Lâm Chương

Lâm Chương

Khắc Khẩu Y2K

Thời gian cấp bách lắm rồi. Vấn nạn Y2K gần kề bên đít. Trước kia, có thể nhẩn nha chờ thời gian giải quyết. Bây giờ, nước sắp đến trôn, không lo sao được? Chính quyền địa phương lập lờ trấn an, nhưng không có một tuyên bố nào chính thức. Một số người am hiểu tình hình, thì khuyên nên đề phòng những bất trắc vào đầu năm hai ngàn.
Gia đình ông Lâm trú ngụ nơi miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Mùa đông ở đây, nói theo nghĩa đen lẫn bóng, thật là tái tê rùng rợn. Nếu chưa điều chỉnh xong hai con số không cuối cùng của năm hai ngàn trong máy điện toán, thì tai họa lớn không biết chừng nào mà kể. Mất điện, nhà không có sưởi, con người sẽ trở thành một khối thịt đông lạnh. Không phải chết một cái rụp, mà chết từ từ mới đáng sợ. Hàng tháng, công ty điện lực gởi hóa đơn về, có kèm theo cái thông báo, rằng ngành điện đã giải quyết xong vấn nạn Y2K. Ngoài thông báo ấy, lại có thêm một tờ quảng cáo máy phát điện loại nhỏ, dùng cho gia đình. Sao lạ thế? Đã giải quyết xong Y2K, nghĩa là sự cung cấp điện không bị trục trặc. Ai cần mua máy phát điện làm chi? Có chuyện mờ ám gì đây? Ông Lâm cứ lẩn thẩn suy nghĩ, rồi nghi ngờ cái thông báo của công ty điện lực, và nghi ngờ luôn cả chính quyền địa phương cố tình ém nhẹm những bất trắc có thể xảy ra, để tránh tình trạng xao động xã hội trước năm hai ngàn. Nguy tới nơi rồi! Nếu không, tại sao có lệnh cho các chuyên viên điện toán toàn quốc phải túc trực tại nhiệm sở trong cái đêm giao thừa trọng đại, bắt đầu một thiên niên kỷ mới? Chuyện này không tin ai được hết. Ông cần phải bàn lại với vợ một phương cách cứu nguy gia đình. Và ông nóng lòng đi ra đi vào, chờ vợ đi làm về, để nói với bà những suy nghĩ của ông, cùng nhau lo liệu.
Lúc vợ vừa bước chân vô cửa, ông Lâm nói ngay: “Bà ngồi xuống đây, có chuyện này quan trọng lắm.” Ông níu bà ngồi lại phòng khách. Nhưng bà phủi tay ông, đi thẳng xuống bếp: “Chuyện gì thì chuyện. Cũng phải để tôi cất mấy thứ lỉnh kỉnh này đã.”
Ông Lâm ngồi chờ. Nghe tiếng bà la: “Trời ơi, một chậu chén dĩa chưa rửa. Thấy mà khiếp. Cha con ông cứ bày ra đó. Tôi đi làm về mệt, còn phải rửa ráy dọn dẹp nữa sao?”
Ông nói vọng xuống bếp: “Thì để đó.”
“Rồi ai rửa?”
“Lúc nào rảnh… bà rửa cũng được. Đâu cần phải gấp. Bà lên đây ngay, tôi có chuyện này.”
“Sao cái nồi cơm trống không vậy? Chỉ vo gạo, cắm điện vào, là có ăn. Ông cũng không làm. Chắc chờ tôi nấu xong, dâng lên tới miệng?”

Đúng là đàn bà không biết lo xa. Chỉ nghĩ đến cái ăn cái uống. Ông Lâm cằn nhằn, đi xuống bếp. Ông ngồi, kéo thêm chiếc ghế cho bà.
“Lại đây.” Ông nói.
Bà đang rửa chén dĩa, khua rổn rảng: “Tôi vừa làm vừa nghe. Có gì nói đi.”
“Sắp có vấn đề lớn.”
“Trời sập hả?”
“Cũng gần như vậy.”
“Tôi chỉ sợ trời sập. Ngoài ra không có chuyện gì đáng sợ.”
“Sợ chết không?”
“Tôi đang mạnh khỏe. Mắc mớ chi mà sợ chết!”
“Già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà. Ai không biết lo xa, đều phải chết kỳ này.”
Bà mỉa: “Tiếc quá! Ở Mỹ không có Sơn Đông mãi võ, bán thuốc cao đơn hoàn tán phòng bệnh cho nam phụ lão ấu.”
Ông Lâm nổi nóng: “Bà đừng đi lạc đề. Chết thật đấy. Không đùa đâu. Bà biết vấn đề nan giải Y2K sắp tới không?”
“Y2K là cái quỷ quái gì?” Bà ngoảnh lại, ngó ông.
“Tiếng Mỹ là Year 2000.”
“Thì sao?”
“Người ta chưa giải quyết xong hai con số không cuối cùng của con số hai ngàn, trong máy điện toán.”
Bà đi lại, đặt bàn tay ướt lên trán ông, thăm dò.
Ông hất tay bà ra: “Làm cái gì kỳ vậy?”
“Nhiệt độ bình thường. Ông đâu mê sảng mà lo chuyện bao đồng thiên hạ. Người ta chưa giải quyết xong, thì có liên quan chi đến ông?”

Ông trừng mắt: “Sao không? Rắc rối lớn đấy. Cái đầu của bà quá đơn giản, không có tầm nhìn xa, nên không thấy trước được vấn đề nguy hiểm. Thời buổi văn minh hiện đại, bất cứ kỹ thuật gì, người ta cũng sử dụng điện toán, nếu chưa điều chỉnh xong, điều gì sẽ xảy ra? Này nhé, vào đúng cái giây phút giao thừa đầu tiên của năm hai ngàn, hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử của các nước tân tiến sẽ phóng ào ào lên không gian. Tất cả các loại vũ khí giết người hàng loạt, nổ bùng một lượt, thì quả đất này sẽ biến thành trái cầu lửa…”
“Thiên hạ chết hết phải không?”
“Đúng vậy.”
“Chết đông. Vui!” Bà cười.
Ông nạt: “Tôi đang nói chuyện đàng hoàng. Đừng giỡn mặt nghen!”
“Nguyên tử nổ, dù ông có đào lỗ mà chui, cũng chẳng thoát chết. Hãy bình tâm, sống tới đâu hay đó.”
“Còn nữa. Nếu bom nguyên tử không nổ, cũng chưa yên đâu.”
Bà nổi cáu: “Ông lẩm cẩm vừa thôi! Tôi đi làm, về nhà còn phải dọn dẹp, rửa ráy, nấu cơm, làm đồ ăn. Ông ở nhà chỉ việc đưa đón mấy đứa nhỏ đến trường. Thì giờ còn lại, ông ngồi hút thuốc phun khói đầy nhà, rồi tưởng tượng ra đủ điều chết chóc, bắt tôi phải nghe. Muốn hù tôi hả?”
“Hù? Tôi lo cho bà và mấy đứa nhỏ. Chứ cái thân già của tôi, kể chi?”
“Ông khỏi lo cho tôi. Còn mấy đứa nhỏ, để đó tôi lo.”
Ông Lâm đứng dậy, bỏ lên nhà trên, ném lại sự hằn học: “Tức chết! Chẳng khi nào bàn luận êm thắm được điều gì với bà. Có đầu thai lại kiếp sau, cũng đừng nhìn mặt nhau nữa nhé.”
Bà nói vói theo: “Sống chung một kiếp này, cũng ê chề quá rồi. Kiếp sau, vừa thoáng thấy mặt ông, tôi bỏ chạy.”
Ông ngồi tại phòng khách, gát chân lên bàn, hút thuốc. Nỗi bực mình chưa kịp lắng, tiếng bà vọng lên.
“Tôi nghe mùi khói rồi đấy. Làm ơn mở cửa sổ, vặn máy hút giùm. Một mình ông hút thuốc, cả nhà bị ung thư phổi.”
Ông la lớn: “Tất cả sẽ chết hết, trước khi phát bệnh ung thư.”
Lúc lâu sau. Bà đi lên phòng khách, nói: “Mấy đứa nhỏ đang học bài. Ông với tôi, ăn cơm trước.”
Ông ngoảnh mặt làm ngơ, không ngó bà.
“Đàn ông gì mà hay hờn mát còn hơn đàn bà. Xuống ăn cơm đi.” Bà cười giả lả.
“Địa ngục!” Ông xẵng giọng.
Bà hỏi: “Tự nhiên nói địa ngục, là sao?”
“Bà biến gia đình này thành địa ngục.”
Bà cười hắc hắc: “Ở đâu có địa ngục, là ở đó có những mặt mày nhăn nhó, cằn nhằn. Tôi đang đem tiếng cười vào địa ngục của ông, nhưng ông khó quá. Ai chịu nổi? Bây giờ ăn cơm không?”
“Không! Tức gần trào máu họng. Ăn sao vô?”
Thế là bà ăn cơm một mình.
Cái kiểu trống đánh xuôi, kèn thổi ngược trong gia đình ông Lâm, thường xảy ra như cơm bữa. Hai vợ chồng nói chuyện với nhau một lúc, là có hục hặc. Sóng gió lại nổi lên. Ông Trời thật quái ác! Máng chi một con trâu, một con bò kéo chung chiếc xe đời nặng nhọc. Không lúc nào ông cảm thấy thoải mái. Lòng ông, hình như có một nỗi gì gút mắc chông gai, một bất toàn trong tình chồng vợ. Có lúc ông nghĩ đến giải pháp tách riêng ra, mỗi người đi một hướng, làm lại cuộc đời. Nhưng chuyện này đâu dễ. Chẳng phải bà và ông trì kéo chi nhau. Chính mấy đứa con ràng buộc hai người ở lại. Cứ nghĩ tới hoàn cảnh con ông phải sống trong sự lạnh nhạt, nhiều khi đến khắc nghiệt của cha ghẻ hoặc mẹ ghẻ, làm ông chùng lòng. Trên đời, đâu có ai rộng lượng tới mức thương con ghẻ như con ruột của mình? Thôi thì vì con, ông hy sinh một kiếp đời khốn nạn này. Nhiều khi ông tự hỏi, có phải ông mắc cái quả báo nào đó, từ kiếp trước? Chứ kiếp này, ông đâu phải thằng đâm cha chém chú. Cũng chưa từng chặt đầu lột da ai. Thế sao ông vẫn khổ? Ông tin vào thuyết luân hồi. Nghe đồn ở California, có cái Hội Huyền Bí. Một số hội viên có khả năng huệ nhãn, thấy được tiền kiếp. Ông tìm đến, nhờ họ giúp ông, soi rọi lại cái quá khứ tội lỗi của mình. Pháp môn nhìn ngược về quá khứ, được đặt tên là Soi Kiếp. Sau khi Soi Kiếp, họ cho biết, kiếp xưa vợ chồng ông là hai kẻ thù. Mối thù chưa thanh toán xong, thì mãn phần vì tuổi già. Đầu thai lại kiếp này, cả hai cũng quyết tìm đến nhau, tiếp tục ăn thua đủ. Họ khuyên, ông nên xóa bỏ mối thù truyền kiếp ấy đi, để mà hòa hoãn sống với nhau.
Về nhà, ông Lâm thuật cho vợ nghe. Rồi nói: “Thôi. Tôi mệt mỏi lắm rồi. Tôi chịu thua bà. Tôi xin đầu hàng vô điều kiện.”
Bà bảo: “Từ lâu, tôi đã treo miễn chiến bài. Nhưng ông cứ khiêu chiến mãi.”
“Tôi khiêu chiến thế nào?”
“Ông nói những lời mắng nhiếc. Trút lên đầu tôi bao nhiêu oan khiên tiền kiếp.”
“Tính tình bà ngang bướng. Tôi muốn tu theo lục hạnh Bồ Tát, cắn chữ nhẫn giữa hai hàm răng mà sống với bà. Nhưng có lúc dằn lòng không được, cũng phải chắp tay xin phép Phật, cho con nghỉ tu năm phút. Kiếp này, tôi không thành chánh quả, cũng tại bà cản trở.”
Bà xách mé: “Trời ơi! Ông mà tu? Không khéo thiên hạ thành Phật cả rồi, ông còn làm ác tăng.”
“Tôi lạy bà!”
“Tôi cũng đã lạy ông, từ ngày mới kết hôn.”
“Hồi trẻ bà hiền lành, chứ đâu chằn ăn trăn quấn như bây giờ. Bao nhiêu năm sống chung, tôi khám phá ra mình bị lừa. Mắc mưu một lần, là đi tàu suốt cả cuộc đời.” Ông thở dài.
Bà hỏi: “Ai lừa ai? Ông còn nhớ không, hồi mới đám cưới xong, ông kể cho tôi nghe chuyện nhà hiền triết Hy Lạp gì đó?”
“Hiền triết nào? Trên đời này, thằng đàn ông nào có vợ, cũng đều trở thành nhà hiền triết cả.”
“À, tôi nhớ ra rồi. Ông lập lại lời của Socrate. Dù sao, thì bạn cũng lấy vợ. Nếu may mắn gặp vợ hiền, bạn là người hạnh phúc. Nếu gặp vợ dữ, bạn trở thành nhà hiền triết. Tôi hỏi, còn anh thì sao? Lúc đó, mình còn gọi nhau bằng anh em, chứ không phải ông tôi như bây giờ. Ông bảo, nếu gặp vợ dữ, anh sẽ trở thành võ sĩ. Mới về nhà chồng, ông dằn mặt tôi bằng câu nói xanh dờn. Tôi biết mình đã trao duyên lầm tướng cướp.”
Ông la: “Đấy! Tôi lạy bà rồi, nhưng bà cũng xỏ xiên. Người Mỹ gọi thế là bạo hành bằng tinh thần. Trong gia đình, thường xuyên tôi bị bà bạo hành.”
Nói xong, ông Lâm mang mền ra phòng khách. Đêm đó, ông ngủ trên salon.
Dù giận vợ, nhưng vấn đề Y2K có liên quan đến sự an nguy của mọi người trong gia đình, buộc ông Lâm phải làm lành với bà. Ông định một lúc thuận tiện, giải thích cho bà hiểu cái tầm quan trọng của Y2K. Bà ít chịu đọc báo, làm sao hiểu được vấn đề trọng đại? Nếu chữ nghĩa không phải là kẻ thù của bà, thì cũng là người dưng. Cầm tờ báo, hoặc quyển sách lên chừng vài phút, bà bắt đầu ngáp. Chẳng bao giờ nghe bà than mất ngủ. Sách báo là liều thuốc an thần cực mạnh đối với bà. Đêm nào trằn trọc khó ngủ, bà quơ vội tờ báo nào đó, dán mắt vào. Vài phút sau đã nghe tiếng ngáy rồ rồ rồ… o… rồ rồ rồ… o… Ông Lâm vốn khó ngủ, lại nghe tiếng thở nghèn nghẹt của bà, ông càng không ngủ được. Ông lay bà. Bà ú ớ, nằm nghiêng qua phía khác. Tiếng thở nghèn nghẹt tạm lắng một lúc, rồi lại rồ rồ o o nữa. Ông thúc cùi chỏ vào hông bà. Bà tỉnh ngủ.
“Cái gì vậy?”
“Ngáy.”
“Làm gì có.”
“Chẳng lẽ tôi nghe tiếng bò rống?”
“Tôi van ông. Xin cho tôi yên. Tôi cần giấc ngủ, để mai đi làm.”
“Nhưng bà phải tội nghiệp tôi chứ?”
“Tội nghiệp thế nào?”
“Đừng ngáy nữa.”
“Trong giấc ngủ làm sao kiểm soát?”
“Thế thì ngày mai đi bác sĩ, cắt cục thịt dư hay cái lưỡi gà gì đó trong cuống họng, vất đi.”
“Cắt cái lười gà, như cắt lưỡi người ta. Làm sao nói được?”
“Không nói được, đỡ xốn lỗ tai. Người đàn bà câm, là người vợ lý tưởng.”
Bà rên thống thiết: “Trời ơi là trời! Tôi đang ngủ. Ông đánh thức dậy, để gây sự. Không biết kiếp trước, tôi làm nên tội gì?”
“Phải để tôi hỏi ông Trời câu đó. Không biết kiếp trước tôi làm nên tội gì, mà bị bà quấy rối triền miên, kể cả khi vào giường ngủ? Hồi trẻ, hơi thở bà êm ái. Về già sinh tật.”
“Tôi thế đấy. Ai không chịu, thì tối mai vào phòng thằng Cu Đen mà ngủ.”
“Sao bà không đi?”
“Phòng này của tôi.”

Cu Đen là thằng con Út của ông Lâm. Nó mười tuổi, đã có phòng riêng. Người trong nhà, ai cũng có phòng riêng. Nhưng ông Lâm, không có một giang sơn nào riêng biệt. Trước kia, ông thường ngủ với Cu Đen. Tối, nó dần lưng đấm bóp cho ông. Xong, hai cha con nằm ôm nhau, nói chuyện.
Nó nói: “Hai người đàn ông ngủ chung là bệnh đó, ba ơi.”
Ông Lâm ngạc nhiên: “Sao lại bệnh?”
“Người Mỹ sợ homosexual.”
“Nói bậy. Mày là con ba. Cha con ôm nhau là chuyện thường.”
“Không. Ba ôm mẹ. Còn con ôm con gái.”
“Trời đất! Mày muốn ôm con gái hả?”
“Con nói khi nào con lớn, con ôm con gái. Bây giờ, con còn nhỏ, cha con mình được ôm nhau. Nhưng ra đường, ba đừng ôm con. Bạn con nó cười.”
“Cười gì? Mấy thằng Mỹ bệnh hoạn. Nó tưởng ai cũng bệnh như nó.”
“Mai mốt con lớn, không ngủ chung với ba nữa đâu.”
“Tại sao?”
“Con mọc lông nách, con trở thành đàn ông. Hai người đàn ông không ngủ chung.”

Nghe thằng nhỏ nói, ông Lâm cười nôn ruột. Nhưng điều đó cũng làm ông suy nghĩ. Mới có mười tuổi đầu, nó đã ảnh hưởng theo lối sống của Mỹ rồi. Ông cảm thấy những đứa con trong gia đình, dần dần xa lạ. Tình người khốn nạn, sinh biết bao điều tệ hại. Cha mẹ già, chúng đẩy vô nhà dưỡng lão. Cũng tại những người già đó, ngày xưa họ đẩy cha mẹ của họ vô nhà dưỡng lão. Ngày nay, con cháu của họ noi gương mà thôi. Quả báo nhãn tiền là thế! Còn ông Lâm, đến với xứ sở này, như người ăn nhờ ở đậu. Không lẽ lại chịu chung cái di họa của người Mỹ? Con cái của ông, ông nuôi nấng thương yêu. Nó có lỗi, ông đét cán chổi lông gà vào đít, theo kiểu “thương cho roi cho vọt”. Ông nói, đứa nào phản đối, cho thế là ác độc dã man, thì hãy mau mau cuốn gói ra khỏi nhà tao. Vuột khỏi tầm tay tao rồi, cấm xưng là con của ông Lâm. Có lần, đứa con gái lớn bị đòn. Nó vô trường, kể cho bà giáo của nó nghe. Bà kêu lên, ba mày hành sử như người trung cổ. Rất tiếc, ông Lâm không gặp bà ấy. Nếu gặp, ông sẽ hỏi, bà chê tôi như người trung cổ. Cái nền giáo dục của bà tốt đẹp, sao bọn trẻ gặp người già không biết cúi đầu lễ phép? Chúng chỉ đưa tay vẫy vẫy, miệng nói “hi hi” một cách rất ư là mất dạy? Cái xứ gì mà con cái hỗn hào hư đốn, cha mẹ không dám động tới sợi lông chân của nó. Lơ mơ, nó bấm 911, kêu lên bị bạo hành thể xác. Cha mẹ có thể vào tù như chơi.

Ông Lâm cưng thằng Cu Đen hết sức. Hiện nay, nó chưa mọc lông nách. Chẳng biết mai kia, được năm ba sợi le hoe, nó có manh nha trong đầu ý tưởng, sẽ tống ông vào nhà dưỡng lão hay không? Ông không nghĩ thằng con ông nhẫn tâm tới cỡ đó. Khi vợ ông bảo vào phòng ngủ với Cu Đen, ông kể cho bà nghe những lời cha con ông nói chuyện. Đến giai đoạn mọc lông nách, bà không thể nín cười.

Thấy tình trạng vợ chồng bớt căng thẳng, ông Lâm chụp ngay cơ hội, nói về sự nguy hại của Y2K. Rồi kết luận, mất điện đưa đến thiếu khí đốt, thiếu nước, thiếu sưởi. Nhà mướn ở lầu cao, không có lò sưởi bằng củi, sẽ bị chết cóng.
Bà nói: “Gọi cấp cứu.”
“Điện thoại cũng ngưng luôn.”
“Xách xe chạy về các tiểu bang phía nam?”
“Mọi người cũng nghĩ như bà, thì bao nhiêu xe cộ đều tuôn ra đường cùng một lúc. Đường sá sẽ kẹt cứng.”
“Cảnh sát sẽ điều động xe cộ lưu thông.”
“Chả có thằng cảnh sát nào ngoài đường hết. Nó cũng phải lo cho vợ con của nó. Hơn nữa, mất điện, đèn xanh đèn đỏ cũng tắt luôn. Các trạm xăng đều đóng cửa.”
Bà hỏi: “Vậy ông tính thế nào?”
Ông nói: “Đã có một số lời khuyên nên dự trữ đồ ăn nước uống, và sưởi ấm, từ vài ngày đến vài tháng. Dự trữ đồ ăn thì dễ, nhưng lấy gì sưởi ấm? Mình có thể chịu lạnh ngày một ngày hai, nhưng không thể chịu đựng lâu hơn dưới cái lạnh năm, mười độ âm. Đó là chưa kể bọn bất lương sẽ lợi dụng cơ hội khó khăn, hoành hành tội ác. Chuyện này phải tính trước. Đúng như bà nói, là xách xe chạy về các tiểu bang phía nam, nhưng phải đi trước mươi bữa, tránh cái nạn kẹt xe.”
Bà nằm ngẫm nghĩ một lúc, bỗng nói: “Bất cứ vấn đề gì, xuyên qua suy luận của ông, cũng đều trở thành bi quan chết chóc.”

Đang bàn phương cách cứu nguy. Câu nói của bà như cái mồi lửa làm ông Lâm nổi nóng, nhưng cố dằn lòng.
Ông hỏi: “Bà tính sao?”
Giọng bà bất cần: “Ai sợ chết thì chạy đi. Tôi chẳng đi đâu hết.”

Không thuyết phục được vợ, ông tức. Muốn nhổm dậy, xáng cho bà một tát tai. Lại nghĩ, bà sẽ tru tréo ầm lên. Cảnh sát sẽ kéo đến. Xứ này không đùa với cảnh sát được. Ông đã bị rắc rối với mấy thằng này, một lần rồi. Hồi đó, ông vừa mới nắm cổ áo của bà, thì đứa con vội bấm 911. Ông dằn cái điện thoại xuống ngay. Nó chưa kịp nói câu nào. Thế mà năm phút sau, cảnh sát có mặt. Nó mời ông ra xe về bót. Nói mời cho có vẻ lịch sự. Chứ thật ra, nó còng tay, điệu ông về bót.
Trên đường đi, cảnh sát hỏi: “Mày có biết, đàn bà ở Mỹ được luật pháp bảo vệ tối đa không?”
Ông Lâm nói: “Bảo vệ tới mức bất công. Đàn bà sẽ lợi dụng sự bất công này, và lấn áp đàn ông. Tao từng thấy trên TV, đàn bà tát tai đàn ông. Nhưng đàn ông chỉ ôm mặt chịu trận, không dám phản ứng.”
“Nếu mày bị đàn bà tát tai thì sao?”
“Tao sẽ tát lại mười lần mạnh hơn, cho bỏ cái tính hỗn láo.”
Cảnh sát giương mắt: “Mày có điên không?”
Ông Lâm hỏi lại: “Tại sao mày nghĩ tao điên?”
“Lúc mày ra xe với thằng Jack, tao ở lại lập biên bản. Vợ mày cho biết, mày không bình thường. Mày bị Cộng Sản bắt tù nhiều năm, trước khi sang đây. Những người tù của Cộng Sản, ít nhiều đều bị bệnh tâm thần. Mày đi bác sĩ tâm thần lần nào chưa?”
“Tao không bệnh hoạn gì. Không cần đến bác sĩ.”
Ngừng một lúc, cảnh sát nói: “Mai mày ra tòa.”
Ông Lâm ngạc nhiên: “Cái gì? Tao đâu có đánh vợ mà ra tòa?”
“Tao cũng sẽ ra tòa làm chứng cho mày. Mày không bị tù. Nhưng, nếu vợ mày khai rằng, tâm tính mày không bình thường, nó sợ mày hành hung, thì mày không được bước chân vào nhà.”
“Nếu tao khai rằng, tao sợ bị vợ hành hung, thì sao?”
“Trường hợp này, mày cũng không được vào nhà.”
“Trường hợp nào, tao cũng thất thế. Sao lạ vậy?”
“Trường hợp thứ hai, là để bảo vệ cho mày.”
“Bất công, chứ bảo vệ gì tao?”
“Khi ra tòa, mày đừng ăn nói theo kiểu này. Dễ bị khép thêm tội phỉ báng pháp luật.”

Lần đó ra tòa. May mà bà bãi nại. Nếu không, chắc xảy ra lớn chuyện.
Thấy chồng nằm ấm ức, suy nghĩ mông lung, bà biết ông đang bực mình.
Bà hỏi: “Giận hả?”
Ông lẫy: “Bà vẫn tính nào tật ấy. Giận làm đếch gì!”
“Tôi chỉ muốn ông đừng tin lời đồn nhảm thôi.”
“Nhảm? Thiên hạ đang xôn xao bối rối. Bà chỉ lo kiếm tiền. Chết có mang theo được không?”
“Đừng nóng. Hãy nghe tôi nói đã. Trước đây, ông cũng đã hốt hoảng về tin đồn tận thế. Nào là do ảnh hưởng sao chổi, nên ngày nguyệt thực, địa cầu và mặt trăng không xê dịch được. Và như thế, nhiệt độ mặt trời sẽ nung mặt trăng nóng đỏ lên, tỏa xuống địa cầu một sức nóng trên trăm độ. Nước sẽ bốc thành hơi, bao quanh địa cầu một lớp mây dày mười cây số. Lớp mây che khuất mặt trời, làm nhiệt độ địa cầu nhanh chóng tuột xuống cả mấy chục độ âm. Nhân loại sẽ không còn một ai sống sót. Ông nói, điều này trùng hợp với lời Chúa phán trong Kinh Thánh. Mặt trời tối đen, và mặt trăng đỏ như máu. Đó là ngày Đại Trừng Phạt của Thượng Đế. Vì nhân loại quá xấu xa, tội ác ngập trời, phải tận diệt…”
Ông Lâm cắt ngang lời bà: “Sau đó, tôi đã đính chính.”
“Vâng. Có đính chính, nhưng ông lý luận không thể nào tin được.”
“Dù bà không tin, nhưng không thể phủ nhận sự thật. Thượng Đế vì thương yêu các con của Ngài, nên chưa ra tay hủy diệt. Ngài dành cho nhân loại một cơ hội chót, để ăn năn sám hối.”

Nghe ông nói, bà cười khỉnh. Tiếng cười thoát ra từ mũi. Tiếng cười châm biếm mỉa mai, làm ông khích động. Lần nào nói chuyện với bà, cũng kết thúc bằng sự bực tức của ông. Ông cố nén. Lâu ngày, thành nỗi ẩn ức. Hễ thấy mặt bà, ông cảm thấy có điều vướng mắc. Thế nhưng hai người vẫn sống với nhau mấy chục năm trời, trong hục hặc đắng cay. Ông muốn đi tu, cho cõi lòng thanh thản. Bà bảo, thà làm kẻ dữ trên thế gian, còn hơn làm ác tăng trong cửa thiền. Ông muốn tịnh khẩu, cho miệng đời bớt âm thanh cú diều xỉa xói. Bà bảo, thà lớn tiếng chửi bới thiên hạ, còn hơn âm thầm làm tên sát thủ đâm lén sau lưng người đời. Ông muốn lập bàn thờ, đốt nhang niệm Phật. Bà bảo, dao thớt trong nhà còn tanh mùi thịt, đồ tể chưa thể nào rửa tay hóa kiếp.

Ông nói gà, bà nói vịt. Cứ thế mà đôi bên dằn co nhau mãi. Ông có cảm trưởng, ông và bà là hai đối thủ đô vật, gài thế quyện lấy nhau, vô phương tháo gỡ. Ông mệt nhoài tâm lực. Bà vẫn khỏe re cười cười, gần như không biết nỗi khổ của ông.
Ông nói: “Người Mỹ đưa quân vào cuộc chiến Việt Nam. Sa lầy trong chiến tranh du kích. Liệu bề thắng không được, họ chọn giải pháp điều đình, rút quân trong danh dự. Tôi cũng muốn hòa giải với bà, chịu thua trong danh dự.”
Bà hỏi: “Ông muốn ám chỉ tôi là bọn du kích chứ gì?”
“Vâng. Bà là du kích chiến thắng.”
“Thấy chưa? Ông lại nói xóc hông tôi rồi.” Bà giẫy nẫy.
Ông hỏi: “Xóc hông thế nào?”
“Ông thường bảo, du kích là bọn tiểu nhân. Không dám chường mặt ra ánh sáng. Chuyên môn chơi trò đánh lén. Rồi ông lại bảo tôi là quân du kích, có khác gì ông chửi cha tôi?”
“Nhưng tôi chịu làm người bại trận.”
“Bại trận mà chửi phủ đầu người ta. Ai chịu nổi?”
“Tôi nói thế nào, bà cũng bắt bẻ. Thôi, tôi thua bà. Tôi sợ bà.”
“Ông nói sợ tôi, mà còn hung dữ đến thế. Nếu không sợ, chắc ông đã nhai nuốt tôi vào bụng mất rồi.”
“Sợ vợ cũng ở mức độ nào thôi chứ. Chẳng lẽ tôi để bà thừa thắng xông lên ngồi trên đầu tôi?”
“Tôi chỉ mong được bình đẳng. Hơn thua với ông làm gì?”
Ông hòa hoãn: “Bà nói thế là tôi yên tâm. Mỗi người nhường nhịn nhau một chút, cho yên nhà yên cửa. Bây giờ, bà chịu nghe tôi nói không?”
Bà dịu giọng: “Ông nói đi. Tôi nghe.”
Ông ngồi im, ra chiều suy nghĩ.
Bà giục: “Nói đi.”
Ông hắng giọng: “Vấn đề Y2K.”
“Lại cũng vấn đề mắc dịch này nữa.” Bà nhỏm lên, sừng sộ.
Ông đưa tay ngăn: “Đừng ngứa miệng. Hãy nghe tôi nói đã.”
“Nhưng tôi không muốn nghe chuyện Y2K gì đó của ông.”
“Sao lại của tôi? Phải nói là của mấy thằng chuyên viên điện toán.”
“Của thiên hạ, dính mắc chi tới ông?”
“Thôi được. Không nói Y2K. Tôi muốn đưa gia đình đi du lịch, cho bà nghỉ xả hơi vài bữa.”
“Chừng nào?”
“Trước năm hai ngàn, một tuần.”
“Đó là thời điểm hái ra tiền. Sao không chọn dịp khác?”
Ông Lâm nhăn mặt: “Khổ qua! Nói khô cuống họng, mà bà không hiểu. Tôi muốn làm một công hai chuyện. Du lịch là lý do để tránh cái lạnh miền Đông Bắc, nếu bị mất điện cũng khỏi bị chết cóng.”
Bà muốn phản đối, nhưng thấy ông xuống nước, bà phân vân: “Những ngày gần tết, đắt khách lắm. Làm một ngày bằng mấy ngày thường. Bỏ đi cũng uổng.”
Bà phân vân cũng phải. Cái nghề o bế cắt dũa sơn phết móng tay của bà, làm ăn khấm khá vào những ngày lễ tết. Bỏ đi là mất một món lợi to.
Từ mấy năm nay, bà làm nghề móng tay. Nhưng nói thế, nghe tầm thường quá. Nếu ai hỏi, chị làm nghề gì? Bà uốn lưỡi trả lời rất dịu dàng, em làm nghề nail. Bà cho rằng, cái tiếng “nail” nghe có vẻ sang trọng, văn minh hiện đại hơn hai tiếng “móng tay”.

Ngày mới qua Mỹ, vợ chồng ông Lâm đi làm cu li. Tiếng Anh nói đớ lưỡi, thì làm cu li là phải rồi. Nhưng kiếm được đồng tiền quá chật vật. Bà rên. Ông bảo, vẫn còn dễ thở hơn ở xứ mình. Thời đó, ông còn là nhân vật quyền hành số một trong gia đình.

Vài năm sau, có người rủ bà học nghề làm móng tay. Cái nghề tằn mằn tỉ mỉ, nhẹ nhàng khỏe thân, lại dễ kiếm tiền, thích hợp với bà. Và bà cũng muốn lôi ông vào nghề cho đỡ khổ tấm thân. Ông lắc đầu, nói tôi già rồi, da nhăn má hóp, chân tay vụng về. Có vào nghề, tôi cũng chỉ ngồi ngáp từ sáng đến chiều. Bởi một người đàn bà dễ tính, cũng không chịu đưa bàn tay cho một người cục mịch, hom hem như tôi mài dũa. Thế là ông tiếp tục làm cu li. Bà làm móng tay.

Nếu so sánh lợi tức thu nhập, thì bà cao hơn ông. Tiếng nói của bà bắt đầu bình đẳng với ông. Mọi chuyện trong gia đình, ông không còn tự quyết định một mình nữa. Phải có bà góp phần bàn thảo. Đã có bàn thảo là có ý kiến ngược nhau. Vợ chồng lại cãi vã. Bà manh nha tiếm quyền làm chủ gia đình. Các đứa con có khuynh hướng theo bà, vì bà hay nuông chìu con cái, nên chinh phục được cảm tình. Phe của bà, đồng minh đông hơn. Chế độ độc tài quân phiệt của ông bị cô lập, yếu thế, lỗi thời.

Dù thường cãi vã, nhưng có lúc bà nói một câu nghe được. Rằng, ông đi làm cực nhọc, lại chẳng kiếm bao nhiêu. Thôi, ở nhà lo việc gia đình, và trông nom mấy đứa nhỏ. Để một mình bà làm cũng đủ. Hơn nữa, tuổi của ông lớn rồi, nên nghỉ hưu sớm mà hưởng nhàn. Ông đồng ý ngay ý kiến của bà. Từ đó, ông biến thành nội trợ. Ai nắm kinh tế gia đình, thì người ấy làm chủ. Khi phát giác ra chân lý này, thì ông đã bị tụt xuống hàng thứ yếu. Muốn điều gì, ông phải đưa ra đề nghị. Nhiều lần ông cay đắng nói nửa đùa nửa thật, là dâng kiến nghị lên bà.

Với tính lơ đãng, lại thêm vụng về, việc nhà ông không vén khéo. Bà chê, ông làm người nội trợ bất tài. Ông giận, hất đổ mâm cơm. Bà im lặng hốt dọn. Mấy mươi năm chung sống, bà biết ông hơn ai hết. Khi ông đổ quạu, bà không nên hó hé nói năng. Sau đó, bà than phiền rằng, ông còn giữ nguyên bản chất của người đàn ông Việt Nam, với cái quan niệm chồng chúa vợ tôi. Và ông cũng chỉ trích lại rằng, mới qua Mỹ không bao lâu, bà đã bắt chước cái thói hỗn láo với chồng của đàn bà Mỹ. Vừa nói ông vừa đưa ngón tay điểm mặt bà, theo kiểu cảnh cáo đối phương. Bà nhịn. Không là nhà quân sự, nhưng bà biết tiến thoái đúng lúc. Khi đang giận, mà gặp phải sự khiêu khích, ông sẽ dốc toàn lực ra tấn công, bất kể hậu quả. Chuyện đâu còn có đó. Từ từ rồi bà sẽ dùng đường lối chính trị, lấy kinh tế làm biện pháp, buộc ông phải nhượng bộ yêu sách của bà.

Nhiều lần ông Lâm đã nhượng bộ. Nhưng lần này, bà thấy ông có vẻ quyết liệt giữ vững ý kiến của mình. Bà đề nghị một phương cách giải quyết. Trước năm hai ngàn, ông đưa các con du lịch về phương nam. Bà ở lại trông coi nhà cửa, đồng thời đi làm kiếm thêm tiền vào những ngày lễ tết đắt khách.
Ông ái ngại: “Nếu vấn nạn Y2K xảy ra, bà sẽ không sống nổi.”
Bà nói: “Cùng lắm là tôi chết. Ông tục huyền với người đàn bà khác.”
“Trên đời này, không dễ kiếm được người nào như bà.”
Lâu lâu, nghe ông nói một câu chí tình, bà cảm động, cầm tay ông: “Ông cũng biết thương tôi hả?”
Ông choàng tay ôm bà: “Thương thì chưa chắc. Nhưng biết tìm đâu ra một người bạn đời chịu khó cãi vã với tôi, suốt mấy mươi năm không hề mệt mỏi?”

Con Sâu Đỏ

Gốc gác gia đình của cậu Hai Say là nhà nông, nhưng cậu ít khi ngó ngàng đến ruộng nương. Mùa màng cấy gặt, cậu giao hết cho vợ trông nom. Còn cậu, cứ tà tà đi tán dóc, coi cuộc đời như chốn rong chơi. Đầu thôn cuối xóm, ai cậu cũng quen. Ra đường, gặp nhau chào hỏi mệt nghỉ. Chào mãi đâm nhàm, chỉ cần nhìn mặt, nhếch mép cười là đủ.
Có một thời cậu theo cách mạng vô bưng biền. Công cuộc kháng chiến trường kỳ, cần nhiều hy sinh gian khổ, không hợp với cái tính ưa hưởng nhàn của cậu. Cậu bỏ về, mang theo căn bệnh sốt rừng. Da cậu tái nhợt như tàu lá chuối non. Thầy thuốc Nam bảo, cậu ăn uống nhiều vật thực mang tính âm hàn, nên sinh ra dị chứng. Phải xổ độc để tống khứ nhiễm khí rừng thiêng. Cậu uống bao nhiêu thang thuốc Nam, vẫn không xổ hết chất độc. Mợ Hai, vợ cậu phải bán một bồ lúa, đưa cậu ra tỉnh thành trị bệnh. Bác sĩ nói, cậu bị sốt rét kinh niên. Nếu không chữa trị kịp thời, để con vi trùng xâm nhập vào gan thì bỏ mạng. Sau một thời gian dùng thuốc Tây, cậu khỏi bệnh. Và từ đó, cậu lấy chữ nhàn làm gốc.
Cái tên của cậu, làm tôi thắc mắc. Cậu là Hai Say hay Hay Say? Cách phát âm của người miền tôi, không phân biệt giữa Hai với Haỵ Và Say có phải là tên thật của cậu, hay người ta thấy cậu thường có hơi rượu, rồi gán cái biệt danh Say? Tôi còn nhỏ, không dám hỏi về điều này. Mà có hỏi, cũng chưa chắc cậu trả lời thật. Bởi tính cậu, xưa nay vẫn hay thêu rồng vẽ rắn, chuyện thật như đùa, chuyện đùa như thật, biết đâu mà lường.
Trước cửa nhà tôi, có con đường đất. Cậu Hai Say thường đi trên đường này, mỗi ngày. Đang đi, cậu ghé vào nhà này, nói năm ba câu trên trời dưới đất. Tạt vào nhà kia, bàn chuyện thời tiết nắng mưa. Không bao giờ nghe cậu đặt vấn đề làm ăn sinh kế. Cậu nói cậu là ông tiên ở trên trời bị đoa. xuống trần gian, và đọc:
Có chồng say như trong chay ngoài bội
Ngó vô nhà như hội Tầm Dương
Có chồng ghiền như ông tiên nho nho?
Ngó vô nhà đèn đỏ đèn xanh
Đã là tiên thì đâu cần phải làm gì. Cậu rong chơi, chờ ngày mãn kiếp về trời.
Nhà tôi là nơi cậu thường vào nghỉ chân sau một chuyến đi rảo quanh làng, hoặc lừng khừng sau khi lai rai vài ba xị đế. Cậu đến nhà tôi, người lớn không cần phải bận tâm đón tiếp. Quen thân quá, hoá lờn. Không ai vô công rồi nghề để ngồi nghe cậu nói chuyện Nam Tào Bắc Đẩu. Cậu cũng rất tự nhiên, nằm trên cái võng giữa nhà, đưa qua đưa lại, miệng phì phà điếu thuốc. Anh chị em tôi rất thích cậu Hai Saỵ Cậu có cả một kho tàng chuyện lạ, kể hoài không hết. Muốn nghe cậu kể chuyện, chúng tôi phải thay phiên đưa võng cho cậu lấy hứng. Đưa võng cũng phải có nghệ thuật, cậu nói, đưa mạnh quá làm nôn ruột, đưa nhẹ quá dễ buồn ngủ. Thế thì phải đưa thử, đến lúc nào cậu bảo được, là giữ nhịp võng ấy mà đưa hoài. Mỗi khi cậu chấm dứt một câu chuyện kể, phải biết ý cậu, đưa mạnh hơn để tán dương và phụ hoa. cho tiếng cười được phơi phới lên cao. Không phải lúc nào cậu cũng chịu đưa võng. Những khi trời nóng nực, phải quạt cho cậu mát. Quạt mạnh quá, cậu nói ngộp thở. Nhẹ quá, cậu bảo không mát. Phải quạt vừa vừa, đều đặn. Cậu nằm phanh áo, bày ngực và bụng. Quạt từ trên mặt, quạt dài xuống bụng. Cái quạt lớn làm bằng mo cau, tôi phải cầm hai tay, quạt mới xuể.
Những chuyện kể của cậu Hai Say, mấy mươi năm qua rồi, tôi không nhớ hết. Sau đây là một trong vài chuyện mà tôi còn nhớ được.
Thời cậu còn theo kháng chiến làm cách mạng. Cậu đã đi rất nhiều nơi, từ chốn bưng biền cho đến miền rừng sâu núi thẳm. Một hôm cậu ngang qua một vùng núi non hiểm trở, bỗng nghe tiếng động ầm ầm dữ dội, như tiếng của Thần Rừng Thần Núi giao tranh. Cậu hoảng hồn, mau chân chạy tránh xa nơi nguy hiểm. Cả năm sau, cậu có dịp hộ tống Bác Hồ, ngang qua vùng ấy nữa. Cậu thấy hai con vật khổng lồ: con rít chúa và con mãng xà vương nằm chết, xác đã rữa mục rồi. Bấy giờ, cậu mới hiểu ra rằng tiếng động ầm ầm mà cậu nghe năm ngoái, là do hai con vật đánh nhau. Cái đuôi của chúng vùng vẫy làm gãy đổ cây cối cả một vùng rừng rộng lớn.
Con mãng xà vương chết, còn lại bộ da, trải dài như con đường lát gạch. Bác Hồ là người thông minh, có nhiều sáng kiến lạ, Bác bảo mỗi người cắt vài miếng da mãng xà để làm dép râu. Và Bác đã mang đôi dép này đi suốt “Đường Kách Mệnh”. Đôi dép râu bằng da mãng xà, bền chắc vô cùng. Khi Bác lên làm chủ tịch nước, người ta đưa đôi dép râu này vào trưng bày trong viện bảo tàng. Các nhà khoa học lừng danh của Liên Xô có đến chiêm ngưỡng, và dùng phương pháp khoa học tối tân để phân chất, nhưng vẫn không khám phá ra đôi dép làm bằng nguyên liệu gì. Đó một bí mật mà nhà nước ta giấu kín, không công bố cho nước nào biết, dù là nước xã hội chủ nghĩa anh em cũng vậy. Tất cả những gì liên quan đến Bác, đều được truyền miệng một cách hư hư thực thực như huyền thoại. Để từ đó, người ta nhìn thấy Bác là một siêu nhân.
Con rít chúa chết, còn lại cái vỏ. Vỏ rít có nhiều đốt, nối lại như một đường ống dài. Lúc ấy, trời bỗng đổ mưa tọ Bác Hồ bảo mọi người chui vào cái vỏ rít mà trú mưa. Mưa to, thế mà không ai bị ướt.
Bác Hồ nói: “Lấy cái vỏ rít này, dùng làm nóc hầm trú ẩn hoặc làm địa đạo, có thể chống được bom đạn.”
Đấy lại là một sáng kiến độc đáo nữa. Có người rút nhật ký ra ghi chép lời Bác.
Anh tôi hỏi: “Ghi chép làm gì?”
Cậu nói: “Để sau này, Bác dùng làm tài liệu viết ký sự “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện”, dưới cái tên giả Trần Dân Tiên.”
Cậu tiếc rằng, ở giữa vùng rừng núi xa xôi, không thể khiêng vài cái đốt của rít chúa về xóm làng.
Anh tôi lại hỏi: ” Khiêng về làm gì?”
Cậu nói: “Để bán cho người ta làm mui xe bò. Mỗi đốt làm được một cái mui xe, rất chắc. Xài cả đời cũng không hự”
Chị tôi hỏi: “Cậu từng phục vụ cho Bác Hồ. Cậu thấy Bác ra sao?”
“Ồ, đẹp lắm. Trông Bác có cái dáng vẻ tiên phong đạo cốt, dưới càm phơ phất một chòm râu.”
Tôi hát: “Mong Bác Hồ cho chúng cháu xin, đôi sợi râu làm dây thân ái.” Và hỏi. “Sao cậu không xin Bác một sợi râu?”
“Dễ gì? Bác chỉ có một chòm râu, mà trẻ em cả nước đứa nào cũng muốn xin một sợi. Lấy đâu cho đủ? Nhưng cậu cũng tìm cách để có được một sợi râu của Bác.”
“Khi Bác ngủ. Cậu lén nhổ râu hả?”
“Không. Nhổ râu Bác cũng giống như vuốt cái vảy ngược dưới cổ con rồng.”
“Vuốt cái vảy ngược của rồng thì sao?”
“Thì chết chứ sao? Tương truyền, rồng là một linh vật, chúa tể của muôn loài. Vảy rồng mọc xuôi về phía sau, nhưng dưới cổ nó, có một cái vảy mọc ngược về phía trước. Ai chạm phải cái vảy ấy, nó giết liền. Người có chân mạng đế vương, thường được ví với rồng. Vì thế, mỗi sợi râu của Bác được coi như một sợi râu rồng, người đời thường gọi là long tụ Nhổ long tu của Bác, chẳng khác nào chạm cái vảy ngược của rồng.”
“Nguy hiểm như vậy, làm sao cậu lấy được râu Bác?”
“Mỗi buổi sáng, cậu có bổn phận bưng thau nước vào cho Bác rửa mặt. Khi xong, cậu đem đi đổ. Trước khi đổ, cậu quan sát thật kỹ, những mong có được một may mắn. Và cậu đã may mắn thật, trong thau nước rửa, có một sợi râu rụng của Bác. Cậu giữ lại sợi râu quý này, làm kỷ niệm.”
“Cho tụi cháu xem thử đị”
“Ngồi yên! Nghe cậu kể. Người ta nói cọp chết để da, nhưng không ai nói cọp chết để râu. Vì mỗi lần hạ được một con cọp, việc đầu tiên phải làm là đốt ngay bộ râu.”
“Sao thế?”
“Nếu kẻ ác lấy được sợi râu cọp, họ sẽ dùng vào việc giết người.”
Anh tôi thắc mắc: “Râu cọp mà có thể giết người được sao?”
Cậu Hai Say giải thích: “Họ nhét râu cọp vào mụt măng. Cháu biết măng là gì không?”
Chị tôi nhanh miệng: “Măng là mầm non của tre trúc mới nhú lên khỏi mặt đất.”
“Đúng rồi. Nhét sợi râu cọp vào mụt măng. Lâu ngày, sợi râu sẽ hoá thành con sâu màu đen. Cứt của con sâu này là một thứ thuốc độc ghê gớm. Chỉ cần cho một viên cứt sâu nhỏ bằng đầu cọng tăm vào lu nước. Ai uống phải nước này, sẽ ngã ra chết liền.”
Chúng tôi rúc cổ le lưỡi: “Ghê quá!”
“Im! Bình tĩnh, nghe cậu kể tiếp. Râu Bác Hồ như râu rồng. Cậu nghĩ, nếu đem nhét vào mụt măng, nó sẽ hoá ra con gì? Vì tò mò, cậu đã làm thử.”
“Cháu nghĩ nó sẽ hoá ra một con rồng nhỏ.” Chị tôi nói.
“Không. Chẳng phải rồng mà là một con sâu đỏ lòm, cháu ạ.”
“Thế, cậu làm gì với con sâu ấy?”
“Chẳng làm gì cả. Thấy con vật lạ thì nuôi chơi vậy thôi. Cậu nhốt nó trong một chiếc hộp nhỏ, đi đâu cậu cũng mang theo bên mình. Nhưng nó không chịu ăn, lừ đừ gần chết, cậu không biết làm sao để có thể nuôi nó lâu dài. Có lần, cậu vô ý làm đứt tay, một giọt máu tươi rớt vào trong hộp. Nghe mùi tanh của máu, nó như được hồi sinh và hút sạch giọt máu. Thế là cậu khám phá ra, con sâu đỏ này chỉ có thể nuôi bằng máu.”
“Cậu làm sao đủ máu mà nuôi nó hoài?” Anh tôi hỏi.
“Phải có cách chứ. Đâu thể trích máu của cậu mãi được. Đi với Bác lâu ngày, cậu cũng khôn ra. Nghĩa là tận dụng mọi thứ chung quanh, mà không hề làm tổn hại đến mình. Cậu bắt con đỉa hút no máu con trâu. Xong cậu cho con đỉa vào hộp. Con sâu đỏ hút lại máu từ con đỉa. Đỉa là loài sống rất dai, cho nên có câu “sống dai như đỉa”. Thế mà sau khi bị con sâu đỏ hút máu, con đỉa chết luôn. Điều này cho cậu biết rằng, con sâu đỏ là một độc vật ghê gớm nhất trên đời.”
Chị tôi nói: “Sao không giết nó đi, nuôi chi một con vật gớm ghiếc?”
“Cậu đã nói, thấy con vật lạ, thì nuôi chơi. Mãi sau, có người biết được, tố giác chuyện này lên Bác Hồ. Bác ra lệnh tịch thu con sâu đỏ. Cậu giao nạp con sâu, nhưng vẫn còn sợ bị khép tội ăn cắp râu Bác Hồ, nên trốn về, không theo cách mạng nữa.”
“Rồi Bác giết nó hay nuôi?”
“Nếu giết nó thì đỡ khổ cho dân lành rồi. Bác nuôi mới chết người chứ!”
“Không lẽ Bác nuôi nó bằng chính máu của Bác?”
“Bác đâu có dại. Máu của nhân dân thiếu chị”
“Nhưng Bác nuôi nó làm gì?”
“Làm gì, ai biết? Mọi hành vi của Bác đều được giữ bí mật. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất, và thanh trừng thành phần trí phú địa hào bất mãn, có hàng vạn người bỗng ngã lăn ra chết bất đắc kỳ tử. Cậu nghi, họ bị đầu độc bằng cứt của con sâu đỏ này.”
Sau mỗi chuyện kể của cậu Hai Say, thường là những tiếng cười vui thích thú. Nhưng sau chuyện này, cậu không cười, và chúng tôi thì sợ.
***
Mùa Xuân năm Ất Mão, tôi tơi tả trở về làng cũ. Cậu Hai Say bây giờ, đã già lắm rồi.
Cậu bảo: “Hãy chạy đị”
Tôi hỏi: “Sao cậu không chạy?”
“Với số tuổi của tao, bỏ thây không tiếc”
“Cậu thường hay nói chơi. Không biết lần này cậu nói chơi hay nói thật. Nhưng đất nước vừa chấm dứt chiến tranh, không ở lại mà hưởng thái bình, còn chạy đi đâu?”
Cậu ngước mặt lên trời, than: “Người ngu mắc nạn, thường hay đổ thừa cho thiên mệnh.”
Mười năm sau nữa, tôi ra khỏi tù, lại trở về làng cũ. Nghe nói, cậu Hai Say được cách mạng mời đi dự tiệc mừng Đại Thắng Mùa Xuân. Và cậu đã chết ngay sau khi rời khỏi bàn tiệc. Tôi chợt nghĩ đến con sâu đỏ. Chẳng biết cái chết của cậu, có liên quan gì với cứt của loài độc vật này hay không?

Con Suối
Và Chiếc Cầu Treo

Ở đây, cuối tuần là thời gian rỗi việc. Tôi thường cùng một số bạn ngồi lại uống lai rai vài chai bia, nhắc chuyện cũ. Chuyện mới thì ủ ê. Không lấy gì làm phấn khởi. Chuyện chưa đến thì mờ mịt, biết gì mà nói? Chuyện cũ với những người cùng hoàn cảnh, xem chừng dể thông cảm nhau hơn. Có người bạn trẻ hỏi, sao chúng tôi nói mãi đề tài lính và tù không nhàm chán? Làm sao giải thích cho bạn hiểu đây? Sang tới xứ này, bạn còn có tương lai đi tới. Chúng tôi còn gì đâu? Tuổi lớn rồi, học không vô. Tiến thân bằng cái đầu không được. Thôi thì đi làm cu li, cơm áo qua ngày. Sống mà không nhìn về phía tương lai, không chờ đợi điều gì cả là một bi thảm. Ngoái trông về quá khứ cũng thấy đầy những gai góc tai ương, nhưng đó là một phần đời gắn liền với chúng tôi. Đó là da thịt, là vốn liếng một đời người. Mang cái vốn liếng u buồn này đi vào tương lai, cũng giống như vác cái quá khứ bốn ngàn năm lạc hậu lên phi thuyền bay vào vũ trụ. Lâu lâu, giở lại quá khứ săm soi, như người ta nâng niu gìn giữ một món đồ cổ. Cổ vật càng xưa càng quý. Tâm trạng chúng tôi bây giờ là thế.
Một lần, nhà thơ Tô Thùy Yên đến Boston. Chúng tôi ngồi nhắc chuyện cũ. Anh nói, hồi đi cải tạo đã từng ở cái trại tù sát chân núi. Bên kia núi là nương rẫy của trại. Muốn qua nương phải vượt đèo. Đèo cao dốc ngược, đường lên khúc khuỷu. Mùa mưa trơn trợt khó đi. Lên tới đỉnh đèo, phải ngồi lại nghỉ mệt trước khi tuột dốc. Anh em trong trại đặt tên là “đèo bá thở”. Tôi cũng đã từng lên xuống cái đèo này nhiều lần, trong thời gian còn ở trại. Tổng số tù nhân vào khoảng 300 người. Thế mà tôi không hề biết có Tô Thùy Yên ở đây. Sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, ai cũng muốn thu nhỏ thân phận của mình. Chờn vờn trước mặt cán bộ, dễ bị chú ý. Sứ giả của ma vương mà chú ý, thật chẳng hay ho gì.

Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp có bài Đốt Lửa Nghe Sư Đàn. Đọc lên cứ nghe rờn rợn. Nó gợi lại trong tôi một nơi chốn quen thuộc. Không gian, thời gian của những mùa đông rét mướt, áo quần không đủ che thân. Đêm đông trong lán trại lợp bằng nứa, lạnh quá không ngủ được, tù ngồi hơ tay bên đống lửa. Tiếng nói chuyện thầm thì như hơi gió. Tâm sự tràn trong đêm khuya. Thỉnh thoảng nghe tiếng mang mển “béc” ngoài đồi tranh cô quạnh, tiếng kêu buồn héo cả ruột gan.

đốt lửa. chừng như người qua khe
mùa đông tím những nương mưa
đốt lửa bên trong lán suối
mưa. mưa trên con đường núi
có ai tìm vầng trăng mọc khuya
rét. sầu miên. đất. đá. gỗ
đầm sấu hoang. lau thắp. bến chờ

lửa đã cháy. cháy trên củi ướt
tù ngồi hơ tay nghe cổ tích
chuyện Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh
bỗng trong đêm rộ tiếng ai đàn
lửa củi soi nhà sư mặt ốm
kể từ sư rũ áo đi đày
cái tâm mây nổi. trăng thiền đạo
cuộn cuộn trường giang sóng lục đầu
đầm cỏ nước in thân cò vạc
bắt cua. vồ nhái. ngày qua ngày
đêm đêm ôm đàn trong xó tối

năm ngón tay gầy. tiếng thổ cầm
sư ngồi đàn như cây trăm năm
lửa cháy xèo xèo mùi nhựa ngái
khói tỏa mù khe. Màu cỏ rối
dạo đàn. mưa thu rơi trong trăng
tiếng mau. chim bay qua mùa đông
đàn ánh thép xanh. gươm phạt trúc
gỗ nổi. đá lăn. trâu bứt gốc
hồn u. mả tối. đây là đây
rạng tiếng Ngư Dương thơ quỷ đọc
lán sâu. bếp ảo. lửa đào lay

cây đàn gỗ xưa như mặt trăng
năm ngón tay gầy như chim ưng
bật dây. rỏ máu hoàng hôn rừng
gọi những mùa đi không trở lại
đàn qua. tiếng buồn trong lau sậy
gió thu đưa võng. ai chờ ai
đêm cẩm khê. đàn trong u độc

người nghe đàn khơi đỏ lửa khuya
tóc râu tiền kiếp đầm hơi mưa
bỗng thấy sân nhà cây sứ gãy
năm cửa ô quan ngấn lệ mờ
những nẻo chiều sương người rách rưới
những mái nhà mưa xoi nắng rọi
lọ rơi. sành vỡ. lục cục âm
khuya rồi. ai đẽo gỗ huỳnh đàn
tửng sắc hoa gầy trên áo quan

sư bỗng ngừng đàn. nhìn đống lửa
gốc cây cháy như đầu thiên cổ
huyễn huyễn củi tàn màu kinh xưa
mặt đất chừng qua cơn mộng dữ
nên ngón tay gầy như ngó sen
hơi đàn trôi trong hương lá xanh
đàn ngân. cánh chim soi trên đầm
mùa hoa mơ nở trắng non ngàn
từ trong động ấy giờ trăng mọc
ánh trăng chảy vàng trăm cửa sông

bếp rụi. lửa riu. âm đàn dứt
trăng lên rồi. hổ xuống cẩm khê

Nguyễn Xuân Thiệp thai ghén và làm bài thơ này từ năm 1977 đến năm 1988. Mười một năm ròng rã, dốc hết tâm huyết cho một bài thơ đầy nội lực. Hèn nào đọc lên, tôi thấy như mình đang sống trong căn lán ẩm thấp vào một mùa đông lạnh ướt xưa kia. Anh Thiệp cho biết, đã từng ở trong cái trại có con suối chảy sát ngoài hàng rào. Trước cổng trại, chếch về phía bên trái, sát chân núi có một ngôi nhà sàn. Nhà núp trong cây. Những buổi sáng lành lạnh trời còn mù sương, đến thật gần mới thấy ngôi nhà hiện ra trong làn sương đục. Cảnh đẹp như tranh, mơ hồ như ngôi nhà trong cổ tích. Hóa ra, cái trại Nguyễn Xuân Thiêp mô tả, chính là trại Tô Thùy Yên và tôi từng ở đó. Vậy mà không ai biết ai. Trên cõi nhân gian có lúc người ta đi thật gần nhau, cùng sinh hoạt như nhau, nhưng người nào cũng giấu mình bằng chiếc mặt nạ. Một lúc nào đó, vất chiếc mặt nạ đi, nhìn nhau cười xòa.

Trong Đốt Lửa Nghe Sư Đàn, Nguyễn Xuân Thiệp có nhắc đến con suối, đốt lửa bên trong lán suối. Cuối bài, kết thúc bằng trăng lên rồi. hổ xuống cẩm khê. Cẩm Khê là một địa danh thuộc xã Cẩm Nhân. Xã ở miền cao, có nhiều suối mùa. Nhưng con suối thiết thân gần gũi với chúng tôi ngày ấy là con suối Nguyễn Xuân Thiệp nói trong thơ. Bây giờ, đọc thơ anh, tôi cảm giác như cái lạnh còn thấm tới xương, và còn mường tượng được cái không khí u uất trùm lên lán trại vào những đêm khuya nghe cú rúc. Tiếng cú như tiếng ma kêu sầu thảm, báo điềm có kẻ tử vong.

Tôi rời xa nơi ấy lâu rồi. Nhưng đi đâu cũng mang theo trong lòng về một nơi chốn mà tôi đã sống những ngày bầm giập xác thân. Mang theo không phải để nhìn ngắm lại một quá khứ u buồn. Nhớ mãi những tai ương buồn khổ, ích gì? Tất cả như chiêm bao bào ảnh, như sương móc chớp chăng. Kinh nhà Phật dạy thế. Nơi chốn tôi mang theo là những khu rừng ẩm mùi lá mục, đầy những muỗi mòng sên vắt. Rừng nối rừng bạt ngàn đi không hết. Những dãy núi bốn mùa sương giăng bàng bạc. Núi tiếp núi liền nhau bất tận. Nơi ấy có một trại tù. Có con suối nhỏ nép mình ngoài hàng rào trại, lượn vòng theo chân núi. Giữa hoàng sơn trùng điệp, suối bắt nguồn từ đâu, và xuôi về tận đâu không biết. Có người đoán, nó đổ ra hồ Thác Bà. Cũng chỉ đoán mà thôi.

Mùa mưa, hồ Thác Bà đầy nước xanh trong vắt. Giữa hồ ló lên một cây thập giá trơ vơ trên mặt nước. Mùa nắng, nước rút phơi đáy hồ bùn khô nứt nẻ. Dưới lòng hồ hiện ra một ngôi giáo đường, trên nóc cao có cây thập giá. Nhiều năm trước, nơi có ngôi giáo đường là thung lũng chạy dài mấy chục cây số về phía Nam. Người ta ngăn nước làm đập thủy điện Thác Bà. Vì thế, mới có hiện tượng ngôi giáo đường chìm trong lòng nước làm thành cảnh đời dâu bể, thế sự tang thương.

Theo con suối về phía thượng nguồn, cách trại chừng nửa cây số, suối uốn vòng cung nước xoáy thành hồ nhỏ. Quanh hồ là thảm cỏ xanh rờn mọc chen với tàu bay, kim thất. Hoa tàu bay, kim thất khi nở bung giống như chùm lông tơ trắng. Gió cuốn hoa bay khắp núi rừng. Mỗi sợ lông mang một hạt mầm. Sau trận mưa đầu mùa, mầm hạt ngoi lên những cây con, thân mòng mọng, lá xanh non mướt. Cây cỏ gì ăn được đều gọi là rau. Rau kim thất nhân nhẩn, người ta nói có vị thuốc. Còn rau tàu bay có mùi hăng hắc, người ta nói ăn nhiều bị mất máu. Có vị thuốc hay mất máu, không đáng quan tâm. Một thời khốn khó không cơm, chúng tôi dùng nó độn thêm trong phần sắn khoai làm đầy bao tử. Sát mé nước, trên bờ hồ có những loài hoa dại không tên. Nhiều nhất là hoa vàng và tím, màu sắc chen nhau. Hoa chỉ bằng con bướm nhỏ. Những khi vác nứa về ngang qua đó, những đóa hoa rập rờn như đàn bướm đồng loạt chớp cánh, đẹp vô cùng.

Cũng nơi cái hồ nước nhỏ này, con suối chia làm hai dòng. Một dòng chảy sát bên hàng rào trại, như đã nói. Còn dòng kia chảy qua một cánh đồng. Trại nằm lọt vào trong cái chảng ba con suối. Dòng suối chảy băng qua cánh đồng, chia cắt trại với con đường dẫn về Tuyên Quang. Trên bờ suối có bụi tre rừng. Lâu ngày nước xoáy dưới gốc tre thành hốc nước. Nghe đồn, trong hốc nước có con rùa vàng to bằng chiếc nón lá. Những buổi trưa hè, thường có người trong trại ngồi cầm cần thả dây câu rùa. Câu rùa để ăn, chứ không phải nuôi chơi làm cảnh. Trong khốn cùng đói khát, không ai nghĩ đến chuyện giải trí tinh thần bằng cách nuôi một con rùa để ngắm. Chẳng biết xưa ông Lã Vọng ngồi câu sông Vị ra sao? Ngày nay, người tù ngồi câu rùa, trông cái dáng vô cùng bi thảm. Anh ngồi bất động, đôi mắt đăm đắm xa xôi ở một cõi nào đâu ấy. Mấy năm ở trại, tôi thấy hết người này ngồi câu, rồi đến người khác ngồi câu. Người nào cũng thể hiện nét mặt buồn như nhau. Không ai bắt được con rùa, cũng chưa ai thấy nó nổi lên bao giờ. Con rùa vàng trở thành niềm tuyệt vọng của những ông câu.

Ngang qua suối, trại có bắc một cây cầu để đi ra con đường về phía Tuyên Quang. Mùa nắng làm cầu. Mùa mưa nước lũ trên ngàn tuôn xuống mạnh như thác, mang theo những cây khô gỗ mục vướng vào chân cầu. Chỉ vài trận mưa đầu mùa, cây cầu bị cuốn phăng đi mất. Và trại bị cô lập hoàn toàn với những bản làng người sơn cước, bên kia con suối. Năm nào trại cũng phải làm cầu mới, nhưng rồi cũng không chịu nổi sức tàn phá của thiên nhiên. Các cán bộ trên trại đề ra kế hoạch làm cầu treo.

Nghĩ ra kế hoạch là cái đầu của những kẻ coi tù. Thực hiện kế hoạch ấy là bàn tay, sức lực của những người tù. Chúng tôi chia thành từng nhóm kéo nhau lên rừng núi đốn cây. Phải chọn cây to, và thẳng đúng theo quy định chiều cao của chân cầu treo. Dao trành đốn cây cổ thụ, giống như người thợ điêu khắc kiên nhẫn đẽo từng mảnh nhỏ của tảng đá lớn. Nước sông công tu, chuyện gì mà không làm được? Cây ngả xuống, chặt cành chặt ngọn. Ai mà khiêng nổi cây to trên thế núi dốc? Chúng tôi vạt nhọn một đầu, lao cây xuống núi. Cây vướng lại chỗ nào, phát quang chỗ đó. Đem được cái cây bề tròn cỡ vòng tay ôm về tận bên con suối nơi chỉ định làm cầu, công trình nhọc nhằn này tương đương với những người vận chuyển những phiến đá lên cao xây Kim Tự Tháp bên Ai Cập thời xưa.

Đồng thời với công tác chặt cây, đào lỗ hai bên bờ suối dựng chân cầu, cán bộ trại về tận Hà Nội xin được cấp bốn sợi cáp. Giữa miền rừng núi không xe cộ đi lại, chuyển được bốn sợi cáp bằng thép bề trại với sức người, mồ hôi đổ dài theo những dặm sơn khê.

Cáp mắc vào trụ cầu giăng ngang con suối. Bốn sợi cáp chia làm hai tầng. Hai sợi trên làm tay vịn. Hai sợi dưới lót ván để đi. Cây cầu treo này được xem là công trình xây dựng hiện đại nhất của miền thượng du. Nó là một kỳ quan đối với người sơn cước.

Ngày khánh thành cây cầu, tất cả tù nhân tập hợp ra đứng bên bờ suối, nghe ông trại trưởng nói chuyện. Ông đứng trên cầu, mặc áo đại cán, đội nón cối có gắn ngôi sao, nói những lời tự hào về sức mạnh xã hội chủ nghĩa. Con người của xã hội chủ nghĩa quyết tâm khắc phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ con người. Ông mạnh dạn tuyên bố dứt khoát rằng, cây cầu treo này sẽ tồn tại không những một mùa mưa, mà còn tồn tại sau nhiều mùa mưa nữa. Cuối cùng ông ngỏ lời ngợi khen anh em tù nhân đã cố gắng lao động tốt trong thời gian qua. Tuy nhiên vẫn còn vài con nhạn la đà vi phạm nội quy, moi móc khoai củ ngoài rừng, cải thiện linh tinh. Dù thế, ông cũng hứa sẽ thưởng cho mỗi người một xuất sắn vào sáng Chủ Nhật. Thông thường, sáng Chủ Nhật không có phần ăn. Đang trong thời kỳ đói khổ, lời hứa của ông trại trưởng làm anh em nức lòng phấn khởi. Trên khung, cán bộ làm chó ăn mừng khánh thành cầu treo. Dưới trại, tù nhân được thêm phần sắn.

Miền núi rừng thượng du không có trò gì vui chơi giải trí. Mùa hè. Chiều chiều, các cán bộ rủ nhau lên cầu đứng hút thuốc tán gẫu, và hóng gió rừng. Nếu chỉ thế thì sự đời êm đềm bình thản biết bao Cảnh cán bộ nhởn nhơ hóng gió trên cầu là niềm mơ ước của những kẻ muốn rủ hết sự đời theo thú tu tiên. Nhưng đối nghịch hình ảnh lý tưởng ấy, trong lán trại những người tù tiều tụy đang nằm thở dài sau một ngày lao động vất vả thiếu ăn.

Rồi mùa mưa lại đến. Cơn mưa đầu mùa thật dữ dội. Ầm ầm vang động núi rừng. Mưa suốt ngày đêm không ngớt. Nước lũ trên ngàn tuôn xuống. Suối chảy mạnh như thác, gầm thét cuốn phăng những gì vướng víu trên đường nó đi. Bốn chân cột cầu treo được dựng trên thế đất cao bên bờ suối, hàng năm nước không lên tới. Nhưng năm nay, nước lũ tràn bờ. Cành cây và rác rến mắc vào chân cầu làm sức cản nước. Sau ba ngày đêm chịu lũ, một sáng ra xem, cây cầu treo biến mất dưới cơn mưa tầm tã, giữa dòng cuồng lưu nước xiết.

Thiên nhiên nuôi dưỡng con người. Khí thiêng sông núi hun đúc hồn người lớn dậy. Người xưa biết dựa vào thiên nhiên mà sống, thuận theo lẽ trời mà tồn tại. Mùa đông áo ấm. Mùa hè quạt mo. Sao thời nay có kẻ dám ngông nghênh lớn lối rằng đã khắc phục được thiên nhiên? Những ai thách thức thiên nhiên, chống lại quỷ thần, trước sau gì cũng bị trời tru đất diệt. Chuyện cây cầu treo năm ấy là bài học quí giá dạy cho con người đức tính khiêm cung, biết được thân phận nhỏ nhoi của mình có nghĩa lý gì đâu, so cái lớn lao vô cùng trời đất.

Lâm Chương

Kinh Dương Vương

Kinh Dương

Bài Thơ Cho Bạn Tôi
* Tưởng niệm
Nguyễn Phương Loan

Dáng anh cao lớn và oai nghiêm, thoạt trông trẻ con hoảng sợ. Nhưng rồi chúng đến vây quanh anh thân ái, khi chúng nhìn thấy đôi mắt hiền, buồn như mắt của một nghé tơ và giọng nói nhẹ dịu lòng. “Các cháu lại đây với chú. Nào, lại đây với chú”

Anh hãy còn độc thân. Anh yêu một người con gái, nhưng nàng không yêu anh, đã từ lâu, và anh còn yêu nàng mãi… Anh vẫn viết thư thường xuyên cho nàng, những bức thư là những bài thơ tình tuyệt vời không bao giờ có hồi âm.

Bạn tôi, anh là lính trận, nhưng cũng là một thi sĩ. Tôi nghĩ rằng anh chỉ là một thi sĩ. Anh viết những bài thơ trong bụi rậm, trên quyển sổ tay nhỏ, giấy bao thuốc lá hay những mảnh giấy vụn. Những bài lục bát không bao giờ xuất hiện trên mặt báo. Nhưng cây lá, những cỏ mọn hoa hèn và côn trùng – những chú dế nhỏ, cào cào, sâu bọ – biết qua giọng ngâm gợi cảm của anh. Và vài người bạn thiết nhận được những bài thơ của anh từ những vùng hành quân xa xôi.

Anh liên miên đi từ chiến trường này đến chiến trường khác.

Đầu Thu: Anh đang ở mặt trận Tây nguyên, Kontum. Nơi đó có gia đình vợ con tôi. Anh thường ra thăm lũ trẻ, đem theo những viên kẹo và những chiếc bánh ngọt – anh đã mua với số tiền nhín ra từ đồng lương ít ỏi của anh.

Khi tôi về phép thăm nhà thì anh đã theo đơn vị đến một chiến trường khác vùng duyên hải. Tôi không được gặp anh.

Anh gởi người bạn mang về cho tôi tập thơ “Kẻ tiên tri” của Kalil Gibran, anh đã cẩn thận, sửa những lỗi in sai. Anh viết cho tôi trong một bức thư ngắn với nét chữ run rẩy, rằng anh đang bị sốt rét rừng. Anh gởi lời thăm tôi và gia đình an mạnh, mong giữa mùa thu sẽ gặp lại. Tôi viết thư trả lời anh. Cầu chúc anh luôn gặp những điều may mắn và cũng mong sẽ còn gặp lại nhau.

Nhưng anh đã nhận được thư của tôi chưa?

Giữa mùa thu:

Tôi được tin anh đã trở lại chiến trường Pleime, nơi đó anh bị thương. Một mảnh thép đã len vào thân thể anh, nằm trong phổi khiến máu anh chảy ra nhiều cùng với những chiếc bong bóng màu hồng. Việc tản thương chậm chạp và anh đã bất tỉnh. Anh vào nằm bệnh viện và qua một cuộc giải phẫu.

Người bạn anh nhờ mang sách về cho tôi kể chuyện:

Buổi sáng, anh tỉnh dậy sau cơn mê man suốt đêm. Anh đã ngồi lên được và anh hút thuốc – thú vui duy nhất của anh đó mà. Buổi trưa anh cảm thấy mệt nhiều. Anh đã nói với người bạn nhờ nhắn lại cho gia đình tôi biết, nếu anh mệnh hệ nào. Đúng nửa đêm hôm đó…

… Bạn tôi, người bạn thi sĩ mà tâm hồn cao thượng và hiền hòa như lá cây đã vĩnh viễn từ biệt cuộc đời.

Có linh hồn không? Và linh hồn anh đã bay về đâu? Hẳn là linh hồn anh đã nhập vào những nụ xanh của một mùa xuân vĩnh cửu. Hay đến cư ngụ nơi một vì sao, trong ánh trăng vô thủy vô chung, hay đang bay lượn trên những tầng thanh khí? Ở đó, anh không còn là thi sĩ nữa, anh chính là thơ. Một bài thơ vô thanh vô sắc mà con người chỉ có thể nhận ra bằng linh cảm, với xúc động bàng hoàng. Một bài thơ đẫm lệ âm u.

Từ nay, trên thế gian, không nơi đâu tôi có thể tìm thấy bạn tôi, với nụ cười hiền hòa và đôi mắt như mắt một con nghé tơ nữa. Cuộc đời chúng tôi đã bị chia cách bởi một vực thẳm huyền bí mang tên Tử biệt. Chúng tôi có bị chia cách thật không? – Không – Tôi muốn tin như thế cho đến ngày tôi bước vào thế giới của anh và cuộc đời chúng tôi được nối kết lại – anh vẫn còn tiếp tục sống trong đời sống của tôi.

Tôi lần dở những trang sách anh tặng tôi vào đầu mùa thu. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp vài nét chữ của anh. Hẳn những dấu tay anh mà tôi không trông thấy còn in lại trên những trang sách? Những trang sách giữ lại một cách vô tình hơi hướm của anh? Tôi đọc lại bức thư cuối cùng. Những nét chữ run rẩy vì cơn sốt rét rừng giờ đây run rẩy trong tâm hồn tôi.

Sáng nay, một buổi sáng xanh có nắng trong nhuộm rực rỡ khu rừng nơi dừng quân, tôi nhớ đến bạn tôi. Tôi muốn nghĩ rằng ở một nơi nào đó anh vẫn còn đang sống. Trong ánh nắng vàng trong vắt của bình minh kia anh đang cười và trên những chiếc lá xanh kia anh đang viết những câu thơ lục bát bằng ngòi viết tâm hồn anh và mực nắng ban mai. Anh đang nhớ đến người con gái anh yêu, gia đình anh, bè bạn và đời sống.

Nhưng không, mặc cho sự phỉnh phờ của cơn mơ mộng, trong tận cùng tâm trí tôi có một nơi bóng tối không chịu rời xa – dù chỉ một chút bóng tối nhỏ nhoi – từ đó một tín hiệu âm u liên tục đánh đi và tâm hồn tôi luôn tiếp nhận, rằng: “Bạn anh đã chết! Bạn anh đã chết! Đã. . . chết!”

Ông Thơm

Tạo hóa công bình khi đặt sự sống dưới dạng hóa học là acit amin. Con người ăn bất cứ chất hửu cơ gì, tiêu hóa đều biến thành acit amin nuôi sống được cơ thể. Nếu người ta chỉ sống được nhờ cá, thịt bò, thịt heo, thịt trừu, thịt dê, bơ sữa – là những thức ăn cao cấp – chảy trong huyết quản thì dứt khoát người nghèo không thể sống được vì họ chỉ ăn rau, ăn cỏ, ăn củ, cua sò ốc hến vì các thứ thịt cấp cao hay cấp thấp cũng đều biến thành ra máu, thành acit amin.

Thân khỏe mạnh suốt thời gian dài trong nghịch cảnh cũng nhờ sự công bình đó của tạo hóa. Dạo ấy, người ta truyền miệng thành châm ngôn : “Cái gì nhúc nhích là ăn”. Nhưng có một loại côn trùng nhúc nhích, lại rất nhiều mà không ai dám ăn. Riêng Thân dám ăn.

– Tại sao không ? Thân nghĩ. Bên Tây cũng có món ăn như vậy, mà còn cho là cao cấp nữa, chỉ giới quý tộc sang trọng mới có mà ăn. Ở đây loại côn trùng này chỉ khác môi trường sống thôi. Một hôm đi ngoài ở cầu tiêu lộ thiên, nhìn xuống hàng triệu triệu con côn trùng đang nhung nhúc, thỏa thuê hưởng thụ vũng phân người, Thân nghĩ ra món ăn đó : dòi phân.

Thân đan một giỏ tre lỗ nhỏ. Mỗi lần đi cầu lén múc đầy một giỏ dòi đem xuống suối tẩy rữa thật kỹ, luộc chín, cẩn thận thay nước nhiều lần, rang vàng, giả nhuyển trộn với vài thứ lá rừng thơm rồi cho vào lọ cất. Mặc dù vậy cái mùi chất thải thấm vào thịt dòi không thể nào mất đi được. Mỗi ngày trước khi đi ngủ, Thân kín đáo lấy ra, nín thở uống một muỗng canh với nước lả. Có người trông thấy tò mò hỏi, Thân nói trớ là uống thuốc Nam gia truyền.

Chẳng bao lâu nhờ chất protein thị dòi, Thân từ ốm yếu trở lại bình thường và khỏe mạnh, dù không được thăm nuôi, Thân ít bị đau ốm. Ðược tạm tha, Thân về gặp lại vợ con da thịt hồng hào.

Thân rất hãnh diện về sáng kiến của mình. Nhưng đó là một bí mật tuyệt đối của Thân, sống để dạ chết mang theo xuống mồ. Kể cả vợ con là người đầu gối tay ấp Thân cũng không hé môi.

Thân sống vui vẻ hạnh phúc, được mấy năm bỗng bị một chứng bệnh lạ.

Vợ Thân kể :
– Chị ạ, thoạt tiên ảnh kêu không ăn được cá thịt hoặc những món gì có mùi tanh. Mắm là món ảnh rất thích nhưng giờ chỉ ngửi xa xa cũng đủ làm ảnh không chịu nổi. Ảnh nói :
– Cái màu xám nhờ nhờ và cái mùi… giống món “thuốc Nam gia truyền” quá !
– Món thuốc gì anh ? Em thắc mắc hỏi.
– À không. Nghe mùi mắm trong cổ họng anh như có con gì ngọ nguậy… Rồi ảnh ôm bụng nôn thốc tháo, ra cả mật xanh mật vàng. Em phải mua đồ chay cho ảnh ăn, nhưng ảnh lại không chịu nổi mùi chao. Ít lâu sau, cơm cũng làm cho ảnh sợ. Thân nói :
– Nhìn vào chén cơm anh thấy ghê ghê làm sao. Cơm chúng bò nhung nhúc em ạ.

Từ đó ảnh chỉ sống nhờ bắp khoai ăn với muối.

Bỗng mặt chị đỏ bừng :
– Nói xấu hổ, vợ chồng em dạo sau này không ngủ chung nữa. Khi bệnh mới phát, những khi gần gũi ảnh chỉ tránh né không hôn em. Ảnh không dám để miệng chạm vào da thịt em chị à. Dường như da thịt em dơ bẩn vậy. Em hôn miệng ảnh cũng đẩy ra. Rồi ít lâu ảnh lơ hẳn chuyện vợ chồng, ra nằm riêng. Hễ em hay các con đến gần là ảnh lảng đi. Có một việc hết sức trái với tính nết ảnh, ảnh rất ghét nước hoa, kể cả em cũng không cho dùng, vậy mà bây giờ ảnh lại xức nuớc hoa, còn xức quá lố nữa. Mỗi ngày tắm bốn năm lần, kỳ cọ cả tiếng đồng hồ. Ngửi tay chân kiểu chó đánh hơi. Bị em bắt gặp ảnh nhìn em lấm lét. Em biết ảnh bị bệnh nhưng không biết bệnh gì. Ðưa đi nhà thương ảnh không chịu.

Một hôm ảnh nhìn em với ánh mắt xa lạ hỏi :
– Chị ngửi tôi có thối không ? Rồi ảnh cười. Một vũng phân đây nè. Dòi bò lúc nhúc chị không thấy hả. Chúng đang ăn thịt da xương tủy tui, chúng đục khoét thân thể tui… hà hà… Chị ạ, nhà em điên thật rồi.

Thân xa lánh hẳn vợ con, bỏ nhà đi lang thang. Từ đó Thân có biệt danh là “ông Thơm”. Tiền có được từ những người hảo tâm Thân mua hết nước hoa tẩm vào người. Trẻ con chạy theo chàng gọi ” ông Thơm… ông Thơm”, nghếch mũi lên hít hít ” thơm quá… thơm quá “.

Thân sống nhờ rau cỏ, bắp khoai hái trộm trên nuơng rẫy. Ăn nguyên chẳng nấu nướng. Có lần bị chủ rẫy bắt được đánh bể đầu. Vợ đem thức ăn đến Thân không ăn, chạy trốn.
– Cuối cùng ảnh sợ hãi tất cả mọi người, lánh ở những nơi vắng vẽ, có khi chui rúc ngồi trong lùm bụi.

Như vậy Thân cũng chưa yên tâm. Chàng cẩn thận viết tấm bảng ” cấm hốt phân ” đeo trên cổ, quàng ra trước ngực, sau lưng. Có người đùa dai khi gặp chàng làm cử chỉ như muốn vồ, Thân vừa chạy vừa la : “Ðừng hốt tôi ! Ðừng hốt tôi !”.

Thân thể Thân càng ngày càng tiều tụy. Vợ Thân đưa chàng vào bệnh viện tâm thần, điều trị được ít lâu thì Thân mất.

Ba Chuyện Cực Ngắn

1. ÁN MẠNG

Vào khoảng nửa thế kỷ trước, khu giải trí lớn bây giờ của thành phố là một nghĩa trang mênh mông: nghĩa trang Triều Châu. Có lẽ số người còn nhớ cái không khí lạnh lẽo u tịch của nghĩa trang đó không còn mấy. Dạo đó mỗi lần có dịp đi qua vào ban đêm, người ta thường cho xe phóng nhanh. Về khuya đi bộ có ai dám. Sợ ma quỉ đã đành, còn sợ cướp giật.

Một đêm, khoảng hai giờ sáng, toán giữ an ninh khu phố thấy một chiếc xe hơi đời mới đậu dưới một gốc cây lớn. Họ đến nơi xem xét, khám phá một người đàn ông độ năm mươi tuổi, ăn mặc sang trọng nằm gục mặt trên tay lái và ông ta đã chết. Trong xe đầy ắp vàng khối, còn niêm phong chua khui. Án mạng được báo cáo.

Cuộc khám nghiệm tử thi không đưa đến kết quả bệnh tật hay án mạng. Thân thể người chết không có tì vết, không say rượu, không bị đầu độc. Theo yêu cầu của gia đình nạn nhân, một cuộc giải phẫu được tiến hành để tìm những nguyên nhân sâu xa gây ra cái chết.

Một bác sĩ trong toán giải phẫu lén bán tin cho một nhật báo lớn trong thành phố. Ngay sáng sớm nhật báo “Tin Mới” phát hành số buổi sáng chạy tít lớn tám cột “Người chết không tim”. Cả thành phố xôn xao. Một tay ký giả bẽm mép viết một thiên phóng sự thêm mắm dặm muối đã kéo một số đông đến bệnh viện xem hư thực, cảnh sát sợ đám đông bị kẻ xấu lợi dụng biểu tình phản đối chính phủ nên dùng hơi cay giải tán.

Hội đồng y khoa thành phố báo cáo lên Bộ y tế về trường hợp bệnh lý lạ gây ra cái chết cho người đàn ông: họ khám phá thấy tim ông ta không có thịt, chỉ là một màn như lớp vỏ cái bong bóng trong suốt. Động mạch và tĩnh mạch chủ vẫn còn, nhưng phần thịt đã biến mất sạch.

Bộ Y tế quyết định báo cáo cho tổ chức y tế toàn cầu về trường hợp hy hữu này. Xác nạn nhân được để phòng lạnh, có cảnh sát canh phòng cẩn mật.

Hai tuần sau, toán bác sĩ giải phẫu cùng những chuyên gia y tế toàn cầu có mặt tại thành phố và cuộc giải phẫu có truyền hình được tiến hành. Sinh hoạt thành phố ngưng đọng. Mọi người dán mắt vào truyền hình. Cuộc giải phẫu tiến hành thật cẩn thận. Trái tim trong suốt như một chiếc bong bóng nhỏ được lấy ra. Qua X quang cũng cho kết quả tương tự: sau lớp màn trong là khoảng không.

Kết quả cuộc giải phẫu được thông báo chính thức bằng văn bản: “Đây là một trường hợp hy hữu trong Y khoa nhân loại. Một người có thể sống với một trái tim rỗng đến năm mươi mốt tuổi. Chết không lý do. Trường hợp này được xem là một bệnh lý chưa được biết đến từ trước đến nay. Hội đồng Y khoa và các chuyên gia y tế thế giới hết sức quan tâm, sẽ thông báo kết quả khi các cuộc nghiên cứu kế tiếp được tiến hành.”

2. CHUYỆN CŨ

Khi người chồng đưa đứa con gái lên năm vào đến bệnh viện thành phố thì nó đã sốt bất tỉnh. Kết quả khám nghiệm cho biết đứa bé bị viêm não cấp tính, cần phải chạy chữa gấp nếu không nó sẽ chết. Người vợ đang bán hàng rau ngoài chợ, nghe tin chạy theo chồng. Thấy con nằm thiêm thiếp trong phòng cấp cứu chị té xỉu.

Bác sĩ ca trực nói:
– Cháu bị bệnh rất nặng, chỉ có một loại thuốc ngoại mới chữa khỏi. Anh chị ráng lo tiền mua thuốc cho cháu vì thuốc rất đắt, mua ngoài chưa chắc có. Bệnh viện được lệnh chỉ xuất cho các cán bộ sắp đến trong kỳ họp sắp đến. Cháu không có tiêu chuẩn dùng.

Người vợ khóc lóc:
– Tội nghiệp quá, bác sĩ ơi! Bác sĩ thương xót gia đình em nghèo quá. Bố nó đạp xích lô, em bán rau ba cọc ba đồng, tiền đâu mua thuốc ngoại. Lương y như từ mẫu, em lạy bác sĩ mà, bác sĩ làm ơn làm phước chích thuốc cho cháu. Người ta chưa đau mà để dành thuốc làm gì, bác sĩ ơi trong khi cháu nó thì sắp chết.
– Bây giờ chúng tôi sẽ tận lực chạy chữa cho cháu, nhưng chỉ cầm cự thôi. Chúng tôi rất thông cảm hoàn cảnh của anh chị. Nhưng chúng tôi chỉ là người thừa hành, không dám cải lệnh. Thôi anh chị về kiếm tiền mua thuốc đi, càng mau càng tốt đối với tính mạng cháu. Cháu chỉ còn chịu đựng đến khuya nay mà thôi.
– Trời ơi! Người vợ kêu lên rồi lại ngất xỉu. Người chồng đỡ vợ, lau mặt cho chị và chị tỉnh dần.
– Thôi mình ở lại với con, tui đi mượn tiền mua thuốc.

Anh bước ra khỏi bệnh viện, đạp chiếc xích lô như người mất hồn. Khách gọi anh không nghe. Anh đạp mãi trên những con đường đầy bụi, khói xe, nắng nung đổ lửa.

Mượn tiền ở đâu? Anh thầm nghĩ. Phải chi vài ba chục, đàng này đến mấy ngàn, ai dám cho anh mượn. Bạn giới anh ai cũng nghèo cả, họ làm gì có bạc ngàn. Cầm bằng như con chết rồi, con ơi! Con chết vì không có thuốc, có nhưng con không đủ tiêu chuẩn để được dùng.

Anh đạp mãi đạp hoài cho đến khi đêm xuống từ lúc nào anh cũng không hay. Khi anh đạp ngang nghĩa trang Triều Châu trời đã về khuya và anh mệt lã. Anh dừng xe dưới gốc cây lớn trong nghĩa trang, ngủ thiếp.

Anh nghe một giọng nói đánh thức anh dậy. Anh tưởng mình nằm mơ nhưng cuối cùng anh mở mắt, tiếng nói vẫn lập lại. Anh hoảng hồn tưởng ma quỉ nhát, định chạy. Giọng nói vang lên:
– Ta sẽ cứu con gái nhà ngươi. Ta sẽ cho ngươi tiền, chẳng những đủ mua thuốc còn giúp ngươi sống sung sướng, chẳng cần làm lụng.
– Ông là ai vậy? Anh quì xuống cúi đầu. Lạy ông, ông cứu con tui, không bao giờ dám quên ơn.
– Ngươi không cần biết ta là ai. Ta không phải là ông bụt trong truyện Tấm Cám. Ta không phải là người tốt như ngươi nghĩ. Ta giúp ngươi có điều kiện.
– Lạy ông. Ông bảo con làm điều gì cũng được, con sẽ làm hết. Ông làm ơn cứu sống con gái con.
– Điều kiện của ta, nghe đây. Ngươi sẽ bán trái tim của ngươi cho ta.
– Trời ơi! Con người sống nhờ trái tim. Bán trái tim con chết còn gì?
– Ngươi sẽ không chết. Ngươi vẫn sống bình thường khỏe mạnh. Ta hứa như thế.
– Không được đâu ông ơi! Mất tim rồi thì làm sao người ta sống được. con sẽ chết thôi.
– Ngươi sẽ không chết. Chỉ cần nhà ngươi khứng chịu thì tức khắc sẽ có tiền, ra về mau thuốc cho con.

Hiện giờ nó đang còn sống, còn cứu kịp. Nhưng hai giờ nữa không có thuốc nó sẽ chết.
– Con chịu! Con chịu! Ông ơi! Con chết cho con con sống.
– Đã xong. Chào nhà ngươi. Hãy giở nệm xe lên sẽ thấy.

Trời bắt đầu sáng mờ mờ. Những chuyến xe ngựa chở rau từ ngoại ô đi ngang qua. Anh vội vàng chạy lại giở nệm xe. Trời ơi! Tiền! Một khối tiền mới tinh ràng dây cẩn thận. Anh quì xuống lạy sát đất, cám ơn trời phật. Vội đạp xe về.

Đứa con được cứu sống. Nhờ số tiền anh mua nhà, mua xe cub đời mới. Đời sống anh nhờ có phép tiên chỉ đầu hôm sớm mai thay đổi hẳn. Các bạn cùng nghề với anh tưởng anh trúng số. Phần anh, anh nói úp úp mở mở không nói với họ sự thật được. Mà anh nói ra thì chắc đã có ai tin.

Hơn mười năm trôi qua, gia đình anh sống êm đềm hạnh phúc. Nhưng thực ra con người anh đã thay đổi mà anh không hay. Nhất là người vợ lại càng không biết. Anh có những bạn mới trong giới nhà giàu. Anh cùng với họ ăn chơi, rượu chè, cờ bạc thâu đêm suốt sáng. Có lúc anh cạn túi và đã mấy lần anh trở lại gốc cây nghĩa trang Triều Châu để chờ nghe tiếng nói nhiệm mầu. Nhu cầu càng ngày càng lớn, anh đổi nhà mới, mua xe hơi mới nhập cảng bằng tiền đô. Anh đòi hỏi bao nhiêu được bấy nhiêu, với điều kiện ban đầu. Chỉ cần anh nói “con chịu”, thế là anh có tiền, có vàng hoặc tiền đô tùy theo anh yêu cầu. Anh nổi tiếng là một người giàu có nhất nhì của thành phố và một người ăn chơi lừng lẫy, đúng điệu.

Canh bạc đêm hôm xảy ra cái chết cho anh như một quả bom khủng bố nổ ra trong giới ăn chơi. Anh ta tố một con bài với tất cả gia tài bằng khoán nhà cửa, xe và tài sản trong ngân hàng. Anh ta thua.

3. LẦN CUỐI

Anh lái xe đến nghĩa trang Triều Châu để bán tim. Tiếng nói tự thinh không:
– Ta báo cho ngươi biết, đây là lần cuối cùng. Nếu ngươi bán tim ngươi, ngươi sẽ chết. Trái tim ngươi chỉ còn một mẩu nhỏ thôi để sống.

Người đàn ông bắt đầu sợ, nhưng ông ta không tin. Đã mấy chục năm rồi ông bán mà có hề hấn gì. Có lẽ trời phật dọa vậy thôi vì thấy mình hư hỏng quá.
– Lạy ông, con chỉ bán lần này nữa thôi, tự hậu con xin chừa.
– Không được. nếu không tin ta nhà ngươi sẽ chết.

“Lần này mình sẽ đòi thật nhiều vì là lần chót. Ông ta nghĩ. Rồi không bào giờ bán tim nữa. Có lẽ chưa đến nổi gì. Nếu chỉ còn một miếng nhỏ thì làm sao mình sống khỏe mạnh được. Trời Phật chỉ dọa thôi”.
– Ta không dọa nhà ngươi đâu. Đó là sự thật.

“Nhưng nếu không có tiền thì làm sao chuộc lại được nhà cửa, xe cộ, tài sản. Mình quen sống sung sướng không phải làm lụng. Chảng lẽ bây giờ trở về đạp xích lô? Như vậy cũng chẳng khác gì chết. Thôi thì liều”

– Nếu nhà ngươi đã quyết tâm bán trái tim đến mẩu cuối cùng và chịu chết thì hãy nghe đây. Ta là một linh hồn vất vưởng trong không gian đã mấy ngàn năm nay, đi tìm một trái tim tốt lành để trở lại làm người mà chưa tìm được cho đến khi gặp nhà ngươi. Ngươi có trái tim của một người cha hết lòng yêu thương con. Trái tim đó đã gọi ta đến. Ta muốn lấy trái tim nhà ngươi nhưng không nỡ, vì mấy ngàn năm trước ta cũng ở vào hoàn cảnh của ngươi lúc bấy giờ. Ta cũng đã hành xử giống như ngươi, ta cũng đã bán trái tim của ta dần dần để sống và cuối cùng đã bán nó trọn vẹn. Linh hồn mua tim ta cũng bị mất tim, nhờ tim ta để trở lại làm người. Linh hồn đó nói rằng ta cũng phải đi tìm quả tim của một người cha tốt, ta sẽ được đi đầu thai. Ta đã nói hết lời, nếu ngươi còn chưa tin thì ta không ân hận gì nữa, ta không lừa dối ngươi”

“Nhưng nếu con không bán lần này, con không có tiền thì cuộc đời con sống cũng như chết”
– Vậy ngươi bằng lòng bán trọn vẹn trái tim cho ta?
– Dạ dạ… con sợ…con chịu. Trời Phật cho kha khá.

Tức thì người đàn ông thấy vàng khối đầy lên trong xe. Nhưng ông ta chưa kịp mừng bỗng mắt tối sầm, choáng váng. Ông gục đầu xuống tay lái.

Một tràng cười lanh lãnh vang lên trên ngọn cây. Rồi tiếp theo là tiếng khóc sụt sùi. Người qua đường bước nhanh, cho là bị ma nhát.

Kinh Dương Vương

Kiệt Tấn

Kiet Tan

Năm Nay Đào Lại Nở

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thấm
Mực đọng trong nghiên sầu…
                                                   Vũ Đình Liên

– Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm. Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ ?
Tiếng hỏi làm tôi giật mình ngó người đàn bà chít khăn mỏ quạ. Tôi vừa ăn xong cơm chiều, đang đứng trước sân nhà xỉa răng ở trần cho mát. Tôi vội đáp :
– Thưa cụ vừa mới Tết xong ba bữa. Còn lâu lắm mới Tết nữa.
Người đàn bà có vẻ bối rối :
– Thế hở ông ? Thế mà cháu quên mất, làm phiền ông quá. Ông cho nhà cháu xin lỗi.
– Thưa cụ, có gì đâu mà xin lỗi.
Một cơn trốt thổi đến xoáy những cánh bông giấy chạy tán loạn trong sân. Bông giấy đủ màu : đỏ , cam, tím, trắng ; Tết nào cũng rụng đầy, đúng hẹn với trời đất. Người đàn bà ngập ngừng :
– Phiền ông cho nhà cháu hỏi thêm : Ông có biết nhà ông Đa ở lối nào xin ông chỉ hộ cho nhà cháu.
Nữa. Lại câu hỏi đó nữa ! Tôi vừa nghĩ thầm vừa nhìn vào đôi mắt hom hem của bà. Chiều nay bà không đeo kiếng mát, loại kiếng gọng nhỏ, có tròng đen tròn vo như loại kiếng đen lính cảnh sát đeo trong phim Hitchcock. Bà lại bối rối, cố nhoẻn miệng cười vớt vát, để lộ mấy chiếc răng nhuộm đen còn đương cự được với tuổi trời.
– Dạ thưa cụ, cháu không biết nhà ông Đa ở đâu.
– Thế hở ông ? Thật khổ quá ! Cháu đã hỏi thăm nhiều người mà không ai biết nhà ông Đa ở đâu cả.
Bà lí nhí xin lỗi rồi quay lưng đi, chiếc lưng mà sức hút của trái đất sáu bảy chục năm qua đã bẻ còng. Bà lom khom lê đôi dép Nhựt Bổn, đôi dép đã cũ, cao su bè ra hai bên. Tôi chắc chắn bà sẽ lại đi lượm lon, lon sữa bò, lon thịt hộp, lon đậu hộp… Mục này nằm trong chương trình hoạt động hằng ngày của bà. Không ai biết tên bà. Má tôi quen gọi bà là « Bà Lượm Lon ». Nhiều lần má tôi cho bà cái lon không đã rửa sạch, và kết chuyện với bà. Không biết hai bà già lẩm cẩm nói gì với nhau mà cười tíu tít như xuân nữ. Có bữa thấy bà lom khom sục sạo ngoài hàng rào, má tôi sực lo ngai ngái cho tương lai của chính mình.
– Tao sợ nữa già tao cũng lẫn lộn rồi đi lượm lon như bả quá ! Rồi mầy với thằng con mầy đẩy xe bỏ tao trên núi.
Nói xong, bà cúi xuống hun thằng con trai của tôi bà đang bồng trên tay. Cục cưng của bà đó. Rớ tới là bà xuống đường, tuyệt thực để phản đối.
Bà Lượm Lon quẹo ở hông nhà tôi rồi đi ra phía đường lớn, đại lộ Bạch Đằng, xóm Hàng Xanh. Bà sẽ lạch bạch băng qua bên kia đường lớn, hỏi thăm nhà ông Đa, rồi thất vọng quay lộn trở về lề đường bên này, lại hỏi thăm nhà ông Đa, lại thất vọng, lại lạch bạch băng qua bên kia đường… Đâu mười bữa trước, tôi đang sơn lại cửa rào trước nhà thì bà tới gần hỏi tôi, vẫn giọng lễ phép cố hữu của người nhà quê miền Bắc :
– Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm. Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ ?
Tôi dừng cọ sơn, mỉm cười ngó bà :
– Thưa cụ còn bốn bữa nữa thì Tết. Cháu đang sơn lại nhà để ăn Tết đây.
Bà cười tếch toác, răng đen nhánh :
– Thế hở ông ? Sắp Tết rồi, vui quá nhỉ ?
Bà đưa tay sửa lại chiếc khăn mỏ quạ bị gió xuân xô lệch.
– Dạ… dạ thưa ông, xin phiền ông chỉ hộ cho cháu nhà ông Đa, cháu đi tìm mãi mà…(v..v…)
Nữa. Lại nhà ông Đa nữa ! Ông Đa nào ? Tôi không cách gì biết được. Ông Đa là ai ? Tôi mù mịt. Ông là gì của bà ? Một thân nhân ? Một ông chủ cũ ? Một người chồng cũ ? Một nhân tình cũ ? Ở đâu ? Hà Nội, Hải Phòng, Bùi Chu, Nam Định hay Phủ Lý ? Kỷ niệm gì mà trên bước đường di cư khi đất nước chia hai đeo đuổi, đeo riết khiến bà còn nhớ hoài, nhớ mãi, cho tới bây giờ ? Hai người đã yêu nhau khắn khít, sống vô số kỷ niệm đẹp, rồi đùng một cái ! Xa nhau ? Tôi cứ phỏng đoán lan man. Rốt cuộc vẫn là người mù đi trong bóng tối giữa đêm ba mươi.
Nhà ông Đa ở đâu, tôi không biết đã đành. Nhưng ngay chính nhà của bà ở chỗ nào tôi cũng không biết. Chỉ biết đại khái bà ở đầu xóm, vì bận nào bà cũng từ đầu xóm đi lại, qua ngang cửa nhà tôi, quẹo trái rồi băng qua đại lộ Bạch Đằng. Rồi băng trở lại (vân vân). Tung tích : bà là người di cư. Gốc gác : nhà quê miền Bắc – dựa theo giọng nói. Tuổi tác : trên sáu mươi – dựa theo chiếc lưng còng. Dĩ vãng : ông Đa. Hoạt động : lượm lon. Hết !
Bốn mùa bà chít khăn mỏ quạ màu nâu đất đã bạc thếch. Quần dài đen, áo cánh đen tay ngắn, răng nhuộm đen, đi dép Nhựt Bổn bè bè, đeo kính đen tròng kính tròn vo. Một đời sống bình yên thuở nào bên sông Hồng, giờ chỉ còn lại có bao nhiêu đó. Thời buổi này giặc giã, hoả tiễn Nga thụt vô Sàigòn, phản lực Mỹ xẹt ngang Gia Định, xe tăng thiết giáp rần rần rộ rộ, kéo lê những khẩu đại bác dài ngoằng băng qua xóm Hàng Xanh của tôi và Bà Lượm Lon rồi trực chỉ xa lộ Biên Hoà. Xe tăng tương đối chạy chậm, so với xe vận lương phóng ào ào, nườm nượp, súng bắn lốp bốp mở đường, lôi theo những thùng sắt khổng lồ, no ứ, xẹt tới xẹt lui không ngớt trên đại lộ Bạch Đằng.
Sau khi chứng kiến vô số tai nạn – một lần trái tim người bị cán văng ra còn đập nhẩy trên mặt đường nhựa – tôi thường ê ẩm hàm răng, tóc tai dựng đứng, nổi da gà khiếp vía khi thấy Bà Lượm Lon đi ngang qua cửa nhà tôi, quẹo trái, chập sau có tiếng xe vận lương rầm rộ, súng nổ lốp bốp, rồi tiếng phanh xe khịt khịt, tiếng bánh xe cao su chợt đứng sững nhưng còn trớn cày xiết trên mặt đường nghe rát ruột. Tôi sợ rồi một ngày nào đó cái khăn mỏ quạ, đôi dép Nhựt Bổn, mấy cái lon vừa lượm được sẽ văng tung toé dưới lườn của một thùng sắt đồ sộ. Người ta sẽ thu nhặt những gì còn lại của chiếc lưng còng, của hàm răng đen, của cặp kiếng đen, của một thuở bình yên bên sông Hồng, của những tình tự một thời với ông Đa. Người ta sẽ bỏ hết những thứ đó vào một cái hòm nhỏ, đem chôn ở một nơi rất xa thành phố. Rồi mọi người sẽ dần dần quên, quên hết. Chẳng còn ai nhớ trong xóm mình đã từng có một bà người Bắc Kỳ lom khom đi lượm lon ở miền Nam – lượm lon để làm gì không biết. Sẽ không còn ai hỏi thăm nhà ông Đa. Cũng sẽ không còn ai hỏi tôi, khi mùa xuân hãy còn đó :
– Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm : Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ ?
– Thưa cụ, vừa mới Tết xong. Còn lâu lắm mới Tết nữa cụ ạ !
Không rõ vì lẽ gì mà mỗi lần hoa mai nở, mỗi lần hoa đào nở, mỗi lần Tết đến là tôi lại bị ám ảnh bởi những người đàn bà già nua mà tôi đã có dịp gặp trong đời. Có lẽ tại vì tôi nhìn thấy quê hương qua những bà già đó, một quê hương vừa yêu dấu, vừa ngậm ngùi. Thương đứt từng khúc ruột. Viết tới đây tôi lại chảy nước mắt. Trời ơi: Sao tôi cần quê hương đến như vậy !
Những bà già đó tượng trưng cho quê hương. Không ! Những bà già đó là quê hương. Những bà già có làn da nhăn thơm tho mùi đất, có nụ cười rì rào tre trúc, có bàn chân nứt nẻ phù sa, có trái tim từ bi vô lượng, trái tim đó đã bơm máu vào rún tôi từ thuở tôi trong bụng mẹ, lúc tôi còn nhỏ xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay. Trời hỡi ! Sao thương quá sức ! Ai nỡ cắt ruột cho đành ? Tôi thèm thương. Tôi thèm khóc. Tôi thèm quê hương. Thèm quá đỗi ! Tết lại đến rồi đó…
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Năm nay đào lại nở. Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở ? Tôi muốn la một tiếng thất thanh : « Ôi Quê Hương ! ». Đào lại nở, tôi lại nhớ. Tôi nhớ những người muôn năm cũ, những bà già lượm lon, những bà già bán cà-rem ở trường học, những bà già bán đậu phọng ở bến xe, những bà già bán nước mía trong chai xách trên chiếc bắc Mỹ Thuận, Cần Thơ, Vàm Cống hay Rạch Miễu đưa bà con về thăm nhà trong dịp Tết. Những bà già mà mỗi lần ngó, bạn đều được tặng không một nụ cười hiền lành – hiền lành như cặp mắt của con trâu đi cày. Cũng không có gì khác để tặng bạn ngoài nụ cười đó. Rồi Tết qua, trở lại chuyến bắc, có thể bạn sẽ không còn gặp lại bà già đó nữa. Không bao giờ ! Nụ cười tặng không đã mất. Cũng như quê hương.
Bà già cầm cái chuông nhỏ đưa lên lắc leng keng, ngó tôi mỉm cười. Mỉm cười vì bà đã được tôi ngó. Bà ngồi ở sân trường, giờ ra chơi. Tôi học lớp nhứt, được đâu mười tuổi. Cái nón lá rách để một bên, cái bình cà-rem để một bên, bình tròn dài sơn xanh, trên đậy nắp thiếc mạ kền đã trầy ố. Bà vừa từ bên trường nữ cách đó khoảng hơn trăm thước tất tả chạy qua, mồ hôi còn đổ hột trên trán. Bên trường nữ vừa hết giờ ra chơi là tới phiên trường nam ra chơi, trống giục liên hồi. Có lẽ bên trường nữ bà già cà-rem bán được hơn bên nầy. Bên nầy tụi nhóc khoái đổ xí ngầu hơn là bỏ tiền ra mua cà-rem một cách lương thiện. Được thì ăn nhiều, thua thì bơ mỏ. Nhưng hào hứng. Vì vậy mấy thằng nhỏ bán cà-rem đều thủ sẵn một cái tô và ba hột xí ngầu. Ra chơi tụi nhóc bu lại, trong đó có tôi. Bỏ bà già ngồi ở góc sân chong ngóc một mình vì bà không có… đổ xí ngầu.
Vì vậy khi có đứa nào ngó, bà liền đưa cái chuông nhỏ lên lắc lắc mời mọc. Như con chó hiền lành, chỉ chờ có người ngó là vẫy đuôi ngoắc. Tôi biết sự so sánh có vẻ kỳ cục, nhưng tôi không có cách nào diễn tả ánh mắt của bà hơn là ánh mắt mừng rỡ của con chó khi nhận ra được người quen. Và tiếng chuông leng keng là tiếng sủa mừng. Tôi nghĩ bà cũng quý chuông lắm vì lúc nào nó cũng được bà chùi bóng. Hồi nhỏ tôi cũng ham vui, như mấy thằng lỏi khác. Nhưng đôi khi nhìn ánh mắt mừng rỡ của bà, tiếng chuông leng keng và cái miệng móm cười không còn răng, tôi chợt thấy má tôi đang ngồi chồm hổm đó – tôi cầm lòng không đậu. Tôi bỏ ra năm cắc mua của bà cây cà-rem đậu xanh và hi sinh buổi đổ xí ngầu. Tay bà run run giở cái nắp bình thuỷ bằng mốp lựa cây cà-rem đưa cho tôi, tay run run. Tôi không quên nổi hình ảnh đó – cho tới chết không chừng. Run run không phải vì cảm xúc mà vì tuổi trời, có lẽ. Bà đã già lắm rồi, tóc bạc trắng như trang giấy học trò điểm sợi đen như những đường gạch hàng trên trang giấy. Nhưng bà lúc nào cũng tặng không một nụ cười móm khi đưa cho tôi cây cà-rem. Tôi không hề bắt gặp một chút nào đau khổ hay than trách trong ánh mắt và nụ cười đó. Ngay lúc bà ngồi suốt cả giờ ra chơi, không bán được một cây cà-rem nào.
Có bữa tôi ngó bà, bà ngó tôi đưa cái chuông lên lắc leng keng, cười móm, nhưng tôi đành ngoảnh đi vì tôi vừa đổ xí ngầu thua sạch. Bước đi mấy bước tôi ngoảnh lại, bà lại đưa cái chuông lên lắc. Tôi vụt bỏ chạy… Có bữa tôi thấy ngón chân cái của bà sướt móng chảy máu – bà đi cẳng không. Có lẽ vì chạy quá vội vàng trên con đường đá xanh lởm chởm từ trường nữ qua trường nam, bà vấp cục đá lớn. Tôi đã có lần bị vấp đá xanh trật móng, đau đứt ruột, nên biết. Nhưng nét mặt bà không hề lộ vẻ gì đau đớn. Chỉ chờ thằng lỏi nào ngó là bà lại đưa chuông lên, cái chuông bóng loáng, như tiếng sủa mừng, như tấm lòng của bà.
Một bữa gần bãi trường ăn Tết, tôi háo hức nhào vô đổ xí ngầu với tụi lỏi, chợt trời mưa. Tụi tôi từ sân chơi dời vô núp mưa dưới hàng ba và tiếp tục sát phạt. Tôi cháy túi như mọi bận. Tôi còn đang đứng xớ rớ ngó ra cổng trường chợt thấy bà già cà-rem xớn xác từ ngoài cổng chạy vào, rồi tấp vào hàng ba đụt mưa. Bà giở chiếc nón lá rách ra giũ nước. Mưa lớn quá, bà ướt mem. Bà ngồi chồm hổm dưới đất, dựa lưng vào vách lá của lớp học, mặt bà xanh xao, môi tái mét, có vẻ mệt mỏi. Bà lấy tay lau sơ cái chuông đã ố nước rồi ngó lên chờ khách hàng. Tôi ngó bà, bà ngó tôi rồi đưa chuông lên lắc leng keng, cười móm. Tôi muốn khóc. Tôi chạy vô lớp mượn của thằng bạn năm cắc. Tôi trở ra, đến ngồi chồm hổm bên cạnh bà, leng keng, leng keng…
– Bà cho tui cây cà-rem đậu xanh.
Bà đặt chuông xuống đất, giở nắp thiếc mạ kền. Bà mở tiếp nắp xốp, các ngón tay run run còn đọng nước mưa. Thùng… thùng… thùng thùng thùng… Tiếng trống chấm dứt giờ ra chơi chợt gióng lên liên hồi. Cây cà-rem đậu xanh vừa lấy ra khỏi bình thuỷ còn run run trên tay bà. Tôi vội vã quăng năm cắc vào nắp thiếc :
– Bà cất cà-rem đó, mơi tui lấy.
Bà cười móm :
– Ờ, mơi nhớ lấy nghe cháu !
Bà cầm nón lá đứng dậy, má tôi đó. Tay xách bình cà-rem, má tôi đứng ngó thằng con trai của bà đang xếp hàng đi vào lớp. Khi tôi đi ngang, bà nghiêng người kề tai tôi dặn nhỏ : « Mơi nhớ lấy cà-rem nghe cháu ! ». Hơi thở ấm áp của bà phà vào lỗ tai tôi. Vào lớp, thầy ra hiệu cho cả lớp ngồi xuống. Tôi ngồi xuống ở bàn đầu ngó ra còn thấy má tôi đang tất tả chạy trên con đường đá xanh lởm chởm, tay vịn nón lá sợ bay mất. Rồi bóng má tôi với cái áo vá vai mờ dần trong mưa…
Ngày hôm sau, tôi có ý chờ bà tới. Bà không tới. Hai bữa sau bãi trường. Tôi ăn hủ tiếu uống nước bạc hà, tôi ăn dưa hấu đỏ, đốt pháo chuột, và quên hết. Quên tiếng chuông leng keng, quên ngón chân sứt móng, quên cái bình cà-rem trầy ố, quên con mắt vẫy đuôi mừng.
Qua Tết, nhập học, chúng tôi trở lại trường. Nhưng bà già cà-rem với cái nón lá rách và cái chuông bóng lộn không bao giờ trở lại nữa. Không bao giờ…
Đã có bao nhiêu bà-già-quê-hương tôi đã gặp trong đời ? Năm người ? Mười người ? Hay một trăm người ? Hay nhiều hơn nữa ? Có lẽ vậy. Không sao đếm hết. Những bà già đó nhan nhản đầu làng cuối xóm, ở quê mình. Chỉ cần để ý một chút, bạn sẽ thấy. Họ sờ sờ đó, lúc nào cũng hiện diện, nhưng cũng đồng thời rất âm thầm. Họ không có nhiều lời nói, chỉ có cái nhìn độ lượng, ánh mắt từ bi, nụ cười móm. Và đôi khi họ khóc. Cũng như bạn. Khi đau khổ quá, bạn khóc.
Học hết tiểu học, tôi lên trung học. Hết lớp đệ tam, tôi rời Vĩnh Long sang học trọ ở Mỹ Tho, lớp đệ nhị Nguyễn Đình Chiểu. Nhà trọ ở gần trường, sau trường là bến xe đò. Ban đêm có xe hủ tiếu, xe bán bò bía, khô mực, ổi cóc, la-de nước ngọt… đẩy tới bày bán. Tôi thức khuya học, thỉnh thoảng đói bụng chạy ra làm một tô mì hay uống nước dừa tán dóc với mấy thằng bạn cùng trọ. Lần nào tôi cũng gặp bà-già-quê-hương đi rảo qua các bàn ăn mời mua giùm một hai gói đậu phọng. Bà bưng cái rổ nhỏ, các gói đậu làm bằng giấy nhựt trình quấn thành hình nón dài. Bà để đầu trần, đi cẳng không, quần đen, áo trắng rách lưng đã ngả màu vàng xỉn. Đôi mắt hom hem thụt sâu trong hố mắt, nụ cười nhăn nhúm, móm xọm, hiền hậu.
Lần đầu tiên bà đến mời, tôi mua hai gói. Gói đầu mở ra, bẻ đậu, đậu lép. Bẻ tiếp, lại đậu lép. Lần thứ ba, có một bên lép, bên kia hột đậu có chút xíu. Gói thứ hai, cũng đại khái như vậy. Nói chung, đậu lép rất nhiều, hầu hết. Tôi nghĩ thầm tại mình xui. Nhưng lần thứ hai tôi mua, cũng vậy nữa, lép nữa. Và những lần kế tiếp khác, lại đậu lép và đậu lép. Một bận tình cờ nói chuyện với bà chủ nhà trọ, bà cho biết tình cảnh bà-già-đậu-lép. Bà sống chung với cháu nội và con dâu ở ngoại ô Định Tường. Con trai bà đi lính đã chết. Con dâu mua bán đậu phọng, hột chắc thì luộc đem ra chợ bán ban ngày, hột lép thì rang sơ bỏ vô gói giấy nhựt trình giao cho bà già đi bán ban đêm – ban ngày bà ở nhà giữ cháu. Thấy bà già cả lụm cụm, người mua nhằm đậu lép chắc không ai nỡ nói gì. Nhưng sau đó, khi đã biết được thì không ai mua nữa. Mặc tình cho bà rảo tới rảo lui, hay bưng rổ đứng chờ rất lâu bên cạnh bàn ăn.
Tim tôi se lại, ruột quặn thắt. Trời hỡi ! Sao khốn cùng tới mức phải đi bán đậu lép ! Tối hôm đó, tôi ngồi uống nước dừa Bến Tre, có ý chờ bà. Bà lẩm đẩm, lom khom tới bàn tôi mời, tôi mua hai gói. Khi bà run run đưa tôi gói đậu phọng, tôi thấy cánh tay bà nổi gai ốc. Trời lập đông. Tết sắp đến rồi. Bà cám ơn tôi. Tôi thấy cổ mình nghẹn thắt. Và nhiều lần như vậy nữa. Lần nào tôi cũng mua hai gói đậu phọng bỏ vào túi, về nhà trọ bẻ ra lấy mấy hột đậu không lép, nhâm nhi thấy bùi ngọt mà sao chua xót ngậm ngùi. Trời gần Tết, càng lúc càng lạnh.
Nhiều bữa có những chuyến xe đò muộn ghé qua cho khách xuống hoặc đổ xăng. Những người bán hàng rong ùa tới, đưa cao những rổ mận, những chùm mía ghim, những bọc kẹo chuối, mứt chuối… ơi ới réo mời hành khách. Bà-già-đậu-phọng cũng lụm cụm chạy tới, nhưng bị lấn giạt ra xa, chen vô không được với bọn đàn bà con gái. Bà đứng phía sau, cầm gói đậu phọng nhựt trình lóng nhóng đưa lên, miệng lắp bắp, lí nhí, nghe không rõ được tiếng nào. Rồi xe rồ máy nhả mùi xăng cháy và khói xanh um mịt mù, vọt chạy… Người bán rong chạy theo để lấy tiền hoặc thối tiền. Bà già bỏ gói đậu phọng lại rổ, đứng ngó theo. Tới lúc xe khuất.
Tôi có cái áo blouson cũ màu trắng, dính mực ở lưng giặt không ra. Một đêm tôi cầm cái áo ra bến xe đò, đứng ở gốc cây me núp chờ. Tôi chờ bà-già-đậu-phọng. Một chiếc xe đò muộn tấp vô bến, đậu lại xuống hành khách. Mấy cô bán rong ùa tới, bà già đậu phọng lụm cụm, lẽo đẽo, đứng xa giơ gói đậu phọng lên lắc lắc, lí nhí. Xe rồ máy vọt chạy. Bà đứng xớ rớ bên lề. Tôi bước tới bỏ cái áo blouson dính mực vào cái rổ của bà, không nói được lời nào. Tôi ngó bà, bắt gặp ánh mắt từ bi đang nhìn tôi. Tôi quay lưng bước lẹ như chạy trốn. Đến gần đầu đường tôi ngoái người ngó lại. Bà già đậu phọng còn đứng đó, trong bóng tối nhá nhem, tay cầm cái áo trắng đưa về phía tôi ngoắc ngoắc. Bà có nói một lời nào không, tôi không biết.
Và sẽ không bao giờ tôi biết được. Hôm sau tôi lấy chuyến xe đò sớm về Vĩnh Long bãi trường, ăn Tết với gia đình. Tôi ăn thịt kho, ăn dưa hấu, uống la-de, đốt pháo đại, và quên hết. Quên bước chân lụm cụm, quên bà già đứng xớ rớ, quên những gói đậu phọng lép. Và cũng sẽ không bao giờ tôi được thưởng thức món đậu phọng lép của bà-già-quê-hương nữa – cái hương vị bùi ngọt mà sao chua xót khôn cùng ! Trời hỡi, sao thương quá thể !
Tết qua, tôi trở lại Định Tường, đổi nhà trọ, xuống Xóm Bến Đò bên kia sông là chùa Vĩnh Tràng. Tôi gặp Hoa, người yêu đầu tiên ở đó. Nhưng không còn bao giờ tôi gặp lại bà-già-đậu-lép nữa. Bà chưa chết. Tôi không dám nghĩ rằng bà đã chết. Tôi năn nỉ bà đừng chết. Bà đang bưng rổ bán đậu phọng ở một bến xe đò khác, ngoài ngã ba Trung Lương chẳng hạn. Có thể bà bị lấn ra xa, nhưng bà chưa chết. Bà đang cầm gói đậu phọng đưa lên cao, dù không ai mua. Bà đang mặc cái áo blouson trắng dính mực, coi rất kỳ cục. Nhưng bà chưa chết. Cũng như bà già cà-rem – má tôi. Bà cũng chưa chết. Bà đang ngồi chồm hổm bán cà-rem ở một trường tiểu học khác nào đó, ở Cai Lậy chẳng hạn. Chỉ chờ bạn ngó, tôi ngó, thằng nhóc nào đó ngó là bà đưa cái chuông bóng lộn lên lắc leng keng, cười móm, mời mọc, ngọt sớt.
Có thể bà vẫn còn ngồi đó, dù không ai mua cho bà cây cà-rem đậu xanh. Có thể bà vẫn còn bưng rổ đứng đó, dù không ai mua cho bà gói đậu phọng lép. Có thể bà vẫn còn lom khom đi lượm lon trong xóm Hàng Xanh, dù không ai chỉ cho bà nhà ông Đa. Nhưng mọi người vẫn còn đó. Những bà-già-quê-hương, những « Mối Tình Đầu » thiệt sự của tôi, vẫn còn đó. Cho dù bạn vô tình hay thờ ơ không ngó thấy.

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay…

Cuối Năm Bên Đường Rầy

Tôi siết chặt nàng vào vòng tay khờ khạo của mình, lòng đê mê rạo rực. Hương ! Hương ! Hương cộng thêm hương thơm dịu dàng của mái tóc nàng, dạ hương chín muồi quyến rũ của da thịt nàng làm tôi ngây ngất, mắt lờ đờ, hai tay ôm vòng eo nàng, hai tay nàng quấn quít cổ tôi, tôi để mặc tình cho nàng hướng dẫn… Đã quên hết sầu chưa… lời dìu nhạc thiết tha… Điệu luân vũ chậm quyện lấy chúng tôi không rời, mỗi nhịp mạnh, chân tôi sấn tới giữa hai chân nàng ngoan ngoãn giật lùi nửa bước, cọ sát mơ hồ, kích thích trí tưởng, gợi dục trong lòng đứa con trai mười chín tuổi… Tiếng kèn hắc tiêu đuổi riết. Tôi quên hế trời đất, mắt lim dim, những tưởng ánh đèn xanh đỏ là những vì sao sáng trên trời.
Bỗng Hương khều nhẹ móng tay trên vai tôi hỏi nhỏ :
– Sao anh không nói gì hết vậy ?
Tôi sực tỉnh, ậm ừ :
– Biết… biết nói gì bây giờ ?
Hương cười rúc rích. Nàng xoay đầu, môi cạ nhẹ môi tôi, tim tôi rướn lên đập mạnh. Nàng mớm ý :
– Thì nói về chuyện học hành của anh. Chắc anh còn đi học ?
Tôi gật đầu :
– Ờ… ờ… Mà chuyện học hành đâu có gì để nói.
– Có chớ sao không ? Chuyện thi cử của anh chẳng hạn. Em tiếc mình ít học nên không có gì để kể cho anh nghe. Anh thì chắc thiếu gì chuyện để kể.
– Chuyện gì chớ chuyện học hành có nghe thêm cũng chỉ nhức cái đầu, có gì đâu ly kỳ mà kể em ơi.
Nàng lại cười rúc rích :
– Bộ anh thi rớt muốn giấu em phải không ?
Tôi lắc đầu lia lịa :
– Đâu có… đâu có… Anh mới thi đậu tú tài hai hồi năm ngoái. Anh vừa được Bộ Giáo dục chấp thuận đơn xin du học.
Nàng hớn hở :
– Bộ anh sắp đi học bên Tây hả ?
– Không có. Anh du học bên Gia nã đại.
Nàng bỡ ngỡ :
– Sao anh không xin đi Tây ? Gia nã đại ở tới miệt nào lận ?
– Gia nã đại ở gần xứ Huê kỳ. Xứ rộng thưa người, dân mình ít ai biết tới.
Nàng tán đồng :
– Hèn gì em không biết. Anh học nghề gì ?
– Anh học kỹ sư.
Nói xong, lá gan tôi nở bằng cái tô, tưởng chừng Hương sẽ lật đật xin cưới tôi về làm chồng. Dè đâu nàng chỉ nhẹ thở dài rồi nín thinh… Thời gian thôi đã xanh màu, nhan sắc phai nhàu xui khiến tim ta úa sầu… Hương lại đưa tôi dìu dặt theo điệu nhạc, chân tôi xen kẽ giữa chân nàng, tôi chỉ mơ ước như vậy. Hương mặc áo dài the đen mỏng choàng lên áo lót đen khêu gợi, quần đen mềm mại óng ánh, cả người nàng bước đi nhẹ nhàng như én lượn.
– Anh có thường đến vũ trường không ?
– Không. Đây là lần đầu tiên trong đời anh mới biết ôm vũ nữ.
Hương ấn nhẹ tôi ra :
– Anh xạo hoài. Chân anh đi đúng nhịp như vậy mà anh nói mới biết nhảy !
– Anh biết trước có nói thiệt em cũng không tin. Từ lúc được chấp thuận cho du học, anh nhờ bạn bè cấp tốc dạy nhảy để anh sang xứ người còn nhảy cóc nhảy nhái với người ta cho nên mới khá được như vậy đó chớ. Vả lại bây giờ chánh phủ cấm khiêu vũ nên đâu còn chỗ nào mà tập dợt.
– Anh thấy không, làm cái nghề vũ nữ như em cũng khổ. Chánh phủ cấm nên bà chủ phải dời ra Bình điền, chỗ đồng trống để mở quán ăn và lén cho khiêu vũ để câu khách.
Câu nàng nói lôi tôi về quang cảnh quanh mình. Sàn nhảy là một nhà thủy tạ lót ván cất trên một hồ nước lớn có thả bèo và sen. Quanh nhà thủy tạ giăng đèn xanh đỏ mờ mờ ảo ảo. Ngôi nhà ngói lớn dùng làm quán ăn áng ngữ tầm nhìn từ phía ngoài lộ cái ngó vào. Xung quanh là đồng trống, không khí trong lành, gần Tết gió hiu hiu lạnh.
Hương hỏi :
– Anh đi với hai anh nào vậy ?
– Người mặc áo xanh là anh Ba của anh. Người có ria mép là bạn của ảnh. Cuối năm hai anh chàng ngứa chưn nên rủ nhau đi nhót, sẵn dịp lôi anh đi theo để thưởng công anh được chấp thuận du học.
– Chà ! Anh được cưng quá hén.
Dứt bản nhạc, tôi đưa nàng trở lại bàn ăn. Anh Ba hớn hở lên tiếng hỏi Hương :
– Sao em ? Thằng nhỏ này đã đạp giập nát cẳng em chưa ?
– Đâu có anh, ảnh nhảy giỏi một cây !
Tôi nghe Hương nói cũng hả dạ, dù trong bụng còn bán tín bán nghi. Tôi ngó Hương, hai đứa cười đồng lõa. Anh tôi giục :
– Mầy ăn chút đỉnh đi.
Tôi đang sung sướng đầy bụng, ăn gì nổi mà ăn. Ông bạn có ria mép xuề xòa :
– Thôi, để cho em nó nhảy thêm vai bản nữa rồi cùng ăn luôn thể.
Bản nhạc trỗi lên một khúc tango dìu dặt. Anh tôi dợm mời Hương nhưng nàng đã cấu lấy tay tôi :
– Đêm nay em chỉ nhảy với một mình anh này thôi.
Một cô ngồi chung bàn lên tiếng :
– Chà ! Mới gặp trai tơ mà đã chết mê chết mệt. Con người ta còn mới cắt chỉ đó nghe chị Hai. Đừng có bày trò dụ dỗ trai vị thành niên mà mang tội với làng xóm !
Nói xong cô nàng nắm lấy tay anh Ba kéo ra nhà thủy tạ. Tôi ngồi lại chờ cho Hương dụ dỗ và lung lạc hồn mình –em chỉ « ừ » một tiếng là anh thuộc về em liền ! Hương rủ tôi ra nhảy, tôi thối thoát :
– Anh chỉ biết đếm nhịp thôi chớ chưa biết nhảy tango.
– Chưa biết thì ra đây em chỉ cho. Dễ ợt hà.
Hương nắm tay tôi đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Tóc nàng xõa ngang vai đen nhánh, mặt nàng trang điểm nhẹ, còn giữ được nét tươi tắn, tôi đoán chừng tuổi nàng độ hai mươi hai hoặc hai mươi ba gì đó. Nhưng theo thông lệ, ở vũ trường phái nam tự xưng là anh, phái nữ đươc kêu là em -bất luận già trẻ bé lớn- cho nó… thân mật. Trên sàn nhảy anh Ba lả lướt cúi xuống vai người đẹp,uốn người nàng oằn ngửa ra sau rất thấp. Tôi e ngại dặn hờ :
– Em đừng có tango kiểu cọ quá, coi chừng anh kéo em té luôn đó nghe.
– Không sao đâu, anh đừng có lo. Nghe em đếm nhịp nè : một… hai, ba-bốn-một… hai, ba-bốn-một…
Tôi chập chững bước theo nàng. Lo nghe nàng đếm thì tôi quên bước, mà lo bước thì lại quên nghe nàng đếm. Thỉnh thoảng đầu gối hai đứa cụng nhau lụp cụp, nàng cười ngặt nghẽo, còn tôi thì hơi quê. Khi dứt bản, tôi đã thạo được các bước tango, nàng khen tôi sáng dạ. Tôi dợm trở về bàn, nàng níu tay giữ tôi lại, nói ban nhạc sắp chơi slow, tôi ở lại tiếp tục nhảy với nàng. Quả nhiên sau đó đèn màu quanh nhà thủy tạ tắt ngúm và nhạc slow mùi mẫn trỗi lên. Tôi chỉ chờ có vậy để ghì siết Hương, và Hương cũng choàng hai cánh tay mềm quấn lấy tôi, đôi nhũ hoa tròn đầy mềm mại ấm sốt của nàng áp lên ngực. Tôi mơ hồ nghe da thịt nàng thơm tho mùi sữa ngọt. Nàng hỏi nhỏ :
– Anh đã có người yêu chưa ?
– Chưa.
Tôi đáp không do dự. Và tôi đã dối nàng. Chắc nàng cũng dư biết :
– Con nhà giàu học giỏi đẹp trai như anh mà không có bồ ! Anh chỉ dóc em.
– Phải, anh nói dóc em. Anh đã có người yêu, và người yêu của anh là… em đó. Còn em, em có chịu yêu anh không ?
– Em không biết… Nhưng em… em có cảm tình với anh.
Thôi rồi ! Nàng đã si tình tôi mất rồi ! Tôi lật đật thầm nghĩ. Nàng có si tình tôi hay không thì chưa chắc, chớ còn tôi, tôi đã mê mệt và thèm muốn Hương nhỏ dãi ròng ròng… là cái chắc ! Tôi mân mê tóc nàng, má nàng kề má tôi nóng hực. Tôi nuốt nước miếng, làm gan đề nghị :
– Tối nay… tối nay anh về… anh về nhà em được không ?
Nàng đẩy nhẹ tôi ra, ngó vào mắt tôi :
– Anh muốn về nhà em thiệt à ? Anh mà…
Tôi không để nàng dứt câu, gật đầu liền tù tì. Nàng tiếp :
– Nhà em chật lắm à ! Sợ anh chê.
Tôi vội vã :
– Không ! Anh không chê đâu. Nhà chật thì nằm chật một chút có sao đâu ?
Nàng mỉm cười. Tôi lặp lại câu hỏi, sốt ruột cầm canh :
– Anh về nhà em tối nay được chớ ?
Nàng do dự vài giây rồi gật đầu :
– Nằm vạt đau lưng thì anh đừng có rên à nghe !
Tôi ôm cứng lấy Hương như người vừa trúng số độc đắc. Sướng ran ! Tôi thấy mình chim gái không đến đỗi tệ. Lòng ham chiếm đoạt của con vật đực bèn le lói, hiu hiu tự đắc. Nhạc dứt, chúng tôi trở lại bàn với mọi người. Thừa lúc Hương đi vào quán ăn, tôi kéo anh Ba ra góc vắng, rù rì cho biết tối nay tôi sẽ về nhà Hương. Anh Ba vỗ vai thằng em mình : « Khá lắm ! » Đoạn móc trong túi sau ra một bao thơ dầy. Anh Ba lấy ba ngàn bỏ vào bao thơ, phần còn lại nhét trở vô túi. Anh đưa bao thơ cho tôi, dặn để phòng khi hữu sự. Tuy ngạc nhiên, nhưng tôi cũng cầm lấy bao thơ xếp lại đút vô túi sau. Anh lại vỗ vai tôi : « Nhớ chơi cho đẹp nghe ! »
Chúng tôi ăn uống nhảy nhót đến khoảng mười hai giờ đêm thì ra về. Thời đó không có giới nghiêm. Anh tôi lái xe, ông bạn ngồi trước, Hương và tôi ngồi ở băng sau. Xe từ ngoại ô trở về thành phố Sài gòn, băng qua Phú lâm và Chợ lớn, đường về khá xa. Tôi ngồi sát Hương để được tiếp tục hưởng hơi ấm da thịt thơm tho mùi sữa, cùng hương tóc mây dịu dàng của nàng. Tôi đặt bàn tay vụng về lên đùi nàng, thớ vải mát mịn. Nàng để yên. Chúng tôi tâm sự với nhau rù rì rủ rỉ. Xe chạy tới đường Bùi thị Xuân thì đậu lại theo lời yêu cầu của Hương. Tôi mở cửa xe dìu nàng bước xuống, đóng mạnh cửa lại. Anh tôi ló đầu ra dặn lớn : « Em đừng làm mất thằng nhỏ, bà già bả cạo đầu anh đó nghe ! » Hương đáp : « Anh đừng có lo ! » xe vọt chạy mang theo tiếng cười lớn của anh tôi và ông bạn xa dần.
Đường vắng teo, đèn điện lù mù. Hương nắm tay tôi dắt đi, tôi ngoan ngoãn bước theo nàng, lòng nôn nao bồn chồn bởi cuộc vui sắp được vầy ra trước mắt. Đến chỗ đường rầy xe lửa cắt ngang đường nhựa, nàng quẹo trái rồi nắm tay dắt tôi đi dọc theo đường sắt, chân bước gập ghềnh, lồi lõm. Hương nói : « Nhà em cũng ở gần đây thôi ». Nàng ngó tôi mỉm cười khích lệ. Tôi sực nhớ đã đọc ở đâu đó chuyện nàng vũ nữ ở bên cạnh đường rầy xe lửa. Phải chăng mình có nên ngờ, rằng người năm ngoái bây giờ là đây ? Một gã thư sinh mặt trắng, yêu một nàng vũ nữ hồ ly áo trắng, trong một tòa lâuđài trắng, cạnh đường rầy xe lửa… đen thui ! Thiệt là lãng mạn hết cỡ ! Liêu trai và hiện đại ra phết ! Chợt Hương níu tay tôi dừng lại, nói tới rồi anh. Tòa lâu đài tình ái lù lù hiện ra là một ngôi nhà nhỏ vách lá lợp tôn hiền lành. Tôi không cảm thấy khó chịu chút nào hết. Tôi chỉ cần có hồ ly thơm tho mùi sữa, kỳ dư nhằm nhò gi ba cái lẻ tẻ ! Hương bước tới gần nhà, mở ví lấy chìa khóa mở cửa lách cách. Nàng đưa một ngón tay lên môi ra hiệu cho tôi giữ im lặng. Trong nhà thắp đèn dầu mờ ảo. Nàng vặn tim lớn thêm cho đèn sáng hơn, chỉ cái ghế đẩu bên cạnh chiếc bàn nhỏ vuông vức, ra hiệu cho tôi ngồi. Hương gài chốt cửa lại đến ngồi lên chiếc ghế đẩu khác cạnh tôi, lên tiếng khe khẽ :

– Anh có thấy khó chịu không ? (Tôi lắc đầu) Em sống ở đây với má em và… và con em. Má em năm nay sáu mươi tuổi, mắt đã lòa. Con em là gái, được sáu tháng. Giờ này chắc hai bà cháu đã ngủ. Đêm đêm má phải giữ cháu để cho em đi làm.
Tôi định hỏi chồng nàng đâu, hoặc ba của đứa nhỏ đâu, nhưng e mình hỏi lẩm cẩm nên thôi. Dẫu sao thì sự đã rồi nghe em ! Hương đứng dậy vén tấm màn vải buông thõng gần đó. Nàng chỉ chiếc giường lót vạt có trải chiếu bên trên :
– Em ngủ ở đây. Sau tấm màn vải bên kia là chỗ ngủ của má em và con em. (Nàng hôn lên má tôi an ủi). Sao, anh có cảm thấy rêm mình chưa ?
Tôi lắc đầu :
– Anh ngủ trên divan bằng ván đã quen từ lâu. Chỉ cần có em là đủ rồi, anh đâu đòi hỏi gì hơn.
Tôi đặt hai tay lên đồi ngực tròn trĩnh của nàng :
– Bây giờ anh mới biết vì sao da thịt em thơm mùi sữa.
Hương giữ hai bàn tay tôi lại :
– Khoan đã anh ! Chờ em đi rửa mặt và thay quần áo ra cái đã.
Nàng hôn phớt lên môi tôi rồi đi ra phía nhà sau. Tôi ngả mình lên giường, hai tay chắp sau ót ngó lên nóc mùng bâng quơ. Nghe tiếng nước xối từng chặp. Nàng đang tắm. Tôi mơ màng, trí tưởng tượng nối dài… Hồi sau Hương từ nhà tắm đi lên, mặc đồ bộ ngắn tay lấm chấm đỏ, da thịt tươi mát. Nàng ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi vòng một tay câu lấy cổ nàng ghịt xuống, tay kia mò mẫm vuốt ve thân thể nàng. Nàng để yên. Chặp sau, nàng lên tiếng :
– Anh à ! Thủng thẳng để em nói điều này anh nghe.
Tôi ậm ừ sốt ruột :
– Khuya quá rồi ! Em còn điều gì muốn nói ?
Nàng ngập ngừng :
– Anh à ! Gần… gần Tết rồi. Anh… anh có thương em thì lì xì cho em chút đỉnh đi !
Mọi động tác của tôi chợt dừng lại. Tôi gằn giọng :
– Bộ em tính moi tiền anh đó phải không ?
Tôi nghĩ thầm : « Thì ra nàng đem xác thân của mình đổi lấy tiền ». Sòng phẳng ! Nàng có yêu thích gì tôi đâu. Tôi cũng giống như mọi người đàn ông khác. Lòng tự ái của con dê non bị tổn thương, tôi buồn sừng giận tức, vội vã buông nàng đẩy ra. Hương cười giả lả :
– Thôi mà anh, em chỉ xin anh lì xì em chút đỉnh. Nếu không được thì thôi, chớ em nào muốn moi tiền moi của gì anh đâu. Em chỉ…
Tôi cắt ngang lới nàng :
– Em muốn anh lì xì cho em bao nhiêu ?
Nàng do dự :
– Bao nhiêu cũng được. Năm trăm hay một ngàn gì đó tùy anh.
Trong túi tôi còn nguyên vẹn ba ngàn anh Ba đưa hồi nãy. Tôi lặng thinh. Hương nói tiếp :
– Anh cũng thấy đó, má em thì đui mù, con em thì còn nhỏ xíu, trăm điều chỉ trông cậy ở một mình em. Ngày mai là ngày cuối năm, em tính đi chợ Tết mua cho con em một bộ đồ mới và vài hộp sữa. Nếu còn tiền, em mua thêm chút đỉnh bánh kẹo và một cặp dưa hấu về chưng cho có với người ta ba bữa Tết.
Tôi nhỏm dậy gắt gỏng, làm như mình có đủ hết mọi quyền hành đối với nàng :
– Em còn muốn mua thêm gì nữa không ?
Tôi bỏ hai chân xuống đất đứng dậy. Nàng hốt hoảng níu lấy cánh tay tôi năn nỉ :
– Thôi mà anh ! Anh đừng giận em mà. Bỏ chuyện lì xì đi anh ! Anh ở lại chơi với em đêm nay cho vui. Anh muốn gì cũng được. Em chìu anh hết…
Nhưng đối với lòng tự ái bự xộn của con dê non, đã có gì quá trớn và lỡ làng hết rồi ! Tôi không còn ở lại với Hương được nữa. Tôi rút tay mình ra khỏi tay nàng, tiến về phía cửa, mở chốt xô cánh cửa bước ra ngoài.
Hương lật đật đứng dậy chạy theo, lên tiếng lần cuối :
– Anh về thiệt sao anh ? Bộ giận em thiệt sao ?
Không đáp lại nàng một tiếng, tôi gầm đầu bước ra phía đường rầy, đi miết dọc theo lộ sắt, không quay đầu ngó lại. Như thể chạy trốn.
Những loạt gió cuối năm gây gây lạnh xoa dịu cơn bực tức. Tôi dần dần cảm thấy mình quả thiệt vô lý. Có phải tôi muốn ôm ấp thân thể Hương mà không phải tốn một đồng xu cắc bạc nào hết ? Tôi đâu phải là một tên ma cạo. Lại càng không phải là Hoàng tử đẹp trai khiến cho nàng phải say đắm và tự ý ngã lăn vào vòng tay của tôi mà nạp mạng. Mà của nàng cũng đâu phải của chùa. Nàng có mở lời nói chuyện tiền nong với tôi cũng là hợp lý quá đi thôi. Trong đời Hương đã có mấy lần nàng trao duyên lầm tướng cướp ? Chứng tích ràng ràng còn đó.
Trong túi tôi có sẵn ba ngàn, lại không phải là tiền của tôi ! Nàng chỉ xin tôi có năm trăm đồng, vậy mà tôi không cho. Tôi nghĩ thà trước đó nàng đừng mở lời nói chuyện tiền nong, để khi xong cuộc hết rồi, tôi sẽ biếu cho nàng một món tiền thì đẹp đẽ biết mấy. Vấn đề là ở nguyên tắc ! Có thể tôi sẽ biếu nàng hết trọn số tiền ba ngàn. Nhưng cũng có thể tôi không cho nàng một cắc. Có ngân hàng nào dám đứng ra bảo lãnh chuyện này ? Vậy mà tôi cứ khư khư bám lấy cái nguyên tắc kỳ cục và nghịch lý đó của mình. Để giờ đây tôi lầm lũi đếm bước một mình trên đường sắt, mọi chuyện đều hỏng bét. Tôi cố chấp và bủn xỉn. Hết giận Hương, tôi đâm ra giận mình. Giận quá đỗi giận ! Phải chi mà… Tút ! tút ! tút… Hồi còi xe lửa chợt rít lên sau lưng khiến tôi giựt mình nhảy tránh ra khỏi đường rầy. Một đầu tàu đen đúa mở đôi mắt vàng kệch đang từ từ bò tới, vượt ngang qua chỗ tôi đứng, tiến về phía nhà ga Sài gòn, từ từ khuất bóng ở một khúc quanh. Tôi thầm nghĩ mai đây, chính đầu tàu này sẽ kéo theo nhiều toa khác chở đầy hành khách xuôi về miệt Tiền giang cho bà con ăn Tết. Có lẽ Hương sẽ đón cái Tết lạnh lẽo này trong ngôi nhà nhỏ lợp tôn, với bà mẹ mù lòa và đứa con nhỏ xíu, không có áo mới, không có bánh kẹo, cũng không có dưa hấu.
Lòng se thắt, cơn hối hận tràn ngập tim mình. Tôi dừng bước và quay gót đi ngược lại con đường sắt. Không mấy chốc tôi đã về tới trước nhà Hương. Tôi tần ngần đứng trước cửa, mấy lần định đưa tay lên gõ. Và luôn mấy lần tôi dừng tay lại. Xuyên qua khe cửa, nhìn vào bên trong căn nhà nhỏ nhít như một túp lều. Om tối. Lặng thinh. Có lẽ nàng đã ngủ. Hay là vẫn còn thao thức và đang nhỏ lệ tủi thân ? Tôi móc túi sau lấy bao thơ vuốt lại cho thẳng thớm. Tôi luồn bao thơ qua khe cửa, rồi búng mạnh ngón tay cho lọt hẳn vào bên trong.
Tôi lại lầm lũi đếm bước, một mình mình trên đường sắt. Lòng bớt hối hận, nhưng vẫn không ngớt lo âu. Đêm cuối năm trời đen tối khôn cùng. Không biết mùa xuân mới có đem về cho nàng một vầng trăng sáng ? Đường rầy nghiêng xe lửa cũng nghiêng. Gặp mặt anh đây giữa chốn thị thiềng. Lời phân chưa hết nước mắt liền vội tuôn…

Lão Thần Y

Hò… ơ ớ ơ ơ…
(chớ) Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
về sông ăn cá (ơ ờ) về đồng ăn (ơ ớ) cua (ờ ơ…)
Hò… ơ ớ ơ ơ…
Cái răng, Ba láng (mà) Vàm xáng, Phong điền (ờ ờ…)
Anh thương em cho bạc cho tiền
đừng cho lúa gạo (ơ ờ…)
Hò… ơ ớ ơ ơ…
(chớ) đừng cho lúa gạo xóm riềng họ (ờ ớ) hay (ơ ơ ơ…)

Chợ Cái răng nằm ở cuối con rạch mang cùng tên đổ ra Cần thơ, chành lúa quanh năm nhộn nhịp, ghe thuyền lui tới bán buôn sầm uất. Hồi nhỏ thím Ba thường theo ba mình bơi xuồng từ kinh Cờ đỏ đổ ra rạch Cái răng rồi ghé chợ. Ba thím đi bổ thuốc ở các tiệm thuốc bắc, con nhỏ thì đi theo để được dịp ngắm chợ, ăn bánh kẹp tàn ong hoặc chuối nướng cơm nếp có xẻ ra ở giữa, chan chút nước dừa béo béo. Mùi nếp cháy khét trên lửa than thơm phức, cắn vào bên trong nhưn chuối nóng hổi ngọt sớt, thím còn nhớ hương vị đó cho tới bây giờ.

Từ ngày ông nội thím mất, ba thím bỏ nghiệp võ đổi sang đạo tu Tiên và chăm ngành y dược giúp đời. Năm nào ông cũng đi ngao du ba bốn tháng để lên núi hái thuốc, luyện khí và chẩn mạch cho người nghèo. Có khi vắng nhà cả năm. Người nói ông lên Thất sơn, núi Cấm, kẻ nói ông tu luyện bùa phép ở núi Tà lơn, nhưng ông Thuần tánh người kín đáo nên chẳng ai biết đích xác hành tung của ông. Chỉ biết khi ông trở về làng Cờ đỏ thì lối xóm mừng lắm, vì ông trị bệnh miễn phí cho mọi người. Mà ông cho thuốc thiệt là mát tay, trị đâu hết đó, ngay cả những cơn bệnh ngặt nghèo. Ông lại biết bấm độn xủ quẻ nên người ta đồn ông trị bệnh có pha bùa phép. Ông nổi tiếng là « Lão Thần y », không biết vì trị bệnh hay như thần, hay vì chữ « y » ghép vào tên ông là « Thuần » người nhà quê đọc trại ra thành « Thần y ».

Trong nhà Lão Thần y bày rất nhiều bàn thờ, trong đó có bàn thờ Ông với hình vè Quan Công mặt đỏ ngồi giữa, Châu Xương, Quan Bình cầm thanh long đao và xà mâu đứng hầu hai bên, cặp mắt Quan Công xuất thần nên đứng chỗ nào cũng thấy như bị Ông nhìn, đi qua lại như có Ông ngó theo. Vì vậy, hồi nhỏ thím Ba rất sợ, mỗi lần đi ngang qua trang thờ cứ cúi gầm đầu, hễ lấm lét nhìn lên lại thấy Ông trợn mắt ngó mình như thể sắp hét lớn. Lại thêm vừa nghe kể trong truyện Tam quốc, Quan Công chỉ cần vớt trái cái bóng của đối thủ là tướng địch cũng đủ rụng đầu nên thím càng sợ hơn nữa, đi ngang cúi đầu cứ nghe rợn rợn ở cần cổ. Thành thử lúc nhỏ thím hay đi vòng qua phía bên kia để tránh. Nhưng đi vòng lại đụng nhằm cái trang thờ Bà Cửu thiên Huyền nữ. Tuy vậy cũng đỡ hơn vì tranh họa của Bà thụt vào trong, bên trên có màn đỏ phủ xuống, bên ngoài có treo đôi hài, lọng và quạt phủ giấy vàng óng ánh, khi gió lùa tới phe phẩy lại tưởng chừng như sống thiệt. Mỗi lần bắc ghế thắp nhang, tim cô gái cứ đập thình thịch không ngớt.

Nếu ở Thới lai người ta gọi thím là thím Ba, thì khi về Cờ đỏ lối xóm lại quen gọi là thím Năm, vì thím đứng hàng thứ tư trong gia đình, tên thím là Nguyễn thị Diệu. Bắt đầu là cậu Hai, trai đầu lòng nuôi không được, ông bà Thuần rất lấy làm thất vọng, buồn bã cả năm. Kế đến là dì Ba, rồi cậu Tư, rồi tới thím, kế đó là một trai và một gái đều chết lúc còn bồng. Cuối cùng là con trai út, cậu Tám. Dì Ba và cậu Tư đều đã lập gia đình và ra riêng ở Bình thủy, nơi đó đất tốt, cao ráo, làm vườn làm rẫy được, có huê lợi nhiều hơn là làm ruộng ở Cờ đỏ. Chỉ còn cậu Tám, nhỏ hơn thím năm tuổi, ở lại Cờ đỏ lo phụng dưỡng mẹ già. Vốn là người nhân hậu nên thím Ba rất thương và thông cảm tình cảnh nghèo túng của thằng em trai duy nhứt của mình. Thím thấy anh chị mình tuy có phần nào khá giả hơn mà không có lòng bằng cậu Tám đứa em út. Từ thuở nhỏ hai chị em đã khắng khít với nhau hơn chị Ba và anh Tư. Hai người này lúc lên mười lăm mười sáu đã phải đi làm công bên Bình thủy để tìm kế sanh nhai. Ba thím thường hay ngao du đây đó. Chỉ còn lại trong căn nhà lá quạnh quẽ bên bờ kinh Cờ đỏ nước đục quanh năm hai chị em, hủ hỉ với bà má hiền từ ít nói, giỏi chịu đựng, không hề than van trách móc bao giờ. Má con thường ra đồng hái rau nhút, bắt ốc bươu ốc lát, mò cua, nôm cá hoặc cắm câu, đắp đỗi qua ngày. thỉnh thoảng hai chị em sực nhớ ba bèn ôm nhau mà khóc. Đoạn đời thơ ấu tăm tối bên ngọn đèn mù u le lói trôi qua, trong tiếng chó sủa văng vẳng ở đầu kinh, tiếng võng kẽo kẹt xa xa bên hàng xóm, và tiếng xào xạc của bụi sả sau hè. Qua mùa gặt, chị em dắt nhau ra đồng mót lúa cho hũ gạo trong nhà đỡ vơi, và bà má đỡ lo âu.

Lúc thím được mười bốn tuổi, má thím chợt bịnh nặng. Ba thím đang trên đường hành đạo, trong nhà chỉ còn có đứa em chín tuổi ngơ ngáo. Anh chị của thím đều đi làm công ở nơi xa. Bệnh trở nên nguy kịch, qua ngày thứ ba má thím bị á khẩu, không còn nói năng được nữa. Cô gái hoảng sợ vội vàng nhổ xuồng bơi ra tận chợ Cái răng hốt thuốc. Cô còn nhớ tiệm thuốc bắc ba cô thường ghé qua. Hốt được thang thuốc, cô bơi rút dòng nước ngược để về cho kịp, mồ hôi ướt dầm. Bắt đầu vào kinh Cờ đỏ, cô thấy nhẹ nhõm đỡ mệt phần nào. Bỗng cạnh be xuồng một con cá lóc vụt trồi lên rồi phơi ngửa bụng lờ đờ. Cô gái bật khóc nức nở : điềm chim sa cá lụy. Cô mếu máo :

– Má ơi ! Con hốt thuốc về tới rồi, má ráng chờ con. Mô Phật, xin Trời Phật hộ độ cho má con. Nam mô a di đà Phật…

Cô vừa khóc vừa xoáy giầm bơi miết, thỉnh thoảng hỉ mũi, khoát nước kinh rửa mặt.

Trời chạng vạng, vừa ghé xuồng vào bờ, đã thấy thằng em dại của mình ngồi ở đâu cầu đứng dậy la lớn:
– Chị ơi ! Má chết rồi ! Hu hu… má chết rồi chị Năm ơi ! Em sợ quá ra đây ngồi chờ chị từ hồi chiều. Em sợ quá chị ơi !

Cô gái thất thanh la lớn :
– Trời ơi ! Má ! Má !

Cô ôm thằng em mình vào lòng, giở hổng nó lên chạy riết vô căn nhà om tối :
– Má ơi má ! Sao má không chờ con dìa ? Má ơi là má !

Hai chị em ôm chầm lấy thi thể má mình khóc rống. Tay chưn bà đã lạnh ngắt. Nhà không đèn đóm. Muỗi đói bay vo ve, bụi sả sau hè đong đưa xào xạc. Chặp sau, chừng như ý thức bổn phận mình, cô gái lò dò xuống bếp kiếm lửa thắp lên ngọn đèn mù u leo lét. Đôi mắt bà má vẫn mở trao tráo. Cô đưa tay vuốt mắt. Mắt vẫn mở trao tráo. Đứa em quíu người lại nắm vạt áo chị mình. Cô lầm thầm :
– Vái hương hồn má có linh thiêng xin má hãy nhắm mắt về trời… Má đừng có mở mắt như vậy em con sợ… tội nghiệp.

Cô lạy ba lạy, quẹt nước mắt rồi đưa tay vuốt mắt má mình. Trán và mũi người chết lạnh ngắt. Mắt vẫn trợn trừng. Đứa em nhỏ ôm cứng lấy chị mình:
– Chị ơi ! Em sợ !
– Em đừng sợ, có chị đây nè.

Tuy nói vậy, cô gái cũng bắt đầu run và khóc lớn hơn. Cô ngó lên trang thờ bắt gặp đôi mắt Quan Công trợn trừng ngó mình lom lom nên càng thêm khiếp đảm. Một cơn trốt từ bờ kinh thổi vào xô giạt ngọn đèn chập chờn chực tắt. Đứa em vụt chỉ tay lên trang Bà hét lớn :
– Kìa !

Trong bóng tối nhá nhem, tàng lọng thếp vàng rung rinh, đôi hài nhỏ đong đưa tòn teng, hai chiếc lục lạc đồng đen kết trên màn đỏ khua nhẹ leng keng mà tưởng chừng như chuông vọng vang rền. Hai chị em chết đứng, càng ôm cứng lấy nhau, mắt không rời trang thờ. Bỗng đầu kinh có tiếng chó tru từng chặp, xoáy buốt ruột gan, sau đó tiếng tru trở thành tiếng sủa quấu quấu, ban đầu một con, rồi hai con, rồi ba bốn con. Bao nhiêu tiếng động trong xóm đều như biến mất, chỉ còn lại có tiếng chó sủa. Tiếp theo có tiếng chưn ai đi trên con đường đất đắp dọc theo con kinh, mỗi lúc một tới gần… gần hơn… gần hơn nữa… Tiếng chưn bước vào sân, tiếng chó sủa thưa thớt rồi im bặt. Chỉ còn lại tiếng bước nặng nề mà khoan thai, băng qua sân đất rồi dừng lại ở cửa căn nhà có người đàn bà nằm chết.

Hai đứa nhỏ nín khóc, quíu lấy nhau run bây bẩy, răng đánh bò cạp, ngó ra. Bóng người đàn ông đồ sộ. Tim hai đứa nhỏ khua trống chầu, mắt tét mở, máu trên mặt mũi tay chưn đã rút đi đâu hết. Người đàn ông bước qua ngạch cửa, dừng lại ở cuối chưn người chết, cất tiếng trầm trầm:
– Má chết rồi phải không ?
Lão Thần y !

Phải, lão đã về, đứng đó, bóng đen cao lớn dong dỏng. Hai đứa nhỏ nhận ra tiếng ba mình, òa lên khóc:
– Ba ! Ba !… Má chết rồi ba ơi !

Rồi cả hai chạy tới ôm cứng lấy bóng đen. Lão Thần y đặt cái túi lớn đang xách trên tay xuống đất, xoa đầu hai đứa con mình:
– Tội nghiệp dữ hôn, hai đứa con tui !
– Ba, ba ! Tụi con sợ quá ba ơi !

Hai đứa giành nhau lên tiếng. Lão siết đầu thằng con út vào bụng mình:
– Thôi ! mấy con đừng sợ, ba đã về tới đây rồi. Đừng sợ nữa.

Lão Thần y gỡ hai đứa nhỏ ra, tìm thêm ngọn đèn nữa thắp lên cho sáng. Lão đặt tay lên trán vợ mình. Lạnh ngắt. Tay kia lão nắm bàn tay người đàn bà ướm thử. Lạnh ngắt. Lão dời tay xuống, giữ lơ lửng trên mũi, xoa xoa tới lui. Không còn hơi thở. Không còn dấu hiệu hơi thở. Lão đặt tay lên ngực người đàn bà, ấn nhè nhẹ. Còn hơi ấm, hình như còn một chút hơi ấm, rất mong manh, chỉ có mình Lão Thần y mới nhận ra. Lão khe khẽ gật đầu, chòm râu bạc dài run nhẹ như tơ khói:
– Hai con đừng sợ. Chưa sao đâu.

Hai đứa nhỏ ngó ba mình trân trân, không hiểu Lão Thần y muốn nói gì. Người đàn bà vẫn nằm đó cứng đơ, mắt mở trao tráo. Lão đứng dậy bước ra sau nhà, nơi đó lão có trồng một số dược thảo để sắc thuốc. Lão hái một cọng « chiêm tinh ngũ hổ », bước trở vào nhà, đứng ở đầu người chết, soi cọng dược thảo cạnh ánh đèn, ngắm nghía, bấm đốt ngón tay. Mày lão nhíu lại, chăm chú định thần. Bỗng lão vuốt tay lên chòm râu bạc, gật gù rồi thở phào một tiếng dài, mỉm cười:
– Má bây chưa tới số chết đâu !
– Hả ?…

Cô con gái chưng hửng lên tiếng. Thằng em ngó hết ba mình tới ngó má mình, ngơ ngác. Không phải ngạc nhiên. Điều đó vượt ra ngoài tầmhiểu biết. Nó vượt qua điều thường thấy, vượt qua đời sống mỗi ngày. Lão Thần y lặp lại, chậm rãi:
– Ba nói má mấy con chưa tới số chết đâu !
– Hả ?… Má chưa chết thiệt hả ?

Lão Thần y không trả lời cô gái. Lão khom người mở cái bọc lớn lấy ra ba cái chén, một chén lớn và hai cái chung nhỏ. Lão thắp thêm một ngọn đèn cầy cắm giữa hai ngọn đèn đặt ở phía đầu người chết. Lão lựa nhổ một sợi tóc đen trên mái tóc hoa râm của người đàn bà, cắm dưới lòng bàn tay mình rồi buông ra. Sợi tóc dính lơ lửng. Đuôi tóc còn sinh khí. Lão gật gù. Lão quấn sợi tóc vào cọng chiêm tinh ngũ hổ, úp dưới cái chén lớn đặt giữa hai bàn chân người chết. Đoạn lão úp hai chung nhỏ lên đầu hai ngón chưn cái của thi hài. Lão lên tiếng :
– Hai con ngó chừng hai cái chén chung nầy.

Hai đứa nhỏ nhìn chòng chọc vào hai cái chung, chờ đợi. Không có gì xảy ra hết. Lão đặt lên bụng vợ mình một lá bùa viết bằng son đỏ trên giấy quyến nền vàng, nét chữ buông sổ xuất thần. Lão thay áo thụng trắng vào người, cái áo mà hai đứa nhỏ chưa hề thấy ba mình bận lần nào. Lão đi ra phía sau vườn dược thảo, trải ra một tấm vải dày màu huyết dụ cắt theo hình bát quái, ở giữa có một vòng tròn vẽ nửa đen nửa trắng quấn vào nhau. Lão xõa tóc, ngồi xếp bằng trên tấm vải. Lão Thần y bắt đầu nhập định.

Xung quanh lặng ngắt như tờ. Mấy con đom đóm chớp tắt lập lòe trên bụi sả. Thỉnh thoảng có tiếng con gì trườn bò sột soạt trong lùm cây và bụi cỏ gần đó -tiếng rắn khua động hay chuột lủi chạy ? Hai đứa nhỏ không rời mắt khỏi hai chén chung. Bỗng một tiếng oang oác nổi lên trên bờ kinh, hai đứa giật mình ngó ra, không thấy gì, chỉ kịp nghe tiếng đập cánh của một con vạc ăn đêm. Hai đứa lại dán mắt lên chén chung. Ba ngọn đèn ở đầu giường tre chập chờn, mấy sợi tóc bạc trên đầu người chết lay động, có cảm tưởng như bà sắp ngồi dậy. Hai chị em ngó nhau, nỗi sợ hãi cực cùng toát ra tròng mắt trắng dã.

Đến gần khoảng nửa đêm, Lão Thần y bắt ấn đặt lên phía ngực bên phải của mình, lâm râm niệm chú một tràng dài. Đoạn lão đứng dậy. Chờ cho đám mây đen vén ra để lộ mặt trăng lưỡi liềm cong mỏng, Lão Thần y há miệng hớp ánh trăng mờ sáng, mật ấn linh hiển bắt chặt trên tay xẹt chớp về phía căn nhà lá có người nằm chết, đồng thời quát lên một tiếng đinh tai nhức óc:
– Nhập !!!

Bên lối xóm trẻ con vụt ré khóc. Từ đầu xóm tới cuối xóm lũ chó vụt bật lên tru réo âm u. Hai đứa nhỏ giựt bắn người kinh hãi ngó ra sau nhà nghe ngóng:
– Nhập !!! Nhập !!!

Lão Thần y thu tay về chớn thủy, tiếp tục hớp trăng, đồng thời điểm phóng mật ấn gọi hồn về phía căn nhà lá, như vậy cả thảy ba lần.

Đoạn lão chắp hai tay lên ngực xá ba xá, cúi đầu niệm những câu thần chú ngắn gọn, bí hiểm. Trong nhà đứa nhỏ chợt thấy một chén chung động đậy rồi rớt xuống đất. Nó còn đang kinh tâm tán đởm thì bên kia chị nó vụt la lớn:
– Coi kìa em ! Coi kìa…

Nó ngó theo ngón tay chỉ. Chén chung bên ngón chân kia cũng động đậy, ngừng lại một chút rồi lay mạnh rớt xuống đất lăn lóc. Người đàn bà chợt thở khì một tiếng dài, nói ú ớ… Hai đứa nhỏ té ngửa, bò càng, đoạn lồm cồm nhỏm dậy dợm bỏ chạy. Từ phía sau nhà, Lão Thần y khoan thai bước ra:
– Hai con chớ sợ, má con sống lại rồi đó !

Dừng một chút, Lão trầm trầm nói tiếp:
– Má con sẽ còn sống lâu hơn ba nữa.

Người đàn bà trở mình thều thào:
– Khát… Khát nước quá !… Cho tui miếng nước…

Cô gái hoàn hồn chạy ra nhà sau múc chén nước mưa trong lu bưng lên, tính đỡ má dậy cho uống. Lão Thần y đưa tay cản lại:
– Khoan ! Con cho uống như vậy má con sẽ mắc nghẹn. Má con hồn vừa nhập thể nên còn yếu lắm.

Lão ngắt một cái đuôi trầu chấm nước lên đôi môi khô queo của vợ mình. Người đàn bà chắp chắp miệng. Lão nhễu thêm vài giọt lên miệng. Người đàn bà đã bắt đầu biết nuốt, trái cổ nhúc nhích. Hai đứa nhỏ mừng quýnh buột miệng la lên :
– Má sống lại rồi ! Má sống lại rồi !

Hai đứa ôm lấy má khóc sướt mướt. Lão Thần y lên tiếng :
– Má con còn mệt lắm. Hãy để cho má con ngủ tiếp cho lại sức.

Người đàn bà sống lại ngủ liên tiếp ba ngày ba đêm. Cô gái túc trực đổ nước cơm và thuốc vào miệng má mình. Lão Thần y thỉnh thoảng bấm ên cổ tay vợ mình để chẩn mạch. Mạch mỗi lúc một mạnh thêm lên và đều hơn. Lão rất ung dung, không lộ một chút gì lo lắng. Qua ngày thứ tư, bà má đã ngồi dậy được và nói lại được như thường. Cô gái tò mò hỏi má mình đã thấy được những chuyện gì trong mấy ngày vừa qua, nhứt là trong lúc bà « chết ».

Bà nói bà nằm chiêm bao thấy mình xuất hồn. Sau khi xuất ra, hồn đứng ngó xác mình nắm nuối, quyến luyến, xót thương đứa con trai đang ôm xác má mình mà khóc kể. Bỗng có hai con quỉ sứ mặt xanh nanh nhọn xông tới lôi bà đi, nói có Diêm vương đòi bà xuống hầu. Bà bịn rịn con mình, nhưng hai con quỉ sứ bức bách lôi xểnh bà đi. Bà đi qua nhiều cửa địa ngục, nhìn bên trong thấy lũ ma vương đầu trâu mặt ngựa cầm chỉa đứng canh gác bọn quỉ đói đầu lớn tợ trâu, bụng to tợ trống, cổ nhỏ tợ kim đang bốc đồ mà ăn, nhưng khi đút vào miệng đồ ăn vụt biến thành than lửa. Bà lại đi qua nhiều cây cầu cao chót vót, thăm thẳm bên dưới có tiếng rên la vọng lên, rắn rít bò lểnh nghểnh quấn lấy bọn ma bị xiềng xích, đứa ngồi trên bàn chông, đứa đang bị cắt lưỡi, đứa đang lặn ngụp trong chảo dầu sôi sùng sục.

Tới cửa thứ chín bà được đưa vào yết kiến Diêm vương. Vị này ngồi trên một ngôi trượng quá cao, ngó không thấy mặt. Ông quát quỉ sứ đem sổ Bộ đời ra coi. Vị giữ sổ Bộ đời tra cứu rất lâu, trình lại chỉ thấy tên bà trong Bộ sinh mà không thấy ghi trong Bộ tử. Diêm vương khiển trách bọn quỉ vô thường đã bắt lầm người và dạy phải mau mau đem bà trả về dương thế. Ông căn dặn bà khi ra tới cổng chót đừng có ăn « cháo lú ». Nếu không, khi trở lại trần gian bà sẽ mất hết ba hồn chín vía, và quên hết mọi chuyện trong dĩ vãng. Và quan trọng nhứt là có một điều bà đã thấy nhưng cấm tuyệt không được nói ra. Nói ra, bà sẽ ngã chết liền tức khắc. Chỉ có thể trối trăn lại trước khi chết. Bà dập đầu lạy tạ Diêm vương xin tuân lệnh, rồi theo bọn quỉ sứ dẫn đường trở về dương thế. Tới cổng chót có quán cháo lú. Tuy đói lắm nhưng bà không ăn. Có nhiều người ăn xong trở nên lú lẫn hóa thành con nít.

Câu chuyện má mình thuật lại có vẻ hoang đường, hầu hết giống như những điều trong kinh Phật đã hằng nói đến. Tuy nhiên, cô gái cũng tin chắc rằng âm cảnh thiệt sự đúng như lời má cô kể lại, không một chút nghi nan. Tuy vậy, còn cái điều « mật ước » giữa má cô và Diêm vương cứ khiến cô còn thắc mắc hoài. Nhưng điều này dính liền với mạng sống của má mình nên cô không dám hỏi thêm. Cô ao ước tới cái ngày nào má mình hấp hối, cô sẽ có mặt ở bên cạnh để nghe lời trăn trối và biết rõ được điều « mật ước » sinh tử đó từ miệng má mình, trước khi bà trút hơi thở cuối cùng.

Kiệt Tấn

Khuất Đẩu

Khuat Dau

Áo Trắng

* Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong.
Huy Cận

Chiếc áo tôi muốn nói, nhìn xa tưởng đâu em gói mây trong áo, tới gần mới biết là hai phần gió thổi một phần mây.
Một phần mây thôi, nhưng cũng đủ làm choáng váng vì áo em trắng quá nhìn không ra.
Đó là chiếc áo đồng phục của nữ sinh. Người ký cái lệnh xinh tươi đó, trước khi là nhà mô phạm cũng đã là một nhà thơ. Không chừng còn là một họa sĩ nữa. Nhờ vậy, từ những ruộng đồng xa xôi đến những phố phường rộn rã, ngập tràn những làn mây trắng đẹp.

Nhà thơ Hoàng Trúc Ly một lần nằm mộng thấy nữ sinh đã phải buột miệng:
Ô hay con gái bay nhiều quá
Những cánh tay mềm như cánh chim!
Tưởng không còn hình ảnh nào bay bổng đẹp hơn được nữa.
Không chừng những khách du lịch, cả những chính khách ưa cái đẹp (và gái đẹp) như Clinton cũng nằm mộng như thế giữa ban ngày, khi thấy các em tan trường về.

Một chiếc áo đơn sơ, không cứ gì phải lụa Hà Đông để nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, cũng không lòe loẹt kiểu cọ, chỉ thuần một màu trắng tinh khôi, cùng với quần trắng, nón trắng. Nó bay bổng lên được, đương nhiên nhờ hai phần gió thổi, nhưng nhẹ đến thế, mềm đến thế vì nó được mặc bởi những nàng con gái.
Tôi không chối cãi rằng, có một thời ngồi ở bến Thừa Phủ chỉ để nhìn những nữ sinh trong thành nội, đúng là mềm như cánh chim, ríu rít như chim, rủ nhau xuống đò cho kịp giờ vào lớp ở trường Đồng Khánh.
Thuở nọ, tôi là một anh học trò cả ngố chín năm kháng chiến ở đất Bình Định, được nhắc nhở rằng màu trắng là màu có lý lịch xấu. Địch đã từng dùng những mảnh gương soi ra hiệu cho máy bay bắn phá kho thóc, trường học. Các cô gái chỉ có một cái kẹp tóc thôi để làm dáng, cũng phải che cái lấp lánh đi, nếu không muốn bị kết tội là Việt gian! Còn nón trắng thì quét lọ nghẹ hay bùn! Nên chi tôi cứ đứng ngẩn ngơ suốt cả buổi mà trông vời, tuy rằng ở thành nội, đâu phải ai cũng là tiểu thư.
Với một làn áo trắng như mây đó, trông ai cũng đẹp, cũng thơm tho tinh khiết, là nét xinh rất chung của tuổi em tuy mới mười lăm mà đã lắm người thăm.
Thăm thì mặc họ, em vẫn cứ mộng bình thường. Em chưa mộng nhà lầu xe hơi, chưa mộng lấy chồng bác sĩ kỹ sư hay làm người yêu của sĩ quan trẻ tuổi đẹp giai.
Em chỉ mộng, mà mộng gì em cũng không biết nữa, có thể là bay lên như chim, có thể là lạc vào một hoang đảo, hay mộng thấy mình bất ngờ thành con giai để xem bọn họ nghĩ gì về con gái. Nói chung là mộng trắng trong như nhà thơ Huy Cận đã nói quá hay và quá đủ.
Chính vì mộng trắng trong nên em nào cũng hồn nhiên trong sáng. Hồn em như tủ mới, các ngăn đều trống thênh thang, chưa phải xếp đầy những lo toan chất chồng khi phải nghiêng vai gánh nặng tuổi đời. Các em bay lên là phải.

Nói về cái bay bổng, cái thướt tha, cái tinh khôi của chiếc áo nữ sinh, có lẽ một ngàn năm sau cũng vẫn có người còn nói. Tôi có nói thêm nữa cũng bằng thừa. Tôi muốn dành những dòng này để nói về một thoáng buồn.
Một thoáng là so với một ngàn năm sau, chứ với những ngày sau tháng tư đáng nguyền rủa, cũng khá là dài, nhất là với các cô bé mười lăm hay mười bảy.
Các cô được “rải phóng”, không còn phải mặc áo dài. Kẻ thắng cuộc “ní nuận” rằng, đi học chứ đâu phải đi ở tù mà phải mặc đồng phục!
“Thế thì cho chúng em xin mặc một ngày thứ hai thôi!”
“Đó là pháp lệnh! Mặc là để học và lao động chứ không phải để làm đẹp”
Không phải chỉ một vài em nài nỉ xin với thầy cô như thế, mà ít ra cũng đến cả triệu nữ sinh của bên thua cuộc, nếu cho các em khóc xả láng chắc cũng đủ nước để làm thủy điện!
Chưa bao giờ các em buồn như hôm chiếc áo trắng bị tuyên án tử. Nhiều em bỏ học nằm miết trên giường. Buổi sáng đầu tiên không đồng phục, các em thấy ngỡ ngàng xấu hổ, như thể vừa bị lột mất áo.
Cái lệnh đó cũng giống như vua Minh Mạng cấm quần không đáy!
Sau này, các em mới hiểu ra, chỉ có bốn tấc vải một năm, vừa đủ che những chỗ cần che, cấm là phải. Lúc đầu cất kỹ, lâu lâu lại đem ra ướm thử cho đỡ nhớ. Nhưng bao nhiêu áo mặc thường ngày, cứ mòn dần rồi rách te tua. Thì đành mua thuốc nhuộm, cắt hai tà may thêm được một chiếc. Rồi cũng thành giẻ rách!
Từ đó, các em không còn mộng trắng trong, mà đục ngầu vì bị đẩy lên kinh tế mới hay lênh đênh giữa trùng khơi vô định.
Đến nay, các nữ sinh ấy nếu không vùi thây trong rừng sâu hay nằm trong bụng cá, cũng đều ngấp nghé ở tuổi sáu mươi. Cũng đã là bà nội bà ngoại, nhưng kỷ niệm một thời áo trắng vừa đẹp vừa buồn ấy, không một ai quên được.

Giờ, dẫu sao cũng có cái ăn cái mặc, người ta lại ra pháp lệnh mới, đồng phục nữ sinh. Thế là chiếc áo trắng tưởng bị chôn vùi cùng chế độ cũ nay đội mồ sống dậy.
Nhưng nó không còn là mây dù màu cũng trắng. Nó chỉ có xác chứ không hồn, khi người mặc nó dù trời nóng hay lạnh cũng đều khoác thêm một chiếc áo lụng thụng có mũ trùm đầu, chân mang giày và mặt thì che khẩu trang kín mít. Ăn mặc như thế, còn tệ hơn là chim cánh cụt.
Đâu còn cảnh tung tăng, nói cười nhí nhảnh. Đâu còn tiếng guốc khua trên hè phố nghe động tận tim ai. Và đâu còn cảnh nữ sinh bay nhiều quá/ những cánh tay mềm như cánh chim.

Áo đã như thế nên mộng cũng không còn trắng trong. Chiếc tủ hồn em chật ních những ước mơ làm người mẫu chân dài, làm ca sĩ, lấy chồng đại gia, có tệ lắm cũng phải là một anh Đại Hàn nhà quê.
Thế thì áo trắng ơi, sống lại mà làm gì. Đã là mây thì xin mây cứ bay đi. Bạch vân thiên tải không du du!*

Lữ Quỳnh,
Buồn Như Ly Rượu Cạn

Tôi gặp anh lần đầu ở tuổi ngoài bảy mươi. Anh từ Sài Gòn ra, tôi từ Ninh Hòa tới, trong căn nhà lộng gió của Nguyễn Lệ Uyên, ở Tuy Hòa.

Gặp nhau lần đầu nhưng không bỡ ngỡ. Vì trước đó, chúng tôi đã từng biết nhau qua những trang viết. Mà những trang viết của mỗi người, tuy không nói về mình, nhưng cái “hồn” của người viết vẫn cứ hiện ra: tôi, dữ dội, cay chua, anh thâm trầm, nhân ái.

Trong buổi gặp đó, tuy không uống rượu (vì bệnh), nhưng anh vẫn lấy từ trong túi xắc ra một chai whisky, có lẽ mang từ Mỹ về để mừng cho buổi gặp mặt.

Chúng tôi, uống ít thôi, nhưng nói khá nhiều. Nói đủ thứ chuyện, không đâu vào đâu.

Khoảng 2 giờ tôi xin xuống ga, về Ninh Hòa (vì đã lấy vé khứ hồi). Nhưng các anh bảo về chi vội, để tối cùng đi với Quỳnh và Minh, tôi thấy cũng được, nên ở lại.

Chiều, Nguyên Minh đi thăm sui gia, rồi chúng tôi cùng đến nhà Trần Huiền Ân, ăn Tết muộn.

Ga ngày Tết đông cứng người, tôi định nếu không mua được vé, thì cứ leo đại lên tàu, chịu phạt vậy. Nhưng không ngờ, anh lại lấy được vé cho tôi, mà là ghế ngồi có số đàng hoàng chứ không phải ghế “súp” như của anh và Nguyên Minh .

Lên tàu, rất may có các cô gái nhường chỗ. Tôi và Minh nói chuyện cùng với tiếng tàu chạy rì rầm. Anh chỉ yên lặng.

Xuống Nha Trang, anh rủ tôi và Minh lên ngồi uống nước trên Book-coffee ở gần ga, đợi tiễn tôi về lại Ninh Hòa.

Có thể nói, suốt một ngày dài, anh nói rất ít. Mà lại nói rất nhỏ nhẹ. Nhẹ đến nỗi có lúc tôi giật mình, tưởng cái bóng của anh nói chứ không phải anh.

Đêm đó tôi tưởng các anh ngủ ở một khách sạn ven biển, rồi sáng dậy sớm ra bãi ngắm mặt trời mọc. Ai ngờ, đi mỏi cẳng chẳng tìm ra khách sạn nào còn phòng. Đành lên ga, quay về Sài Gòn. Mà nghe đâu chỉ đứng chứ không có chỗ ngồi. Mấy ngày sau, lại nghe anh vào viện để giải phẫu gì đó.

Viết đến đây, tôi lại nhớ đến các cụ ngày xưa, chống gậy đi tìm nhau chỉ để uống một chén rượu mùa thu. Anh từ Mỹ, ngồi trên máy bay hơn 20 giờ, rồi lại ngồi xe lửa ngày Tết chật cứng người, đến những mười mấy tiếng nữa, mang theo chai rượu chỉ để nhìn bạn uống. Cái tình của anh còn dài rộng hơn các cụ ngày xưa rất nhiều.

Không phải vì một cái vé tàu Tuy Hòa-Ninh Hòa, mà tôi quý anh. Mà vì cái lo kín đáo của anh, lo vì ở lại với anh, nên tôi có thể không lên được tàu. Một điều nữa, giá như xuống ga Nha Trang, anh và Nguyên Minh kêu taxi đi tìm khách sạn, thì thế nào cũng kiếm được một chỗ qua đêm. Đàng này, anh không nỡ bỏ tôi ở lại ga một mình để chờ chuyến tàu khuya. Cơ sự như thế nên mới ra cái nông nỗi, hai ông bạn già lang thang trong thành phố biển đã bắt đầu say ngủ!

Cái “buổi ban đầu ấy” đọng lại trong tôi rất nhiều. Đương nhiên, anh cao lớn hơn Minh, nhưng trông anh, tôi thấy sao giống Thạch Lam quá. Giống ở đôi mắt to, sâu và buồn. Và nhất là giống những trang viết. Giản dị, nhẹ nhàng nhưng buồn kín đáo.

Ở Thạch Lam, là nỗi buồn ga nhỏ, buồn của nhà mẹ Lê. Ở anh là buồn với “Những cơn mưa mùa đông” xứ Huế, buồn vì mất bạn cũng mồ côi*, vì quán hoa giấy chiều nay lãng đãng/uống ngụm nắng tàn trong chiếc ly không.

Dường như có rất nhiều người đến tưới rượu lên mộ Trịnh Công Sơn, nhưng chỉ là để nhớ một bạn nhậu chứ không phải nhớ tiếng đàn, tiếng hát của Trịnh.

Anh, nhớ bạn, vào quán một mình, kêu một ly rượu đầy và một chiếc ly không. Lặng lẽ ngồi, lặng lẽ uống. Hết ly mình, đến ly bạn. Mà ly bạn chỉ có ngụm nắng tàn.

Cái cảnh một ly mình và một ly không, tôi cho là buồn và thật đẹp. Đẹp vì cái tình bạn sóng sánh trong ly rượu. Đẹp vì chiếc ly không đựng chút nắng tàn.

Nhưng anh không phải là con người của trầm tư, hay làm ra vẻ trầm tư. Anh là con người của công việc, của gia đinh vợ con. Không ai dám phê phán anh điều gì.

Nhưng sao anh cứ buồn, không phải cái buồn vạn cổ, cũng không phải cái buồn thời đại, một cõi buồn riêng có vẻ bơ thờ lạc lõng, buồn của một điếu thuốc lá ngậm hoài thấy nhạt.

Giờ đây đã đến lúc chống gậy đi tới nơi phải tới, biết đâu, tôi hay anh, sẽ là người đựng chút nắng tàn trong chiếc ly không.
Dù, chỉ có vậy, cũng xin uống cạn.

*thơ Đinh Cường
In nghiêng: thơ Lữ Quỳnh

Những Đứa Trẻ Tháng Tư

Thủa ấy, thế hệ chúng tôi thường ca cẩm đầu thai nhầm thế kỷ!. Cái thế kỷ mà chúng tôi ngán ngẩm là thế kỷ hai mươi, với thế chiến thứ nhất, thế chiến thứ hai, rồi chiến tranh lạnh, chiến tranh qui ước và cuộc nội chiến lê thê suốt hai mươi năm dài.

Kêu trong chán nản, trong hờn dỗi nhưng không tuyệt vọng. Vì còn kêu được kia mà. Chỉ có một chút tấm tức, sao không được sinh ra trong những thế kỷ yên bình. Có nghĩa rằng, dù thế nào chăng nữa, thì được sinh ra làm người vẫn hơn là không được sinh ra.

Khác hẳn với những đứa trẻ sinh ra trong tháng tư, bảy lăm, sau chúng tôi một thế hệ. Chúng không kêu mà hỏi: sinh chúng tôi ra làm gì?

Đó là những đứa trẻ mẹ mang đầy bụng, mẹ không thở ra hơi mà vẫn phải bết bát chạy.

Chạy từ cầu Ái Tử qua cầu Tràng Tiền. Rồi từ cầu Tràng Tiền lê lết trèo qua đèo Hải Vân. Rồi từ đèo Hải Vân qua đèo Mẹ Bồng Con. Sau cùng đến giữa trái tim thủ đô Sài Gòn, vẫn phải giẫm đạp lên nhau để xuống bến Bạch Đằng, hay chen lấn nhau đến nghẹt thở để chui vào phi cảng Tân Sơn Nhất. Một cuộc chạy Marathon dài nhất trong lịch sử.

Và rồi mẹ sinh. Không phải trong nhà thương Từ Dũ với sự giúp sức của các bác sĩ và cô đỡ mát tay để mẹ tròn con vuông.

Mà sinh, có thể là lúc đang chạy trối chết, con rớt trong quần mà mẹ không hay.

Cũng có thể là lúc mẹ mệt quá cái đôi chân này đang ngồi tựa lưng vào một bức tường lỗ chỗ dấu đạn. Rồi con lặng lẽ chui ra mà mẹ không cần phải rặn, đúng hơn là không còn hơi sức đâu mà rặn.

Có thể trong thùng xe chất cứng người, suýt nữa con bị người ta đạp cho nát bét.

Có thể trên con tàu mấp mé sắp chìm, người ta đang ném những xác chết và những người sắp chết xuống biển cho nhẹ bớt. (Cũng may họ không ném những người đàn bà chửa)

Có thể trong khoang trực thăng mà viên phi công bị đạn dưới đất bắn lên, xuyên qua ghế ngồi khiến anh ta đầm đìa máu, vẫn cố sức giữ cho máy bay khỏi rơi.

Có thể mọi lúc, mọi nơi, mọi giờ, mọi phút.
Ngay cả phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, khi tông tông Dương Văn Minh vừa nói xong mấy tiếng “đầu hàng không điều kiện”.

Mẹ sinh, không có cha bên cạnh.
Có thể cha đã chết trong chiến hào, có thể đang chiến đấu mà súng bị gãy, có thể bị thương, bị bắt, cũng có thể cởi bỏ quân phục lẫn lộn giữa đám thường dân đói khát trên quốc lộ số 1

Người ta đi biển có đôi
Còn tôi đi biển mồ côi một mình.

Mẹ sinh con ra chỉ mình ên, quạnh hiu lắm con ơi!
Mẹ sinh con ra, chính mẹ, cũng không biết để làm gì!
Không biết để làm gì nhưng vẫn muốn con được sống.
Giữa chốn đông người, mẹ vẫn cứ vạch áo ra cho con bú. Tuy chỉ uống nước lã cầm hơi, mẹ cũng hãy còn một ít máu. Những giọt máu hiếm hoi màu đỏ khi chảy qua miệng con vẫn thành màu trắng thơm tho.

Và kỳ diệu làm sao, con vẫn sống được.
Nghĩa là con vẫn thở trong khi khắp nơi đậm đặc mùi xác chết thối rữa, mùi khói, mùi xăng, mùi nhà cháy. Và con vẫn khóc được trong tiếng đại bác ì ầm, tiếng A.K cọc cọc, tiếng xe tăng rít trên mặt đường.

Con sống, nhưng sau cái phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, mẹ ngơ ngác không biết đang ở đâu, rồi sẽ đi về đâu giữa rừng cờ nửa xanh nửa đỏ.

Sau cùng, mẹ cũng hiểu ra rằng lịch sử đã sang trang. Không chỉ riêng mình mẹ mà nửa nước đều thấy xa lạ với chính thành phố, xóm làng của mình. Ngay cả con phố, căn nhà, mảnh vườn cũng không còn là của mình nữa.

Mẹ bị đuổi về quê làm xã viên hợp tác xã. Mẹ lội xuống ruộng, mặc dù rất sợ đỉa, để cấy, gặt. Đôi lúc mẹ trần vai để kéo cày thay trâu. Mẹ làm ra lúa ra khoai đầy kho đụn, nhưng mẹ và những người đội nón lá chỉ làm cho nón cối hưởng, nên con vẫn đói khát, bủng beo.

Mẹ bị hốt trong đêm quẳng lên rừng thiêng nước độc, gọi là kinh tế mới. Mẹ phải sống chung với rắn rít và cả cọp beo, khi ấy hãy còn nhiều lắm. Mẹ bẻ măng rừng, hái nấm ăn cho đỡ đói. Nhiều lần ăn phải nấm độc suýt chết. Cả con và mẹ đều bị sốt rét rừng, bụng ỏng da vàng khè.

Chịu hết xiết, mẹ cõng con trốn về thành phố. Mẹ vay mượn chút ít chạy chợ trên, lộn chợ dưới. Bị mắng là con buôn, bị quản lý thị trường rượt đuổi còn hơn mã tà. Một đôi lần bị cướp sạch cả vốn. Đến nổi, nói ra thật xấu hổ, chỉ còn cái vốn trời cho. Để làm lại cuộc đời mẹ đã thử theo bè bạn đi đứng đường. Nhưng mẹ gầy yếu teo tốp quá, chẳng ai thèm rớ tới.

Cũng may, lúc ấy cha con chẳng phải chết, chỉ bị bắt đi cải tạo, vừa được thả ra. Cha con còn thảm não hơn cả mẹ. Nhưng nhờ cái gọi là tình chồng nghĩa vợ, mẹ cha cũng gắng gượng mà sống để nuôi con. Cha đạp xe thồ, bán cà rem, mẹ lượm lon nhặt giấy vụn trong bãi rác.

Rồi con cũng học đến lớp 12.
Nhưng tới đó thì thôi, cánh cửa đại học đã đóng sầm trước mặt con.

Con bị ném vào đời không nghề nghiệp, không vốn liếng.
Con sống lây lất cho đến hôm nay.

Hôm nay, những đứa trẻ tháng tư năm ấy đã bốn mươi tuổi, cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc. Còn bi đát tội nghiệp hơn cả cha mẹ, chúng không có quá khứ để tiếc thương, không có tương lai để hướng tới, chỉ có cái hiện tại không sắc màu, không mùi vị, như một con số không chẳng biết để làm gì.

Trong gia đình, nhìn thấy mẹ cha co rúm, mòn cùn, tuy không nói ra, nhưng chúng thừa biết họ là những kẻ hèn. Ngoài xã hội, chúng chỉ đứng bên lề, nếu không muốn nói là đứng dưới đáy. Trong khi những đứa cùng năm sinh, tháng sinh nhưng ở nửa nước bên kia hay dưới cái dù lý lịch màu đỏ phía bên này đang được cơ cấu vào những chức vụ ngon ăn, sắp sửa đi làm đầy tớ cho những ông chủ kém may mắn nói trên.

Thế nên, đến chết vẫn còn nguyên câu hỏi: Sinh ra trong chết chóc, lớn lên trong đói khổ và suốt đời sống trong ô nhục, vậy sinh chúng tôi ra làm gì?!

17.4.2015

Tiếng Sáo Người Em Út
Của Dương Nghiễm Mậu

Dù là một nhà văn được nhóm Sáng Tạo phát hiện, nhưng Dương Nghiễm Mậu không viết như Mai Thảo, nghĩa là không cách tân lối viết, không quá chú trọng làm sao cho mỗi chữ gõ lên nghe leng keng.

Ông có vẻ như một “phu chữ” kiên nhẫn “gánh” những con chữ như cách Hữu Loan gánh từng tảng đá, để dựng nên ngôi nhà chữ nghĩa của mình. Ngôi nhà ấy, mới trông rất bình thường nếu không muốn nói là tầm thường.

Nhưng bước vào trong, cái vừa hấp dẫn vừa làm ta ngài ngại, chính là không khí trong mỗi truyện, một không khí hơi lành lạnh, hơi u uất, hơi dằng xé. Truyện nào cũng đau đau, buồn buồn, để lại hay làm bật lên trong lòng người đọc những suy nghĩ, những băn khoăn thực khó gọi tên, nhưng rất gần và rất thực.

Như truyện có thể gọi là rất mỏng và rất nhẹ của ông mà tôi sắp nói tới đây: truyện Tiếng sáo người em út.

Truyện không hơn 10 trang in, chỉ có 3 nhân vật. Người anh cả, người em út và người cha vừa mới chết.

Người anh cả về thăm nhà không báo trước, nghe tiếng sáo của người em út không còn thô mộc mà nay đã chín, cảm thấy rất vui. Người anh vào nhà, thấy cha đang nằm, để yên cho cha ngủ. Nói chuyện với người em đang xúc lúa từ cỗ áo quan, mới biết người em gái kề đã chết. Nói về ông nội, về mẹ. Sau cùng người em út nhờ người anh cả giúp mình khiêng cỗ áo quan lên nhà trên. Người anh nhíu mày: “Mang lên làm gì?”. “Cho cha nằm”, người em nói. Người anh lặng đi đôi mắt mở lớn nhìn người em không chớp: “cha chết rồi sao?”. “Cha đi tối hôm qua”. Người anh vụt bỏ chạy lên nhà trên, tiếng bước chân, tiếng cửa va đập rồi tiếng khóc oằn lên…

Những sự việc nêu trên tưởng là rất bình thường hóa ra rất kịch tính. Từng lớp, từng lớp như những cánh cửa gỗ trong một ngôi nhà cổ mở dần ra, để sau cùng dẫn người đọc tới cái nỗi đau òa vỡ của người anh cả: sau bao nhiêu năm mới về thăm nhà thì cha đã chết! Chỉ ba chữ khóc oằn lên đã cho ta thấy được cái bất hạnh nghẹn ngào của đứa con tự kết tội mình.

Nhưng nếu chỉ để kể lại một câu chuyện buồn như thế thì chắc tác giả cũng không muốn kể làm gì. Tác giả còn muốn hơn thế nữa. Muốn qua người em út nói đến cách sống và cách nhìn đời của người cha. Một người, cả đời không làm gì quấy, không có gì phải hối hận…cha nhẹ lòng khi nhắm mắt có con ở bên. Con hãy thổi sáo cho cha nghe. Và em đã thổi sáo từ đêm qua đến giờ…

Người em út , mới đọc lướt qua, tưởng đó là một người vô tâm nếu không muốn nói là không giữ tròn chữ hiếu. Cha chết mà lại đi thổi sáo! Chẳng tẩm liệm, chẵng để cha mang theo một thứ gì ngoài những hạt thóc đựng trong ruột tượng của mẹ. Tự mình bồng cha lên đặt vào cổ áo quan, để cha gối đầu lên đó. Cũng không ma chay, chỉ có bát cơm trắng mời cha cùng ăn với hai anh em. Cũng không trống kèn ỉ eo, chỉ có mỗi tiếng sáo đơn độc của mình!

Nhưng đó là một người con trai út rất hiểu cha, yêu cha và biết nối chí cha, dù giặc giã, dù trâu không còn một con cũng cố bám lấy đất vì đất vẫn chung tình cho họ từng hạt lúa. Khi người em thổi cơm, từng hạt gạo rơi xuống gặp phải lửa thành bỏng gạo, người em nhặt lên bỏ vào miệng chứ không để cháy thành than. Và tuy người em út bảo anh về thì em sẽ đi, nhưng cuối cùng: anh nghĩ em bỏ nơi này mà đi được sao? Ai cũng bỏ đi cả thì nơi này ai coi, ruộng ai cày và những người như anh lấy đâu nơi để trở về?

Người em út qua những cử chỉ, lời nói có vẻ không còn là một người em nhỏ bé nữa. Anh ta sống bên cạnh cha từ nhỏ, chứng kiến bao nhiêu cái chết, bao nhiêu đổi thay chẳng những đã trưởng thành mà còn trở nên già dặn, sâu sắc. Ta có cảm tưởng người anh cả đang nói chuyện với cha mình chứ không phải với người em út. Hay nói cách khác, chính người em út là hình bóng còn đọng lại của người cha.

Người anh cả, thời gian và đường xa đã dạy cho anh những gì? Chị bé đã chết, bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu đổi thay, anh đâu có sống với những điều đó? người mà mỗi lần nhắc tới anh, cha tép miệng rồi mỉm cười: nó có còn sống thì cũng như đã chết.
Người anh trở về ít nhiều mang mặc cảm tội lỗi với gia đình. Nhưng đó không phải là một người phá gia chi tử, không đàng đúm ngược xuôi mà bỏ nhà đi vì một mộng tưởng nào đó, cho dù là lạc đường dại dột. Người cha với lòng thương con, đã bênh vực người anh cả khi nói, anh đã sống thay cho cha.

Trong truyện Gia tài của mẹ, người mẹ chính là hình ảnh tượng trưng của một nước Việt Nam nội chiến từng ngày. Thì ở truyện này, tôi cũng thấy một nước Việt Nam qua hình ảnh của người cha nghèo dù trải qua bao đời vẫn bám giữ lấy đất và truyền lại ý nguyện đó cho thế hệ mai sau.
Truyện được viết tại Sài Gòn, 1974. Gần 40 năm sau, đọc lại mà giật mình. Những ruộng đồng Việt Nam, giờ rất thiếu đàn ông, chỉ có đàn bà và các người già là còn cố bám lấy đất.

Người anh cả ấy, giả dụ như ra đi từ sau 75 liệu lúc này trở về có còn được nghe tiếng sáo của người em út? Một tiếng sáo rất nhẹ nhàng nhưng là tiếng sáo nhẫn nhục của người ở lại. Tiếng sáo không than van, không óan trách, nhưng sao nghe rất bùi ngùi.

Vì bỏ nơi này mà đi được sao, nên tác giả sau 75 không ngờ lại là “người em út”, người sống với bao nhiêu đổi thay, bao người đã chết, quyết trụ lại nơi này dù biết rằng ô nhục, tù đày vì nếu không thì những người như các anh lấy đâu nơi để trở về?

Trên tôi đã nói, những con chữ của tác giả rất thô mộc. Không kéo lê thê với những tính từ trùng lắp không cần thiết. Tôi có cảm giác những con chữ ấy là những hạt gạo trên sàng, nghĩa là tác giả đã lọc lựa rất kỹ, nhất là những hạt sạn. Người khác, có thể vì tiếng sáo mà kết thêm hoa lá cành để có thể là tiếng sáo của Trương Lương, hay của Trương Chi. Nhưng ở đây: tiếng sáo không còn thô mộc, non nớt, chập chững những bước đầu đời mà nay tiếng sáo đã chín. Từ thô mộc/non nớt/chập chững đến đã chín là cả một khoảng thời gian dài. Những lần tiếng sáo cất lên, đều vui tươi thanh thoát, chỉ sau cùng, khi chôn cha xong, mới bi thiết.

Tiếng sáo ấy tuy phát ra từ hơi thở của người con út, nhưng thực sự là tiếng lòng của người cha. Vì thế, khi thổi xong, người em út đã cắm chiếc sáo trên mộ cha. Cử chỉ này gợi nhớ đến người xưa trả kiếm bên mộ. Lòng hiếu thảo của người em út thật khác người, bi tráng.
Tác giả cố ý không đặt tên cho các nhân vật. Chỉ nhắc đi nhắc lại, người cha, người anh cả, người em út. Vậy nên, người nào cũng có thể là người cha, người anh cả và người em út trong mỗi gia đình Việt Nam. Có nghĩa rằng ít nhiều người đọc bồi hồi thấy thấp thoáng hình bóng của mình trong đó.

Tiếng sáo nói lên được tiếng lòng của người cha, thì cỗ áo quan lại nói lên cả một khoảng thời gian dài từ ông nội với cái án xử bắn, với đứa con gái chết chùm một lúc bốn người không nhặt được xác để chôn, nó gợi nhớ đến một cuộc chiến tranh quá dài, dài đến nỗi không còn làm ai xúc động được nữa trước cái chết. Và tấm nhiễu đỏ, được chôn theo cha, phải chăng là máu và nước mắt từ nay hãy tan vào lòng đất để cho cây lúa lại mọc lên tươi tốt?

Nhiều người thường nói tới cái hiện sinh mà Dương Nghiễm Mậu chịu ảnh hưởng của các trào lưu phương tây. Tôi nghĩ, cũng chỉ là một chiếc áo mà chính họ cho là đẹp, là mới, muốn khoác lên tư tưởng Dương Nghiễm Mậu, thế thôi. Tư tưởng của ông rất Việt Nam, rất nhân hậu. Có ảnh hưởng chăng là cách viết, cách dùng câu chữ, cách dựng truyện của ông. Mỗi chi tiết đều phải thật cần thiết, phải sắp xếp sao cho thật khoa học. Từ chiếc sáo đến cỗ áo quan, cái ruột tượng của mẹ, bát cám lợn, bát cơm…đều được đặt đúng lúc đúng chỗ. Vì vậy, truyện không lan man mà chặt chẽ như một kịch bản phim. Trọng tâm của truyện là tâm hồn và nhân cách của người cha được bao quanh những lớp vỏ như một củ hành. Cái lõi cay nhất, nồng nhất nằm ở lớp vỏ tận cùng. Chỉ một cái ruột tượng của mẹ đựng đầy lúa để gối đầu cho cha, cũng đủ cho ta thấy ông yêu vợ đến thế nào. Và cũng chỉ có người con út mới hiểu được tình yêu đó của ông.

Tôi thấy cách viết đó phảng phất như E.Hemingway viết Lão ngư ông và biển cả. Cái bộ xương cá bên cạnh chiếc thuyền tơi tả kia nếu tác giả không đưa vào truyện thì coi như đã không có một Lão ngư ông và biển cả làm xúc động cả thế giới.

Truyện cũng gợi nhớ đến Malentendu của A. Camus, ở đó người em gái Martha đã nguyền rủa người anh vắng mặt của mình với tất cả căm hận, vì thế mới đưa đến ngộ nhận đến nỗi người mẹ giết con. Ở đây, người em không kết án người anh, tuy có ít nhiều trách móc anh đã bỏ nhà đi. Vì vậy, toàn bộ câu chuyện tuy có vẻ buồn nhưng không đến nỗi trở thành bi kịch. Vẫn có chỗ cho tình anh em, tình cha con, có chỗ cho sự dung thứ. Và đó là cái khác biệt giữa một Âu châu đổ nát sau thế chiến thứ hai với một Việt Nam sau một cuộc chiến tương tàn quá dài.

Chỉ với một truyện ngắn này thôi, ta cũng đã nhìn ra được tầm vóc của một bậc thầy. Phải chăng vì vậy mà Vũ Hạnh đã dùng cái mã tấu “phản động” để “chặt” ông khi thấy tác phẩm này được tái bản?

Khuất Đẩu

Khải Triều

Khải Triều

Cây Đa Quê Hương

Cây đa và Giếng nước ở làng quê Bắc Việt, là biểu tượng của văn hóa nông nghiệp, là bản sắc của dân tộc Việt, có lẽ đã đi theo Tổ tiên từ khi rời lưu vực sông Dương Tử xuống tận các đảo Đông Hải. Các bộ lạc Việt chia thành ba hệ : Lạc Việt, Mân Việt, Âu Việt.
– Lạc Việt : từ Hồ Nam xuống Bắc Việt, Thượng Lào;
– Mân Việt : Phúc Kiến, Quảng Đông (khoảng đầu thập niên 40 thế kỷ 20, ở Phúc Kiến còn 300 nhà dòng giống Việt gọi là Đĩnh Hồ);
– Âu Việt : Tứ Xuyên, Quý Châu, Thái Lan, Miến Điện, Nam Dương, Phi Luật Tân (x. Lý Đông A với công cuộc Cách mạng Dân tộc, do Thái Hùng biên soạn, Mùa Hạ 1989 (4.868 tuổi Việt, tr 96).

Trong cuộc di cư xuống phương Nam này, có lẽ Tổ tiên của bộ tộc Lạc Việt đã mang theo cả Cây đa và Giếng nước. Vì cả hai rất cần thiết cho nhà nông, về mặt đời sống tự nhiên và đời sống tâm linh. Người theo đạo Kitô thì còn có thánh đường. Cho nên, đối với tôi, cây đa, giếng nước và ngôi nhà thờ là những biểu tượng của một đời sống toàn diện, nhân bản. Thiếu nó trong cuộc sống thì hầu như là trống trải. Tôi đã trải qua kinh nghiệm này trong đời.

Đó là sau thánh lễ Giao thừa một năm nọ, tôi trở về nhà, đợi chờ chuông nhà thờ đổ, báo hiệu giây phút giao thừa, giữa cái cũ và cái mới. Cuối cùng thì giây phút thiêng liêng theo tinh thần văn hóa Đông phương đã điểm : chuông nhà thờ của giáo xứ tôi và mấy xứ lân cận đổ dồn, vang lên trong không gian thinh lặng. Tôi cảm thấy một nỗi xao xuyến trong lòng khi đứng trước bàn thờ Chúa trong nhà và trước di ảnh của hai đấng sinh thành ra tôi. Những giọt nước mắt hoài niệm bỗng dưng chảy dài xuống hai bên má già nua của tôi. Thế rồi, những kỷ niệm về một làng quê miền Bắc, vùng châu thổ sông Hồng, thời niên thiếu của tôi vụt xuất hiện như một cuốn hồi ký, được một bàn tay vô hình nào đó, mẹ tôi chẳng hạn, lần mở giúp tôi từng trang, từng bước chân non của tôi những ngày sống bên người. Một hình ảnh quen thuộc ở quê nhà cũng xuất hiện trong tâm trí tôi. Đó là cái Giếng nước và Cây đa trong làng. Lúc này cả hai trở nên thân thiết với tôi một cách lạ lùng, như thể là hai “điểm hẹn” thiêng liêng vậy. Thế là tôi đã có một đề tài để “khai bút” ngay trong đêm giao thừa năm ấy.

Giếng nước và cây đa trong làng ở miền quê đất Bắc là những hình ảnh quá quen thuộc, nó trở nên gần gũi và thân thiết với hết thảy mọi người, như của riêng mình, trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác, mà không ai cần biết nó có từ bao giờ. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, nó được hình thành từ lúc những người đầu tiên dừng bước trên mảnh đất mà sau này gọi là “làng” hay “thôn”. Vì nước là một nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống của con người cũng như của mọi tạo vật khác.

Vì vậy, giếng nước chẳng những là nơi cung cấp nước cho người dân trong làng, mà còn là nơi gặp gỡ để trò chuyện, để trao đổi tâm tình mỗi khi người ta ra đó để kín nước mang về nhà. Nó cũng còn là nơi dừng chân của khách bộ hành đi đường xa mỏi mệt, vì ở trước sân đình gần đó là cây đa cổ thụ, có bóng che mát cho khách. Khát nước, khách có thể xuống vốc nước bằng hai bàn tay chụm lại, hoặc lấy nón lá múc nước mà uống thỏa thuê, an lành.

Hình ảnh này cho ta thấy, giếng nước là một không gian đáp ứng hai nhu cầu của con người : vừa là nơi gặp gỡ thân tình, vừa là nơi cung cấp nước cho nhu cầu thể chất và cũng là nơi dừng chân của khách bộ hành qua đường. Ngoài những lợi ích nhân bản và tự nhiên, giếng nước còn nhắc nhở người ta “uống nước nhớ nguồn”. Nguồn ở đây vừa hiểu là nơi phát sinh mạch nước, tuôn chảy về giếng, vừa hướng về những bậc tiền nhân trong làng đã khơi dòng nước này cho các thế hệ hậu sinh, nhắc nhở họ đến cội nguồn sâu thẳm và thiêng liêng.

Thế nhưng, Giếng nước này và Cây đa quê hương tôi, giờ chỉ còn trong ký ức, trong hoài niệm. Nó là nơi thân thiết trong thuở thiếu thời của tôi, là nơi những đứa trẻ cùng trang lứa ngày ngày ra đó đánh khăng, đánh đinh đánh đáo, chơi quay (con vụ), đêm trăng thì ra chơi trò “bịt mắt bắt dê” hay trò “ú tim”. Hồi hộp và năng động lắm.

Giếng thì đã bị lấp đất lên, làm nhà ở. Vì nghe nói sau năm 1954 có một người đàn ông trong làng đã gieo mình xuống giếng tự tử chết, nên giếng nước này không dùng được nữa.

Còn cây đa cổ thụ, thời bình dân học vụ đã được hạ xuống, lấy gỗ đóng bàn ghế, ban ngày học trò nhỏ ngồi học, ban tối dành cho người lớn. Cây đa này ở trước sân đình.Theo lời các cụ cao niên trong làng, trước khi ngôi đình được phá đi, các tượng Phật được rước về làng Văn Hội, phía Bắc cùng xã với làng tôi. Còn cây đa, có người kể rằng, trên cây có một con rắn rất lớn xuất hiện từ bao giờ thì không ai biết. Các cụ trong làng không có cách nào đuổi nó đi, cũng không ai dám nghĩ đến việc đánh chết nó. Người làng Đồng Cả, phía Nam làng tôi, khác xã, nghe biết chuyện này, đã lên xin các cụ, cho họ được rước con rắn về làng mình. Để rước nó, người ta đem lư hương, có các cụ bận lễ phục cổ truyền, có trống, chiêng đi trước, con rắn từ trên cây đa mới từ từ bò xuống và đi theo đoàn rước về Đồng Cả. Lại cũng có người kể rằng, người làng Đồng Cả mang một cây phướn lớn, giang rộng ra phía dưới cành cây con rắn nằm, rồi dùng một cây sào dài khều vào bụng nó, con rắn ngã xuống đúng vào cây phướn, người ta bọc nó lại, khiêng về làng.

Chuyện con rắn trên cây đa làng tôi không biết xảy ra từ bao giờ, cả ngôi đình cũng thế, phá đi từ khi nào. Điều dễ tin nhất, có lẽ hai việc này xảy ra kể từ khi làng tôi đón nhận Tin mừng của Chúa Giêsu. Nhưng đón nhận từ khi nào thì hiện chưa biết được chính xác. Tuy nhiên họ hàng tôi có một linh mục, xưa kia dân gian thường gọi là Cụ Điều. Theo Nguyễn Khắc Xuyên, tác giả cuốn Lịch sử địa phận Hà Nội, 1626-1954, Paris 1994, trang 191 nói về tình hình địa phận Hà Nội năm 1860, có đăng một bức thư viết tay bằng chữ quốc ngữ, đề ngày mồng 6 tháng 7 năm 1860, kể lại những việc xảy ra lúc đó, của Juse phó Đông vít vồ Acanthe kí, 2 Februariô 1860:

“Kì 12 – Cũng một khi ấy (ngày 23 tháng December), Đô Tú bắt được cụ Điều và cụ Trình ở Hà Thao ngoại.”.

Hiện nay, tại nhà truyền thống và trong cuốn Kỷ yếu của giáo xứ Hà Hồi, Thường Tín, Hà Nội, kỷ niệm 100 năm xây dựng nhà thờ, 1903-2003, trang 100, có cho biết là cha già Điều, quê ở Kẻ Lường (là quê tôi, tên gọi trong đạo), làm chính xứ Hà Hồi (tên cũ là Kẻ Vồi) từ 1820-1835.

Mấy sự kiện về cha già Điều trên đây, chúng tôi chỉ nhằm nói đến việc làng tôi đón nhận Tin mừng Chúa Giêsu từ rất sớm, khoảng gần 200 năm. Bởi vì, cha già Điều đã về Hà Hồi làm chính xứ từ năm 1820. Như thế cũng nói lên một vấn đề, đó là việc làng tôi ít ra cũng đã theo đạo Công giáo từ đầu thế kỷ 19, nên mới có người theo đạo và người đi tu. Người đi tu cũng phải có một thời gian dài để học tập rồi mới chịu chức linh mục được. Vì thế, câu chuyện về việc làng tôi theo đạo Chúa, việc phá đình và con rắn trên cây đa cổ thụ, có liên hệ với nhau và cùng lúc với nhau không, thì ngày nay không ai biết được. Cho nên mới có hai chuyện kể khác nhau về việc làng Đồng Cả mang được con rắn về làng của họ.Hai mẩu chuyện này, đều tập trung vào tín ngưỡng trong dân gian, cho rằng cây đa hay cây đề là nơi trú ngụ của một vị thần. Ngôi đình cũng thế, đấy không chỉ là gạch, ngói hay các cây cột vô tri giác. Song một khi đã có khói hương quyện lên mỗi khi có tế lễ, thì không còn là thuần vật chất nữa. Bên cạnh đình hay chùa, thường có cây đa, cây đề là vậy.

Hiện nay trong nhà tôi có một cây đa mang về từ quê hương tôi, do con gái tôi một lần ra Hà Nội, rồi về quê, đi thăm mấy người thân trong họ hàng. Khi đến nhà một người là con gái của bác ruột nó, nhìn thấy trên sân có một cây đa còn non, trồng trong chậu. Nó ngỏ lời xin mang về Sài-Gòn vì biết chắc chắn tôi thích. Lúc đó tôi đang làm Cây gia phả của 5 chi tộc trong họ hàng, nên hình ảnh một cây đa ở quê hương luôn nhắc nhở tôi về quá khứ, cái thời niên thiếu của tôi, có biết bao nhiêu là tình thương của mọi người.

Lúc trở về, vừa bước chân vào trong nhà, nét vui mừng lộ rõ trên mặt con gái tôi. Nó nói ngay, con có một món quà đặc biệt từ quê hương tặng ba, chắc ba thích lắm. Vừa nói nó vừa mở cái bọc ny lông, bên trong là một cây đa nhỏ. Nó nói rằng, cây đa này được trồng ở một cái chậu nung đỏ, có nhiều rễ và đất. Nhưng lên tới sân bay, an ninh bắt rũ bỏ hết đất mới cho mang lên máy bay. Sau đó, nó mua một cái chậu đất nung đỏ, có đường kính 50cm, đặt cây đa vào giữa rồi đổ đất và chất dưỡng cây. Những ngày sau đó, chúng tôi thay nhau chăm sóc tưới nước cho cây. Sáng nào, sau khi thức dậy, tôi cũng ra đứng ngắm nó thật lâu, mong nhận ra những dấu hiệu của sự sống và sự phát triển của cây đa này. Sau một tuần lễ, đổi đất, khí hậu và nước, cây đa vẫn không có dấu hiệu xấu nào, để chỉ nó không hợp đất, nước và khí hậu nóng của miền Nam. Tôi hiểu ra điều này, chính là một dấu hiệu tốt, nó ẩn dấu từ trong cốt lõi, từ trong mỗi lớp thân cây và từng cái lá, từng cái rễ có sắc đỏ ở đầu. Rồi mấy tháng sau, cây đa phát triển sự sống thấy rõ, đặc biệt là chiều cao, thân cây cao 50cm với hai nhánh lớn chĩa ra, hướng lên cao. Ở chỗ chạc hai, mọc lên những cành nhỏ và rễ. Hai nhánh lớn phát triển thêm cành nhỏ và rễ cũng buông xuống. Những cành và lá non như xé thân cây ra, như thể chúng muốn nhìn ngắm bầu trời miền Nam, nhìn ngắm chủ nhân người cùng quê hương với chúng. Đến lúc này, sau hơn một năm, mỗi khi nhìn cánh lá vàng rơi trên nền gạch ngoài sân, tôi có cảm giác thời gian không ngừng biến đổi. Tôi cũng thế, phải biến đổi đi, không có gì hết mà thực ra, khi tôi bước vào một trạng thái tĩnh lặng và hư vô, thì chính lúc đó, tôi lại có tất cả trong ân sủng Thiên Chúa.

Trắc Ẩn

Trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc năm 1956, các “địa chủ” bị đưa ra “Tòa án Nhân dân” đấu tố. Một chi họ của tôi cũng lâm vào cảnh này.Bản thân tôi không phải chứng kiến cái cảnh người nhà của mình bị đưa ra đấu tố, nhưng sau ngày 30/4/1975, người nhà tôi vào thăm kể lại những câu chuyện không chỉ có ở quê tôi, thuộc miền đồng bằng sông Hồng ,mà còn ở các làng xã trong vùng. Sau này, một số nhà văn phục vụ chế độ miền Bắc cũng đã viết về chiến dịch này. Có người bảo đó là một việc “long trời lở đất”.

Câu chuyện tôi kể dưới đây liên quan đến một cán bộ trong làng có dính dấp đến chiến dịch đấu tố địa chủ ngay trên mảnh đất quê tôi.Nếu như ông này không ký tên vào một Thư Mời những người đồng hương xa quê như chúng tôi, ở Sài Gòn cũng như ở nước ngoài, kêu gọi đóng góp tài chính vào việc sửa chữa và nới rộng ngôi nhà thờ ở làng tôi, sau gần một trăm năm (từ năm xây dựng 1914 đến lúc khánh thành 1918), nay đang trong tình trạng hư hỏng và với dân số của làng trên 2000, toàn tòng, nay trở nên chật hẹp, thì chúng tôi,những người đã xa quê từ trước khi xảy ra những trận bão tố trong lòng người dân ở quê, cũng không muốn nói đến nữa.Vết thương theo thời gian và những sóng gió của cuộc đời, bình thường thì có lẽ cũng đành quên, nhưng nay tận mắt lại nhìn thấy tên của kẻ đã gây nên những tan hoang đổ vỡ của cả một chi tộc, trên Thư Mời gửi cho từng người xa quê đã bao nhiêu năm trời, cho dù bên cạnh chữ ký của người cán bộ này, quan trọng hơn hết, vẫn là tính danh của Linh mục Tổng Quản cả một khu vực trên mười giáo xứ lớn nhỏ cũng như được sự chấp thuận của Giám mục Giáo phận, thì cũng khó mà bảo những con cháu của nạn nhân quên đi nỗi hận thâm căn trong lòng. Vì vậy, giữa những người đồng hương chúng tôi tại Sài Gòn có hai ý kiến.

Một vị có tuổi cao nhất đảm nhận việc gửi những lá Thư Mời cho người đồng hương ở nước ngoài,đã tự ý xóa tên người cán bộ ký tên trên Thư với lý do là người này chẳng những đã gây nên bao nỗi khổ cho con cháu của một chi tộc trong họ nhà mình, mà người này còn can thiệp vào đời sống đạo của cả dân làng, bằng đe dọa, cấm cản những biểu hiện lòng đạo của họ, như thấy ai cầm hoa thì giật lấy ném xuống đất, lấy bàn chân dẵm lên, day day cho nát, vì biết người cầm hoa là để dâng vào nhà thờ hoặc trên bàn thờ của mình.Mặc dù những việc này đã xảy ra lâu rồi, nhưng vẫn phải xóa tên người ấy, vì không nên để con cháu của những người đã chết thấy cái tên của người đó, rồi lại nghĩ ngợi, đau khổ.Mặt khác,đây là cái thư chung của cả dân làng, những người ký tên vào lá thư chỉ là đại diện, cho nên việc riêng tư không nên nói đến, để cho con cháu những người đã khuất cũng chung một lòng đóng góp tài chính, sửa chữa lại ngôi nhà thờ mà chính tổ tiên dòng họ nhà mình đã cùng với các dòng họ khác trong làng, khó nhọc xây dựng nên trong suốt mấy năm trời, theo như lời các cụ kể lại.Nếu không xóa tên người ấy đi thì thử hỏi, con cháu của người đã chết, nhìn thấy cái tên của người ấy,chắc gì họ chịu đóng góp ?

Một vị khác thì nói, cái thư người ta gửi cho mình,viết những gì, ai ký tên thì cứ để nguyên như vậy, không việc gì phải xóa đi. Trước kia ông ta là cán bộ, nhưng nay đã nghỉ công tác. Vả lại cũng có lòng hoán cải thì phải tha thứ cho ông ấy (Lc 17,4).

Vì cái thư đã xóa tên người cán bộ ấy gửi đi rồi nên không ai có ý kiến gì thêm. Còn thư gửi cho những người đồng hương khác tại Sài Gòn thì vẫn để tên người cán bộ, không thấy có dư luận gì về người này.

Hai ý kiến trên đây có khác nhau về ngôn từ, nhưng xét về mặt tâm linh tôn giáo, tôi nghĩ rằng ranh giới thù hận – tha thứ không còn khoảng cách nữa.Tuy nhiên, chúng tôi vẫn không thể nói điều này thay cho chính con cháu theo dòng trực hệ của những người đã nằm xuống trong oan khuất khi việc đấu tố địa chủ xảy ra.Ngày nay, những con cháu của họ đã thành đạt. Mấy lần tôi về thăm nhà đều được nghe những lời nói trong chỗ riêng tư, tín nhiệm : Con cháu của các cụ nhà ông, bây giờ đều khá giả. Ngày trước họ chẳng làm điều gì ác đức. Năm đói 45, còn đổ thóc gạo trong nhà cho người nghèo vay mượn. Sau này ai có thì trả, không có thì thôi, không đòi.Thế mà, khi Đội Cải Cách về, một người thì bị bắn chết ở đầu làng.Ông cụ của ông buộc phải tới tận nơi để tận mắt nhìn cảnh cháu mình chết. Còn một người thì đi tù, nhưng vì có sửa sai nên được tha về, ít lâu sau cũng chết. Người thứ ba trong nhà ấy chết không ở trong thời kỳ có chiến dịch vì lúc đó ông này đang ở Hà Nội. Nhưng chả biết làm sao, bỗng dưng quay về làng. Ngày ngày ra đồng chăn một đàn vịt mấy trăm con. Cán bộ năm nào thỉnh thoảng đến nhà chơi, cười nói vui vẻ, kéo nhau ra quán đầu làng chén thù chén tạc, ai mà chả thấy. Vậy mà, có một ngày, cũng người cán bộ ấy đến nhà, bảo ông giơ tay lên, bắt trói ông. Tưởng cán bộ đùa dỡn, ông không tin, còn cười. Nhưng lần này thì người cán bộ ấy không cười như những lần trước nữa.Ông bị trói giật cánh khuỷu,bị bỏ đói, bị dẫn đi các làng quanh vùng, những nơi ngày trước ông đi hành quân vì lúc đó ông là lính của Bảo Đại. Cuối cùng ông bị dẫn xuống bờ sông Chuôn ( cách làng tôi vài cây số ). Các người trong họ hàng cũng bắt phải đi theo để chứng kiến cảnh xử ông ấy. Tại đây, một cái hố đã được đào sẵn, ông bị điệu đến đứng bên miệng hố. Cán bộ đọc bàn án tử hình. Vừa dứt thì ông bị xô ngã xuống đó. Đất được lấp lên vội vã!

Buổi chiều hôm mấy người đồng hương chúng tôi nói chuyện về cái Thư Mời, kêu gọi đóng góp tài chính để sửa chữa nhà thờ ở quê, tôi dự lễ tại một nhà thờ nhỏ ở trong một cư xá, nơi có một cộng đoàn nữ tu áo trắng, Dòng thánh Phao-lô. Hôm đó cộng đoàn nữ tu này có một thánh lễ đặc biệt.

Trong bài diễn giảng Tin Mừng, linh mục chủ tế kể lại một câu chuyện về một toán cướp xông vào một nhà dòng cướp của và toan giết vị đan sĩ. Nhưng đan sĩ yêu cầu bọn cướp hai điều trước khi ông chết. Chúng đồng ý.Đan sĩ nói : Các ông chặt cho tôi một cành cây, nhỏ thôi. Bọn cướp làm liền, chẳng những một cành mà nhiều cành nữa.Đan sĩ nói tiếp : Điều thứ hai là các ông hãy hàn gắn lại những cành cây mà các ông vừa chặt. Bọn cướp phá lên cười, mắng đan sĩ là thằng điên, làm sao mà gắn lại được. Đan sĩ mới nói : Người anh hùng nhất, mạnh nhất chính là người hàn gắn được những gì đổ vỡ, hay hư hỏng. Nếu các ông làm được điều đó thì giờ đây tôi có chết cũng là đủ rồi. Nghe nói thế, bọn cướp suy nghĩ một tí rồi lặng lẽ bỏ đi, không giết đan sĩ và cũng không lấy một vật gì của Đan viện nữa.

Linh mục chủ tế kết luận: Thời đại chúng ta hôm nay cũng thế,chúng ta phải biết tha thứ, khoan dung để hàn gắn những chia rẽ và thù hận.

Ngoài trời có mưa nhẹ, gió hơi lạnh lùa vào thánh đường. Thánh lễ cũng vừa xong. Kinh cuối cùng là Truyền tin. Từng tiếng chuông tắt lửa âm vang nhè nhẹ, hòa trong hơi gió lạnh, trong lời kinh của cộng đoàn đức tin, trong đó có tâm tư tận hiến của các Nữ tu Áo trắng. Đèn trong nhà thờ đã tắt, chỉ còn ngọn đèn chầu như một đốm lửa nhỏ, dấu chỉ của một sự HIỆN DIỆN Mầu Nhiệm. Tôi cúi đầu bước ra khỏi hàng ghế quì, lặng lẽ đi trong sân nhà thờ thấm lạnh. Bên ngoài, đường xá cũng thấm ướt. Mưa như hơi sương ban chiều ở cao nguyên Ban mê thuột của những năm nào tôi sống trên đó, sau khi rời ghế nhà trường. Rồi những con đường làng quê tôi, nghèo khó nhưng an lành từ một thuở xa xưa.

Đối với tôi, một buổi chiều như thế là dấu ấn của hạnh phúc. Đã lâu lắm rồi đến bây giờ tôi mới lại được nếm cái hương vị ngọt ngào như mật ong của nó.

Cái dòng văn của tôi viết tới đây thì như gặp phải một tia sáng của sao băng, đột nhiên ngừng lại. Câu chuyện tưởng như đến đấy là hết, nên theo thói quen, tôi hạ bút ghi tên mình và năm tháng xuống dưới bài ở bên phải. Một lúc sau chợt nhớ còn một chi tiết về người cán bộ ở quê, đã ký tên vào Thư Mời kêu gọi những người đồng hương xa quê đóng góp tài chính trùng tu nhà thờ làng.Chi tiết tôi chưa nói thuộc về đời sống thiêng liêng của ông.Mặt khác, có bắt đầu thì cũng phải có chung cuộc, ở đây là việc sửa chữa và hoàn tất. Với một công trình lớn như ngôi Thánh đường cổ đã trăm năm, thì việc hoàn tất cũng có nghĩa là một ngày hội của cả dân làng, nên có ngày lễ Tạ Ơn, ngày Khánh thành.

Hai năm sau đó, chúng tôi lại nhận được một Thư Mời khác, lần này là về dự lễ khánh thành.Một phái đoàn trở về được thiết lập, trong đó có người là anh em với người cán bộ nói đến ở đây.Sau ngày lễ, chúng tôi trở lại Sài Gòn, người anh em này mới kể lại câu chuyện liên quan đến người cán bộ ấy.

Theo lời kể, ông ta được người anh em chúng tôi yêu cầu đi “xưng tội” sau mấy chục năm bỏ để đi theo Đảng. Anh có thấy cả làng người ta đi xưng tội không. Các cha trong Sài Gòn ra, có lúc nào được rảnh đâu, hay là ngồi tòa liên tục. Anh không thể khất lần khất lữa mãi. Nghỉ hưu rồi, lại đang giúp giáo xứ, thì đây là dịp tốt cuối cùng.Tổ tiên của dân làng đã xây dựng ngôi nhà thờ này, bây giờ đến phiên chúng ta, đều là con cháu các cụ, đứng ra sửa chữa những gì hư hỏng. Làm mới lại ngôi nhà thờ bằng gạch, xi măng, sắt thép thì chúng ta cũng phải làm mới lại lòng chúng ta, tâm hồn chúng ta, bằng cách tẩy rửa, sám hối. Đó là đi xưng tội…Anh yên tâm đi, các cha người nhà mình không bắt anh làm việc đền tội nhiều đâu, cần cái lòng thành thật của mình.

Người anh em tôi kể tiếp: Đến ngày hẹn đi xưng tội, anh đến nhà người cán bộ anh em để cùng đi, thì thấy ông đang nằm trên giường, chùm chăn.Anh biết đây là cách giả vờ sốt, nên đến ngay giường, tung chăn lên và lôi ông dậy. Đã hẹn hôm nay đi thì phải đi…

Ngày lễ khánh thành nhà thờ, được coi như Ngày Hội của cả dân làng. Cho nên, một người từ xa về thì chỉ biết còn dịp này thôi.Hơn nữa, người anh em chúng tôi cũng đã trải qua tình trạng bỏ bê phần linh hồn trong nhiều năm của tuổi trẻ, nên anh không thể bỏ lỡ dịp này như những lần về trước. Còn người cán bộ kia, thì thấy cảnh trí bên ngoài dân làng từ một tuần lễ nay, nhà nào cũng cờ xí phất phới, trang hoàng đẹp đẽ trước cửa nhà, đặc biệt với những nhà nằm trên các con đường chínhdẫn đến nhà thờ. Ngôi tháp chuông nhà thờ cao ngất kia, cũng biểu lộ niềm tin và vui mừng một cách công khai sau mấy chục năm vắng bóng, qua lá cờ hai màu Trắng Vàng, mà dưới cái nhìn của người công giáo bình dân, đấy là sự hiện diện của Tòa Thánh Vatican, dấu chỉ của hiệp thông, của tinh thần hiệp nhất giữa một đơn vị nhỏ nhất là giáo xứ với Trung Tâm của Giáo Hội Công Giáo trên hoàn vũ là Tòa Thánh.

Người cán bộ ấy bất ngờ ngồi dậy với một thái độ mạnh mẽ. Ông nhìn người anh em của mình từ xa về vẫn ngồi ở thành giường từ lúc vào nhà, kiên nhẫn đợi chờ.Ông nở nụ cười rất tươi, nói lời “Xin Lỗi”. Rồi cả hai cùng song hành đi về phía nhà thờ…

Việt Kiều Dỏm

“Việt kiều dỏm” là mấy chữ đầu tiên hai bạn già chúng tôi nghe ông lái xe ôm gán cho mình, khi chúng tôi vừa từ trên một xe bus của hãng hàng không Jetstar Pacific, dừng bánh tại một địa điểm trên đường Trần Quang Khải, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, để hành khách xuống xe. Chúng tôi từ chối lời mời của mấy ông lái xe ôm, ngay chỗ chiếc bus đậu, cho nên một ông thấy bộ dạng hai bạn già chúng tôi có vẻ “bụi”, nói theo dân Sài-Gòn là “Tây ba-lô”, nên đã “xổ” ra mấy tiếng “Việt kiều dỏm” cho bõ ghét.

Mà quả thật, chúng tôi sắm vai “Tây ba-lô” trong chuyến về Hà Nội vài ngày, dịp Tết Quý Tỵ (2013) vừa qua, không phải là du lịch, vì đây là một ngẫu hứng, một bất ngờ, nghĩa là cả hai chúng tôi đều không có dự định trước. Nhưng thật ra chỉ có người bạn tôi là Việt kiều thôi, còn tôi thì vẫn là một người tự vác thập giá của thân thể mình đi lầm lũi trên quê hương đau nhức. Cao Thế Dung đã viết về tôi như thế từ năm 1969 trong tác phẩm Thi ca và thi nhân của ông. Bây giờ, sau 44 năm, tôi vẫn thế. Lời của Cao Thế Dung như một lời nguyền về tôi. Tôi cám ơn ông. Cao Thế Dung có thể sai ở đâu đó, nhưng với tôi, lời ấy không sai. Những lần về quê, tôi đều đã đặt chân xuống Hà Nội nhiều lần rồi, khi thì về bằng xe lửa, xuống ga Hàng Cỏ, khi thì xe bus của Jetstar Pacific dừng bánh ở 14 Đào Tấn. Lần này họ đổ khách xuống Trần Quang Khải. Chúng tôi đã đặt chỗ trước ở một khách sạn gần Hồ Gươm, phố Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, nên chỉ cần đi bộ một đoạn đường Trần Nguyên Hãn, khoảng 5 hay 10 phút là tới rồi.

Được người lái xe ôm khoác cho cái áo “Việt kiều dỏm”, có lẽ người bạn đồng hành với tôi đã có những tiếng cười thỏa thuê, thư giãn với bạn bè hay người thân khi trở về Hoa Kỳ, coi lời ấy như một câu chuyện dọc đường, kể cho nhau nghe. Hai chúng tôi có chung một điểm giống nhau, đó là việc chúng tôi nên một với nhau qua biến cố ngày 30/4, nên một với nhau trong tâm thức Việt Nam đau thương. Bạn tôi chắc chắn không bao giờ tự coi mình là một Việt kiều, điều này chỉ làm anh buồn, anh bị xúc phạm, bị người đồng chủng khước từ, coi anh như người ngoại chủng. Tôi cũng nên đồng hành với anh trong thân phận những con người “lạc lõng” trên chính mảnh đất ngàn năm văn hiến của mình. Anh trở về nơi này, sau gần 50 năm biệt ly. Anh trở về, vì anh còn mang tâm thức Việt Nam, nhớ những gì thân yêu nhất trong cuộc đời của một người Việt Nam, có nguồn có cội, 5.000 năm lịch sử, có một chiến công lẫy lừng trên Bạch Đằng giang. Một người Việt Nam ý thức rõ rệt mình có một lịch sử “hiếm” như thế, “vàng son” như thế, không ai đánh gục họ được.

Sau những ngày trở lại Sài-Gòn, ngồi hồi tưởng về chuyến đi này, tôi vẫn còn bâng khuâng. Vì chuyến đi, đối với cả anh bạn và tôi, đều không trọn vẹn, còn vương vấn khi đứng trước khu nhà cũ của gia đình anh ở phố Hàm Long. Bịn rịn, bồn chồn, lưu luyến! Rồi anh kéo tay tôi về phía nhà thờ lớn, định tâm vào viếng Thánh Thể mà cũng là để tìm lại hình bóng ngày thơ bé của mình. Cũng trên mảnh đất này, từ xa xưa lắm, tổ tiên dòng họ Đỗ đã sống tại đây. Ngày xa xưa ấy là làng Chân Cầm, nay là Ngõ Huyện. Thế hệ sau cùng cư trú ở đây gồm có gia đình Đỗ Đình Đạo, anh em thúc bá với Đỗ Đình Duyệt. Ông Đạo bị bà Thụy An đầu độc chết, theo dư luận từ nội bộ VNQDĐ, do ông và một số chiến hữu đã chống lại quyết định chia cắt đất nước vào năm 1954.Nhưng sáng hôm ấy, nhà thờ còn đóng cửa, chúng tôi bèn ghé vào trường Dũng Lạc xưa, cạnh đó. Người bảo vệ có tuổi tiếp chúng tôi niềm nở, kể cho chúng tôi những thay đổi, dẫy nhà phía trong thì làm mới, còn phía ngoài, giáp với con ngõ vào nhà xứ, vẫn để nguyên. Ông nói, nhiều người đi xa trở về cũng đều tới đây thăm hỏi chuyện cũ chuyện nay. Tôi thầm hỏi, không rõ người bạn tôi lúc đó, có nhớ đến một hình bóng quá thân thiết, quá anh hùng và xuất chúng, mà cuộc đời của vị này đã gắn liền với mảnh đất thiêng chúng tôi đang đứng đây hay không. Bởi vì, ngay lúc gọi điện cho tôi, nói là anh đang có mặt ở Việt Nam, anh đã nhắc đến hình bóng này. Cho nên, tôi chắc anh không quên, vì tính danh của vị này đã nổi lên một cách mạnh mẽ, kiên cường, giữa cái thời đổi thay quyền lực tại Hà Nội cũng như trên toàn cõi Việt Nam, cái thời mà những tiếng nói ở đài phát thanh, báo chí có lúc đã dồn dập, liên tiếp chuyền đi một lời da diết : “Ai ơi! Đừng phân chia Nam Bắc Trung”! Nhưng tôi nhớ ngay đến chính bạn tôi đây, lần đầu tiên trong gần 50 năm trường, trước Tết Quý Tỵ, anh gọi điện cho tôi. Nghe tên anh: “Duyệt đây, Đỗ Đình Duyệt đây…”.Tôi bất ngờ quá, vượt qua giây phút mệt mỏi của tuổi già, tiếng tôi như vỡ òa trong máy : “Đỗ Đình Duyệt! Anh đang ở đâu ? Còn nhớ Zarathustra đã nói như thế không?” Tôi hỏi anh ngay chuyện này, vì là cái mốc thời gian, đánh dấu sự cách biệt giữa hai chúng tôi, từ đó đến nay.–“Duyệt đang ở Việt Nam. Vẫn nhớ Zarathustra đã nói như thế, ngày anh cưới mà, một đám cưới hiếm có ở Sài-Gòn ngày đó. Ông Khải Triều ơi, ông có biết “Thằng khùng, thanh gỗ ngang trên cây thập tự giá không?” – “Biết mà! Linh mục Nguyễn Văn Vinh.”- “Đúng rồi! Không ngờ thế đấy. Gặp nhau sẽ nói nhiều” – “Vậy thì hay rồi, có thể đến nhà tôi tâm sự trọn một đêm nhé.” – “Ý tưởng hay đấy”.

Mấy ngày sau, Đỗ Đình Duyệt ghé tôi. Trong lúc hàn huyên, tôi nói anh nghe, ngày 14 Tết Quý Tỵ này, tôi đi Hà Nội mấy ngày, ở một khách sạn gần Hồ Gươm, phố Lý Thái Tổ. Nghe nói thế, Duyệt hơi tư lự, chỉ nói là “hay đấy”, rồi tôi chở anh về nhà người thân dưới Xóm Mới.

Tôi về Hà Nội dịp Tết Quý Tỵ, không phải là dự tính của tôi, mà theo sắp xếp của con gái. Một chiều nọ đi làm về, nó vừa cười vừa nói cho tôi biết, “Ba có một tin vui.”. Tôi hỏi ngay là tin vui gì, ba làm gì còn tin vui nào nữa, ngoài cái vui của ba là hoàn tất bản gia phả của họ hàng. Nó nói là “con đã đăng ký cho ba về Hà Nội mấy ngày, 14 Tết khởi hành, một tuần sau, khi con và hai cháu ở ngoài quê trở về. Ba chuẩn bị đi nhé”. Tôi mắng con gái mấy câu, chuyện gì liên quan tới ba thì phải bàn với ba trước. Ba mới về dịp tháng 8 vừa rồi, nay lại về là sao. Nhưng tôi chợt nhớ đến việc lập bản gia phả của họ Nguyễn chúng tôi, còn một vài chi tiết cần kiểm tra lại, nên tôi nói, thôi cũng được. Ba còn gia phả, chưa xong.

Còn về Đỗ Đình Duyệt, một hôm anh gọi điện cho tôi, nói là muốn đi Hà Nội, làm sao để cùng đi chung một chuyến máy bay với tôi thì tuyệt quá. Lúc đó con gái tôi cũng có nhà, nghe chúng tôi nói về việc đi Hà Nội, nó nói với bác Duyệt cho nó biết vài chi tiết trên cái visa, năm sinh của bác. Rồi nó bắt liên lạc ngay với hãng máy bay mà nó đã đăng ký vé cho tôi, nhất là để bác Duyệt đi cùng chuyến ra Hà Nội với tôi. Mấy phút im lặng, vì đại diện hãng máy bay kiểm tra chuyến bay của tôi, xem còn chỗ không. Được cho biết là còn chỗ, con gái tôi mừng quá, vì bỗng dưng tôi có bạn đồng hành, nó an tâm rồi. Bác Duyệt được báo ngay, có chỗ cho bác trong cùng chuyến ra Hà Nội với tôi. Còn chỗ ngồi trên máy bay thì có thể đổi cho người khác để chúng tôi ngồi cạnh nhau. Bác Duyệt cũng thấy vui, tiếng cười vang lên trong điện thoại.

Việc hai bạn già chúng tôi đi Hà Nội như vậy, là chuyện bất ngờ. Một bất ngờ khác là chuyến đi của chúng tôi nửa chừng thay đổi.

Chúng tôi ra Hà Nội sáng thứ bảy, 23/2 dl, tức 14 Tết Quý Tỵ. Vừa bước vào tiền sảnh của khách sạn, một nữ nhân viên hỏi ngay: “Có phải bác Tuy?”- “Vâng, tôi là…, có phòng cho chúng tôi chưa?” Chúng tôi trao cho họ giấy tờ tùy thân, sau đó họ đưa chìa khóa phòng cho chúng tôi. Nhận phòng xong, tôi ngả lưng ngay xuống giường nằm nghỉ. Còn Duyệt, có lẽ anh đã quen với những chuyến đi xa, nghỉ ở khách sạn, đơn giản và gọn gàng, không rườm rà như tôi, bận tay bận chân nhiều như tôi. Anh khoác sau lưng cái ba lô cũ kỹ, đựng mấy món vật dụng, một bộ quần áo thay đổi đã bạc màu, giống như da thịt trên thân thể chúng tôi. Duyệt đeo ba lô trên lưng, còn tôi thì tay cầm cái túi xách và vài món vật dụng. Thấy tôi hơi lỉnh kỉnh trong một chuyến đi xa như thế này, như mang theo bình xà bông để cạo râu với dao cạo Gillette 2 lưỡi, nghe nói dùng một lần rồi bỏ, nhưng tôi thì dùng đến 4,5 lần, anh bảo, cái lằn xanh trên lưỡi dao thay cho xà bông, có chất nhờn, dễ cạo. Quần áo thì, một bộ mặc trên người, áo bỏ thõng ra ngoài, và một bộ dự phòng. Như thế, với tôi cũng là đơn giản hết mức. Vì ngay từ đầu, chúng tôi không có hành lý gì để gửi. Chuyến đi càng nhẹ nhàng càng thư thái. Có lẽ vì thế mà chúng tôi được kể vào hàng ngũ “Việt kiều dỏm”.

Tuy nhiên, hai con người với hai vóc dáng bình dị hết mức cộng với hành trang trên vai, chúng tôi chẳng có tí gì để được xếp vào thành phần Việt kiều, cho dù là “Việt kiều dỏm”. Chúng tôi còn kém xa những đồng bào trong nước, khi họ đi làm hay khi đi du lịch, sống tại các thành phố đầy vẻ văn minh trần trụi.Vì vậy, nghĩ đến mà vui, cái vui của tuổi già.Vì mình được làm bạn đồng hành với bạn hữu, những người viễn xứ “u uất nỗi bơ vơ” (thơ Vũ Hoàng Chương)

Sau giấc ngủ êm ả, hai chúng tôi ra phố tìm một chỗ ăn trưa. Cửa tiệm ăn chúng tôi bước vào là một địa điểm ăn có tiếng tại khu vực đó, như lời một trong hai thiếu nữ ngồi cùng bàn với chúng tôi nói thế. Hai chúng tôi rời xa Hà Nội lâu lắm rồi, nay vì nhớ mà trở về…Vừa lạ lẫm mà lại như gần gũi. Vừa ghét mà lại như thân thương. Phải chăng Thăng Long hay Hà Nội này, cũng là giòng máu di duệ của Bách Việt! Còn được bao nhiêu!

Rời tiệm ăn, chúng tôi trở ra phía hồ Hoàn Kiếm, nhẹ bước hết một vòng, thỉnh thoảng dừng chân ghi một vài tấm hình, Duyệt gọi là “Hình ảnh người Thăng Long”. Sau đó, Duyệt kéo tôi đi qua một vài phố cổ, từ Lò Sũ xuống Bà Triệu, qua Lý Thường Kiệt rồi tới phố Hàm Long. Anh dừng lại ở một góc phố này, nói vài lời về hình bóng cũ của nó. Anh nói nhỏ, khu nhà tôi trước kia đây… Anh lặng lẽ rời gót…Mái nhà xưa của anh nay không còn. Chỉ thấy những hình ảnh xa lạ, những kẻ xa lạ. Anh cũng là kẻ xa lạ đối với mảnh đất này. Xa lạ trước ngôi nhà của mình! Anh đâu còn thấy một dấu chân xưa nào của anh nơi đây nữa!

Ngày hôm sau Chủ nhật, Duyệt đi Vĩnh Phúc Yên, tôi đi lễ ở nhà thờ lớn. Chiếc taxi chở chúng tôi dừng lại trước cửa nhà thờ, tôi xuống xe, còn Duyệt tiếp tục cuộc hành trình dài. Sau lễ, một đứa cháu đưa tôi về quê, dự tính ngày thứ năm, tôi sẽ lên Hà Nội cùng Duyệt đi thuyền trên một đoạn sông, có di tích bãi cọc của trận Bạch Đằng. Thế nhưng, mấy ngày sau, vào một buổi chiều, lúc tôi đang ngồi trên bờ một con mương câu cá, (trước khi đi, một cô cháu nói là để cháu lấy cái giỏ cho cậu. Tôi bảo, “cậu đi câu không cầu được cá”. Nó cười: “Chẳng có ai như cậu.”), thì chuông điện thoại reo. Có tiếng của Duyệt…Tôi nghe hình như anh có chuyện gì đó, phải trở về Mỹ ngay, nhưng không rõ nên tôi nói: “Tôi đang câu cá ở ngoài ruộng, gió lớn quá không nghe rõ. Tối anh gọi lại.”

Tôi bỏ ngang việc câu cá, trở về đợi điện thoại của Duyệt. Sau bữa cơm tối, giữa lúc các con cháu của anh chị tôi có mặt, Duyệt gọi điện cho tôi. Đúng là anh phải về Mỹ gấp. Hai ngày vừa qua, anh đã phải xoay sở để có vé về Mỹ. Mọi chuyện đã xong. Anh hỏi tôi có giữ phòng ở khách sạn không, nếu cần thì anh sẽ giữ lại.Việc thứ hai là anh còn một tí việc nhờ tôi giúp, trao cho người thân của anh ở Xóm Mới, tôi đã tới nhà hôm trước. Việc này, anh gửi văn phòng khách sạn, nhờ họ trao lại cho tôi. Duyệt cũng liên lạc với con gái tôi trong Sài-Gòn, nó bèn gọi điện cho một đứa cháu tôi ở Hà Nội, nhờ đến khách sạn đó ngay, gặp ông Duyệt. Ông đưa cái gì thì nhận, rồi mang về quê cho ông. Đứa cháu tôi trở về, mừng quá, vì “đã gặp ông bạn của ông”.

Tôi kể chuyện này ra, vì nó mang một kỷ niệm trong tuổi già của hai chúng tôi, cũng rất khó quên trong ký ức của mỗi người. Vì lúc còn trẻ, hai chúng tôi cũng đã có những việc, không lừng lẫy gì, nhưng cũng gọi được là một nỗ lực của tuổi trẻ. Trong chiến tranh và trong các thế lực, chúng tôi không đứng bên lề.

Trở về quá khứ.
Tạm lấy cái mốc thời gian tôi và Đỗ Đình Duyệt gặp nhau qua Đỗ Tất Phú, là vào năm 1963. Nay tròn 50 năm, trước đó vài năm nữa là con số lẻ. Số lẻ này dành riêng cho Phú.

Vào một buổi sáng, tôi thấy có hai thanh niên đến thuê nhà, chung một căn gác với tôi, trên đường Nguyễn Thông, trước cổng vào ga xe lửa Hòa Hưng. Dáng hai người này cũng bình thường, cả hai dong dỏng cao. Một người lâu lâu nhìn tôi cười lặng lẽ, còn người kia thì có da mặt tái xanh, sống mũi quặp xuống, ít khi ở nhà. Họ không ở lâu.Một hôm, người thanh niên hay nhìn tôi cười, đến bên tôi, lấy ra trong túi áo một tấm hình, đưa cho tôi xem, rồi hỏi: “Cậu có biết ông này là ai không?” Tôi nói ngay: “Nguyễn Thái Học”. Anh ta bảo: “Cậu có con mắt tinh đời”. Rồi anh cho biết tên là Đỗ Tất Phú, người kia là Cao Thế Dung.

Một sáng nọ tôi đi học về, không thấy hai người đó. Chủ nhà nói hai cậu ấy đã dọn đi nơi khác.Tôi quên họ ngay. Ít lâu sau tôi cũng không ở đó nữa. Tôi lên Ban Mê Thuột, sống vài năm, trở lại Sai-Gòn năm 1960, thuê căn gác của một y tá “ chích theo toa bác sỹ”, đường Nguyễn Thông nối dài, gần cống Bà Xếp, khu vực nổi danh về bất ổn xã hội.

Như thường lệ, lúc chiều tối, tôi thường “xuống núi” ra ngoài ăn cơm, quán cơm bình dân, bên cạnh đường rầy xe lửa. Đi được một quãng thì chợt thấy Đỗ Tất Phú đang đạp xe về phía tôi. Tôi bật tiếng gọi anh. Nghe có người gọi, Phú dừng xe, nhận ra tôi.

Tôi hỏi:
– Đi đâu thế, anh Phú?
– Tớ đi tìm chỗ trọ, không có tiền trả tiền mướn nhà, chủ nhà họ đuổi, không cho ở nữa.
– Anh về ở với tôi.
Tôi dẫn Phú trở lại gác trọ, đẩy chiếc xe vào trong nhà, rồi trở ra quán cơm ăn tối. Từ đó Phú sống với tôi.

Một thời gian sau, tại gác trọ này hay tại một vài nơi khác, tôi gặp lại Cao Thế Dung. Theo lời Phú, lúc trước, Cao Thế Dung nghi tôi là việt cộng nằm vùng vì tôi là người Bắc mà sao lại ở nhà người miền Nam, và có lẽ thế mà hai người này đã không ở căn gác đó lâu. Ngoài Cao Thế Dung ra, tôi còn được là bạn với Đỗ Đức Thịnh, “cây thuốc lào” tại Đại học Văn khoa Sài-Gòn, Nguyễn Cái Thế, con của cụ Nguyễn Văn Lực, trong nhóm Caravelle; Nguyễn Tường Uyển, con gái của cụ Toan Ánh, một học giả về phong tục học Việt Nam. Sau này, Nguyễn Cái Thế và Nguyễn Tường Uyển nên duyên vợ chồng; rồi Lưu Thái Hưng, Đỗ Đình Duyệt.

Tôi với Phú khác biệt về quan điểm chính trị, và có lẽ các bạn anh cũng vậy. Tôi làm cho tờ nhật báo Dân Việt, khuynh hướng Ngô Đình Diệm, còn Phú thì tôi không thấy anh có những hành động cụ thể nào để nói là chống ông Diệm. Ngay đến “nhóm” của anh, mãi sau ngày có cuộc đảo chính năm 1963, khi các anh nhờ tôi viết bài cho tờ Sống Động, tiếng nói của Tổng bộ Thanh niên Sinh viên VNQDĐ, thường gọi là Tổng bộ Yên Bái, tôi thật sự mới biết quan điểm và lập trường chính trị của các anh. Còn trước đó một đôi lần trong chỗ riêng với tôi, Phú chỉ phê phán một cách chung chung chính sách của ông Diệm, không khác biệt lắm với những khuynh hướng chống Ngô Đình Diệm. Vì vậy giữa chúng tôi có một tình thân thiện. Chúng tôi tôn trọng nhau.

Tổng bộ Yên Bái là một tổ chức trí thức trẻ của VNQDĐ, do Đỗ Tất Phú và Đỗ Đình Duyệt vận động thành lập. Phú giữ vai Chủ tịch, Duyệt phó chủ tịch, Phạm Nam Sách ủy viên Tuyên huấn và một số ủy viên khác, như Nguyễn Cái Thế, Nguyễn Tường Uyển, Lưu Thái Hưng, Đỗ Đức Thịnh, Quách Trọng Phụ v.v…Tổ chức này có khuynh hướng độc lập, không thuộc hệ phái nào, nhưng có liên hệ mật thiết với gánh Chủ Lực do Lê Hưng lãnh đạo, trong đó có Chu Tử Kỳ.

Từ dạo đó đến nay, 50 năm rồi. Những chuyện liên quan đến Đỗ Tất Phú và tôi, đều đã được ghi lại trong truyện Ngọn nến ăn năn. Trong cuốn này, tôi viết về đời sống của hai chúng tôi trong gác trọ một cách đầy đủ, tôi cũng nói đến tập truyện ngắn Ba mẹ con của Phú, qua bút hiệu Đỗ Ngọc Trâm. Tập truyện mô tả một phần nào đời sống của một bộ phận thanh niên ngày ấy có một lý tưởng, một hoài bão, nhưng bế tắc. Nó phản ảnh con người tác giả của nó nói riêng và những thành phần thanh niên giữa thời loạn. Nhưng, chuyện đấu tranh và với nhóm bạn hữu của Phú trên đây, là một chuyện hệ trọng của các anh, tôi không thể nói theo cảm tính, hay văn chương hư cấu. Vì vậy, trong cuốn truyện của tôi, vấn đề này không được đề cập tới. May mà Đỗ Đình Duyệt về Việt Nam dịp Tết Quý Tỵ vừa rồi, tôi lại là người được anh ghé chơi, lại dành cho tôi gần trọn một đêm tâm sự tại căn gác nghèo của tôi. Nhờ đó tôi hỏi lại chuyện của Phú và các anh, được anh nhắc lại một vài chi tiết. Vì thế, tôi an tâm công bố ra đây. Chỉ tiếc rằng, Đỗ Tất Phú đã không còn nữa. Anh đã nằm xuống tại mảnh đất miền Tây, quê hương của vợ anh.

Nhớ Đỗ Tất Phú, viết về anh ít hàng nơi đây, nhắc lại một thời tranh đấu của anh, là một nén hương tinh thần, tôi xin dâng lên anh linh người bạn hiền của tôi.

Trong cái đêm ngủ tại nhà tôi, Đỗ Đình Duyệt đã nhớ lại đám cưới của tôi vào đầu tháng 12 năm 1971, tiệc cưới tổ chức tại Trường Đại học Thành Nhân, tiền thân của nó là Viện Khoa học Giáo dục Sài-Gòn, góc đường Hùng Vương-Nguyễn Tri Phương, do Tiến sĩ Mai Tâm, Sư huynh dòng Lasan Taberd làm Viện trưởng. Duyệt kể, trước khi anh và Lưu Thái Hưng bước vào phòng tiệc, hai anh đã phải đi tới đi lui khu vực đó mấy lần, nghe ngóng xem bên trong có động tĩnh gì không, rồi mới vào. Bởi vì, thời gian ấy, mật vụ của chế độ đang ráo riết theo dõi dư luận xôn xao về việc ông Nguyễn Bảo Kiếm, án tử hình khiếm diện trong vụ đảo chính ngày 19/2/1965 truất phế Tướng Nguyễn Khánh, có thể hiện diện trong một cuộc hội ngộ thân hữu nào đó mà họ không nắm được địa điểm và thời gian. Khi ấy, hình ảnh ông Kiếm treo khắp Sài-Gòn Chợ Lớn, với số tiền thưởng lên tới hàng chục triệu đồng cho ai bắt được hay chỉ nơi ẩn nấp của ông. Một người trong thân thuộc của Đỗ Đình Duyệt, phong thanh nghe nói anh sẽ có mặt trong buổi hội ngộ thân hữu ấy, đã gợi ý anh nộp “cái đầu” Nguyễn Bảo Kiếm để nhận lãnh món tiền thưởng khổng lồ này. Cái “buổi hội ngộ thân hữu” mà nhà đương cuộc ngày ấy muốn biết, không ngờ lại là bữa tiệc cưới đơn giản của vợ chồng chúng tôi.

Tôi nghe chuyện này mà thót giật mình. Ngày đó tôi hoàn toàn không biết đến dư luận ấy. Lúc tôi đi gặp ông Nguyễn Bảo Kiếm mời dự tiệc cưới của tôi, ông chỉ nói với tôi là đừng nói cho ai biết ông có mặt. Và tôi đã hoàn toàn giữ im lặng, cho mãi khi ông bước vào phòng tiệc cùng với Bác sỹ Trần Kim Tuyến, Luật sư Phạm Kim Vinh v.v…

Đỗ Đình Duyệt không nói ra điều này, chắc chắn nó cũng chìm xuống hố thẳm của đời tôi thôi. Như thế đủ biết, lời Kinh thánh nói không thể qua đi, cho dù một dấu phẩy.

“Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết.” (Lc 12,2)

Khải Triều

1 9 10 11 12 13 18