinh điển của Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng ít nhiều ghi lại trong tâm thức người đồng điệu. Dù vậy, cũng còn rất ít người tâm huyết thưởng ngoạn hình thể kịch sân khấu như vậy. Có lẽ, tôi cũng là một kẻ thưởng ngoạn lạc loài trên bước đưởng soi ngắm những khuynh hướng truyện kịch, nên tò mò nêu những điều chưa biết về nhà văn nhạc sĩ Nghiêu Minh. Trăng Thệ Hải chỉ cười nói, Nghiêu Minh là bạn thân mười tám thôn vườn trầu của Phạm Nhã Dự, hôm nào phiêu bạt về Bà Điểm chắc chắn sẽ tương ngộ, lo gì.

Nói thì dễ như trở bàn tay, nhưng năm nầy tháng nọ trải dài trên cuộc biến đổi tang thương của đất nước, sự tao ngộ lại là sự thách đố không có đoạn kết, vì chân trời góc biển vẫn là rào cản hữu vi, tâm thức chưa vượt qua được. Đoạn đường tri ngộ vẫn lạc loài trong vô thức, đến ngày Phạm Nhã Dự, Nguyễn Lê La Sơn định cư tại Mỹ, tin bỗng bay về , anh em hội tụ nhắc nhở tên nhau qua đường giây nói liên lục địa. Phạm Nhã Dự phấn khởi thông báo, “anh em đông đủ cả trên bàn rượu tương phùng, ông nói với từng anh em nhé. Nghiêu Minh, Lâm Chương, Nguyễn Lê La Sơn, Hà Thúc Sinh, Trần Kiêu Bạt, Phạm Nhã Dự”….Đêm hôm tương ngộ , bên nầy trời đại dương tôi đang ngồi đối ẩm với Dương Trữ La, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Phan Thịnh…. dưới bóng cây lão mai trước sân Thư trang Quang Hạnh. Anh em văn nghệ hai đầu nỗi nhớ tràn đầy , đối thoại như pháo xuân nở rộ. Buổi kỳ ngộ bỗng nhiên lại là bước nối kết chặc chẽ , trong đó khoảng thời gian dài tận giờ Nghiêu Minh thường xuyên gởi những tác phẩm tâm huyết về tặng bằng hữu. Từng đĩa CD , từng ấn phẩm Thơ nhạc, là những hạnh ngộ đầy tương giao và phiêu lãng của những kẻ làm văn nghệ , với tâm thông , hiền triết, trao nhau như trao gươm báu và ấn tín.

Nghiêu Minh bước nhẹ hững như cơn gió lướt phù ảo trên dặm trường. Chính vậy, sáng tác của Nghiêu Minh vẫn tràn đầy cái chân, trong sáng, hành đạo như một tăng lữ trải rộng vô ưu chiếc bóng phù ảo trên suốt đoạn đường nhập thể với thi ca, với âm nhạc, với hội họa…Bên cạnh nghệ sĩ, hình như cũng có nhiều ành tượng thần vĩ của bạn bè luôn luôn sát cánh với Nghiêu Minh trên lộ trình hóa thân nghệ thuật…Những bằng hữu thơ văn, hội họa, âm nhạc, điêu khắc… như Hoài Ziang Duy, Phạm Nhã Dự, Kinh Dương Vương, Trương Thành Vân, Hà Thúc Sinh, là những tinh quang lấp lánh bên nếp sống chân tình đầy tính đạo pháp và nghệ sĩ.

Đến nay, Nghiêu Minh đang phiêu bồng trong vài mươi tác phẩm khai hóa trong một chân tâm hạnh ngộ với tình mẹ, quê hương, tình yêu và chánh pháp…Sự chân thật, giản dị trong tác phẩm bao giờ cũng là nét chánh, được phát khởi từ một sự chân thật. Tác phẩm phát khởi trong yếu chỉ trực diện với tâm thức, nên sự trong sáng là nét rực rỡ trong từng câu thơ, từng giai điệu âm nhạc. Hôm ngồi nghe lại từng CD nhạc, đọc lại những thi phẩm của Nghiêu Minh, tôi chợt thấy rõ nét hơn tài hoa hồn hậu của bạn hiền. Lúc nào cũng vậy, Nghiêu Minh luôn khoác trên hình thể chiếc áo đầy đặn chân thành, thơ nhạc thể hiện rõ rệt chân hướng mà hiền giả hướng tới suốt cuộc đời. Những chân chất phát tiết một cách tự nhiên, không ràng buộc ngã chấp, dù anh đang nghiêng ngã trước những xúc cảm từng phen lưu trú trong hồn. Thi phẩm Mẹ Thường Hằng, khiến tôi trào dâng nhiều cơn uất nghẹn, như những sự liên tưởng kỳ diệu mà suốt một đời người, cái đạo vẫn như vầng trăng không bao giờ khuyết, kinh thiên động địa vẫn âm thầm chiếu sáng rực rỡ giữa vũ trụ ta bà. Lâm Hảo Dũng trong bài thơ Còn Không Ngày Về, đã làm tôi nghẹn ngào những lần đọc lại :

Mẹ có mắt sầu cao chất ngất
Nên hồn con lạnh lẽo đến bao giờ
Nhà chắc dột bởi từ khi vắng mặt
Những thằng con đủ cánh để bay xa

Và dòng sông thương những hàng rơm mục
Những hàng cau buồn chết được lòng con
Thuở mẹ già biết cau còn kết trái
Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn

Như lũ sáo vu vơ ngoài dậu cũ
Mắt đăm chiêu ngày nắng mới chang chang
Mẹ vẫn cứ mồ hôi trên áo vá
Đắp vồng khoai liếp cải nghĩ mênh mang

Bom đạn chắc không còn ru mẹ ngủ
Và đàn em dăm đứa nhởn nhơ cười
Mắt có xa cho một lần thương nhớ
Hình bóng con vời vợi cuối chân trời.
(Còn Không Ngày Về/ Lâm Hảo Dũng)

Thi phẩm Mẹ Thường Hằng cùa nhà thơ nhạc sĩ Nghiêu Minh là một thi tập trang trọng gói ghém 10 bài thơ dâng trọn vẹn cho Mẹ hiền trong đạo làm người, khiến người đọc cảm thông “với tấm lòng chân chất, mộc mạc, những cảm xúc bình dị của một người con nói về Mẹ (Hoài Ziang Duy/ Nghiêu Minh, Người gieo hạt )”. Và nhà văn Trần Hoài Thư, xúc cảm qua một bài thơ, phát biều: “Anh Nghiêu Minh. Thơ về má của anh làm tôi muốn rưng nước mắt đây.Người má qua thơ anh giản dị quá, chung thủy quá, từ bi, từ lượng quá. Đâu cần phải trăm suối nghìn sông hay biển Thái Bình chảy thành ân lượng.Đâu cần phải bông hồng cài áo. Bởi những lá trầu xanh kia trải xanh thảm lòng người. Bởi mùi đất thở kia đã thở quyện vào tình người.Bởi từng chiếc nấm tràm từ quê nhà gởi sang là tình mẹ bất diệt để đứa con xa cố hương phải bồi hồi…” Thi phẩm Mẹ Thường Hằng cũng đã bật lên những tán thán vô lượng về hình ành thái sơn suối nguồn vô cùng vi diệu, trăm biển ngàn sông vẫn là sự so sánh hữu hình chật hẹp quanh tri thức con người. Nghiêu Minh phụng hiến từ thi tập thành 7 ca khúc nhạc Mẹ Thường Hằng: Mẹ Từ Bi-Mẹ Như Đóa Sen Nghèo-Mẹ Là Nguồn Ân Bao La-Mẹ Cội Nguồn-Mẹ Tôi Và Giàn Hoa Thiên Lý-Mẹ Về Chân Trời Thật Xa-Rồi Mẹ Như Cánh Hạc Bay. 7 ca khúc được kinh tụng qua tiếng hát các ca sĩ Hồng Ngọc, Nhất Sinh, Thùy Dương, Tam Ca Hải Âu, Khắc Dũng,Bích Phượng. Quỳnh Lan….Quả thật, Nghiêu Minh đi vào nghệ thuật bằng chất đạo, chất người… đầy vẻ tiêu dao phóng đạt của một sự trong xanh chân thiện mỹ. Cảm ngộ tâm thức chân như của nhà thơ, trước những giá trị bất biến uyên nguyên trời đất, người đọc có hạnh phúc mênh mang gì không khi chiêm ngưỡng hồn thơ ? :

Mùa xuân nào con sẽ về thăm má
(Như mỗi hoàng hôn chim về tổ xưa)
Mười tám năm tưởng đường dài hóa đá
Mừng má còn đây, con khóc như mưa!

Phút đầu tiên con đứng hoài trước cỗng
Để nôn nao nghe nhịp chổi bình minh
Sương còn lạnh, má gom từng lá mận
Quanh lửa hồng, má thanh thoát lung linh

Nầy sân cát, hàng cau chim ríu rít
Như thấy con, người bạn cũ năm nào
Con gọi má…rồi, lời không thành tiếng
Hai má con cùng giòng lệ tuôn trào!
***
Con đứng trước bàn thờ Ba khấn vái
Thương má gian nan may vá tảo tần
Ba mất, má chưa tròn ba mươi bảy
Giờ nhớ lại càng thương má vô ngần

Đường có dài, đại dương có rộng
Trong âm dương con thấy ba về
Hình ảnh má là chùm mây sống
Bay quanh con vẽ một trời quê
(Xuân Nào Con Sẽ Về Thăm Má/ Nghiêu Minh)

Nghiêu Minh bước đoạn đường dài phiêu lãng, nhưng gói hành trang nghệ thuật của anh bao giờ cũng đươm đầy nét chánh khí. Chính sự chân thật trong sáng tạo, nhiều khi tác phẩm có vẻ bình dị, đi xuôi vào lòng người đọc bằng những nét chấm phá cổ phong. Từ hai thi tập vương vải nhiều tình khúc như Trăng Mật (1992), Dấu Xưa (2002)…chuyện đời nhiều khi cũng là sự ráp nối từ nhiều đoạn đường, tăng trưởng theo thiện duyên hay ác nghiệp, mà đúc kết theo nghiệp quả. Nhà thơ nhạc sĩ Nghiêu Minh dàn trải tâm thiện trong tư tưởng, lối sống, và trên hành trình văn học…phải chăng là bước phiêu du sáng hóa tạo cho riêng cho mình một khuynh hướng ước lệ trong nghệ thuật. Tôi từng biết Nghiêu Minh có nhiều phen ngã bóng phiêu hốt trong những cơn khát vọng tìm tòi cái chân trong sáng tạo. Đuổi bóng khi bình minh, theo bóng giữa ngọ, và nhặt bóng khi hoàng hôn rụng xuống, Nghiêu Minh đóng vai hành giả cất bước dong ruỗi với kinh phúc âm trên vai, chợt ẩn chợt hiện tìm phục sinh trên đoạn đường núi Sọ… Quang quả hành trình bất chợt trong kiếp phù sinh, mọi ảnh tượng và lời rao giảng , cũng chỉ là đoạn đường ước lệ, sự tăng trưởng trong tình yêu hóa giải chưa hết tâm khúc vô thường. Chàng nghệ sĩ lại quầy quã đáo bỉ ngạn, áo vàng bình bát tìm bờ, sự vượt thoát qua cơn mê nghệ thuật bằng những cơn thiền ngộ trong bất kỳ cõi hiện thực nào vừa bước qua. Nghiêu Minh trong Thiền Minh Sát là một hình ảnh dễ thương, gần gũi, bình dân…dù anh chỉ Thiền ngộ riêng cho mình (nguyên thủy). Phải chăng phương cách mới cho thêm một quan niệm nghệ thuật, là cách khơi dựng thiện quả, thế tục bớt đi một nghiệp chướng..

Cuộc phiêu hốt tang bồng trong khung trời nghệ thuật, của một tài hoa lãng tử nầy vẫn còn phiêu bạt hành trình trong cuộc sáng hóa nghệ thuật vô lượng vậy.

Thơ Viết Giữa Trời Hạ Chí
Tặng Cơn Mơ Của Rừng

Từ tranh bay vút linh cầm
Mống đảo sắc giăng đồi thanh khí
Cháy ngút bình nguyên hạ chí
Lửa lập lòe khép kín mưa hoa

Quẻ kiền thắt nút thiên hà
Bụi tinh tú long lanh sấm sét
Lất phất hạt cường toan dội nát
Hóa thân chơi, ánh sáng nhòe bay

Ngựa hồng tụ tán hí đâu đây
Một gánh phong trần vứt đại
Hằng hà mưa trời sắc giới
Làm sao nhảy vọt pháp thân

Lăn lóc rừng mã não bập bùng
Ớ kìa, niềm hoan hỉ cháy
Trận gió Càn đong đưa ngọn cỏ quái
Ớ kìa, nặng phân tử nhà ai ?

Nẩy mầm a, thiên thu đáo tuế
Hài nhi về nhú trăng xanh
Ồ, hạt sữa trắng xóa thiên nhiên
Ăm ắp đầy hoa thạch nhũ

Chim kỷ hà liên hồi cánh vỗ
Ngàn xưa nhuộm đỏ bụi đường
Vun vút gió chở làn hương
Ðùn đẩy trồng quanh cổ mộ

Bằn bặt đàn tràng đảo vũ
Ớ kìa, lóng lánh rừng nguyên sơ
Phơn phớt sườn thảo nguyên khô
Thịt xương ai nằm vương bụi cỏ

Lác đác thái dương áo rách
Trời Phạm Thiên vén cánh hoàng hôn
Vút bay thoáng bóng linh cầm
Phong vũ bơi đầy đáy mắt

Ớ kìa, bầy linh cầm phương Ðông
Oằn mình tắm cầu vồng đảo sắc
Sừng sững gáy từng hồi trong vắt
Khạc đầy pho kinh điển san hô

Hằng hà thánh địa trong mơ
Cháy đỏ càn khôn khủng khiếp
Âm âm lăng mộ tháng tư chay
Mưa phủ núi bao giờ dứt hạt ?

Sơn Khê

Trắng mắt nhìn ra trời viễn xứ
Màn đêm lồng lộng kín chân mây
Ráng xa có cố mong manh thở
Cũng đỏ mơ hồ một khóm cây

Như bếp mùa đông nhen nhúm khói
Tro than tàn lụn thật vô tình
Nếu không đứng dưới trời giông bão
Đâu nghĩ ra mình ngọn cỏ hoang

Dửng dưng xuôi ngược đường nhân thế
Chiếc lá nào bay quá ngẩn ngơ
Mấy đợt sơn ca rung rúc gáy
Gọi người nghiêng ngửa kiếp xơ rơ

Ai muốn im lìm trong định số
Mặc tình con nước đuổi xô về
Cầm bằng một cánh phù dung nở
Hốc đá hoang tàn không khách qua

Mấy phen cố dựng trên sơn đỉnh
Thạch bản lung linh dưới nắng chiều
Soi mỗi đời người một bản vỗ
Bản nào phong thổ giống ta đâu?

Bởi suốt tháng năm đầy tiếng trống
Giục vào tiềm thức chút hưkhông
Đáy lòng nhè nhẹ xoay con trốt
Bay thẳng ra ngoài giấc mộng trung

Thế giới trong ta không cửa đóng
Khói mây mù mịt góc vườn xưa
Những đêm thức giấc như trong mộng
Thản thốt canh tàn rụng gió mưa

Tai vẫn lắng nghe từng điệu nhạc
Mơ hồ ngọn cỏ lớn theo trăng
Lần theo gậy trúc lùa sương gió
Sương gió lùa ta không nói năng

Thản nhiên rũ áo giang hồ bạc
Cát bụi ra hoa lạnh bốn bề
Ai sống âm thầm trong xó tối
Mà không heo hút bóng sơn khê?

Ngơ ngác bước trên bờ núi nhỏ
Nhìn quanh rờn rợn nét phong ba
Ai xô ta xuống giòng sông lạnh
Lãnh khí soi vào giữa giấc mơ

Hôm nay sóng nước về tăm tắp
Cổ thụ nằm ven con bến trưa
Lặng đứng chờ qua năm bảy kiếp
Vẫn chưa thấy được bóng chim xưa

Ngàn sau sử chép rằng cô khách
Đập nát cây đàn dưới miễu hoang
Ôm đá lạnh lùng lên chót núi
Hú dài theo tiếng đá lăn nhanh.

Trăng Soi Hoa Nở
* Tặng Nguyễn Tôn Nhan

Trí tuệ nẩy mầm thiên tuế
Khoảnh khắc dừng gót phiêu bồng
Triệu quang niên quay tít quanh hồn
Ngoại thiên chất chồng từng dãy

Ðáy mắt chứa hằng hà quẻ quái
Ðộng rèm thiêng cỏ dậy mơ hồ
Gió lung lay vi khuẩn hoang sơ
Chớp nhoáng soi bờ thu thảo

Sấm động phạm thiên vỗ áo
Hoàng hoa thiên cổ xuống nghe trăng
Từng hạt Kinh quẫy lá chiều sang
Cát bụi hồ bay lãng đãng.

Trước mặt đầm đìa sương tả ngạn
(Trùng trùng sương trắng xóa nhân gian)
Dấu chân trâu Lão tử ngược dòng
Hóa ra, phong trần trên nếp áo
Rượu càn khôn rải theo dấu máu
Chuyển pháp luân dưới ngón tay gầy
Hiểu rằng, mát ngọn gió may.

Sáng nay hoa tường vi nở rộ
Quả khí cầu lăn quanh mộ cổ
Ngỡ ngàng mấy giọt lân tinh
Cháy lân la trời đất vô tình
Rúng động mười phương bằn bặt

Giày cỏ, tiếng côn trùng lảnh lót
Nạ dòng ngạ quỷ căm căm
Vạch cổ thi soi đậm bóng trăng
Ôm hàn khí sếu hồng bay mất
Ðất bừng nở cát vàng bồ tát
Từng bước đi ngọc vỡ long lanh
Rồng bay theo bước Kinh hành
Pháp hoa rải sáng trời tân ước.

Giở nón chào đuôi trâu biến mất
Lạ lùng thiên địa mảy lông
Cởi áo người, cởi áo trời rồng
Phong thổ thấm nhuần hơi thở
Ngồi, ổn định đầu mây cuối gió
Vùn vụt trời xanh thoát qua thân

Trải hồn như chiếc kén ngàn năm
Giây phút định thần hóa bướm
Áo rách máng tàn cây xóm vắng
Chờ nhân gian hoa nở trăng soi.

Tân Khách

Tinh sương thoang thoảng tiếng khèn đồng
Vàng vọt đèn soi màu xe ngựa
Ta đứng bên cầu không chỗ dựa
Lùa đời theo nước chảy mây trôi

Như lùa bò mộng bước qua đồi
Trăm ngõ gập ghềnh đầy gai sắc
Ba mươi năm chờ vầng trăng mọc
Thiên nhiên rên rỉ tiếng côn trùng

Bên án thưbày giữa thư phòng
Thư khách ngủ vùi trên thế sự
Khói mỏng chập chờn quanh điếm lữ
Mộng hề. Mộng hề. Trời không hay

Tiếng độc huyền lòn lõi đâu đây
Bầu đã cạn từ trăm năm trước
Ta cũng vô tình vơi một bước
Mà nghe khí hậu khác trăm bề

Từđâu ngọn gió thổi vọng về
Đưa biển lớn tràn vào lá phổi
Sương muối rớt dọc rào cây cối
Điểm trắng bờ kinh xáng tháng ba

Vàng bay, vàng bay trên tỳ bà
Lững thững bước âm thanh cẩm thạch
Người du sĩ gậy cong áo rách
Ngẩn ngơ nhìn trời rộng theo mây

Trong hè phố hàng trẻ vỗ tay
Hát từng khúc đồng dao hiu hắt
Ta giật mình về nhanh như cắt
Thấy hàng cau trổ nặng sau hè

Lòng bỗng chùn như bóng con đê
Năm tháng đứng soi mình lặng lẽ
Sao xuống thế bên kia đê nhỏ
Ta âm thầm theo dõi ngày xưa

Tiếng sáo diều reo giữa ban trưa
Làm rung động gương đời cổ kính
Trống giục giã trên đầu bảy đỉnh
Lồng lộng bay xuống tận bình nguyên

Tiềm thức vừa đánh vỡ trong đêm
Rơi lấp lánh như rừng tinh tú
Bức màn cũ vô tình hé mở
Mời người quen ghé bước vào tranh

Thuyền trăm năm quày quả ra dòng
Hình tượng phai nhòa luôn ký ức
Ngựa xe đỗ bên rào dâm bụt
Nằm lao xao dưới bóng hoàng hôn

Lữ khách đi có vạc kêu sương
Không hẹn lấy một ngày trở bước
Nước sông Hậu mà như sông Dịch
Thầm lặng trôi dưới mọi tình cờ

Mộng hề. Mộng hề. Đến bao giờ
Con bướm từ lòng tranh trở lại
Vỗ đàn, ca. Lời vang vách núi
Bốn phương lồng lộng tiếng thiên thu

Gió núi từ đâu reo. Ú ù
Đàn trâu cổ nghểnh đầu nhai cỏ
Sau hàng tre là làng khói nhỏ
Có ta nằm vò võ trong ta

Tiếng võng đưa kẽo kẹt bên nhà
Trưa nay mảnh gương đời vỡ nát
Tiếng khèn ốc âm u trôi dạt
Xoáy cuồng điên ở nẻo hoang vu

Ta đứng lên khêu ngọn đèn lu
Mờ tỏ bóng chanh vàng trước ngõ
Chợt thấy vành khuyên vừa hót rộ
Tân khách về bên ngọn cỏ may.

Son Sắt Phương Đông

Gói trọn hoàng hôn chấp chới bay
Phải không ngày ngắn để đêm dài
Nghe trong điệu cỏ lời sương dậy
Mang chút ân tình vướng vất trôi

Tinh huyết ngàn năm thoáng hiện về
A! ha! Lăng miếu đổ tư bề
Hay chưa bia đá nằm lau lách
Từng giọt hồn hoang thắm đất quê

Xao xác hàng cau gọi mái tranh
Bên nhau mà đứng lạnh âm thầm
Lỡ trong buốt giá không còn gió
Xương thịt người xưa ai viếng thăm?

Cứ thổi rạ lên mộ chí đời
Vàng chiều vàng lẫn lộn mây trời
Bốn phương ngơ ngác trầm hương đọng
Tích cổ còn ghi phiến đá chơi!

Nét thảo Nôm buồn ngủ trước lăng
Lao xao thập kỷ đứng điêu tàn
Cổ nhân có gởi lòng theo gió
Gió cũng thổi về soi dưới trăng

Soi dài sơn thủy mấy ngàn năm
Máu đỏ hồn xanh dạo nguyệt cầm
Khí phách đâu đây về đọng lại
Ơ hờ lưới nhện đứng chiêu anh

Lếch thếch quay về hướng tổ rơm
Đèn chao vách lộng gió nam non
Đá lăn trong quãng đời du mục
Bỗng chốc âm về tiếng sắt son

Con chim son sắt hiếm hoi về
Đứng bên mộ cổ hót trăm bề
Hót theo sợi khói chiều vương vấn
Vàng trời ráng cháy lạnh hồn quê!

A há! Thì ra đá động lòng
Núi mờ sương vắt dạ Phương Đông
Khói hương đâu đủ tràn tâm huyết
Thương tóc già nua rụng trước sân!

Hạt bụi giang hồ giũ gót chân
Cũng như thương khách phải phong trần
Trơ vơ bên đỉnh tinh cầu lạc
Ngoái vọng đời trăm cuộc hóa thân

Thật giả mơ hồ sợi khói bay
Lao xao cảnh trí nơi nào đây
Ai đem nhựa đắp đường điêu khắc
Thạch bản mơ hồ khóc cỏ cây

Đã thế con tim vẫn giữa lòng
Giữa trời giữa đất giữa vô cùng
Giữa bao sương muối thăng trầm sống
Sao vẫn mơ hồ chuyện cố hương?

Thương hồ muốn gói lại bên vai
Phong ấn tràng giang với nụ đời
Cổ miếu mấy phen thầm lặng đứng
Đèn nhang xô lệch với trần ai!

Run rẩy bên bầy đá động lòng
Núi mờ sương vắt dạ Phương Đông
Con chim son sắt về bên gối
Tha mộng quê người xao xuyến không?

Ngô Nguyên Nghiễm

Minh Nguyễn

Thảo Nguyên

Buổi sáng. Trên con đường dẫn tới bìa rừng, bọn trẻ mục đồng thức sớm, lùa đàn gia súc đi chăn thả trên cánh đồng cỏ. Đêm qua sau cơn mưa giông tầm tã .Sáng ra, bầu trời hé lộ đôi chút ánh sáng, báo hiệu một ngày nắng ấm. Vào những ngày như thế, thảo nguyên nổi lên như một quần thể xanh biết, giữa sắc màu lộng lẫy với vô vàn sim mua, cỏ ống, cỏ đuôi chồn cùng với đám quì dại lui dần về phía cuối thung lũng.

Đang khi còn ngầy ngật bởi cơn ngái ngủ, bọn trẻ chợt sững sờ nhìn lên con đường dốc cao trước mặt. Nơi đang hiện ra một hình thù kỳ quái nửa hư nửa thực, chưa thể định hình. Không một đứa trẻ nào dám lên tiếng, hé môi hỏi han nhau lấy một lời. Chúng cảm thấy đang có sự sợ hãi đè nặng lên lồng ngực; khiến chúng đùn đẩy nhau,cố chọn cho mình chỗ nấp an toàn. Cuối cùng,cái đám lộn xộn tưởng chừng gan dạ kia đã lẩn trốn sau bụi cây dại, len lén vạch kẻ lá ra để được nhìn tận mắt, cảnh tượng mà chúng cho rằng khá lạ lùng.

Dưới ánh sáng chói lọi đầu ngày. Bóng nắng kẻ một vệt dài xuyên suốt qua lớp sương mù. Lộ ra gương mặt gày gò,hốc hác nơi gã đàn ông.Gã mặc trên người bộ quần áo cỏ úa bạc thếch không còn phân biệt rõ màu sắc.Gã phải khó khăn lần từng bước đi vụng về trên chiếc nạng gỗ lấm đầy bùn đất cùng với chiếc túi cóc khoác vai.Thật ra gã đàn ông có thân hình xấu xí kia là ai ? Gã tìm tới nơi chốn hoang vắng này để làm gì? Sự hiếu kỳ đã lôi cuốn trí tưởng tượng bọn trẻ đoán già đoán non rằng: gã là thương binh trốn trại xá hay ít ra cũng là kẻ lạc đường. Nhưng cho dù gã có là ai chăng nữa, thì điều đó đâu có liên quan gì tới sinh hoạt thường nhật của hầu hết cư dân quanh đây.

Trong khi chờ đợi cho đàn gia súc và bọn trẻ đi qua. Gã bước tới ngồi xuống bên gò đất cao. Hướng tầm mắt nhìn ra thảo nguyên xanh rờn thảm cỏ, trải dài mút tận chân trời. Tổ quốc đây sao ? Là đất đai mầu mỡ.Là núi non trùng điệp quàng vai nhau đứng lên. Là con sông dài, đổ xuống từ thượng nguồn, chảy băng băng qua những cánh rừng, xóm làng, tỉnh thành để rồi xuôi ra biển. Và cũng từ chỗ ngồi ấy, gã hít thở bầu không khí trong lành một cách khoan khoái; khác hẳn tháng ngày qua gã phải sống tù túng, buồn chán bên bốn bức tường cáu bẩn bệnh viện, để cho đến hôm nay gã cảm thấy mình tự do. Sự tự do mà chính bản thân gã đã trả giá bằng một chiếc chân bỏ lại ngoài chiến trường. Nhờ có sự may mắn gã được thoát khỏi cái chết trong gang tấc.Bằng không giờ này mồ mã gã đã xanh cỏ như bao bạn bè xấu số .Chỉ nghĩ tới điều đó cũng đủ làm cho gã trở nên buồn chán nảo lòng.Thật ra với đời sống hiện hữu sẽ không là gì đối với gã. Sống hay chết chỉ một lần trong đời người, nhưng với gã, g’e3 cần phải sống,cần kiếm tìm ra cái quá khứ bấy lâu nay không thuộc về gã. Bởi nó đã bị mất đi trong trận chiến khốc liệt với quân thù. Kết quả là gã bị hôn mê sâu sau nhiều ngày, do thương tích trầm trọng, đến nổi gã chẳng còn nhớ mình là ai, gia cảnh thế nào ?

Nhác trông thấy bọn trẻ có vẽ quan tâm tới mình.Gã đàn ông vội cảnh giác, bằng cách dùng cả hai tay, cố giữ chặt chiếc túi đặt cạnh bên.Điều này khiến bọn trẻ càng sinh nghi ngờ. Chúng quyết tâm tìm ra bằng được sự bí mật nằm trong chiếc túi căn phồng kia, xem đó là cái gì ? Vốn ranh mảnh, bọn trẻ họp nhau lại với kế hoạch dùng hai – ba đứa rượt đuổi nhau, làm như vô tình trượt chân té nhào vô người gã; đồng thời xô luôn chiếc túi xuống đất. Từ trong túi, một búp bê gái bằng nhựa văng ra ngoài, mặt úp xuống đất. Nhìn cảnh tượng đang diễn ra; bỗng dưng gã đàn ông vật vã khóc rống lên nghe rất thảm thương
Quá lo sợ. Bọn trẻ vừa lo nhặt nhạnh các thứ vung vải trên nền cỏ, vừa bước tới trước mặt gã nói: ” Chú ơi ! Chúng cháu xin lỗi chú. Xin chú đừng khóc nữa. Được không chú ?”.

Gã đàn ông gạt nước mắt, nhận chiếc túi cùng với con búp bê. Gã ôm ghì nó vào lòng rồi vuốt ve nó như chính đứa con của mình. Ôi ! Búp bê xinh đẹp. Con búp bê gã đã mua nó trong lần cùng đồng đội di chuyển ngang qua thành phố vừa giải phóng.Nhưng để tặng ai hay làm gì thì gã không tài nào nhớ được. Búp bê xinh.Gã rấm rứt khóc trước hình hài vô tri vô giác. Tiếng khóc mới đầu nghe tưởng bình thường nhưng càng lúc càng trở nên thống thiết, khiến ai nghe cũng thấy mủi lòng.

Không biết làm gì hơn. Bọn trẻ, bỏ mặc cho đàn gia súc đi tràn qua trảng cỏ. Chúng bối rối đứng vây quanh gã với mong muốn xin được tha thứ. Bất ngờ,gã đàn ông đổ lăn kềnh trên mặt đất. Cả bọn sợ cuốn cuồn. Đứa lo lấy dầu xoa bóp, đứa lấy nước đổ vào miệng gã, lay gọi .May sao gã sớm hồi tỉnh lại.Gã hé đôi mắt mệt mỏi nhìn mọi người khắp lượt, miệng thều thào nói lời cám ơn.

Kinh nghiêm từ những cơn đói lã do không tìm ra cái ăn sau mùa lũ, bọn trẻ sớm đoán biết gã đàn ông kia, sở dĩ bị ngất đi do ăn uống không đầy đủ. Nghĩ vậy, bọn chúng xúm nhau lấy thức ăn mang theo bên mình dọn ra cho gã ăn. Phải mời mọc,nài ép năm lần mười lượt gã mới chịu nhận cho củ khoai,nắm cơn,con cá. Dù sao,gã nghĩ,cần có chút gì bỏ bụng để còn có sức lên đường đi tiếp. Cứ thế gã được bọn trẻ cổ vũ, cười nói huyên thuyên. Chẳng bao lâu quan hệ giữa những người xa lạ,dần dần trở nên thân thiết.Và qua từng mẩu chuyện do gã kể lại,bọn trẻ tha hồ thả trí tưởng non nớt của mình tới những trận đánh khốc liệt, đầy sự hiểm nguy,chết chóc,thương tật. Để minh chứng cho lời nói của mình. Gã không ngần ngại dùng cả hai tay nâng cao chiếc đùi teo tóp, mềm nhũn sau ca phẩu thuật cho bọn trẻ xem.Ồ ! Cả bọn đứng trố mắt ra ngạc nhiên. Bởi đây là lần đầu tiên chúng được tận tay sờ mó vết thương xấu xí, mà qua thời gian đã trở thành mặt sẹo nhăn nhúm đến ghớm ghiết. À! ra gã là thương binh. Người thương binh từng bỏ lại chiếc chân mình nơi xó rừng cùng một quá khứ không tài nào nhớ được.

Để xẻ chia phần nào sự bất hạnh cùng đồng loại. Bọn trẻ tự nguyện vượt rừng,lội suối,len lỏi vào tận vùng sâu mang về cây lá, dựng lên cho gã một chỗ trú. Gian lều nhỏ, thiếu thốn tiện nghi nhưng dù sao cũng còn có nơi cho gã chui ra chui vào.Hôm đứng trước nơi ở mới còn thơm nồng mùi rơm rạ. Gã mở to lồng ngực hít thở thật sâu niềm hạnh phúc do con người ban tặng. Ừ ! Gã đâu ngờ rằng: trong xã hội toàn những gian trá, lọc lừa, đĩ bợm vậy mà nơi xó rừng nghèo nàn này vẫn còn những tấm long nhân ái, bao dung. Sẳn sàng nhường cơm xẻ áo cho con người xa lạ chẳng hề quen biết như gã.Từ đó mối ác cảm, hoài nghi trong gã biến chuyển sang hướng tin tưởng và biết ơn con người hơn lên. Chính vì vậy mà tâm lý nặng nề vốn đè nặng trái tim gã bấy lâu nay, cũng vơi nhẹ đi những nỗi ưu phiền.Nhờ thế gã mới có thể sống vô tư bên bọn trẻ, để ngày ngày theo chúng ra thảo nguyên lang thang hết ngọn đồi này sang cánh rừng khác. Hết con sông này tới con suối khác. Có hôm do quá mệt mỏi, gã quên mất lối về; cứ thế nằm lăn ra trên thảm cỏ ngủ qua đêm.Sáng ra, bọn trẻ không thấy gã đâu bèn nháo nhác bủa đi khắp nơi tìm kiếm. Cuối cùng, bọn trẻ tìm thấy gã đang lửng thửng đi về phía lũng sâu. Nơi có con đường đất đỏ ba -dan hướng thẳng tới khu xóm nhỏ, lác đác vài mái tranh nghèo thấp tủn mủn. Lúc gặp lại gã, tưởng gã sợ hãi; trái lại gã cười nói ồn ào, coi như chưa hề có chuyện gì xảy đến.

Ngày tháng trôi qua. Ngồi đếm lại thời gian, gã vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra sự có mặt của gã trên thảo nguyên đã lâu. Gã cảm thấy cần có sự thay đổi; bởi ngay từ ngày đầu tiên được giữ lại nơi đây, gã chỉ coi ngày tháng như cuộc rong chơi, tìm kiếm những gì mà gã đánh mất. Nhưng không ngờ, sau đó nhờ có sự quan hệ qua lại giữa con người với con người, vô tình hình thành nơi gã thứ tình cảm khó quện. Dù sao gã cũng không thể lưu lại đây lâu hơn được. Gã cần phải ra đi. Con đường phía trước còn rất dài đang chờ đợi gã mỗi ngày. Nếu vì lý do gì phải trì hoãn,e rằng gã sẽ không còn đủ thời gian chống chọi lại thương tích lẩn bệnh tật.

Đêm đến. Gã thu xếp vật dụng cá nhân bỏ vào túi cóc. Lẳng lặng ôm con búp bê vào lòng ra đi mất hút. Đêm trăng sáng. Thảo nguyên mênh mông nuốt chửng gã trong bóng đêm. May nhờ có ánh trăng treo trên đầu, đủ cho gã nhìn thấy con đường phía trước, tránh được sự vấp ngã. Đến gần sáng. Trời chuyển mây đen .Sấm sét vang dội trên đầu. Gã vội tìm chỗ trú dưới gốc cây cổ thụ.Vừa ổn định. Mưa cũng vừa kịp tới. Cơn mưa to khủng khiếp.Nước từ trên cao ầm ầm đổ xuống như thác. Ngồi thu người sát vào gốc cây tránh bị cho khỏi bị ướt. Gã cố gắng chịu đựng sự giận dữ từ thiên nhiên. Có lúc gã tưởng gã đang ngồi trên con thuyền tròng trành, chao đảo giữa dòng. Vừa lạnh run vừa lo sợ,gã ôm chặt con búp bê vào lòng. Cầu mong trời mau sáng. Lời khẩn cầu như được nghe thấy. Cơn mưa yếu dần rồi tạnh hẳn.Trong cái im lặng trở lại.Gã nghe thấy tiếng âm thanh ồn vỡ. Thứ âm thanh lạ lùng mỗi lúc nghe vang rền lạ lẫm,lôi cuốn sự tò mò đến háo hức. Gã đứng bật dậy. Dóng đôi tai nghe ngóng. Xê dịch từng bước trên chiếc nạng, bước lần tới chỗ phát ra tiếng động kỳ bí. Càng đi sâu vào giữa rừng cây. Đường trở nên trơn trợt khó đi. Mùi ẩm mốc lẩn trong hơi sương tạo ra hương vị ngai ngái khó chịu.Thi thoảng, do quá mệt gã mới dừng chân hít thở chút không khí trong lành buổi sáng. Còn không, cứ mặc kệ mưa gió bám riết lấy thân hình tiều tuỵ của mình. Cứ thế, gã bước tới. Bất chấp mọi việc xảy ra xung quanh. Gã đi mãi,đi mãi . . .

Từ chỗ đứng khuất lấp. Gã phát hiện tiếng ầm ì vang động nghe rõ mồn một bên tai.Để thoả mản tính hiếu kỳ nơi gã.Gã mon men tìm cách tiếp cận cho kỳ được điều kỳ diệu đang xảy ra; bằng cách tự vạch lấy lối đi cạnh vách đá.Con đường trơn trợt khó đi dẩn tới một thác nước hùng vĩ giữa đại ngàn.Nước.Cơ man màu nước đang tuôn đổ ồn ào xuống vực sâu dưới chân.Ở đó từng đám bọt trắng xoá thi nhau bắn tung toé lên những tầng đá trơn nhẳn.Gã thích thú thấy mình nhẹ tênh bay bổng giữa bầu trời.Trong lúc bối rối, gã vô tình đánh rơi con búp bê mà gã gìn giữ,nâng niu coi như một báo vật.Quá hốt hoảng.Gã quên mất sự nguy hiểm chực chờ dưới đáy vực.Gã cố lao người theo con búp bê với hy vọng giữ được nó trong tay.

Bên cái rơi nhẹ tênh cùng với sự va đập mạnh mẽ nơi làn nước lạnh giá. Tìm thức gã như được khơi mở, tác động mạnh đến hệ thần kinh; khiến gã trong phút chốc nhớ lại bao hình ảnh thân thương thuộc về quá khứ.Những hình ảnh thật rõ nét như thể chúng vừa xảy ra tức thì.Gã không tin vào điều này.Không tin vào sự trùng lấp được lập đi lập lại một cách hồ nghi qua thứ cảm giác mơ hồ .Gã nhắm mắt lại.Cố tình không muốn nghe.Không muốn nhắc lại những gì liên quan tới gã.Tuyệt vọng.Gã nhận ra gã mỗi lúc đang trượt dài xuống đáy vực cùng với con búp bê.Trong cái rơi chấp chới do trạng thái mất trọng lực.Lần đầu tiên gã ý thức được sự trở về của một con người.Trở về bên làng quê heo hút.Trở về nơi chốn mà bao năm qua gã đã từ giả cha mẹ,anh chị em,vợ con để ra đi. Để tham dự vào cuộc chiên tranh mà gã không hề mong muốn. Bất chợt, bên cái rơi vùn vụt xé gió ngang tai, gã nghe có tiếng ai réo gọi tên gã.Khi là tiếng phụ nữ, khi là tiếng trẻ con nói giỏng ngọng ngịu.Ai? Ai đã gọi đúng tên gã trong lúc này?

Thật ra, trí nhớ gã đã hoàn toàn hồi phục, nhờ vào cái va đập chóng vánh bên làn nước buốt giá. Gã bắt đầu nhớ lại gã là ai? Từ đâu đến đây? Làm gì? Thật ra,gã từng là một người lính chiến đấu trên chiến trường. Gã từng có vợ và một đứa con gái nhỏ ở quê nhà. Và, con búp bê bằng nhựa kia chính là món quà, gã đã mua để tặng đứa con gái khi còn có cơ hội sống sót trở về.

Thiên Đường Thứ Hai

Có nói quá hay không khi có một số người gọi Tam Đảo là thiên đường thứ hai?

Xét về mặt cấu tạo địa hình thì, Tam Đảo là một dãy núi được hình thành cách đây hơn hai trăm năm, do hoạt động phun trào dung nham của núi lửa qua nhiều đợt, xếp chồng lên nhau, chạy theo hướng Tây-Bắc Đông-Nam, thuộc địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nhờ có độ cao cùng dốc đứng, Tam Đảo tạo nên rất nhiều suối, thác nước, rừng nguyên sinh cùng với hệ động thực vật đa dạng và phong phú.

Để rõ thực hư ra sao, tôi quyết định đến Tam Đảo một lần, tìm hiểu cho trọn vẹn lời đồn đại kia. Chợt nhớ Nhã có lần đã rũ tôi đi chơi Tam Đảo, nhưng do bận công việc tôi phải bay ngay vào trong Nam, từ đó quên luôn lời rủ rê. Không biết bây giờ Nhã có rảnh rang hay lại bận thay gia đình trông coi cái khách sạn bề thế trên Lạng Sơn? Thôi, cứ thử email hỏi cô xem có muốn tháp tùng cùng tôi đi lên Tam Đảo, khám phá “thiên đường thứ hai” như nhiều người vẫn ví von hay không? Sau một lúc do dự, Nhã từ đầu dây phía bên kia trả lời – Ok. Vậy là chúng tôi hẹn gặp nhau vào trưa hôm sau tại bến xe Vĩnh Yên, với điều kiện giờ giấc phải chính xác.

Tưởng điều kiện gì khó khăn, chứ việc hẹn hò với một cô gái xinh đẹp như Nhã thì làm sao tôi có thể bê trể. Hơn nữa, do tôi biết cô có thời gian dài đi du học nhiều năm ở nước ngoài nên, việc tiếp cận tác phong công nghiệp từ các nước tiên tiến, giúp cô thay đổi phần nào quan niệm lạc hậu về giờ giấc song, tục ngữ có câu “nhập gia tuỳ tục”. Nghĩa là sống ở đâu phải theo phong tục tập quán nơi đó. Vì vậy, tôi không thấy phiền hà khi Nhã ra điều kiện như thế, nhưng nếu ở trong nước mà áp dụng thời gian một cách cứng nhắc quá, có khi gặp phải cảnh dở khóc dở cười như chơi. Tôi kể cho Nhã nghe chuyện đi ăn cưới vào thời @ ở Sàigòn. Thí dụ, vào một ngày đẹp trời nào đó bạn nhận từ bạn bè tấm thiệp mời tham dự tiệc cưới. Trên thiệp có ghi rõ “trân trọng kình mời . . . vui lòng đến dự buổi tiệc rượu, chung vui cùng gia đình chúng tôi tai . . . vào lúc 17 giờ 00 ngày . . . Sự hiện diện của . . . là niềm vinh hạnh cho gia đình chúng tôi. KÍnh mời”. Nhưng xin bạn chớ có dại dột hiện diện vào đúng giờ giấc ấy. Tại sao? Vì người dân ở đây có thói quen “xài” giờ cao su chứ còn gì nữa. Nếu chẳng may, bạn là người khách lịch sự đến đúng giờ hẹn như đã ghi trong thiệp mời, lúc đó bạn chỉ còn biết nghệch mặt ra chờ đợi giờ khai mạc, trong cảnh bụng sôi ùn ục vì đói meo. May lắm, tới 19 giờ hoặc hơn nữa, sau một hồi lễ lộc diễn ra tưng bừng, bạn mới được đụng tới đủa, gắp vào chén miếng ăn đầu tiên. Nghe kể thế, từ đầu bên kia Nhã kêu chí chóe trong điện thoại “Eo ơi! Thời gian là vàng bạc, giờ giấc cao su đến thế thật là phản khoa học, là ăn bữa giỗ lỗ bữa cày” đấy? Biết vậy, nhưng có lỗ đến hàng chục bữa cày chăng nữa, sự lạc hậu vẫn cứ được xã hội đồng tình chấp nhận, riết rồi trở thành thói quen tuốt tuột.

Mùa hè, thời tiết ở Hà Nội rất nóng, ngồi trước chiếc quạt máy vặn hết cở, hơi nóng cứ sầm sập phả lên người làm cho cái nóng lại càng thấy nóng hơn. Nhiều gia đình có điều kiện, vào mùa này thường chọn cho mình nơi nào có khí hậu tương đối mát mẻ để đi nghỉ dưỡng. Có lẽ, nhờ cách Hà Nội chỉ hơn tám mươi cây số đường láng bong, ngoại trừ mười mấy cây số đường đèo, Tam Đảo được coi là thiên đường tránh nóng. Vì vậy, mỗi cuối tuần chỉ cần bắt xe khách ở bến Mỹ Đình, chậm lắm cũng chỉ mất hơn hai giờ đồng hồ chạy dọc theo quốc lộ 2, vượt qua những cánh đồng bao la sẽ dễ dàng nhận ra ba đỉnh núi Thạch Bàn, Thiên Thị, Máng Chỉ nhô lên như ba hòn đảo nhỏ giữa mây trời nên, được nhiều người gọi luôn nó là Tam Đảo?

Đến bến xe Vĩnh Yên, tôi gặp Nhã đúng giờ như đã hẹn. Chưa kịp hàn huyên, chuyến xe buýt số 7 đi Tam Đảo cũng vừa trờ tới. Lên xe, chạy đến cây số thứ 11, gọi bác tài dừng lại cho xuống. Từ đây, bắt xe ôm leo tiếp con đường độc đạo 2 B để lên Tam Đảo. Con đường đèo không dài, nhưng nghe thiên hạ “kháu” nhau về độ cao cùng sự nguy hiểm nơi nó, chẳng thua gì đi trên đèo Ba Vì. Con đường đi lên vừa ngoằn ngoèo, dựng đứng, gấp khúc, vừa ngập sâu trong màn mây trắng xóa. Nhìn sang hai bên, thấy một bên là vách núi, một bên là vực sâu mọc lên tua tủa những ngọn thông xanh rì, đua nhau vượt tầm cao. Có lẽ, do chưa lần nào nếm trải thú đi xe máy qua các đoạn đường đèo, một số người ngồi sau các tay lái đã phải nhắm mắt, luôn miệng cầu kinh địa tạng hoặc sợ muốn té “nước” ra quần.

Càng chạy lên cao, nhiệt độ càng thấp xuống, gây ra chứng ù tai. Bù lại, vẻ đẹp nguyên sơ của núi rừng miền trung du đẹp hút hồn người. Ngồi sau tay xe ôm quen đường, tôi yên tâm giao số phận mình cho anh ta, tha hồ thưởng thức cảnh vật đẹp tuyệt vời ở hai bên đường. Thấp thoáng bên sườn núi, những mái ngói đỏ au của những ngôi biệt thự xinh xắn, ẩn hiện trong lớp mây trắng tạo ra trong tôi thứ ảo giác như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh nào đó. Chưa kịp nhìn no mắt phong cảnh tuyệt vời quanh đây, đến lúc ngẩng đầu lên đã kịp trông thấy thị trấn Tam Đảo mờ ảo hiện ra trong mây, đẹp như vườn Babilon treo cao trên chín tầng mây. Thì ra, Tam Đảo không chỉ đẹp mà còn thơ mộng chẳng thua gì một Đà Lạt phương Nam hay một Sapa bên Lào Cai do có nhiều núi non, ghềnh thác, sông suối, cho đến những khu vườn trồng cây su su bạt ngàn với màu xanh của lá. Tuy Tam Đảo chỉ là một thị trấn nằm gọn trong lòng thung lũng nhỏ, nhưng lại sở hữu vườn quốc gia thuộc vào loại lớn nhất-nhì miền Bắc. Không chỉ có vậy, Tam Đảo còn thừa hưởng không biết bao nhiêu mây là mây nên còn được ví như “thành phố trong mây”. Thật vậy, đi đến đâu cũng chỉ bắt gặp toàn mây với mây. Mây trên đầu, mây dưới chân, mây trắng xoá bên sườn núi, mây bò ngang đoạn đường đèo, mây sà xuống bên khóm hoa, mây giăng trên vai, mây chạm trên tóc, mây đậu trên giàn su su, mây đuôi theo từng bước chân đôi tình nhân, mây vương vải đôi chút mùi vị ngai ngái trong không gian làm xao xuyến hồn người. Tôi tự hỏi “phải chăng nhờ những ưu điểm có được này mà Tam Đảo trở thành thiên đường thứ hai trong mắt nhiều người”?

Leo lên hết con đèo, xe chạy đến trung tâm thị trấn Tam Đảo, dừng lại bỏ chúng tôi xuống. Trong lúc chờ lấy tiền, tay lái chở Nhã không quên trao vào tay cô cái name card có ghi số điện thoại đi động, tiếp thị dịch vụ xe ôm. Tôi cười, trêu chọc: “Người đẹp có khác, vừa chân ướt chân ráo đặt chân đến đây đã có người ngưỡng mộ xin chữ ký rồi”. Nhã cũng chẳng vừa, đối đáp lại ngay “Bộ anh ghen hay sao – Được ghen đã phúc. – Chùa hả! Ai cho anh quyền được ghen mà chưa gì đã kêu phúc với tội ”?

Vừa đùa tôi vừa đeo ba-lô sau lưng, đi bộ cùng Nhã loanh quanh nơi thị trấn, khám phá thung lũng Tam Đảo ở độ cao hơn một ngàn mét so với mực nước biển. Đối với tôi hình ảnh quen thuộc bắt gặp ở bất kỳ phố núi nào cũng đều giống nhau. Từ con đường dốc cao quanh co với nhiều tầng nấc, xuất hiện cùng với lớp sương mù lãng đãng, nghe thấy cái lạnh quanh năm mùa đông về thắm trên da thịt các cô gái cho má thêm đỏ, cho môi thêm hồng. Chẳng vì vậy, anh chàng nhà thơ lãng tử đất Quảng trong một lần bay từ Đà Nẳng lên Pleiku chơi với bạn, đã phải kêu lên “anh khách lạ đi lên đi xuống /may mà có em đời còn dễ thương”.(*) Tất nhiên, phố núi nào cũng đầy mây, đầy sương mù, đầy gió lạnh rét mướt, nhưng lại hài hòa trong sắc màu bên hàng chục loài hoa phong lan rừng nở ra thơm ngát, xen lẫn đây đó màu vàng rộm của dã quỳ tạo nên một quang cảnh vừa thơ mộng vừa kỳ vĩ xiết bao. Nhã cố đi sát vào tôi, tìm chút hơi ấm bên thứ khí hậu lạnh lẽo đang phả lên từ dưới đáy vực mà chỉ trong chốc lát đây, chúng sẽ ngưng tụ thành những đám mây huyền ảo treo lơ lững trên các sườn núi cao sừng sững trước mặt. “Thế nào,đã bớt lạnh hơn chưa hả cô bé – Vẫn. Phải chi anh cho mượn đở vòng tay chắc sẽ ấm hơn – Thì em cứ ôm đại cho anh nhờ, mắc chi phải mượn – Phải hỏi trước, ngộ nhỡ có ai trông thấy gọi vào trong Nam mách với chị, e sẽ gây phiền hà cho anh – Xin lỗi! Anh còn độc thân em à – Nói vậy mà không phải vậy phải không người Sàigòn”?

Trước mắt tôi và Nhã là cây cầu cổ tuyệt đẹp, bắc qua con suối Bạc chảy róc rách dưới chân, in đậm dấu vết thời gian được nhìn thấy qua hai hàng lục bình xi măng còn sót lại bên thành cầu; tạo ra nơi tôi cái cảm giác như đang trở về với quá khứ, nhưng đi liền ngay sau đó là sự thất vọng tràn trề, bởi sự đan xen giữa quá khứ-hiện tại bỗng bị phá hỏng một cách đáng tiếc bởi bàn tay ai đó đã quét lên công trình nghệ thuật một thứ vôi vữa trắng toát, đánh mất đi giá trị thẩm mỹ vốn có từ một chiếc cầu với tuổi đời lên đến hàng trăm năm. Biết làm thế nào được, buồn, tôi đành cúi đầu giữ lấy bàn tay Nhã dẩn tới đứng cạnh thành cầu, nhìn xuống dòng nước trong vắt, nhẹ nhàng chảy lướt bên bờ đá, trước khi len lỏi trong đám lau sậy để đến với đám hoang tàn gạch đá rêu phong đổ nát, thấy mọc lên những ngôi biêt thự tráng lệ in bóng trên thềm mây, bên sườn núi hay giữa một màu xanh bạt ngàn đặc trưng của những mảnh vườn su su mà bất kỳ ai một lần ghé lên Tam Đảo đều cố mua về một ít làm quà. Đúng lúc đó, có người đàn ông lớn tuổi đi ngang, biết chúng tôi từ xa lên đây nên vui vẻ chỉ cho con đường đi đến ngôi nhà thờ cổ, xây dựng bằng đá từ thời Pháp thuộc vẫn còn tồn tại một cách nguyên vẹn. Hay quá, tôi lôi Nhã đi theo hướng có cái tháp truyền hình nằm trên đỉnh Thiên Thị làm chuẩn đi tới. Sau một hồi vật lộn trên đoạn đường trãi bê tông, cuối cùng ngôi nhà thờ cổ bị bỏ hoang gồm hai tầng cũng hiện ra. Tôi leo lên cầu thang bên trái, ít bị rêu phong cây cỏ rậm rạp che phủ; trái lại, Nhã lí lắc chạy sang cầu thang bên phải, nhanh chân đợi tôi ở điểm dừng, trước khi cùng nhau tiếp tục leo lên khoảng sân khá rộng nơi tầng hai. Từ đây, nhìn ra phía trước thấy có nhiều ô cửa vòm xây theo phong cách Châu Âu, toát lên vẻ đẹp đầy thơ mộng và lãng mạn. Được biết, đây là dấu tích còn sót lại nguyên vẹn, nhờ là nơi thờ phượng tôn giáo nên được coi trọng mà không bị phá huỷ. Đi rảo quanh một vòng , tôi chỉ cho Nhã thấy tấm bảng ghi chú “có thể sắp xếp chỗ ngủ miễn phí cho người nghèo”. Nhã nheo mắt nói “anh muốn đêm nay được ngủ trong sự trông nom của Chúa thì đến đó đăng ký, còn em về khách sạn vì sợ lạnh lắm”. Tưởng chúng tôi là cặp đôi đi hưởng tuần trăng mật, mấy tay nhiếp ảnh vồ vập chào mời chụp ảnh kỷ niệm. Nhã nghe mà chẳng thấy thể hiện sự bối rối, trái lại còn tỉnh bơ trêu chọc “Anh yêu! Ngôi nhà thờ đá đẹp như trong phim, sao anh không lấy máy ảnh ra chụp lấy một tấm để sau này còn hù con nít”? Đoán, bám đuôi riết chắc khó lấy được tiền cô gái lém lỉnh này, mấy tay phó nhòm chào thua, quay đi tìm mối khác cho được việc. Chỉ chờ cơ hội đó, tôi đưa Nhã leo tiếp 1400 bậc đá lên đỉnh Thiên Thị, nơi có tháp truyền hình cao gẩn trăm mét với bốn bề lộng gió. Tiếc cho Nhã đã phải bỏ công nài nĩ khô cả cổ nhưng mấy chàng làm việc ở đây vẫn kiên quyết không cho người lạ vào xem qua phòng máy. Không còn cách nào khác, chúng tôi leo tiếp 200 bậc thang nữa để lên đền Bà Chúa Thượng Ngàn. Ngôi đền thuộc loại cổ, nằm ven sườn núi trên một địa thế hữu tình. Đứng từ đây có thể nhìn thấy toàn bộ thị trấn bên dưới lờ mờ qua màn mây trắng. Tương truyền, bà chúa Thượng Ngàn cũng như nhiều vị thần khác được xem là hồn thiêng sông núi, có mặt khắp nơi để cứu nhân độ thế, khi ở rừng núi khi ở đồng bằng dẫn dắt con cháu từng bước tiến lên. Vì vậy, bà rất được người dân kính trọng lập bàn thờ thờ phụng ở nhiều nơi; nhất là ở miền núi hay các cửa rừng. Đặt biệt, với những dân chuyên đi rừng, muốn săn bắt, khai thác đạt kết quả mong muốn hoăc cầu xin tai qua nạn khỏi, thường đến thắp hương cầu sự che chở phù trợ nơi bà. Gần đây, nhiều người mê tín còn đến đây vái lạy bà, xin cho con cháu đi thi đỗ đạt cao, thăng quan tiến chức mau, kể cả việc cầu xin sinh con trai hay con gái.

Chờ cho Nhã thắp nhang quay ra, tôi hỏi cô vừa cầu xin bà chúa những gì? Cô cười trả lời: “Bí mật – Nghe kể, bà ở đây linh hiển lắm, cầu tình được tình cầu tài được tài. Trông sắc mặt tươi rói của em, anh đoan chắc em vừa cầu tình phải không – Ơ! Cái anh này, người ta bảo bí mật sao cứ hỏi lắm thế – Biết để anh còn giúp đở cho”? Bất ngờ, lúc quay sang nhìn cô, tôi vô tình bắt gặp nét thẹn thùa cùng với đôi má ửng hồng như vừa được thoa lên lớp phấn đỏ. Xấu hổ quá, Nhã dấu mặt sau cánh tay tôi, cùng rẽ vào con đường mòn dốc sâu dẫn xuống thung lũng. Tới cái quán nước thấy treo bảng cho thuê dép Lào, hỏi thăm mới biết đi men theo vách núi xuống 253 bậc đá tới thác Bạc. Tôi chọn thuê hai đôi dép, một cho tôi một cho Nhã, cùng mọi người đi xuống dưới thác. Không ngờ, bên dưới có mặt rất nhiều bạn trẻ đang vui đùa, bơi lội bì bõm dưới màn nước trắng xoá.

Rời đỉnh Thiên Thị về đến trung tâm thị trấn, tôi cùng Nhã đi lang thang qua những cây cầu có lối kiến trúc khá đẹp, do biết kết hợp khéo léo giữa sắt thép và đá núi. Nghe kể, ngày xưa từ cây cầu này sẽ đưa tới khu biệt thự hoành tráng gồm bể bơi, vườn chơi trẻ con, bãi đậu xe hơi, nhà hàng khách sạn Thác Bạc hay còn có tên Hotel – Restaurant de la d’ Argent. Về sau, trong thời kỳ “tiêu thổ kháng chiến” chống thực dân Pháp, hàng trăm công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật lớn nhỏ tại đây hầu như đã bị phá hủy toàn bộ. Có chăng, chỉ còn hiện hữu trong tâm thức một số người lớn tuổi mỗi khi có dịp đi ngang qua những phế tích còn sót lại, được nhìn thấy với từng đống gạch vụn, mảng tường, khu nhà bếp của khách sạn lớn nhất thời đó, đang lẩn khuất trong đám cây cỏ mọc hoang dại để mà hoài niệm .

Tối đến, khí hậu Tam Đảo trở lạnh do hơi núi ngưng tụ từ bốn phía đổ về khiến khí hậu nơi đây luôn độc đáo nhờ, một ngày trải qua đến bốn mùa. Buổi sáng thức dậy, ngồi nhâm nhi chút cà phê nóng hổi trong chiếc quán dựng cheo leo bên sườn núi, ngắm mấy khóm đỗ quyên nở rộ nghe mùa xuân đang về. Buổi trưa, may mắn lắm mới bắt gặp chút nắng hiếm hoi lách mình qua những kẽ mây nghe mùa hè thoáng hiện trong phút chốc, sau đó nhường chỗ cho buổi chiều se lạnh làm lam tím trên hai hàng bằng lăng trổ hoa ven đường gợi nhớ mùa thu, để cuối cùng khi màn đêm tràn về mang theo cái lạnh lẽo giá rét của mùa đông. Nhã đi sát bên tôi, miệng luôn kêu lạnh dù đã được cảnh báo mặc thêm áo len dày cao kín cổ, nhưng thôi, đi bên người đẹp dù có bị làm nũng một chút cũng thấy đáng yêu chứ có sao đâu. Hơn nữa, do trót từ chối lời mời tham dự buổi sinh hoạt đốt lửa trại do nhóm bạn mới quen tổ chức ở sân sau khách sạn để đi bắt con muồm muỗn với dân địa phương. Một loại côn trừng giống như cào cào, có đầu vuông rất cứng, chuyên ăn lá cây rừng, chúng tôi đành phải từ chối khéo trong sự nuối tiếc.

Chập tối, chúng tôi chùm nón đội đầu, mang găng tay len, nai nịch gọn gàng rồi ra đi. Đến nơi, mỗi người được phát cho một chiếc thùng nhỏ, đi theo đám đông dọc hai bên đường, tìm dưới chân các cột đèn, đến các nơi công cộng. Được biết, những nơi này muồm muỗm thường xuất hiện rất nhiều, có đêm bắt được tới vài kí. Vì là lần đầu tiên đi bắt muồm muỗm nên chộp được một con cũng là kỳ công, bởi chúng nhảy nhót lung tung. May mắn, chỉ vài tiếng đồng hồ sau cả nhóm đã bắt được rất nhiều muồm muỗm nhốt vào thùng. Thấy chiến lợi phẩm đã tạm đủ cho một lần thực tập, tất cả dừng tay để còn về nhà trổ tài nấu nướng. Muồm muỗm sau khi bắt về, cắt cánh, bẻ càng, rửa sạch, cho vô chảo dầu sôi, cho hành khô, gừng, nước mắm, chiên tới khi giòn, cho thêm lá chanh vào rồi bắt ra dùng. Thưởng thức món muồm muỗm tươi ngon ở Tam Đảo, tôi chợt nhớ chuyến đi khám phá đất nước chùa tháp – Campuchia, trên đường đến phà Neak Luông, thị trấn Skun, cạnh chơ Oxay, Russia, Ocada đâu đâu cũng thấy người ta mời chào, mua bán côn trùng chiên sẳn, ăn như món fast foot dế, bò cạp, nhện đen, bọ cánh cứng, kể cả loại rắn lục được tẩm ướp màu đỏ lòm . . . vừa ăn vừa thấy run, không biết mấy món này đã chiên từ bao ngày trước? May sao, lần đó về tới nhà bình an, nhưng mấy thứ côn trùng lỡ mua không dám mang đi tặng ai. Nghĩ lại, càng thấy sợ vì vấn đề vệ sinh ở đây xem ra không mấy an toàn; ngược lại, muồm muỗm ở Tam Đảo chiên nóng hổi, giòn tan trong miệng ăn đến đâu thấy béo ngậy đến đó. Để góp vui, tôi kể lại kinh nghiệm bắt côn trùng (dế) do chính mắt trông thấy, tai nghe ở Campuchia cho mọi người có mặt cùng nghe. Trước hết, người ta đóng hai thanh tre cao hai mét, ngang bốn mét, trên đó căng một tấm ni-long trắng, bên trên thắp đèn néon có ánh sáng màu tím bằng điện hay acqui. Phía dưới tấm ni-long được cuộn lại thành chiếc máng, bên trong chứ nước. Côn trùng nhìn thấy ánh sáng bay đến, đụng tấm vải nhựa rớt xuống mánh nước, sáng ra người ta chỉ việc thu hoạch côn trùng một cách rất nhẹ nhàng.

Không biết, khi chia sẻ kinh nghiệm bắt côn trùng ở Cam đến nay đã có ai thử áp dụng mô hình trên hay chưa? Nhưng sáng hôm sau, tôi phải gọi Nhã năm lần bảy lượt cô mới bò dậy nổi để đi ăn sáng vì đêm qua thức khuya quá. Trên đường đi, tôi đưa Nhã ghé thăm chợ quê họp ngay trung tâm thị trấn. Gọi là chợ nhưng thấy chỉ lèo tèo vài chục người dân địa phương mang sản vật tự cung tự cấp ra bày trên mấy tấm vải nhựa đặt dưới lòng đường. Nhiều nhất vẫn là món rau su su nổi tiếng ở Tam Đảo, chuối rừng, đậu rùa, cá Thính, gà đồi; riêng mấy chai lọ bằng sành không hiểu đựng thứ gì bên trong, tôi nghi chắc là rượu. Người đàn ông bán hàng vui tính, bắt mạch đúng tim đen của tôi, giới thiệu món rượu Chít ngon, bổ, khỏe, chữa được bệnh “trên bảo dưới không nghe”. Cảm giác chưa đủ độ tin trước khách hàng, ông kể trong rừng Tam Đảo cây Chít mọc rất nhiều. Cây cho lá dành để gói bánh, hoa làm chổi, thân có con sâu màu trắng dài khoảng hai đốt tay. Chính con sâu này từ xưa đến giờ vẫn được xem như biệt dược, bắt mang về cho vào chai ngâm chung với rượu khoảng một tháng thì uống được. Công dụng bổ thận tráng dương, có thể so sánh ngang hàng với đông trùng hạ thảo trên cao nguyên Tây Tạng. Cẩn thận hơn cầu kỳ hơn, người ta rửa sâu Chít với nước muối pha loãng, sau đó vớt ra để ráo rồi, bắt lên bếp rang chung với nếp cho tới khi cả hai vàng như nhau, kế đến đổ ra ngâm rượu cho tới khi có màu vàng, mang ra uống có mùi rất thơm. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi hỏi xem rượu Chít ăn với món đặc sản nào hợp? Để chứng tỏ mình là người hiếu khách, người đàn ông cho biết, ở các nhà nhà hàng trên Tam Đảo; ngoài đặc sản về su su ra còn có món thịt bò tái kiến đốt, ngon rẻ hơn mấy món thịt rừng kiểu “hồn Trương Ba da hàng thịt” vì thịt rừng ở đây đã bị cấm từ lâu. Kiến đốt là sao? Có nghĩa là thịt bò sau giết mỗ còn nóng, cắt thành tảng từ 1-2 kí, chọn ổ kiến to trên cây mang treo gần đấy. Chọc cho lũ kiến hung dữ bung ra, bám vào tảng thịt, đốt cho thỏa thích. Sau đó, lấy thịt xuống mang đi rửa lại bằng nước muối loãng, để ráo, nướng trên bếp than hồng và thái mỏng, ăn kèm chuối chát, rau ngổ, chấm tương Bắc hay tương làm từ ngô, đậu tại địa phương có pha thêm chút đường chút gừng băm nhỏ, ăn nhớ đời.

Ăn sáng xong, xe ôm cũng vừa đổ xịch ngay cửa đón chúng tôi đi Tây Thiên như đã hẹn. Theo “Kiến Văn tiểu lục” (**) mô tả Tây Thiên “ . . .bên dưới sắc nước như chàm, sâu thăm thẳm không thấy đáy; sườn núi có Tây Thiên cổ tự, có tre xanh, thông tốt, cảnh sắc thanh nhã, rộng rãi. Trên đỉnh có chùa Đồng Cổ, khe Trường Sinh, suối giải oan, suối Vàng, suối Bạc, hồ sen với nước luôn xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và sen đỏ nở hoa bốn mùa“. Quả thực, khi đặt chân đến xã Đại Đình mới thấy đường lên Tây Thiên đi đứng không dễ dàng chi, nhưng đã lên đây thì không thể không đi hết các hệ thống đền chùa, thảo am, các thắng cảnh nổi tiếng được phân bổ hầu hết trên dãy Thạch Bàn nơ đây, cho dù phải băng rừng lội suối, vượt qua nhiều dốc cao dựng đứng đi nữa. Bởi cảnh quang thiên nhiên Tây Thiên không chỉ hùng vĩ, thơ mộng, hữu tình mà còn có giá trị về mặt tín ngưởng, tâm linh do con người biết lợi dụng thế núi cùng bàn tay lao động sáng tạo gầy dựng qua nhiều thế kỷ.

Điểm đầu tiên tôi và Nhã đặt chân tới là đền Thống hay còn gọi đền Trình. Trước đền là khoảng sân rộng, từ xa có thể nhìn thấy cây đa chín cội, vươn vai thẳng ngọn lên bầu trời, trông như một gã khổng lồ đứng thỏng đôi tay một cách oai phong, trấn giữ ngôi đền. Đi vòng ra sau, gặp suối Giải Oan chảy ngược dòng nước lên trên, gặp một con thác rồi hợp lưu tại một hồ sen, trước khi đổ vào khe có cùng tên. Tiếp tục trèo thêm mấy bậc núi, vượt qua con đường cao hơn, bắt gặp một rừng trúc bạt ngàn cùng với núi Rùng Rình. Tới đây Nhã đủ thấm mệt, cô ngồi lại bên mô đá, lấy nước ra uống để có thêm sức đi ngược lên ba cây số tới chùa Đồng Cổ, thích thú đến ngạc nhiên khi nghe giới thiệu mọi thứ đồ vật lưu giữ tại đây đều được đúc bằng đồng. Tạm biệt chùa Đồng Cổ, rẽ phải đi thêm hai cây số chúng tôi đứng đối diện với ngôi đền Thượng Tây Thiên. Đây chính là nơi thờ Quốc Mẫu Tây Thiên – Tăng thị Tiêu. Tương truyền, bà là người xinh đẹp, giỏi giang, có tài thao lượt; từng giúp vua Hùng thứ 6, Hùng Chiêu Vương, không chỉ đánh giặc bảo vệ nước Văn Lang mà còn giúp vua mở mang bờ cõi. Xong việc lớn, bà không màng danh lợi, quay về nơi mình sinh ra, dạy dân trồng lúa, an hưởng cuộc sống thanh nhàn rồi “hóa thánh” tại đây. Để ghi nhớ công lao của bà, từ ngàn xưa người dân đã xây dựng đền thờ Quốc Mẫu ở rất nhiều nơi, chứ không riêng gì trên sườn núi Thạch Bàn-Tam Đảo này.

Xuống núi, đã có xe ôm chờ sẳn mời gọi chúng tôi đến viếng thăm Trúc Lâm Thiền Viện. Nhã cảm thấy quên hết mệt nhọc, nhảy tót lên xe ôm, ngồi phía sau cho tay lái chở đi. Tôi vội vàng lên chiếc xe ôm khác đuổi theo cô chạy đến thiền viện. Từ dưới đường nhìn lên, thiền viện Tây Thiên hiện ra thật bề thế giữa núi rừng bạt ngàn nơi đây. Theo bút tích ghi dấu, thiền viện xây dựng lại vào năm 2004 trên nền ngôi chùa cổ Thiên Ân, do các nhà sư trụ trì tại đây cùng với các hoà thượng Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt, đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng đúng vào ngày chánh hội Tây Thiên. Được biết, đây là một trong ba thiền viện lớn nhất nước gồm: thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên Tam Đảo. Muốn đặt chân lên cổng tam quan bề thế có treo bảng “Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên”, phải leo hàng chục bậc thang lộng gió lên cao. Từ cổng tam quan leo tiếp thêm nhiều bậc thang, mới chạm mặt với khu tiền sảnh rộng nguy nga của thiền viện. Đến đây, tha hồ chiêm ngưỡng những tuyệt tác do bàn tay tài hoa của các nghệ nhân bậc thầy, thể hiện một cách khéo léo qua hình ảnh những mái đình lợp ngói đỏ au, uốn lượn cong vút, bay bổng bên rừng thông bạt ngàn có đến hàng trăm tuổi. Đây là lối kiến trúc tuyệt đẹp mang đậm bản sắc văn hoá Á Đông, hoàn toàn phù hợp với tinh thần dân tộc nước ta. Hiện nay, thiền viện Trúc Lâm Tam Đảo ngoài việc là trung tâm tu học lớn ở miền Bắc mà, còn là nơi được nhiều gia đình dưới Hà Nội gửi gắm con em lên đây nhờ các nhà sư dạy dỗ, tu học vào các dịp hè; thay vì tập trung ở các khoá huấn luyện quân đội.

Theo dự tính, tôi và Nhã sẽ làm một chuyến trekking từ Tây Thiên về Tam Đảo bằng con đường đi xuyên rừng nguyên sinh, nghe nói đẹp đến mê hồn, bởi nơi đây còn lại những cánh rừng chưa bị bàn tay con người can thiệp nên hiện diện nhiều loại chim, gà rừng, bươm bướm, nhất là bắt gặp những con ve to hơn ba ngón tay chập lại. Tuy nhiên, người dân địa pương lại khuyên, không nên mạo hiểm với quảng đường dài hơn mười cây số vì có rất ít người qua lại; ngoại trừ giới đi rừng chuyên nghiệp. Thế là, chúng tôi đành phải đi xe ôm về lại thị trấn, mất dịp trổ tài bấm máy ghi lại các bức ảnh đẹp và nghe những tiếng ve kêu đến điếc tai.

Về đến trung tâm thị trấn Tam Đảo, nhìn đồng hồ tay thấy còn sớm, tôi rũ Nhã đi thưởng thức món su su nổi tiếng, trước khi chào tạm biệt nơi này vào lúc xế trưa. Nhã đồng tình ngay vì lên Tam Đảo mà chưa đi ăn các món su su luộc chấm vừng, su su xào tỏi, su su xào tôm, su su xào trứng, su su nấu canh tôm khô; nhất là ăn món đọt su su tẩm bột chiên giòn . . . coi như chưa đặt chân đến Tam Đảo?

Điều này đúng hay sai để tôi còn hỏi lại Nhã khi tiễn chân cô ở bến xe Vĩnh Yên. Tuy nhiên, việc ai đó coi Tam Đảo là “thiên đường thứ hai” theo tôi nghĩ nên gọi Tam Đảo là “thành phố trong mây” có lẽ thích hợp hơn. Bởi, bầu trời quanh đây lúc nào cũng đầy ắp những tầng mây, tạo ra cho tôi cái cảm giác dễ dàng bị nuốt chửng trong nó bất kể thời gian nào trong ngày.

Minh Nguyễn

Miên Du Đà Lạt

Min_Du__Lt

Mưa sầu La Seine

Mưa buồn trên bến sông Seine lạnh
Thao thức ngàn sao thương nhớ nhau
Lệ nào còn đọng sầu bên gối
Ôi ! chút tình xưa trở lại đau

Mưa sầu bên ấy ướt đôi vai
Hỏi áo em choàng có được cài
Áo lạnh ngày xưa còn đủ ấm
Hay đà tơi tả dưới sương mai

Xin gởi tặng em ngọn lửa hồng
Ấm tình thiếu nữ buổi chiều Đông
Em ơi Đông có mang hơi lạnh
Nhóm chút lửa hồng ủ giấc nồng

Ngày mai, ừ nhỉ trời thơm nắng
Thơm áo em choàng, chẳng ướt vai
Thơm má hồng xinh, đôi mắt biếc
Thơm bờ tóc rối kết hoa mai

Thôi nhé! em ơi, chớ gánh sầu
Chỉ mình ta giữ một niềm đau
Chúc em hạnh phúc trong ngày mới
Vui kỷ niệm xưa ta có nhau …

Chậm

Ta chậm lại, nên đời không bước vội
Tháng năm tàn thời gian chuyển qua nhanh
Bao gút thắt ta gở hoài không thoát
Bao muộn phiền mờ ánh mắt tinh anh

Ta dừng lại, bởi không còn bước kịp
Gối mỏi rồi, chân cũng chẳng khoan thai
Tay chới với chụp bắt đời vô vọng
Gánh một đời sầu nặng cả hai vai

Bán Thơ!

làm thơ! ừ nhỉ! đem rao bán!?
biết có ai mua giữa chợ đời?
biết có ai cùng chung nhịp điệu?
mua dùm ta dăm chữ thơ rơi!

làm thơ! buồn nhỉ! sao đem bán!?
có phải trần gian hết chữ rồi!?
có phải người đời thôi đọc sách!?
ta về treo vách ngắm thơ chơi!

Rồi Mai Đây !

Rồi mai đây, lạnh về trên bờ đá
Biển dập vùi, vách núi phủ rêu phong
Lá rời cành, lìa đời không tiếng gọi
Ta vùi chôn tình lỡ chẳng nhớ nhung!

Rồi mai đây, ta đi vào quên lãng
Có ai còn tìm lại dấu chân xưa!?
Những nhánh sầu chia buồn trên lối cỏ
Những cuộc đời lặng lẽ chẳng ai đưa

Rồi mai đây, ta đi về cát bụi!
Đời bâng khuâng chỉ một thoáng ngậm ngùi
Vàng trăng sầu kể chuyện tình cổ tích
Trong sương đêm, ta yên giấc ngủ vùi!

Rồi mai đây, ai tìm về dĩ vãng!?
Thắp nến buồn soi lại chuyện trăm năm
Mở trang sách, dòng tình thơ vàng úa
Sầu dâng lên rơi những giọt âm thầm!

Anh Đi Về Chốn Ấy!
(Thương tiếc Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang)

Nỗi buồn nào chợt khóc,
Giọt sầu nào ta say
Anh đi về chốn ấy
Ngạo nghễ trên đôi tay

Tiếng đàn vang như thác
Tiếng hát rực lửa hùng
Hy vọng nào khao khát
Qui về một mối chung

Cần nhau xây tổ quốc
Là Người Gắn Lên Tôi
Quên nỗi buồn nhược tiểu
Cười Dưới Ánh Mặt Trời

Anh đang cười ngạo nghễ
Trên đất Mẹ yêu thương
Và đã vui xin chọn
Nơi này làm Quê Hương!

Cali Sầu Đông Nhớ Đà Lạt

Cali chớm lạnh buổi đầu Đông
Mưa gió se se buốt giá lòng
Một chút lửa hồng xin sưởi ấm
Tình người viễn xứ vẫn hoài mong

Nhớ xưa Đàlạt sương rơi lạnh
Tượng núi Lâm Viên một bóng nằm
Lấp lánh Xuân Hương hồ gợn sóng
Chờ ai Than Thở khóc trăm năm

Hỏi em còn nhớ mùa Đông cũ
Chung bước bên nhau, bước ngại ngần
Ứớc ao hôn được bờ môi thắm
Vụng về, anh vội… bỗng ăn năn!

Đà-Lạt mơ hoài trong giọt nhớ
Ca-li khắc khoải bởi chung tình
Đông sầu cây lá trơ trong gío
Lẻ bóng ta buồn đêm Giáng Sinh

Miên Du Đà Lạt

Mh. Hoài Linh Phương

Hoai Linh Phuong

Tình Khúc Xa Người

anh có đang hạnh phúc
khi trời mùa đông qua
em gục đầu khóc nức
trên từng ngày chia xa

em giờ như con sóng
vỗ hết nhịp rồi anh
thôi buồn, vui, trông, ngóng
một chuyện tình mong manh

chiều về qua phố nhỏ
em nhủ lòng… em quên
sao mắt mình bỗng… đỏ
nỗi đau dài không tên

những hẹn thề mây khói
nào có nghĩa gì đâu ?
tôi cuồng điên vô lối
mơ thấy chuyện ngàn sau

xin trả người kỷ niệm
những con đường chung đôi
nắng Sài Gòn ấm áp
mưa Sài Gòn mềm môi

tôi còn bàn tay trống
để suốt đời làm thơ
tôi còn con tim vỡ
trong mùa đông ơ hờ !

Chiều Tàn Năm
Trên Quê Hương Lưu Đày

“trăng tròn chỉ một đêm rằm
tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi” (1)
nên giờ… môi đã lìa môi
nên ta giờ đã …xa người trăm năm..
Em về trên phố xưa
Tìm anh hoài chẳng thấy
Gió chuyển mùa bơ vơ
Người xa từ dạo ấy…

Saigon chiều hôm nay
Em làm người ở trọ
Như quê hương lưu đày
Một mùa đông vàng võ

Em vào trong nghĩa trang
Người nằm yên không nói
Tìm đâu sắc cờ vàng?
Của máu xương hờn tủi

Trên hàng mộ không tên
Em nghe lời gió hỏi
Người còn nhớ hay quên?
Đời quân nhân trôi nổi

Người nằm không khói nhang
Lá vàng rơi lả tả
Bè bạn đã quy hàng
Quê hương thành đất lạ

Em tìm trên trang thư
Chim bay hoài đã mỏi
Chưa lần cuối tạ từ
Sao không còn chung lối?

Biết tìm anh nơi đâu?
Sao không còn nhau nữa…
Ngục tối hay mộ sâu?
Năm năm dài cách trở

Năm năm đời trăm ngã
Em còn gì đâu anh?
Mùa xuân về xa lạ
Trên kiếp người mong manh

Cung Khúc.
(Với Cung xưa – Phạm Hồng Thái cũ)

Thôi người, một thuở ca dao
Là mây theo gió, là sao xa trời
Phương đông nhớ mãi phương đoài
Ngu ngơ tôi vẫn yêu hoài tình xa
Trả người một đoạn đời qua
Đam mê, nồng ấm, mặn mà thơ tôi
Xuyến hoa không thể thành đôi
Trầu cau bỏ lại cho người sang sông
Cho nhau chi sợi chỉ hồng
Để con chim hót trong lồng bi thương
Tôi về gãy cánh uyên ương
Trả người, trả cả đoạn trường đớn đau
Thôi người không thể vì nhau…
Trả cho hết chuyện qua cầu gió bay…

Về Soi Bóng Mình

* thơ mhhoàilinhphương.
* ngôthụymiên phổ thành ca khúc “ Về Soi Bóng Mình “
qua các giọng ca Quang Tuấn, Đoàn Thanh Tuyền.

Tiếng hát người buồn, làm tôi muốn khóc
Trí tưởng chợt về… những tháng năm xưa
Tôi cúi mặt dấu giọt buồn trong tóc
Môi ngậm ngùi qua hàng lá bay mưa

Người đánh thức niềm đau nào trở dậy
Tuổi thơ xa như quá khứ mịt mù
Nghe thấp thoáng bước chân mình trở lại
Những con đường kỷ niệm đã hoang vu

Chỉ còn dấu chim trên bờ cát ướt
Thành phố hoa vàng hiu quạnh mùa đông
Cô bé ngày xưa… mắt tròn bỡ ngỡ
Cách biệt như đời của một giòng sông

Tiếng hát người buồn, nên hồn tôi… bỗng khóc
Khi được một lần nhìn lại tuổi tên
Khi được một lần soi mình rạng rỡ
Về một khoảng trời biền biệt chìm quên.

Tình Ca …
Trần Quang Khải

Chưa một lần em kể
Chuyện tình buồn mười năm
Nỗi đau dài lặng lẽ
Như ngày tháng mù tăm

Anh xa rồi…có phải?
Sao vẫn còn quanh đây…
Mắt môi nồng thân ái
Yêu dấu tràn trên tay

Người về trong chiêm bao
Dáng buồn im như đá
Em níu đời hư hao
Qua muôn trùng bến lạ

Không còn qua phố xưa
Hai hàng cây đan lá
Không còn đứng chơ vơ
Chờ nhau trong nắng hạ

Em một đời… viễn xứ
Pensée cũ… mấy mùa
Đã phai từng cánh mỏng
Mộ khúc buồn…như mưa!

Tâm Khúc Hoàng Tiểu Thư
Từ cảm xúc bài thơ “Hoàng Tiểu Thư” của Luân Hoán,
Viết tiếp để gửi một người khóa 6 Ban Báo Chí
Viện Đại Học Vạn Hạnh Saigon ngày xưa.
Mh.HLP

Tôi vẫn nhớ một thời ta bé dại
Anh ngẩn ngơ buồn theo màu áo tiểu thư
Cô con gái nhà quan ngày hai buổi
Xe ngựa xênh xang hữu bật, tả phù

Tôi… làm cao để buồn nôn đọc Sartre
Tôi… kiêu kỳ trong chủ thuyết Sagan.
Cô bé kênh kênh sao mà dễ ghét!
Cho anh ngại ngần, thầm lặng, phân vân

Anh đâu biết hồn tôi như giấy mới
Nhưng cũng se lòng trong gió heo may
Thơ học trò bao lần nghe ướt mắt
Môi ngậm ngùi trên từng lá thu phai

Sâu thẳm trong tôi một trời quạnh quẽ
Hình như là rất nhẹ… bụi mù bay
Hình như thoảng hương của mùa hạ cũ
Tay chưa lần nắm chặt… đã lìa tay!

Tiếng gọi non sông anh giã từ sách vở
Tôi bên hiên trường dõi mắt trông theo
Cô tiểu thư của một thời tuổi nhỏ
Chất ngất thương anh cuối bãi, lưng đèo…

Nhưng con sông trôi, có bao giờ trở lại?
Ta đã riêng đời, thôi đừng tiếc nụ tầm xuân
Qua bao biển dâu vẫn còn đầy trong ký ức.
Tình xa xưa… nên tình bỗng thật gần!

Con Tàu Và Bến Đợi

Thôi trả cho người mùa thu thuở đó
Em cúi đầu nghe như rất xa xưa…
Thả một cánh hoa bay vờn trong gió
Em hỏi lòng giờ người đã quên chưa?

Em vẫn phương này hành lang, thư viện
Vẫn những buổi chiều rét mướt, cô đơn
Khung cửa lớp cũng riêng mình em đứng…
Người lênh đênh cho tim nhỏ mang buồn

Con tàu nào mang người đi khuất nẻo?
Cho em ngậm ngùi làm bến đợi ngàn năm
Bến đợi khóc người xưa không về nữa…
Bến đợi giận hờn, người vẫn mù tăm!

Em hỏi bao giờ người đi trở lại?
Không ai trả lời chỉ có lá khô rơi
Hình như chiều nay… mắt mình úa dại
Vâng, thật rồi! người mãi mãi… xa xôi

Ninh Hòa
Quê Mẹ Ngàn Thương

Tôi – con gái chào đời thành phố biển
Thùy dương rì rào, sóng vỗ quanh năm
Gió nồm qua, bờ cát ướt âm thầm
Đã đuổi theo tôi… tháng ngày khôn lớn!
Mùi cá tanh nồng, tiếng hò… dô trên sóng
Với nhịp chày giã gạo giữa đêm sương
Ký ức xa…lời hát cũ…. thêm buồn!
Nghe se sắt, nghẹn lòng… thương quê Ngoại.
Mắt biếc ngời trong, một thời thơ dại…
Kỷ niệm nhạt nhòa, hun hút cánh chim bay…
Áo tiểu thư trên những đoạn đường dài
Khoa bảng, công danh, người xe, phố thị…

Có ai giữ giùm tôi mùi hương dạ lý
Ngan ngát trong vườn nhà thời lên sáu, lên năm….
Giòng đời trôi theo những vết xe lăn
Còn chuyến nào không, đưa ta về thăm quê cũ?
Sông Dinh đục ngầu những mùa nước lũ
Hàng lá bàng rợp mát mái trường xưa
(Tiếng trống trường của một thuở sớm, trưa
Bài học vỡ lòng trên trang sách nhỏ…)

Tôi – con gái chào đời miền nắng gió
Nên một đời góp nhặt chuyện mười phương
Thị trấn hoa muồng vàng chỉ còn lại dư hương
Cây cầu gỗ, ngôi nhà tường vôi đỏ…
Giàn hoa giấy đong đưa ngày tháng đó…
Khuất ngàn xanh theo nước mất, nhà tan
Áo tiểu thư nhàu, bồ câu trắng đi hoang
Hàng phượng vĩ gục đầu theo dâu bể….

Tôi từng đêm xứ người, nhớ ngày xưa Mẹ kể
Bên kia trời vẫn còn một quê hương
Lăn lắc xa xôi, tiếng sóng vỗ điệu buồn
Nên thơ mãi ngàn sau… còn nước mắt!

Với Người Nhớ Phố

Từ những xúc cảm nhẹ nhàng
qua bài “Phố Mù Sương” của Huệ Thu

Cám ơn con phố mù sương
Nhắc ta một thuở thiên đường… xa bay!
Hoa hồng nồng ấm trên tay
Yêu thương mật ngọt đong đầy mắt môi
Người qua con phố ngậm ngùi
Thương mùa trăng cũ giữa đời mênh mông
“… Ngã đầu đâu một cành thông
Để nghe Dalat tiếng lòng vang vang…” (1)
Tưởng như gió chuyển mùa sang
Bước chân ai đã ngút ngàn xa xăm…
Mimosa cũng lặng thầm
Dã Quỳ hiu hắt nín câm nỗi buồn…

Người về phố cũ mù sương
Ta đi bỏ lại con đường… ngày xưa
Và người… kỷ niệm thành thơ
Và ta… lắng đọng bên bờ quạnh hiu!

Mh. Hoài Linh Phương

Mang Viên Long

Anh MANG VIEN LONG

Đọc “Nhành Hoa Súng Ái Nghĩa”
Của Luân Hoán

Năm nhà thơ Luân Hoán xuất bản tập thơ đầu tiên cũng là năm tôi vào học năm thứ nhất, khóa 3 trường Quốc Gia Sư phạm Qui Nhơn: Đó là tập “Về Trời” (nhà xuất bản Văn Học Saigon – 1964). Trước khi được đọc “Về Trời”, tôi đã đọc nhiều thơ anh trên Bách Khoa, Văn Học, Khởi Hành, Văn, Nghiên Cứu Văn học, Vấn Đề… từ vài năm đầu thập niên 1960.

Ngay từ thuở ấy, tôi đã có cảm nhận dòng thơ Luân Hoán bao giờ cũng thật dịu dàng, tươi mát, sâu sắc và rất đỗi hồn nhiên, cho dầu đôi khi anh phải đối diện với “nén hương cho bàn chân trái”! Sự hồn nhiên sảng khoái trong thơ anh đã cho tôi niềm vui, niềm tin và nhất là niềm say mê mỗi khi được “gặp” thơ anh trên các tạp chí, tuần báo văn học… Đôi khi tôi nghĩ, sự hồn nhiên (thơ ngây) trong sáng, có chút khinh bạc ấy, luôn tiềm ẩn trong từng dòng thơ anh, đã thể hiện rõ nét bản chất của “con người” anh mẫu mực, chân thành trải lòng, vô tư khi đến với cuộc đời…

Tôi lại có ý nghĩ: xứ Quảng dường như “thích hợp” với những người làm thơ tình? Cuộc đất xinh đẹp yên vắng mà lắm truân chuyên Hội an – Quảng nam đã nâng bước thơ cho nhiều nhà thơ xứ nầy nổi danh với những dòng thơ tình in đậm bản sắc rất riêng. Tôi yêu những bài thơ Luân Hoán – nhất là những bài thơ tình, chính vì cái thật thà, chơn chất, mà vô cùng đằm thắm, dễ thương của một miền đất đầy ắp tình người.

“Nhành Hoa Súng Ái Nghĩa” là một bông hoa thôn dã thắm tươi trong vòm trời “Hơi Thở Tình Nhân” của anh, là tiếng lòng khẽ khàng mà âm vang, là xúc cảm tinh khôi của tình yêu chân chính dạt dào muôn thuở!

Lời chàng trai “tự bạch” một cách giản dị, mà rất bản lĩnh với cô gái ở thị trấn Ái Nghĩa (huyện Đại lộc – Quảng nam) như sau:

“ta chẳng có tài gì hay ho cả
ngoài ngón nghề tán gái rất nên thơ
em khuê cát, ta như chàng bán dạo
nhưng đã yêu, chưa biết ngại bao giờ…”

Ngay từ đầu, chàng khẳng định hai điều: “tán gái rất nên thơ / đã yêu, chưa biết ngại bao giờ”. Đó là hai “điều kiện cần và đủ” để cho người con gái yên tâm tin tưởng. Dù đã (tỏ ra) khiêm tốn nhìn nhận mình “chẳng có tài gì hay ho cả”, nhưng “ngón nghề tán gái rất nên thơ” và ngay sau đó là “ đã yêu, chưa biết ngại bao giờ” thì “người đẹp” khó tính nào mà không xiêu lòng?

Chàng kể:

“lần thứ nhất tình cờ em qua ngõ
quá bất ngờ đành ngẩng mặt trông theo
ánh mắt ta, điện dưới tần cao thế
chỉ đủ giúp em biểu diễn vòng eo”

Sự “tình cờ em qua ngõ” một lần như duyên lành đã làm cho chàng, ngay phút ấy, chỉ biết ”ngẩng mặt trông theo” thôi (mà không biết làm gì khác!) Ngẩng mặt – có nghĩa là “đơ mặt”, nét mặt biểu lộ một xúc cảm như khi bị “sét đánh ngang tai”, tái xanh vì quá đỗi ngạc nhiên trước dung nhan mặn mà, và vô hồn (tê dại) vì bị giai nhân “hút hồn mất”! Rồi sau đó chỉ phút giây, chợt nhận ra ánh nhìn đăm đắm của mình cũng chỉ là “điện dưới tần cao thế” không ăn thua gì; nhưng tia nhìn mê đắm dõi theo kia, đã đủ “năng lực” để người đẹp “biểu diễn vòng eo” quyến rũ của mình! Cũng có nghĩa là, dù “điện dưới tầng cao thế” nhưng đã “chạm” được đến người đẹp, và nàng cũng đã nhận ra “tín hiệu dòng điện” chàng đang soi chiếu theo từng bước chân nàng…

Rồi tiếp theo:

“sau mánh lới điều tra vội vàng hiệu quả
ta mở ngay chiến dịch trông vời
phải nắm chắc từng phân nhan sắc
để mở tình đón nhận cánh chim rơi”

Không chút giấu diếm, sau lần nàng “tình cờ qua ngõ” đã để lại dấu ấn sâu đậm không thể nào quên; chàng vội dùng ngay “mánh lới điều tra” đơn giản nhưng vô cùng “hiệu quả”. Đi điều tra (dò hỏi) – nhất là điều tra về người đẹp, thì chắc chắn phải có “mánh lới” (có thể gọi là kỹ thuật, phương cách) mới có thể giữ được bí mật an toàn (và có hiệu quả)! Khi biết được “tọa độ & lực lượng” của “địch” rồi, thì chàng “mở ngay chiến dịch trông vời” – đây là chiến dịch theo dõi, thăm dò, lắng nghe “động tĩnh” của đối phương, để “tùy cơ ứng biến”! Sự chuẩn bị khá kỹ theo binh pháp xuất quân “nắm chắc từng phân nhan sắc”, đồng nghĩa với biết rõ “lực lượng & động tĩnh” đối phương (biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng), thì chiến dịch mới thành công: “mở tình đón nhận cánh chim rơi”. Người đẹp, trong đôi mắt chàng, đã là một cánh chim xinh xắn yêu thương mà chàng phải “nắm bắt” trước khi vuột bay…

Và:

“em mới đến trọ, sau nhà ta mấy bữa
có nghĩa là em thường phải về ngang
chẳng có thể bắt ghế ngồi ngoài cửa
để hồ đồ thưởng thức nét dung nhan”

Biết rõ “đường đi nước bước” hằng ngày như vậy, nhưng kẻ “tán gái rất nên thơ” không thể “bắt ghế ngồi ngoài cửa / để hồ đồ thưởng thức nét dung nhan” được. Sự tôn trọng trước cái đẹp, sự tự trọng với tình yêu thương, là điều kiện quan trọng và thiết yếu để thăng hoa tình yêu, nâng cao phẩm cách của con người. Có lẽ, đây cũng là quan niệm sống của nhà thơ trước cuộc đời?

“ta lập tức xoay lại chiều bàn học
mặt hướng ra đường nay thay lại tấm lưng
một chiếc gương đủ to để thu đời phản chiếu
có cả em trong dáng bước ngập ngừng”

Không thể ngồi chờ đợi ngoài hiên để ngắm nhìn, để “hồ đồ thưởng thức”, chàng đã nghĩ ra cách “xoay lại chiều bàn học / mặt hướng ra đường nay thay lại tấm lưng”. Đã xoay bàn học rồi, ngồi nhìn thử ra đường, với tư thế kín đáo ấy vẫn chưa thấy “ưng bụng”, chàng lại thêm “sáng kiến” mới, dùng “một chiếc gương đủ to để thu đời phản chiếu / có cả em trong dáng bước ngập ngừng”. Yêu thương là sáng tạo. Nhờ tình yêu thương, loài người luôn có sáng tạo mới cho đời, bởi “những tư tưởng lớn đều xuất phát từ trái tim” (Vauvernargues). Giống như chàng nhà thơ đang “mở tình đón nhận cánh chim rơi”:

“rất nhiều bữa em liếc vào kín đáo
rất nhiều lần em ngoái lại bâng khuâng
đôi mắt to hàng chân mày khá đậm
cánh mũi thon giúp đỉnh ngực phập phồng”

Chiêm ngưỡng dung nhan người đẹp qua tấm gương to, chàng đã nhận ra: “rất nhiều bữa em liếc vào kín đáo / rất nhiều lần em ngoái lại bâng khuâng”. Không yêu thương, không “để tâm” thì “liếc vào” để làm gì nhỉ? Lại nữa “rất nhiều lần em ngoái lại bâng khuâng” – sau cái “liếc vào kín đáo”, thì nàng đã ngoái nhìn lại mà không trông thấy bóng dáng chàng, nên mới “bâng khuâng” thương nhớ chăng? Tỉnh yêu đã bắt đầu làm cho tâm hồn cả hai trở nên thơ trẻ, rất dễ thương! Bên nầy khung cửa, chàng cũng đã thấy “đôi mắt to hàng chân mày khá đậm / cánh mũi thon giúp đỉnh ngực phập phồng”. Cái “sự thấy” nầy của chàng, tôi nghĩ – là do lòng thương nhớ, tưởng tượng nhiều hơn! Nhưng không sao, đó lại là một “nét đẹp” trong sáng cần thiết của tình yêu.

“ta quả thật rất vụng về mô tả
chân dung em không thuộc dạng Thúy Kiều
cũng chẳng giống Kiều Nguyệt Nga của Lục
giản dị bởi vì đúng dạng ta yêu”

Ban đầu đã khiêm tốn tự giới thiệu “ta chẳng có tài gì hay ho cả”, bây giờ lại “ta quả thật rất vụng về mô tả” – nhưng sau khi so sánh người mình yêu thương với hai giai nhân tuyệt sắc Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga, thì chàng cũng phơt lờ hai giai nhân kia, bởi không “đúng dạng ta yêu”! Chỉ có nàng – “Nhành hoa súng Ái Nghĩa” – mới đích thực là người ta yêu, thương nhớ! Đây là một cách nói “ngây thơ & trẻ con” mà đã đạt được tình cảm cao độ cho người đọc, nhất là với nàng!

Chàng đã khẳng định:

“sẽ rất nhảm nếu vẽ em bằng chữ
hay bằng thơ bằng nhạc ba hoa
xin nói gọn: em là tuyệt sắc
đệ nhất giai nhân trong cõi người ta”

Cách “nói gọn” sau khi cho “vẽ em bằng chữ / thơ / nhạc / họa” đều “ba hoa” (nghĩa là đều bất lực) – bởi khi đã yêu, người mình yêu thương là “tuyệt sắc” nên phải là: “đệ nhất giai nhân trong cõi người ta” cũng là chuyện rất đỗi bình thường! Không có ai đẹp & tốt hơn người yêu của mình, là vậy!

“ta thú thật chưa làm thơ tán gái
ngộ em rồi cũng muốn thử tài chơi
ngồi một chặp thơ tình ra cả đống
chỉ hình như chưa đúng độ tuyệt vời”

Một lời “tự thú” nữa cũng rất “tuyệt”, đã góp phần tô điểm cho tình yêu của chàng đối với nàng, bằng lời lẽ rất tự nhiên. Những từ ngữ “thú thật / ngộ / một chặp / cả đống” diễn tả rất chân xác hoàn cảnh, xúc cảm của chàng khi ngồi nghĩ nhớ về nàng. Khi đã yêu, ai mà không vậy?

“thơ viết nhiều làm sao cho em đọc
gởi báo đăng là chuyện đương nhiên
báo chạy đủ cả tên người được tặng
mà xem chừng rất đỗi vô duyên”

Điều quan trọng hơn là “thơ viết nhiều làm sao cho em đọc”? Đây mới là điều khiến chàng đêm ngày ăn ngủ không yên. Nếu nàng không đọc được, thì làm sao hiểu rõ tấm chân tình của của mình đây? Thơ làm nhiều hóa ra vô ích hay sao? Nhưng, “gởi báo đăng là chuyện đương nhiên / báo chạy đủ cả tên người được tặng / mà xem chừng rất đỗi vô duyên”.
Không chọn theo cách làm “vô duyên” (và thiếu tự trọng) ấy, chàng đã:

“tìm mọi cách quen cậu em sau xóm
và trời xanh không phụ kẻ có lòng
ta đã được theo em về Ái Nghĩa
ta đã nhìn thật rõ nét mi cong”

Rồi cuộc tình, cuộc đời của cả hai, cũng lênh đênh “như áng mây trôi” một ngày nào không xa, sau đó:

“chỉ vậy thôi rồi từ từ phai nhạt
cũng sau khi thăm chị ở Hội An
em hiền hậu đã trở thành y tá
còn ta đây là thương binh tan hàng

đời chẳng như sông chỉ vài ba nhánh
ta trôi xa thật quá đỗi tứ tung
mỗi một chặng lượn một nhành hoa súng
em cũng là… đóa hoa lạc trên sông”

“Tất cả tướng đều từ duyên sinh, cũng từ duyên diệt” – đây là định luật bất biến của vạn hữu, nhưng trong cõi vô thường nầy, với “Nhành hoa súng Ái Nghĩa” của tình yêu thương, nhà thơ Luân Hoán đã lưu mãi hương thơm cho đời!

Mang Viên Long
***

Nhành Hoa Súng Ái Nghĩa

ta chẳng có tài gì hay ho cả
ngoài ngón nghề tán gái rất nên thơ
em khuê cát, ta như chàng bán dạo
nhưng đã yêu, chưa biết ngại bao giờ

lần thứ nhất tình cờ em qua ngõ
quá bất ngờ đành ngẩn mặt trông theo
ánh mắt ta, điện dưới tần cao thế
chỉ đủ giúp em biểu diễn vòng eo

sau mánh lới điều tra vội vàng hiệu quả
ta mở ngay chiến dịch trông vời
phải nắm chắc từng phân nhan sắc
để mở tình đón nhận cánh chim rơi

em mới đến trọ, sau nhà ta mấy bữa
có nghĩa là em thường phải về ngang
chẳng có thể bắt ghế ngồi ngoài cửa
để hồ đồ thưởng thức nét dung nhan

ta lập tức xoay lại chiều bàn học
mặt hướng ra đường nay thay lại tấm lưng
một chiếc gương đủ to để thu đời phản chiếu
có cả em trong dáng bước ngập ngừng

rất nhiều bữa em liếc vào kín đáo
rất nhiều lần em ngoái lại bâng khuâng
đôi mắt to hàng chân mày khá đậm
cánh mũi thon giúp đỉnh ngực phập phồng

ta quả thật rất vụng về mô tả
chân dung em không thuộc dạng Thúy Kiều
cũng chẳng giống Kiều Nguyệt Nga của Lục
giản dị bởi vì đúng dạng ta yêu

sẽ rất nhãm nếu vẽ em bằng chữ
hay bằng thơ bằng nhạc ba hoa
xin nói gọn: em là tuyệt sắc
đệ nhất giai nhân trong cõi người ta

ta thú thật chưa làm thơ tán gái
ngộ em rồi cũng muốn thử tài chơi
ngồi một chặp thơ tình ra cả đống
chỉ hình như chưa đúng độ tuyệt vời

thơ viết nhiều làm sao cho em đọc
gởi báo đăng là chuyện đương nhiên
báo chạy đủ cả tên người được tặng
mà xem chừng rất đổi vô duyên

tìm mọi cách quen cậu em sau xóm
và trời xanh không phụ kẻ có lòng
ta đã được theo em về Ái Nghĩa
ta đã nhìn thật rõ nét mi cong

chỉ vậy thôi rồi từ từ phai nhạt
cũng sau khi thăm chị ở Hội An
em hiền hậu đã trở thành y tá
còn ta đây là thương binh tan hàng

đời chẳng như sông chỉ vài ba nhánh
ta trôi xa thật quá đỗi tứ tung
mỗi một chặng lượn một nhành hoa súng
em cũng là… đóa hoa lạc trên sông

Luân Hoán

Chuyện Cô Bé
Xấu Số Và Ông Lão

Một người bạn đã kể lại rằng:
“Có một cô bé vừa gầy vừa cao bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca; cũng chỉ vì cô bé nhà nghèo, lúc nào cũng mặc mỗi một bộ quần áo vừa rách, vừa cũ, lại vừa rộng nữa…
Cô bé buồn tủi ngồi khóc một mình trong công viên. Cô bé nghĩ, tại sao mình lại không được hát? Chẳng lẽ mình hát tồi đến thế sao? Cô bé nghĩ mãi rồi cô cất giọng hát khe khẽ. Cô bé cứ hát hết bài này đến bài khác cho đến khi mệt lả mới thôi.
“Cháu hát hay quá!’.
Một giọng nói vang lên: “Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ, cháu đã cho ta cả một buổi chiều thật vui vẻ”. Cô bé ngẩn người. Người vừa khen cô là một ông cụ tóc bạc trắng. Ông cụ nói xong liền đứng dậy và chậm rãi bước đi.

Hôm sau, khi cô bé tới công viên đã thấy ông già ngồi ở chiếc ghế đá hôm trước, khuôn mặt hiền từ mỉm cười chào cô bé. Cô bé lại hát, cụ già vẫn chăm chú lắng nghe. Ông vỗ tay nói lớn: “Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ của ta, cháu hát hay quá!”. Nói xong cụ già lại chậm rãi một mình bước đi.
Cứ như vậy, nhiều năm trôi qua, cô bé giờ đây đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng khắp nước. Cô gái vẫn không quên cụ già ngồi tựa lưng vào thành ghế đá trong công viên nghe cô hát ngày nào. Một buổi chiều, cô đến công viên tìm thăm cụ nhưng ở đó chỉ còn lại chiếc ghế đá trống không.
Hỏi một người làm trong công viên, cô nghe được câu trả lời:
“Cụ già ấy đã qua đời rồi. Cụ ấy sống cô độc, và bị điếc đã hơn 20 năm nay!” . Cô sững sốt giây lâu, rồi thẩn thờ bước đến ngồi xuống ngay chỗ ông lão vẫn thường ngồi bên cô ngày nào; đôi mắt đỏ hoe, rưng rưng hai dòng nước long lanh chảy dài xuống đôi má…”

Tôi đã “bị” câu chuyện đơn giản ấy ám ảnh hoài suốt ngày: Cô bé bị “loại ra khỏi dàn đồng ca” của tập thể nhà trường chỉ vì nghèo! Cô vừa buồn, vừa cảm thấy xấu hổ, bởi sự “phân biệt” không chính đáng của người thầy, mà lẽ ra – chính nơi ấy không nên có. Loại ra khỏi “dàn đồng ca” – cũng có nghĩa là “loại ra khỏi tập thể” chỉ vì “ngoại hình” (hay dù bất kỳ một lý do nào khác ngoài tài năng, đức hạnh, trong bất kỳ một môi trường, lãnh vực nào, cũng là một việc làm không đạo đức). Loại ra khỏi xã hôi, bỏ mặc bên lề đời sống cộng đồng, lại là một hành động không có trách nhiệm! Sự cư xử không công bằng, bất công, vô cảm của người thầy nọ; cũng giống với những sự bất công dẫy đầy trong xã hội, mà chúng ta vẫn thường gặp!

Ồng lão sống cô độc, lại bị điêc đôi tai; nhưng tâm hồn ông vô cùng trong sáng, yên tịnh. Mặc dù ông lão không còn có “đôi tai để nghe” bình thường như mọi người; nhưng lại có “đôi tai mầu nhiệm của tâm hồn”; đã lắng nghe được tất cả nỗi vui buồn, bất hạnh của cô bé, như đôi tai của Bồ tát Quan Thế Âm! Ông cảm nhận được niềm hân hoan, hạnh phúc của cô bé mỗi khi nghe được lời ông khen tặng, cám ơn! Và, ông đã luôn luôn “tặng” cho cô bé những lời nói yêu thương dịu dàng như “ban tặng” cho cô bé “những đóa hoa của sắc đẹp” (“Tiếng nói từ ái là bông hoa của mọi sắc đẹp” – Xenon Dêlee) suốt một thời gian dài…

Với cô bé, dù đang nghèo khó, bị “nhận chìm” trong khổ đau, thất vọng – nhưng đã nổ lực tự mình vươn lên, bền bỉ, bên nỗi “cảm thông & chia sẻ” chân thành của ông lão bị “điếc đôi tai để nghe” nhưng có đôi tai “để biết và yêu thương”; cuối cùng, cô đã nhận được sự thành công vẻ vang bằng chính năng lực, và sự kiên nhẫn của mình, không phải ai cũng có thể có được!

So với ông lão, chúng ta rất diễm phúc có đủ đôi tai “để nghe” tốt, nhưng có bao giờ trong đời, chúng ta đã lắng nghe bằng “đôi tai của tâm hồn” để mang lại niềm vui sống, hạnh phúc cho người thân, bạn hữu, như ông lão chưa? Đã “sử dụng” đôi tai không bệnh tật, để nghe những điều đáng nghe cho đời sống mình an vui, đời sống người được yên bình chưa? .

So với cô bé, rất nhiều người trong chúng ta cũng được diễm phúc hơn (đời sống sung túc, dáng người toàn vẹn, gia đình quan tâm v v v); nhưng đã làm được gì để lợi lạc cho chính mình, và cho cả những người thân yêu như cô bé chưa?

Cuối cùng, sự quay trở lại công viên để “tìm thăm ông lão” ngày xưa, sau khi đã thành đạt lẫy lừng của cô bé nghèo hèn; là sự “quay về” của Tình thương yêu, của lòng Biết ơn; mãi mãi tỏa ngát hương cho đời sống như lời Đức Phật đã dạy: “Hương Chiên đàn, hương Da già la, hương Bạt tất kỳ, hương Thanh liên; đều là những thứ hương vi diệu, nhưng không bằng hương Đức hạnh xông ngát tận chư thiên!”

“Tuyệt Huyết Ca”
Của Đặng Tấn Tới

Tại sao tôi chọn đọc thi phẩm “Tuyệt huyết ca” mà không là “Thi Thiên” (tác phẩm thứ tư, phát hành mùa Thu Quí Sửu), hay thi phẩm mới nhất vừa phát hành trong mùa Xuân 1974 là “Trúc Biếc” của Đặng Tấn Tới ? Tại sao là một tập thơ mỏng manh, được in ra vội vàng trong một năm đầy biến cố (mùa hè 1972), kỹ thuật trình bày cũng xoàng xỉnh, mà không là một tập nào trong 04 tập thơ xem như được độc giả lưu ý nhiều nhất ?

Chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca” tôi cần nói tới hai điều :

1-Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của kẻ sĩ Việt Nam (hay nói cách khác: Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của người nghệ sĩ Việt Nam) hai mươi năm “lạnh nghe hồn réo mười phương, Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn”.

2-Minh chứng, lần chót nhưng không phải là thừa thãi, không có sự phân chia (không phải sự tìm hiểu, nghiên cứu) nào trong Thi ca là thích hợp ; hay nói cách khác, không thể uốn nắn, xếp loại một cách gượng ép, cứng nhắc, với nhiều ác ý để từ đó đưa ra những luận cứ nhất thời rất hàm hồ, về những thi phẩm đã được giới thiệu.

Phần một (xin tóm tắt) : Thi phẩm “Tuyệt Huyết Ca” gồm 27 đoạn thơ song thất lục bát, tất cả 108 câu thơ, chung quanh một nhan đề chính đã được chọn. Sử dụng lối thơ cổ truyền Việt Nam để diễn tả những khúc ca máu hồng tuyệt vời của dân tộc, Đặng Tấn Tới đã dồn hết rung cảm tích tụ kỳ diệu bao năm giữa “Trăng cổ độ ố mầu tăng hải, Trải thu phần quan tái vài bông”, trong cảnh tượng đời sống ghê khiếp như ma quái “Người vất vưởng tận hang cùng cốc. Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương” vào thời gian được ghi nhận là biến loạn nhất trong hai mươi năm chinh chiến.

Tôi tạm chia “Tuyệt Huyết Ca” thành một bố cục như sau : Đoạn một : (08 câu đầu) Tình cảm mang mang thúc đẩy lần viết (hay lần mở) từng trang tuyệt huyết của Dân tộc. Đoạn hai : (72 câu tiếp) có thể chia làm 04 tiểu đoạn. Tiểu đoạn a: (08 câu) Viết (hay mở) với tư thái thong dong, trang trọng, chua xót và có chút gì như là chán nản. Tiểu đoạn b : (16 câu) . Những trang đầu tiên – là một cuộc tao ngộ kỳ bí, đưa đẩy tác giả túy lúy trong cảnh “Sông nước chảy chiêm bao máu rạng. Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương”. Tiểu đoạn c: (16 câu) . từ cuộc hội ngộ “chung tuyệt huyết” tri kỷ trên, thảm cảnh ma quái trần gian tỏ lộ sáng ngời như đời sống ngày đêm của Dân tộc đã hai mươi năm “Người vất vưởng tận hang cùng cốc/ Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương/ Máu khô thịt nát bên đường, Rợp mầu tinh huyết đò dương đắm chìm”. Tiểu đoạn d : (32 câu) . Thái độ tìm thấy khi đã kinh qua cảnh đoạn trường (ở đây cũng là tâm sự, thái độ của kẻ sĩ – hay nghệ sĩ, đối với mọi biến động) : Giải quyết những nỗi ưu tư bi thiết bằng sự an ủi của chính mình, bằng sự xoa dịu của đôi mắt nhân ái trầm buồn của Phật Lão, và sau rốt, bằng vào sự hy vọng (vẫn còn hy vọng) : “Non nước cũ rạng ngời sông núi / Trời trong xanh muôn tuổi thơ ngây / Nước trôi mây cuốn chưa đầy / Ngày sương nắng biếc hồng rây ánh vàng”. Đoạn 3 (28 câu cuối): Con người đau khổ thống thiết từ đầu (cuộc tao ngộ) đã đổi khác : Ở đây là một cõi mới, một đời sống tiên cảnh lạ thường, hay là một cõi chiêm bao mộng mị của đa số nghệ sĩ Việt Nam. Nhờ đâu con người (em Nguyên Thủy) đã chết với máu me, với hình hài tiều tụy, với xương trắng cát lạnh, đã được sống lại vào đoạn kết ? Nhờ đâu? Xin thưa : Nhờ niềm hy vọng. Nhờ ước mơ. Nhờ mơ tưởng. Nhưng phải chăng mọi hy vọng ở tương lai cũng chỉ là chiêm bao ? Đoạn kết : “Mây gió nổi trôi ngàn bước mộng/ Bàn chân không lùa sóng vô biên/ Ta đi dạo khắp cõi miền/ Này là phố thảo kia triền xóm hoa”.

Đặng Tấn Tới trong “Tuyệt Huyết Ca” không phải u mặc như Tâm Thu Kinh, cũng không gảy những đoản khúc du dương (hân hoan hay bi lụy) liếc ngó đời sống với đôi mắt nhuốm đượm màu sắc Lão Trang – một thái độ ẩn dấu, e dè, nản chán – đó là thái độ hay tâm sự của kẻ sĩ hiện thời. Trong 108 câu thơ ở “Tuyệt Huyết Ca” đã kéo được tấm màn cho ngần ngại cho thấy rõ ràng một hình ảnh của nhà thơ : Đây là những hình ảnh trung thực, gần gũi, linh hoạt, chứa chất nhiều tâm sự bi đát (không giấu diếm – qua những cái nhìn, đến tư tưởng) có thể đại diện cho đa số kẻ sĩ (hay nghệ sĩ) hiện thời : Thương nhớ quê hương, xót xa vì vận nước, nhưng chỉ thể hiện bằng những thái độ tiêu cực (Than thân trách phận, buồn nản, tuyệt vọng, hy vọng, mơ ước, mộng mị, chiêm bao, và thoát tục : Một tính chất biểu hiện hiển nhiên trong vài năm gần đây tâm sự, quan niệm, đời sống của người nghệ sĩ (hay kẻ sĩ) rất phù hợp với vận nước, cùng những cố gắng khai phá cho Thi ca một lối thoát). Sự chuyển biến tâm tư trên có thể giải thích tóm tắt : Quá Đau Khổ Ngao Ngán -> Thất Vọng -> Quá Thất Vọng -> Hy Vọng – > Trở Về Với Mình = Mộng / Ước / Chiêm Bao / Thoát Tục, v.v…. Tất cả những trạng thái tình cảm quanh co nầy đã được ghi dấu trong “Tuyệt Huyết Ca” bằng một giọng trầm tĩnh, trang trọng nhưng lại quá lâm li bi đát.

Tình cảm đó là:

Mang mang cát bụi lên đường
Những xương máu cũ phai hường là đâu?
Trăng cổ độ ố mầu tang hải
Trải thu phần quan tái vài bông
Nao nao gió giục sang hồng
Rụng bao nhiêu cánh giữa lồng nhân sinh
Ngậm ngùi thương cảm :
Ghé trong mây trắng môi cười
Một xe cát bụi xô người ra đi

Và :

Vin sắc máu trong tòa hồng sử
Tay run mầu lữ thứ cô hương
Lạnh nghe hồn réo mười phương
Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn

Nồng nhiệt, tha thiết:

Ta uống cạn giòng trong bích ngạn
Cuộn tâm bào ức vạn sinh linh
Quá giang ca ngộ cô tình
Lấp mầm sinh tử như mình như ai
Người thoáng hiện di hài cuối nguyệt

Đoạn trường:

Hồn đau nhỏ máu tơ đồng
Mấy cung hồ rợn mênh mông gió gào
Sông nước chảy chiêm bao máu rạng
Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương

Chán nản :
Mây trôi lớp lớp vô thường
Trời xanh còn lại con đường chim bay

Nhìn thấy:

Người vất vưởng tận hang cùng cốc
Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương
Máu khô thịt nát bên đường
Rợn mầu tinh huyết đò dương đắm chìm

Và:

Phơi xương trắng ngoài đêm cát lạnh
Vùi đó đây từng mảnh thân non
Đất bay đá chạy chi còn
Bi thương cổ lục héo mòn tân thanh !

Vì thế, tâm sự:

Trường thu hận tan tành sông núi
Bao mạng người làm củi nung tim
Mây ơi nở nụ im lìm
Chở hồn hoa trắng bay tìm tình tang

Tiếng kêu thương trầm thống còn vọng mãi muôn đời:

Nghìn thu trước ai tình xanh mắt
Nghìn thu sau hiu hắt hồn hương
Cùng nhau về tụ đầu sương
Long lanh chút mộng cuối đường tài hoa.

………………………………….

Không kể đến những tâm sự được giải bày mạch lạc trong một bố cục chặt chẽ (điều nầy cố ý hay vô tình ? Tác giả đã : “Ta cũng sầu mở quá độ chơi”) phô diễn và liên kết từng dòng xúc cảm, từng chặng thăng trầm, như một lan tràn tươi mát của suối nguồn. Ngoài một lối sử dụng thể thơ song thất lục bát độc đáo, mới lạ, tuyệt vời nhất trong những áng thơ song thất lục bát đã có tự cổ chí kim (Tôi chịu trách nhiệm về những phát biểu đã nói hôm nay cho tới ngàn sau), không có một câu thơ nào trong 108 câu của “Tuyệt Huyết Ca” tì vết, suy suyễn (mà bạn có biết là tại sao có 108 câu?). Tôi có thể ví như một xâu chuỗi hạt, 108 hạt ngọc đều ngời sáng và quí giá như nhau. Không chú trọng tới những ưu điểm hình thức, điều quan trọng tôi muốn nói lên khi chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca”, phân đoạn và dẫn chứng, rằng không có sự phân chia nào trong Thi ca là thích hợp cho mỗi tác giả, không cố định và bắt buộc phải chịu dán cái nhãn hiệu kỳ quặt xa lạ đối với họ (Thi sĩ) Rằng Thơ phải đọc bằng tâm hồn, rung cảm tự nhiên, đọc và mê man tàng tịch trong mỗi dòng mỗi chữ. Rằng thơ phải như thế – xúc cảm ; nồng nhiệt, phẫn nộ, hay đau xót, hân hoan cũng phải chảy vào lòng người bằng ngõ ngách sâu khuất nhất của tâm hồn. Chứ không phải là một kỹ thuật dụng chữ. Dụng ngôn. Đao to búa lớn. Tôi có thể vắn tắt : Sự rung cảm truyền đạt bền bỉ và sâu sắc là phần quyết định chân giá trị của một thi phẩm chứ không phải : Viễn mơ, Dấn thân, Thiền hay một cái gì ngộ nghĩnh khác.

Gặp “KINH PHÁP BẢO ĐÀN”
Của Lục Tổ Huệ Năng

* Cùng Hòa Thượng Thích Thiện Đạo
Tại Chánh Điện Chùa Phi Lai.

Sau hơn một tuần sống ở Phi Lai, một buổi sáng, sau bữa cơm chung vui vẻ với các cô chú, tôi xin phép thầy Thiện Đạo xuống Tuy Hòa thăm chơi vài hôm. Tôi muốn đi loanh quanh trong cái thị xã đầy ắp kỷ niêm một thời ấy, để ghé thăm vài người bạn đồng nghiệp, bạn văn, nhân tiện mua ít sách báo để về lại Phi Lai có cái đọc cho vui, sau những giờ mải mê kinh sách!

Về Tuy Hòa, tôi thường ghé lại nhà anh chị Trần Huiền Ân, có lần ăn ngủ ở đó – cũng có khi về “tạm trú” nhà chị Lê Tămh Mính. Nhà chị Mính khá rộng, đó là một vila có nhiều phòng, giữa khu vườn nhiều cây xanh, rất thoáng mát. Chị dành cho tôi ở ngay căn phòng mà lúc xưa khi còn dạy học ở Nguyễn Huệ, tôi đã ở. Căn phòng có cửa sổ rộng nhìn ra vườn, có giường nằm cá nhân, có bàn làm việc, có tủ chứa áo quần, rất thuận tiện. Hai nơi nầy là “địa chỉ thường trú” của tôi khi “có dịp” vào Tuy Hòa…

Tôi ngồi uống trà cùng Thầy ở chiếc bàn thấp kê sát cửa sổ ở nhà khách như mọi buổi sáng, tôi nói: “Thưa thầy, hôm nay tôi định đi Tuy Hòa vài hôm…” Thầy cười: “Ờ, ông nên đi thư giãn một chút, nếu muốn!” Nói xong, Thầy quay vào phòng riêng, phía sau nhà Tổ – trở ra, Thầy đưa cho tôi tập sách dày, giấy hẩm: “Này, cầm quyển nầy về dưới đọc đi!” Cầm tập sách trên tay, tôi thoáng đọc tựa sách: “Kinh Pháp Bảo Đàn” của Lục Tổ Huệ Năng, do Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành nội bộ, in ronéo. Tôi nhìn Thầy, cười: “Thầy cho tôi mượn hay sao?” – “Tôi đã đưa cho ông, là của ông rồi!” Thầy Thiện Đạo trả lời rất gọn. Tôi cảm thấy rất vui vì có thêm tập Kinh mới…

Không thể chờ đợi các chuyến xe lam, bởi từ chợ Hòa Thịnh đến bến xe lam Tuy Hòa, có thể mất hẳn một buổi; tôi đi bộ ra chợ, đón xe thồ đi ngay. Tôi đến Tuy hòa khoảng 9 giờ, ghé lại nhà chị Mính. Tôi tìm đến phòng ở dành cho tôi như ở nhà mình. Chồng kinh sách trước đây tôi đọc, vẫn được xếp nằm ngay ngắn trên bàn, phòng ốc sạch sẽ; tôi đẩy mở rộng hai cánh cửa sổ cho nắng tràn vào.

Ngồi ngay vào bàn, tôi mở vội “Kinh Pháp Bảo Đàn” ra đọc, với sự nao nức, hưng phấn, như mỗi lần có được tập kinh sách mới. Tôi say sưa đọc, cẩn trọng từng câu, cảm thấy lời kinh đã có một sức hấp dẫn lạ lùng, nhất là cảm thấy rất gần gũi, thân thiết. Đọc đến trang 14 – đến đoạn kinh sau đây, tôi bỗng cảm thấy không còn có ham muốn đọc thêm nũa: “(…) Huệ Năng sau đến Tào Khê lại bị bọn người ác tìm đuổi mới ở nơi Tứ Hội tị nạn trong đám thợ săn, trải qua mười lăm năm, khi đó cùng những người thợ săn tùy nghi nói pháp. Những người thợ săn thường bảo giữ giềng lưới, khi Huệ Năng thấy những con vật mắc lưới đều thả. Mỗi khi đến bữa ăn, hái rau gởi luộc trong nồi thịt, hoặc có người hỏi thì đáp: “Chỉ ăn rau ở bên thịt.” Một hôm, mới suy nghĩ: “Thời hoằng pháp đã đến, không nên trọn trốn lánh.” Huệ Năng liền đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Khi ấy có gió thổi, lá phướn động, một vị tăng nói gió động, một vị tăng nói phướn động, hai người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)”

Chỉ một lời nói của Lục tổ Huệ Năng với mấy vị sư đang tranh cãi về chuyện “phướn động hay gió động” đã như dòng thác lũ, bất ngờ tuôn chảy vào trong tâm thức tôi: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)”, tôi lạnh người, nghe âm vang cứ lớn dần, hình ảnh lá phướn trên cột cờ cao trước sân chùa Pháp Tánh bay trong gió lộng cứ ám ảnh trong tôi; với nỗi bàng hoàng khôn xiết! Tôi ngồi bất động, ngơ ngẩn giây lâu. Đôi mắt tôi dường như được tiếp nhận một thứ ánh sáng mới, nhìn ở đâu tôi cũng thấy mới lạ; tôi quay nhìn ra vườn thấy tàng cây màu xanh im sững một nỗi lặng thầm ngàn năm; nhìn lên chồng kinh sách đang nằm yên lặng trên mặt bàn, như trơ cứng, lạnh lùng, không còn quyến rũ, réo gọi tôi như trước đây nữa. Bất giác, tôi tự nghĩ, sao mình lại có thể giữ lại những quyển sách này đến bây giờ? Tôi ngồi im lặng đắm chìm trong giây phút bị xáo trộn chóng vánh ấy, với quyển kinh đang mở rộng trước mắt. Tôi định gấp quyển kinh lại, nhớ là “trang 14”, không đọc tiếp nữa…

Ngay phút ấy, tiếng chị Mính từ phòng nhà sau vọng vào: “Anh Long ơi! Thầy Thiện Đạo gọi…” Tôi ra khỏi phòng, đến nhận ống nghe từ tay chị Mính: “Chào thầy…” – “Ờ, đã đọc quyển “Kinh Pháp Bảo Đàn” chưa?” – “Thưa thầy, đã đọc, nhưng đến đoạn kinh nầy, tôi quyết định không đọc nữa!” – “Đoạn nào vậy?” Tôi đọc thuộc lòng: “… Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)” Sau tiếng cười, Thầy khuyên: “Cứ đọc tiếp đi nhé!” Tôi do dự: “Thưa Thầy, tôi sẽ đọc tiếp, nhưng không phải lúc nầy! Cám ơn Thầy rất nhiều…”

Tôi trở về phòng, nằm yên, không muốn làm gì, để tận hưởng giây phút hiếm hoi quý báu khi nhận được nguồn pháp hỷ vô bờ từ “Kinh Pháp Bảo Đàn”. Tôi lại nhìn ra bầu trời, lá cây bên ngoài cửa sổ, vẫn cảm thấy chúng là sự hiện hữu lạ lẫm, nhiệm mầu. Tôi có suy nghĩ: “Dù “Pháp Bảo Đàn kinh”, đúng quy định, được xếp là “Luận”, nhưng, chính đó là một quyển “Kinh” rất mầu nhiệm, vì đã làm cho những cái tâm vô minh, được bước dần vào Đạo!” Tôi nghĩ tiếp: “Bất kỳ lời nói nào có năng lực làm cho chúng sanh điên đảo, u tối được tĩnh tâm, an lạc và đạt đến ‘bất thối chuyển’, đều là Kinh!” Tôi vội lấy hai tờ giấy manh khổ nhỏ luôn có sẵn trên bàn, ghi lại vài “cảm nhận” về giây phút bất chợt rất linh diệu vừa qua; (như ghi lại một kỷ niệm, một trang nhật ký) tuy vẫn biết rằng “văn tự” rất giới hạn và khô cứng đối với xúc cảm và sự nhiệm mầu của chân tâm!

Viết xong phần cuối của tập Hồi ký (đã chia sẻ trên newvietart.com & hoadongphuong) hơn nửa năm sau, đang đọc lại và biên tập lần cuối Hồi ký đã viết – tình cờ lục trong mấy thùng sách cũ để tìm lại bản thảo các truyện, tôi đã bắt gặp tập “Kinh Pháp Bảo Đàn” ngày nào nằm yên lặng, còn nguyên vẹn ở đó (mà tôi cứ nghĩ quyển sách đã thất lạc đâu đó trên bước đường lận đận bao năm). Là một duyên may – trong quyển Kinh cũ nầy có bốn trang tôi viết tay trên hai tờ giấy manh khổ nhỏ, với đề tựa bằng bút lông hai mầu xanh đỏ: “Buổi Sáng Nhân Đọc “Kinh Pháp Bảo Đàn” Của Lục Tổ Huệ Năng” được xếp bỏ vào giữa quyển Kinh. Xin ghi lại nguyên văn nội dung – như lưu giữ một kỷ niệm:

“Quyển “Kinh Pháp Bảo Đàn” giảng giải của Lục Tổ Huệ Năng, do Ngài thuyết nói, đệ tử sau nầy ghi lại, được Thiền viện Thường Chiếu in ronéo, để “phổ biến nội bộ”; không thấy ghi ngày tháng năm ấn hành.

Trong lời “lược khảo”, người dịch bảo đúng lý xưa nay, lời của Phật mới được gọi là Kinh; lời của Chư Bồ Tát, Chư Tổ thì gọi là Luận; còn lời của Thiền sư thì gọi là “Ngữ Lục”.

Tuy vậy, theo di chúc của Lục Tổ Huệ Năng đã dạy: “Sau khi ta tịch, các ngươi muốn làm lợi ích cho đời sau, thì nên ghi lại những lời ta dạy, thành một quyển sách, đề tên là “PHÁP BẢO ĐÀN KINH”. Vì thế Ngài Pháp Hải, một vi Thiền sư đệ tử của Lục tổ, trụ trì chùa Bảo Lâm, đã ghi lại như thế.” Lời “lược khảo” kết luận: “(…) nên y theo lời dạy của Lục tổ, quyển sách nầy đề tên như thế; chứ đúng ra, quyển sách nầy được xem là một quyển “Ngữ Lục’ mà thôi!” (trang 1).

Nay ta được căn lành nhiều kiếp, được đủ duyên đọc “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục tổ do Thượng Tọa ân sư trao cho, chỉ kịp đọc đến dòng thứ 3 và 4 trang 14, đã được hiểu rõ, ta chợt bừng thấy được bản tánh chơn tâm, thầm khế hội vô ngôn ý của Lục tổ, qua lời đáp: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhơn giả động”. Vậy mà đã gần suốt 15 năm ta đã khổ đau, phiền não, không ngày giờ nào được yên ổn thân tâm, có lúc đã nghĩ tới sự tự hủy thân mình…

Trong gần 15 năm tối tăm đó, ta đã vào chùa xin Quy y Tam bảo (cho ta và cả bốn đứa con); đã ăn chay nằm đất tại nhiều ngôi chùa. Ta đã vào đảnh lễ Phật, niệm Kinh, cầu nguyện, sám hối tại 10 ngôi chùa trong nước – nơi ta đã có dịp dừng chân trên bước đường lưu lạc – mà chưa thấy thực an lòng!

Ta đã được các thiện tri thức cho đọc kinh sách Phật, được trì đọc và biên chép cả Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, luận Tối Thượng Thừa của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn; mà vẫn chưa thấy được mối nhân duyên trùng điệp từ bao kiếp của đời ta, chưa có niềm an lạc hoàn toàn!

Sáng nay, lúc 10 giờ 20 phút ngày 15 tháng 3 năm Ất Hơi (14 tháng 4 năm 1995) khi từ chùa Phi Lai trở về phòng trọ, đang có sẵn tập “Kinh Pháp Bảo Đàn” trong tay, ta mong ước được đọc hết quyển sách quý, vì lòng ta đã tha thiết, ngưỡng vọng với Phật pháp từ rất lâu rồi!

Chỉ trong vài phút đọc, trang 14 đến dòng thứ 3-4, nghe Lục tổ tình cờ nói với chư vị sư chùa Pháp Tánh: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhơn giả động” – ta chợt hiểu suốt đời ta, Tâm ta, liền thấy hoàn toàn thanh tịnh, an lạc… cho dù, thân ta đang còn trôi nổi trong dòng nhân duyên hiện kiếp!

Ta tự biết chính Tâm ta là núi trân bảo!

Ta tự coi mình như vừa mới được sinh ra, kể từ thời gian 10 giờ 20 phút, ngày Rằm tháng Ba – Ất Hợi.(14.4.95), với đầy đủ chơn Tâm, Phật tánh từ vô thủy vô chung nào, chưa hề mất!

Ta đã buông sách xuống, thật trong lòng không muốn đọc thêm một dòng nào nữa. Ta thực không còn nghĩ, nhớ, tưởng tới chồng Kinh sách đang nằm chờ sẵn trên bàn, như trước đây mươi phút nữa. Tất cả Kinh sách ấy bây giờ đối với ta là KHÔNG. Pháp tức KHÔNG!

Ta cũng chợt nhận ra rằng, tại sao Lục tổ trước khi tịch, đã di chúc, phải ghi tên tựa quyển sách là “Pháp Bảo Đàn Kinh”. Tại sao gọi là KINH? Có gì đâu phải chia ra “Luận”, chia ra “Ngữ lục”, chia ra “Kinh”! Chia ra như thế, là đã làm trái ý Phật. Không hiểu Phật pháp. Làm sai lời Phật dạy rồi!

Ngài đã buồn lòng biết bao!

Phàm lời của bất cứ người nào nói ra, làm cho một người (hay nhiều người) được thấy rõ ngọn nguồn của Tâm mình, bản tánh của mình, mà được an vui – tuy là một cử chỉ, một sự im lặng, chỉ đủ cho một chúng sanh thôi, giác ngộ Tâm Phật của chính mình, và tri kiến gỉải thoát giữa dòng sinh tử; thảy đều được gọi là Kinh cả, được gọi là Phật cả!

Chúng sanh là Phật sẽ thành…

Lục tổ Huệ Năng đã để lại lời dạy trong Kinh Pháp Bảo Đàn cho ta (và bao người) được cơ duyên giác ngộ – ta gọi đó là Kinh, là lời Phật…

Ngài đã biết trước được điều nầy chăng?
Cúi xin đảnh lễ!

Tuy Hòa, Rằm tháng Ba Ất Hợi”

Từ đó, tôi rất vui, khi tự đặt cho mình một “đạo hiệu” là Huệ Thành (pháp danh được bổn sư đặt cho khi quy y là Sơn Thành), ngay buổi sáng hôm ấy!

Về sau, nhớ tới giấc mơ năm xưa đã được bổn sư ở chùa Ngọc Lộ giải thích, cho là “Con sẽ nhận được một quyển sách quý” – tôi tin, quyển sách quý mà tôi luôn mong chờ từ bao năm nay, chính là “Kinh Pháp Bảo Đàn” của Lục Tổ Huệ Năng đã đến với tôi hơn chục năm sau!

Tôi rất biết ơn thầy Thiện Đạo – vị “Ân Sư” của tôi, người thầy đã trao “Kinh Pháp Bảo Đàn” buổi sớm nào ở Phi Lai với lời nói “Tôi đã đưa cho ông, là của ông rồi!”, tri ân nhiều bậc thiện trí thức mà tôi đã có “duyên lành” gặp gỡ trong gần bốn chục năm qua trên bước đường lưu lạc đó đây, và ngay cả trong quãng đời còn lại, đang trôi nổi hôm nay…

(Còn tiếp…)

Thêm Một Buổi Sáng Chủ Nhật
Ấm Áp Nghĩa Tình

Sáng hôm nay – chủ nhật, 13.7.2014, cũng tại quán cà phê Biên Thùy thân quen yên vắng nằm ở vùng quê Nhơn Hưng, quý văn hữu An Nhơn đã có buổi gặp gỡ cà phê đầu ngày nhân dịp tác phẩm thứ 20 của tôi vừa được ấn hành: tập tiểu luận và tạp bút “Như Những Giọt Sương” tập 3 (nhà XB Hội Nhà Văn – trình bày bìa họa sĩ Lê Sa Long – chân dung và phụ bản họa sĩ Đinh Cường) để cùng nhau chia sẻ niềm vui, cảm nhận, trong không khí đầm ấm, thân thiết, nghĩa tình.

Người bạn văn vong niên Trúc Lập – Đỗ Văn Liệp, người cao tuổi nhất (86 tuổi), đã có mặt rất sớm. Anh là người bạn văn đồng hương thân thiết, luôn chia sẻ, động viên tôi, và rất chí tình với anh em trong mọi sinh hoạt thường nhật, nhất là trong các buổi gặp gỡ giao lưu văn nghệ. Anh Trần Duy Đức – người cao tuổi thứ 2 (68 tuổi), cũng đã đến rất đúng hẹn ngay sau đó. Quý thân hữu Từ Văn Minh (từ Đập Đá), Trình Ngọc Chương (Bình Định), Nguyễn Như Tuấn, Minh Nguyên, Đỗ Xuân Phương, Hoàng Trọng Quý, cô giáo Thu, Nguyễn Hồng Sơn (từ Nhơn Khánh) luôn là những “hạt nhân” của tình văn nghệ ở An Nhơn. Nhà thơ Phạm Văn Phương dù đang rất bận rộn chuẩn bị đi Nam Định “viếng gia” để hỏi vợ cho quý tử, cũng đã không thể vắng mặt. Hai người bạn văn gọi đến chia vui và “xin lỗi” vắng mặt là nhà thơ Nguyễn An Đình đang “bị mấy chiếc răng đau nhức hành hạ” và Trần Minh Nguyệt còn đang bận bịu với công tác chấm thi, Còn Bùi Hoài Vân lại “đang ngồi bàn họ dự đám cưới”. Đặc biệt, nhạc sĩ Lê Minh Thế – người con đất An Nhơn đang sinh sống và làm việc ở Kontum- về thăm quê cũng đã đến chung vui, góp thêm “hơi ấm” cho buổi gặp gỡ…

Đáp lại những tấm chân tình nồng hậu ấy, tôi đã rất hạnh phúc được bày tỏ lời cảm ơn đến với tất cả anh em đã luôn gần gũi, chia sẻ, đã đem lại cho tôi nhiều niềm vui và an ủi để tiếp tục cuộc “vui chơi” cùng anh em thêm nhiều hơn nữa. Tuy buổi gặp gỡ rất đơn sơ nhưng đã ghi dấu trong tôi rất sâu đậm, khó quên trong cuộc đời cầm bút nhiều gian khó của mình. Tôi cũng bày tỏ lòng mong mỏi được đón đọc những tác phẩm mới của tất cả, để có dịp chia vui cùng nhau như hôm nay.

Anh Trúc Lập đã thay mặt anh em ngỏ lời chúc mừng và chia vui với tôi nhân tác phẩm thứ 20 vừa được xuất bản. Anh cho biết dịp này cũng là nguồn động lực cần thiết cho tất cả để anh em “lấy đà” giới thiệu tác phẩm mới của mình trong tương lai gần.

Tiếp lời, anh Trần Duy Đức cũng đã chia sẻ cảm nhận khi được cầm trên tay tập sách dày dặn, mỹ thuật thứ 20 của tôi với hy vọng trong những tháng ngày kế tiếp tôi sẽ có thêm nhiều tác phẩm mới bởi (theo nhận định của anh) sự sáng tạo và sức sống trong tôi còn tràn đầy…

Quý anh Lê Minh Thế, Như Tuấn, Trình Ngọc Chương, Đỗ Xuân Phương, cô giáo Thu, Minh Nguyên… cũng đã lần lượt chúc mừng, chia vui, cùng có chung niềm tin tưởng và hy vọng vào những tác phẩm tiếp theo của tôi để tất cả cùng nhận được “những giọt sương” tươi mát, cần thiết cho đời sống vốn có nhiều ưu phiền.

Tôi đã rất vui và hạnh phúc được trao đến tận tay tất cả tác phẩm mới là những trang viết tâm huyết qua bao năm tháng của mình. Nhân dịp này, tôi có “hai món quà nhỏ” muốn gởi tặng, nhưng chưa biết “giải quyết” thế nào cho ổn, vì chỉ có hai (trong lúc tổng số là 14): Đó là bức phác họa chân dung tôi của họa sĩ Đinh Cường gởi cho và tạp chí Quán Văn sổ 23 có đăng bài tạp bút “Hai món quà của họa sĩ Đinh Cường” của tôi như chia sẻ niềm hạnh phúc với tất cả…

Anh em đã vừa vui vẻ góp ý, mạn đàm, vừa lai rai cà phê, trà , và cả Tiger (theo nhà thơ Như Tuấn là để cho… thêm ấm áp!).

Cuối cùng món quà phác họa chân dung tôi của họa sĩ Đinh Cường được gởi cho anh Trúc Lập (người cao tuổi nhất); và tạp chí Quán Văn 23 được gởi cho anh Trần Duy Đức (người cao tuổi thứ hai). Cả hai món “quà nhỏ” ấy có giá trị vật chất chưa quá 50 ngàn đồng nhưng tất cả cũng đều nghĩ như tôi: đó là một kỷ niêm vô giá trong trong tình văn nghệ và bằng hữu.

Họa sĩ Từ Văn Minh đã làm công việc “phóng viên nhiếp ảnh” – ghi lại những giờ phút của buổi sáng chủ nhật đầy tình thương yêu và tình văn nghệ…

Buổi gặp gỡ đã tạm kết thúc sau hai giờ tâm tình, trao đổi – ghi thêm trong những kỷ niệm đời mình những lần sum họp và vui vẻ , khó quên.

Ăn Giỗ Vợ Bạn

An có thói quen tắt nguồn diện thoại trước lúc đi ngủ. Phòng ngủ của anh lại gần kề phòng con và các cháu; nên mỗi lúc chuông điện thoại reo mà chưa kịp bắt máy, thì con cháu không ngủ yên được! An bị rầy rà mấy lượt, nên khi uống hai viên Rotundin, chuẩn bị lên giường, là đã tắt máy ngay! Cho khỏi phiền…

Đêm hôm qua, không rõ vì sao, An đã lên giường ngủ một giấc, mà điện thoại lại reo vang inh ỏi? Lúc ấy vào khoảng 10 giờ 30, cả nhà đang ngủ say hết. An giật mình, đưa vội tay lên đầu giường như cái máy, mở to mắt nhìn, thấy tên “Nguyễn Viết Đào”…Anh bắt máy, chủ yếu chỉ nghe, không dám nói. Câu nói duy nhất của An trước khi tắt máy, tắt nguồn, là “Tôi sẽ đến. Cám ơn anh!”.

Nếu An nhớ tắt nguồn như mọi đêm, thì đã bỏ mất một cơ hội gặp gỡ, chia sẻ với bạn. Sự “quên ngẩu nhiên” có lẽ, đôi khi – cũng là một diều tốt, An nghĩ vậy – cũng có thể là một “nhân duyên lành”; vì trong cái rủi vẫn có cái may bên cạnh…

Sáng sớm hôm sau, An gọi cho Đào để xin lỗi, và cho biết lý do đêm qua không thể trò chuyện lâu hơn được. Biết An sẽ có mặt, Đào rất vui: “Anh em ít có dịp gặp nhau, nay nhân ngày giỗ bà xã, cậu nhớ xuống để mình còn cảm thấy gần gũi – như xưa nhé!”.

Lời người bạn như âm vang trong đầu An “để anh em còn cảm thấy gần gũi như xưa”; thật ra quê của Đào chỉ cách An khoảng mười mấy cây số thôi, nhưng anh em ít có dịp gặp nhau lâu. An chợt nhớ lời người bạn vừa thuật lại tuần trước, khi An được mời đến dự ngày giỗ cha của anh ta. Anh ta kể, vừa gọi cho một cậu bạn đang là Phó giám đốc một cơ quan ngày xưa của anh, với lời mời rất thân tình, dầu cậu ấy nhỏ tuổi hơn: “Nhân ngày giỗ ông già mình, mời cậu mười giờ hơn ghé uống chén rượu cùng gia đình và anh em…” – người bạn đáp gọn một câu “chưa chắc!”, rồi cúp máy cái rụp; mà không thể hiểu nổi sự kì quặt của một con người, có thể nói là đã “có chút địa vị và học thức” trong xã hội của chính mình đang sống! Mỗi ngày, An vẫn thường bắt gặp những sự kỳ quặt như thế nhiều hơn, mà không thể giải thích được…

Đào mời An có mặt từ khoảng 10 giờ đến 10 giờ 30, nhưng An đã quyết định đi sớm, để đến sớm hơn. An có thói quen “không dám” đi trễ. Nếu bận việc phải đến trễ hơn 15 phút – đều gọi báo và xin lỗi trước. Đào lớn hơn An hai tuổi, học cùng trường Cường Đễ, nhưng học trên một lớp. Cả hai đã có thời gian ba năm sống chung một nhà trọ từ lớp đệ tứ. Đào thi hỏng tú tài hai, bị động viên vào học trường võ bị Thủ Đức; trong lúc An tiếp tục học đệ nhất, và cuối năm vượt qua được kỳ thi với tỷ số đậu mười phần trăm giai đoạn thi viết, qua phần oral chỉ còn lại tám phần trăm. An chọn thi vào trường Đại học Sư Phạm Saigon…

Đào là con út một gia đình phú nông khoa bảng, danh giá ở xã TP, được lo cho việc ăn học xa rất chu đáo; trong lúc An ít khi trả tiền cơm tháng một lần cho bà chủ nhà trọ đúng hẹn. Trong đám chín cậu học trò đang tá túc ở trọ ấy – có lẽ, An là người bất hạnh nhất: An mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, sống nhờ vào chút tình thương của người anh. An luôn trả tiền cơm một tháng đến hai ba đợt vì người anh chưa bao giờ vui vẻ đưa cho An một lần . Nhưng, Đào lại chọn An để kết thân, gần gũi, quý mến anh nhiều nhất. Cả hai thường đi học chung mỗi sáng. Đào thường rủ An đi long rong ngoài phố, vào quán ăn kem, vào xi nê chiều thứ 5, hay ra biển mỗi chiều tối, trước giờ ngồi vào bàn học cho đến khi đôi mắt không mở ra được nữa. Đào vẫn hay dành nhiều thời gian cho việc chải chuốt, săm soi gương mặt, mái tóc, áo quần; nên khiến An thường bị đi học trễ vì chờ đợi Đào đứng trước tấm gương soi hơi lâu…Có hôm, đã ra đến đường – Đào còn kéo An lại, hỏi: “Cậu nhìn thấy cái đầu tóc mình thế nào? Mình ăn mặc vậy có được không?” – “Number-one, trễ rồi, cha nội…”. An không ưa Đào về chuyện chải chuốt, nhưng lại mê Đào về chuyện đàn hát; Đào chơi guitar rất giõi, nhưng hát thì chỉ “hay hát” thôi (chứ không phải hát hay)…

Đào ra trường bộ binh một thời gian, nhưng sau đó được tuyển vào không quân. Có lẽ vì nhu cầu, cũng có thể vì “bộ gió” cao ráo, khỏe mạnh, hào hoa của anh ta nữa. Đào được cử sang Mỹ học lái máy bay trực thăng và L19 hơn một năm, về nước phục vụ ở phi trường Cam Ranh; trong lúc An đang còn học năm cuối đại học.

Khi còn ở Saigon, nghe Đào báo tin sẽ cưới Kim Thanh vào dịp cuối năm – An hơi ngỡ ngàng một chút, nhưng không ngạc nhiên nhiều. Thuở còn học đệ nhị, trong lúc đang nổ lực để chuẩn bị thi tú tài phần một, An đã nghe Đào rỉ rả tâm sự về cuộc tình của anh với Kim Thanh. Rất mùi mẫn. An chỉ nghe, mà không ý kiến. Mới vừa tuổi mười tám , nhà nghèo, An chỉ lo cắm đầu học, không hề dám nghĩ nhiều đến chuyện yêu đương, mặc dầu cũng có đôi bóng hồng chen vào đầu An, nhưng không ở lại lâu, không sâu đậm…An hiểu lờ mờ rằng, Tình Yêu rất rắc rối, rất kỳ cục – nên An chỉ ngồi nghe Đào say sưa kể chuyện vì nể tình, mà không dám góp vào câu nào…Không biết rõ, tốt hơn là nên im lặng – An luôn ghi nhớ lời khuyên đó của chị, khi rời nhà đi học xa.

Đào đã giới thiệu KimThanh cho An biết vào một lần gặp nhau ở bãi biển. Kim Thanh đẹp. Có duyên. Vóc dáng gợi cảm. Cô có học qua năm đệ nhất ở trường tư thục Bồ Đề, nhưng thi tú tài hai không đậu; đang làm việc ở Ty Xã hội. Trước khi gặp Đào, Kim Thanh đã có một đứa con trai hai tuổi với chàng trung úy thiết giáp, mà chưa làm đám cưới. Rút cuộc, chàng trung úy hào hoa đã theo đoàn xe tăng lên cao nguyên, không hẹn ngày trở lại…Trước ngày nhận về làm “phù trể” cho Đào, An còn nghe vài người bạn cùng trường thuở xưa cho biết, Kim Thanh còn lớn hơn Đào hai tuổi! An cười: “Cậu không nhớ lời ông bà ta đã nói sao? – “Nhất gái hơn hai, nhì trai hơn một” đó mà!”. Ngày theo họ nhà trai đến nhà gái để làm lễ, An chỉ trông thấy một mình mẹ của Kim Thanh (và chú bác, cô dì…) trên bàn họ đón khách – hỏi nhỏ Đào: “Ông già của Kim Thanh đâu rồi, cậu?” – Đào thì thầm: “Ông già còn đang ở Hà Nội!”.

Cách nay chín năm, Kim Thanh mất vì bệnh ung thư, mặc dầu Đào đã lo chạy chữa cho vợ gần như “sạch sẽ” vốn liếng còn lại sau năm 75. Kim Thanh mất, để lại cho Đào bốn người con – Đào gọi người con riêng của Kim Thanh là “con Cả”, người con trai đầu tiên của Đào là “con Trưởng”, và tiếp theo là cô gái và một cậu con trai út. Đào đã cùng Kim Thanh lo việc xây dựng gia đình cho người con Cả bài bản, dù hoàn cảnh lúc ấy đang rất khó khăn. Hai người con trai sau nầy của Đào đang sống và làm việc ở Saigon. Chỉ có người con Cả và cô con gái giữa là vẫn sống ở quê, gần Đào. Tất cả, cho đến nay – đều đã được lập gia đình riêng, có cửa nhà, công việc làm ăn tương đối ổn định. Đào đã có cháu nội và ngoại đầy đủ, đuề huề.

Hằng ngày, người con Cả ở trên phố chợ đều chạy về tưới vườn cây cảnh, quét dọn khu vườn cho Đào một lần vào buổi sáng sớm. Trưa, cô con gái mang thức ăn đã nấu sẵn đến cho Đào và đứa cháu nội (con của người con Cả) dùng cả ngày. Đào chỉ nấu nồi cơn điện, cho vui – tùy thích. (đứa cháu nội lớn nhất chín tuổi con của người con Cả đã về sống với ông nội từ hai năm nay, cho ông nội vui!). Nhờ có đứa cháu nội, Đào có thể nhờ đỡ vài việc lặt vặt như chạy lên phố chợ mua gói thuốc, mấy lạng café, hay cái card điện thoại khi đang bận soạn tiếp vở tuồng hát bội “Kim Vân Kiều” (sau khi đã soạn xong tuồng “Ngọn Sóng Bạch Đằng” và “Tiếng Gọi Biên Thùy”), hay đang có bạn ghé thăm chơi. Hằng ngày, vào lúc ông cháu được thư thả -Đào chăm chút dạy thêm cho cháu học Anh ngữ, rồi học đàn. Ngôi nhà lá mái cũ nơi cái xóm vắng giữa đồng của vợ chồng Đào chỉ cách khu phố chợ mấy đám ruộng, một đoạn đường bê tông vài trăm mét, thường là nơi giao lưu của những người bạn Đào từ thời còn cắp sách, đến bây giờ đã “răng long – tóc bạc”. Đây cũng là ngôi nhà từ đường của dòng họ “Nguyễn Viết” bởi người anh trưởng của Đào đã chết trong chiến tranh.

Buổi chiều, hai ông cháu thường ngồi ở chiếc ghế đá ngoài góc sân, Đào ôm đàn hát đủ thứ bài, từ tân nhạc, đến cổ nhạc – đứa cháu ngồi bên chỉ nhìn Đào mà cười, rồi vỗ tay! Nhiều bạn thân, kể cả bà con của Kim Thanh, có đôi lần góp ý, mong Đào “bước thêm bước nữa” cho có người kề cận sớm hôm, cho vui, mỗi khi nhìn vóc dáng Đào đã 62 nhưng còn rất phong độ; nhất là khi nhìn thấy cảnh sống quạnh hiu lúc đứa cháu nội chưa về sống chung – nhưng anh chỉ cười: “Tìm bồ bịch thì dễ ợt, nhưng tìm vợ – khó lắm!”.

Sau năm 75 – trong buổi giao thời rẫy đầy đổi thay khó lường, đời sống đang gặp vô vàn khó khăn, lòng người hiểm sâu khó biết; nhưng Đào vẫn áo sơ mi thẳng nếp, quân tây, bỏ vào trong tươm tất, giày vớ nhiêm túc, đầu tóc chải chuốt gọn gàng, mỗi khi có việc phải ra đường…Có việc lên thị trấn, Đào đều ghé thăm An thân tình, gần gũi như thuở cùng nhà trọ hơn bốn mươi năm trước, dầu lúc nầy An đang là người thợ lem luốc, vất vả (chứ không còn làm thầy nữa!). Lần nào gặp Đào (dù tình cờ ở đâu), An cũng vẫn thấy Đào “không có chút gì thay đổi” – nghĩa là vẫn áo quần thẳng thốm, giày tất đầy đủ; cử chỉ thong dong, kỹ lưỡng, và đạo mạo; khi thời cuộc đang thay đổi. Và An cũng đã tìm thấy nơi hình ảnh bạn một niềm vui sống trong cảnh ngộ bi đác đang phải vượt qua – nhất là mỗi lần được gặp, trò chuyện với Đào bên tách café nơi góc quán hiên nhà vỉa hè nào đó…

Ngày giỗ lần thứ ba của Kim Thanh, để xả tang – Đào có gọi mời An xuống nhà “uống ly rượu”, và anh đã có mặt dầu ngay chiều hôm ấy là phải bươn bả vào Saigon. Trong buổi sáng hôm ấy, An đã rất vui được gặp lại anh và chị của Kim Thanh, mà đã hơn ba mươi lăm năm không có dịp gặp lại. Buổi sáng hôm ấy, có đông đủ các cháu gọi Đào bằng “dượng”, bằng “chú”. Từ con Cả đến con Út – đều đông đủ, sum họp – khiến An cứ nghĩ rằng, đó là một cuộc gặp gỡ hạnh phúc…

An xin phép Đào được thắp nén hương đầu tiên cho Kim Thanh sau ngày chị ra đi. Bức ảnh của Kim Thanh chụp năm 92 được Đào rọi lớn, đặt giữa bàn thờ sáng rực ánh đèn, vẫn còn ghi rõ nét duyên dáng, hồn hậu nơi gương mặt phảng phất buồn của chị; đã làm An bàng hoàng nhớ lại một thời tuổi trẻ nơi bãi biển, lần đầu được Đào giới thiệu. An thoáng nghĩ, thời gian đã làm đổi thay tất cả – nhưng, tình yêu thương vẫn còn đây bên đời sống của Đào đang nghi ngút khói hương…

Mùa Vu Lan Năm Ấy

Mùa hè năm ấy tôi vừa học hết năm thứ ba ở trường Đại học Sư phạm – khoa Văn, thì lớp học tình thương ở chùa Từ Nhẫn của Sư cô Diệu Sơn cũng bắt đầu khai giảng. Buổi tối Rằm tháng Tư – Lễ Phật Đản, tôi theo mẹ đi chùa lễ Phật, rồi đến vấn an sức khỏe Sư cô. Sư cô Diệu Sơn bao giờ cũng niềm nở, thân tình trò chuyện với mẹ tôi, với mọi người – như người thân ruột thịt trong nhà. Vẻ điềm đạm, khoan hòa của Sư cô như tỏa ra niềm an lạc cho người được gần gũi. Tôi cảm thấy như có một sức lôi cuốn vô hình mỗi khi được đến thăm Cô với mẹ. Có lẽ tình thương yêu chân tình của Sư cô dành cho tất cả là mãnh lực mầu nhiệm chăng?

Dịp này, Sư cô cũng cho biết, lớp học tình thương của chùa Từ Nhẫn, dự định sẽ khai giảng vào dịp hè. Nghe vậy, tôi liền ngỏ ý xin Cô cho tôi được tham gia dạy môn Văn. Sư cô vui vẻ nhận lời ngay: “Nếu con có lòng phụ giúp thì tốt lắm chứ – Cô cám ơn con!”.

Tối ấy về nhà, tôi đem việc xin làm cô giáo của lớp học tình thương chùa Từ Nhẫn kể lại với ba tôi. Ông cười : “Con là Phật tử, đã quy y Tam Bảo, mà lâu nay cứ đi chùa lễ Phật không thôi, thì chỉ đứng ngoài cổng mà chưa gần được Đạo…”.
– Thế làm sao để gần được Đạo, hở ba ? – Tôi tò mò hỏi.
– Có khó gì đâu ? – Ba tôi lại cười, nên siêng đọc Kinh sách, thâm hiểu ý Phật, làm theo lời Phật dạy …

Dường như nhìn thấy nét mặt tôi còn ngơ ngác – ông vui vẻ tiếp : “Ví dụ như lời dạy của Chư Phật : “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý …”. (chớ làm các điều ác / siêng làm các việc lành / giữ tâm ý trong sáng, thanh tịnh).
Tôi reo lên : “Phật chỉ dạy có bấy nhiêu thôi sao, ba ? Thế thì dễ quá!”.

Ba tôi lại cười – nụ cười ẩn chứa chút gì như châm biếm, như thương hại, trách móc. Ông không trả lời ngay cho tôi mà kể lại câu chuyện thi hào Bạch Cư Dị đến tham vấn thiền sư Sào Đạo Lâm: Để đáp lại câu hỏi của Bạch Cư Dị “Thế nào là đại ý của Phật Pháp?” – Thiền sư Ô Khoa – tên thường gọi của thiền sư Sào Đạo Lâm, vì Ngài có chiếc “tổ” nhỏ trên cành cây cổ thụ cao để thiền định; Ngài đã đọc bài kệ ấy. Bạch Cư Dị cười ngạo mạn : “Tôi tưởng điều gì lạ, chứ việc ấy, trẻ con 7, 8 tuổi cũng đều biết cả! “. Thiền sư Ô Khoa đã ôn tồn dạy : “Đúng vậy, trẻ con 7, 8 tuổi đều biết, nhưng ông già 80 vẫn chưa làm xong!”.

Ba tôi mỉm cười : “Nhiều người đã thường lầm tưởng như thế. Lời Phật không cao siêu, khó hiểu hay thần bí – mà lại rất gần gũi, đơn giản; nhưng có bao nhiêu người đã thực hành được?”.

Ba tôi gọi những người học Phật suông chỉ chuộng hình thức, là những “Kẻ chăn bò thuê!” – như tôi chẳng hạn. Là kẻ đi chăn bò thuê, thì suốt đời đâu có được lợi ích gì lớn lao cho mình?

Đang dịp nghỉ hè, được thực tập làm cô giáo, lại có cả cha mẹ, các em hỗ trợ tinh thần; tôi đã đến lớp giảng dạy cho các em rất chuyên cần. Biết được hoàn cảnh khó khăn của các em, tôi tự nhủ càng phải nổ lực dạy tốt hơn nữa. Nghe Sư cô đang cần giáo viên dạy tiếng Anh, tôi chủ động đến gặp, xin Sư cô “kiêm nhiệm” luôn môn này. Bởi vậy, cả tuần, ngày nào tôi cũng có giờ lên lớp. Tội nguyện sẽ hết lòng làm việc để khỏi phụ lòng mọi người. Nhất là của Sư cô và các em…

Chỉ dạy hơn một tháng mà tôi đã “nhận được” nhiều thứ: Được làm cô giáo, được quý Sư cô thương mến, được đám học trò yêu quý, quấn quít không rời. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc vì chưa có mùa hè nào tôi làm được việc đem lại niềm vui cho nhiều người như thế. Làm điều thiện, việc nghĩa là để “cho đi”, mà tôi lại “nhận về” nhiều quá!

Phần thưởng lớn nhất đến với tôi thật bất ngờ: Vào buổi sáng ngày Rằm tháng Bảy năm ấy, vừa bước chân vào cửa lớp – tôi đã thấy toàn là hoa Hồng ở mấy dãy bàn. Mỗi em cầm một đóa Hồng thật tươi, thật rực rỡ – vừa đứng dậy chào tôi, vừa đồng thanh nói lớn: “Chúng em xin chúc mừng cô!”.

Một thoáng bàng hoàng – tôi đang choáng ngợp bởi hơn ba mươi đóa Hồng tới tấp chạy ùa lên bàn tôi; đặt vào tay tôi – cùng với tiếng cười rộn rã hồn nhiên. Tôi cảm nhận ngay được niềm vui của người có diễm phúc được tặng hoa Hồng ngày Vu Lan thật to lớn biết bao! Kẻ cho, người nhận – đều có được niềm hạnh phúc mênh mang, khó tả.
– Cô cám ơn các em ! Cám ơn tất cả các em… Tôi nói lớn giọng – gần như thét lên !

Tôi phải lập đi lập lại đến mấy lần, chúng mới yên lòng trở về chỗ ngồi. Tôi lấy một đóa Hồng gắn vào ngực áo mình, thầm cám ơn đám học trò đã nhắc cho tôi nhớ niềm vinh hạnh lớn lao trong cuộc đời mình: Tôi còn có Mẹ ! Đồng thời, tôi cũng ngậm ngùi nghĩ rằng, trong đám học trò nghèo khó, thơ dại trước mắt tôi – đã có nhiều em không còn mẹ bên cạnh đời mình nữa.

Sau buổi dạy, tôi gom hết mấy chục đóa Hồng, mang về nhà. Người đầu tiên tôi tặng lại hoa là mẹ tôi. Bà cầm đóa hoa, ánh mắt bỗng sáng lên – rồi long lanh giọt lệ! Tôi thoáng ngỡ ngàng, im lặng trước những giọt nước mắt của mẹ. Mẹ tôi khóc vì bà đã nhớ mẹ xưa? Mẹ khóc vì nghĩ đến ngày không còn bên tôi? Tôi hân hoan tặng hoa cho ba tôi. Tặng cho các em tôi. Hoa Hồng rực rỡ trong phòng khách, bàn học, còn được cắm trên mấy khung ảnh dọc vách tường nữa … Tôi nhìn hoa, thoáng nghĩ : “Chưa bao giờ mình được tặng hoa nhiều như thế này, có nhiều tiền dễ gì mua được niềm vinh hạnh này nhỉ? “.

Mùa hè năm sau tôi ra trường, xin dạy tại trường PTTH Krong But – tỉnh Đăk Lăk. Ý nguyện của tôi là được dạy gần nhà, có thời gian chăm sóc cho ba mẹ, các em và nhất là được tiếp tục dạy thêm ở lớp học tình thương Từ Nhẫn. Tuy vậy, mọi việc trong đời dường như ít khi đến với ta như sở nguyện: Tôi không chen nổi ở một ngôi trường nào trong thị trấn, trong huyện, dầu tôi đã phấn đấu tốt nghiệp với loại giỏi!

Từ thưở nhỏ, được sống quanh quẩn ở thị xã miền duyên hải; lên đến Cao nguyên tôi cảm thấy như có một sức hấp dẫn thầm kín, mới lạ. Ở Krong But, cỏ cây, núi rừng, bầu trời … đều như xanh hơn, trong sáng hơn, và cũng “có hồn” hơn. Tôi như một cánh chim biển bay lạc lên Cao nguyên – luôn cảm thấy ngơ ngác trước bao điều mới lạ. Tôi thầm nghĩ: Mai kia, có khi nào tôi sẽ là cư dân thường trú ở cái thị trấn cheo leo giữa núi đồi bát ngát này không nhỉ ?

Mấy tháng đầu tôi nhớ nhà quá chừng. Nói rõ là nhớ ba mẹ tôi, các em tôi – nhớ cuộc sống được chở che, được chia sẻ trong một mái gia đình … Đi xa, tôi thiếu nhiều thứ, và cũng nhớ nhiều thứ. Tôi là một cánh chim đang chuyền cành, rời tổ. Tôi đang bước từng bước rụt rè đi vào cuộc đời tôi với nỗi tiếc nhớ mênh mang.

Tôi dành thời gian để viết thư về nhà cho ba mẹ tôi, nói đến sự cô độc, nỗi buồn, mỗi chiều đứng ở hiên trường hay từ cửa sổ phòng trọ nhìn ánh mặt trời khuất dần bên dãy núi đen sẫm. Đôi lúc, tôi cũng đã bày tỏ sự mong muốn trở về bên gia đình như chấp nhận sự thất bại. Nói tóm lại, tôi viết miên man, viết đủ thứ chuyện, để hy vọng vơi đi nỗi buồn trống vắng …

Cuối cùng, những lời khuyên nhủ và động viên của ba tôi, đã kéo dần tôi trở lại cuộc sống bình thường. Trong một thư, ba tôi dặn : “… Con đừng để sự buồn phiền nhàn rỗi làm hư hỏng mình. Con hãy tìm niềm vui trong công việc bên cuộc sống quanh con đang chờ đợi…”. Một buổi chiều, tôi ngồi nắn nót viết lại lời Đức Phật dạy mà ba tôi đã từng đọc cho tôi nghe: “Tự thắng mình còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác”. Hôm sau, lại viết thêm lời này trên tấm bìa cứng, dựng ngay trước bàn làm việc : “Une vie oisive est une mort anticipée” (Một đời sống nhàn rỗi là một cái chết trước kỳ hạn) của Woefgang – Goethe.

Bốn năm trôi qua – thời gian hơn một ngàn bốn trăm ngày tuy không dài, nhưng đời tôi đã phải trải qua những biến động, đổi thay, không thể tưởng tượng nỗi: Mẹ tôi mất. Rồi sau đó không lâu, cha tôi bị tai biến mạch máu não – phải tập đi bằng dụng cụ chuyên dùng. Tôi bị chao đảo, bồng bềnh, như con thuyền trước bão. Ý nghĩ xin nghĩ dạy lại trở về, bởi vì, ba tôi đang cần có tôi bên cạnh. Nghĩ đến những bước chân xiêu vẹo, run rẩy, mỗi sáng ba tôi tập đi lại trước sân nhà bên cạnh đứa em; lòng tôi càng se thắt, đớn đau. Biết được dự định cuả tôi, ba tôi đã nghiêm khắc dạy : “Con đừng quá yếu đuối như vậy! Con hãy tiếp tục những bước đi của con. Việc nhà đã có các dì phụ giúp, đã có cô bác, bà con xóm giềng; đời sống, hạnh phúc của con là của ba!”.

Tôi đã tiếp tục bước đi của tôi, nhưng làm sao có thể xóa tan nỗi buồn đau khi tôi hãy còn quá trẻ? Tôi mãi mê bên công việc như một cách để tự rèn luyện, và an ủi mình. Ngoài những giờ lên lớp, tôi tham gia sinh hoạt trong gia đình Phật tử Liên Hoa của khuôn hội thị trấn; luôn có mặt trong các chuyến công tác từ thiện xã hội; xin dạy Văn (và Anh Văn) cho lớp Sơ cấp Phật học của huyện. Khi có dịp, tôi cũng đã tham dự các khóa Bát quan trai một hai ngày; công việc đã đem lại cho tôi nhiều niềm vui thật bất ngờ.

Một trong những niềm vui ấy là tôi đã gặp Viên – người bạn đồng nghiệp, nhưng dạy khác trường với tôi trong một chuyến cứu trợ ở một bản xa. Buổi trưa giữa rừng, chúng tôi đã ngồi bên nhau ở triền suối; Viên đã chân thành kể về đời anh cho tôi như với một người thân yêu: Nhìn ánh mắt, nghe giọng nói trầm ấm của anh; tôi nghĩ, anh thèm muốn nói chuyện, tâm sự, như chưa bao giờ được bộc bạch cùng ai. Tôi biết được anh hiện đang sống với gia đình một người chị, anh mồ côi cả cha mẹ từ thuở còn rất nhỏ, anh đã theo chị lưu lạc lên Đăk Lăk rồi đến Krông Bút nhiều chục năm… Anh kể lại đời mình một cách tự nhiên, không dấu diếm, cũng không chút mặc cảm . Ngồi nghe anh, mà tôi như nghe rõ nỗi xao xuyến thăng trầm của chính cuộc đời mình! Anh đã chiếm trọn trái tim đang trống trải, ưu phiền của tôi mất rồi! Tôi có cảm giác như hơi thở anh, giọng nói anh, đã truyền vào tôi hơi ấm nồng nàn, tươi mát, khó quên!

Từ ngày được gần anh, có anh – tôi càng yêu mến cuộc đất tràn ngập nắng gió nghèo khó này hơn bao giờ hết. Tôi thầm phục nhà thơ Chế Lan Viên, khi ông viết : “Tình yêu làm đất lạ hóa Quê hương”. Quả thật vậy, tình yêu thương của Viên đã bắt đầu làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi đã không còn chút phân vân, e ngại trên mỗi bước chân đi trên cuộc đất hiu quạnh, xa lạ nầy như xưa nữa. Nổi quyến rủ nhẹ nhàng của núi rừng, trời mây quanh tôi, như càng siết chặt lấy tôi, từng ngày qua…

Vào một buổi sáng sớm ngày chủ nhật núi rừng còn ấp ủ một màn sương mờ đục; Viên đã đến gõ cửa phòng trọ của tôi, trên tay cầm hai đóa hoa hồng trắng. Gặp anh, tôi rất đỗi ngạc nhiên – đang phân vân ngơ ngác, thì anh đã cười :
– Còn hai hôm nữa mới đến Vu Lan, nhưng chiều qua đi dạy về, trông thấy có hoa hồng trắng đẹp, anh chọn hai đóa tặng em …

Tôi cố che giấu niềm xúc động – giọng có vẻ như thờ ơ, lạnh lùng:
– Thứ ba mới đến Rằm cơ mà!

Nói xong, tôi chợt nhận ra, nỗi buồn thầm lặng se thắt bấy lâu, đang bắt đầu trỗi dậy. Ánh mắt ngời sáng, chợt long lanh đôi hạt lệ của mẹ khi tôi mang hoa hồng ở lớp học tình thương chùa Từ Nhẫn về tặng cho bà, bỗng hiện về như hai mũi kim sâu thấu tim tôi. Viên nhìn tôi lặng đi trong giây phút, có lẽ anh cũng đã nhận ra trên gương mặt, đôi mắt tôi, một nỗi nhớ thương sâu khuất? Một nỗi cô độc lặng thầm của kiếp nhân sinh?

Viên cầm lấy tay tôi. Đặt hai đóa hoa hồng trắng vào giữa lòng bàn tay tôi – giọng anh vừa chân thành, vừa cố ý vỗ về tôi: “Anh phải tặng hoa cho em trước, nếu không, lỡ có người tặng hoa cho em trước mất thì sao? “.

Cầm hai đóa hồng trắng, mà tâm trí tôi lại choáng ngợp bỡi một màu hồng rực rỡ tươi thắm của mùa Vu Lan năm nào ở lớp học Từ Nhẫn. Những đóa hồng nồng nàn kia sẽ mãi mãi không còn được ở trên ngực áo tôi nữa, mà sẽ được thay vào – ngay giữa tim tôi, những đóa hồng trắng lạnh lẽo và u buồn !

Tôi gắn một đóa hồng trắng lên túi áo Viên – giọng rưng rưng chực khóc : “Em xin tặng anh, chúng ta sẽ cùng chia sẻ niềm bất hạnh cho đến hết cuộc đời…”

Mang Viên Long

1 5 6 7 8 9 18