Nguyễn Thị Khánh Minh

Nguyễn Thị Khánh Minh

Phạm Thu Dung,
Kể Chuyện Thời Gian
Theo Dọc Đường Đất Nước

Khi gấp cuốn sách của Phạm Thu Dung lúc 2 giờ sáng, ý nghĩ đến với tôi đầu tiên, như thể tôi vừa xem xong một bức tranh. Việt Nam Yêu Dấu như một bức tranh cuộn, đang bung ra cho người xem, những thời gian nối tiếp nhau, người xem tự mình cảm nhận sắc mầu của nó, nhận những ánh sáng tối tùy theo chỗ đứng của mình và tự họ khoác cho nó ý nghĩa theo cách nhìn của họ. Có muốn tìm họa sĩ thì chẳng thấy đâu nữa…

Chỉ nghe đâu đây giọng kể trầm tĩnh nhẹ nhàng về ký ức thời gian… Hoàn cảnh đất nước qua nhiều giai đoạn, khung cảnh địa lý các miền, nơi chốn xinh tươi…, nơi chốn đạn bom…, mà thành Việt Nam Yêu Dấu, trong đó người đọc đi theo nhịp sinh động của một gia đình dẫn dắt bằng những ý nghĩ hồn nhiên trong sáng của một cô bé tên Uyển Nhi. Gia đình ấy từ lúc mẹ gặp cha, đến thuở mẹ về là về với cha, đến thuở mẹ mang ối a đầy lòng* những đứa con… Từ chữ Từ cho đến những chữ Đến…, không tưởng được là những gì đã ập vào mái ấm ấy. Họ như luôn ở trên một con tàu bập bênh giữa đại dương, cứ vượt qua cơn sóng gió này lại tiếp đương đầu với bão táp khác. Và vì giọng kể tự nhiên như của một khán giả chứ không phải là nhân vật chính mà Việt Nam Yêu Dấu đã đập vào ta những nhịp tim đau buốt. Tôi biết cái bình tĩnh trầm lặng của người đã chạm mặt với tận cùng đau khổ. Và tôi quá khiếp hãi cái đại dương cuộc đời! Mà cuộc đời ấy lồng trong phận nổi trôi của một đất nước mà tác giả đã trìu mến gọi, Việt Nam Yêu Dấu (VNYD).

VNYD đan xen những thời hạnh phúc ngắn ngủi lẫn bi thương trong những giai đoạn khốc liệt của lịch sử Việt Nam. Trong đó kẻ phải hứng chịu thiệt thòi là trẻ thơ. Mà theo tác giả, ở đâu trên trái đất này, những quốc gia bé nhỏ không có quyền quyết định vận mạng của mình thì nơi đó là nơi để những đại cường quốc mở cuộc thư hùng. Trước lời hỏi này, hỏi ai có rúng động lương tri:

Ai đánh cắp tuổi thơ và giam cầm chúng tôi trong những hình hài tàn phế này? (trang 18)

Với bất hạnh mà Phạm Thu Dung và triệu triệu trẻ em, nạn nhân của chiến tranh, phải chịu, chúng ta chỉ biết im lặng và cúi đầu. Ngôn ngữ bất lực. Hãy nghe trái tim ấy đập những lời,

Tôi bắt chước Chizuko, gấp giấy thành hình chim hạc, tặng em Iraq, Libya, Syria cầu xin hòa bình đến trên quê hương các em. Tin tưởng nơi Thượng Đế và tha tội cho tôi nếu em hiểu rằng chúng ta cùng là nạn nhân của các Đại Cường Quốc. (trang 19)

Thật tình, tôi không hiểu những kẻ nắm vận mạng những đất nước bé mọn khi đọc những dòng này có chút hổ thẹn nào không, có chút phản tỉnh nào chăng? Chính một nạn nhân trực tiếp của chiến tranh lại lên tiếng thú tội và cầu xin tha thứ! Có phải vì chính mình là nạn nhân mà tác giả cảm thấy mình đủ tư cách gánh lấy trách nhiệm trước nỗi đau của kẻ cùng số phận và lên tiếng thú tội nhân danh thân phận mình đã, đang gánh chịu? Không lên án, không phê phán, mà là Lời Thú Tội (trang 15). Tôi cứ phải ngừng đọc để đưa tay lên chận những nhịp thổn thức trong tim mình.

Cũng chính vì thế, dường như, qua lời kể của tác giả, chúng ta chợt nhận ra người lớn phần nào đã đánh mất lòng tin cậy của trẻ, khi tác giả đã nói, Tôi viết cho trẻ con xem…(trang 16), tôi càng nhận thức rõ cái tàn nhẫn và vô tâm của thời đại chúng ta đang sống. Mỗi ngày người ta được làm quen nhiều hơn những tàn ác mà con người gây ra cho nhau, thậm chí, cái đói, cái chết của trẻ thơ -mà người ta luôn nói là tương lai của nhân loại-, cũng không được đặt lên bàn chính trị để cân nhắc khi nhóm một ngòi nổ chiến tranh. Lợi lộc trước mắt khiến người ta đã lờ đi cái tương lai ấy. Vậy trẻ thơ tìm gì để nương tựa vào người lớn, có chăng, là những con người cùng chung số phận lên tiếng và đứng tựa vào nhau. Tiếng gọi nhân ái yêu thương ấy, là Việt Nam Yêu Dấu, mà bạn đang cùng tôi mở ra từng trang, theo nụ cười và nước mắt, trên từng dặm con đường cong cong chữ S.

Những thời gian tuần tự hiện ra theo ký ức tác giả, như trên tôi đã nói, nếu chúng ta kéo ra thành một bức tranh dài để nhìn một cách tổng quát, tự nhiên nó sẽ đưa đẩy ta tới nhận xét, quãng thời gian nào trong lịch sử Việt Nam, con dân đã có được an lạc hạnh phúc, thông qua nếp sống của gia đình bé Uyển Nhi, điều ấy, vô hình chung, họ là những chứng nhân của lịch sử. Tác giả có được bình tĩnh để chỉ đưa ra sự việc, qua suy nghĩ hồn nhiên của cô bé, không biết, và một đứa trẻ thì không cần biết gì khác ngoài việc, em và gia đình sống với nhau, no ấm hạnh phúc. Chỉ cần một chỉ tiêu này quyết định sự nhận định về một thể chế, một quốc gia hạnh phúc.

Chương 1 và 2, Mùa Xuân Phú Thọ và Mùa Hè Ở Đồ Sơn. Nói về thời trẻ của ba mẹ Uyển Nhi. Đi theo bước tác giả vào bức tranh một miền Bắc yên ả, thanh niên thiếu nữ tân thời miền Bắc được sống, học hành và ăn diện rất theo trào lưu của thế giới, dù còn vài hạn chế theo quan niệm cổ xưa, con gái thì không cần học cao lắm, như mẹ cô Phương Quỳ nói “không, phải giữ phong tục cổ truyền. Cha mẹ đã nhầm lẫn khi cho con học Đệ Nhất Cấp. Hết năm nay, con ở nhà sửa soạn lấy chồng” (trang 28). Rồi những phong tục đón Tết thời đó, chúng ta thấy được đó là một nét văn hóa đẹp đã phôi pha ít nhiều theo thời gian, thật tiếc. Thấy được không khí đi Chùa Hương ngày xuân, có cảm giác như nam thanh nữ tú thời đó rất hợp với không khí u tĩnh của Chùa Hương, không như bây giờ nghe nói cảnh viếng chùa rất bát nháo và xôn xao buôn thần bán thánh. Lại nghe tiếng sóng reo chân những kẻ yêu nhau đi dạo trên bờ cát Đồ Sơn. Nhịp sống chậm chậm để tận hưởng an vui là điều mà bây giờ nhiều người nhắc đến để ước mơ. Xem bức tranh này tự nhiên tôi ước gì mình được sống những giây phút gia đình và bạn bè trong khung cảnh trữ tình ấy. Những con người ấy đang sống hạnh phúc. Hạnh Phúc. Đó không phải là mục tiêu của mọi chủ thuyết, chủ nghĩa, chế độ chính trị hay sao? (trừ những kẻ lợi dụng nó làm chiêu bài che đậy những mờ ám khiến con đường đến nó phải lát bằng máu và sinh mệnh.) Người ta còn cần gì ngoài Hạnh Phúc?

Chương 3, Mùa Lúa Hải Dương, đây là bức tranh tôi nghe vang vang tiếng hát đệm, thương em từ thuở mẹ về là về với cha…, cô dâu Phương Quỳ về nhà chồng ở Hải Dương. “Đồng lúa chin vàng trải tận chân trời. Đàn ông cắt, đàn bà buộc thành bó gánh đi. Một thôn nữ hát, Con cò bay lả bay la / bay từ cửa phủ bay qua cánh đồng…”(trang 99). Lúa chín và tiếng hát hò. Đó là gì nếu không là ấm no và hạnh phúc. Nhưng bức tranh đã phảng phất những mảng mây nặng báo hiệu một cơn mưa. Tác giả nói bằng một giọng bình thường như tường thuật một hiện tượng của thời tiết, cho ta thấy le lói cái thòng lọng oan nghiệt chực chờ trên mỗi số phận gia đình Việt Nam. “Quang Lưu, hao hao giống anh, nhưng tính lại khác. Trong lòng luôn căm hờn người anh. Vài năm trước có bạn giới thiệu chủ nghĩa Cộng Sản, thuyết Karl Marx, Lenin. Quang Lưu hấp thụ thuyết này và tôn sùng đảng trưởng Hồ Chí Minh.” (trang 101)

Cho ta thấy, bàn tay bạch tuộc của nước lớn, “Anh Vinh viết thư: xin ba mẹ tha tội bất hiếu. Con không thể làm gì đến khi người Pháp cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Con chỉ có một tình yêu duy nhất: sống và chết cho quê hương…” (trang 109)

Gia đình cô bé Uyển Nhi đã bắt đầu sóng gió theo cơn lốc của chiến tranh. “… kháng chiến nổi dậy chống thực dân xâm lược. Ngày ngày, người Pháp xử tử những thành phần chống chính quyền Đông Dương… (trang 111), lời văn như một bản tin tức trên đài, đẩy người đọc đến câu hỏi, họ nhân danh gì để xử tử người dân mà họ đang đứng trên đất nước người ta? Trong cùng một gia đình cũng phe này phái kia. Khi gia đình người anh đi Hà Nội lánh nạn thì người em chận xe: “…Dừng xe không tôi bắn! Ông Phạm nhấn ga, xe vọt đi trước khi Quang Lưu nổ súng. Phương Quỳ ôm con sát vào lòng…” (trang 116). Đây là nỗi bất hạnh kéo dài từ bấy đến nay trên đất nước Việt Nam chúng ta. Nỗi huynh đệ tương tàn. Lẫn vào đó tôi nghe tiếng trẻ thơ thủ thỉ hồn nhiên (lối kể chuyện đan xen đặt những tình huống trái ngược bên cạnh nhau của Phạm Thu Dung gây cảm xúc rất cao nơi người đọc,) Mẹ mua cho con búp bê và quần áo mới nhé… (trang 116). Phải, tôi muốn hỏi như tác giả, Ai đã đánh cắp tuổi thơ?

Chương 4, Hà Nội Trong Bom Lửa. Bức tranh đã tỏa mùi khói của chiến tranh. Ngay thủ đô Hà Nội. Không còn hình ảnh những cánh đồng vàng trĩu lúa chín. Mà là những xác chết trên những con đường làng mạc, thành phố. Gia đình tản mác, người ta nhớn nhác sống, trong bước trốn chạy bom đạn. Những nỗi sợ len vào cuộc sống. Sợ Cộng Sản, Sợ Pháp. Sợ Quốc Dân Đảng. Sợ tên bay đạn lạc. Trong thời gian này, bé Uyển Nhi ra đời, mùa thu Hà Hội. Ra đời trong cảnh miếng đất nhỏ bé là nơi tranh giành thử nghiệm vũ khí, chủ nghĩa. Trong một trận oanh tạc ở Hà Nội, em đã bị miểng bom cắt ngang xương sống, hậu quả là mang thương tật suốt đời. Giọng văn ở chương này làm tôi có cảm tưởng tác giả đang cố kìm dòng nước mắt… Tác giả ơi, sao không khóc đi cho những con chữ kia bớt làm đau lòng người đọc,.

Chương 5, Vượt Dòng Bến Hải (trang 159). Bức tranh tang thương nhất trong 7 bức của Việt Nam Yêu Dấu. Hiệp định Genève ký kết, Việt Nam thành hai miền hai chế độ. Cuộc di cư 1954 đưa hàng triệu người không chấp nhận chế độ Cộng Sản vào Nam, dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì bệnh tật của Uyển Nhi gia đình em không thể đi bằng máy bay, người cha quyết định dùng thuyền vượt sông Bến Hải. Họ trốn đi vì đó là vấn đề sinh tử của gia đình họ. Đây là bức tranh tôi phải dừng lại để quay mặt đi, như thể hồi bé xem phim tới đoạn nào sợ, lấy tay bịt mắt lại vì không chịu nổi một đối diện trực tiếp với cái ác. Và tôi liên tưởng đến cuộc vượt biên của hàng triệu người 20 năm sau đó, nhân lên n lần nỗi thương tâm. Cuộc vượt biên quá sức bi thương khốc liệt trong lịch sử nhân loại. Không một lời nào chối được tội này trước lương tâm con người. Tôi mong bạn có cuốn VNYD trong tay để mở những trang này và đi theo nó bằng chính dòng nước mắt của mình. Tôi chỉ xin trích đoạn làm tôi xúc động, cảm giác của nhân vật sau khi vượt sóng gió, súng đạn chết chóc, đến được đất liền: “…Chẳng rõ lành hay dữ, miền Bắc? không thấy cờ đỏ sao vàng miền Bắc, chàng tiếp tục đi. Xa xa có túp lều đánh cá, bên cạnh treo cờ vàng ba sọc đỏ miền nam. Quang Bảo quì gối: Cảm ơn Trời Phật. Chàng chạy về gốc dừa nơi gia đình tạm trú, reo: Phương Quỳ! Chúng ta ở miền Nam.” (trang 172) …“Người mẹ tự nhủ đây là sự thật…Nàng lấy bẹ và lá dừa làm tấm ván buộc vào lưng Uyển Nhi. Cái bướu sau lưng lớn dần làm gẫy gập thân hình nhỏ bé… em hỏi mẹ: Mẹ ơi, con bị làm sao vậy?” (trang 171). Lối kể chuyện của Phạm Thu Dung luôn vậy, trong cảnh bi khốn, bỗng một câu hỏi trẻ thơ như thế như một cú nốc-ao cảm xúc ta vậy!

Hậu quả chiến tranh đã làm em phải chịu thiệt thòi tức tưởi đến thế, và lúc này có bao nhiêu bao nhiêu Uyển Nhi như vậy trên trái đất chúng ta?

Hãy nghe tác giả đã thốt lên, dõng dạc: “Tôi tên Phạm Thu Dung, muốn thú tội. Tôi viết Việt Nam Yêu Dấu với mục đích: cầu mong Hoa Kỳ cùng các Đồng Minh chấm dứt chiến tranh Iraq, Libya, Syria… và ở đâu nữa?”

Ngang đây có một ước mơ, thật bi hài, chính một nạn nhân chiến tranh lại nói lời thú tội! Tôi mơ, tôi tin, lời ấy sẽ góp phần thức tỉnh lương tri thế giới, một thế giới không còn nằm trong bàn tay điều động của những Đại Cường Quốc chỉ biết cân đo đong đếm tài lợi hơn là sinh mạng con người. Giấc mơ, Niềm tin ấy có chân để đi đến thành tựu không?

Chương 6 và 7, Tuổi Thơ Nha Trang và Khung Trời Gia Long. Cảm ơn tác giả đã để những bức tranh này cuối cùng sách, để trái tim người đọc bớt co thắt vì những cảm xúc đau đớn. Một hình ảnh vui để đối cực với thương tâm bức tranh vượt sông. Ta đã theo thời gian đi từ Hà Nội đến Sài Gòn. Tác giả dừng lại lúc Uyển Nhi 13 tuổi, với ước mơ: “Tiếng ve vang rền trong nắng hạ. Hoa phượng đỏ thắm dưới trời xanh, chim líu lo ca lẫn tiếng cười của nữ sinh trong khung trời Gia Long. Thời gian hỡi, ước chi thời gian đứng lại, cho tôi một giây phút thôi để khung cảnh này mãi mãi chẳng đổi dời.”(trang 406)

Đúng vậy, hãy dừng nơi đó thôi. Vì chúng ta đã biết rồi, những gì xảy ra sau đó, cho đến 30.4.1975, cho đến lúc này, chúng ta, một phần của con dân Việt Nam có mặt ở đây, California, và ở tản mác khắp nơi trên thế giới.

Tôi xin kết thúc bằng chút cảm nghĩ mình về tác giả, một người từ nghịch cảnh bản thân đã khiến được ý chí mạnh mẽ, cộng thêm thừa hưởng một nền giáo dục tuyệt vời từ cha mẹ, đã sống và dựng cuộc đời mình một cách thành công bằng sự tự tin, lạc quan, kiên định. Với số phận và lòng quả cảm mình, tác giả đã chinh phục được người đọc rồi huống chi còn thêm một văn tài như thế, lại còn vẽ nữa. Tôi muốn nói thêm một điều mà tôi rất quí ở Việt Nam Yêu Dấu, là tác giả đã lồng vào đó những câu truyện cổ tích như Tấm Cám, Trầu Cau…, những trò chơi của trẻ con xưa như Nu na nu nống, Thảy cuội…, và những bài đồng dao. Điều này góp phần vào sự gìn giữ, truyền bá những vốn quý của văn hóa Việt cũng như cho ta thấy cách giáo dục trẻ thơ bằng cách kể chuyện, hát, sẽ gây được cho trẻ em những tình cảm tích cực, yêu cuộc sống, con người, như ta thấy các em trong gia đình Uyển Nhi. Tôi tự hỏi, cái gia đình gặp đầy cảnh ngộ như thế có vượt qua nổi không nếu dưới mái ấm ấy không từng ngày vang vang tiếng hát trẻ thơ? Đây là cách giáo dục theo tôi nghĩ những bậc cha mẹ trẻ nên theo và gìn giữ. Hiệu quả tốt của nó khiến tôi khẳng định, nếu Uyển Nhi, không thừa hưởng được sự giáo dục và yêu thương từ bậc cha mẹ như thế hẳn em đã không vượt qua số phận một cách đáng ngưỡng mộ và không thể là một Phạm Thu Dung tài năng như hôm nay. Xin một biết ơn đến bậc phụ huynh của tác giả và trân trọng Việt Nam Yêu Dấu.

Với chỉ trong 3,000 từ và cảm nghĩ của một người, ắt hẳn là có hạn chế khi nhận định tác phẩm này. Tôi biết mỗi người đọc sẽ góp thêm cảm nghĩ của mình, thì bức tranh Việt Nam Yêu Dấu sẽ có được nhiều màu sắc khác lạ, cho dù chủ ý của tác giả khi viết sách chỉ là mong ai đó “… nếu có khi nào, chạnh lòng còn trông lại chốn xưa…”

Mùa Thu. Những Chiếc Ô
Và Dải Nơ Vàng

Calif. đang ở vào những tuần đầu của mùa thu, cảnh vật đang bị quắt queo vì cơn nóng trái mùa, tuần này hầm hập 85 đến 100 độ, người như bị vặt đến héo hắt không chỉ vì thời tiết đất trời mà còn như vỡ dưới tiếng đập của thời sự. Dư vang chết chóc của mùa hè từ những thảm hoạ máy bay, dịch ebola, chiến tranh, khủng bố vẫn đang còn làm thế giới rung rinh, như cái thòng lọng thắt lại dần, thì thử hỏi chúng ta làm thế nào để có thể sống an lạc, như vẫn thường chúc nhau cuối mỗi e-mail? Chưa bao giờ, sống là một thử thách như thời này. Mỗi hơi thở là mỗi mạo hiểm, không biết lúc nào sẽ sập xuống cái bẫy của những tin tức mà cứ mỗi lúc lại đem đến một khủng khiếp khác nhau. Khi sự chịu đựng của người ta tăng lên, có nghĩa là cái ác đã trở nên bình thường, cứ thế, chai dần cảm xúc. Quen dần với những điều mà mới hôm qua tưởng sẽ không thể xảy ra được trên đời này. Cái ác đang tôi luyện chúng ta thành vô tính chăng.
Chợt, một ngày, trong cái cối xay tai trời ách người như thế, vòng quay được lơi ra bởi hình ảnh những chiếc ô, những dải nơ vàng. Nó như tiếng phong linh trong trẻo rộn rã vang lên. Nó như vạt óng ả phết lên mùa thu hiu hắt của mọi tâm trạng này. Nó mang chất lãng mạn. Nó là cái gì như sinh khí.
Toát ra từ dáng vẻ thư sinh với cặp kính trắng, lấp lánh tuyên bố “Tôi không muốn đùn đẩy cuộc đấu tranh dân chủ cho thế hệ sau. Đó là trách nhiệm của chúng ta”. Sẽ có một mùa hoa mọc lên bởi hạt giống nhiệt huyết trong sáng ấy, đó là Joshua Wong, 17 tuổi, được xem là một lãnh đạo cho phong trào đòi dân chủ tại Hồng Kông, phát động vào những ngày cuối tháng 9, tới nay vẫn còn tiếp tục, thu hút quan tâm của thế giới.
Toát ra từ không khí sôi sục mà ôn hoà, được mọi người khâm phục, một cuộc biểu tình mang tinh thần bất bạo động, không hỗn loạn, không xả rác, không hôi của, không gây hấn, những cái không chỉ có được của một nền giáo dục chú trọng đến Đức, Trí con người, mà họ đã được thấm nhuần ngót một thế kỷ qua tại Hồng Kông. Báo Slate magazine gọi họ là “những người biểu tình lịch sự nhất thế giới”
Toát ra từ không khí trẻ trung, sáng tạo, của hình ảnh những chiếc ô, và được gọi là cuộc Cách Mạng Dù. Tham gia biểu tình, đa số là thanh niên, cả lớp tuổi teen, ai cũng cầm theo dù, để che mưa nắng, nhưng khi bị vòi rồng xịt nước và hơi cay thì nó trở thành một thứ bảo vệ, họ nằm xuống để tránh vỡ hàng ngũ và phủ lên nhau những chiếc dù. Như hàng ngàn cây nấm nhỏ đủ mầu mọc lên sau trận mưa của nghìn tấm lòng trẻ trung đang sống cho lý tưởng của mình. Chiếc dù, nó có rộng một không gian để che thêm cho người bên cạnh, có chút chi vì người… Không biết là tình cờ tự phát của đám đông hay là ý tưởng của những đầu óc lãnh đạo rất sáng tạo, mà chiếc dù đã là một đại diện hết sức thơ mộng cho một phong trào chính trị. Phải chăng nét ấy là một trong những điều đã gây sức cuốn hút? Và, đánh động nhịp tim lãng mạn của tôi. Chiếc ô. Chả phải hai người yêu đi bên nhau nắng hay mưa thường cũng là chiếc ô xinh trên đầu, và còn dùng che cho một nụ hôn vội vàng nữa, ôi là, chiếc dù, giờ nó che cho nghìn nghìn tấm lòng bất khuất kia dưới sức mạnh tấn công của vòi rồng và hơi cay. Họ ngủ dưới những cây dù ngoài đường để duy trì tinh thần tranh đấu, họ viết những biểu ngữ trên dù cho lộng lẫy nắng tự do, chưa bao giờ thấy cây dù lại nhiều công dụng và đáng yêu đến thế. Có thanh niên còn cầm dù che cho cảnh sát lúc trời mưa, và hình ảnh làm xúc động được truyền đi trên facebook, một sinh viên áo đen cầm dù đứng bất động trong mù mịt khói cay, một cảnh sát sau khi bắn hơi cay đã vội lấy chai nước rửa mắt cho một sinh viên qua hàng rào, thật tình chưa có một cuộc biểu tình nào có những hình ảnh đẹp, nhân bản đến thế, chả bù cho những bạo lực của công an ở Việt Nam trong những cuộc biểu tình chống Trung Cộng, oan sai…

Lại nói đến một biểu tượng thơ mộng nữa, là dải nơ vàng, phong trào đã dùng nó làm biểu tượng cho khát vọng dân chủ. Hình ảnh những chiếc dù và những dải nơ vàng, cùng những tấm giấy đủ mầu ghi lời cầu chúc, khẩu hiệu đấu tranh, dán kín những bức tường làm không khí biểu tình đầy sắc mầu như lễ hội, họ cài trên ngực áo, họ đeo vào cổ tay, treo trên hàng rào, cửa nhà, cột điện, khắp các nẻo đường vàng rực một loại hoa dân chủ ấy. Tôi càng thích hơn khi biết nguồn gốc của dải nơ vàng. Theo nghiencuuquocte.net, 400 năm trước, ở Anh người ta rất yêu thích bài thơ “Dải ruy băng vàng trên vai cô ấy” (She wore a yellow ribbon), nói về người vợ đeo dải nơ vàng để tưởng nhớ và hy vọng chồng phương xa sẽ trở về. Trong cuộc nội chiến Anh vào thế kỷ 17, những người lính ra trận đeo ruy băng vàng trên cổ như thể đeo sự nhớ thương của người vợ bên mình. Kỵ binh Hoa Kỳ ở thế kỷ 19 cũng đeo trên cổ ruy băng vàng với ý nghĩa như thế, như truyện tranh anh chàng Lucky Luke với dải băng vàng ở cổ áo, xem lúc nhỏ mà giờ nhờ cuộc biểu tình Hồng Kông, tôi mới được biết rõ nguồn gốc. Đến khi Irwin Levine viết bài hát “Cột một dải ruy băng vàng lên cây sồi già”(Tie a Yellow Ribbon Round the Ole Oak Tree) thì nó được phổ biến trên toàn thế giới thập niên 1970. Bài hát nói về một anh chàng bị kết án 3 năm tù về tội buôn lậu(!). Trước khi được về nhà, anh viết cho vợ, If you still want me, Oh, tie a yellow ribbon ’round the ole oak tree… “Nếu em còn yêu anh thì hãy cột một dải ruy băng vàng lên cây sồi trước nhà…” Và khi chàng về đến nhà thì thấy cây sồi như mái tóc vàng óng ánh bởi ngàn sợi ruy băng! Sao tôi thấy mê những ý tưởng thiên thần này quá. Từ đó yellow ribbon mang ý nghĩa của Hy Vọng, Chiến Thắng và Tình Yêu. Phong trào biểu tình đã chọn nơ vàng để gửi đi thông điệp họ tin vào một chiến thắng bằng vũ khí Bất Bạo Động và Tình Yêu. Cũng có nghĩa, chấp nhận hy sinh để hái được đoá hoa Dân Chủ.
Một nét thơ mộng, mà khẳng khái, nữa là họ chọn bài “Do you hear the people sing” (Bạn có nghe mọi người hát) trong vở nhạc kịch “Những người khốn khổ” (Les Miserables) để cùng nhau ca vang trong cuộc biểu tình, đây là bài mà các nhà cách mạng Paris hát trong cuộc nổi dậy chống chính phủ. Một nét dễ thương và thông minh, họ hát vang bài Happy Birthday để thông báo cho nhau có kẻ lạ trà trộn vào hàng ngũ để gây rối, và sẽ bị tống khứ dưới sức mạnh của hợp ca.
Điểm qua những biểu tượng, thì đã có hai trong số đó lấy từ kho văn học, tôi thấy bị quyến rũ bởi ý tưởng của một phong trào chính trị mang đầy tính nghệ sĩ này. Chỉ có một biểu tượng buồn là chiếc áo thun đen mà họ mặc khi đi biểu tình, màu sắc đen trong vô vàn sắc rực rỡ của dù, của nơ vàng, của những tấm giấy nguyện cầu, là để tưởng nhớ sự kiện Thiên An Môn, cũng hàm ý lên án sự đàn áp bằng bạo lực. Màu đen ấy là nét quyết liệt bên cạnh những hình ảnh thơ mộng kia. Với những biểu tượng vừa dịu dàng vừa kiên cường được chuyên chở bởi một lớp thanh niên có ý thức chính trị và có trình độ văn hoá cao, có phải vì vậy mà cuộc biểu tình này gây được sự chú ý và tình cảm thế giới?
Trong những giờ khắc căng thẳng ấy, có những hơi thở ra nhẹ nhàng từ những người trẻ tuổi, trẻ trung thì cái gì cũng có thể xẩy ra, và đã xẩy ra một cách ngộ nghĩnh, đẹp đẽ, như vầy, một cặp đôi đã đính ước nhau trong lúc cô Crystal Chan còn mặc chiếc áo mưa trong suốt để phòng hơi cay, trên cánh tay cậu Yau Chi-hang thì đầy khẩu hiệu đấu tranh, sau đó cả hai cùng hô “phổ thông đầu phiếu thực sự”. Lại có cặp chụp hình cưới trong hàng ngũ biểu tình (tienphong.vn). Cái lãng mạn của thời phải sống chung với quá nhiều khắc nghiệt, cũng có khác, và có lẽ nó quý hơn xưa, vì nó quá khó khăn, trắc trở.
Tôi muốn nói đến một ánh sáng xanh vào đêm 29 tháng 9. Thay vì là đêm thắp nến như thường tình, thì họ, những người trẻ của thế hệ hôm nay đã thắp bằng ánh sáng điện thoại di động, hàng chục ngàn iPhone toả ra màu xanh huyền diệu trong đêm. Lồng trong không khí sôi sục của một cuộc biểu tình chính trị là ánh sáng của bài thơ. Bài thơ xanh hy vọng. Hy vọng họ sẽ chiến thắng, và sẽ gây được hiệu ứng tới những nơi trên thế giới còn vắng bóng tự do dân chủ, dân quyền.
Đó là những chi tiết làm tôi cảm động và rung động.
Trong một lan can ở khu Admiralty (khu Kim Chung), người ta thấy một biểu ngữ màu vàng, chữ đen, câu “You may say I’m a dreamer. But I’m not the only one”Bạn có thể cho rằng tôi là một kẻ mộng mơ, nhưng không chỉ riêng tôi” (thanhnien.com.vn). Ai đó đã nói, hầu như những điều thành tựu trên cõi trần gian này đều khởi đầu từ một giấc mơ. Những người trẻ ở Hồng Kông hôm nay đang thức dậy để hiện thực giấc mơ của mình, để nhân dân họ được sống trong cảnh mà họ ước mơ. Cho tới hôm nay, những đòi hỏi của sinh viên học sinh và dân chúng chưa được chính quyền Hồng Kông đáp ứng, và chúng ta chờ đợi những ngày sắp tới trong cầu nguyện và tin tưởng. Tôi xin thắt trên cổ tay mình một dải nơ vàng.

Hôm nay, 14 tháng 10, kể từ lúc bùng ra ngày 26.9, cuộc biểu tình đã bước sang ngày thứ 19, chính quyền Hồng Kông đã động đậy, không phải để đối thoại với sinh viên học sinh và nhân dân, mà lịnh cho cảnh sát dỡ bỏ rào chắn của họ ở khu Admiralty, sau khi những hàng rào bằng kim loại bị cắt thì sinh viên dựng lại bằng hàng rào tre, họ nói: “Chúng tôi có thể rời đi vì chúng tôi không thể chống lại các anh, nhưng chúng tôi sẽ không bỏ cuộc”, “Chúng tôi sẽ dựng lại chướng ngại vật sau khi cảnh sát dỡ bỏ. Chúng tôi sẽ không đối phó với họ bằng vũ lực” (vnexpress.net)
Ngày 15 tháng 10, theo tin tức RFA “Cuộc biểu tình bất bạo động của sinh viên học sinh Hồng Kông đã bước sang một bước ngoặc mới khi cảnh sát tiến hành các cuộc đàn áp bằng sức mạnh bất kể người biểu tình vẫn kiên cường không tỏ thái độ chống lại hay bỏ cuộc. Liệu sức chịu đựng của họ kéo dài được bao lâu và thử thách này phải nên chấp nhận trong thái độ nào?… 46 người bị bắt, hàng trăm căn lều bị xé rách, mọi chướng ngại đều bị giải tỏa và nhất là đã có máu đổ. Xét về bề ngoài thì sự đàn áp chưa đến nỗi thô bạo nếu so với các cuộc cách mạng khác…tuy nhiên đối với Hong Kong, xứ sở có truyền thống dân chủ từ hơn trăm năm qua thì việc cảnh sát đánh đập sinh viên, học sinh là hành động khó tha thứ.”
Tôi thấy buồn và lo lắng. Cầu nguyện cho họ giữ được lửa đấu tranh, xin Thánh Gandhi ban cho họ sức mạnh bất bạo động. Cơ hồ như một đường chỉ mong manh, khi những tấm thân, đầu óc thư sinh ấy bị khích động bằng bạo lực, liệu họ có đủ bình tĩnh bất bạo động không, có đủ đoàn kết và lì đòn để phong trào không bị dập tắt không. Tôi sợ thấy hình ảnh những chiếc dù bị rách, nằm thúc thủ trên những con đường, tôi sợ những đoá hoa vàng dân chủ bị héo dưới nắng bạo lực… Cuộc tranh đấu này sẽ kéo dài tới bao lâu. Thời gian ơi, xin ở cùng họ, những tấm lòng yêu nước trẻ trung, nghệ sĩ và trong sáng.

Những Mùa Nắng Nha Trang

Nếu tôi là họa sĩ, có lẽ những giọt nước mắt xa Nha Trang sẽ được vẽ bằng một mầu sắc nào đó rất lung linh trong một bức tranh mùa nắng, có đôi mắt to của một cô bé 16 tuổi đựng suốt năm tháng ấu thơ dạt dào tiếng sóng, một ngày con sóng bật ra khỏi khóe mắt thành những hạt lệ, nên nó sẽ là một mầu rất mặn biển, để người xem tranh biết được nỗi chia lìa đó đã cứa xót lòng tôi đến thế nào.

Tôi không là họa sĩ, cũng không là một tài năng cụ thể nào đó để có thể thưa thốt cùng người một cách diễm lệ hình ảnh 16 mùa nắng Nha Trang, Nha Trang nhi đồng, Nha Trang dậy thì, và, Nha Trang khói sương giật lùi sau chuyến xe lửa đang chở tia nhìn nuối buồn đau của tôi ngày tôi bị gỡ đi cái núm gió nắng mặn mòi ấy. Thế nên tôi cứ khắc khoải khi đêm về thốt nghe như có tiếng tầu lửa vang bên ngoài cửa sổ. Thế nên tôi nghĩ mình nợ Nha Trang một món nợ ân tình. Tôi nghĩ, vâng, tôi nghĩ nếu cho tôi trở lại mười sáu năm đầu đời để lại dung giăng dung dẻ với Nha Trang, thì có lẽ tôi sẽ biết nạp một cách tận tình hơn hơi thở phập phồng của phố biển, để bây giờ có thể viết về nó một cách tròn đầy hơn, tha thiết hơn.
Thật sự lúc này tôi thấy mình đã sẩy đi ít nhiều ký ức về Nha Trang, Người đã cùng tôi một thời bé dại. Tôi đâu biết rằng mỗi bước nhảy cò cò của tôi là từng bước một ánh nắng buổi mai đi về sau lưng, mỗi mảnh ngói nhỏ ném xuống đánh dấu ô “cái nhà” của mình chỉ là một không gian hư ảo, tan đi khi những đường phấn kẻ ô chơi bị xóa vội vàng dưới cơn mưa …Tôi cũng không hay mỗi trái banh thảy lên là từng thẻ đũa bị tóm, tờ tợ như từng mảnh thời gian bị lấy đi, để khi tàn một ván chơi thẻ thì thời gian không còn dấu gì trên vuông gạch…Chắc không ai lúc bé mà không chơi trò u mọi, tôi nhớ, chỉ với 5,6 anh em trong nhà nên chia phe không đều, luật chơi lại ấm ớ, chơi miễn sao mấy anh em thấy ổn là được, chỉ mỗi mình tôi là con gái, lại nhỏ bé, hơi thở ngắn nên hình như tôi làm tù binh hơi bị nhiều, chỉ mong phe ta u u tới cứu. Tiếng u u xa vời không đến được để gỡ ra cho tôi nỗi buồn xa quê, nó ở đó mở mắt hoài vọng một bàn tay Nha Trang. Còn gì nữa bé thơ ơi, Nha Trang ơi, hãy về trong giấc mộng để tôi được kinh nghiệm thêm lần nữa những nhịp đập ban sơ đầu đời. Có nước sông mầu nhiệm nào cho mình trẻ lại, chắc tôi sẽ tham lam như người đàn bà trong cổ tích, uống cho đến khi hóa thành trẻ sơ sinh, để lại được lớn lên từ hạt gạo thơm ruộng đồng nước ngọt Nha Trang, để lại học nói từ hương biển mặn. Để lòng xanh đại dương. Để tóc lại được mướt xanh dương liễu. Để tâm an bình như ngọn núi trầm lặng tím đứng trên biển trong hoàng hôn. Để bước chân được lay động khi trong chiều trên con đê thấy đoàn tầu xe lửa nhả khói phía xa bên kia những cánh đồng quê nội. Để lại được lớn lên, lần nữa, Nha Trang… Lớn lên da ngào muối biển/Lớn lên cát trắng chân quen/Lớn lên môi cười nắng ấm/Lớn lên mắt xanh trời rộng/Lớn lên sóng vỗ trong lời/Lớn lên tóc rằm dương liễu/Lớn lên biển ở trong tim* (thơ ntkm)…

Người đem tôi vào không khí mẹ ấy, là bà nội tôi, là vòng tay của mẹ tôi, dĩ nhiên là có yếu tố hoàn cảnh nữa nhưng cái đó không là điều cụ thể trong tôi. Bà nội từ Thuận Mỹ, đã mua vé máy bay cho mẹ và các anh tôi, bay từ Hà Nội vào Nha Trang, lúc ấy tôi chỉ được mấy tháng, ngủ say trong tay mẹ. Tôi chưa nghe mẹ tôi kể về những ngày đầu ở Nha Trang thế nào. Cho đến bây giờ, chỉ biết một cách lâng lâng vui sướng rằng, bước chân đầu tiên chạm đất của tôi là đất Nha Trang, âm thanh bập bẹ tiếng con người của tôi là âm thổ nhưỡng cát trắng biển xanh. Hình ảnh đất trời đầu tiên mà tôi biết cảm xúc là vòm trời cong giáp biển, là con mương ốm o chảy loanh quanh ở làng nội. Màu sắc thơm vị giác tôi là màu cà phê sữa của con mương, đầy mắt tôi là màu tím rưng rức bụi trâm ổi. Và hương, một thứ hương tôi đã gọi là bùa, cái hương đồng nội trộn lẫn mùi nắng trưa, đất bùn, phân trâu bò, lá tre xanh. Âm thanh quyến luyến tôi là tiếng xình xịch xe lửa mỗi cuối tuần đưa gia đình tôi từ thành phố về quê, và tiếng sóng vẫn là vọng âm quen trong “giấc ngủ nhớ nhà”. Tôi nhớ khi tôi mới tới ở Santa Ana, đêm đầu tiên tôi giật mình thức giấc vì tôi đã nghe như có tiếng sóng rào rào vọng tới, tôi hỏi và được giải thích đó là tiếng xe hơi chạy trên freeway, trời, sao giống âm tiếng sóng xào biển khuya vậy, không biết tôi cảm giác chính xác không hay là vọng ảo, bạn ơi? Nói nhỏ cùng ông Tạo rằng, chân dung người tình Nha Trang của tôi đấy, chỉ cần người “điểm nhãn” nữa là thành duyên nợ. Nhưng mà thôi, chỉ hẹn hò cũng đã ngất ngây một kiếp tôi rồi…

Trên con đường hò hẹn ấy, là những bước theo mẹ tới trường, trên một con dốc ở Cầu Đá, rồi con đường nhỏ lởm chởm ở phố Sinh Trung, bước ngắn bước nhỏ nên gõ nhịp rất mơ hồ trong cõi nhớ, ở đó những cây muồng bên vệ đường luôn là bóng mát cho những đứa trẻ ngồi chơi đùa, nhà ba mẹ tôi nhỏ lắm, tôi nhớ nền nhà màu xi măng đen, và ngạch cửa với hai bậc tôi vẫn thường bước lên bằng đôi guốc mộc quai nhựa trong, sao bé thế mà lại đi guốc nhỉ, nhưng đó là hình ảnh tôi rất thích về mình, bé xíu, mặc quần lụa trắng hai ống so le ít nhiều, lại lênh khênh trên đôi guốc, đứng dưới gốc muồng, bên cạnh hai ông anh, cũng bé, đang chơi bắn bi. Đó là thời gian của chồi nắng. Chồi 3, chồi 5 tuổi. Nắng ăn nắng ngủ và nắng khóc nhè.

Trên con đường hò hẹn ấy, là giàn hoa ti- gôn hồng, hoa giấy đỏ giăng ngang cổng một ngôi nhà trên con đường đất dẫn tới cuối là một ngôi trường tiểu học, ở đầu con dốc nhỏ, con dốc mà anh Khoa tôi đã có lần ngã rất đau, đến nỗi cái bánh xe đạp nhỏ bị quẹo thành số tám. Nhà ba mẹ tôi lúc này lớn hơn ở Sinh Trung nhiều lắm, có một cái thềm rộng hình chữ L ngược, được che rợp bởi giàn hoa giấy và thiên lý tây, hương rất thơm vào những đêm khuya, dù chưa đủ lớn để bắt kịp được mùi hương với ý nghĩa tâm linh của nó, nghĩa là, chỉ đơn giản mùi mình thấy thơm, không phải hương làm mình bâng khuâng. Bạn hiểu ý tôi không? Thềm nhà ấy như biển trên đó có chiếc thuyền chở ba mẹ anh em tôi những buổi tối chơi đùa đến khuya, để kết thúc có khi là một bữa phở xe mà anh em chúng tôi lúc chờ đứa nào cũng chảy nước miếng, tôi thề là chưa có bát phở nào trong đời tôi ngon đến thế, mà nghe kể lại giá chỉ có 5 cắc một tô. Thềm nhà ấy cũng là nơi chúng tôi ngủ vào những ngày nóng, thời đó ban đêm nhà không phải đóng cửa, tôi nhớ rõ như thế, đó là vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Những ngày mưa thì thềm nhà lại biến thành một sân trượt nước, có lần anh cả tôi nhảy từ thành cái hồ nước xuống thềm và anh trượt thẳng vào cơn bất tỉnh, làm cả nhà cuống sợ, anh Khôi ơi, anh còn nhớ hương vị thứ thuốc chữa cơn ngất của anh không? Từ ấy chúng ta không còn được trượt nước dưới mưa lạnh nữa.
Thềm nhà ấy, nắng xiên vai 7 tuổi ngồi chơi thẻ một mình, có khi tôi rủ được Khuê, cậu em kế chơi cùng, nhưng nó là con trai, đâu kiên trì với trò chơi “lẻ tẻ”, các anh tôi vẫn kêu những trò của tôi là thế, phải là chơi bắn súng giàn trận đánh nhau, đúc kiếm trong những khuôn củ khoai, anh Khoa, anh Khải à, còn nhớ cách đúc kiếm này không vậy, em nhớ, những cây kiếm nhỏ rất đẹp, sáng loáng, ngày đó, em rất thích, những muốn xin một cái để dành vào kho đồ chơi lẻ tẻ của mình. Những trò chơi như thế kéo tuổi thơ chúng ta đi qua tháng ngày, em là con gái ở giữa 3 ông anh và 3 cậu em, không theo nổi những trò chơi lớn, nên ngày đó em hay đứng một mình… em thích chơi năm mười, ẩn núp mà không muốn bị tìm thấy…dường như em đã lớn lên trong cái kén của riêng mình, như thế.
Trong kén ấy, nắng 8, 10 tuổi nhả những sợi tơ…, nắng sắm vai cổ tích, nắng chuyện trò với búp bê. Không hiểu sao, cái ông anh họ bên nội, lớn hơn tôi nhiều lắm, giật lấy con búp bê của tôi và làm hư tóc, rách cả cái áo đầm đỏ của nó, rồi anh ta bỏ đi, tôi đứng ôm con búp bê bị thương trên thềm trưa nắng, mẹ tôi lại đi vắng, tôi chả biết mách ai, chỉ đứng đó ôm con búp bê chờ mẹ, hình như búp bê cũng khóc. Tôi rất ghét người anh họ này, thậm chí đến khi lớn tôi cũng không thể nào tha thứ cho anh ta được, vì từ lúc đó tôi không còn chơi búp bê nữa, hễ thấy một con búp bê nào là hình ảnh con búp bê áo đầm đỏ bị thương lại làm tim tôi co thắt. Đó là con búp bê tôi thích nhất. Lúc này thì cái đau đó đã là một vết sẹo phai dấu, người anh họ kia cũng đã không còn. Sau này tôi có thêm một con búp bê khác, phần thưởng một bài thơ thiếu nhi, nó cũng mặc áo đầm đỏ, nhưng tôi không tha thiết nữa, có điều nó làm tôi nhớ đến một ông bác nhà văn, bạn của ba mẹ tôi, ngày đó bác ở Sài Gòn ra Nha Trang chơi cũng khá lâu, hình như bác bị ốm nặng hay sao mà tôi thấy khăn tay bác có dính máu, tôi nhớ mãi câu bác nói, bác không chết đâu chờ con thành thi sĩ làm thơ người lớn, bác xoa đầu tôi, không phải thơ búp bê nữa nhé. Thế mà, vào một ngày cuối tháng tư sau đó rất lâu, bác đã tử nạn trên một con tầu, và mộ bác là lòng biển xanh thẳm. Ôi biển của tôi, biển rất hiền rất bao la của tôi, bỗng một thời nổi lên những con sóng oan nghiệt. Bác ơi, con xin lỗi bác là con đã yêu biển, không ngờ rằng đó là nơi vĩnh viễn bác ở lại, và con cũng không là thi sĩ viết những bài thơ người lớn như bác nói. Nhưng con viết những lời của con búp bê với trái tim biết đập dẫn dòng máu đỏ về tim nuôi sống những cảm xúc, con sẽ tặng bác một bài thơ như thế, hòa âm những nỗi đau…
Nắng thời này đúng là tơ là lụa, nắng nối một đường hoa thơm cỏ lạ từ lòng bố mẹ thị thành đến lòng bà nội quê nhà, nắng mở con mắt ngạc nhiên từ ô cửa sổ toa tầu. Có lẽ thời gian này, thích nhất là những cuối tuần được về quê nội bằng xe lửa, và cả những con thuyền giấy thả ra ngoài cửa sổ khi tầu đi qua cầu, các anh tôi reo lên khi những chiếc máy bay giấy tung theo gió, rồi, cắn ngón cái, vẫy những ngón còn lại để lêu lêu tôi, thuyền mà lại bay lên trời, hí hí… Tôi cũng khá ngẩn ngơ vì điều ấy, ôi hay vì vậy mà những ước mơ không bến đỗ của tôi vẫn là hoài vọng cho tôi một đời ngóng theo? Và giấc mơ của tôi là chiếc thuyền giấy mỏng manh, bay đi…? Nói đến xe lửa, thì lại gắn với những giọt nước mắt trên thềm ga Nha Trang những lần tiễn ba tôi đi Sài Gòn. Ngày đó ba tôi phải dạy học hai ba nơi. Thế là, có những ngày ba tôi xa nhà và tôi thấm mùi đưa tiễn, chín mười tuổi đã biết cái mặn của nước mắt khóc vì xa người yêu mến, ba tôi rất thương tôi, vì chỉ có hai đứa con gái trong một đàn con trai, lúc ấy em gái tôi chỉ khoảng một hai tuổi, nên chắc vì thế mà cứ mỗi lần đưa ba đi xa là mẹ chỉ dẫn theo mình tôi. Ưng ức mãi trong nhớ hình ảnh con tầu khuất dần để lại đường khói đen dài, để lại mẹ và tôi đứng trên thềm ga rộng bên cạnh những đường ray bị bỏ lại im lìm, tôi nắm chặt tay mẹ òa khóc, gió thổi lộng hai tà áo lụa màu mỡ gà của mẹ, tôi khóc hoài, đến nỗi mẹ phết vào vai tôi, tiên nhân con bé này làm má cũng khóc đây này, có nín đi không. Lúc này nhớ lại lời mẹ, tôi thấy tức cười và thương mẹ quá, giọng nói mẹ ướt nặng như tấm khăn bị nhúng nước. Rồi hai mẹ con líu ríu ra về, tôi nhớ thường là ngồi trên một chiếc xe xích lô đạp, ghé vào nhà bạn thân của mẹ, bà giáo Hương, chắc có lẽ mẹ tôi muốn chia sẻ nỗi buồn chia tay, tôi thì vẫn rấm rứt cho tới giấc ngủ đêm…
Nắng đẫm trang vở học trò. Ôi nắng 11, 13 tuổi. Tuổi bản lề giữa nụ nhi đồng và hàm tiếu hoa, chẳng phải tuổi 13 mà đã được gọi là nàng của nhà thơ tình yêu Nguyên Sa đâu. Nắng non bình minh mặt trời vừa nhú trọn khỏi mặt nước xanh. Nắng chưa nhấn mạnh hơi thở mặt trời mãn khai, đêm chưa mơ màng trăng liễu vào giấc ngủ say. Biển còn vỗ sóng ngoài tầm mơ mộng.
Hồi này vì nhảy một lớp nên tôi bằng lớp với anh kế, và thế là chơi với toàn bạn của anh, nên cũng khá là được cưng, anh em kết nhau tới tuổi Tú Tài, chắc là có rất nhiều hình ảnh trùng trong ký ức của nhau. Nhưng đâu có dòng sông nào trở lại, phải không các anh, trôi theo ngàn xanh những hạt biển, bao giờ nữa dòng sông đưa đám lục bình quây quần trở lại với nhau trong ánh tím thơ ngây… Anh Tấn Khải, Toàn, Huy, Được, nhớ không, một góc trời Nha Trang, các anh đã có một người em gái, là tôi? Và các bạn Kim Anh, Hoàng, Dìn, Tường, Phong, Như Ngọc, Hiên, Hồng… giờ nhìn lên mảnh trăng thượng tuần có cảm thấy đó là ánh sáng của mắt nhìn chúng ta thời thơ ấu? dù cho sợi thời gian dài đã mấy mươi năm, tôi tin thế, nếu có ngày chúng ta gặp lại và nhìn nhau…
Nắng chẻ xanh ngàn tia lá dừa đường vào Vĩnh Điềm, có mắt cười, giọng nói vui của một người anh bên ngoại, sao anh hiền và sao anh chiều tôi đến vậy, tôi rất ngưỡng mộ anh vì anh học rất giỏi, nhất là toán, và vì tôi dốt toán. Mẹ anh tần tảo nuôi con nên anh mơ ước một chiếc xe gắn máy hoài mà không có, nghĩ thương anh quá, tôi lấy một tờ giấy vẽ thành tờ giấy bạc ghi số tiền đúng giá chiếc xe ấy, bảo anh cầm đi mua xe, anh cười rất vui với hàm răng khểnh, nói, đây là số tiền lớn nhất đầu tiên anh có. Anh Quế ơi, chưa ai chiều và nhịn em như anh, em nhớ những buổi anh cặm cụi dạy em học toán, em đổ lười không chịu học, chỉ muốn nghe kể chuyện, vậy mà anh vẫn nhỏ lời dỗ dành… em nhớ con gió thổi heo hút trong cái hẻm nhỏ vào nhà anh, đâu nghĩ gió thời gian, gió cuộc đời thổi anh em mình xa nhau mấy chục năm trời, khi vừa gặp lại mới đây, em không ngờ chúng mình còn khóc được nhiều đến thế, thấy như biển Nha Trang dạt dào bao năm, đang vỡ…

Trên con đường hò hẹn ấy, tôi dừng lại bởi sắc hoa sầu đâu trước ngõ, nó còn có tên là soan, sầu đông. Những cánh tím nhỏ nhỏ ray rắt gió se lạnh Nha Trang. Lại là sắc tím. Ngay trong vườn nhà. Nhà ba mẹ tôi lúc này ở trên một con đường mới mở phía phải cuối đường Phước Hải, tên Lữ Gia, con đường cao như một con đê, nhà cửa còn ít nên tôi nghe được cả luồng gió chạy, có lần tôi đã té xe đạp xuống vệ đường sâu khi những chiếc xe GMC chở lính Mỹ vượt qua, có lẽ tôi giật mình vì tiếng la hét của họ, mỗi lần nhìn vết sẹo té xe trên đầu gối là tôi nhớ đến Thu Hương, cô bạn ngày hai lượt cùng tôi đi học trên con đường thênh thang gió này.
Dưới bóng cây sầu đâu thả những cánh tím trắng mơ màng ấy, tôi và các bạn thường họp nhau những tối ăn chè và hát hò. Vẳng lại rất xa. Đến nỗi như mơ hồ, tiếng đàn guitar của Thi, của anh Khải, tiếng hát của Minh Tâm, Thu Hương, Nguyễn Được, tiếng cười nhỏ e ấp của Tuyết Mai, các bạn nhớ coi ngày đó tôi có ngâm thơ không. Tôi đã mê thơ Quang Dũng lắm mà. Âm thanh thời đó của chúng ta bay lên tàng cây tím rồi theo mỗi đứa một mảnh trời riêng…sầu ơi tan về đâu…
Nắng ấy là nắng tím. Nắng dậy thì. Nắng biết im lặng bên cửa sổ nhìn hoa tím sầu đâu. Biển khẽ đi vào quỹ đạo mộng mơ.
Tôi và Thu Hương mỗi ngày đi bộ đến trường, đã có những bước chân ai đi ở đằng sau, ngày đó chưa có bài thơ Em Tan Trường Về của Phạm Thiên Thư để bạn hát tôi nghe nhỉ. Thế mà cũng nắng mưa một đoạn đường đưa đón, một thoáng con dốc đá lên Nhà Thờ Núi trao vội lá thư nói chuyện nhớ thương, tả tình tả cảnh hoa lá cành, ấy vậy mà cũng bận rộn lòng để vướng chút tơ. Nhưng tôi phải kể cho có ngọn ngành. Một đêm anh Khải, tôi cùng các bạn, dĩ nhiên là có người bạn đã giăng tơ kia, đi chùa núi leo lên đến Kim Thân Phật Tổ, tượng Phật mầu trắng sừng sững trên đỉnh núi, chúng tôi gặp một bọn du đãng, chọc ghẹo tôi và Thu Hương, tôi sợ muốn chết, nhất là sợ đám con trai đánh nhau thì thế nào cũng có đổ máu, tôi nói với anh Khải tôi, thôi anh, mình chạy đi tụi nó dữ lắm, em sợ. Và thế là chúng tôi nắm tay nhau chạy, nói thế nào nhỉ, ừ, chạy nhanh hết sức có thể của tuổi 15, 16, chạy băng qua những ngôi mộ ở sườn núi. Có câu tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu lận mà. Về đến nhà mới hoàn hồn. Hoàn hồn thì tỉnh người ra, và người bạn kia, chẳng phải là người hùng cứu người đẹp như trong xi-nê gì gì nữa, “mối tình” bốc hơi nhanh hơn hạt nước trên thềm nắng. Hôm nay ngồi nhớ lại tôi không khỏi bật cười cái tuổi mười sáu, dễ thương dễ ghét ấy. Thu ơi, mi có nhớ không, con đường Phước Hải mòn bao chiếc guốc, phai bao nắng những chiếc áo dài trắng đầu đời…, những buổi trưa ngồi lục cơm nguội ăn với sườn ram trong căn bếp nhỏ ở nhà mi, những buổi chiều cùng nhau xách giỏ đi chợ sau ngôi chùa Kiều Đàm, mi bày cách lựa cá nục tươi, những buổi tối ngồi học bài cứ canh nhìn qua cửa sổ nhà nhau để xem đứa nào tắt đèn trước, thế là thức học đến khuya… này, Thu, nhớ cả đôi mắt buồn mơ màng của mi khi hát bésame, bésame mucho… cả hai đứa đều 16 tuổi như cô tác giả bài hát ấy, chưa hề tưởng đến một nụ hôn, thế mà cứ du dương hồn nhiên bésame… bésame… tuổi mười sáu như được Nha Trang mớm cho cái ngát xanh của trời và biển, sóng cứ vỗ đều trên cát, gió cứ lộng những hàng dương …

Trên con đường hò hẹn ấy, một ngày tôi bước lên một toa tầu để lại đôi mắt Nha Trang buồn thẫm trên ga. Trên con đường hò hẹn ấy, đã rêu phong bao cột mốc thời gian?
Nắng bây giờ là nắng biết được mệnh trời. Nắng trôi theo con sông Cái chảy những dòng hẹn với biển xa. Đã hẹn đã hò, cũng ước cũng thề, thì dẫu con đường có dài, thời gian có mịt mù thế nào đi nữa thì cũng có lúc chúng mình sẽ gặp lại, nói cho sâu lắng đá vàng hơn, thì chúng mình sẽ tái ngộ, nối lại một đường tơ lơ lửng, Nha Trang ơi, Giấc Mơ ơi. Từ lúc cất bước vào kiếp người là tôi đã bước lên một con đường mang tên Hò Hẹn. Và xa nơi tít tắp kia, cuối đường, thời gian sẽ trả lại cho tôi những gì nó đã lấy.

Cách đây một tháng, ngồi trong quán mì Triều Châu ở Santa Ana, anh chị Thành bảo, em viết một cái gì về Nha Trang cho đặc san số tới đi, kỷ niệm một chuyện tình chẳng hạn. Tôi đã cười ú ớ, một chuyện tình ư (ơ, nhờ vậy mà tôi có bài viết này), từ sơ sinh đến 16 tuổi ở đó, tôi chỉ có một người tình duy nhất, Nha Trang, viết hoa một cách nắn nót, gửi trao. Cả hai đều thủy chung gắn bó. Tôi biết, khi tôi trở về, tôi sẽ về bằng nhịp đập trái tim 16 tuổi, và chàng, Nha Trang, vẫn sẽ vòng tay ấm ngày cũ đón tôi. Cả chàng lẫn tôi đều là hòn đá vọng, chờ nhau, trên con đường hò hẹn trẻ trung ấy.
Và tôi cũng xin được một lần nói nhỏ, mối tình ấy hóa thân vào giấc mộng, một đời tôi mơ. Mối tình ấy là chiếc bóng, theo tôi không rời. Để tôi luôn quay đầu lại, nghe được tức khắc tiếng của biển, chiếc khăn lụa xanh trên con đường người bỏ dấu tôi tìm… Đó có phải là phút giây tôi chạm được khói sương của cõi hẹn hò?

Nhà Thơ Lữ Quỳnh
Và Con Mắt Của Giấc Mơ

Một buổi sáng tháng 7 của mùa hè này, tôi được gặp gỡ ba người anh trong cõi văn chương.
Một đến từ Virgina, nơi quanh năm rét mướt, nên hơi cọ của anh đầy lửa, lửa xanh khơi từ trái tim phết lên tranh sắc mầu của hy vọng, hoạ sĩ Đinh Cường.
Một đến từ miền bắc Calif. miền đất nở ra một thung lũng hoa vàng thơ mộng, nên thi sĩ đi trong thời gian của mình những bước thao thức của giấc mơ, người thơ Lữ Quỳnh.
Một, ở ngay đây, lần đầu tôi được diện kiến dù từ lâu đã văn kỳ thanh, nhà thơ Thành Tôn, nhớ nhất câu thơ của anh, buổi sáng soi gương và đội mũ/ lòng đã hồ nghi khuôn mặt quen. Đôi khi soi gương tôi cũng có cái nhìn ngờ ngợ mình như thế.
Nhưng sáng nay thì khuôn mặt mùa hè thấy được niềm vui rất rỡ ràng từ những tình thân. Tôi đang thời gian dưỡng thương chờ phục hồi, cũng hơi e ngại khi phải xuất hiện với một dung nhan sau cuộc mổ và đi đứng với cái walker, nhưng kinh nghiệm đã cho tôi biết rằng, những phút giây quí, có thể sẽ không trở lại trong đời, lần nữa. Nên sau đó tôi có được tự nhiên chuyện trò, nhìn anh Đinh Cường ngồi xem world cup với nhà tôi với phong thái của các ông say mê bóng đá. Thật thú vị khi tôi chợt nghĩ rằng, tôi biết một hình ảnh khác của hoạ sĩ khi không cầm cây cọ. Còn anh Lữ Quỳnh thì đã vội vã đi công việc cùng anh Thành Tôn.
Mà lạ ghê, lần nào gặp anh Lữ Quỳnh cũng chớp nhoáng như thế. Nhớ lại, lần đầu tiên, là nghe anh LQ nói, hôm ở Viện Y Dược Học Dân Tộc, nghe anh Trương Thìn gọi tên khánh minh, thì biết đó là KM. Vậy cũng như không, coi như chưa quen nhau. Lần thứ hai nơi đám cưới con anh TT, tôi ngồi với Ngọc Sương, Quý Loan và Trần Lê Sơn Ý, cô nhà thơ trẻ măng, thơ rất hay, được anh Lữ Kiều vô cùng hâm mộ, anh LQ ngồi đối diện tôi, và được giới thiệu đàng hoàng, đó là lần tôi gặp và được nói đôi ba câu với anh. Lần thứ hai, gặp anh ở toà soạn Việt Báo, Little Saigon, cũng vội vã, anh em chụp với nhau tấm hình rồi chia tay, vì rằng tôi không lái xe, nên có người đến đón thì phải đi về. Lần này, cũng như mây xẹt ngang, rồi đi.
Trong nhóm Ý Thức, chỉ có anh Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lê Ký Thương là tôi được gặp và nói chuyện nhiều, còn anh Lữ Quỳnh thì chỉ, như thế. Những nhân vật này luôn cho tôi cái nhìn rất quý về một thế hệ của những chàng lãng tử. Thế hệ được thời gian trao tặng rất nhiều và cũng lấy đi của họ không ít, có khi keo kiệt đòi trả lãi. Tặng phẩm đẹp nhất là họ có được thời gian để sống cho giấc mơ, và cũng nghiệt thay đó cũng là điều đầu tiên bị tước đoạt. Cái chông chênh giữa được và mất ấy đã để lại trong thơ văn tranh của họ những nét đặc biệt, vừa thơ mộng vừa bi thương.
Thơ mộng ở chỗ họ theo đuổi rất quyết liệt niềm đam mê văn chương nghệ thuật, trong một không gian vốn vô cùng trắc trở của cuộc sống còn, lại lọt vào quãng thời gian khắc nghiệt của lịch sử.
Chính vì vậy mà Bi thương. Trong kề cận sinh tử, những chàng nghệ sĩ có tâm hồn như mây ấy đã nương tựa vào sự gắn bó của tình bạn, có phải vì ý thức được sẽ có những ra đi bất ngờ mà họ hết mình hơn trong những lúc còn bên nhau với ly rượu đầy vơi? Và họ phổ những nét đẹp đau thương ấy vào câu thơ lời văn tranh vẽ?
Họ đã khắc hoạ được một dòng văn chương thơ- mộng- bi- thương.
Cho nên khi đọc họ tôi luôn thấy lòng mềm theo những lãng mạn kiêu bạt cùng ngậm ngùi cho những mất mát mà họ chỉ đủ sức buồn trong phẫn nộ, hay đôi khi là tiếng cười, vì tận cùng của nỗi đau không phải là hạt lệ. Tôi thấy rõ hơn những điều mà tôi đã không thấy hết vào lúc điêu linh ấy. Cái thời mà Lữ Quỳnh đã buông câu cười nhạt “Cánh vừa mọc nhưng thiên đường đã mất”(Hôm Nay, Ngàn Sau). Ôi! Như Thi Sĩ Du Tử Lê ở lời tựa trong thi phẩm Sinh Nhật Của Một Người Không Còn Trẻ, đã nói, “hôm nay, đọc những trang văn của Lữ Quỳnh tôi vẫn còn nghe được tiếng reo vui, hân hoan của những con chữ búng mình trên mặt sông máu/xương gập ghềnh nghiệt, oan vận nước”.
Đọc thơ Lữ Quỳnh, cái ánh sáng lấp lánh pha lê choáng mắt tôi, là của tình bạn. Không chỉ mình tôi thấy như vậy, thi sĩ Du Tử Lê cũng nói trong bài tựa “…tôi cũng còn nghe được tiếng gọi rộn rã thanh niên, đi ra từ trái tim sóng sánh nhiệt-hứng-trẻ-thơ tình bằng hữu”. Vậy xin nghe,

Kể với quê hương
Chuyện núi rừng- máu xương
Và rất nhiều anh em đã chết
…Mỗi lần ước ao cầu nguyện
Chỉ cần giơ hai cánh tay lên
Mà nói với Trời
Niềm vui sẽ nở ra trên nụ cười trắng dã
Nhưng anh biết đã muộn rồi
Khi đất là da thịt anh em
Khi mùa xuân bắt đầu hồng lên sắt máu
Nên em ơi anh phải cúi đầu
Nhận số phận quê hương
Ánh vinh quang trong mắt chúng ta
Những người còn sống
Cũng là của bùn đất các anh
Những người đã chết
Nỗi Nhớ Từ Cao Nguyên

Anh hãy nằm yên đó
Chờ lũ bạn thân này
Chiến trường đang lửa đỏ
Máu còn xanh cho cây
Sân Bay Buổi Chiều

Đường địa cầu thấp thoáng vành nôi
Vạn dặm không dài hơn tiếng khóc
Đường Vạn Dặm

Hôm nay thì tôi biết thêm cái muôn trùng khác của tiếng khóc, cái thăm thẳm của hạt lệ vành nôi. Và cái tràn đầy của chiếc ly không, khi người một mình vắng bạn.

Đường thuốc lá chiều nay vắng bạn
Một ly mình. Và một ly không
Điếu thuốc lá ngậm hoài thấy nhạt
Khói lang thang khói cũng ngập ngừng

Quán hoa giấy chiều nay lãng đãng
Uống ngụm nắng tàn trong chiếc ly không
Chiều Tân Định

Tuổi trẻ không quê hương
Chúng tôi nghèo đủ thứ
Năm tháng thèm quê hương
Như khát lời ru ngọt
Tuổi Đời

Nghèo đủ thứ nên nhà thơ lãng mạn của chúng ta đã giàu những giấc mơ. một ánh sáng, mầu sắc khác trong thơ Lữ Quỳnh.

Trắng như những giấc mơ
Có bạn bè khuất núi kéo nhau về
Thêm Một Năm Xa Tiếng Nói Cười

Lòng ta quanh năm chỉ một mùa vàng lạnh
Giấu bạn bè trong những giấc mơ
Một Lần Rồi Xóa Tan

Giấu bạn bè trong những giấc mơ. Đẹp và cảm động quá.
Và, để có được giấc mơ, chắc cũng không ít lần, nơi ấy, nhà thơ phải chịu giá rất đắt. Cũng cam.

Chiều về nặng trĩu vai
Vác cây đời thánh giá
Đêm nằm canh giấc mơ
Sợ những điều trả giá
Tiếng Chim Lạ Ở Trại Cồn Tiên

Cũng vì, bất cứ giá nào cũng không để tắt ánh sáng của giấc mơ, nên trái tim dẫu có héo hon, cũng nhờ ánh lung linh ấy cấy lại niềm khát khao cuộc sống, và nhà thơ đã thu gặt được mùa màng đầy những mùa thu chín trái.

Những ngọn nến thắp bằng ánh sao
Soi trái tim khô
Đang nẩy mầm bất tử
Giấc Mơ

Lúc mở mắt gặp mùa thu chín trái
Nên lời anh vi vút tiếng chim rừng
Nên hồn hiền như những lứa nam trân
Và hơi thở thơm mùi hoang dạ thảo
Bài Tình Trăng Sao

Ở trên tôi đã nói, ánh sáng tôi thấy rõ nhất trong dòng thơ Lữ Quỳnh là tình bạn. Và ẩn chìm trong ánh sáng ấy là con mắt của giấc mơ. Vì, trong những giờ phút đẹp, thực của cuộc sống Lữ Quỳnh cũng dùng con mắt giấc mơ để hưởng thụ nó, để cảm xúc vui buồn cùng nó. Như một nghệ thuật (hay kinh nghiệm?) để trộn lẫn giữa thực và phi thực. Cái phi thực là áo khoác của thơ mộng lên tất cả những niềm vui lẫn đau buồn, trong thơ Lữ Quỳnh. Tôi có được cảm giác ấy từ bài thơ này,

thường có những giấc mơ
gặp gỡ bạn bè
những người bạn ra đi đã nhiều năm
nay kéo về
nói cười ấm áp
tôi rất vui
rất vui trong từng đêm như thế

để lúc tỉnh ra
ngồi một mình trong bóng tối
quạnh hiu.
Giấc Mơ

Tôi nghĩ, anh quí thương bạn bè, và anh đã được hạnh phúc chia cùng họ, rất thực, những phút giây đẹp đẽ, đẹp đến nỗi anh cho nó là giấc mơ. Mơ trong lúc sống thực nhé. Rồi khi một mình anh lại sống thêm một lần nữa thời khắc ấy, bằng giấc mơ. Trời ạ, người thơ sao biết sống quá vậy! Bởi vì lúc tỉnh hay mơ anh đều mơ cả… Cho nên, cái lúc tỉnh ra thấy quạnh hiu kia, tôi nghĩ, chắc nó chỉ xảy ra ở vào giấc ngủ cuối cùng, cho đến khi anh nhắm con mắt của giấc mơ.
Nhà Thơ Lữ Quỳnh đã giải thích hiện thực cuộc sống bằng giấc mơ. Đã hoá giải những buồn đau của hợp tan bằng giấc mơ. Con mắt của giấc mơ ấy là Mật Ngôn, mà tôi thấy trong tranh Hoạ Sĩ Đinh Cường, con mắt cá không bao giờ ngủ. Bởi tỉnh thức, và mơ.

Tôi muốn chấm hết bài bằng một ý vui. Đọc thơ Lữ Quỳnh tôi ngộ ra một điều rất giản dị

Tôi không còn trẻ để cầm tay em nữa
Nhưng lòng luôn sẵn lửa để cho em
Chiều Mưa Trên Thành Phố Nhỏ

Ra người ta không cầm tay mình chỉ vì người ta nghĩ không còn trẻ nữa nên ngượng, chứ không phải vì giảm lòng yêu thương. Mà chuyện cầm tay chỉ để dành cho tuổi trẻ thôi ư, lạ thiệt, thế nào thì được xem trẻ, bị coi già? Thưa nhà Thơ? … vậy thì, bây giờ tôi sẽ chủ động cầm tay người thương trước, để chứng tỏ mình còn trẻ, biết đâu sẽ được thấy lửa để cho em, và để anh bước qua nỗi tự coi mình già, như nhà thơ Lữ Quỳnh kia. Có đồng ý với tôi không? Và nếu vậy thì phải cảm ơn Nhà Thơ Lữ Quỳnh.

Nguyễn Thị Khánh Minh

Nguyễn Thị Hàm Anh

Tranh Thái Tuấn

Đó là một ngày cuối năm, mùa mưa đã qua và mùa khô cũng đồng thời bắt đầu cho hoạt động mua bán tấp nập, các hoạt động văn nghệ chựng lại, dường như bị dẹp qua một bên nhường chỗ cho việc sửa soạn lễ Tết. Thế nhưng trong cái hối hả đó, một phòng tranh vẫn được long trọng khai mạc.

Tôi đi cùng với bà quả phụ Trần Lê Nguyễn -vợ của cố nhà thơ, kịch tác gia Trần Lê Nguyễn mà sau này là một người rất nổi tiếng trong giới sưu tầm tranh- đến khách sạn Festival ở số 31 Cao Thắng, quận Ba. Nơi đây hiện diện một phòng triển lãm do đôi vợ chồng họa sĩ Lê Triều Điển – nhà thơ Phan thị Quý chủ trì, nằm sâu sau khoảnh sân. Phòng triển lãm trong khuôn viên khách sạn dường như càng lọt thỏm giữa các tiệm bánh và shop quần áo chung quanh. Con đường Cao Thắng vốn chật chội đông đúc, thế nhưng bước vào phòng tranh khác hẳn, cánh cửa kính khép lại đã ngăn cách khung cảnh xô bồ bên ngoài và mở ra một thế giới hội họa, một không gian Thái Tuấn riêng biệt.

Thái Tuấn là khuôn mặt quen thuộc của làng hội họa Việt Nam. Ông sinh năm 1918 tại Hà Nội, tự học, đã sớm tìm được cho mình một lối đi và mau chóng thành công trong lối đi riêng này. Ở trong nhóm Sáng Tạo cùng với Duy Thanh, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ… Đặc biệt, ông còn được biết tới như một cây bút lý luận hội họa. Trước kia, quan điểm hội họa của ông thường được thể hiện ở các bài viết đăng trong tạp chí Bách Khoa, Văn, Văn hóa nguyệt san… và gần đây là báo Người Lao Động, Văn Hoá Phật giáo (Saigon). Định cư ở Pháp từ năm 1984, Thái Tuấn đi đi về về quê hương liên tục. Cứ mỗi lần về, ông thường ở lại dăm ba tháng. Với vóc dáng cao gầy, mái tóc bạc trắng, ở tuổi ngoài tám mươi, ông vẫn giữ được sự tinh nhanh nhưng giọng nói khàn đặc vì dây thanh quản bị chùng. Tôi lắng tai mãi mà không nghe được ông muốn nói gì, đành chỉ bắt tay chúc mừng ông vậy.

Đó là lần đầu tiên Thái Tuấn mở triển lãm tại Việt Nam từ sau năm 1975. Bên cạnh ba bức sơn dầu, cuộc triển lãm lần ấy chủ yếu giới thiệu hai mươi sáu bức tranh được vẽ hoàn chỉnh bằng máy vi tính trên giấy Canson Ivoire. Đó là những bản vẽ duy nhất và có chữ ký tay của tác giả, ông muốn thổi hồn qua computer để hình thành nên những tác phẩm mới mẻ.

Không có tranh tĩnh vật, không tranh phong cảnh. Trung thành với chủ đề con người và đối với con người, còn gì đẹp hơn người phụ nữ, Thái Tuấn không hề phai mòn những rung cảm trước vẻ đẹp Việt Nam, vẫn là những thiếu nữ quen thuộc, cô dâu trong chiếc áo dài thụng cưới cổ truyền cầm nón quai thao, thiếu phụ bế con ngồi trên chõng tre, cô gái yếm trắng đội rổ, thiếu nữ váy đen khỏa thân bên hồ sen hồng…

Em còn khỏa nước cầu ao
Xin đừng khỏa bóng tôi vào lãng quên (Nguyễn Lương Hiệu)

Có khăn chít mỏ quạ, thắt lưng buộc múi, có quạt mo, khăn tay, có bàn trà, giếng nước, mành trúc sau lưng, bình hoa trước mặt… Những vật dụng quen thuộc và người thiếu nữ Việt Nam muôn thuở. Những thiếu nữ của Thái Tuấn ngồi đó, như đã ngồi từ trăm năm trước và sẽ còn ngồi đến ngàn năm sau. Tranh ông không có màu sắc chói chan, rực rỡ. Toàn tím nhạt, hồng tro, xám bạc, xanh ngọc… Không có khối tròn, chiều sâu. Đôi hài mũi nhọn một màu, nền một màu. Chỉ là những mảng màu phẳng giản đơn trên một nền trống thênh thang và những cô gái rũ tóc gội đầu soi mình trước ngọn nến, có vạt lúa non tơ, áng mây trắng xốp… Tranh của Thái Tuấn rất tiết chế về đường nét, ông bỏ hết các chi tiết rườm rà, chú trọng đến đầu, mặt và bàn tay. Đôi bàn tay với các ngón thuôn dài, mềm mại, hiền ngoan như đang cầm giữ, gửi trao đến người niềm hạnh phúc êm đềm… Chỉ những phần tinh túy nhất được giữ lại thế mà bức tranh vẫn tỏa ra sự đầy ắp. Ông không những vẽ ra hình dáng người thiếu nữ Việt Nam mà còn biểu lộ được cá tính, tình cảm, tâm hồn người phụ nữ ấy, bộc lộ nên một vẻ đẹp Á đông trầm lắng, một nét đẹp Việt Nam thuần túy mà dù không yếm thắm, xống nâu cũng chẳng thể lầm lẫn với thiếu nữ của bất kỳ nơi nào khác. Đoan trang nét hạnh, thâm trầm dáng thơ là một câu thơ của Thanh Tâm Tuyền dường như được viết ra chỉ để dành riêng cho các thiếu nữ của Thái Tuấn.

Hôm khai mạc, phòng tranh Thái Tuấn khá đông. Thanh Châu nhỏ bé, lưng còng gánh nặng thời gian từ đầu kháng chiến chống Pháp đến giờ mới gặp lại cố tri, Mạnh Đan râu tóc bạc phơ nhưng vẫn quắc thước, trẻ hơn là Cù Nguyễn, Nguyễn Lâm, Hồ Hữu Thủ… Với Bùi Quang Ngọc khai từ và Thái Tuấn khào khào ngỏ lời cám ơn, bầu không khí ấm áp thân mật làm tôi liên tưởng đến một phòng tranh cũng rất dễ thương vào năm trước nữa của Đinh Cường, Nguyễn Lâm, Trịnh Cung, Nguyễn Trung, Mai Chửng, Cù Nguyễn… tại gallery Vĩnh Lợi. Đó là một dịp để những người bạn cũ gặp nhau, có Nguyễn Đức Sơn đầu đội bê-rê, khoác đầy túi thơ, có Dương Nghiễm Mậu hiếm hoi lắm vì tình bạn mới xuất hiện… nhưng lại vắng mặt Mai Chửng. Ngay tối hôm đó, tôi đến nhà thương Chợ Rẫy thăm ông nằm trên giường bệnh, nuớc da tái xám, mệt nhọc với đủ thứ dây ống lòng thòng chung quanh. Nhưng thôi, những bức tượng đã thay ông góp mặt với đời.

Phòng tranh Thái Tuấn mở cửa mấy tuần. Đôi khi đi ngang đường Cao Thắng, tôi lại tạt vào. Ngày khai mạc là để gặp người quen, còn ngày thường mới là lúc ngắm tranh. Trong căn phòng vắng vẻ, ánh sáng vàng ấm áp từ những ngọn đèn trên trần nhà chiếu xuống. Những dáng dấp thiếu nữ vẫn hiện diện đó, yên ả trú ngụ trong thế giới mơ màng của những bức tranh. Tuy nhiên, đối với tôi, dù tranh được vẽ bằng máy vi tính màu sắc rất phong phú vẫn thiếu sự huyền ảo của chất liệu sơn dầu mà chính nó mới gợi nên được sự rung cảm, xao xuyến nơi người xem tranh. Nên chi, để rồi cuối cùng tôi vẫn dừng lại trước các bức sơn dầu, dịu dàng một cách nồng nàn, tĩnh lặng mà sống động. Đóa môi hồng bạch thật ngây thơ, tinh khiết và ánh mắt đêm huyền của người trong tranh như thấu suốt thời gian, không gian. Cái màu xanh lá đặc biệt của Thái Tuấn, một màu xanh thăm thẳm mới khắc khoải, nhức lòng làm sao. Tôi như bị hút vào “Góc biển”, “Dáng thơ”… những nàng thơ của cõi mộng hiện hình, không biết chọn bức nào hơn giữa những tấm tranh treo chốn Cầu Đông…

Tiếng Hát Hoàng Hôn

Anh chị tôi rủ đi nghe nhạc. Có hai ca sĩ hải ngoại mới về, Duy Quang và Elvis Phương. Hai ca sĩ cũ nổi tiếng từ xa xưa, một thời của quá khứ không mơ hồ… Sau này, qua băng đĩa lưu hành lậu, những giọng hát ấy vẫn khiến người nghe thấy lòng nức nở khi cất lên những bài tình ca bất hủ. Có rất nhiều tình ca do nhạc sĩ VN sáng tác lúc này hay lúc khác, nơi nọ hay nơi kia. Nhưng đặc biệt, tình ca trong quãng thời gian hai mươi năm đó đã đạt đến đỉnh cao cả về số lượng lẫn chất lượng, là một phần lộng lẫy trong gia tài âm nhạc Việt Nam.

Tuy nhiên, những bài hát từng đưa họ lên đỉnh cao danh vọng, đậu lại trong lòng người nghe thì bị cấm, không được hát dù nội dung chỉ ca tụng tình yêu. Ðêm nhạc được tổ chức dưới tên L’histoire d’un amour, tức họ xuất hiện chỉ để trình diễn nhạc tình Pháp. Bởi vì nhạc Pháp có vẻ vô hại, nhạc tình của Pháp lại càng vô hại hơn. Thính giả chỉ thưởng thức nhạc, chẳng mấy ai biết đến lý lịch của các nhạc sĩ sáng tác ra những bài hát đó. Và lý lịch của các nhạc sĩ viết tình ca này hẳn nhiên “trong sạch”!

Hai đêm nhạc được quảng cáo trước cửa phòng trà và dân hoài cổ truyền miệng nhau đi xem. Nói đi xem có vẻ chính xác hơn đi nghe bởi người ta vẫn thường nghe hai giọng ca này qua đĩa và thấp thoáng đâu đó qua vidéo nên không tới nỗi lạ lẫm. Vả lại nhạc nghe qua đĩa dĩ nhiên hay hơn vì âm thanh phòng trà thường rất chát chúa, chói tai. Do vậy chính đi là để nhìn hai ca sĩ bằng xương bằng thịt giờ đây thế nào, có thay đổi nhiều so với ngày xưa chăng. Ði xem họ hát như thể nhặt nhạnh chút gì của một thời xa xưa bỗng nhiên rơi rớt lại, quay về những kỷ niệm bị lãng quên, lục lọi tìm một mảnh của chính mình bị cất dấu, ẩn nấp trong xó xỉnh đâu đó phủ đầy bụi bặm, nấm mốc của thời gian lạnh lùng.

Elvis Phương về nước từ trước, đã hát rải rác chỗ này chỗ nọ nhưng đây là lần đầu tiên Duy Quang xuất hiện trước công chúng. Hai ca sĩ này chỉ hát trong hai đêm nên chị tôi phải gọi điện thoại đặt chỗ trước, hôm sau họ sẽ chuyển sang nơi khác. Nhớ hồi ca sĩ Giao Linh mới xuất hiện cách đây mấy năm. Khi ấy ca sĩ hải ngoại về nước rất ít nên bà được đón tiếp nồng nhiệt. Người ta hào hứng đi xem nguời ca sĩ khi xưa có mái tóc đặc biệt một bên cúp vào, một bên cong ra. Ðiều gì xa xôi, chỉ nghe tiếng đương nhiên rất tò mò muốn thấy hình. Thế nhưng chỉ sau một thời gian rất ngắn được ngự trị ở vài phòng trà trung tâm thì với mấy bài hát ma-ri hết hơi, Giao Linh cùng Tuấn Vũ mau chóng bị dạt ra cho tới khi tên của hai ca sĩ này xuất hiện trên mấy tấm banderole ở rạp Hào Huê, Chợ Lớn và các quán ăn tầm tầm thì kể như vị trí của họ tắt ngúm nơi thành phố. Hương Lan cũng vậy, giọng hát ngọt ngào của ca sĩ này từng lay động lòng người xa xứ với các bài hát mang âm hưởng dân ca, nhưng chính ngay trên quê hương thì đâu có ai hoài hương để lúc nào cũng sẵn sàng rung động trước mấy bài hát bông bầu, bông bí. Không kể vô vàn người hát trong nước nổi tiếng hoặc không nổi tiếng, đều hát ngọt như vậy hoặc hơn vậy, hát những bài như thế và vô số bài mùi mẫn hơn thế, nên chi Hương Lan thỉnh thoảng cũng xuất hiện trên TV trong một chương trình ca nhạc lem nhem nào đó mà không hề ai để ý đến.

Tiếng tăm của hai ca sĩ hải ngoại Duy Quang và Elvis Phương này có phần nổi trội bởi lẽ thức uống đều tính phụ thu khá cao. Chỉ những ca sĩ ngôi sao mới có phần phụ thu này. Ðêm nhạc tình Pháp bắt đầu. Những bài hát của một thời hoàng kim xa lơ xa lắc được các ca sĩ trẻ hoặc không nổi tiếng lắm hát trước. Aline lầu tình trên cát, Les flots du Danube, L’amour c’est pour rien, Apres toi, Bang bang… Một ca sĩ tên Quang Vượng hát rất hay. Rồi Duy Quang bước ra sân khấu. Biết là đêm nhạc Pháp nhưng dường như trong lòng mọi người vẫn mong mỏi một chút “xé rào” để nghe phảng phất những âm giai mơ mòng phổ thơ Tuệ Mai. Thôi bàn học cũ. Sách vở từng năm. Nhớ người tóc xõa. Ôn bài dưới trăng. Thôi chăn gối lẻ. Gửi lại giường xưa. Hương đào ngây thơ. Ủ giùm cho nhé… hoặc da diết đến nao lòng. Người từ trăm năm. Về khơi tình động. Ta chạy vòng vòng. Ta chạy mòn chân. Nào có hay đời cạn. Nào có hay cạn đời… Có vẻ một người từ trăm năm về thật nhưng hình ảnh không đẹp như lời thơ Nguyễn Tất Nhiên. Duy Quang đứng xa trên sân khấu, đầu như hơi hói, tóc như nhuộm nâu, lưng như hơi gù, cổ đưa ra phía trước và một bàn tay buông thõng. Bà chị chắc lưỡi kêu tướng mạo Duy Quang coi chán đời quá, ông anh lắc đầu nói thì soi gương thử xem, bà tưởng mới vài năm phù du trôi qua sao, ngồi quanh đây “đời đã xanh rêu” cả, nào có ai khá hơn ai. MC luôn luôn ra rả giới thiệu khán giả của phòng trà hôm nay toàn những mái đầu bạc rất quen thuộc với ca sĩ và những bản nhạc của thập niên được trình bày đây. Bà chị lại rên rỉ. Nhìn chút coi, ngoại trừ vài vị ở độ tuổi ngoài tám mươi mới bày tóc bạc. Còn lại đều đen nhánh, toàn người trăm năm không phai tóc nhuộm, bói không ra một cọng sương sương. Ðám trẻ loe hoe tưởng có chi lạ ngồi đến giữa chương trình bỏ về hết. Số người ráng ngồi đến cuối buổi là biết niên kỷ bao nhiêu rồi. Tên MC thật không biết điều, cứ lôi tuổi tác người ta ra “bêu riếu”, về hưu sớm sớm cho được việc!

Duy Quang hát lời Việt của ba bốn bản nhạc Pháp. Rõ ràng Duy Quang được nhắc tới bởi rất thích hợp với những bài thuộc loại Ðưa em về dưới mưa. Nói năng chi cũng thừa… hay Này cô em Bắc kỳ nho nhỏ. Này cô em tóc demi gacon. Chiều hôm nay đón gió. Cô có tình cờ nhìn thấy anh… Chắc ca sĩ này biết rõ chỗ yếu của mình nên mau chóng rút lui nhường phần cuối cùng chương trình cho Elvis Phương.

Nổi danh hồi nào trong ban nhạc Phượng Hoàng, vốn học trường Tây nên dĩ nhiên ca sĩ này hát đúng giọng Pháp. Tuy nhiên Elvis Phương không phải là người duy nhất hát nhạc Pháp đúng giọng, lại càng không phải người hát nhạc Pháp đúng giọng hay nhất. Khán giả cũng không phải tất cả đều am tường để mê nhạc Pháp. Nhạc ngoại quốc không mau chóng và dễ dàng đi ngay vào lòng người như Ngựa hoang nào dẫm nát tơi bời. Ðồng cỏ nào xanh ngát lưng trời… Ngày nào bầu trời còn mây bay. Lòng ta vẫn thấy yêu thương hoài… Tôi muốn làm một thứ cỏ cây. Vui trong nắng và quên ưu phiền… Ðối với đa số, nghe loại nhạc như vậy hiểu liền và thấm liền, quan trọng hơn hết, mới thấy đó là Elvis Phương của họ, ca sĩ thủa nào của đám đông khán giả thủa nào!

Vì thế mặc dù nhạc Pháp đúng giọng và hát hay, nhưng khán giả vẫn thấy điều đó không đủ, chưa đúng. Mọi người ngồi nghe một cách kiên nhẫn, ngán ngẩm ngắm người ca sĩ la hét, gào rú, nhảy nhót liên tục mười mấy bài trên sân khấu mà chẳng thưởng thức bao nhiêu, chỉ thấy… thương thương gì đâu! Elvis Phương cố gắng giữ gìn phong độ và khán giả thừa nhận ca sĩ này vẫn còn phong độ. Tuy nhiên, đừng tỏ ra, đừng cố gắng chứng minh một điều gì cả thì tốt hơn. Bởi vì trong chữ “vẫn”, trong sự cố gắng đó đã hàm ý vớt vát, pha vào điều gì chua chát rồi. La hét, nhảy nhót quá chừng dành cho choi choi đi. Khán giả không đợi xem màn đó. Thấy ca sĩ trình diễn trên sân khấu mà bắt mệt. Cả ca sĩ và khán giả đều là người từ trăm năm, lắng dịu một chút thì hay hơn, nhất là hầu hết mọi người đến đây chỉ muốn gặp Elvis Phương để hoài niệm, không phải để sôi sùng sục trong điệu rock mà họ đã quá mệt mỏi nơi cuộc sống hàng ngày. Họ sẽ chọn để nghe rock ở một phòng trà với khung cảnh và không khí khác, với những ca sĩ khác chứ không phải ca sĩ này.

Dường như chịu hết nổi, khán giả yêu cầu nhạc Việt. Ngập ngừng một chút, Elvis Phương hát một bản nhạc xưa, quá xưa chắc hồi chưa sinh ra đời nên không cách nào tôi nhớ được tựa. Không khí phòng trà nóng hẳn lên, mọi người nghe một cách hào hứng, vỗ tay rào rào chứ không phải vỗ tay vì lịch sự. Hết bài, vài giọng la lên hát nhạc Việt đi, rõ ràng ai nấy nóng lòng mong chờ âm điệu dạt dào của những bài tình ca quen thuộc. Ca sĩ lại hát một bài ngày xưa… Thanh Thúy thường hát. Khán giả có chiều thất vọng, nhưng biết sao, thôi thì nghe đỡ một hai bài như vậy còn hơn đi về không được bài nào như ý. Chỉ hai đêm nhạc thôi chứ kéo dài cũng chẳng ai đi lần thứ hai.

Ðúng là biết sao. Bởi vì với nhạc ngoại quốc còn có thể tổ chức được vài đêm hát chứ bông bầu, bông bí… thì ai thèm đi. Bà chị than đi nghe hát như tới gặp người tình xưa, mới vỡ lẽ người tình thương nhớ thực sự chỉ tồn tại trong ký ức, là hình ảnh mơ hồ chìm vào kỷ niệm. Thời gian như dừng hẳn từ lần cuối cùng chia tay đó, giờ nhìn lại thất vọng não nề và giấc mơ dài theo năm tháng bỗng phút chốc vỡ tan thành bọt bóng!

Thật ra số tuổi của họ vẫn còn hát lâu dài, chưa phải muộn, chưa đến lúc rời sân khấu. Nhưng cách họ quay về, cách xuất hiện sau một thời gian quá dài vắng bóng khi trong lòng người hâm mộ chỉ giữ hình ảnh ngày cũ, và lưu giữ giọng hát của họ không thay đổi qua băng đĩa. Sóng đời đã xô nhiều đợt đổi thay. Những con người thật sự sao chỉ hiện ra trên tấm phông nhạt và chính họ gợi nên vẻ gì gượng gạo, Ánh sáng hắt ra là ánh hồi quang dù rực rỡ vẫn chỉ là vạt nắng níu kéo của buổi tà dương.

Người ca sĩ không thể hát một mình đối bóng. Họ cần sân khấu và ánh đèn, cần khán giả nên chi có một phòng trà được mở ra ở Saigon dành cho các ca sĩ qua thời. Có thể tìm thấy Hồng Vân, Lan Ngọc… và một số ca sĩ sau này như Nhã Phương… Phòng trà tuy cũng đèn đuốc xanh đỏ nhưng sàn nhà ciment và một bà quản lý mập mạp mặc đồ bộ, tay cầm quyển sổ nhỏ đi tới đi lui dòm ngó, chỉ huy mọi việc. Phòng trà chia thành hai gian. Gian ngoài sôi động hơn một chút, gian trong trầm lắng với những nhạc sĩ tóc trắng như bông chơi đàn với tất cả sự mê say, nâng niu và vội vã vì thời gian được cầm lấy cây đàn đang dần dần co lại, sợi dây đàn sẽ đứt lúc nào không biết để thanh âm nao nức sẽ im bặt trên chiếc bục trống vắng. Nên dưới không khí rất thân thuộc đó là sự hiu hắt khiến lòng người tự nhiên chùng xuống.

Saigon có số lượng thính giả đông đảo hơn hải ngoại. Vì thế ca sĩ cũ hải ngoại về hát tìm lại vang bóng là điều đương nhiên. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng thế. Ông mơ ước sống lại ánh hào quang rỡ ràng của thời gian ba mươi năm xưa kia, ông muốn quay về nhằm mục đích mưu sinh hay vì lý do nào khác không rõ. Chỉ có điều những câu tuyên bố quỵ lụy của ông khiến mọi người ngỡ ngàng. Thật ra từ cách đây vài năm, nhạc của ông đã được phát qua băng đĩa khá nhiều tại các quán cà phê. Nhạc cổ điển, nhạc Jazz… kén chọn thính giả, thường chỉ tồn tại ở ít quán trong thành phố. Còn hầu hết tình ca du dương trầm bổng nằm tại quán bar, cà phê. Ðể phân biệt “đẳng cấp”, các quán lịch sự thường chỉ chơi “nhạc Trịnh”, nhưng quanh đi quẩn lại nghe hoài bấy nhiêu bài cũng phát chán. Về sau, gần đây, nhạc Phạm Duy đã từ từ thay thế nhạc Trịnh. Trong không khí êm đềm của các quán nước tao nhã, người nghe thả hồn vào thế giới ngập tràn những giai điệu và ca từ đặc biệt của Phạm Duy. Tìm sâu trong muôn thủa, tìm sau lưng bốn mùa, tìm nhau như thiên cổ tìm ngàn thu, gặp nhau trong hơi thở của cuộc đời… Quả Phạm Duy không cần hạ mình đến thế. Giá trị âm nhạc của ông đã được khẳng định và không thể vùi dấu mãi. Những bài hát đã vang lên trong các quán nhạc ở Saigon, Ðà lạt, Nha Trang… như mọi giá trị văn hoá đích thực khác sẽ tồn tại vĩnh viễn, đứng ngoài mọi biến cố cuộc đời.

Hình như Phạm Duy không biết đến điều đó, hay ông vẫn lo lắng bị bỏ quên, vẫn thấy… ngại, hay om sòm vẫn được coi một trong những phương thức quảng cáo thông thường… Thôi thì dù chưa bị đánh cũng xin hàng trước cho chắc ăn. Vả nếu tỏ ra nhu nhã như vậy, may ra bài hát của ông sẽ được chính thức phổ biến rộng rãi. Ông sẽ xuất hiện, sẽ ôm cây đàn hát không phải ở quán nước, phòng trà tẹp nhẹp mà trong những nhà hát to lớn, mở những live show gây được tiếng vang ồn ào. Một giấc mơ quá đẹp có thể giải thích phần nào cho thái độ lạ lùng đạp lên chính mình của ông. Ðẹp quá vì đó là một giấc mơ, và đến giờ giấc mơ vẫn chỉ là điều không tưởng.

Dẫu sao Phạm Duy quá mệt mỏi để có thể chờ đợi lâu, tấm hình chụp trên báo cho thấy ông đã phải ngồi xe lăn khi về tới phi trường. Thời gian của ông không còn bao nhiêu nữa. Ông trở nên gấp rút, vội vã. Ông hối hả xưng tội, nghĩ ra tội để có cái mà hối lỗi. Có còn kịp để ông được hát những bản nhạc của ông trước công chúng thành phố đông đúc cuồng nhiệt như ông tưởng tượng không, bằng bất cứ giá nào? Nhiều người không giận mà chỉ thấy dâng lên cảm giác ngậm ngùi về những cuộc sống mà hoàng hôn đã mênh mông vây tỏa. Nắng úa tàn làm mờ nhòa, lầm lạc nhân ảnh. Một ngày gần cạn, những sôi nổi của bình minh ấm áp, của trưa gắt nồng nàn đã qua đi. Chỉ còn hoàng hôn nghỉ ngơi và tiếng hát vọng từ quá khứ dành cho sự trầm ngâm, hồi tưởng.

Nguyễn Thị Hàm Anh

Nguyễn Mạnh Trinh

Nguyen Manh Trinh

Đọc Thơ Hải Phương

Có một người làm thơ đã viết một vài câu thơ tình cờ để tặng một tập thơ đọc cũng rất tình cờ của một nhà thơ mà cuộc gặp gỡ cũng thật… tình cờ vô định trong cõi đời này:

“ghé chơi qua chốn mịt mù
thấy ngôn ngữ quạnh thiên thu ngỡ gần
một bước chân thấy phân vân
thấy trang sách triết tần ngần cõi xa
hai chân bước chợt nhạt nhòa
vần trên câu sáu nở hoa nụ đầu
vế sau câu tám ở đâu
lạc vào cõi sắc mấy mầu tịnh không
soi gương râu tóc bềnh bồng
hỏi chàng thi sĩ có trong mộng hờ?
câu vấn câu đáp lửng lơ
thấy trường giang cuộn mấy bờ dương gian”

Đọc thơ Hải Phương, thấy ngôn ngữ thơ như vờn quanh chúng ta một điệu khiêu vũ mà thân thể dường bất động đứng yên một chỗ. Sao lại đứng yên mà khiêu vũ được ? Bởi vì, trong tâm tư, hình như cái có và cái không trộn lẫn, chân đi mà tưởng như đứng, óc nghĩ mà tưởng như không mảy may suy tư và cảm giác là những nỗi bâng khuâng của mê hoặc bất định. Tôi đã nghĩ như thế và chợt giật mình, tự hỏi. Tôi đọc thơ theo kiểu nào? Phạm Công Thiện hay Bùi Giáng…? Và tôi có giả vờ làm người khách lạ đi tìm thi tứ…

Không, tôi đọc theo kiểu của tôi, không làm cho khác đời và cũng chẳng cầu kỳ bí hiểm. Thấy gì nói nấy, cảm gì bộc lộ nấy. Ở thơ Hải Phương, tôi thấy thơ có lúc bàng bạc phân cách giữa chữ và nghĩa. Nhưng, ở phần cảm xúc là những bước chân kéo đi xa, thật xa đến mịt mù. Mỗi một thi sĩ có phương cách diễn tả riêng. Cái riêng ấy lột tả cái phong thái để thành một căn cước cho thi sĩ. Đọc câu thơ đầu, đã có cảm giác của một danh tánh, đọc câu thơ thứ hai đã thấy một chân dung. Ở Hải Phương, là ngôn ngữ cũ nhưng hình tượng mới, là ngôn ngữ có phấn son nhưng trang điểm nhẹ nhàng. Thơ là những nét vờn của cuộc sống, của những cảm giác thoảng qua trong những giây phút tình cờ tìm kiếm được những mơ mộng đã từ lâu tích chứa.
Như bài thơ ”Chân dung mùa xuân và biển”.

“Tóc xao vừa độ nắng hong
gió hiu hiu đủ phiêu bồng mái hiên
liềm trăng lục bát nghe thèm
trầm hương cỏ mượt môi em dậy thì
nét mày vẽ một đường thi
tuyệt chiêu em nước cờ đi qua thành
mềm môi cắn một lằn ranh
nụ hôn vỡ vụn tan nhanh miếng sầu
thắp lòng tĩnh lặng trước sau
đường cong biển dội trộn màu chân dung
bỗng dưng lại bỗng không dưng
bỗng dưng bỗng nữa lưng chừng nhớ em
mở trang vô tự ra xem
thấy trong lá biếc biển đêm dịu dàng “

Đọc xong những câu lục bát trên, có người hỏi tôi. Thơ nói gì vậy? Tôi ngớ ra và chỉ biết nói thơ không bao giờ giải nghĩa được. Tôi chỉ yêu thơ, khoái thơ nhưng bình thơ thì đành chịu. Bởi vì tôi thấy bất lực để dùng ngôn ngữ là một thứ hữu hình để phác họa cái cảm giác là một loại vô hình và ai hiểu sao thì hiểu. Thế thì, cảm giác của tôi khi đọc những câu thơ trên ra sao? Chỉ là những liên tưởng nối tiếp nhau, từ một hình dáng người nữ, có nét thực mà cũng có nét ảo, gợi lại một không gian nào kỳ bí và một thời gian nào có thể gần mà có thể là vạn dặm để trong bỗng dưng nỗi nhớ thấy từng trang vô tự của lá biếc biển đêm. Đó là cảm nhận của riêng tôi, mà người khác có thể không cảm nhận ra. Những câu thơ, tả người nhưng để phác họa tình cảm, để trong những đường nét như có như không ấy, ngầm chứa một thế giới riêng của những nỗi niềm yêu thương bàng bạc.

Và, trong một sát na “bỗng dưng lại bỗng không dưng / bỗng dưng bỗng nữa lưng chừng nhớ em / mở trang vô tự ra xem / thấy trong lá biếc biển đêm dịu dàng”. Dù là trang vô tự, vẫn thấy biển dịu dàng của bóng đêm…
Hải Phương thường viết về biển. Ở biển, có cuồng ca. Ở biển, có tháng giêng xanh tình cỏ biếc. Ở biển, có nghe vời vợi vỗ khuya. Ở biển. Tiếng em vọng âm rền tiền thân. Những bài lục bát liên tiếp nhau, để biển cả thăm thẳm nỗi niềm, để trùng dương cứ thầm thì một điệu ngữ ngôn của thuở nào đất trời còn hoang sơ của cuộc nhân sinh còn nhiều gót chân đi lạc.

Thơ Hải Phương từ : ”mùa xuân em biển hư vô / triều con sóng vỗ bờ xô cát bày” của “Cuồng ca biển và em” đến: ”Biển buồn trời cũng mây bay / cơn mưa tinh thể đất say điệu mình / đất trời cứ mãi làm thinh / mà sao cỏ biếc xanh tình tháng giêng” của “Mà sao cỏ biếc xanh tình tháng giêng” rồi: ”Mầu trăng động vỡ càn khôn / môi em động vỡ nụ hôn dậy thì / thiên thu động vỡ có khi / tóc em gió rối chân đi lạc lìa / nghe vời vợi biển vỗ khuya / hồn ta động vỡ cồn chia bãi bày” rồi: ”qua đây thấy lạ con đường / hai vai quẩy gánh vô thường mộ xưa / mùi trăng đọng vũng cơn mê / bước chia cố xứ nẻo về mình ên / tiếng khô đá nẻ nhẹ tênh / tiếng em biển vọng âm rền tiền thân”. Rồi: ”Bỏ ta ơi bỏ người ta / bỏ mây tứ xứ em tà áo bay / bỏ hôm trước bỏ ngày bay / rừng phơi lá nỏn biển bày biện em”.

Những câu thơ mở ra những hình ảnh. Ý và tình, tình và ý, chen lẫn nhau để gián tiếp nói với ngôn ngữ của những sợi đàn cảm xúc, vẳng lên nhẹ nhàng và như chứa chan ở trong những dung lượng vô bờ của nỗi niềm dàn trải. Biển có nói gì đâu / ngoài điệu sóng ru, ngoài màu xanh thăm thẳm của chiều sâu tận cùng chẳng bao giờ đụng đáy…

Có người nói thơ sao mơ hồ và đầy những ngôn ngữ ít có âm hưởng đời thường trong thi phẩm Hải Phương. Có thể đó là một lời phê phán với người này nhưng lại là biểu tỏ khen ngợi với người kia. Ở trong những từ có thể gọi là sáo ngữ ấy trong cảm nhận này lại là những vọng âm mở ra những mảnh trời u hiển với tâm thức kia. Riêng với tôi, tôi cảm nhận được trong sự mơ hồ một đời sống nào gần cận lắm, lãng mạn và đầy thiết tha của những trái tim dòn dã nhịp đập thương yêu. Chẳng sao, nếu có ai tô son điểm phấn cho ngôn ngữ. Chỉ xin một điều, có cảm nghĩ thực của cuộc sống thực chứ chẳng phải là một màn kịch mà người thủ vai cứ hững hờ trong lớp áo vô hồn…

Thơ lục bát, đã có một quá trình sáng tạo từ bao nhiêu thế kỷ, đã qua những khuôn khổ như một gắn bó vô hình làm thành những cõi thơ khuôn mẫu. Rất khó cho những dụng công đổi khác. Câu sáu câu tám, mở ra và khép lại. Câu tám câu sáu, khép lại và mở ra. Thi sĩ, như người chọn lựa một cuộc thách thức. Làm sao để tạo cho riêng mình một vóc dáng. Không phải của Nguyễn Du nàng Kiều, không phải của Tú Xương “Sông lấp”. Mà cũng không phải Cung Trầm Tưởng, Trần Đức Uyển, Hoài Khanh,… thuở nào. Mà phải riêng vóc dáng Hải Phương. Trong cố công ấy, tôi đã thấy trong ngôn ngữ và vần điệu. Những chủ ý để bắt người đọc chia sẻ với người làm thơ những tâm tình, có thể là chung của những người đam mê và nhiều mộng ước. Thơ như những ngọn củi, nhen vào bếp lửa nhân sinh để trong hơi cuộc đời chia với nhau niềm thiết tha nồng ấm…

Người thơ nói với người thơ? Có phải là những chung mang của nghiệp duyên phải gánh. Đọc thơ bạn, để thấy gần gũi hơn những câu lục bát, để thấy không gian gần lại một vòng tay. Hải Phương đọc thơ Hoàng Xuân Sơn:

“Đất buồn đất hỏi han cùng.
Trời buồn trời lại bão bùng hao hư
Đọc câu lục bát tàn dư
Đêm qua mất ngủ còn như ngó ngày
Phiên đời vụn nhỏ lòng tay
Trái tim âm bản vàng bày lửa nung
Đất trời lục địa nhớ nhung
Con chim nhỏ hát tiếng khùng điên rong
Vì em bữa trước ra bông
Bữa nay ra nụ phiêu bồng tiền thân.”

Trời buồn đất buồn nên câu lục bát cũng tạo thành đêm mất ngủ. Vì sao? Bởi vì: ”vì em bữa trước ra bông / bữa nay ra nụ phiêu bồng tiền thân”. Câu trả lời đơn giản mà phức tạp, tưởng lời cạn mà ý sâu. Thơ mở ra những liên tưởng nhưng cũng đóng lại những luận cứ. Thơ như bơi trong dòng nhân sinh mà tưởng như chân dẫm trên bờ cạn rong chơi. (Không hiểu thi sĩ có chủ ý diễn tả như thế không? Tôi không rõ. Nhưng là người đọc tôi đã cảm thấy như vậy)

Hải Phương làm thơ cho những người bạn Phan Thiết, những người đã sinh ra ở bên sông Cà Ty, núi Cú và Tà Dôn. Thơ gửi Hoài Khanh:

“ngày về mở cửa phù vân
cài then thiên cổ mưa gần nắng xa
bút hoa hứng trận phong ba
miếng môi ngậm cứng vành tà huy không
mở trang vô tự phiêu bồng
mái hiên ngôn ngữ mái lòng thênh thanh”
Thơ gửi Đài Nguyên Vu:
“người về cỏ rối dưới chân
chén thinh không cạn bước ngần ngại qua
sông Cà Ty trận mưa và
phố lầu Phan Rí rộng tà áo bay
thiền sư thả con diều mây
tràng kinh niệm đến đoạn này đứt giây”
và thơ gửi Từ Thế Mộng;
“biển xưa sóng vỗ cồn bày
bến bên kia bãi bên này rộng rinh
biết đâu ruợu uống một mình
môi cay nhín gởi ngọn tình ra roi
mở trang vô tự ra coi
môi khuya thắp ngọn lửa cời bếp xanh.”

Dù thơ viết cho mình hay gửi cho người, Hải Phương vẫn là một người tự may cho mình một tà áo thơ để khoác lên tâm tư những nỗi niềm dàn trải từ cuộc sống. Tôi đọc thơ ông, như những bước chân đi tìm lại những bóng nắng rơi xưa cũ, những tâm tình của một thuở nào tưởng đã quên mà gợi nhớ đến lạ lùng. Nếu có ai thấy tôi viết như trong cơn đồng thiếp thì cũng bỏ qua cho, bởi khi đọc thơ có khi mình đã quên lãng cả chính mình, thân phận mình. Đọc thơ Hải Phương, là để du hành vào một cuộc lữ mà hai chữ có không, cũng như mê và tỉnh chỉ là những ý niệm mơ hồ của ngữ ngôn phù ảo…

Lệ Khánh,
Em Là Gái Trời Bắt Xấu

Có một thi sĩ nổi danh viết về một người thơ nữ đã in những tập thơ có thể nói là tạo thành một hiện tượng thi ca: ”Khi những người tuổi trẻ yêu, đừng bắt họ nhân danh Nghệ Thuật hay Chân Lý để làm thơ! Chính Lệ Khánh chẳng đã từng thú nhận: Lệ Khánh làm thơ, in thơ bán thơ, nhưng Lệ Khánh không “bán tim”… và hẳn Lệ Khánh không hề có tham vọng làm một nữ sĩ “chuyên nghiệp” chiếm riêng một chỗ ngồi trong Văn Học Sử ngày mai. Lệ Khánh chỉ muốn làm một người tình nhân bé nhỏ, ngày hôm nay, có riêng một chỗ ẩn náu kín đáo ở… trong trái tim người yêu cho tiếng thơ thành khẩn của mình được một tấm lòng mến thương đón nhận, cho linh hồn bé bỏng của mình được một vòng tay khăng khít bao dung. Mà như vậy thì, dù muốn dù không, Lệ Khánh cũng đã tự nhiên là một thi sĩ! Một thi sĩ của tình yêu, hòa đồng chính đời sống cùng số phận mình vào Thơ, cũng như đem tất cả hoa hương mộng ảo của thơ dâng hiến cho Tình.”
Thi sĩ nổi danh trên là Đinh Hùng viết về một nhà thơ nữ mang tên Lệ Khánh, tác giả của những tập thơ với nhan đề gây thật nhiều ấn tượng ”Em là Gái Trời Bắt Xấu.” Tập thơ đã gây xôn xao dư luận một thời và sau đó là 4 thi tập khác tiếp theo do nhà xuất bản Khai Trí in mang cùng nhan đề đã có số bán kỷ lục trên toàn miền Nam thời ấy.
Đặc biệt, ở Đà lạt, thành phố sương mù, nơi sinh sống của Lệ Khánh, thì những người hâm mộ yêu thích thơ Lệ Khánh cũng rất nhiều, nhất là những người lính trẻ của các quân trường thời đó.
Tôi đã gặp một cựu sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt khóa 16 kể về tập thơ đầy kỷ niện này với ông và đã đọc hai bài thơ mà ông đã thuộc đến nằm lòng thời trước và đến nay là hơn nửa thế kỷ, qua bao nhiêu biến cố thời thế dập vùi, mà vẫn còn nhớ không sót một câu. Chính ông cũng tâm sự rằng ông không phải là người độc nhất như thế mà còn rất nhiều người cùng khóa đều mang chung ý nghĩ như vậy.
Ở Sài Gòn, năm 1962 có một sự kiện thơ văn khá lạ. Nhà văn Duy Năng kể: “Khoảng cuối năm nhâm dần, một loạt sáu bài thơ của Lệ Khánh được đăng cùng trên một trang báo Văn Nghệ Tiền Phong. Không phải từ lúc ấy thơ Lệ Khánh mói bắt đầu xuất hiện, nhưng những tác phẩm khép nép, nhỏ nhoi kia của “người con gái trời bắt xấu” đã được nhiều người đọc đến từ lâu và cũng từ đó về sau này.
Khi 6 bài thơ được chăm sóc giới thiệu cùng một lúc tôi hiểu rằng đã có một cái gì khởi đầu. Tôi không nghĩ là thiên tài cũng không dám nghĩ là một vinh quang rồi sẽ rạng ngời và hiện tượng T.T.KH. của văn học mà tác giả chỉ được chiêm ngưỡng trong ảo tưởng hay như vì sao chợt sáng rồi chợt mờ, đã xui tôi dậy lòng lo âu để nghĩ rằng đừng bắt Lệ Khánh là vừng trăng mười sáu của một địa cầu bất động tuy với những bài thơ khai nguyên từ năm 15 tuổi tôi được nhận đọc, không chỉ với tâm hồn thi sĩ mà còn với tấm lòng thương yêu cháu gái.
Nhưng tôi hiểu, đã có một cái gì bắt đầu với lời thú nhận nghẹn ngào “Em là gái trời bắt xấu” ghi trong ngoặc dưới những bài thơ thảm trạng đó”
Trong thời giam ấy, đã có người nhận xét: ”Lệ Khánh ở Đà Lạt ”Em là gái trời bắt xấu” ra đời ở vùng Cao nguyên lạnh như băng này… Rồi tiếng thơ Lệ Khánh bay xa khỏi miền Cao nguyên về vùng thành thị, tiếng nức nở ấy làm cho người thưởng ngoạn chợt bâng khuâng không biết ví von ra làm sao để diễn tả nổi cái buồn đau của Lệ Khánh… Nhưng khi ai đã đi một mình trong màn mưa phùn lâm dâm, đang thèm khát một ly cà phê hay cảnh một gia đình, lúc ấy nhạc Chopin vọng tới, buồn vô cùng.. thì đấy thơ Lệ Khánh như vậy”
Nửa thế kỷ, sau, những bài thơ dung dị, viết mà không muốn xác định vai trò của một người muốn chen chân vào ghế ngồi văn học sử, của “Em là con gái trời bắt xấu” vẫn còn hiện hữu và vẫn còn sức sống. Ghé qua các trang mạng của tuổi học trò, những Hoa Cô Đơn, những Hạt nắng, những Áo trắng, những Cổng trường xưa,… vẫn thấy những câu hỏi về Lệ Khánh, hay chép cho nhau những bài thơ của “Em là gái trời bắt xấu”. Một thời gian dài như thế, thơ vẫn còn sức sống, vẫn còn được đọc, và ngôn ngữ thi ca của một thời còn hiển hiện. Tại sao lại có hiện tượng như vậy? Nếu có ai phân biệt thơ bình dị và thơ trí tuệ thì giải thích giùm sự kiện ấy? Hay là, có phải thơ gây được cảm xúc cho lòng người sẽ còn tồn tại lâu dài cho người yêu thi ca?
Đọc trên mạng những dòng chữ để thấy tâm tình của những người thế hệ sau: ”Dĩ nhiên ”nhan sắc” vẫn muôn đời là “nhan sắc” là cái vỏ bề ngoài do người ta tạo dựng lên bằng cái “ngôn ngữ của kẻ thống trị”. Mà kẻ ”thống trị” từ xưa đến nay có phải chỉ là quí ông?
Hãy nói về Lệ Khánh và “tiếng kêu thảng thốt“ từ bên kia cực của Nhan Sắc. Tiếng kêu bi thảm ”Em là gái trời bắt xấu” ngày ấy đã làm tôi thắc mắc và đã trợn tròn mắt hỏi chị ”em có thấy chị xấu đâu mà tại sao…” Tại sao… chị đã chẳng trả lời, chị? Cúi đầu cảm nhận để cho những “kẻ thống trị” đánh giá mình bằng cái vẻ xấu đẹp theo những quan niệm và những nhận định phiến diện của riêng họ.
Và hãy nói về Nguyễn Thị Hoàng với cực bên này của Nhan Sắc là tứ đại, ngũ đại, thập đại… giai nhân. Chưa gặp cô, hình ảnh cô trong tôi là hình ảnh của cô Tôn Nữ Kim Phuợng “với ánh nắng mai lấp lánh trên áo len lông màu hoàng yến nhảy múa theo bước chân cô từ văn phòng đến lớp” và là hình ảnh của cô Kỳ Hương ”..với nụ cười hiền hậu..” vậy mà khi gặp cô, rất gần, rất thật, chỉ cách một hàng ghế và nghe cô nói hơn một tiếng đồng hồ, những hình ảnh ấy vụt biến đi dù tôi đã cố giữ…
Tại sao tôi không hề thấy hay cảm được cái gọi là “ma lực” của cô Nguyễn Thị Hoàng mà lại bị ma lực của chị Lệ Khánh quyến rũ?
Cái gọi là Nhan Sắc vì thế có phải chăng chỉ là ảo ảnh, không hơn không kém. Cũng như “người yêu của đấng trời”, cũng như con cá đi lạc ra ngoài hồ nước của con bé lên ba… và có phải chị có niềm tin mới biến những ảo ảnh có đấy mà không có đấy để rồi niềm tin chính nó cũng chỉ là những ngụy biện không hơn không kém…”
Lệ Khánh đã in tập thơ đầu tiên “Em là gái trời bắt xấu” lúc vừa 20 tuổi. Và sau đó từ năm 1964 đến 1966 nhà xuất bản Khai Trí đã in liên tục từ tập 1 đến tập 5 và thơ của bà đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Nhà văn Thế Phong đã nhận xét: có thể nói Lệ Khánh được nhiều độc giả đọc nhiều, thuộc nhiều, nhắc nhở nhiều chẳng kém gì Nguyễn Bính thời tiền chiến. Tập thơ “Em là gái trời bắt xấu” cả 5 tập có thể nói bán chạy nhất, hơn cả thi sĩ Nhất Tuấn thời ấy được coi là tác giả lục bát có thơ bán chạy”
Thơ của Lệ Khánh có nét riêng biệt ra sao và lý do gì mà thơ của bà được yêu thích nhất là đối với những chàng sinh viên sĩ quan Võ bị Đà Lạt thời gian ấy? Lệ Khánh làm thơ về những mối tình ngang trái về tâm tư đau buồn đầy nước mắt đầy bi lụy. Tình yêu của bà là những mối tình không thành tựu của những nhớ nhung luôn dằn vặt đời sống. Với tâm sự như thế, thơ của bà là những biểu hiện của nỗi đau có thực của tâm tư luôn đau khổ vì yêu. Trong cuộc đời thực, đã có lỡ làng, đã có chia phôi và kỷ niệm lúc nào cũng vẫn là những nỗi đau của vết thương tâm không liền da, liền thịt. Thơ cuả Lệ Khánh ngôn ngữ bình dị đời thường, hình ảnh biểu tượng thi ca cũng không có gì đặc biệt nhưng chính vì những nét đơn sơ bình dị của một người làm thơ nữ đã tạo ra được không gian thi ca tuy có nét hiện thực gần gũi cuộc sống nhưng lại có nét mong manh sương khói của những người có trái tim luôn đập nhịp dồn dập khôn nguôi để tạo thành một biển trời cảm giác.
Tôi đọc lại những bài thơ cũ trong “Em là gái trời bắt xấu” để cùng có chung cảm giác với những người đã một thời yêu những vần thơ của kỷ niệm, của những người có tình nhân là lính chiến, là những mơ mộng và những đớn đau trộn lẫn. Ai cũng yêu quí và trân trọng kỷ niệm của riêng mình, dù là những hằn dấu đớn đau hay có khi ngập tràn nước mắt.
Thí dụ như bài Áo Tím Ngày Xưa:

“Con đường này… kỷ niệm
ngày xưa (anh của em)
vẫn khung trời thương mến
và nhớ nhung trong tim
đó rừng xưa chơ vơ
đây hồn em cô quạnh
màu áo tím ngày xưa
sao giờ nghe buốt lạnh
bao năm rồi trở lại
Đà Lạt buồn lối quanh
Thương thương màu áo tím
Của ngày xưa… đâu anh?
Con đường Hồ Than Thở
Hoang sơ nấm mộ sâu
Người em áo tím nhỏ
Đi tìm anh… anh đâu?”

Những ai đã là sinh viên sĩ quan trường Võ Bị chắc không lạ gì với con đường Lâm Viên và mồ cô Thảo, một nơi chốn chứa đựng cả một trời tình sử. Lệ Khánh viết Đường Vòng Lâm Viên như một trao gửi đến người xưa về cảnh cũ:

“Em tìm đến con đường Lâm Viên nhỏ
nhớ ngày xưa…”đại lộ của thương anh”
vẫn quân phục với màu alpha đỏ
em vui cười sao nước mắt dâng nhanh
Đây chứng tích của ân tình đổ vỡ
Mộ hoang sầu cô Thảo ngủ thiên thu
Không nhang khói không cành hoa dại nở
Bên ven hồ hương tử khí âm u
Khi em chết cũng xin về an nghỉ
Cạnh bên nàng để rõi bước chân anh
Đường Lâm Viên …buồn như chiều phố thị
Mai anh về khi tắt lửa chiến tranh
Anh nhớ nhé về thăm thành phố cũ
Đường Lâm Viên cỏ úa mọc ven rừng
Nhiều kỷ niệm mà nói sao cho đủ
Đợi anh về em sẽ nói nhiều hơn”

Lệ Khánh sống ở Đà Lạt, có mối tình đầu với một sinh viên sĩ quan Võ Bị. Với bà, thành phố sương mù này là thành phố của tình yêu nhưng lại là nơi chốn của những mối tình đau khổ. Tràn đầy yêu thương, chất ngất cảm xúc nên đã viết được những bài thơ mang tâm trạng của mình nhưng gợi lại đến những kỷ niệm của nhiều người khác mà có người vì quá yêu thích nên đã gọi là những “bài thơ để đời”. Có thể có cả những người xuất thân từ Trường Võ Bị Quốc Gia nữa.
Có người không tin là nữ thi sĩ Lệ Khánh không có dung nhan khiêm nhường như bà đã tả trong thơ? Theo như nhà văn Hồ Nam thì: ”Điều làm mọi người kinh ngạc là Lệ Khánh xuất bản thơ với tựa đề “Em là gái trời bắt xấu” nhưng thật ra tác giả năm tập thơ mang nhan đề như trên lại là một cô gái Huế xinh đẹp từng làm nhiều chàng trai đất Quảng ngẩn ngơ chứ chẳng xấu một chút nào cả…”
Những mối tình của nữ thi sĩ ra sao mà có người như La Ngạc Thụy đã cho rằng vào những năm thập kỷ 60, trên diễn đàn văn nghệ xuất hiện một nhà thơ gây xôn xao dư luận có thể nói là ngang tầm với hiện tượng TTKH. là nhà thơ Lệ Khánh?
Theo nhà văn Hồ Nam thì: ”người ta đồn rằng người tình đầu của Lệ Khánh là nhà thơ Nhất Tuấn nhưng Nhất Tuấn không xác nhận cũng chẳng phủ nhận tin đồn chỉ im lặng. Nhưng sự thực không phải như lời đồn đại. Người tình đầu thấp thoáng những khổ đau ly biệt dở dang trong thơ Lệ Khánh chính là Phạm H.Th., sinh viên sĩ quan khóa 17 Võ bị Đà Lạt sau khi mãn khóa đã được thuyên chuyển về binh chủng Biệt Động Quân. Mối tình dang dở gây ra cho Lệ Khánh khổ đau vì TH. Đã lập gia đình với một người bạn gái của cô khiến cho Lệ Khánh có rất nhiều bài thơ về mối tình sướt mướt này. Một thời gian sau khi chia tay với người tình đầu Lệ Khánh có một mối tình với nhà văn nhà thơ Mũ Đỏ Hoàng Ngọc Liên. Thời gian đó Hoàng Ngọc Liên thường hay bay đi bay lại Sài Gòn – Đà Lạt hàng tuần và khi ông viết bài thơ ”Kỷ niệm sinh nhật em” thì Lệ Khánh có ngay bài ”Kỷ niệm sinh nhật Anh” để đáp lại. Hai người cặp nhau một thời gian dài nhưng thời gian này HNL rất bay bướm có nhiều bồ nhí ở Sài Gòn, một ngày kia Lệ Khánh bắt gặp tại trận nên chia tay nhau. Sau đó người ta lại thấy Lệ Khánh có quan hệ tình cảm với nhà thơ kiêm nhạc sĩ Thục Vũ (Trung tá Vũ Văn Sâm) một trong những nhà thơ quân đội khá nổi tiếng và cuộc tình này khá bền bỉ, bền tới khi Thục Vũ rời khỏi cõi hồng trần vẫn chưa dứt..”
Nhạc sĩ Thục Vũ đã phổ bài thơ của Lệ Khánh, bài “Tình người hậu tuyến” rất nổi tiếng. Có lẽ vì tâm đầu ý hợp chăng? Cô công chức Tòa hành chánh Thị xã Đà Lạt sau đổi về Tòa Tỉnh Gia Định, có những câu thơ đơn sơ được chuyển thành cung bậc âm thanh đi thẳng vào tâm tư thính giả:

“Hôm nay trời vào thu
Đà Lạt lắm sương mù
Cây khô buồn trút lá
Gió ven hồ bay xa
Mây thu lờ lững trôi
Lồng lộng gió lưng đồi
Xin anh đừng giận dỗi
Viết thư về thăm em…”

Cuộc đời tình ái của Lệ Khánh nhiều truân chuyên bi lụy nên có người đã ví TTKH như Đạm Tiên và Lệ Khánh như Thúy Kiều. Lệ Khánh yêu hết mình và đã để lại trong tâm những vết thương để có một hồn thơ thích hợp với khuôn trời thơ mộng mù sương Đà Lạt. Tình yêu đã tạo thành những câu thơ mà độc giả, dù đương thời hay về sau này, cũng cảm và thấy được nỗi bi thương của một người không may có những mối tình không bao giờ trọn vẹn. Thơ tình buồn thường hay gây ấn tượng cho người yêu thơ từ thuở xa xưa đến giờ…
Vào thời kỳ giữa thập niên 60, lúc Lệ Khánh bắt đầu nổi tiếng, tôi còn là một cậu học sinh trung học. Dù đang ngồi ghế nhà trường nhưng vẫn hay thường mộng mơ vói qua ngoài cửa lớp. Những bài thơ của tuổi học trò ngây thơ, của những thời xôn xao mới lớn hay đăng trên những phụ trang văn học của các tờ nhật báo được chúng tôi cắt dán hoặc chép lại trong những cuốn sổ bìa cứng và cứ thế suốt mấy năm trung học đã thành cuốn sách gối đầu giường vô cùng trân quí. Ở những bài thơ, mường tượng những người tình, có khi chỉ là thoáng qua, có khi chỉ là ảo tưởng, nhưng cũng tạo trong tâm tư những kỷ niệm khó quên. Giở lại những trang thơ ấy, là cảm giác đi về một chốn nào đã xa nhưng lại thật gần gũi. Ở đó, có tuổi trẻ, có kỷ niệm.
Với những nữ sinh, có lẽ thơ của Lệ Khánh có sức lôi cuốn và hấp dẫn nhiều hơn. Và, 5 tập thơ “Em là gái trời bắt xấu” cùng 2 tập ”Vòng tay nào cho em“ và ”Nói với người yêu” đã có số lượng độc giả khổng lồ là chính nhờ ở thành phần người đọc này.
Lệ Khánh có những người tình là lính nên ở trong thời buổi chiến tranh những cuộc tình ấy đầy chia ly và không có đoạn kết là chuyện dĩ nhiên.
Đề tài của tất cả 7 tập thơ đều nhất quán là chuyện lòng của người thiếu nữ thanh tân, lúc nào cũng đầy những khát vọng yêu đương. Ngôn ngữ cũng không lạ, cũng chỉ loanh quanh chữ buồn, chữ nhớ, chữ tủi, chữ sầu, nhưng dung lượng tình cảm thì nói hoài chưa đủ và nhắc hoài chưa hả. Hình như thơ Lệ Khánh là để giành riêng cho những kẻ yêu nhau bởi vì khi trái tim mở rộng theo nhịp dồn dập thì cả đất trời cũng nhỏ và trong thế gian dường như chỉ chứa đựng duy nhất khuôn mặt người tình. Thơ như bị cuốn vào trong cơn cuồng vọng của Tình Yêu và ngôn ngữ của tình yêu ấy dù là ngôn ngữ của sáo mòn, của những điều mà trước đây ngàn năm và sau này triệu năm những tình nhân đã thuộc nằm lòng. Yêu nhau, người ta mới hiểu được cái mênh mông của ý tình qua ngôn ngữ mà người chưa yêu hoặc không yêu chẳng thể nào hiểu thấu. Tôi nghĩ thơ Lệ Khánh đã vượt qua được cái cửa ải của thời gian nhờ sự thành thực bày tỏ tấm lòng đang yêu và dù đau khổ vẫn trân quí những điều mình bày tỏ. Thơ “Em là con gái trời bắt xấu” không có một kỹ thuật nào để thăng hoa thi ca, không có một mới lạ được tìm kiếm nào cho con đường nghệ thuật. Những tập thơ vẫn là những phác họa chân thành của nỗi buồn tình yêu.
Nhà thơ Đinh Hùng cách nay hơn nửa thế kỷ đã nhận xét về Lệ Khánh và tới nay đã phần nào giải thích được tại sao “Em là gái trời bắt xấu” tới giờ này vẫn còn vị trí trong lòng những người yêu thi ca:
”Qua những tập thơ kế tiếp nhau như những phân đoạn của một khúc trường ca chưa dứt, trước sau, Lệ Khánh vẫn chỉ là một con người duy nhất, với một tâm trạng duy nhất, một giọng nói duy nhất. Chính đó là điều đáng quí, đối với một người thơ thuộc lứa tuổi trẻ dễ dàng giao động dễ dàng chuyển mình theo theo cái nhịp sống nhiều biến thái bất ngờ hiện thời. Giữa cái vô thường của cuộc sống và của lòng người, Lệ Khánh đã dám có một lẽ sống thường trụ, một thái độ không đổi rời. Lẽ sống của riêng mình và thái độ cũng của riêng mình mặc cho dòng đời luân lưu và lòng người chuyển biến.
Nếp sống tình cảm trước sau như một đó và thái độ chuyên nhất kia, có lẽ Lệ Khánh không dụng ý tạo nên nhưng từ trong bản chất người con gái “trời bát xấu” không ngờ chính đó lại là cái “duyên thầm” riêng biệt của Lệ Khánh, cái phong phú khác người của kẻ làm thơ mà cũng chính là cái vẻ đẹp riêng của người thiếu nữ tự nhận mình là xấu”.

Hơi Thở Việt Nam,
Chứng Nhân Của Cơn Hồng Thủy

Thơ là tiếng nói tinh khôi đãi lọc của nhân loại, một ngôn ngữ cơ động xao xuyến nhất của nội tâm con người. Từ tâm thức vùng vỡ vì nghịch cảnh lịch sử, từ tình cảm đời sống mãi dồn nén trói buộc ở Việt Nam, thơ được tôi luyện và tham dự vào đời sống văn chương. Thi sĩ có trái tim dễ rung động, dễ ” khóc cười theo vận nước nổi trôi” cho nên những vần điệu chỉ là ngôn ngữ nói lên hình ảnh và biểu tượng của một thời tan vỡ và đau xót.

Ðối với thi sĩ, biểu tượng là cái áo khoác lên ý tưởng muốn diễn tả. Và dĩ nhiên cái áo khoác đó có những màu sắc khác nhau, loè loẹt rực rỡ hay đơn giản chất phác. Có người quan niệm vũ trụ của thi sĩ là vũ trụ của phóng thể, một bầu trời của riêng hắn mà trong đó hắn ngự trị, là Chúa Tể, là Thượng Ðế. Hắn sáng tạo tất cả với ý hướng biểu hiện những ước mơ chưa thực hiện. Nhưng ngược lại ở trường hợp khác, đời sống có thực đã hiện diện trong tác phẩm. Thi sĩ khai quật những chiếc quặng sự thực của đời sống, lấy trên điểm tụ những góc cạnh bắt gặp trong giây phút của đời người và như thế cũng đầy đủ để tạo ra những hình ảnh cần thiết diễn tả những biểu tượng muốn nhắc đến. Ðời sống Việt Nam có quá nhiều chi tiết độc đáo, ở thân phận dãy đầy khổ ải truân chuyên, ở cơm áo đã đưa con người trở về thời kỳ ăn lông ở lổ.

Phẩn nộ đắng cay là một thứ gia vị của đời sống đã có và hiện diện dãy đầy nhiều khi đã thành bình thường, có lúc nhàm chán. Ngôn ngữ đã thừa cho việc diễn tả bởi ai cũng thấy và ai cũng nói. Ở Việt Nam, chuyện đi tù là chuyện bình thường, còn chuyện yên ổn mới là việc lạ. Ðau thương ở khắp nơi, ai cũng có, và ai cũng cảm, văn chương truyền khẩu đã thành những mũi tên bắn mạnh vào thành trì bạo quyền. Ở thơ Luân Hoán, từ đắng cay có thực, từ phẩn nộ thường xuyên dồn nén, bi phẩn kéo dài suốt đời sống văn chương một thứ rượu cất qúy giá hảo hạng.

Hơi Thở Việt Nam, 39 bài thơ như những bản cáo trạng của một nhà thơ chứng nhân ghi chép lại tình trạng một xã hội đang chìm trong cơn hồng thủy. Tan nát hoàn toàn và nghịch vỡ toàn diện. Trên dòng chữ , thấp thoáng những giọt máu và mồ hôi. Ở vần điệu đâu đó xuất hiện những tiếng thở dài bất tận, những hụt hẩng hun hút trầm buồn. Thế kỷ hôm nay đã thật nhiều bi kịch, hàng triệu diễn viên trong vai trò bất đắc dĩ đã đóng trong tuồng tận thế. Luân Hoán đã sống ở đó và trong giây tơ của rung động, anh đã nói bằng ngôn ngữ bình thường của mình như một chứng nhân, anh không thêm bớt, không cường điệu. Và như thế, đâu đó trong đời sống chúng ta có lúc những hình ảnh, những biểu hiện của thơ Luân Hoán bỗng gần gũi lạ thường, như một đồ vật còn đang trong bàn tay nắm dù đó chỉ là những ý nghĩ, những tư duy không rõ ràng hiện thực.

Ðối với tôi, Luân Hoán không phải là một nhà thơ xa lạ. Trong cuộc chiến trước năm 1975, tôi đã được đọc rất nhiều thơ của anh. Trong đó, tôi nhớ thấp thoáng một bài thơ, ghi lại cảnh dừng xe trên đèo Bình Ðê. Bài thơ đó tạo cho tôi một xúc động mà tới bây giờ tôi còn mường tượng và cảm thấy. Ðiệu thơ trầm buồn, nhưng đầy hào sãng, ngôn ngữ của chiến sĩ được tận dụng để thành cây cầu bắt qua giòng sông cảm xúc.

Với một đời sống sôi động, rất gần tử sinh, những người lính có một lăng kính thật tốt, để ghi lại những nét chấm phá trên bức tranh vĩ đại của quê hương. Họ đã tạo thành những bài thơ xuất thần, ghi lại một thời điểm tai ương của lịch sử, với đầy dãy thống khổ và của uất nghẹn , máu xương tan tành đổ vỡ. Những Tô Thùy Yên, Nguyễn Bắc Sơn, Luân Hoán, Vũ Hữu Ðịnh…đã khắc đậm nét văn chương lên thời thế và những dòng thơ đã chạy như nhịp máu trong tim.

Tôi vẫn nghĩ rằng công việc chú giải thơ là một thất bại ngay từ khởi điểm và bao hàm một ngụy tín, một thái độ hàm hồ. Bởi thơ hàm chứa nhiều nhất, đồng thời thơ lại là mê hồn trận, nơi ta dễ dàng lạc lối nhất. Thành ra công việc kiếm tìm những đoạn thơ tiêu biểu của Luân Hoán để giới thiệu với độc gỉa là một công việc khó khăn. Trong tập thơ có quá nhiều đặc sắc, phải để ý, phải rung cảm. Bằng một thứ ngôn ngữ thường dùng hàng ngày, với những đề tài linh động, thấm nhuần một sự tích sống thật. Cảm xúc đã trùng trùng kéo tới, những đoạn phim tiếp nối của xã hội tan rã đến tận cùng, đã hiện ra thật hấp dẫn và thôi thúc, mời gọi sự chú tâm để ý. Rất nhiều đắng cay, rất nhiều chua xót, những giọt lệ vẫn chưa chảy được, nó len lén lên bờ mi, nó cắn răng trong chịu đựng bất hạnh, nhưng sao đôi mắt vẫn rực sáng, dù hằn vết, nhiều dấu tích: gảy, đổ, vỡ, tang thương Có cuộc đời nào tàn nhẫn hơn đã xảy ra ở Việt Nam. Ông thầy giáo bỏ nghề dạy học trò, trở về trường cũ bán bánh kẹo cho những học trò nhỏ của mình, để làm kế mưu sinh. Mời bạn đọc xem bài thơ : “Trước Cổng Trường Hồng Ðức” (trang 53, 54 và 55). Hình như nụ cười chua chát đã có. Hình như một bi thảm kịch của giọt lệ đã rớt cho cả ông thầy và đám học trò nhỏ bé ngây thơ nhưng bất hạnh. Chúng ta hoang mang giữa cái cười và cái khóc, khóc ngập ngừng, nhưng cười nửa miệng:

” còn thầy đây như các em đã thấy
thân xác này và những bánh bột khoai
cái kính trắng chút hương thừa trí thức
râu tóc dài như bóng tối tương lai
ngày mấy bận thầy lang thang trước cổng
bán bánh xoài bánh ít ngọt quê hương
lòng vẫn tưởng đang đứng trên bục giảng
tim vẫn nghe từng hơi thở sân trường..”

Những người đã sống với cộng sản sau ngày mất nước, chắc không lạ với những đổi đời này, nhưng những người chưa từng sống chung với qủy dữ, chắc sẽ nghi ngờ cho là người thơ bịa đặt và cường điệu sự thật. Bởi nó là điều thật phi lý đã xảy ra. Không phải là tình cờ, mà do cố ý chủ trương, chính sách của những kẻ cầm quyền. Tri, phú, địa, hào đào tận gốc, bốc tận rễ. Anh thầy giáo ốm yếu, chỉ có trái tim nhỏ bé và viên phấn trắng bảng đen vũ trang, bỗng trở thành mục tiêu diệt trừ của chế độ. Như thế được bán bánh qua ngày, cũng đã là một may mắn lắm rồi.

Dù khổ cực, nhưng người thầy giáo vẫn yêu nghề, vẫn nghĩ đến đứa học trò tội nghiệp Buồn man mác của thầy lẫn trò, những đổi đời quá sâu, quá đau, làm thành vết thương nhức nhối. Cáo trạng đã được viết, dù chỉ vỏn vẹn vài câu thơ. Sự thực được nhìn ngắm rồi trở thành những lát dao phóng về phía những tên cộng sản. Dù thế nào, ông thầy vẫn nghĩ lạc quan :

” Mua đi chứ thầy không hề xấu hổ
ái ngại chi chút tình nghĩa thầy trò
thầy không bán cho các em cay đắng
nhưng tặng thêm vài hơi thở tự do “

Nhiều khi hình ảnh không còn là thực tại. Nó bao hàm một ý hướng và thể hiện một dự phóng. Ý tưởng biểu hiện trong hình ảnh, thật rõ nét nhưng khoác áo ngoài bình dị.

Màu đỏ, dù chỉ là màu sắc của trái cà chua xinh xinh mọng nước, vẫn là màu của ghê sợ của đè nén. áp bức. Vồng khoai, luống cải dù tươi tốt xanh rờn, nhưng vắng đàn bươm bướm luôn bởi không khí rình rập nghi ngờ. Những bâng quơ như thế ở trường hợp khác có thể trở thành lẩn thẩn, nhưng đối với Việt Nam, không có lời buộc tội nào xác đáng và rõ nét hơn những biểu tượng đó:

” xin báo cùng anh cây cà chua nhỏ
cũng đậu được vài trái đỏ xinh xinh
(màu đỏ đẹp ơi vì sao ta sợ
có lúc nhìn em ta chợt giật mình)
xin báo cùng anh vồng khoai luống cải
nhờ bón phân người lá cũng rất xanh
anh nhìn thấy không con bươm bướm trắng
lãng mạn nghi ngờ rình rập bay quanh
xin báo cùng anh sáng nay đầu ngõ
có con cu cườm đậu tuốt ngọn tre
nó đứng rỉa lông mà không buồn gáy
có phải nó còn sợ ná ai đe ?

Ở Luân Hoán, không thể tách rời con người với tác phẩm. Những bài thơ vẽ rõ một đời sống. Thiếu thốn nghèo nàn, những của cải vật chất tầm thường lúc nào cũng ám ảnh dù cả trong những vần thơ. Chiếc xe đạp, một tài sản trong thời cộng sản được nhắc đến nhiều lần. Chúng ta xem:
” rô líp xe em răng mòn có lẽ
em đạp khoan thai nhưng trật sên hoài…”
hoặc:
“còi lại rít tứ tung trên đường phố
xe tôi về run cầm cập trật sên”
hay:
…”Mời anh qua Mỹ Thị
mời chị lên Hòa Cường
xe tôi vừa thay lốp
đảm bảo đi đường trường “

Một xã hội nghèo nàn đến thãm bại. Chiếc xe lúc nào cũng tật bệnh đã được để ý để khoác lên đó một biểu tượng của đời sống hư hao, của những lo lắng nhỏ nhoi, nhưng lại thành quan trọng trong cuộc sống.

Nhưng thế nào,người thơ vẫn vượt lên cao qua khỏi những tầm thường nghịch cảnh. Tôi vừa bắt gặp những vần lục bát hào sảng:

” Núi rừng xanh thật là xanh
đốn cây mà ngắm loanh quanh đất trời
giây nào trói được óc tôi
cùm nào xích được hồn rời trại giam ? “

Thơ Luân Hoán gần gụi với đời sống. Ðề tài không cao xa, nó đứng gần thực tại một với tay. Tất cả có mặt trong dòng sống chất nghèo đói, thiếu thốn, bất công dãy đầy, nhưng tràn đầy mơ ước. Trong tiếng than van vẫn ẩn chứa cao ngạo. Trong cam chịu vẫn cố ý vượt lên. Con người Việt Nam, nhất là con người miền Trung, sống ở đất khô cằn, “cày lên sỏi đá” có một sức chịu đựng bền bỉ, phi thường. Dày vò trù ẻo của bạo quyền như một nén để chờ ngày bùng nổ. Cáo trạng đã được viết như một bài thơ khắc trên đá. Sắt thép hứa hẹn một ngày phục hận. Hơi Thở Việt Nam, Thơ của một chiến sĩ, viết bằng tâm cảm rung động bén nhạy của thi sĩ. có lúc trở thành thôi thúc lên đường. Bỗng lúc nó trở thành những lời lẫm liệt buộc tội. Nhưng dù thế nào, chất đôn hậu nhân bản vẫn tràn đầy.

Cáo trạng mọi người lưu vong đều biết nhưng phải nói ra. Luân Hoán mới rời quê hương hơm một năm, đã thở chung với quê hương một nhịp tim trầm thống nghẹn ngào. Nếu quan niệm văn chương là những ngọn giáo phóng mạnh về phía bạo quyền, thì thơ Luân Hoán là những mũi tên lao vào tấn kích. Cáo trạng của một chiến sĩ đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến không là trò chơi. Không phải là tiếng hô hào xuông của những người mập mờ chơi trò gá bạc. Tiếng thơ phải có tiếng sắt thép lên đường. Chất xúc tác của hờn căm bùng vỡ đã có trong tơ. Ba mươi chín bài thơ với nhiều hình ảnh, cảnh ngộ, tôi trở về Việt Nam với một chuyến viễn du trong tâm tưởng. Và người thơ Luân Hoán chắc đã có sẵn sàng chất liệu để tiếp tục nói cho Việt Nam mai sau…

Đọc Thơ Trần Văn Sơn:
Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa.

Đọc những trang thơ Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa, do nxb Little Saigon ấn hành, tôi thấy bàng bạc trong từng cảm nghĩ. Thấp thoáng ở đâu đó , những sợi mưa quê nhà, mưa Sài Gòn , mưa cao nguyên thủ thỉ. Thấp thoáng ở đâu đó , những khuôn mặt bằng hữu thân quen , nhắc lại một thời đã viết và đã sống. Và , thấp thoáng ở đâu đó , những tình cảm của người lính năm xưa, người tù thuở nào và người lưu lạc bây giờ. Thấp thoáng ở đâu đó , những mơ ước ngày xưa và những chán chường nhọc nhằn trước mặt. Thấp thoáng và thấp thoáng , những cảm giác chia sẻ với thơ, tận tuyệt với thơ.. Ở những trang thơ, tôi bỗng thành người trân trọng quá khứ . Và ở Trần Văn Sơn , một thi sĩ mà tôi chưa từng gặp, tôi như đã hàn huyên với từ thuở nào , qua những vần lục bát , những câu bảy chữ , tám chữ …
Tôi đọc những dòng cảm khái đầu tiên của bài thơ mà nhan đề chung cho cả tập thơ:

Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa.

Dẫu không cửa không nhà
Vẫn an nhiên mà sống
Dẫu không rượu không trà
Vẫn hằng đêm nuôi mộng

Một ngày . Một ngày qua
Khốn khó vây quanh ta
Cháo rau ngày hai bữa
Chưa đủ ấm thịt da

Ngày thẫn thờ với bóng
Bóng quanh quẩn bên ta
Đêm thẫn thờ đối bóng
Bóng nhìn ta nghẹn ngào

Mông có khi là thực
Nhưng thực phải thế nào
Ngày. Ngày qua- còn đó
Tia nắng chưa rọi vào
Sáng nay trời thật đẹp
Hoa ngào ngạt quanh nhà.
Vườn ai vừa mở cửa
Thấp thoáng vài nụ hoa.

Vâng, dù đời cô đơn u tịch, dù ngày tháng qua trtong đói nghèo, vẫn thấp thoáng vài nụ hoa, trời vẫn đẹp . Thơ buồn nhưng lạc quan vui. Dù là nỗi vui thấp thoáng.

Tôi yêu những cơn mưa nhiệt đới Việt Nam nên cũng thích những câu thơ của mưa Sài Gòn và mưa cao nguyên của thi sĩ họ Trần . Những câu lục bát của âm hưởng thanh xuân ngày nào, của những tình tự ngày xưa. Mưa ở nơi chốn này ở Cali hiếm hoi lại càng làm nhớ thêm những cơn mưa giữa trưa bất chợt của Sài Gòn hay những đêm mưa dầm của phố núi Pleiku. Tự nhiên , dù đang ngồi trong phòng ấm cúng nhưng hình như có giọt mưa nào rơi rớt đâu đây, và thấy lạnh lạnh trong lòng. Những cơn mưa nào trong trí nhớ để dong tay dắt tôi về một nơi chốn ngày nào.

Rơi hoài phố vắng người thưa
Rơi trong chăn chiếu giọt mưa đầu mùa
Rơi tôi hạnh phúc ngày xưa
Phất phơ sợi tóc buổi trưa mưa dầm

Bay mưa sầu khắp trăm năm
Đèn lu bấc lạnh mưa đầm đìa rơi
Tôi ôm mưa ngủ ngoài trời
mưa tôi che kín bóng đời buồn tênh.

Ở Sài Gòn, là những tình cảm mang theo, là giọt mưa và giọt hồn cùng rơi, là tâm tình cứ mãi vấn vương như trời thủ đô chợt mưa chợt nắng :

.. Mịt mù ngày cũng như đêm
thèm hôn chút nắng êm đềm buổi trưa
giận trời sao cứ mưa mưa
bóng ai thấp thoáng cuối mùa mưa rơi
Sài Gòn thương quá người ơi
Giọt mưa và giọt hồn tôi rơi đều…

Hay là những cơn mưa phố núi. Những cơn mưa dội vang trong tiềm thức, những mịt mù mưa bay.Mưa như nước mắt của thiên thu vọng về , của giọt lệ người tình trôi đi. Thơ của tròi đất cùng chung một nỗi buồn mà người thơ gửi gấm:

Xe lăn qua đó sấm rền
Ngồi đây ngó phố gọi tên một lòng
Mưa hoài ngỡ đã sang đông
Áo dài xanh ngỡ màu hồng thiên thu

Ra sông ngó núi mịt mù
Mưa rơi hay giọt phù du vô cùng
Xưa trôi mấy nẻo thủy chung
Nay trông mưa uống rượu mừng mưa rơi.

Bài thơ viết lúc chiến tranh, khi nghe tin người bạn thân Tô Đình Sự qua đời. Thơ trong một cơn say , nghĩ về cuộc đời, và trong nỗi xít xa của người vừa chợt nhận ra một phần gốc rễ của mình, một kẻ lữ hành xa lạ mộng du trong những ảo tượng thời thế.Thơ viết cho Tô Đình Sự nhưng như để tâm sự với thế hệ chúng ta, những người đang lầm lũi trong chiến tranh. Bài thơ Ôm Một Mặt Trời Say:

“..Rượu hãy uống ly này mời Tô Đình Sự
Mày về đây cùng cạn một chung đầy
Có gì đâu ba vạn sáu nghìn ngày
Chuyện nhân thế như trò chơi trẻ nhỏ
Mày nằm xuống thảnh thơi cùng cây cỏ
Tao về đây như đã chết lâu rồi
Sống ở dương gian giọt lệ đầy vơi
Chết về âm phủ cười vui hể hả

Bao nhiêu chuyện bao nhiêu người vồn vã
Bao nhiêu thằng hề bao nhiêu kẻ ngô nghê
Bao nhiêu người như lá của mùa thu
Điên rôi tỉnh, tỉnh rồi điên cũng thế
Đời chán vạn thằng nửa người nửa ngợm
Bán bạn bè mua chuộc miếng đỉnh chung
Riêng mình ta mới thật sự anh hùng
Ai nào biết ta điên hay ta tỉnh
Dù ta tỉnh cũng giả đò điên tỉnh
Dù ta điên cũng bày vẽ tỉnh điên…”

Ngày ra tù, từ địa ngục trở về, thi sĩ đã nói với con những điều tâm đắc nhất . và cũng là chính tự nhủ với mình” làm sao để thật sự là người:

”…thời trai trẻ ba mơ làm khanh tướng
Mê văn chương và mê cả kiếm cung
Khi thất bại quay về ba chợt tỉnh
Rằng mẹ con là tia sáng cuối cùng

Đó là lúc các con ngôi đọc sách
Hay ôn bài hoặc kể chuyện Quang Trung
Ba nhìn thấy tuổi thơ ba trong đó
Kỷ niệm nào cũng đẹp phải không con

Ba không trách các con mê văn nghệ
Cũng không khuyên nên học cách ở đời
Ba chỉ dặn một điều duy nhất
Là làm sao phải thật sự là người!”

Bây giờ, làm thơ trên bàn máy may, bằng lòng với sự hy sinh của mình cho vợ cho con.Thơ của mắc míu áo cơm , của sinh kế đẩy đưa , để suy tư theo từng mũi kim sợi chỉ. Đó là lúc nhìn lại mình, để thấy rằng cuộc đời ấy không chỉ là nặng nợ áo cơm mà còn có niềm vui của một đời tìm trong công việc khiêm nhường một ý nghĩa nhân sinh

“Qua Mỹ chín năm
May vá nuôi con ăn học
Bạn đôi lần đến thăm
Tinh thần chén trà chung rượu

Thơ văn vất vào sọt rác
Chán đời ngâm bài cổ thi
Nhịp chân nghe chừng khúc nhạc
Tìm đâu tiếng sáo Trương Chi

Chín năm còng lưng đạp máy
Mắt mờ gối mỏi chân run
Mày mò đường kim mũi chỉ
Giật mình lá rụng đầy sân

Thương vợ ngày càng còm cỏi
Thân tàn nặng nợ áo cơm
Chín năm hít toàn bụi vải
Nhìn quanh bốn bức tường trơn

Nhà vắng đâu cần điện thoại
Tri âm còn một tấm lòng
Chỉ lo tuổi già sức yếu
Quên dần cái khó cái không

Vui buồn bên ta có vợ
Có hoa có đất có trời
Trăn năm một ngày rất vội
Chung đầu ngắm bóng trăng trôi.”

Đọc thơ Trần Văn Sơn, như nhìn ngắm lại một chân dung của một người bình thường trong thế hệ chúng ta. Đi lính , đi tù , đi Mỹ, những cái đi ấy hình như hầu hết chúng ta đều có chung . Những cái đi khởi từ một cuộc chiến tranh tàn khốc. Trải qua những nhọc nhằn bi thương , có lúc cũng hào sảng luận anh hùng , cũng có lúc giở tỉnh giở điên trong cơn say ngậm ngùi nhìn thế sự, thơ như những phác họa của một thực tế mà bất cứ ai cũng có lúc trải qua. Thành ra, thơ lại là những chia sẻ của những người hiện giờ đang sống đời lưu lạc , đang hụt hơi với chuyện cơm áo xứ người. Có mấy ai bằng lòng với hiện tại , với những gì mình đã có trong tay. Nhưng rồi cũng phải nhận ra một điều. Cuộc đời dù ở đâu và bất cứ ở nơi chốn nào, cũng cần một tấm lòng. Trong thơ Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa, quả tôi đã thấp thoáng thấy mình của đám đông trong thế hệ ấy. Làm thơ, có phải là để trung thực và sòng phẳng với đời, để có lúc còn một chút nắng vui tươi , của một vài sợi mây mơ mộng. Qua bao nhiêu ngã đường đã vượt, trải bấy nhiêu cay đắng ở đời , thì có lúc , thơ đã làm gậy chống để giúp đỡ đôi chân trèo lên dốc đứng nhân sinh muôn đời chập chùng trước mặt…

Nguyễn Mạnh Trinh

Nguyễn Lương Vỵ

NguyenLuongVy

Ngày Sanh Nguyệt Quế

Chào ngày sanh Nguyệt Quế
Gửi tặng con bài thơ
Tinh khôi như ban sơ
Thâm tình như trời đất
Bông trắng lừng hương nhạc
Đêm thơm ngát màu trăng
Đời cha vẫn thường hằng
Một niềm thương vạn thuở

Bài thơ xưa vẫn nhớ
Lúc con hai tuổi đời
Ý không hết trong lời
Lời chưa nguôi trên giấy
Thơ đêm nay vẫn vậy
Hồn đêm nay vẫn rung
Nhưng ảo diệu vô cùng
Một niềm thương vạn thuở

Bài thơ nay viết chậm
Nghe lạnh ấm thời gian
Năm tháng reo dặm ngàn
Tuổi già mừng hạnh ngộ
Tri ân người bạn nhỏ
Chúc mừng con gái yêu
Cảm động biết bao nhiêu
Một niềm thương vạn thuở

Bài thơ sau chưa viết
Nhưng đã viết lâu rồi
Vì lòng cha khôn nguôi
Vì nghĩa đời vô tận
Cầu mong con biết sống
Cầu mong con biết về
Hạt bụi vẫn còn nghe
Một niềm thương vạn thuở…

Năm Bài Thơ Chữ Hán
Của Cao Bá Quát

I. Giới thiệu:

Cao Bá Quát (高伯适; 1809?-1855), tự Chu Thần (周臣), quê quán Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Năm 1853, Cao Bá Quát đã trở thành một trong những người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, chết giữa trận tiền Quốc Oai năm 1855. Vua Tự Đức đã ra lệnh thu hồi và tiêu hủy những tác phẩm văn chương của ông. Tuy nhiên, Cao Bá Quát được dân chúng kính ngưỡng về nhân cách, tài hoa, khí phách và tinh thần yêu nước thương dân của ông nên đã cất giấu được khá nhiều tác phẩm của nhà thơ. Tác phẩm của Cao Bá Quát còn được lưu truyền đến nay là 1353 bài thơ, 21 bài văn xuôi, một số bài ca trù và khá nhiều câu đối.

Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Giáo sư Dương Quảng Hàm, trong tác phẩm “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” đã nhận định: “Cao Bá Quát là một văn hào có nhiều ý tứ mới lạ, lời lẽ cao kỳ.” Ngay từ thuở thiếu thời, ông đã sớm bộc lộ trí thông minh mẫn tiệp khác thường trong lĩnh vực thơ phú. Thơ ông đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung. Tứ thơ thể hiện sự nhạy cảm, sắc bén, độc đáo trong cách cảm nhận về thiên nhiên, thời cuộc, nhân tình thế thái. Tài hoa nhưng phận bạc. Ông đã trải qua nhiều bi kịch trong cuộc sống nên khí thơ mạnh mẽ, kiêu kỳ nhưng sâu lắng tình cảm, thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, thể hiện niềm đồng cảm nhân hậu với những cảnh đời lao khổ và có thái độ phê phán mạnh mẽ đối với triều đình đương thời. Thơ văn Cao Bá Quát còn bộc lộ một tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt, nhạy cảm, tứ thơ mới lạ khác thường. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, sự nghiệp sáng tác thơ chữ Hán của Cao Bá Quát khá đồ sộ, chỉ kế sau Nguyễn Du.

Nguyên tác 5 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát được giới thiệu dưới đây, 落花(Lạc Hoa), 對雨其一(Đối Vũ Kỳ Nhất) và 對雨其二(Đối Vũ Kỳ Nhị), 獨夜(Độc Dạ), 獨夜遣懷(Độc Dạ Khiển Hoài) trích từ sách “Cao Bá Quát Toàn Tập – Tập 1”, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, NXB Văn Học, Hà Nội – 2004.

(Thân thế và sự nghiệp của Cao Bá Quát được trang mạng vikipedia.org và thivien.net tổng hợp khá đầy đủ. Bạn đọc có thể tham khảo thêm).

II. Nguyên tác 5 bài thơ Lạc Hoa, Đối Vũ Kỳ Nhất, Đối Vũ Kỳ Nhị, Độc Dạ, Độc Dạ Khiển Hoài của Cao Bá Quát và phần phiên âm, dịch nghĩa, chuyển dịch thơ Việt:

1.落花

杜鵑聲裡雨濛濛,
一夜枝頭泣落紅。
春色可憐留不住,
笑他薄倖嫁東風。

Phiên âm:

LẠC HOA

Đỗ quyên thanh lý vũ mông mông,
Nhất dạ chi đầu khấp lạc hồng.
Xuân sắc khả liên lưu bất trú,
Tiếu tha bạc hãnh giá đông phong.

Dịch nghĩa:

HOA RỤNG

Tiếng chim đỗ quyên (chim quốc) kêu trong cơn mưa phùn (mưa bụi) nhạt nhòa,
Suốt đêm trên đầu ngọn cây [có] tiếng khóc không thành tiếng [sắc hoa] hồng rụng.
Thương xót cho sắc màu mùa xuân không thể giữ ở lại được nữa,

Thôi đành cười cho mệnh bạc [của những cánh hoa?] đã may mắn [!?] bay theo ngọn gió đông.

Phỏng dịch thơ Việt:

HOA RỤNG

Đỗ quyên kêu trong mưa bụi nhòa
Đầu cây thầm khóc đêm hồng sa
Sắc xuân thương lắm làm sao giữ
Đành cười mệnh bạc gió đông qua.

2. 對雨其一

暴雨傾天漏,
飛濤颯地來。
勢連江色壯,
聲入夜風哀。
赤日行何道,
蒼生歎幾回。
客情吟望遠,
秋氣正相催。

Phiên âm:

ĐỐI VŨ KỲ NHẤT

Bạo vũ khuynh thiên lậu,
Phi đào táp địa lai.
Thế liên giang sắc tráng,
Thanh nhập dạ phong ai.
Xích nhật hành hà đạo?
Thương sinh thán kỷ hồi?
Khách tình ngâm vọng viễn,
Thu khí chính tương thôi.

Dịch nghĩa:

NHÌN MƯA LẦN MỘT

Mưa to như trời trút nước xuống,
Sóng tung lên ngập tràn mặt đất.
Sắc màu nối liền với dòng sông trông rất mạnh mẽ,
Tiếng [sóng] reo hòa với gió đêm nghe rất sầu thảm bi ai.
Mặt trời đỏ [trong ngày] đã đi đâu rồi?
Để dân đen oán than hoài vậy?
Khách gửi lòng mình trong giọng ngâm ngợi [và] trông vời nơi xa,
Cũng chính là lúc hơi thu đang giục giã.

Phỏng dịch thơ Việt:

NHÌN MƯA LẦN MỘT

Mưa to trời trút nước
Sóng lớn đất ngập đầy
Màu sóng sông cuồng bạo
Tiếng gió đêm rít dài
Mặt trời đi đâu vậy
Dân đen oán vì ai
Khách ngâm thơ ngóng mãi
Hơi thu giục nhớ hoài.

3. 對雨其二
峭璧栖修蚓,
高階噴伏泉。
白明空外鳥,
青破晚來煙。
歲月圍長坐,
江山閉獨眠。
陰雲誰觸汝?
天半尚油然。

Phiên âm:

ĐỐI VŨ KỲ NHỊ

Tiễu bích thê tu dẫn,
Cao giai phún phục tuyền.
Bạch minh không ngoại điểu,
Thanh phá vãn lai yên.
Tuế nguyệt vi trường tọa,
Giang sơn bế độc miên,
Âm (ám) vân thùy xúc nhữ?
Thiên bán thượng du nhiên.

Dịch nghĩa:

NHÌN MƯA LẦN HAI

Chỗ [vách] núi cao chót vót [có] loài trùng [kỳ lạ] bám vào,
Nước suối tuôn ra từ bậc đá cao.
Chim bay trắng cả bầu trời rộng,
Khói tan đi xanh hết buổi chiều về.
Năm tháng bủa vây rất lâu chỗ ngồi,
Núi sông cầm tù giấc ngủ cô độc.
[Bóng] mây rợp [hình như] đã chạm vào ai đó,
Nửa trời [kia] vẫn còn ùn ùn [xúc động một điều chi].

Chuyển dịch thơ Việt:

NHÌN MƯA LẦN HAI

Vách núi trùng ma bám
Bậc cao suối tuôn rơi
Chim bay trắng trời rộng
Khói tan xanh chiều phơi
Tháng năm vây chỗ trú
Sông núi nhốt giấc đời
Mây rợp nào ai đó
Nửa trời kia nghẹn lời.

4. 獨夜

城市喧卑地,
乾坤老病夫。
齏躬成冗剩,
屏跡且泥塗。
寒潦乃連發,
災黎況未蘇。
太平無一略,
鹿鹿聇為儒。

ĐỘC DẠ

Thành thị huyên ty địa,
Càn khôn lão bệnh phu.
Tê cung thành nhũng thặng,
Bính tích thả nê đồ.
Hàn lạo nãi liên phát,
Tai lê huống vị tô.
Thái bình vô nhất lược,
Lộc lộc sỷ vi nho.

Dịch nghĩa:

MỘT MÌNH TRONG ĐÊM

Nơi chốn thành thị ồn ào và thấp,
Giữa trời đất, một thân già bệnh hoạn.
[Giống như] một vật nhỏ mọn thừa thải phiền hà,
[Thôi thì ] bôi phết bùn đất [để] ẩn dấu tung tích.
Lạnh và lụt lội [cứ] phát sinh liên tiếp,
Tình cảnh đám dân đen chịu tai ương chưa hồi phục.
Thời thái bình [mà] không có một kế sách [nào cả],
[Đành phải chịu] xấu hổ [thân phận tầm thường] làm nhà nho.

Phỏng dịch thơ Việt:

MỘT MÌNH TRONG ĐÊM

Thành thị ồn và thấp
Giữa đời thân bệnh ta
Nhủ mình trơ phận bạc
Trét bùn dấu mặt già
Tai trời còn tiếp diễn
Ách nước vẫn chưa qua
Thời bình không biết tính
Đáng xấu hổ nho gia.

5. 獨夜遣懷

平生性僻自耽吟,
遊遍天涯每不禁。
廢簏偶披常撫髀,
僬桐誰賞獨論心。
閒多濁酒消磨易,
客久名山夢寐深。
為謝孤燈舊相照,
一春人事到如今。

Phiên âm:

ĐỘC DẠ KHIỂN HOÀI

Bình sinh tính tích tự đam ngâm,
Du biến thiên nhai mỗi bất câm.
Phế lộc ngẫu phi thường phủ bễ,
Tiêu đồng thùy thưởng độc luân tâm.
Nhàn (gian) đa trọc tửu tiêu ma dị,
Khách cửu danh sơn mộng mị thâm.
Vị tạ cô đăng cựu tương chiếu,
Nhất xuân nhân sự đáo như câm (kim).

Dịch nghĩa:

MỘT MÌNH
TRONG ĐÊM CHẠNH NHỚ

Suốt đời [vốn] ưa sự quạnh vắng, thích ngâm ngợi [thơ phú],
[Chỉ có điều] không cấm nổi là [thú] dạo chơi cuối đất cùng trời.
Tình cờ tìm được [sách thơ phú] trong bồ cũ thường vỗ đùi [hứng chí sảng khoái],
[Giống như] ai thưởng thức tiếng đàn [được làm từ cây ngô đồng cháy sém], nhận ra tiếng lòng của kẻ chơi đàn [tri âm].
Rảnh rỗi nhiều, chén rượu đục cũng làm tan biến đi mất [nỗi niềm tâm sự],
Sống lâu nơi đất khách [nên] các núi nổi tiếng đã hằn sâu vào giấc mộng.
Cảm tạ ngọn đèn lẻ loi [đã] soi chiếu [cõi lòng] nhau từ lâu,
[Thôi thì] người và việc đời [lại] một mùa xuân nữa vẫn như hôm nay vậy.

Chuyển dịch thơ Việt:

MỘT MÌNH
TRONG ĐÊM CHẠNH NHỚ

Suốt đời quen vắng lặng ca ngâm
Rong chơi cùng khắp thỏa lòng trần
Bồ sách năm xưa mừng gặp bạn
Đàn ngô tình cũ réo tri âm
Nhàn nhã tiêu sầu chung rượu đục
Mộng du khắc vợi núi non trầm
Tạ ơn đêm sáng đèn tri kỷ
Đời lại vào xuân chẳng ngại ngần.

Nguyệt Thực Tháng Tư

Trăng hồng tươi máu đêm qua
Lập xuân nguyệt thực tê nhòa chân dung
Hồn ma bóng quế bập bùng
Âm phơi sắc gió nhạc bung nhịp đời
Bao nhiêu thế kỷ trông vời
Bấy nhiêu chớp mắt gọi mời sinh linh

Trăng hồng tươi máu rung rinh
Rụng rời nếp gấp lời kinh chiêu hồn
Thây khô xác mục đầu non
Cuối sông ác mộng vẫn còn lạnh vai
Đất sâu buông tiếng thở dài
Trời cao ngất giọng níu hoài phút giây

Trăng hồng tươi máu còn đây
Cầm dương bén gót chân mây tỏ ngời
Là em đã khuất lâu rồi
Là ta đã tận trong lời biệt tăm
Ly hương sương đỏ đằm đằm
Ly tan sọ trắng đăm đăm bây giờ

Trăng hồng tươi máu câu thơ
Tặng nhau dấu lặng sững sờ dấu than
Nhớ nhau trăng cũng vừa tan
Hồng kia rồi cũng sắp tàn vậy thôi
Trông nhau khuya cũng vừa trôi
Ngồi lau viễn mộng bồi hồi tháng Tư…

Tuyệt Mù Địa Tận

* Tặng các em tôi
Và một trời thiếu niên lãng đãng…

1.
Đêm ngồi trông tuyệt mù địa tận
Ngơ ngác một mình lạnh thấu xương
Thở ra câu thơ mờ trong sương
Hít vào vũ trụ lung linh hát

Ba ngàn bông tái sinh kiếp khác
Ba ngàn đời lông bay quá xanh
Ba ngàn nguyệt rụng máu quá tanh
Ba ngàn âm chìm hương cố thổ

Đêm ngồi im không quên không nhớ
Núm hồng em nở đóa mộng đầu
Giọng hài nhi ré trong mưa sâu
Chim hót đầy trong chiều nắng cạn

Một chấm đỏ đỉnh ngày vô hạn
Một hạt huyền đáy khuya vô chung
Một tiếng gầm tịch mịch vừa rung
Một tiếng than ai vừa chạm khẽ…

2.
Đêm ngồi im gặp mình lặng lẽ
Âm vút lên xé cụm mây vàng
Mây như lụa hư không lang thang
Rồi tan biến giữa hàng mộ gió

Ta gọi mình trúc tre đầu ngõ
Lóng xương mây xanh quá ngất ngây
Trời niên thiếu quá nhiều chim bay
Âm xanh mượt rụng đầy mái tóc

Đêm ngồi im đất trồi lên khóc
Âm xanh câm bén gót đại ngàn
Trời niên thiếu hiểu rồi tan hoang
Chiếc bình vôi trở mình trong miểu

Mình gọi ta rừng lau chết yểu
Tội cho viên sỏi nhỏ mồ côi
Tội cho con suối khô nhớ đồi
Tội cho mình với ta đối bóng…

Ngày Nay

Ngày nay buồn quá thụt lùi
Hít hơi lấy trới lau chùi bão giông
Chào em chào ẻm mênh mông
Lai sinh cố cựu đủ đông lắm rồi
Âm vang cây cỏ đứng ngồi
Vời trông phía trước vọng lời hỗn mang
Oan cừu thắt cổ thời gian
Không gian tím tái chia tan mộng đầu

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp Theo)

31.
Thì ra ta chết không ngưng nghỉ
Trong cơn sướng ngất khạc thơ bay
Trong cơn đau thắt thượng thanh khí
Chết tưng bừng chẳng biết chẳng hay…

32.
Chết tươi làm con quỷ xướng thi
Chết héo làm con ma lầm lì
Quỷ xướng thi, kinh kỳ rụng xuống
Ma ta lầm lũi lượm tà huy…

33.
Ma ta lầm lũi xâu tiếng khóc
Cài lên tim hóa thành núi sông
Ngàn thâu lá thức trầm âm nhạc
Rưng rưng khúc bia ca mênh mông…

34.
Ma ta lầm lũi gom tiếng nói
Ngần sương dấu hỏi dấu than bay
Dấu hỏi cụt đuôi, dấu than ói
Kiếp người ớn rợn đành sụp lạy!!!…

35.
Lạy em đẹp mãi cho ta mừng
Mần thơ ào ạt như chưa từng
Cái chi cũng đẹp cũng ứng mộng
Cỏ áy hừng đông, mượt quá chừng…

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp Theo)

21.

Vậy nhé! Xé câu thơ trắng tủy
Để còn nghe rền rĩ mưa âm
Âm đỏ ngực một bầy ngựa hí
Thây ma trôi. Thế kỷ tím bầm…

22.
Vậy nhé! Xé câu thơ khùng điên
Nhớ cái quên, quên cái nhớ. Ghiền!
Ghiền nhớ ghiền quên nên xé tiếp
Kiếp kiếp trầm trầm. Âm vô biên…

23.
Âm vô biên. Hiên nhà thao thức
Khẳng khiu tre trúc níu âm về
Gà con khảy mỏ kêu chiêm chiếp
Cọng rơm vàng theo ngọn gió quê…

24.
Ngọn gió từ rất lâu theo ta
Sắc như gươm và lạnh như ma
Ba hồn chín vía trong chân sáo
Niên thiếu đâu rồi? Kiếm chẳng ra!!!…

25.
Ngọn gió từ rất lâu ham chơi
Khỏa thân xanh. Trời muốn hụt hơi
Khỏa thân tím. Đất muốn trào khí
Ta muốn tan hoang hết kiếp người!!!…

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp theo)

26.
Gió cứ đi và sấm cứ rền
Cho chiều câm bầm huyết gọi tên
Cho ta cắn nát màu ưu hận
Nhai nuốt ngon lành chuyện nhớ quên…

27.
Nhai nuốt tình tang, đàn vô thanh?!
Xin vâng! Đêm tận hiến bạo hành
Xin vâng! Đóm lửa xanh vô tận
Núm vú cau tươi rất mát lạnh…

28.
Rất mát lạnh câu thơ chín tới
Nhịp bàn chân. Chuông ngân vời vợi
Vỗ bàn tay. Vũ trụ vần xoay
Lời vô ngôn mà sao mắt cay?!…

29.
Cũng là lời vô vọng đấy thôi!
Tiếng quyên kêu nắng dội bên trời
Ủ hết âm trầm trong bóng mộ
Trầm trầm trầm trầm. Trôi trôi trôi!!!…

30.
Im im im. Lắng lắng lắng lắng
Điếc quá vắng và câm quá trắng
Đo xuôi đếm ngược ngước lên cao
Thì ra vũ trụ cũng tào lao!!!…

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp theo)

16.

Gặt mút mùa điêu linh thống khổ
Âm khô ngói đỏ có ai về
Nghiêng hết chiều nở ra tượng số
Bầy sao bay rờm rợp. Lạnh tê…

17.
Muôn năm lỗi nhịp với muôn trùng
Lãng quên trăng. Viễn phố mịt mùng
Lãng quên ta. Tơ chùng héo hắt
Thương câu thơ chết yểu vô cùng…

18.
Thương câu thơ tái sinh trong mộng
Chào nhau lồng lộng gió muôn xưa
Âm son lịch kiếp vừa rung động
Hạt máu long lanh. Nhạc cũng vừa…

19.
Nhạc cũng vừa tan theo mênh mông
Đóa em thơm ngất. Môi em cong
Chín núi mười sông xanh tiếng hát
Hát rằng: Sóng vẫn bạc triều Đông…

20.
Vậy nhé! Xé câu thơ đứt ruột
Vẫn chưa bưa cái buốt giang hà
Vẫn hận mãi một lời đã vuột
Vẫn trông vời hồn cốt trôi xa…

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp Theo)

11.
Nhớ. Mãi mai! Ai trong hơi thở?
Kẻ ở người đi như nắng reo
Tứ chưa về kịp, ý chưa mở
Mắt chữ rưng rưng, gió nhẹ vèo…

12.
Nhớ. Mãi mai! Ai về bến Không?
Người trao kẻ giữ nhé! Tươi hồng
Gió đi sấm động trong hồn đá
Cồng chiêng sáng lóa nở trên sông…

13.
Nhớ. Mãi mai! Ai cài lục trúc
Giọt ngần sương, cúc áo xanh ngời
Giọt ngất tạnh, lời trao rấm rức
Sương kêu thương bóng mộ bên trời…

14.
Tình cũ mèm mà sao mới tinh?!
Thơ điên róc máu giữa lặng thinh
Thiên cao rờ rỡ mưa tràn mộng
Ngồi xổm trông lên hú một mình…

15.
Hú một mình vì khô nước mắt
Cô liêu. Trời đất ác vô cùng!
Cô độc. Ta nổi khùng hú gắt
Gặt mút mùa muôn đóa hồng chung…

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp theo)

16.
Nhớ. Mãi mai! Ai trong hơi thở?
Kẻ ở người đi như nắng reo
Tứ chưa về kịp, ý chưa mở
Mắt chữ rưng rưng, gió nhẹ vèo…

17.
Nhớ. Mãi mai! Ai về bến Không?
Người trao kẻ giữ nhé! Tươi hồng
Gió đi sấm động trong hồn đá
Cồng chiêng sáng lóa nở trên sông…

18.
Nhớ. Mãi mai! Ai cài lục trúc
Giọt ngần sương, cúc áo xanh ngời
Giọt ngất tạnh, lời trao rấm rức
Sương kêu thương bóng mộ bên trời…

19.
Tình cũ mèm mà sao mới tinh?!
Thơ điên róc máu giữa lặng thinh
Thiên cao rờ rỡ mưa tràn mộng
Ngồi xổm trông lên hú một mình…

20.
Hú một mình vì khô nước mắt
Cô liêu. Trời đất ác vô cùng!
Cô độc. Ta nổi khùng hú gắt
Gặt mút mùa muôn đóa hồng chung…

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp Theo)

7.
Khi cố cựu trở mình trong gió
Là thanh tân ngát hương đầu ngõ
Cảm động quá nên ta vờ quên
Nhặt vội một âm trên ngọn cỏ…

8.
Khi cố cựu trở mình trong ngực
Là thanh tân thức với tri âm
Ngần sương hát, khát tình non nước
Vách khuya im, lắng tiếng thạch cầm…

9.
Khi cố cựu trở mình trong đá
Là thanh tân gọi gió trên sông
Lời nức nở với niềm thâm tạ:
Màu thiên thâu ửng sắc cầu vồng…

10.
Khi cố cựu trở mình trong huyệt
Là thanh tân chôn âm dưới tuyết
Trời đất vốn chẳng nói điều chi
Thì cứ tiếp tục mần thơ đi!!!…

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp theo)

11.
Nhớ. Mãi mai! Ai trong hơi thở?
Kẻ ở người đi như nắng reo
Tứ chưa về kịp, ý chưa mở
Mắt chữ rưng rưng, gió nhẹ vèo…

12.
Nhớ. Mãi mai! Ai về bến Không?
Người trao kẻ giữ nhé! Tươi hồng
Gió đi sấm động trong hồn đá
Cồng chiêng sáng lóa nở trên sông…

13.
Nhớ. Mãi mai! Ai cài lục trúc
Giọt ngần sương, cúc áo xanh ngời
Giọt ngất tạnh, lời trao rấm rức
Sương kêu thương bóng mộ bên trời…

14.
Tình cũ mèm mà sao mới tinh?!
Thơ điên róc máu giữa lặng thinh
Thiên cao rờ rỡ mưa tràn mộng
Ngồi xổm trông lên hú một mình…

15.
Hú một mình vì khô nước mắt
Cô liêu. Trời đất ác vô cùng!
Cô độc. Ta nổi khùng hú gắt
Gặt mút mùa muôn đóa hồng chung…

Bốn Câu Thất Huyền Âm

1.
Ca xang mộng huyễn xanh ngất lời
Sát vai người mà sao chia phôi?!
Mà sao im tím khi lá nở
Em hát ngất âm trầm tím môi…

2.
Vừa khi em trầm tím môi. Là
Nhạc trầm âm thấm buốt xương da
Không một ai thấy ta vừa chết
Rừng sương câm thương tưởng em. Và…

3.
Thời gian?! Đàn lỗi nhịp khôn kham
Không gian?! Mây trắng nhớ vân am
Còn một mình một thân đối bóng
Con Ma Ta vừa mới hội đàm…

4.
Vừa mới hợp là vừa mới tan
Tuyệt bi âm. Sấm dậy tro than
Tuyệt bi sắc. Chùm bông tuyết đỏ
Tri ân tiếng nói giữa trần gian…

5.
Tri ân em đem đến cho đời
Một tình yêu chất ngất sáng ngời
Một đóa thương tâm âm rạng rỡ
Một khe huyền, nhớ lắm ban sơ!!!…

6.
Vạn cổ là nốt ruồi vạn kim
Giọt nắng hồng vừa rụng trúng tim
Vừa nứt hạt vừa chìm cuối bãi
Một bài-ca-không-tiếng lặng im…

Thời Gian

Bên này biển nhớ bên kia biển
Sóng bạc đầu câu chuyện ngày xưa
Lá khô nỗi nhớ dâng mùa
Niềm thương mận chín dâng mùa tụng kinh

Lời đất trích tấm hình gió lật
Cất trong tim sầu ngất tro than
Trăng suông đỏ hết hồn đàn
Ngàn dâu tím hết non ngàn ngẩn ngơ

Chờ rách mắt câu thơ chưa đến
Gọi mềm môi bờ bến chưa đi
Sông trôi và chảy rầm rì
Núi ngồi và đứng tứ chi rụng rời

Thời mạt thế trời ơi đất hỡi
Bởi vì đâu thế giới tan hoang
Lưỡi lê điếng tiếng cười khan
Hay là tiếng khóc ói tràn mật xanh

Đời quá vắng thôi đành cố cựu
Mái nhà xưa rót rượu dâng hương
Hồn êm bóng mát từ đường
Ừ thôi dâu bể về nương chốn này

Chốn nơi ấy là đây bóng mộ
Bóng thời gian lót ổ ta nằm
Một ngàn thế kỷ xa xăm
Câu thơ ngấn lệ tình thâm tặng người.

Âm Bản Tháng Năm

Vuốt sắc nắng nhiệt đới
Hoa xương rồng nở
Âm đỏ trườn lên dốc ngày
Âm xanh ôm kín vết thương
Hai bên chiều rách vai

Những mặt người chảy theo bóng chim
Những ký tự ngàn năm đã trở lại
Âm đỏ mùa yến huyết
Âm xanh mùa biển động
Bốn bên chiều rách vai

Trong mịt mùng của một trái tim đã khô
Những niềm trời vẫn còn long lanh giọt lệ…

Bốn Câu Thất Huyền Âm
(Tiếp theo)

Vạn cổ là nốt ruồi vạn kim
Giọt nắng hồng vừa rụng trúng tim
Vừa nứt hạt vừa chìm cuối bãi
Một bài-ca-không-tiếng lặng im…

Khi cố cựu trở mình trong gió
Là thanh tân ngát hương đầu ngõ
Cảm động quá nên ta vờ quên
Nhặt vội một âm trên ngọn cỏ…

Khi cố cựu trở mình trong ngực
Là thanh tân thức với tri âm
Ngần sương hát, khát tình non nước
Vách khuya im, lắng tiếng thạch cầm…

Khi cố cựu trở mình trong đá
Là thanh tân gọi gió trên sông
Lời nức nở với niềm thâm tạ:
Màu thiên thâu ửng sắc cầu vồng…

Khi cố cựu trở mình trong huyệt
Là thanh tân chôn âm dưới tuyết
Trời đất vốn chẳng nói điều chi
Thì cứ tiếp tục mần thơ đi!!!…

5 Bài 4 Câu Thất Huyền Âm

1.
Ca xang mộng huyễn xanh ngất lời
Sát vai người mà sao chia phôi?!
Mà sao im tím khi lá nở
Em hát ngất âm trầm tím môi…

2.
Vừa khi em trầm tím môi. Là
Nhạc trầm âm thấm buốt xương da
Không một ai thấy ta vừa chết
Rừng sương câm thương tưởng em. Và…

3.
Thời gian?! Đàn lỗi nhịp khôn kham
Không gian?! Mây trắng nhớ vân am
Còn một mình một thân đối bóng
Con Ma Ta vừa mới hội đàm…

4.
Vừa mới hợp là vừa mới tan
Tuyệt bi âm. Sấm dậy tro than
Tuyệt bi sắc. Chùm bông tuyết đỏ
Tri ân tiếng nói giữa trần gian…

5.
Tri ân em đem đến cho đời
Một tình yêu chất ngất sáng ngời
Một đóa thương tâm âm rạng rỡ
Một khe huyền, nhớ lắm ban sơ!!!…

Nguyễn Lương Vỵ

Nguyễn Lệ Uyên

Nguyn_L_Uyn

Tàu Khuya

-Huỷ vé và quay lại đi. Đằng nào thì ngày mốt cũng về tới Sài Gòn. Ở lại cùng nhau giải quyết vụ này xong cái đã!

Tôi không trả lời, lững thững đi bộ dọc theo thân tàu, không rõ xuôi hay ngược. Khách lên tàu. Những người đưa tiễn. Còi rúc. Những bước chân vội vã. Hàng cột đèn co ro trong cơn mưa lất phất lạnh. Mưa đan thành những sợi, giống như những sợi vải lòng thòng, xiên từng lọn qua lớp ánh sáng vàng vọt trên sân ga. Gió lạnh se bóp vành tai. Còi rúc tiếp. Tôi có thể bước lên tàu, chờ lăn bánh. Và chỉ trong ít phút nữa, tôi sẽ rời xa nơi ám bụi này. Nhưng không hiểu sao tôi không bước lên bậc cấp, thản nhiên quay trở lại cái tổ chim bốc mùi.
-Tàu chạy chưa, sao không trả lời?
-Chưa, tôi sẽ quay lại. Mà có chuyện gì thế? – Chỉ hỏi cho có lệ và tắt máy ngay. Tôi hiểu phần nào chuyện quay lại: Có thể bên K. lại đưa ra thêm điều kiện gây khó chúng tôi. Cũng có thể tiết trời se lạnh như thế này, H. cảm thấy cô độc. Tôi đá văng chiếc lon rỗng, lăn lốc cốc trên đường tàu. Chiếc lon chùi xuống chỗ nào đó, dưới thanh tà vẹt, và bỗng dưng tôi liên tưởng đến thân phận mình lúc này. Có cái gì đó, không hình dạng, nhưng xơ xác đến buốt lòng.

Tôi xách túi hành lý quay ngược ra khỏi ga. Những gánh hàng rong, xe ôm, taxi… những tấm ni lông di động bay lật phật, nhốn nháo trước cửa ga, cuốn theo dòng xe cộ ngược xuôi trên đường, làm tôi rơi vào trạng thái gần như chóng mặt. Cũng có thể do cảnh tượng trước mắt. Cũng có thể do cái “lệnh” trời ơi của người đàn bà đang ngồi đâu đó trong sảnh khách sạn, nhà hàng, quán cà phê đêm. Và cũng có thể bà ta khoả thân dưới tấm chăn bông dày chờ đợi từng bước chân của tôi?

Cùng bước theo những bước chệch choạc, rã rời là tiếng mời chào níu kéo. Những ấm chè xanh trên chiếc bàn mộc. Chiếc nõ điếu bằng tre nằm lệch nghiêng cạnh chân bàn chờ khách. Tiếng nõ sẽ rên sòng sọc. Bên kia, khói phủ mặt bàn. Những người đàn ông ngửa cổ thở khói. Khói và mưa cuộn quấn, phất phơ trong ánh đèn méo lệch. Khói và mưa ngập ngừng dưới những hàng hiên. Tôi nhìn những sợi mưa và lặng lẽ kéo túi hành lý lăn thành tiếng, rào rạo trên mặt đường nhựa. Đi một đoạn khá xa tôi mới gọi taxi. Lúc ngồi yên trong lòng ghế ấm áp, tôi có cảm giác như con tàu đang lăn trên thân thể mình, lăn hoài không dứt.

-Bác về đâu?
-Bờ hồ.
-Đất này lắm hồ, nhiều miếu… mà bác ra hồ nào?
-Hồ Tây, khách sạn K. bên Nhật Tân.
-Trễ tàu?
-Không.
-Quên gì sao?
-Không.

Lái xe liếc nhìn lên kính chiếu hậu, làm khuôn mặt anh ta nhảy múa, phình to, móp méo. Hình ảnh ấy khiến tôi thèm uống một ly rượu mạnh. Lái xe thôi nhìn vào kính, chăm chú vào đoạn đường phía trước mặt. Nhìn từ sau, chỉ thấy phần gáy được bao kín bởi chiếc khăn len mầu xám sậm. Lúc xe men ngang qua vườn Bách Thảo, trong lớp sáng tối nhập nhoạng, tôi lên tiếng đề nghị:
-Anh có thì giờ uống với tôi một ly rượu?

Lái xe ngước nhìn lên kính, lâu sau mới nói:
-Cảm ơn bác, tôi phải kiếm vài cuốc nữa mới đủ chi phí trong ngày. Bác thông cảm.
-Anh xem quán bar nào, trên Ngọc Khánh chẳng hạn, ghé vào uống một vài ly. Trời se lạnh thế này tôi nghĩ uống một ly rượu tối ngủ sẽ ngon giấc. Anh chớ bận tâm về khoảng thời gian chết.
Anh ta cười lục khục trong cổ họng, không thành tiếng:
-Biết thế. Thật lòng, tôi không thể. Tôi ở Nho Lâm ra, kiếm đồng tiền nuôi vợ con thật khó khăn. Nói thật tôi có quê mà như không – Nói và anh ta lại cười lục khục như có những hòn sạn chạm trong cổ.
-Là sao – Tôi hỏi.
-Nhà của chúng tôi nằm trong khu qui hoạch. Cái khu chung cư cao cấp gì đó đã nuốt chửng đất đai chúng tôi rồi, giờ thành những kẻ lang thang kiếm sống.
-Tốt nhất ta không nên làm thằng dân nghèo – Tôi nói với từ ghế sau.

Im lặng.

Bánh xe siết trên mặt đường Thanh Niên. Con đường giống như những chiếc phao nối liền, thả nổi bập bềnh giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Tôi ngoái cổ nhìn đê Yên Phụ. Đường mòn Cổ Ngư chỉ còn trong tâm tưởng những người già. Tôi mường tượng những bước chân khốn khó của Loan trên mặt đê khi phải chia tay với Dũng. Gió thổi sướt qua vai. Nhất Linh cũng khổ sở như nhân vật của ông với mối tình không trọn vẹn. Rồi còn Mai của Lộc nữa. Khái Hưng đã bao nhiêu lần đứng trên đoạn đê này, bóp trán để tìm ra sự thật của nghệ thuật trong đoạn kết giữa họ? Hai ông cùng các nhân vật đã mất hút đâu đó, chỉ nghe tiếng gió thầm thì bị gãy khúc giữa những toà nhà cao ngút, chắn mất cả mặt đê, bờ hồ. Hồi đó, cả làng Nhật Tân, Nghi Tàm đỏ thắm sắc đào. Mối tình của họ cũng đỏ rực như vậy. Còn bây giờ? Làng hoa một thời đã nhàu nát cả rồi. Hai ông nhà văn từng làm đẹp cho tiếng Việt, giờ cũng thui thủi ở đâu đó, một góc xa xẫm tối? Tôi ngẩn ngơ, ngó sững bóng đêm đậm đặc cuối tầm.

Qua khỏi hồ Tây, người tài xế cho xe chạy chậm, nói với tôi:
-Ở chỗ này có quán rượu nổi tiếng, tạm lịch sự. Bác có thể ngồi đến sáng – Nói và cho xe đậu sát lề.
-Anh không vào với tôi?
-Cảm ơn. Tôi đã nói.

Tôi nhìn đồng hồ, trả tiền và đẩy bàn tay anh thu dần vào người:
-Anh giữ hộ tôi chỗ thừa, mua cái gì đó cho cháu, coi như món quà nhỏ, không nhiều nhặn gì, đừng bận tâm – Nói và tôi kéo xách, bước thật nhanh vào quán.

Tôi như con chim đêm trong quầng sáng lờ mờ. Quán vắng. Chỉ thấy hai người khách không rõ giới tính đang ngồi trong góc sâu, chỗ khuất sau một giàn dây leo lưng lửng chúc xuống.

Đứng ở quầy bar là cô gái có khuôn mặt căng phồng và ửng đỏ, không rõ do ánh đèn hắt xuống hay những mạch máu li ti trên đôi má bắt quàng với những chai rượu xếp trên giá? Cô đang chăm chú dũa móng tay. Lúc thấy tôi bước vào, cô nhét vội chiếc dũa vào túi xách, nở nụ cười như bao nụ cười của những người đứng sau quầy. Tôi gật đầu chào và ngồi lên chiếc đẩu nệm chân cao, có cảm giác chông chênh, giống con sếu đang lắc lư, cong cổ xuống vũng nước.

Tôi đưa ngón tay lên:
-Camus đen, loại XO.

Cô gái có đôi má ửng hồng quay về phía giá rượu, cô bước đi với chiếc mông tròn ngún ngoảy, trườn theo ánh đèn màu hồng nhạt từ trần rớt xuống, đúng nơi tôi vừa liếc nhìn. Cô gái tìm rượu trên giá, lâu sau mới quay lại quầy với ly rượu trong tay trái, chai Camus được cô choàng chiếc khăn trắng bên tay phải. Cô rót rượu điệu nghệ và đẩy ly rượu bằng đầu mấy ngón tay về phía khách cũng điệu nghệ không kém. Ly rượu miết sàn sạt trên mặt quầy như lời mời mọc ngọt ngào. Tôi nghiêng đầu cảm ơn và nâng ly rượu chúc cô gái có một giấc mơ đẹp tối nay và hỏi cô có muốn uống cùng tôi. Cô gái lắc đầu, nói cảm ơn. Khi tôi đưa ly rượu lên lưng chừng thì cũng vừa lúc cô tì ngực vào thành quầy, đưa tay hất ngược mái tóc ra sau. Bộ ngực căng phồng như muốn gặm nát mép quầy.

Tôi uống thong thả. Đầu óc trống rỗng. Những mảnh ghép bằng gốm nung trang trí trên tường, mù mờ, không rõ hình dạng. Cả giá đỡ những chai rượu, cả cô gái cũng mù mờ trong lớp ánh sáng đặc quánh như có thoa kem.

Cái mông tròn lại lướt trước mắt, uốn lượn như con rắn trườn trên mặt đất. Chuông đổ leng keng.
-Nghe rồi, trên đường về.
-Sao lâu vậy?
-Có chút việc nhỏ – Tôi lấp lửng, không nói rõ đang ngồi bar rượu.

Cô gái quay lại quầy, hết nhìn tôi lại nhìn vào chiếc túi xách có tay kéo dựng đứng lên sau lưng. Cô buột miệng:
-Ông làm tôi liên tưởng với những phim cao bồi bên Mỹ. Họ vào bar với khẩu súng và bao da, thắt lưng quăng lên quầy. Còn ông thì với chiếc va li kéo chổng chơ.
-Cô thích cảnh ấy.
-Không, chỉ liên tưởng sau khi xem phim.
-Cảm ơn phim cao bồi.
-Ông nói sao?
-Phim cao bồi cũng tệ như phim tàu bây giờ. Một đằng là súng đạn, một đằng là gươm dao. Toàn nhảm nhí.

Cô gái bật cười. Khi cô cười đôi má càng ửng lên, và bộ ngực cũng rung rung sau mép quầy.

Có vẻ như sẽ mở được cái khoá trong người tôi, cô gái nói:
-Chưa thấy ai vào bar rượu mà mang theo va li!
-Cô đang thấy rồi còn gì?
-Lần đầu. Lạ
-Ví dụ như gây gỗ với vợ rồi bỏ đi lang thang.
-Có thể.
-Hoặc tình phụ?
-Ông biết rõ hơn ai mà.
-Vậy thì tò mò chuyện cái va li làm gì. Cô cứ coi nó như bạn tôi. Bạn trai hay gái cũng được. Nó đi với tôi. Nó không biết uống rượu. Nó canh chừng tôi…
-Hay thật, lần đầu tiên mới nghe có người nói đồ vật đi canh chừng con người.
-Đó là do xã hội đảo chiều theo phép duy vật biện chứng.
-Hình như có vẻ nguỵ biện, cho có nói.
-Nhưng mà, nó không nguỵ trá, nguỵ tín?
-Chịu, em không thể tranh cãi lại ông. Nhưng ông đi đâu với chiếc va li giờ này?
-Ra khách sạn K.
-Cũng gần. Cách đây ba trăm mét. Hèn gì.
-Cô sống trong Nam nhiều năm? Ngoài này không ai nói “hèn gì”.

Cô gái không trả lời.

Tôi uống nốt phần rượu còn lại trong ly, trả tiền rồi kéo chiếc xắch ra khỏi quầy bar. Mưa thôi rơi, nhưng gió thì vẫn lạnh. Gió hút theo tiếng nói từ xa của cô gái khi nãy “ông đi cẩn thận”.

Bánh nhựa lăn rào rạo sau gót chân. Tiếng nói cô gái mất hút. Khuôn mặt ửng hồng trôi tuột đi. Và bộ ngực găm vào mép quầy cứ bắt tôi phải tưởng tượng là nó đang gặm nát thớ gỗ, rơi ra từng mảnh, từng mảnh nhỏ li ti.

Dẫu sao cô gái đứng ở quầy bar cũng tử tế hơn H. Câu dặn với “ông đi cẩn thận” như câu nói của đứa em lúc nhìn thấy anh đi xa. Trong khi H. thì chỉ muốn cuộn chặt tôi trong tấm chăn dày…

Hai chiếc bóng hết ngã chúi ra sau lại chồm tới trước, trượt dài trên vỉa hè. Những cột đèn sáng loá trong đêm sâu. Tiếng còi rúc ùng ục và tiếng máy tàu dưới sông Hồng dội lên nghe rã rời, nỉ non. Ước gì lúc nãy tôi nhanh chân bước lên tàu về Nam để không nhìn thấy bóng mình đổ dài, để không nghe những âm thanh lềnh bềnh trong đêm lạnh. Muộn rồi. Tất cả đều trễ tràng. Chỉ còn mấy bước nữa thôi, tôi sẽ cuộn người trong tổ mối. H. sẽ quấn chặt lấy tôi.

Có lẽ nào tôi mãi là tội đồ của bà ta? Ý định rời bỏ công ty đã nhiều lần bị H. phát hiện. Và mỗi lần như vậy bà lại đưa ra một miếng mồi không thể cưỡng chống. Có lần tôi thẳng thừng:
“Không thể duy trì tình trạng này mãi được. Tôi thấy ông Th. yêu chị…”
“Cái lão ấy chỉ yêu tài sản của tôi thôi, làm gì có tình yêu thật?”
“Không thể sống mãi kiểu này, rồi sẽ ra sao?”
“Chẳng sao cả. Tôi không muốn bị trói buộc vào ba thứ vớ vẩn đó. Tôi thích tự do. Cũng như anh và tôi vậy. Chúng ta vì công việc, vì lợi nhuận chính đáng. Và mỗi khi đến với nhau đều tự nguyện. Cả hai ý thức về hành động của mình. Không ai ép buộc ai. Đó là sự tự do tuyệt đối. Tôi yêu lối sống tự do này. Tôi hiểu anh nghĩ gì và muốn gì? Chọn lựa đúng dắn là điều may mắn và hạnh phúc nhất trong một phần cuộc đời”.
“Tôi nghĩ, vì công việc…”
“Anh khỏi nói. Tôi hiểu cả… Bây giờ anh có đầy đủ những thứ cần thiết cho cuộc sống chồng vợ. Cô bạn anh, tên gì nhỉ? Đoan trang, đẹp, hiền…”.
“Tôi không có ý nhắc đến chuyện này”.

“Nó là một phần đời đấy, chớ coi thường. Trong công việc, tôi rất cần anh. Không có anh giúp, công ty này coi như chấm dứt từ lâu rồi. Anh giỏi về tài chánh kế toán hơn tôi. Anh ma mãnh về chuyện này. Anh đã giúp tôi chui lọt qua bao nhiêu lỗ kim. Tôi trả ơn anh, hay nói chính xác, tôi chia 1/10 lợi nhuận cho anh sau mỗi công trình trót lọt. Anh có những mưu mô rất đạo đức trong thương trường mà những người tiền nhiệm không hề có. Còn chuyện kia, anh cứ coi như một cuộc đi dạo tình cảm. Trinh tiết không phải là sự gìn giữ để chúng ta không thể hôn nhau, làm tình với nhau! Tôi biết mình lớn tuổi hơn nhiều. Nhưng lúc này tôi cần anh xoá đi nỗi cô đơn trong tôi. Nói thật, tôi thấy anh cũng yêu tôi, trước khi anh có cô bạn gái? Chẳng qua, trong người anh luôn có những thị phạm về ranh giới đạo đức và phi đạo đức về sự chông chênh. Tôi dám chắc rằng, nếu tôi chỉ hơn anh vài tuổi thì anh sẽ không từ chối những tình cảm tôi dành cho anh, phải không?”.

Đó là lần đầu tiên H. tuồn ra hết những gì ủ chứa trong lòng, sau khi công ty thắng thầu một thương vụ lớn, sau khi chúng tôi ngồi uống hết một chai Martell Noblige ở một nhà hàng hạng sang bên Thủ Thiêm. Lúc nói, H. nhìn thẳng vào mắt tôi. Đôi mắt cuốn hút như hớp hồn, như thôi miên cùng với vẻ đẹp rực rỡ đã đốt cháy tôi thành những hạt tro vụn. Ý thức phản kháng trong tôi mềm nhũn, co rúm lại và H. mặc sức điều khiển.

Giờ này, chuyến tàu lỡ của tôi chắc cũng đến Ninh Bình hoặc vào địa phận Thanh Hoá. Một quãng đường quá xa để tôi có thể thay đổi ý định. Tôi biết mình là kẻ tự lỡ tàu. Tôi biết mình đang lầm lũi bước lên từng bậc cấp trong khách sạn K. lộng lẫy.

Tiếng gõ cửa ngập ngừng, sau đó có một thằng người như con thú cưng cuộn tròn trong chăn bông. Tôi bật cười ha hả như muốn hất tung cầu thang rơi vụn ra. Tôi cười đến khi đứng trước cửa phòng. Tiếng cười dội vào cánh cửa khép hờ, dội ngược về phía tôi, lạnh buốt.

Người Đàn Bà Chết Trôi

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
(Ca dao)

Trời đang nắng chang chang, bỗng dưng mưa đổ ầm ầm như thác, như lũ. Mưa làm xé mặt đất khô nứt nẻ, dội lên những tiếng sôi ùng ục như thể tiếng kêu từ một nới khác rất xa vọng về. Tiếng kêu ấy nấc nghẹn, tức tưởi lúc kéo dài, lúc ằng ặc đứt đoạn. Ngoài sân bong bóng nổi đầy. Những chiếc bong bóng to bằng chiếc dù che đầu cứ thế trôi ngược lên con dốc cao, phủ lấp đoạn đường đất đá gồ ghề. Rìu rác xoáy ngược vòng vòng giữa con nước đục đỏ màu bã trầu. Thỉnh thoảng một vài que củi mục xoay tròn như chiếc chong chóng rồi dựng đứng lắc lư và cuối cùng mất hút dưới làn nước sâu. Nước tiếp tục chảy ngược lên con dốc cao, nghiêng rót vào những lỗ kiến nằm sâu trong lòng đất. Hàng trăm ngàn con kiến nhoài lên, bám vào nhau và thả trôi theo dòng nước xô đẩy. Những chiếc râu nhỏ xíu ngo ngoe như mừng vui, vì rất lâu chúng mới được một bữa tắm nước no nê hay sao đó. Chúng không hề sợ hãi. Chúng không kêu la, không réo gọi như mặt đất khô nứt, rất thản nhiên coi như cái chết là niềm vui tột cùng của thứ loài vật sống thành bầy đoàn. Một vài con cá quẫy trong dòng nước chảy ngược. Chúng hả hê với con nước hơn là miếng mồi kiến quanh nó, sớm muộn gì cũng sẽ là mồi, không thể khác hơn trong lúc này.

Giữa cơn mưa ầm ĩ, dưới cái nắng chói chang trong ngày hạ chí, để qua được phía bên kia đường, người đàn bà bắt buộc phải vén quần lội xuống dòng nước. Hai trái chân thon nhỏ trắng ngần, nổi bật giữa làn nước đỏ. Chị dò dẫm từng bước nhẹ và ngắn như bước tập đi của lũ trẻ con, lòng nguội lạnh đến vô cùng, tan nát đến vô cùng. Chị không biết mình sẽ đi đến đâu, trôi về xứ nào. Và cứ thế chị bước trên con đường đất ngập đầy nước, bên tai nghe lao xao tiếng gió, tiếng mưa đổ, tiếng gọi í ới của ai đó và cả tiếng lòng tan hoang của chị nữa.

Như vậy là đúng 29 tháng chung sống với nhau, nàng mới hiểu thế nào là nắng là mưa, thế nào là bão là lũ; thế nào là sự phỉnh phờ lừa mị! 29 tháng được bao nhiêu ngày là niềm hạnh phúc gối chăn? Bao nhiêu ngày là thương yêu chồng vợ chất nặng nghĩa tình? Bao nhiêu ngày là cay đắng, tủi nhục và nước mắt? Cái hân hoan thơ thới của tuổi con gái mới lớn nàng ngỡ sẽ là thiên đường vĩnh cửu khi bước đi bên cạnh người chồng hoạt bát, thông minh, rắn rỏi. Anh ta là hiện thân của chàng hoàng tử sắm vai buổi đầu. Anh ta tán tỉnh, vuốt ve, chìu chuộng, lấy lòng bằng mọi cách để chiếm hữu được nàng, người thiếu nữ xinh đẹp nhất xứ này. Nàng mềm lòng ngã vào vòng tay gân guốc với niềm sung sướng chưa từng có. Nàng hãnh diện với bạn bè, với làng xóm; đem chia niềm hoan lạc ấy với những chiếc lồng đèn kết hoa sáng rực suốt đêm ngày, những lời chúc tụng suốt đêm ngày, ngao du với nhiều ngày trăng mật. Nếu nói cuộc đời đẹp nhất, hạnh phúc nhất thì không có thời khắc nào huy hoàng bằng buổi đầu.

Nhưng hỡi ơi, kể từ buổi sáng loà niềm vinh quang hoan lạc kia, khi dòng máu bớt chảy tràn, nhịp tim chậm lại, giữa đêm tối chỉ nghe có tiếng côn trùng gáy nỉ non như bài kệ các chú tiểu đọc hoài giữa niệm đường, mùi mồ hôi nồng nồng của chồng, sự mệt mỏi quá độ trên hai đôi mắt nhắm nghiền, ú ớ cơn mê dã dợi của thể xác, nàng mới chợt nhìn thấy bộ mặt của mình và của chồng. Nàng vùng dậy ngơ ngác trước bóng tối dày đặc và tanh tưởi mùi đàn ông bám quanh người, tự hỏi: tại sao ta lại ngồi đây, tại sao ta phải chung sống với người đàn ông hình như có điều gì đó không chân thực mà ta bắt đầu thấy le lói đâu đó nơi góc tủ, hộc bàn? Nước mắt nàng chảy dài, chảy suốt đêm thành con suối quặn đau.

Đó là ngày bắt đầu của sự đau khổ, hoài nghi, thất vọng. Đó là ngày bắt đầu của sự gầm gừ đe nẹt, ngày của chiếu trên hương hào lý trưởng vung roi trước sân đình. Nàng nhận ra ngay khi bữa ăn sáng dọn ra không đúng vào lúc 6 giờ 30 phút, là đôi giày chưa kịp đánh xi, ly cà phê pha hơi bị loãng, cho đường nhiều quá hoặc ít quá cùng trăm thứ hằm bà lằng khác trên đời mà nàng chưa thể bắt nhịp một cách nhanh chóng để làm hài lòng anh hương hào, lý trưởng. Nàng đã kịp nhận ra một cách rõ ràng bộ mặt thật của anh ta: dối trá, lừa phỉnh mọi người kể cả vợ con; chèn bóp mọi người kể cả vợ con; tước đoạt mọi sinh thú sở hữu của nàng, đẩy nàng làm kẻ tôi mọi vĩnh viễn cho sự chỉ huy gia trưởng của chồng. Nàng thành ra kẻ bị khuất phục, không còn những suy nghĩ độc lập, không còn có ngôn ngữ của riêng mình. Cái mặt nạ gớm ghiếc của chồng mỗi ngày bị tróc ra một chút sơn để nàng thấy nguyên hình của con thú đội lốt trên người hắn ta.

Có một điều rất sơ đẳng, thậm chí là tầm thường vô bổ nhưng không ai chịu nói, sợ rằng đó là điều phạm tội, điều cấm kỵ, phạm giới… đó là sự phản bội trong cách nhìn, cách nghĩ và hành động của hầu hết các loại đàn ông; đó là sự xúc phạm của chính họ với tất cả vẻ thoả mãn, hả hê đối với vợ một khi đã nắm quyền chiếm hữu, biết mọi chân tơ kẽ tóc trên thân thể người nữ. Chồng nàng cũng thuộc nhóm bỉ ổi này khi hắn chấm dứt đột ngột mọi lịch lãm trước khi gặp nàng, cưới nàng, cùng nhân cách đàn ông đích thực bị đánh rơi, coi thân xác nàng như thứ đồ giải trí, dằn vọc, hành hạ.

Nàng ưu uất nhưng không kêu gào thành tiếng, ngậm kín một cục gai góc nghèn nghẹn trong lồng ngực, chèn giữa cổ họng đắng ngắt.

Ba đêm trước cơn mưa đổ sầm sập này, buổi tối hắn trở về nhà với mùi rượu thịt, mùi đĩ thoã trộn lại thành một thứ mùi lộn mửa. Hắn đổ vật lên nệm cùng với những gì từ trong bụng hắn trào ra. Nàng chết đứng giữa căn phòng tanh tưởi. Nàng như một tội đồ đang chịu nạn, đang hứng lấy những tai hoạ tiền kiếp. Không làm cách nào để vực được thân xác phì nộn kia dậy, không cách nào dọn dẹp những gì hắn nôn ra thốc tháo. Tất cả đã thấm rút vào mặt nệm mousse. Nàng đứng chôn chân bên thành cửa sổ mà như sắp bước lên giá treo cổ. Bầu trời bên ngaòi tối đen như chiếc mõm của con quái vật ngoác hàm răng nhọn chuẩn bị nuốt sống nàng. Nửa đêm hắn kêu khát nước. Nàng mở tủ mang chai nước nâng đầu hắn lên. Nhưng thay vì uống nước theo cơn khát, hắn kéo nàng ngã bổ lên người, dây dính những thứ lầy nhầy tanh lượm. Lấy hết sức bình sinh, nàng xô hắn ra và chạy vào phòng tắm đóng sập cửa lại như đóng cánh cửa ta bà tởm lợm. Nàng trút bỏ quần áo, vò lọn ném vào thùng rác, co ro trong vòi nước lạnh ngắt. Kỳ cọ đến bao nhiêu cũng không bay sạch hết mùi xú uế. Nàng dùng cả bàn chải, móng tay và cả lưỡi dao, cạo lên làn da đến bật máu, bày ra những mảng thịt đỏ hoét như bị cọp vồ. Nước mắt không thể chảy để vơi đi tủi cực. Thân thể nàng khô rốc. Đầu óc nàng khô rốc.

Một lúc lâu sau đó hắn gào lên:
-Cô bỏ đi đâu? Tại sao cô lại bỏ tôi?
Nàng không dám thò đầu ra. Nàng kinh hãi giữa đêm khuya trống trơn, lạnh ngắt.
-Cô đi với những thằng nào? Tại sao chừng ấy năm, cô không sinh cho tôi một đứa con? Cô là tên phản bội.
Nàng nghe tiếng vật vã trên giường và liền sau đó là tiếng ngáy kéo cưa, rin rít đến ghê người.

Mưa tuôn lộn ngược đất trời. Nàng dò dẫm bước qua bên kia bờ mà bước đi không đến. Đôi chân cứ lóng ngóng giữa dòng xoáy. Trời ơi, nếu như nàng sinh một đứa con thì điều gì sẽ xảy ra? Nó sẽ mang hình hài dáng vóc nàng với bộ mặt và đầu óc gớm ghiếc của hắn sao. Không. Không bao giờ ta sinh một đứa con như thế. Thà ta mang thân này làm đĩ với chính hắn, nhục nhã với chính hắn thì tội lỗi của ta với đất, với trời vẫn nhẹ như sợi lông hồng. Không bao giờ có một con quỷ nhỏ để lan ra nhiều con quỷ nhỏ, gây tai hoạ trong cõi nhân gian. Hắn cứ treo cổ ta lên, băm vằm ta ra muôn ngàn mảnh vụn vẫn hạnh phúc hơn là nhìn thấy một tai hoạ và nhiều tai hoạ kế theo vây ám những sinh linh vô tội.

Dưới con mắt của hắn và trong tận cùng ý nghĩ của hắn, nàng là một tên phản bội bỡi không thể đẻ ra một quái thai theo ý hắn. Có phải vì vậy mà hắn đã hành hạ nàng? Khinh miệt nàng? Vò bóp nàng như vò bóp con sâu cái kiến? Không thể. Phải đoạn tuyệt, chia tay, trốn chạy, bôn đào; chết dấm dúi ở nơi bụi bờ xó xỉnh nào đó, trôi đi một nơi thối tha nào đó còn hơn là ở trong căn phòng tanh lợm giọng này.

Nước mắt nàng bay vào cơn mưa trái mùa sầm sập.
Thân xác nàng cũng tan biến vào cơn mưa tối nhòa.
Mặt đất bắt đầu tan loãng từ phía dưới, phía tận cùng của sự sống thoi thóp.
Có phải đang bắt đầu một ngày tận thế khi nước mắt, mưa, thân thể nàng trộn rối thành đống bùi nhùi, bươm bươm xơ xác?

“… C’est le mystère de l’orage, celui du pauvre.Dans les pauvres maisons, on aime le silence. Mais les enfants crient, les femmes pleurent, les hommes crient, la musique est horrible…” (1).

Sự im lặng kinh khủng bao trùm gò đất cao hoang vắng. Không bóng người qua lại. Không tiếng chim hót, chỉ có bóng nắng rớt qua kẽ lá như lưỡi gươm rơi nghiêng trên mặt đất của tay kiếm khách nào đó bắt đầu mỏi mệt trên chốn giang hồ. Tịnh không một âm thanh quen thuộc, chỉ có tiếng rào rào đâu đó từ lòng đất dội lên. Người đàn bà khẽ liếc nhìn xuống mặt đất chỗ mình đang đứng. Không gì cả.

Mưa Trên Sông Đakbla

Trên đoạn đường dài hơn ba trăm cây số, nẩy xóc, ngân ngất ổ gà ổ vịt khiến không mấy ai còn hứng thú để chuyện trò như lúc đầu hăm hở ngồi trên băng ghế nệm. Cách đây vài tiếng, khi vừa mới bước lên xe, đám hành khách ồn ào chuyện nói, chuyện kể. Mấy người đi buôn nói về giá cả lên xuống bất thường và chắc mẩm rằng mình sẽ bán được nhiều hàng với giá lời cao. Người phụ nữ đi xa nhà lâu ngày nói về sự nhớ nhung hai đứa con nhỏ, tự chị nói ra rằng chúng học rất giỏi, rất ngoan ngoãn. Sau những lời khen ấy, hẳn chị sẽ tưởng tượng rằng mình sẽ được chúng reo mừng đón ngay trước cổng. Vậy mà lúc này người đàn bà buôn đồ khô bỏ rớt những lời lẽ ba hoa về những con cá phơi trên bãi cát, những đêm trắng chờ chồng cỡi lưng sóng bão; ông cán bộ thương nghiệp mập ú, cổ ngấn mỡ bốc phét về công việc điều hành buôn bán trong cơ quan của ông ta, đang như chiếc bị vải lăn qua, lăn lại trên ghế theo nhịp xe nghiêng võng, thỉnh thoảng lại ngã hẳn lên vai người phụ nữ ngồi kế bên, khiến chị ta phải khó nhọc lắm mới đẩy được ông trở lại vị trí cũ. Ở hàng ghế bên kia, ngang với ông cán bộ là cậu thanh niên mang kiếng đen, giống như những tay thám tử. May mà cậu ta không dòm ngó, xoi mói ai, chỉ bông lơn khoe mẽ về bản thân với cô gái ngồi cạnh cười ngặt nghẽo mỗi khi anh ta pha trò. Còn lại là những người có tuổi và hai đứa bé. Họ yên lặng ngó trời nhìn đất, cây cối, nhà cửa… chạy vụt về phía sau, đang suy nghĩ những gì không ai biết. Những người ngồi trong xe, bên cạnh nhau có cớ để giải bày chút tâm sự trên đoạn đường dài, có khi sẵn sàng thổ lộ tâm can với nhau.

Lúc xe lên đèo qua những đoạn vòng vèo, lắc lư, gấp khúc nghe có tiếng giấy sột soạt, mùi dầu gió bay dạt, trôi lều bều trong lớp không khí oi nồng buổi xế chiều. Có giọng đàn bà la lên: “chạy từ từ, đừng có bẻ cua gắt quá, cơm cháo lộn lên tới cổ rồi nè”. Tiếng cười lục khục, lẻ loi chìm nghỉm đâu đó cùng mùi dầu gió lúc càng nồng nặc hơn. Lên tới đỉnh đèo, tài xế cho xe đậu dưới tán hàng keo lá tràm trồng dọc theo đường, chỗ gần vòi phun nước tự nhiên dẫn từ đỉnh xuống. Mọi người lục tục xuống xe. Ông cụ ngồi cùng băng ghế, sau khi làm công việc vệ sinh cá nhân, bước đến chỗ tôi đứng, hỏi:
-Mấy tiếng nữa xe mới tới Kontum?
-Giờ mới trên đèo An Khê, chạy kiểu này chắc xẩm tối mới tới nơi.
-Khổ dữ đa. Không biết có tới được Tân Cảnh không đây? – Ông cụ thở dài, xa xôi.

Tôi chưa kịp hỏi han điều gì, ông cụ tiếp lời:
-Tôi đi thăm mộ thằng con, chết hồi mùa hè đỏ lửa, năm 72. Tôi có mình nó. Bao nhiêu lần định bốc mộ đưa về Diên Khánh, nhưng vợ nó không chịu, nói “ảnh sống trên này với con, giờ chết đi ảnh cứ sống với con, ba đừng lo”. Con nhỏ đó gan ruột, mấy chục năm vẫn ở vậy nuôi con, mua được chục hecta cà phê, dựng vợ gả chồng cho hai đứa cháu. Mấy năm trước cà phê còn có giá đời tụi nó lên hương chút đỉnh, nay thì sống dở chết dở. Lần này tôi lên bàn với nó, bán nhà, vườn cà phê đưa lũ cháu về dưới này. Tôi đã lên cố rồi mà nào có ai bên cạnh. Đứa con gái và lũ cháu ngoại thỉnh thoảng tạt về thăm rồi biến mất. Chúng thoắt hiện thoắt biến như bầy chim ăn đêm. Còn đám cháu nội thì xa xuôi dặm trường, hiếm khi chúng về. Kiểu này mà kéo dài có khi máu mủ ruột thịt lại lẫn lộn với nhau. Tôi lên lần này là để bàn với chúng nó gom về một mối. Tôi chỉ còn sống nay chết mai thôi. Biết làm sao, chú? Già rồi, đâu ngủ nghê gì được. Đêm thức trắng, chỉ có bức ảnh của thằng con trên bàn thờ. Nó và tôi ngó nhau trong bóng tối, gần vậy mà không nói được lời nào!
Giọng ông cụ buồn buồn khiến tôi cũng buồn lây.

Mà thật ra, tâm trạng của tôi lúc này cũng không khác ông cụ mấy. Cũng một thứ cảnh ngộ khá bi hài. Tình yêu. Cuồng dại. Sự Chia ly. Nỗi nhớ thương khắc khoải đến dằn xé nỗi lòng, ngoi ngót những trông đợi kéo lướt thướt bên ngoài khung cửa, bay qua bầu trời chao động cõi lòng tan nát. Ông cụ nhớ con thương cháu, lo sợ sự gìn giữ huyết thống mai sau không trọn vẹn, còn tôi thì thương nhớ một cõi mênh mông rừng rú mộng mị. Cõi mộng mị ấy đã bị Siu B’Liêng mang tận lên rừng sâu núi cao, để giờ này tôi phải ngất ngư chạy theo một cái bóng vừa thật, vừa hư. Trong những cơn sốt màu vàng tả tơi trên giường, tôi nghe tiếng nàng hát trên giòng Sésan chỗ đoạn ngoặt tiếp giáp giữa sông Poko với sông Đakbla, tiếng hát mang mang theo giòng nước ngầu đỏ đất bazan, lúc ầm ầm cuốn tung nỗi hân hoan của tiếng thác đổ, lúc rì rào lăn tăn, ve vuốt qua từng phiến đá hai bờ. Nàng như con nai, con hoẵng trên đồng cỏ ngút ngàn, như cánh cò trắng muốt, lặng lẽ bên các tum nước. Nàng ẩn hiện như thứ ráng chiều chói rực chao trong cơn nắng quái rồi trườn mất vào bóng đêm, đằng sau chỉ còn lại một vệt lờ mờ bay lên từ đất, từ muôn loại cỏ cây quấn thành cột khói hư huyền, kết tụ rồi tan nhanh rồi quay lại vất vơ trên những cành lá, như có như không.
Mười sáu năm rồi tiếp nối niềm hân hoan mệt lả, nỗi buồn nhớ mệt lả.
Và mỗi lần chợt nhớ những giây phút sum vầy, hạnh phúc bên nhau, con tôi lại hỏi:
“Tại sao mẹ không yêu con, yêu ba mà bỏ về với núi rừng?”.

Câu hỏi ấy tôi không giải thích nổi với nó, cũng như Siu B’Liêng, nàng không sao giải nghĩa rành rọt cho con hiểu! Chúng tôi đành phải chấp nhận cứ mỗi sáu bảy tháng một lần làm cuộc hành hương về chốn tình yêu, hoặc với tiếng sóng lõa thể động ầm ầm trườn dọc theo bãi cát; hoặc trên cánh đồng cỏ xanh, mượt đến tận cùng mượt của những ngọn lông tơ. Chúng tôi vùi nỗi nhớ vào nhau như con thú hoang trong mùa trăng mật. Rừng núi thì níu kéo biển lên non và biển khơi mênh mông thì níu kéo rừng xuống thật gần, quấn cánh tay trần vào nhau không buông dứt. Nhưng sự cuồng say ấy rồi cũng tơi tả, tơi tả như cành lá bị cơn bão dữ quật nát búp non mởn, để mỗi người một bên cầu sông Đakbla nhìn nhau vẫy tay, rớt nước mắt.

Dòng sông Đakbla là một thứ định mệnh khắc nghiệt trói chặt cuộc đời chúng tôi lại với nhau, để sau đó, mỗi người một đầu mố cầu nhìn nhau lặng lẽ lúc chia tay.

Cái định mệnh tơi tả ấy là tôi đã vít cong cần rượu, cong đến tận cùng cơn say tuổi trẻ để sau đó theo chân đám con trai trong làng mang đàn gông đứng dưới chân cầu thang nhà nàng, nghêu ngao hát, như con thỏ con đang tập ăn cỏ non, con chìa vôi đang tập hót

thau ddơi dơi
ih bblac jiong tỏnia
em ơi anh quá biết
nước da em rạng ngời như gỗ cây knia
em mượt mà như cây cẩm hương
thân hình em đẹp quá
thấp thoáng bắp chân em
Như tia chớp tháng hai
Thấp thoáng cặp đùi em
như sét đánh tháng ba
để trần cặp vú em
cả làng ta bốc cháy
tỏlũk phun tỏsau
ja’bung sang…

Cái giọng hát ngật ngưỡng la đà câu say câu tỉnh của tôi khiến những tiếng cười không thể nén lại, chợt bật ra đâu đó trên sàn nhà cao, ba hay bốn gì đó không thể phân biệt được trong đêm tối nhập nhòa bên đống lửa sáng rực dưới hiên. Những tiếng cười trong veo của gió núi đại ngàn, của dòng suối sáng bạc dội đập vào cõi lòng hoang mang, ngơ ngẩn…

Tụi con trai tiếp tục đàn và nhảy múa. Còn tôi thì mồ hôi rớt thành hột dài bởi tiếng cười, kích động nỗi háo hức ham muốn chưa định hình, chưa có tên gọi.

Những mắt củi nổ lép bép, toé những hạt đỏ li ti trong trẻo, reo vui với đêm xuống sâu, với tiếng đàn thánh thót, ngân xa và cả tiếng cười rúc rích nửa xua đuổi, chế giễu, nửa mời gọi. Các cô gái vẫn núp đâu đó trên sàn. Đám con trai nhảy quanh ngọn lửa bập bùng, hát mãi không thôi, như cơn mưa đầu mùa làm bay động những con mối từ tổ bay ra và quấn quít trên không trung.

Bất chợt từ trên sàn nhà cao, tiếng hát lướt nhẹ như tơ như gió, phả vào mặt đám trai làng, phả vào tôi đến ngất ngây còn hơn men rượu cần đang loanh quanh trong cơ thể bắt đầu nóng dần lên:

ơi anh bạn xinh xinh
anh rình theo vết chúng em
vết chân con gái bên bờ suối
vết chân anh bị xóa đi trên cát
và anh cũng mất cả
dấu chân chúng em

chân chúng ta cùng gặp
theo một điệu
tay chúng ta cùng uốn
theo một nhịp
đôi má ta chạm vào nhau
và nhận ra nhau.

Tiếng hát bay lượn quanh đống lửa, trên đầu chúng tôi mang theo mùi hương của trăm ngàn loài hoa rừng trộn lẫn với mùi đất thơm lừng lựng. Tôi nhận ra nàng qua tiếng hát khói sương. Chính cô ta, người con gái của núi rừng đại ngàn sâu thẳm, chứ không thể là ai khác vừa cất tiếng hát như suối trong, thác reo đó. Thằng K’lưng Đrăck khều tay tôi:
-Mày bắt nó về làm vợ đi. Nó đẹp nhất trong số con gái đẹp trên cao nguyên này. Nó học chữ nhiều. Nó nói được tiếng tây, ăn cơm bằng muỗng, bằng nỉa chớ không bốc như bọn tao. Nó giống tụi bay.
Tôi gật đầu nghe K’lưng nói chứ không thấy mặt mũi “Nó” ra sao. K’lưng tiếp:
-Mày ưng, nó sẽ cưới mày ngàn con bò, trăm ché túc và nhiều thứ nữa.
-Tao không biết. Tao chỉ đi hát với tụi bay thôi. Mà sao “nó” không bắt đứa nào trong đám bọn bay làm chồng?
-Con mắt nó không chịu ngó tới ai. Bụng nó không ưng tụi tao. Mày chưa thấy nó đâu. Nó đẹp đến nỗi những con báo cái đẹp nhất xứ này cũng lồng lên mà ghen với nó. Nó nói chuyện được với mấy ông Tây về thăm làng. Nó rất thương người già và lũ con nít. Cái bụng nó rộng rãi mà…
Đống lửa tàn dần.
Đêm sâu hun hút những xao động vu vơ.

Tôi nhập vào đám trai làng quàng vai nhau, chân thấp chân cao trở về, kéo theo những cần rượu say, những câu hát say, lửa hồng và đêm rưng rưng trên mặt cỏ đẫm sương. Tôi kéo “nó” theo trên những cọng cỏ đẫm sương đêm, kéo theo những âm thanh như thật như hư, thênh thênh trong đêm khuya khoắt.
đôi má ta chạm vào nhau
và nhận ra nhau

Câu hát vời vợi mời gọi đó ám theo đầu óc tôi, rưng rưng bước chân tôi liêu xiêu như bay như lướt trên con đường đất đỏ say nhè, trên đồi cỏ sũng sương đêm bên kia bờ Đakbla.

Và trên con đường đất đỏ ấy, trên bãi cỏ hoang ngậm sương ấy, tôi đã nhận ra nàng trong cõi thênh thang tiếng hát ngọt ngào, ngây ngất như vừa được uống thêm chén rượu bồ đào.

Mãi về sau này, khi đã là vợ tôi, nàng mới hé lộ cái đêm đầu tiên và thần tiên “chạm vào nhau”.
“Nghe cái giọng anh hát buồn cười thật, y như mấy ông nước ngoài tập hát tiếng Việt. Em để bụng thương anh cũng chỉ vì bài hát bọn trai làng bày cho anh, cái giọng hát ngọng nghịu, đơ đớ nghe ngồ ngộ, như con chim non mới tập hót, con gà tập gáy vậy. Điều này giống như đám con nít hồi nhỏ tụi em cố chứng minh mình là người lớn”. Từ đó chỉ có nàng hát cho tôi nghe, rồi con gái tôi nghe bên tao võng. Nàng không bày tôi thêm bài nào nữa cả, nói “đủ rồi, để em giữ mãi giọng hát lần đầu anh tập hát”.

Biển động dữ dội, ầm ì suốt ngày đêm. Đài trực canh báo có bão gần. Mây đen vần vũ và mưa tối đường. Mưa và gió quần nhau như trẻ con chạy cút kiếm, lúc hất bên này, lúc tạt bên kia, xoáy tròn tròn trên mái. Hạ Cơ thỉnh thoảng lại giật mình khóc thét sau tiếng sấm động. Siu B’Liêng bước tới ôm con vào lòng ru ấp, mắt buồn vời vợi. Mưa bão và sấm chớp khiến nàng chạnh lòng nhớ những quả đồi thoai thoải, tiếng con mang tác, con công tố hộ, gà rừng te tát trên ngọn cây? Đầu óc tôi nghĩ vậy, nhưng thầm mong chuyện ấy không bao giờ là sự thật. Chúng tôi thật sự yêu nhau, người này không thể thiếu người kia. Hạnh phúc của chúng tôi tròn đầy. Nhưng thỉnh thoảng nàng lại xa xôi nhìn những đám mây trôi về hướng mặt trời lặn. Nhiều lần tôi gặng hỏi, nàng một mực không có gì. Bữa nay, điệu bộ ấy được lặp lại trong một thoáng xa xăm cuối đáy mắt, khiến tôi chạnh lòng.
-Hay em về trên đó vài tuần, với mẹ, với làng?
-Em mới đi ba tháng trước đây. Thôi, để mùa trăng cúng cơm mới em và anh và Hạ Cơ cùng về thăm làng luôn.

Buông câu nói, tôi nhìn sâu vào đôi mắt nàng, thấy long lanh một niềm vui vàng vọt như cánh hoa bồ xít vàng ngoài tường rào.
Biển đập ầm ầm. Sấm chớp xòe sáng mọi ngóc ngách trong nhà.
Nửa đêm Siu B’Liêng ngồi bật dậy, kéo cả tôi theo như một thứ phản xạ tự nhiên.
-Anh nói đúng, sấm chớp thế này khiến em nhớ rừng quá đỗi là nhớ.
-Anh cũng vậy. Anh nhớ chân cầu thang dưới hiên nhà em, nhớ những đốm lửa nổ tí tách, nhớ dòng sông đỏ quạch màu son, chảy ngược lên dãy Trường Sơn trước khi đổ ra biển Đông.
-Những năm em học ở Couvent des Oiseaux, thầy J. Dupont vẫn thường nói với tụi em, nói trong giờ ra chơi, rằng có sống chung, sinh hoạt chung với đồng bào cao nguyên mới hiểu thế nào là tình yêu đất, yêu rừng và rồi ông phát hiện vô số những định kiến mà người kinh dưới xuôi, người châu Âu đã và đang tiếp tục đối xử với đồng bào cao nguyên bằng sự so sánh không công bằng, thiên lệch.
-Ai nói với em những điều này?
-Thầy J. Dupont. Thầy chỉ phát hiện nói ra, chứ còn dân tộc tụi em thì đã nhìn thấy các vấn đề từ sự bày biện có sẵn trước mặt, từ đời này qua đời nọ mà các anh gọi là tập quán. Chẳng hạn, tự đáy lòng sâu thẳm, mà nền văn minh chữ nghĩa các anh gọi là Tâm Thức thì núi rừng đối với tụi em là ngôi nhà chung. Rừng là hơi thở, là mạch máu, là đường gân, thớ thịt không thể thiếu, không bao giờ chia cắt được. Sống thiếu rừng, thiếu sông suối chẳng khác nào cây lúa, cây bắp nhổ gốc phơi trần trên mặt đất khô khốc, như xua đuổi bầy thú ra khỏi cánh đồng cỏ, sông suối vậy.
-Điều này đã quá rõ ràng – tôi nói.
-Hẳn nhiên. Nhưng những điều không rõ ràng chính là cái nhìn lỗi phạm khi cho đồng bào thiểu số mê tín, văn hóa ăn và văn hóa ở bất cập. Họ sinh sống ở giữa lòng những cánh rừng đại ngàn thì họ phải cất nhà sàn, phải nấu ăn ngay trong nhà, lửa cháy suốt đêm ngày… để nòi giống còn tồn tại tới ngày nay. Những ông tây bà đầm và người miền xuôi dạng hai chân trên nền văn hóa của dân tộc này để ném một cái nhìn lệch chiều về một nền văn hóa của dân tộc khác là điều không thể chấp nhận. Văn minh và văn hóa là hai khái niệm, hai phạm trù khác biệt nhau. Văn hóa của người Mỹ là gì?
-Anh hiểu rồi. Anh hiểu đất, rừng và sông suối kể từ khi anh có em. Anh cũng đang bắt đầu thuộc về rừng như em. Thôi ngủ đi. Không biết bão có vào hay quay hướng đi xa?

Siu B’Liêng chảy nước mắt trên ngực tôi.
-Tại vì quá yêu anh nên em đã phản bội rừng, phản bội con sông, con suối.
-Em đã biết rồi mà, anh chưa bao giờ có định kiến với cao nguyên. Nếu vậy anh đã không lấy em từ lâu rồi. Cả em cũng vậy, phải không?
-Em không biết. Nhưng chắc chắn xứ sở em là rừng núi, sông suối thác gềnh, là bầy thú hoang, là những cánh đồng cỏ mênh mông, rờn xanh từ phía mặt trời mọc sang bên mặt trời lặn, từ đỉnh chân trời này giáp đỉnh cong trời đất kia.
-Thì em và anh không ở chỗ giáp đỉnh cong trời đất kia là gì?
-Không phải vậy. Ở đây chỉ có sự gào rú suốt ngày đêm. Biển gào rú. Phố xá gào rú. Tất cả đồng thanh cất lên một thứ âm thanh thật dễ sợ. Những lúc anh đi vắng, em cố lắng nghe tiếng thì thào như ru, như hát, những âm thanh mỏng như dòng nước vuốt ve hòn đá xanh rong rêu… nhưng chẳng bao giờ em nghe được. Anh còn nhớ không? Hãy nói lại cảm giác của mình khi lần đầu em đưa anh vào khu rừng P’lick Jar?
-Anh không chú ý gì cả giữa khu rừng trùng trùng cây to cây nhỏ, vì em đã choáng hết chỗ trong khu rừng đó. Trước mắt anh chỉ có em mà thôi. Duy nhất một mình em.
-Đó chỉ là tình yêu anh dành cho em. Còn P’Lick Jar là một thế giới mê hoặc níu giữ bước chân người, bởi nó là cánh rừng già đẹp nhất của em, đẹp từ tuổi ấu thơ cho mãi đến giờ. Chính nó chứ không ai khác đã che chở em và dân làng, nuôi dưỡng, phả hơi thở thơm ngọt mùi mật ong vào thớ thịt mọi người. Rồi những cây đại thụ hàng trăm năm tuổi xoay tròn tán lá trong gió và nắng trên một thảm cỏ mượt như nhung. Cả con người và chim thú đều gặp nhau trên mảnh đất ấy, rất bình yên; một nơi chốn mà có nằm mơ cả thế giới văn minh cũng không tìm được nơi thứ hai trên trái đất này.
-Ngay ngày mai, anh có thể đưa em về thăm núi rừng. Em biết là anh sẽ làm bất cứ điều gì để em vui, để anh không mất em, chúng ta vĩnh viễn bên nhau.
-Em cũng vậy. Em yêu anh như con nai yêu đồng cỏ của nó, như con chim yêu cành cây của chúng, như con cá lúi cá mương lượn lờ bên khe nước trong soi mặt. Em không thể thiếu anh, nhưng nếu phải xa cách rừng núi quá lâu ngày, thì nỗi nhớ nhung ấy sẽ dày vò đến làm em chết mất, chứ chưa nói chi đến sự trừng phạt của Yang.
-Khi yêu nhau, thánh thần không nỡ bắt tội.
-Nhưng rừng núi bắt tội em. Mà tại sao anh không dám bỏ biển lên rừng với em, như em đã từng làm cho anh? Nền văn minh cơ khí luôn có cái nhìn khắt khe với người khác, ngắm nghía văn hóa của dân tộc khác theo cái nhìn một chiều của mình?
-Chẳng lẽ huyền sử Âu Cơ và Lạc Long Quân lại rơi đúng vào trường hợp của chúng mình? Tổ tiên ta có những trăm người con để chia nhau đồng đều. Còn em và anh chỉ có mỗi một mình Hạ Cơ, chúng ta phải làm sao đây cho rừng núi không bỏ em, cho đồng bằng, biển khơi không quay lưng lại với chúng ta, hỡi Siu B’Liêng?

Nàng im lặng không nói gì, vùi đầu vào ngực tôi khóc như mưa bão đổ sầm sập ngoài kia. Tôi vuốt ve khuôn mặt nhòe nhoẹt nước mắt nàng. Thân thể nàng rung bần bật từng cơn dài như những cây bằng lăng cong oằn dưới gió bão. Một sự chịu đựng phi thường đến quá mức đối với nàng, một đứa con của rừng, dần dần lạc mất lối về, rơi tõm vào xứ sở mông muội hồ đồ hổ lốn những khói bụi phi nhân văn. Hạ Cơ, đứa con duy nhất của chúng tôi vẫn ngủ say trong chiếc nôi ấm, không hề hay biết cõi lòng tan hoang của cha và mẹ. Bao nhiêu lần, tôi muốn nhỏm dậy, bồng Hạ Cơ đặt giữa hai chúng tôi, để tấm thân nhỏ bé ấm áp ấy, tâm hồn trong trắng ấy sưởi chút hơi ấm tinh nguyên cho sự chia lìa sắp vỡ toang. B’Liêng càng lúc càng khóc dữ dội hơn bằng sự kềm nén âm thanh trong lồng ngực, âm thanh không bật thành tiếng mà chuyển động khắp cơ thể, rung lên từng hồi, chuyền hẳn qua ngực tôi những thỏi đá lạnh băng, lạnh não nề như thể mọi giác quan bị thỏi lạnh băng kia làm co quắp lại.
Tôi chỉ còn biết ôm chặt nàng, ve vuốt nàng thay những lời an ủi không thể thốt ra thành lời.
Lát sau, B’Liêng gỡ tay tôi, ngồi dựa lên thành giường.
-Anh tha lỗi cho em. Em không muốn làm vậy. Ngàn lần em không muốn vậy. Nhưng em không thể cưỡng chống lại tiếng thì thào của rừng núi, nơi chốn tụ hội hàng ngàn, hàng vạn thứ trên mặt đất này đã thấm đẫm trong thịt da em mà anh chỉ mới hiểu, mới len vào một cõi nhỏ trong em.
-Anh hiểu nỗi nhớ thương quay quắt của em. Giờ thì em hãy ngủ đi, hỡi con sóc bé nhỏ của anh.

Ong cụ muốn đi ngay Tân Cảnh, mà bến thì vắng hoe. Ông loay hoay với chiếc túi vải trên tay, vẻ mặt căng thẳng và đầy lo lắng. Ông nhìn sững vào mặt người tài xế như muốn cầu cứu một sự hóa phép nào đó để ông có thể có mặt ngay tại Tân Cảnh lúc này. Người tài xế còn trẻ có vẻ bối rối. Tôi thì càng lúng túng hơn. Mấy lần định mở miệng mời ông về nhà B’Liêng nghỉ qua đêm, mai đi sớm. Nhưng chiếc túi vải cứ sang vai liên tục, ý hẳn ông muốn đi ngay đêm nay.

Người tài xế rút thuốc mồi lửa, ngửa cổ rít một hơi thật dài, nói gì đó với ông già rồi cả hai lên xe, đóng sập cửa chạy hút về phía chợ. Tôi không nghĩ người tài xế có tấm lòng rộng mở đến thế để đưa ông già đi tiếp 70 cây số đường rừng, nhưng rất có thể anh ta tìm cách nào đó để gửi ông già đi nhanh nhất. Và vô tình, người tài xế lại nhiệt tình tham gia vào sự thương nhớ nao nao của ông cụ già cô độc. Tôi ngó sững chiếc xe khách mất hút ở cuối phố vắng hoe. Chiếc xe dường như cũng hăm hở rung lên, chờ đợi giây phút trùng phùng giữa cha con, ông cháu. Nhưng liệu sau đó, những người thân yêu nhất có thực hiện đúng theo sự khao khát mãnh liệt của ông? Hay rừng núi đã níu chân họ lại, để ông già lầm lũi quay về đoạn đường dài gần bốn trăm cây số, không biết lấy ai chia sớt nỗi buồn?
Ông già đã mất hút trong niềm hân hoan chen lẫn nỗi buồn.
Còn tôi? Và B’Liêng?

Đường phố Kontum heo hút những con đường nhỏ, dài, nhà cửa núp sâu dưới những tàn cây, vườn tược rộng thênh. Tôi giống như người lạ mặt, ngập ngừng trên phố, ngập ngừng bước về phía làng Đak Jar.

Tôi đã đến với em thật gần. Tôi như kẻ tội đồ bạc mệnh bước về phía giáo đường, nơi em đang đắm hồn trong chốn mênh mông của đất trời, cây cỏ, chim muông. Tôi đang đuổi theo bóng em chìm dần vào bóng hoàng hôn nhòa nhạt. Mặt trời của em giấu tia sáng đâu đó, nơi em gọi là đỉnh cong của trời đất kia.

Tôi đang bước về phía em, như con nai bước tới thảm cỏ, như đàn voi bước tới con suối. Tôi nhìn thấy đôi mắt lung liêng của em trên bậc cầu thang dõi theo tôi và Hạ Cơ. Tôi lao tới với tất cả nỗi nhớ nhung rực lửa, reo cùng tiếng đàn gông quấn quít bên hiên nhà và bay vút lên chóp cây. Còn tôi và em thì bay vút về phía mặt trời mọc.
Tôi đang đứng bên bờ Đakbla, dòng sông đã thít chặt đời tôi và em vào nhau, rồi bất ngờ xô ngã chúng ta dạt qua hai bờ.

Đakbla ơi! đến ngươi cũng bắt đầu bi lụy nhỏ những giọt nước mắt xuống đời ta, phủ một lớp bụi mỏng trùng trùng trước mặt? Ngươi hay Mưa bắt đầu đổ. Ban đầu chỉ là những hạt li ti như bụi phấn bay. Rồi càng lúc càng dày thành sợi. Làng Đak Jar nhòa trong nước mắt mưa và bóng hoàng hôn. Rừng đen thẫm ở phía xa và em như đội cơn mưa, hình như không phải bước về phía tôi, giang đôi tay thương nhớ ôm choàng lấy tôi mà bước qua bên kia, sâu vào cánh rừng, với một chút dịu dàng gió núi, một chút ngập ngừng của dòng nước chảy rẽ hai. Em bước về với rừng không ngoảnh lại.
Trong cơn mưa, đất thơm nồng, níu chặt bước chân tôi vội vã lao về phía em…
Và tôi chợt hiểu rằng, em là cô gái rừng, người con gái của rừng, đẹp nhất trần gian.

Đọc Lê Văn Thiện Trước 1975

Lê Văn Thiện sinh ngày 10 tháng 5 năm 1947 tại thị trấn Giã, Khánh Hòa trong một gia đình nông dân nghèo. Sau khi cha chết vì làm lụng cực nhọc, Thiện phải bỏ học lúc mới xong chương trình trung học đệ nhất cấp tại trường Trung học Võ Tánh, Nha Trang, vào lính vì không biết một nghề nào để làm lụng đỡ đần mẹ già và em gái. Anh có thời gian 2 năm phục vụ tại Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 47, SĐ 22 Bộ binh, đóng tại Phú yên. Sau khi tốt nghiệp trường SQ trừ bị Thủ Đức, Thiện được thuyên chuyển về Trung đoàn 14 Sư đoàn 9, tham gia các trận đánh lớn nhỏ ở chiến trường miền Tây Nam bộ và Campuchia.
Truyện ngắn đầu tay, Ngoại lệ, đăng trên Văn số 47 lúc mới 18 tuổi, ra ngày 1.12.1965 dưới tên Văn Lệ Thiên. Sau đó truyện của ông đăng đều đặn trên Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Ý Thức…
Đến nay Lê Văn Thiện có 5 tác phẩm được phát hành, đều là truyện ngắn: Một cách buồn phiền, Sao không như ngày xưa, Chuyện đời, Mưa lạ, Quế.
Những năm đóng quân ở Phú Yên, qua giới thiệu của anh Trần Phong Giao, tôi đã tìm đến đơn vị Thiện hành quân giải tỏa thị xã Tuy Hòa sau tết Mậu Thân (đang đóng quân tại Liên Trì, Tx. Tuy Hòa). Chúng tôi nói chuyện gia đình, văn chương, chiến tranh bắt đầu “leo dốc”… Sau đó, thỉnh thoảng Thiện ghé nhà thăm tôi mỗi khi có dịp và rồi thân nhau lúc nào không hay, như anh em, kéo dài mãi tận ngày nay. Chỉ tiếc mối tình một bên của Thiện với cô em gái không thành, đã để lại mối bận tâm, khắc khoải không ít trong lòng, nên có lúc Thiện đã thầm trách tôi vô tâm, không đưa lời vun xới?!.
Ngoài đời, Thiện không nhiều lời, ba hoa. Trong chốn trường văn trận bút cũng thế, chữ nghĩa luôn chừng mực, chừng mực đến độ cô lại như nấu cao. Và như thế, cũng có thể gọi văn chương và cuộc đời Thiện là một?
Đời và văn của Thiện vẫn là những cảnh đời khốn khổ, bất trắc thường xuyên xảy ra trước mắt. Biết đấy, thấy đấy, nhưng không với tới được, không thoát ra khỏi. Nó cứ quấn lấy, ôm chặt từ lúc còn cắp sách tới trường cho đến những ngày hành quân liên miên, những cái chết, những trận đánh lón nhỏ và, sau này khi mãn tù trở về, là những nhác cuốc trên rẫy sắn bạc màu, chỉ thấy toàn cát trắng và đá cuội, đến mức Thiện đã chống cuốc ngậm ngùi nhìn đất, nhìn trời, nhìn những củ sắn như bộ râu ông Quan Công mà không biết “kêu ai”(*)! Cuối cùng đánh liều “ngậm ngải tìm trầm” trên vùng núi Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai… 2 năm đi “điệu” cùng với muỗi mòng, rắn rết, sốt rét rừng… cũng chẳng hề làm thay đổi cuộc sống của gia đình lên chút nào. Vẫn cứ nghèo “rớt mồng tơi”, đổi lại Thiện giàu vô cùng giàu chữ nghĩa, tích lũy thêm vốn sống, vốn dĩ đầy dẫy những nhọc nhằn, không phải chỉ riêng anh, mà còn cả những người dân sống quanh anh, một đời lam lũ…
Truyện ngắn Lê Văn Thiện có thể tạm chia hai thời kỳ rõ rệt: những truyện viết trong thời chiến tranh và truyện viết thời im tiếng súng.
Hai tập: Một cách buồn phiền và Sao không như ngày xưa, một do Văn và một do nxb Côi Sơn ấn hành đều trước năm 1975. Và những truyện ngắn ấy có thể nói đã khắc họa tiêu biểu cho bộ mặt chiến tranh VN cùng với những Ngô Thế Vinh, Y Uyên, Trang Châu, Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Nguyễn Bắc Sơn… Tuy mỗi người mỗi vẻ, cách chọn đề tài và viết với phong cach khác nhau, nhưng có nét chung: Họ đều là thế hệ trẻ lên đường cầm súng để bảo vệ nền tự do cho phần đất còn lại luôn bị dòm ngó, xâu xé từ những cường quốc lắm súng đạn và thừa tiền bạc, như một trò chơi. Và những người trai trẻ bắt buộc phải lên đường, nhập cuộc trong cuộc chiến tương tàn, bẩn thỉu, đầy dẫy hệ lụy…
Mỗi nhà văn trong thời kỳ này, khắc họa chiến tranh theo cái nhìn khách quan nhất, đơn giản bởi họ là những người trong cuộc, trực tiếp sống chết với nó để nhìn thấy quá nhiều cảnh bi thương, hiểu đến tận cùng về thân phận con người, về đất nước nghèo khốn bị dày xéo tàn khốc: Anh chỉ có quyền bước tới mà không có quyền được bày tỏ ý kiến. Chỉ hành động theo lệnh mà không có quyền chọn lựa… Kết quả: tan nhà nát cửa, chết chóc, chia ly, hận thù chồng chất!
Chiến tranh thời đó (và thời nào cũng vậy), không do người dân nghèo dựng lên mà do lũ người “rửng mỡ” sắp đặt. Và Thiện phải cầm súng như bao thanh niên khác. Suốt tuổi thanh xuân, Thiện sống trong đạn bom, cái chết đủ kiểu cho nên anh không thể viết theo phong cách Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng và những nhà văn “máy lạnh” khác. Cõi văn chương của Thiện là lằn ranh giữa sống và chết, là tiếng súng bắn tỉa, những đợt hành quân, những trận tấn công, giải vây, tháo chạy, cảnh lộn xộn, nhếch nhác nơi miền quê nghèo… Cho nên mỗi khi đọc truyện Thiện điều đập vào mắt, trí não tôi, trước tiên không phải là nội dung mà là những dấu phảy, dấu chấm, chấm phảy, ba chấm, hai chấm… Cứ một chữ có dấu phảy, hai chữ buông dấu chấm. Chỉ một đoạn văn ngắn thôi đã kín đặc các dấu câu, khiến tôi phải tự đặt câu hỏi: Phải chăng nhà văn bị ám ảnh bởi những loạt đạn dài ngắn, bỡi cuộc đời “lên bờ xuống ruộng” của mình, của những người dân nghèo, bởi cảnh sống “chụp giựt” nơi phố phường và cảnh đời khốn khổ nơi miền quê Thiện sống, mà có lần vui miệng kêu : “…bằng lòng sống trong cái ao làng này” và thêm, rõ hơn trong một bài viết ngắn về Trần Hoài Thư: “Ở đây, tôi làm nông, gắn bó với ruộng đồng, ổn định. Tôi không than van, oán trách (Oán trách ai đây, trời chăng?). Than thở vô ích, nó chỉ làm suy nhược con người. Điều quan trọng (và kỳ quặc): tôi luôn nghĩ mình may mắn. Còn sống sau 7 năm đi đánh nhau, 33 năm vật lộn với áo cơm là may mắn… Tôi nằm trong cái ao làng. Tôi ngao du, ca hát, bơi lội thỏa thích ở đó. Đúng hên”.
Có lẽ “hên” do không chết thảm ngoài chiến trường, trong nhà tù và may mắn hơn là chưa chết khi phải vật lộn suốt từng ấy năm trời trên mảnh đất khô cằn, nghèo khó! Thiện không chết và chưa chết. Nhưng quanh anh, những người bạn, những chiến hữu của anh, bà con, đồng bào anh thì ngã vật ra chỉ sau một loạt đạn từ phía bên kia. Anh nhìn thấy tận mắt, chỉ cách mấy bước chân, nhưng bất lực nhìn bạn ngã gục một cách đau đớn, tủi nhục: “Thới thả cây súng xuống đất. Người đứng sau lưng kêu “trời”. Anh ta quăng một trái khói. Khói tỏa xanh đặc một khoảng, che khuất Khắc, cái thùng rác và phần dưới cái cây bên đường. Chúng nó lại bắn vào đám khói. Khắc được lôi vào, chỉ còn là cái xác. Nhưng cái xác đã bị thêm hai viên đạn nữa. Trên lưng Khắc đóng rõ ba lỗ máu. Người can đảm trừng trừng nhìn xác bạn, rồi tự vuốt mặt mình” (Trong lớp khói mầu).
Những cái chết như vậy, trong chiến tranh, là bình thường. Nhưng với với Thiện, thì sự bình thường kia lại vượt quá sức chịu đựng của con người nhạy cảm, như anh. Nội dung của truyện trên là cảnh Tiểu đoàn liên hoan sau trận thắng lớn. Thới được gắn huân chương như một anh hùng và được mời lên sân khấu đọc thơ, ca hát. Nhưng người anh hùng kia không đọc được, không hát được, bởi nỗi ám ảnh kinh hoàng về cái chết trước đó của đồng đội khi đơn vị về giải tỏa thành phố trong trận Mậu Thân: “…Thới đấm trán, xốc lại quần. Mọi người lại cười rân. Thêm được hai câu nữa. Cảnh đường phố chập chờn, buổi chinh chiến… đạn xới sạt sạt, lúc nhanh, lúc như nước nhỏ giọt xuống mặt đường, bụi bay, một người ngã xuống mép đường, cây súng, cái mũ sắt… kìa nữa, khói xanh lan ra, chờn vờn. Không cố được nữa. Thới lắc đầu, nguy mất thật, hai chân thì vẫn đấy, nhưng cái đầu thì, coi kìa… sao lạ, mắt cứ thấy dâng lên, lan mãi ra một màn khói xanh” (Trong lớp khói mầu).
Đọc đến đây, tôi bỗng nhớ đến đoạn văn sau: “Qua máy truyền tin ông đại đội trưởng ra lệnh trung đội tôi bằng mọi giá phải chiếm ngôi lầu Ông Tề ở bên kia đường, sau trạm xăng (…). Rồi tôi hét: Chạy. Cả bọn cùng ào qua lộ. Ðạn đuổi theo, sủi bọt trên đường nhựa. Vô sự. Chúng tôi đã băng qua đường vô sự. Tôi chạy đến phía dưới trụ xăng, ngồi núp đàng sau trụ. Người lính truyền tin chạy theo tôi ngồi bên cạnh. Những người lính của tôi cũng tìm chỗ núp chung quanh. Chỉ còn khoảng 15 thước là đến ngôi lầu. Ðịch lại bắn rát. Ðạn địch sủi bọt trên đường, lỗ chỗ vào vỉa hè xi măng quanh mình. Ðạn xuyên qua cây xăng, lửa tóe lên. Chưa kịp ra lệnh gì thêm cho những người lính xung quanh thì bỗng nhiên đầu óc tôi xây xẩm.
Một viên đạn nào đó dịu dàng quá đỗi, hôn lên da thịt tôi, như một cơn gió thoảng, như một nụ hôn của định mệnh, của tuổi trẻ, của chiến tranh, của ngăn chia, của con ngựa chứng..”. (Trần Hoài Thư – Nhà văn trẻ ấy bị thương).
Khắc của Lê Văn Thiện thì “trên lưng đóng rõ ba lỗ máu”, còn tôi của Trần Hoài Thư là “một viên đạn nào đó dịu dàng quá đỗi, hôn lên da thịt tôi…”, cả hai đều làm nhiệm vụ tái chiếm thành phố trong tết Mậu Thân!?
Dẫn hai đoạn văn trên, không có ý so sánh, mà hơn hết để chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn với ngòi bút Lê Văn Thiện. Cả cuộc đời quân ngũ của mình, Thiện luôn có mặt ngoài chiến trường với những trận đánh lớn nhỏ, từ miền Trung vào Nam bộ qua tận xứ Chùa Tháp. Thiện lăn lộn và chứng kiến tận mắt những cảnh khủng khiếp của chiến tranh. Tuy nhiên viết như một số nhà văn quân đội thời bấy giờ, về những trận đánh có mình tham dự, Thiện lại viết rất ít, rất hiếm hoi mới đọc được vài đoạn, lồng vào những bối cảnh khác. Đây, có lẽ cũng là một đặc điểm của Lê Văn Thiện chăng? Chiến tranh trong truyện ngắn của Thiện chỉ lấp ló, đậm nhạt vài chỗ từ những ký ức xa gần, từ cảnh sống của bà con nông dân ở nông thôn. Trong truyện Chúng mình ơi, đau buồn, Thiện dẫn dắt người đọc từ một nhân vật đọc cho người khác nghe một đoạn về chàng tráng sĩ, đến cảnh rộn ràng, chộn rộn của bầy trẻ háo hức đi xem kịch: “Một chiếc xe đạp chạy ngang qua cổng, bóp chuông. Tiếng trẻ con nói chuyện bỗng từ đâu trờ tới, xôn xao, rồi nhỏ ngay, mất hút. Có lẽ chúng nó đi mau, hay chậm lúp xúp. Chúng ra đình xem truyền hình.” , Nếu chỉ dừng lại ở đây, chúng ta dễ có suy nghĩ tưởng tượng cảnh lagf quên yên bình dưới ngòi bút của Lê Văn Thiện. Nhưng không phải vậy, sag đoạn sau thì nhà văn lại lồng vào cảnh mấy anh nhân dân tự vệ đi gác đêm: “Toán người gác đêm kéo đến, họ vào sân, nói chuyện xì xào. Nhà bác Tương có hai cái sân tốt, rộng, nằm không cần trải chiếu, nên toán gác này thường đến ngủ. Cũng có người bảo nhà này có một điểm khác quyến rũ, hơn hẳn cái sân làng, là con dâu bác Tương. Họ đàn ông con trai, khó trách họ được. Với lại họ cũng đàng hoàng, dễ thương (…). Ngủ chưa bác hai? Cô hai ơi, cho bọn này mượn chiếc chiếu. Cô hai ơi, sao cái sân…”. Như vậy, trong cái làng quê yên ả kia, nguy cơ của chiến tranh đã lấp ló trong cảnh “chộn rộn, xôn xao” của lũ trẻ con đạp xe đi coi hát? Chiến tranh trong truyện của Thiện cứ nhẩn nha như vậy, đến với mọi người, với làng xóm một cách tự nhiên, thoải mái như thể tối phải ngủ, trưa chiều phải ăn uống, tóc dài phải cắt, rửa mặt, súc miệng… Nó (chiến tranh) có mặt như để tô điểm cho làng quê chút “sinh khí”, chút tiếng động ồn ào vốn dĩ đã ngủ yên bấy lâu, nay choàng thức dậy?: “Ông già ngồi gác bên chậu bông bỏ súng nằm xuống chân, nhịp tay hát hay ngâm gì đó, chắc hẳn để khỏi buồn ngủ. Chiến tranh thật sự đã có từ lâu, nhưng mãi đến khi thấy những ông già lãnh súng, những đứa nhỏ ngày đi học đêm đến moi súng xách ra đình làng tập họp, người ta mới trợn mắt, và lại còn ngạc nhiên. Chuyện giặc giã đã tiến đến cái mức xa thế này rồi sao?” (Chúng mình ơi, đau buồn).
Những cảnh huống như vậy, hẳn nhiên nhà văn đã từng sống với nó, chứng kiến tận mặt ở một cái xóm nhỏ heo hút nào đó không tìm thấy tên trên bản đồ cả nước, nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại với nhiều dạng thức khác nhau, và diễn ra ở từng mức độ cao thấp khác nhau mà thôi, bởi chiến tranh vẫn dồn dập, đạn bom vẫn thả xuống, vẫn tiếp tục nhắm vào nhau mà bắn… Cuối cùng là những hậu quả không thể tránh khỏi, cái hậu quả kia, lại chính những người dân vô tội phải gánh chịu: “… anh lại nhớ đám mả những người dân chết vì đạn lạc trong trận đánh tháng trước, chôn như dập trên các bờ ruộng. Mấy gò đất mới đắp mọc lên hai ba bàn chân… Một chân mọc thẳng, lòng bàn chân ngửa lên trời, da vàng tái, móp khô, trông nhỏ và rất dơ…” (Quán vắng).
Những truyện ngắn của Thiện viết về chiến tranh chỉ chừng đó không ồn ào, hối hả, không dồn dập, tưng bừng khói lửa, nhưng khi khép lại trang sách, nhắm mắt ta cảm thấy một chút đau nhoi nhói tim gan, bởi anh đã “thực chứng” những tình cảnh thảm thương, để khi lòng “tịnh” lại anh đưa nhân vật và câu chuyện một cách bình thản như chị nhà quê xách rổ ra chợ làng! Thản nhiên một cách bình dị mà đau!

* Trích Đọc Lê văn Thiện, tạp chí
Thư Quán Bản Thảo số 43 tháng 8-2010.

Nơi Không Chỉ Có Khói Núi

Hai đứa trẻ đứng thập thò ngoài cổng, bộ dạng rụt rè. Đứa con trai chân đất mặc quần cộc, áo ngắn tay màu đất, tiệp với đôi chân mốc cời. Đứa con gái mang dép nhựa, quần đen hụt lên trên mắt cá chân, tóc hoe rối nùi, trên tay xách bịch ni lông màu đen, không rõ đựng thứ gì. Trực ngồi trên chiếc đẩu gỗ mộc sần sùi, nửa muốn chạy ra mở cánh cổng ghép bằng những cây chà rang, nửa muốn ngồi miết để quan sát điệu bộ lóng ngóng của chúng. Cả hai có vẻ chịu đựng, chờ đợi sự lên tiếng của các cô giáo trong căn nhà tập thể.

Qua khung cửa bằng những vạt cây cắm sâu vào vách đất, thân thể hai đứa bé bị vạch từng đoạn gãy khúc, mờ mờ trong màn sương núi đặc lềnh, lung linh, hư ảo trước vạt núi màu xanh phía xa bắt đầu co lại, nhòe nhoẹt lớp khói trắng quấn thít, từ từ như người ta kéo tấm vải mỏng phủ trên đồi cỏ hoang. Khúc sông trước mặt cũng đục lềnh lớp khói trắng sà thấp sát mặt nước. Khói núi tuôn xuống xuôi theo gió cuối ngày lúc mỗi dày thêm, lạnh ngắt.

Hai đứa nhỏ chắc thấm lạnh, Trực nghĩ và đứng dậy quơ đôi dép dưới gậm bàn bước ra sân.Thấy Trực, đứa con trai dịch nép sau lưng chị. Cánh cổng kéo qua bên, ngã nhoài về phía sân. Trực nói:
-Các em vào nhà, kẻo lạnh.
Đứa con gái bối rối chuyền chiếc túi từ tay này sang tay kia, lí nhí:
-Má em… má em biểu mang cho cô… – nói và đặt chiếc túi đen xuống thảm cỏ và chạy ngược ra hướng bờ sông. Đứa con trai lúp xúp chạy theo sau, thỉnh thoảng ngoái lại ngó về phía Trực. Bóng của chúng lượn trên đồi cỏ rồi nhòa dần trong lớp sương trắng ở đoạn những ruộng bắp bạt ngàn. Trực chưa hề biết chúng, có lẽ là học sinh của lớp Thẩm hay Diệp, Trực đoán vậy.

Trực quay vào nhà, quành xuống sau chái bếp xách theo bọc cá hai đứa học trò nhỏ mang biếu, đổ ra chiếc rổ nhựa. Một vài con quẫy mình hay cố nhoi chiếc đầu nhỏ lên trên những con khác. Đó là những con cá lúi, cá mương vảy bạc lấp lánh, dài như phần đầu sơ chiếc đũa bếp, có lẽ người nhà của chúng quây lưới trong các tum hay đánh dẹp bên những con suối.

Trực ngồi trên chiếc đòn kê đổ rổ cá vào thau thì Thẩm và Diệp từ phía rẫy trồng sắn sau trường trở về, khiêng theo bó củi khô dựng bên đầu hồi. Thẩm hỏi gì thế? Trực nói cá của học trò mang biếu, không rõ học trò của cô nào. Thẩm thọc gáo dừa vào lu múc nước rửa tay vừa liếc nhìn thau cá lầm bẩm: cá lúi nướng dầm mắm ngò thì không còn gì bằng. Tiếc rằng bọn mình không phải là đàn ông con trai để có thể nhấm nháp chút rượu trong buổi chiều trắng khói núi như thế này. Diệp đứng cạnh đang kéo ống quần để lộ bắp chân tròn trắng, xì một tiếng dài, bảo: nhìn những con cá nằm trong dĩa mắm ớt tỏi mấy bà không cảm thương thân phận đàn bà con gái tụi mình sao. Trắng phau thế mà phơi chình ình trên dĩa đợi người ta thọc đũa vào ngoáy. Bà nào cũng chuẩn bị tới cột số “băm” hết trơn trọi rồi còn thú nỗi gì? Thẩm hứ đánh cốc “nói xàm” rồi quày quã bước vào nhà. Diệp đứng xớ rớ một lúc, không nghe Trực nói gì, khum người chui qua hàng rào thưa khóa cửa các phòng học. Trực rửa sạch sẽ những con cá cuối cùng cũng vừa lúc ý nghĩ tòe ra, đụng cột số “băm” Diệu nói. Chưa biết có xàm thiệt hay không, nhưng bốn năm rồi cứ bám riết nơi núi cao suối sâu này, đôi lúc cũng tủi lòng. Nhan sắc không biết phô bày với ai. Những người dân miền núi chân chất thiệt thà, luôn nghĩ ba cô giáo là những con người chỉ cách thần núi thần sông một sải tay, đám thanh niên thì luôn nhìn họ ở một khoảng cách xa, nên son phấn cũng trở nên ngượng nghịu trên đôi gò má xàm xạm lỗ chân lông. Hiếm hoi lắm mới nhìn thấy vài người đàn ông thồ hàng từ xuôi lên đổi các loại nông thổ sản cho đồng bào rồi ào trở về như thể chốn này là nơi ma thiêng nước độc không nên qua đêm… Sự xuất hiện đột ngột và ra đi cũng đột ngột đôi lúc gợi nhớ những mẩu tình vụn vặt thời học trò: nói vài câu vu vơ góc sân trường, khẽ chạm tay nhau những đêm diễn văn nghệ hay ngồi bên ly nước góc phố… dường như không đủ sức để hạt mẩy chút mầm xanh yêu đương. Thỉnh thoảng Trực bật cười một mình, nụ cười giống hệt nồi cá kho bốc mùi sả, ớt và thứ mùi nặng trịch lưu cửu. Đó là những con cá tràu, cá nhét cong khum lại như cố chịu đựng sức nóng từ đáy xoong vồng lên, đến khi, như không còn sức chịu đựng, chúng cứ ùng ục giống tiếng rên khẽ.

Ba cô giáo thường xuyên dùng món ăn này và mỗi khi ngửi mùi cá kho, Diệp nhăn mặt kêu giống y chang cái mùi con gái ẩm mốc. Thẩm lừ mắt, thì bà cuốn xéo về thành phố đi. Việc gì giam giữ thân gái trinh nơi hóc núi này. Diệp buông đũa cười ha hả, khéo xúi dại, có nước đi bán bia ôm. Mà nghề bia ôm nay chỉ toàn các em mười chín hai mươi, làm gì có chỗ cho thứ gái già này… Diệp kéo dài mấy chữ cuối câu và khóc òa, chén cơm và đôi đũa trên tay thiếu chút nữa là rơi xoảng xuống nền đất ẩm. Trực dùng đùa gõ lên thành xoong, các bà ăn nói cẩn thận, chớ quá bi lụy… rồi buông đũa quẹt nước mắt trước tiên. Mâm cơm chiều trở nên lạnh ngắt. Con mèo mướp ngồi chồm hổm liếc nhìn các bà chủ không hiểu cớ sự, kêu mấy tiếng meo meo rồi bỏ đi nơi khác. Thời gian cứ lếch thếch bay qua đầu ba cô giáo bằng những chuyện không đâu như vậy, thỉnh thoảng nó như chiếc kềm nhéo nhẹ vào da thịt, không trầy xước nhưng cũng gợn nhói lên chút đau tê.

Trực bưng rổ cá vào bếp, kẹp chúng nằm sắp hàng trên chiếc kẹp tre và mang vào bếp cời than hơ lửa. Trực định bụng chỉ cần nướng sương rồi hong khói theo cách mà Trực học được dưới chợ thị trấn, ai muốn ăn gì tự chế biến. Mùi cá nướng bắt đầu bay tỏa ra thơm phức khiến Trực nghĩ ngay đến chuyện những cọng ngò màu xanh cuộn quấn lợn cợn màu ớt đỏ quanh những con cá nướng và Thẩm và Diệp. Trực lên gian trên mang theo mùi cá nướng đậm đặc trong buổi hoàng hôn tràn khí núi lạnh. Căn phòng vắng hoe, không rõ hai đứa đi đằng nào vẫn chưa về?

Gian nhà tối dần, khói núi len vào tận bếp, lạnh. Trực quay xuống cời than, vần nồi cơm rồi đứng lên dựa vào phên cửa nhóng sang phía bờ sông. Vẫn chưa thấy bóng Thẩm và Diệp ở đoạn bến nước. Nhớ những hôm trời lạnh dữ, nửa khuya Diệp cong người rúc mũi vào ngực Trực, tiện tay mở cúc áo vân vê đầu vú, kích động cho nó căng cứng lên. Lúc đầu Trực cảm thấy nhột nhạt, giận, nhưng rồi những cảm giác mới lạ, khó tả làm Trực tê rúm cả người và mệt nhoài trong giấc ngủ chập chờn với những giấc mơ về sự đụng chạm thịt da căng phồng niềm phấn kích bóng nhẫy. Sáng dậy Trực nghiêm mặt: tối nay bà Diệp nên ngủ riêng. Diệp nhăn nhó: trời lạnh thế này tôi đến chết cóng mất. Thẩm lê chiếc chổi trên nền đất: cô Trực không nên gây mất đoàn kết. Sướng khổ có nhau, chuyền chút hơi ấm cho nhau đâu mất mát gì mà la nguây ngẩy, cứ như con Diệp hãm hiếp bà không bằng.Trực như không nghe thấy, vục mặt xuống thau nước pha nóng, dùng chiếc khăn ấp nước lên mặt như thể che lấp sự xấu hổ, lơ mơ nghe tiếng nói xa gần nửa bỡn cợt hờn dỗi, nửa trách móc. Lúc vắt chiếc khăn mặt lên sợi mây phơi căng ngang trước đầu hồi, Thẩm đi xuống dựng chiếc chổi ở chái phên, tiện tay nhéo nhẹ vào hông Trực. Bà mà giả bộ. Tôi nằm nghe bà rên ư ử như con mèo cái trong mùa động dục. Trực đỏ mặt bỏ ra giếng tìm chiếc gàu, không trả lời, không phân giải; chỉ thấy nóng bừng trên hai vành tai, tê cay nơi sống mũi.

Lúc cây đèn dầu đốt lên, hắt bóng mình chao lượn trên vách đất, Trực bắt đầu sốt ruột. Trời cứ tối dần. Dãy núi phía xa chỉ còn là khối đen thẫm trong màn đêm. Sự lo lắng pha chút sợ hãi khiến bóng đêm trở nên dữ dội hơn. Trực nghĩ ngay đến sự cố tưởng tượng ban chiều, mở một nụ cười như mếu. Nụ cười ngay chính Trực không nhìn thấy. Nụ cười cô đơn chúc đậu trên đôi môi lạnh. Lạnh như từ chỗ ở này từ ngôi trường này vào tới làng xa hụt bước chân trong bóng tối nhập nhòa để có thể lang thang nhìn những quầng đèn sáng hắt ra từ những căn nhà sàn, từ mùi chua ngai ngái bã hèm, mùi phân gia súc vung vãi trên nền đất, đầy ắp sự êm đềm, ấm cúng hơn căn nhà và ngôi trường đứng biệt lập trên dãy đồi hướng ra phía bờ sông.

Đang loay hoay với mớ ý nghĩ lộn xộn thì từ bến nước có tiếng hú gọi đò. Trực đứng bật lên, nhóng cổ nhìn về phía bến tối u u. Lại nghĩ, thôi kệ. Chừng nào chúng về thì về, hơi đâu rồi quay vào nhà, ngồi tì tay vào chiếc bàn gỗ mộc nhưng mắt vẫn nhóng qua ô cửa sổ lệch. Con mèo mướp nhảy tọt lên lòng Trực, dúi chiếc đầu cọ cọ vào bụng kêu meo meo có vẻ như vỗ về, an ủi cô chủ: thôi chị đừng buồn, sớm muộn gì hai chị ấy cũng về… Trực vuốt lên lưng nó. Lớp lông mềm mượt như tơ gây chút cảm giác ấm áp tẻ muộn.

Con mướp đang nằm im bỗng dưng nhảy khỏi lòng Trực, phóng vút qua ô cửa cùng với những tiếng meo meo lướt nhẹ trong đêm và mất hút đâu đó. Lát sau nó lại cất tiếng nghe xa ở phía góc sân trường, trên lối mòn dẫn ra bờ sông, mỗi lúc rõ dần cùng với hai khối đen nhấp nhô di động. Trực vặn to ngọn đèn dầu, nhoài người ra khung cửa. Thẩm và Diệp đã về. Hú hồn, Trực kêu lên nho nhỏ và chạy ào ra như một đứa bé chờ mẹ đi chợ về quá lâu. Nếu như mắt lúc này nhòe ướt thì Trực là con bé con thực. Hai chiếc bóng đen rõ dần. Trực dịch cánh cổng và căng mắt thật to như thể thu hết hai người bạn đồng môn vào sâu trong đồng tử. Bóng hai người ngã chúi về phía con dốc ngược lên nhà. Trực nói vọng ra:
-Hai bà đi đâu dữ thế?
-Qua bên nhà Ama Bơk coi có tin tức, công văn gì từ Phòng gửi lên không?
Lúc cả ba bước hẳn vào nhà, Trực hỏi:
-Không có tin vui?
-Không – Thẩm đáp cụt lủn và với tay lên giá gỗ rót đầy cốc nước uống ực một hơi, trong khi Diệu nằm ngã lên giường, giang rộng chân tay như kẻ bị câu móc.

Trực hiểu tiếng “không” của Thẩm khi nhìn thấy cô nàng đang đung đưa kẽo kẹt chiếc võng gai mắc giữa hai cây cột. Tiếng “không” mỏi mệt rớt gọn xuống nền đất với dài theo sự chờ đợi, hy vọng mỏi mòn ngày về thành phố. Tờ giấy cam kết phục vụ miền núi ba năm càng lúc càng giống hình ảnh bà mẹ đi chợ dưới con mắt trẻ thơ, khiến mỗi khi chạm nhẹ vào nó cả ba cứ loay hoay vừa lo lắng sợ hãi vừa tìm cách tự an ủi, rồi ngó vào mặt nhìn nhau như mếu.
Tiếng đập bèm bẹp. Đập muỗi. Trực ngoái lại:
-Ăn chút gì chớ?
-Thôi tao mệt, mai ăn luôn thể.

Trực ái ngại leo lên giường buông mùng, khẽ khàng nằm xuống cạnh Diệu. Tiếng võng vẫn đu đưa kẽo kẹt, đều đều.

Cái lạnh từ những khối đá vô tri tận rừng núi sâu bắt đầu len tận vào vạt giường. Trực cong người lại ôm riết lấy Diệu, chờ hơi ấm từ người nó chuyền qua…
***

Cuối buổi học, Thẩm cho học sinh tập hợp trước cột cờ căn dặn: ngày mai có các thầy cô trên tỉnh về thăm chúng ta. Nhớ ăn mặc thiệt đẹp, nhất là nói các bạn còn đang nghỉ ngày mai phải đi đông đủ, sẽ có thưởng.

Thẩm nói dứt câu, có tiếng lao nhao “thưởng, thưởng” nổi lên dưới sân khiến cô giật mình với lối nói dối vốn dĩ cô rất ghét. Thẩm dáo dác nhìn chúng rồi tự trấn an “chẳng qua là bản năng tự nhiên của con người trong những hoàn cảnh thúc bách” và bật cười. Ờ có thưởng, nhưng chưa biết thưởng gì. Các em về nhắn lại với bạn, nhớ đi học thật đông đủ.

Thẩm cho giải tán. Đám học trò miền núi ùa chạy xuống chân đồi như đàn ong vỡ tổ. Những bàn chân đen đủi lướt trên đường đất, trên những vạt cỏ xanh rờn rồi tản dần qua các ngả đường, khuất lấp trong những cây rừng còn sót lại bên vệ đường, nhấp nhô bên các ruộng mía, đồi cỏ… Sân trường phút chốc vắng hoe, chỉ nghe thoang thoảng mùi khét nắng, mùi cây rừng bị đốt cháy, mùi lông bò bay vờn quanh chỗ các cô giáo đứng. Nét mặt Thẩm có chút tươi. Trực và Diệu cũng vậy khi mường tượng ngày mai ngôi trường ít còn ai nhớ đến này sẽ được Sở được Phòng về thăm. Chưa biết thăm gì, nói gì nhưng dường như có chút niềm vui len lén mơn man, vuốt ve đầu óc ba người đông đặc sương núi này.

Thẩm, Trực, Diệu lục đục cả đêm không ngủ với mớ tâm trạng mừng lo trộn lẫn. Cả ba ngóng chờ lãnh đạo về thăm trường ngày mai như thể chính phái đoàn này sẽ mang đến cho ba cô hơi hớm phố phường, văn minh đô thị, sự sôi nổi ồn ào của tuổi trẻ thành phố, sự rạo rực của con tim chưa định hình.

Sáng ra, ba cô giáo ngồi ba góc. Chính giữa bàn là đống son phấn ngổn ngang. Những món đồ trang điểm hình như cũng lây niềm vui với các cô chủ. Hiếm hoi lắm chúng mới được tập trung đầy đủ trên mặt bàn để nhìn mặt nhau, được những bàn tay thon mềm chạm khẽ vào vuốt ve, nâng niu, chuyền sang hơi ấm và niềm hạnh phúc nở xòe như những cánh hoa dại mọc tràn trên khoảng sân cỏ trước nhà.

Ngày thứ hai chúng lại được các chủ nhân kéo dựng dậy thật sớm, nhưng niềm vui tựa như vết cào xước trên bức cổ họa, có chút gì gần như sự chịu đựng quá sức trong vẻ mặt của ba người.

Ngày thứ ba, không còn là sự nâng niu, nhẹ nhàng, trân trọng. Chúng được lôi ra và vất lăn lóc trên bàn. Thê thảm hơn là không ai buồn động đến, chỉ nghe những tiếng thở sượt dài.

Thẩm là người đầu tiên ném chiếc lược đang cầm trên tay, văng đụng vào lọ nước hoa Chanel, đụng tiếp vào hộp kem Bioré, xoãi ngang gần sát với núm bông thoa phấn, gần thẳng góc với chiếc bút chì tô mắt.
-Tao không còn đủ sức để nói dối với học trò được nữa. Ngày nào cũng chầu chực. Ngày nào cũng ngóng dài cổ về phía bến nước như chờ ngọn lửa đêm giá rét…
Diệu ôn tồn:
-Bà đừng làm ồn lên. Có khi bị trục trặc gì đó biết đâu chừng!
-Trục trặc gì thì cũng phải báo.
-Ai báo cho bà?
-Bộ mày tưởng đây là khu chợ xổm sao? Một ngôi trường hẳn hoi, có tên trong danh sách, có giáo viên đứng lớp, có học sinh, phụ huynh…

Trực gom hết những món đồ trang điểm cho vào tủ, nói giọng cầu hòa.
-Đến giờ lên lớp. Thôi hẵng chờ một bữa nữa. Cứ theo triết lý dân gian “bất quá tam”… Trực nói và ôm tập giáo án bước qua trường trước tiên.

Câu nói của Thẩm và hình ảnh đám học trò cứ lởn vởn mãi trong đầu Trực suốt cả buổi, tựa hồ mũi kim nhọn hoang mang mỗi khi chúc đầu găm sợi chỉ vào tà áo sút. Mũi kim lúc một cồn cào, sôi réo hơn khi mà buổi chiều sắp tắt, những vị khách vẫn biệt dạng sau những dãy đồi, đám học sinh nhấp nhổm đưa mắt nhìn nhau, len lén nhìn về phía cô giáo lòng đang rối bời hết ngồi xuống ghế lại đứng lên bước ra cửa, quay lại… như thể đang tìm kiếm vật rơi quý báu.

Ngôi trường vắng lặng cùng với chút nắng chiều sót lại trên chỏm cây cao trước cổng. Cả ba mặt mũi héo xàu chẳng khác cọng hành vớt ra từ xoong nước sôi. Thẩm quăng xạch tập giáo án lên bàn:
-Thế này thì quá thể, không còn chịu nổi nữa.
Diệu chun mũi:
-Thôi bà ơi, từ tỉnh về tới đây ngót nghét bảy chục cây số. Bộ bà nghĩ những đôi chân mịn màng, những giày vớ bóng lộn có thể chịu đựng nổi như lũ mình sao?
-Còn tụi mình, những bốn năm ròng rã thì là cái gì, hả?
-Bà bớt giọng đay nghiến kiểu đó đi. Ai bắt lên? Cả ba đều làm đơn tình nguyện hẳn hoi mà? Thôi họ không về thì đỡ phải nhọc công đón tiếp, phân giải. Kẹt là không biết phải ăn nói sao với đám học trò và cha mẹ chúng để có thể hiểu ra vấn đề.
-Chẳng có vấn đề gì ráo trọi. Vấn đề là ngày mai tao sẽ xuống chỗ ông Hào hỏi cho ra lẽ.
-Ôi chào chuyện vặt – Trực kêu lên, vừa nghe tiếng mở cúc áo của Thẩm giật bừng bựt kiểu bắn bông vải của các bà mẹ thuở xa xưa. Câu nói của Trực như để khỏa lấp cơn bực bội vô hình đang ào ạt dâng lên như nước lũ vây quấn cả ba người, như cố lăn tảng đá lấp kín miệng núi lửa trong lòng Thẩm đang chực phun trào. Những hoang mang a tòng với cái lạnh buốt về đêm khiến Trực cứ lăn trở trên giường như người bị chứng đau khớp hành hạ.

Giấc ngủ chập chờn ngắc ngoải của Trực, sự mỏi mệt của Diệu khựng lại lúc về sáng, khi cả hai nhìn thấy mảnh giấy đặt dưới lọ hoa sành cắm đầy bông hoa dại hái quanh nhà tập thể. “Tao đi gặp ông Hào đây. Chiều về sớm”.
Diệu liếc nhìn tờ giấy, bĩu môi:
-Đồ khùng.

Nét chữ nguệch ngoạc, ngã chúi về phía trước dễ gây sự tưởng tượng về một Thẩm đang nhoài người trên những con dốc, bờ đá kéo lăn theo nỗi bực bội tìềm ẩn lâu nay trong người nó. Cũng may Thẩm chỉ mới chúi người chứ chưa vấp ngã. Không hiểu lần này nó có té lăn xuống chân dốc không…

Lớp học như mọi ngày, vẫn thưa thớt không bao giờ đông đủ sĩ số.
Trực và Diệu thay nhau chạy qua chạy lại lớp của Thẩm.
Những đứa học trò nhanh nhẹn tháo vát trên nương rẫy giờ ngồi trong lớp giống như những con chim bị nhốt trong lồng, ngơ ngác nhìn hai cô giáo.
***
Trưởng thôn Ama Bơk là người đến trước tiên. Ông ngồi dạng chân trên chiếc ghế đẩu khuyết một mảng chỗ tựa lưng, phì phèo điếu thuốc sâu kèn to bằng ngón tay cái, bốc mùi khét lẹt. Một lúc sau ba bốn người nữa cùng đến ngồi trên chiếc băng dài, hết ngó lên kèo nhà lại cúi xuống phun nước bọt phèn phẹt trên nền đất. Gian nhà đầy khói thuốc và mùi đàn ông. Họ còn mang theo mùi núi rừng, nương rẫy và nắng và khói lạnh tràn kín gian nhà với những đôi mắt mở to thảng thốt. Diệu đầm đìa nước mắt vừa rót nước mời khách vừa lấy ống tay áo quẹt ngang. Trực lóng ngóng sau chái bếp um khói. Thẩm nằm vật trên giường ngăn đôi gian nhà bằng tấm phông màn vải hoa, tay giữ chặt chiếc túi xách căng phồng như sợ ai đó giật đi mất. Chừng mươi đứa học trò đứng thấp thỏm ở hiên trường, mắt ngó chăm chăm về phía khu tập thể. Lúc Trực quay lên vừa thấy ông trưởng thôn dụi tắt điếu thuốc nhét phần còn lại vào túi áo. Ama Bớk hắng giọng:
-Khổ. Thiệt khổ – và khạc nhổ xuống nền đất.
Trực và Diệu ngồi ở đầu chiếc bàn dài đối diện với trưởng thôn và những người đàn ông khác.
-Mấy cô mang cái chữ lên cho tụi nó. Giờ mấy cô mang về thì cái đầu của lũ nó sạch trơn.

Diệu huých nhẹ cùi chỏ vào hông Trực, dùng ngón tay cào cào lên mặt bàn gỗ. Trực nói giọng thật nhỏ:
-Dạ… tụi cháu…
-Từ ngày có mấy cô về dạy cái chữ, dân làng mừng lắm. Tụi nhỏ biết được cái chữ, biết tính giạ lúa thùng bắp. Biết viết cái chữ cho dân làng vay tiền… Tụi tôi biết được chuyện này chuyện nọ… Bây giờ mấy cô bỏ đi… thì hết ai dám về! Mấy cô mang tuốt cái chữ của tụi nhỏ đi theo…

Có tiếng hít mũi nho nhỏ, không rõ của Thẩm nằm ở trong hay của Diệu. Trực lại lí nhí:
-Dạ…

Tiếng người đàn ông ngồi đầu băng ghế cất lên:
-Mấy đứa nhỏ có cái chữ bằng hột lúa, hột bắp. Tụi nó mang được cái chữ ra bờ ruộng, lên rẫy lớn bằng trái bầu trái bí… Rồi cái chữ đẻ ra bắp lai, đẻ ra con heo tốt con bò tốt đều có mấy cô… Giờ mấy cô bỏ hết chữ vào túi mang đi…

Nghe những thanh âm đều đều, đứt khúc, ngập ngừng cuộn theo yết hầu lên xuống của người đàn ông đen gầy ngồi trước mặt, như thể ông đang mắc nghẹn khúc sắn luộc trong cổ họng khiến lòng Trực thắt lại, Diệu thì quay mặt đi chỗ khác và Thẩm bắt đầu sụt sùi nghe thật rõ trước khi vẹt tấm màn ngăn, bước ra với bộ dạng thảm não. Thẩm nhìn ông trưởng thôn, nhìn những người đàn ông màu da đồng hun, nước mắt ràn rụa:
-Tụi cháu không định… – Thẩm bỏ dở câu nói nửa chừng và nhìn qua ô cửa như gửi theo sự trách móc ở đuôi cặp mắt ướt tới một nơi chốn không thật rõ ràng.

Ông trưởng thôn đổi tư thế ngồi sau khi nghe câu nói lơ lửng của Thẩm và cho tay vào túi áo định lấy nửa điếu thuốc còn lại ra đốt. Nhưng ngón tay ông không chạm vào mẫu thuốc thừa mà dừng lại ngập ngừng bên mép túi, nhìn theo hướng nhìn của Thẩm và thở xì ra:
-Mùa bắp đang trổ cờ… trái bắp sẽ no tròn, không bị răng cưa vì các cô còn ở bên này bến nước với dân làng… – Giọng Ama Bơk có vẻ hoảng hốt thật sự.

Ông trưởng thôn còn nói nhiều nữa về rừng cây, về những đứa nhỏ, về con chữ nhưng dường như cả ba cô giáo không còn nghe thấy gì nữa. Trước mắt họ là những dãy núi xanh đậm nhô lên phía sau những ruộng bắp, những cánh đồng mía ngút ngàn kéo theo con sông nhỏ lượn quanh. Nhánh sông nhìn thấy từ bến nước sẽ hòa vào dòng sông lớn, dòng Krông Pa trôi xuôi ra biển, mang theo mùi hương núi rừng, mang theo giấc mơ khắc khoải, sự chờ mong của tuổi thanh xuân tròn bóng và sự khát khao thỉnh thoảng uốn lượn dập dờn theo tiếng đàn đinh goong chưa thoát ra khỏi nhánh sông trước mặt ngôi trường. Tiếng đàn ấy chưa bao giờ dành riêng cho ba cô giáo trẻ. Nó là cõi lòng riêng mở về một hướng khác, hướng mà các cô đang mơ tới và chưa hề được chạm nhẹ một cách ấm áp.

Nhưng giờ đây, khi ngoảnh lại trong khoảng cách nhìn gần, thấy những đứa học trò chân đất, chân tay mốc cời, đứng túm tụm bên kia sân trường nhìn sang ngơ ngác khiến các cô chạnh lòng. Mấy cô mang hết cái chữ của tụi nhỏ đi theo… những âm giọng đều đều giống mũi chỉ khâu vết thương hoác miệng, đau rát.

Những người đàn ông nói thêm mấy câu an ủi, động viên rồi đứng dậy bước xuống bậc thềm đá, nhấp nhô xa dần cuối dốc. Những đứa học trò nấn ná một lúc sau cũng tản dần về các hướng mà không nghe tiếng cười la hét như mọi khi.

Thẩm đứng lặng người nơi mép bàn. Diệu thì xoay xoay bình trà nóng trong tay như thể đó là điểm tựa trống trải của mùa gió núi hiu nhẹ đang đến thật gần. Trực nhìn hai người bạn trong nỗi co ro lạnh ngắt, buột miệng:
-Chốn này là của những đứa trẻ ấy, tao không chịu nổi những ánh mắt thất thần như bầy gà con lạc mẹ.

Câu nói dường như ngân ngấn chút nước mắt, nhòe những bóng người đàn ông đen đúa, những đứa trẻ đen đúa có những bước đi ngã chúi dưới con dốc.

Bóng Nắng

Sau khi mãn tang chồng tôi ngỏ lời cầu hôn lần thứ hai với chị. Thay vì từ chối hay ư hừ, hay một cái tát như trời giáng mười sáu năm về trước, thì lần này chị quay mặt đi, hai vai rung lên như thể một thân cây bị lay lắt, vật vã đến nao lòng. Tôi bước ra khỏi cổng, bỏ mặc thân cây run rẩy, cong oặt chỉ mang theo cái nhìn sững sờ của chị. Cái nhìn đẹp và sáng như lưỡi dao nhọn.
Chị biết là tôi yêu chị đến cuồng dại và chị cũng yêu tôi. Nhưng để lấy tôi thì chị không thể. “Em nhỏ tuổi hơn chị”. “Em không cần”. “Mai mốt chị sẽ già trước em, em sẽ chán chị”. “Không đời nào”. Chị sẽ sàng với bộ mặt u buồn khiến chị càng đẹp rực rỡ trong mắt tôi, cuốn tôi chìm xuống tận đáy sông.
Và tôi lang thang. Lang thang cùng trời cuối đất những tưởng quên được chị. Nhưng cái tát trên má tôi rõ ràng là nụ hôn cháy bỏng chị dành riêng cho tôi. Tôi cất giữ như một bảo vật. Thỉnh thoảng tôi lại giở ra trong những giấc mơ khắc khoải, cảm thấy nồng nàn, bỏng rát và ấm áp đến lạ kỳ.
Tôi bị bắt lính, chị theo tôi. Tôi ra chiến trường, chị sát bên cạnh. Vào trại lao cải, chị thấp thoáng ngoài vòng rào… Chị luôn theo tôi trong từng giấc mơ.
Mãn tù lao cải, tôi bổ nhào đến nhà chị giữa lúc hạnh phúc chị bị gãy đôi. Đợi hết tuần chay tôi mang bó huệ trắng cắm lên bàn thờ anh Lê, lâm râm cầu khấn, rằng tôi sẽ thay anh bảo vệ mẹ con chị Bông đến tận cuối đời. Tấm ảnh dính chặt sau khung kính nhìn thẳng vào mặt tôi với nụ cười độ lượng. Một cảm giác ấm áp len vào tận cùng thân thể. Chị nhỏ nhẹ: “Cảm ơn em. Giờ em tính chuyện làm ăn gia đình là vừa”. Tôi ngó chị: “Nếu không lấy được chị, em sẽ không lấy ai cả”. Chị thong thả đứng lên, thong thả rút thẻ nhang thắp lên bàn thờ anh Lê, rồi quì xuống gõ lốc cốc vào chiếc mõ bằng trái gạo già, nâu thẫm. Ước chi là điều lành. Tiếng mõ lốc cốc kéo dài xô tôi ra tận bãi vàng. Gió rít quanh đồi ướt mưa. Cái lạnh quấn như tấm mền dày bao lấy cơ thể mệt nhoài cả ngày dưới hầm sâu. Tôi hùng hục cùng với hàng trăm con người trên bãi đá, giơ cuốc bổ xuống lớp đất cứng hơn sắt. Cứ mỗi nhát cuốc, chừng như nhìn thấy từ đáy sâu kia cơ man là vàng lấp lánh. Dưới đáy sâu là hình bóng chị lung linh. Tôi rướn người lên, bổ xuống. Xách từng xô đổ lên. Tôi phải kiếm thật nhiều để chị không già, để chị long lanh như hạt sương mai, bổ nghiêng về phía tôi. Những buổi chiều xuống thấp, mây quấn thành cột quanh ngọn đồi và trong căn lều bạt, tôi thấy bóng chị như bay như lượn trên tầng mây trắng lốp. Đêm hâm hấp nóng, từ xốp mây trắng nõn chị vẹt ra đến bên tôi, ấp bàn tay lên má tôi như một nụ hôn nồng nàn của người trinh nữ khiến tôi bật khóc trong đêm lạnh buốt xương. Tôi biết chị yêu tôi nhưng lại không thể lấy tôi. Nếu không yêu, sao những năm bên lò gạch, chị đã lặn lội lên tận núi với giỏ quà toàn thuốc chống sốt rét, kêu lên “em ốm quá”? Cái khoảng cách lừng chừng ấy khiến tôi đào căn hầm rộng hơn, sâu hơn để cuối cùng tới mùa mưa nước trắng rừng đành phải quay về với tám phân vàng. Tám phân vàng trong bốn tháng nơi cùng cốc thâm sơn tôi mang về đặt lên bàn thờ anh Lê . Đứa con trai chị giờ đã lớn. Nhìn thấy tôi lâm râm trước bàn thờ, nó hỏi: “Cái hộp gì vậy chú?”. “Quà cúng ba cháu”. “Chú không chờ mẹ cháu về?”. “Mẹ cháu không chờ chú đâu, ngoan nhé”. Vầng mây trắng bay nghiêng đâu đó. Tôi ngơ ngác ngó quanh khu vườn rộng, bước bộ trên con đường gập gềnh như cuộc đời gập gềnh của tôi. Những bước chân giống cơn giận lẩy trẻ con và mặt đường thì chẳng khác nào chiếc rổ rách. Gió lào xào như tiếng thở dài.
Thân cây cong oằn ấy, giờ bật đứng như chưa hề có trận bão ập qua. Chị vén mớ tóc ra sau. Những ngón thon búp trắng muốt giữa suối tóc đen nhánh. Bước qua tuổi năm mươi, chị vẫn còn giữ những đường cong gợn thời con gái. Tôi trân trối nhìn ngọn tóc và những ngón tay, nhìn vào bộ ngực côi cút của chị và ánh mắt rười rượi..
Bất ngờ chị Bông đề nghị:
-Chị em mình lên chùa đi.
-Để chi? – Tôi hỏi.
-Cúng Phật.
-Cúng Phật? – Tôi hỏi lại.
Con đường trước nhà chị không còn gập gềnh, không như cái rổ rách trước kia. Hàng cây sao, bằng lăng tím che kín bóng. Tôi đèo chị trên chiếc xe máy khụt khịt như người bị sổ mũi, chạy chậm. Tôi nghe mùi da thịt chị miết vào khứu giác. Mạch máu chạy dồn dập như bầy ngựa đua. Qua ngả tư, thay vì quẹo trái tôi cho xe chạy thẳng ra hướng biển. Chị bấu vai tôi:
-Em quên đường rồi sao?
-Không.
-Sao lại ra biển?
-Ra biển để em nghe mùi nước mắt.
Chị bấu chặt hơn và tôi tưởng tượng cái bấu tay bắt đầu một nụ hôn, những nụ hôn dài.
-Đừng có lãng mạn, em có biết…
-Biết, em biết rất rõ. Đó là những giọt nước mắt tích tụ hàng ngàn triệu năm.
Tôi nghe tiếng thở sượt ấm sau gáy. Chị buông tay ra và bất ngờ tôi quành xe lại. Chính tôi cũng bất ngờ về hành động này. Có lẽ, tôi nghĩ cái mùi nước mắt ấy cũng không thể mặn thêm hay nhạt hơn tí chút. Phỏng có ích gì khi lòng đã cay xè?
Chùa Hảo Sơn giữa khu đồng trống. Cổng tam quan vòi vọi phía trên. Chị Bông thong thả bước lên từng bậc cấp, thong thả đến mong manh. Gió nam cồ siết quanh chị, lất phất trên chỏm cây bồ đề bành gốc, tua tủa rễ như một ông già ngàn năm tuổi ngó lửng cuộc đời trước mặt, mặc cho râu xoãi dài, bỡn cợt với tháng ngày lướt qua, đâm sâu xuống lòng đất.
Lên đến bậc cuối cùng, chị ngoái lại, ngoắc tôi bước lên. Chị vòi vọi cao, vòi vọi lộng lẫy. Gió nam cồ hất bay món tóc chị ra sau như thể sắp đu dính vào cội bồ đề.
-Em vào đi.
-Không chị vào lễ Phật một mình.
-Sao vậy?
Tiếng nói như rớt từ thinh không, xao vào đầu óc tôi.
-Phật chỉ có nụ cười từ bi và những lời răng dạy. Em không thể bước qua cửa thiền khi lòng không thanh thản. Chị vào lễ Phật và tiếp tục… – tôi bỏ lửng câu nói.
Chị Bông quay đi, bước hẳn vào bên trong.
Gió lất phất mang theo hơi nóng trên rặng Trường Sơn dồn về. Cái nóng làm tê cuống lòng người, làm khô dòn tấm áo phong phanh tôi mặc trên người. Chị khuất sâu vào bên trong. Tôi lần từng bước lên cổng tam quan, ngồi lên bậc đá cuối cùng. Phía dưới là cánh đồng xanh dờn, xa hơn là phố xá bẹt dính sát mặt đất. Những con người nhỏ bé xuôi ngược. Bầy người nhỏ bé ấy đang hối hả tìm cuộc sống cho riêng mình. Còn tôi? Tôi như chiếc rổ bung vành đang nhấn xuống nước đồng sâu vớt chút rong rêu. Vậy mà không thể tìm thấy cọng rong nhỏ nào. Những chiếc nan gãy mục vểnh lên hay chúc nghiêng, trống hoang hoác là ba mươi năm cố gắng vá lấp để thấy trống trơn, để thấy vô cùng chẳng với chụp được.
Gió lặng yên được một lúc rồi bỗng chúc xuống, hất tung những cọng rác khô trên bậc đá. Không gian đã sững lại bổng ồn ào. Gió ràn rạt miết lên tường thành nối cổng tam quan, cuốn cong những cành bồ đề rồi ngưng bặt, như chưa hề có gió thổi ngang qua.
Bóng nắng đổ nghiêng qua tàng lá rậm, che phủ bậc thềm đá chỗ tôi ngồi, nên khi chị Bông bước ra, đứng về phía chiều nắng nghiêng tôi không thấy bóng chị phủ lấp lên người tôi, nhưng tôi nghe hơi thở chị thật gần.
Chị vén áo ngồi xuống bên cạnh.
-Chị lễ Phật và xin xăm.
-Xin xăm – Tôi hỏi lại, lòng hoang mang tột cùng.
Chị bổng bật khóc. Hai vai rung lên. Tôi sửng sốt, nhích ra nhìn chị. Chị không còn là người đàn bà mạnh mẽ mỗi khi từ chối lời cầu hôn của tôi. Chị trở nên người phụ nữ nhỏ bé, yếu đuối. Tôi giữ đôi vai mỏng manh như hồi nhỏ tôi giữ, tay kia rút cây gai nhọn dưới gan bàn chân chị, nhưng cái đau của hai lần cách xa có vẻ như không giống nhau. Lần này, nỗi đau sâu kín, gặm mòn tâm trí chị hơn mà tôi không hiểu vì nguyên do gì.
Một lúc sau, tôi dè dặt lên tiếng:
-Chị làm sao vậy?
Cả người chị rung lên dữ dội hơn.
Cả hai im lặng cho đến khi nắng vắt chéo qua đầu.
-Chị không phản bội anh Lê, nhưng chị phản bội em.
-Em không hiểu chị định nói gì?
-Đúng chị là người không ra gì. Chị đã phản bội em. Chị là con người đốn mạt, nhưng chị không thể làm khác được – nói và chị lại ngã lên vai tôi nức nở.
Nắng quét những quả trứng mỏng tang trên tầng lá cao, rụng lả tả trước mặt hai người. Đợi chị bình tĩnh lại, tôi gỡ tay chị và ấp lại trong đôi tay mình. Lúc này tôi trở thành con người lớn hơn chị, bắt đầu dỗ dành chị giống hệt hồi nhỏ chị dỗ dành tôi bị lũ trẻ con hàng xóm ức hiếp.
-Em nghe chị nói. Chị cứ nói hết ra.
-Ngàn lần chị xin lỗi em.
-Sao phải xin lỗi? Nếu cần xoa dịu sự tổn thương do em gây ra thì em xin lỗi chị mới phải.
-Không. Em bình tỉnh nghe chị nói.
-Em nghe đây.
Chị sững người giây lát, rồi sụt sịt:
-Ông Thâu cầu hôn chị. Ông goá vợ cách đây tám năm.
-Và chị…
-Nhận lời.
Tôi cười lớn, cười đến tim bóp thắt, nước mắt ràn rụa và gió lăn lông lốc trên những ruộng mạ xanh dưới kia. Gió rượt đuổi như giỡn như ca hát, bảng lảng một điệp khúc yêu thương đến héo hắt tận đáy lòng.
-Vậy mà em tưởng chuyện gì ghê gớm lắm!
-E…eemm…
-Chị ngỡ em phản đối, ngỡ em sẽ buồn? Không trái lại.
Chị Bổng oà khóc khi nghe tôi nói hết câu và xô tôi ra.
-Thà em đay nghiến chị, nguyền rủa chị… có lẽ còn dễ chịu hơn cái gật đầu vô cảm kia. Em biết là chị không thể kéo xuống mười lăm tuổi để bằng em, không thể nhìn những cặp mắt xói miết chung quanh. Vâng, chị yêu em. Yêu em còn hơn ngàn lần em yêu chị. Nhưng để là vợ chồng thì không thể. Sau lần chị ôm em vào lòng dỗ dành vì đám trẻ con trong xóm ví em, chị đã linh cảm điều này sẽ có ngày xảy ra. Nhưng chị bất lực. Chị chỉ là người đàn bà bình thường như bao nhiêu người khác.
-Em đưa mẹ con chị vào Lộc Ninh, Bù Đốp… vượt biên qua Lào, qua Thái… Chúng ta sẽ sống hạnh phúc.
-Không. Em điên rồi.
-Chị nhận lời lấy ông Thâu thì không điên chắc. Em biết chị nhận lời lấy ông ta chỉ vì chỗ dựa, cái học vị tiến sĩ ấy sẽ… mà chị thì không hề yêu.
-Em còn nhớ hồi lên trại thăm, em nói “đời người như khúc sông, chỗ đến thì không chịu dừng mà rẽ ngoặc sang hướng khác”. Hồi đó em nói vậy là ý gì? Còn giờ này sao em lại không chấp nhận khúc sông rẽ ngoặc?
-Sông của chị giờ là con sông gãy, sông lấp bỡi những tảng đá muôn thuở đè lên một cách khủng khiếp. Chị không dám né những tảng đá đó, lúc nào cũng nhìn thấy chúng lù lù trước mặt.
-Nhưng có nhất thiết khi yêu nhau thì phải sống chung với nhau không?
-Hoang tưởng.
-Đúng. Hoang tưởng, chỉ vì chị cũng yêu em đến điên cuồng.
Chị Bông nói và đứng lên, bước thật chậm xuống từng bậc đá. Chị đi như không hề chạm chân lên mặt thềm. Chị đang bay về nơi khác, nơi có vầng trăng bị xé rách giữa trận nam cồ, tơi tả, méo mó đến dị hợm. Chị thả trôi về khúc sông xa, chị đầm mình trong vùng mắt bão, gió cuốn tung chị tơi tả trong tôi.
Tôi ngồi yên nhìn chị. Ngồi mà ngắm nhìn dáng mỏng khói sương từ từ tan biến vào khoảng trống đến vô cùng tận. Hạnh phúc cuối cùng của chị là niềm hoang tưởng hay sự hoang tưởng là niềm hạnh phúc? Tôi nào có nhận ra khi chị bất ngờ quay lên. Vẫn từng bước thong thả, từng gót chân thong thả và nhẹ nhàng đặt lên phiến đá mòn lĩn như chiếc lá rơi xuống, nằm đấy từ muôn đời kiếp.
Chị Bông đứng cách một với tay, không bước tiếp, ngước nhìn với cặp mắt lạ lùng tôi chưa hề chạm phải: hừng hực như ngọn lửa cháy rừng rồi chuyển sang giá lạnh như tảng băng trôi. Hình như không phải chị nhìn tôi mà dành riêng cho kẻ vô hình nào đó vảng vất đâu đây, môi mấp máy như muốn nói điều gì đó mà không thành lời. Chỉ cách một vói tay nhưng có vẻ như chúng tôi đang ở hai thế giới khác nhau, ở hai đầu cánh cung bị đứt dây. Môi chị lại mấp máy như mời như gọi, xoè chớm như nụ hoa hàm tiếu. Tôi hiểu tất cả, lao xuống. Chị ôm tôi, nước mắt ướt vai trong tiếng thì thào ngây dại “chị yêu em, tha lỗi cho chị”. Chị hôn tôi bằng nước mắt mặn chát, vị mặn của niềm hạnh phúc đắng cay nhưng sao tôi thấy không như dư vị của nụ hôn bằng cái tát ngày nào?
Bóng nắng rớt nghiêng. Chúng tôi như hai pho tượng trước cổng tam quan. Chỉ có cội bồ đề và những chòm rễ đâm xuống đất là gần chỗ tôi và chị Bông đứng, sắp té nghiêng dưới bóng nắng.

Nguyễn Lệ Uyên

1 19 20 21 22 23 34