Mh. Hoài Linh Phương

Hoai Linh Phuong

Tình Khúc Xa Người

anh có đang hạnh phúc
khi trời mùa đông qua
em gục đầu khóc nức
trên từng ngày chia xa

em giờ như con sóng
vỗ hết nhịp rồi anh
thôi buồn, vui, trông, ngóng
một chuyện tình mong manh

chiều về qua phố nhỏ
em nhủ lòng… em quên
sao mắt mình bỗng… đỏ
nỗi đau dài không tên

những hẹn thề mây khói
nào có nghĩa gì đâu ?
tôi cuồng điên vô lối
mơ thấy chuyện ngàn sau

xin trả người kỷ niệm
những con đường chung đôi
nắng Sài Gòn ấm áp
mưa Sài Gòn mềm môi

tôi còn bàn tay trống
để suốt đời làm thơ
tôi còn con tim vỡ
trong mùa đông ơ hờ !

Chiều Tàn Năm
Trên Quê Hương Lưu Đày

“trăng tròn chỉ một đêm rằm
tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi” (1)
nên giờ… môi đã lìa môi
nên ta giờ đã …xa người trăm năm..
Em về trên phố xưa
Tìm anh hoài chẳng thấy
Gió chuyển mùa bơ vơ
Người xa từ dạo ấy…

Saigon chiều hôm nay
Em làm người ở trọ
Như quê hương lưu đày
Một mùa đông vàng võ

Em vào trong nghĩa trang
Người nằm yên không nói
Tìm đâu sắc cờ vàng?
Của máu xương hờn tủi

Trên hàng mộ không tên
Em nghe lời gió hỏi
Người còn nhớ hay quên?
Đời quân nhân trôi nổi

Người nằm không khói nhang
Lá vàng rơi lả tả
Bè bạn đã quy hàng
Quê hương thành đất lạ

Em tìm trên trang thư
Chim bay hoài đã mỏi
Chưa lần cuối tạ từ
Sao không còn chung lối?

Biết tìm anh nơi đâu?
Sao không còn nhau nữa…
Ngục tối hay mộ sâu?
Năm năm dài cách trở

Năm năm đời trăm ngã
Em còn gì đâu anh?
Mùa xuân về xa lạ
Trên kiếp người mong manh

Cung Khúc.
(Với Cung xưa – Phạm Hồng Thái cũ)

Thôi người, một thuở ca dao
Là mây theo gió, là sao xa trời
Phương đông nhớ mãi phương đoài
Ngu ngơ tôi vẫn yêu hoài tình xa
Trả người một đoạn đời qua
Đam mê, nồng ấm, mặn mà thơ tôi
Xuyến hoa không thể thành đôi
Trầu cau bỏ lại cho người sang sông
Cho nhau chi sợi chỉ hồng
Để con chim hót trong lồng bi thương
Tôi về gãy cánh uyên ương
Trả người, trả cả đoạn trường đớn đau
Thôi người không thể vì nhau…
Trả cho hết chuyện qua cầu gió bay…

Về Soi Bóng Mình

* thơ mhhoàilinhphương.
* ngôthụymiên phổ thành ca khúc “ Về Soi Bóng Mình “
qua các giọng ca Quang Tuấn, Đoàn Thanh Tuyền.

Tiếng hát người buồn, làm tôi muốn khóc
Trí tưởng chợt về… những tháng năm xưa
Tôi cúi mặt dấu giọt buồn trong tóc
Môi ngậm ngùi qua hàng lá bay mưa

Người đánh thức niềm đau nào trở dậy
Tuổi thơ xa như quá khứ mịt mù
Nghe thấp thoáng bước chân mình trở lại
Những con đường kỷ niệm đã hoang vu

Chỉ còn dấu chim trên bờ cát ướt
Thành phố hoa vàng hiu quạnh mùa đông
Cô bé ngày xưa… mắt tròn bỡ ngỡ
Cách biệt như đời của một giòng sông

Tiếng hát người buồn, nên hồn tôi… bỗng khóc
Khi được một lần nhìn lại tuổi tên
Khi được một lần soi mình rạng rỡ
Về một khoảng trời biền biệt chìm quên.

Tình Ca …
Trần Quang Khải

Chưa một lần em kể
Chuyện tình buồn mười năm
Nỗi đau dài lặng lẽ
Như ngày tháng mù tăm

Anh xa rồi…có phải?
Sao vẫn còn quanh đây…
Mắt môi nồng thân ái
Yêu dấu tràn trên tay

Người về trong chiêm bao
Dáng buồn im như đá
Em níu đời hư hao
Qua muôn trùng bến lạ

Không còn qua phố xưa
Hai hàng cây đan lá
Không còn đứng chơ vơ
Chờ nhau trong nắng hạ

Em một đời… viễn xứ
Pensée cũ… mấy mùa
Đã phai từng cánh mỏng
Mộ khúc buồn…như mưa!

Tâm Khúc Hoàng Tiểu Thư
Từ cảm xúc bài thơ “Hoàng Tiểu Thư” của Luân Hoán,
Viết tiếp để gửi một người khóa 6 Ban Báo Chí
Viện Đại Học Vạn Hạnh Saigon ngày xưa.
Mh.HLP

Tôi vẫn nhớ một thời ta bé dại
Anh ngẩn ngơ buồn theo màu áo tiểu thư
Cô con gái nhà quan ngày hai buổi
Xe ngựa xênh xang hữu bật, tả phù

Tôi… làm cao để buồn nôn đọc Sartre
Tôi… kiêu kỳ trong chủ thuyết Sagan.
Cô bé kênh kênh sao mà dễ ghét!
Cho anh ngại ngần, thầm lặng, phân vân

Anh đâu biết hồn tôi như giấy mới
Nhưng cũng se lòng trong gió heo may
Thơ học trò bao lần nghe ướt mắt
Môi ngậm ngùi trên từng lá thu phai

Sâu thẳm trong tôi một trời quạnh quẽ
Hình như là rất nhẹ… bụi mù bay
Hình như thoảng hương của mùa hạ cũ
Tay chưa lần nắm chặt… đã lìa tay!

Tiếng gọi non sông anh giã từ sách vở
Tôi bên hiên trường dõi mắt trông theo
Cô tiểu thư của một thời tuổi nhỏ
Chất ngất thương anh cuối bãi, lưng đèo…

Nhưng con sông trôi, có bao giờ trở lại?
Ta đã riêng đời, thôi đừng tiếc nụ tầm xuân
Qua bao biển dâu vẫn còn đầy trong ký ức.
Tình xa xưa… nên tình bỗng thật gần!

Con Tàu Và Bến Đợi

Thôi trả cho người mùa thu thuở đó
Em cúi đầu nghe như rất xa xưa…
Thả một cánh hoa bay vờn trong gió
Em hỏi lòng giờ người đã quên chưa?

Em vẫn phương này hành lang, thư viện
Vẫn những buổi chiều rét mướt, cô đơn
Khung cửa lớp cũng riêng mình em đứng…
Người lênh đênh cho tim nhỏ mang buồn

Con tàu nào mang người đi khuất nẻo?
Cho em ngậm ngùi làm bến đợi ngàn năm
Bến đợi khóc người xưa không về nữa…
Bến đợi giận hờn, người vẫn mù tăm!

Em hỏi bao giờ người đi trở lại?
Không ai trả lời chỉ có lá khô rơi
Hình như chiều nay… mắt mình úa dại
Vâng, thật rồi! người mãi mãi… xa xôi

Ninh Hòa
Quê Mẹ Ngàn Thương

Tôi – con gái chào đời thành phố biển
Thùy dương rì rào, sóng vỗ quanh năm
Gió nồm qua, bờ cát ướt âm thầm
Đã đuổi theo tôi… tháng ngày khôn lớn!
Mùi cá tanh nồng, tiếng hò… dô trên sóng
Với nhịp chày giã gạo giữa đêm sương
Ký ức xa…lời hát cũ…. thêm buồn!
Nghe se sắt, nghẹn lòng… thương quê Ngoại.
Mắt biếc ngời trong, một thời thơ dại…
Kỷ niệm nhạt nhòa, hun hút cánh chim bay…
Áo tiểu thư trên những đoạn đường dài
Khoa bảng, công danh, người xe, phố thị…

Có ai giữ giùm tôi mùi hương dạ lý
Ngan ngát trong vườn nhà thời lên sáu, lên năm….
Giòng đời trôi theo những vết xe lăn
Còn chuyến nào không, đưa ta về thăm quê cũ?
Sông Dinh đục ngầu những mùa nước lũ
Hàng lá bàng rợp mát mái trường xưa
(Tiếng trống trường của một thuở sớm, trưa
Bài học vỡ lòng trên trang sách nhỏ…)

Tôi – con gái chào đời miền nắng gió
Nên một đời góp nhặt chuyện mười phương
Thị trấn hoa muồng vàng chỉ còn lại dư hương
Cây cầu gỗ, ngôi nhà tường vôi đỏ…
Giàn hoa giấy đong đưa ngày tháng đó…
Khuất ngàn xanh theo nước mất, nhà tan
Áo tiểu thư nhàu, bồ câu trắng đi hoang
Hàng phượng vĩ gục đầu theo dâu bể….

Tôi từng đêm xứ người, nhớ ngày xưa Mẹ kể
Bên kia trời vẫn còn một quê hương
Lăn lắc xa xôi, tiếng sóng vỗ điệu buồn
Nên thơ mãi ngàn sau… còn nước mắt!

Với Người Nhớ Phố

Từ những xúc cảm nhẹ nhàng
qua bài “Phố Mù Sương” của Huệ Thu

Cám ơn con phố mù sương
Nhắc ta một thuở thiên đường… xa bay!
Hoa hồng nồng ấm trên tay
Yêu thương mật ngọt đong đầy mắt môi
Người qua con phố ngậm ngùi
Thương mùa trăng cũ giữa đời mênh mông
“… Ngã đầu đâu một cành thông
Để nghe Dalat tiếng lòng vang vang…” (1)
Tưởng như gió chuyển mùa sang
Bước chân ai đã ngút ngàn xa xăm…
Mimosa cũng lặng thầm
Dã Quỳ hiu hắt nín câm nỗi buồn…

Người về phố cũ mù sương
Ta đi bỏ lại con đường… ngày xưa
Và người… kỷ niệm thành thơ
Và ta… lắng đọng bên bờ quạnh hiu!

Mh. Hoài Linh Phương

Mang Viên Long

Anh MANG VIEN LONG

Đọc “Nhành Hoa Súng Ái Nghĩa”
Của Luân Hoán

Năm nhà thơ Luân Hoán xuất bản tập thơ đầu tiên cũng là năm tôi vào học năm thứ nhất, khóa 3 trường Quốc Gia Sư phạm Qui Nhơn: Đó là tập “Về Trời” (nhà xuất bản Văn Học Saigon – 1964). Trước khi được đọc “Về Trời”, tôi đã đọc nhiều thơ anh trên Bách Khoa, Văn Học, Khởi Hành, Văn, Nghiên Cứu Văn học, Vấn Đề… từ vài năm đầu thập niên 1960.

Ngay từ thuở ấy, tôi đã có cảm nhận dòng thơ Luân Hoán bao giờ cũng thật dịu dàng, tươi mát, sâu sắc và rất đỗi hồn nhiên, cho dầu đôi khi anh phải đối diện với “nén hương cho bàn chân trái”! Sự hồn nhiên sảng khoái trong thơ anh đã cho tôi niềm vui, niềm tin và nhất là niềm say mê mỗi khi được “gặp” thơ anh trên các tạp chí, tuần báo văn học… Đôi khi tôi nghĩ, sự hồn nhiên (thơ ngây) trong sáng, có chút khinh bạc ấy, luôn tiềm ẩn trong từng dòng thơ anh, đã thể hiện rõ nét bản chất của “con người” anh mẫu mực, chân thành trải lòng, vô tư khi đến với cuộc đời…

Tôi lại có ý nghĩ: xứ Quảng dường như “thích hợp” với những người làm thơ tình? Cuộc đất xinh đẹp yên vắng mà lắm truân chuyên Hội an – Quảng nam đã nâng bước thơ cho nhiều nhà thơ xứ nầy nổi danh với những dòng thơ tình in đậm bản sắc rất riêng. Tôi yêu những bài thơ Luân Hoán – nhất là những bài thơ tình, chính vì cái thật thà, chơn chất, mà vô cùng đằm thắm, dễ thương của một miền đất đầy ắp tình người.

“Nhành Hoa Súng Ái Nghĩa” là một bông hoa thôn dã thắm tươi trong vòm trời “Hơi Thở Tình Nhân” của anh, là tiếng lòng khẽ khàng mà âm vang, là xúc cảm tinh khôi của tình yêu chân chính dạt dào muôn thuở!

Lời chàng trai “tự bạch” một cách giản dị, mà rất bản lĩnh với cô gái ở thị trấn Ái Nghĩa (huyện Đại lộc – Quảng nam) như sau:

“ta chẳng có tài gì hay ho cả
ngoài ngón nghề tán gái rất nên thơ
em khuê cát, ta như chàng bán dạo
nhưng đã yêu, chưa biết ngại bao giờ…”

Ngay từ đầu, chàng khẳng định hai điều: “tán gái rất nên thơ / đã yêu, chưa biết ngại bao giờ”. Đó là hai “điều kiện cần và đủ” để cho người con gái yên tâm tin tưởng. Dù đã (tỏ ra) khiêm tốn nhìn nhận mình “chẳng có tài gì hay ho cả”, nhưng “ngón nghề tán gái rất nên thơ” và ngay sau đó là “ đã yêu, chưa biết ngại bao giờ” thì “người đẹp” khó tính nào mà không xiêu lòng?

Chàng kể:

“lần thứ nhất tình cờ em qua ngõ
quá bất ngờ đành ngẩng mặt trông theo
ánh mắt ta, điện dưới tần cao thế
chỉ đủ giúp em biểu diễn vòng eo”

Sự “tình cờ em qua ngõ” một lần như duyên lành đã làm cho chàng, ngay phút ấy, chỉ biết ”ngẩng mặt trông theo” thôi (mà không biết làm gì khác!) Ngẩng mặt – có nghĩa là “đơ mặt”, nét mặt biểu lộ một xúc cảm như khi bị “sét đánh ngang tai”, tái xanh vì quá đỗi ngạc nhiên trước dung nhan mặn mà, và vô hồn (tê dại) vì bị giai nhân “hút hồn mất”! Rồi sau đó chỉ phút giây, chợt nhận ra ánh nhìn đăm đắm của mình cũng chỉ là “điện dưới tần cao thế” không ăn thua gì; nhưng tia nhìn mê đắm dõi theo kia, đã đủ “năng lực” để người đẹp “biểu diễn vòng eo” quyến rũ của mình! Cũng có nghĩa là, dù “điện dưới tầng cao thế” nhưng đã “chạm” được đến người đẹp, và nàng cũng đã nhận ra “tín hiệu dòng điện” chàng đang soi chiếu theo từng bước chân nàng…

Rồi tiếp theo:

“sau mánh lới điều tra vội vàng hiệu quả
ta mở ngay chiến dịch trông vời
phải nắm chắc từng phân nhan sắc
để mở tình đón nhận cánh chim rơi”

Không chút giấu diếm, sau lần nàng “tình cờ qua ngõ” đã để lại dấu ấn sâu đậm không thể nào quên; chàng vội dùng ngay “mánh lới điều tra” đơn giản nhưng vô cùng “hiệu quả”. Đi điều tra (dò hỏi) – nhất là điều tra về người đẹp, thì chắc chắn phải có “mánh lới” (có thể gọi là kỹ thuật, phương cách) mới có thể giữ được bí mật an toàn (và có hiệu quả)! Khi biết được “tọa độ & lực lượng” của “địch” rồi, thì chàng “mở ngay chiến dịch trông vời” – đây là chiến dịch theo dõi, thăm dò, lắng nghe “động tĩnh” của đối phương, để “tùy cơ ứng biến”! Sự chuẩn bị khá kỹ theo binh pháp xuất quân “nắm chắc từng phân nhan sắc”, đồng nghĩa với biết rõ “lực lượng & động tĩnh” đối phương (biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng), thì chiến dịch mới thành công: “mở tình đón nhận cánh chim rơi”. Người đẹp, trong đôi mắt chàng, đã là một cánh chim xinh xắn yêu thương mà chàng phải “nắm bắt” trước khi vuột bay…

Và:

“em mới đến trọ, sau nhà ta mấy bữa
có nghĩa là em thường phải về ngang
chẳng có thể bắt ghế ngồi ngoài cửa
để hồ đồ thưởng thức nét dung nhan”

Biết rõ “đường đi nước bước” hằng ngày như vậy, nhưng kẻ “tán gái rất nên thơ” không thể “bắt ghế ngồi ngoài cửa / để hồ đồ thưởng thức nét dung nhan” được. Sự tôn trọng trước cái đẹp, sự tự trọng với tình yêu thương, là điều kiện quan trọng và thiết yếu để thăng hoa tình yêu, nâng cao phẩm cách của con người. Có lẽ, đây cũng là quan niệm sống của nhà thơ trước cuộc đời?

“ta lập tức xoay lại chiều bàn học
mặt hướng ra đường nay thay lại tấm lưng
một chiếc gương đủ to để thu đời phản chiếu
có cả em trong dáng bước ngập ngừng”

Không thể ngồi chờ đợi ngoài hiên để ngắm nhìn, để “hồ đồ thưởng thức”, chàng đã nghĩ ra cách “xoay lại chiều bàn học / mặt hướng ra đường nay thay lại tấm lưng”. Đã xoay bàn học rồi, ngồi nhìn thử ra đường, với tư thế kín đáo ấy vẫn chưa thấy “ưng bụng”, chàng lại thêm “sáng kiến” mới, dùng “một chiếc gương đủ to để thu đời phản chiếu / có cả em trong dáng bước ngập ngừng”. Yêu thương là sáng tạo. Nhờ tình yêu thương, loài người luôn có sáng tạo mới cho đời, bởi “những tư tưởng lớn đều xuất phát từ trái tim” (Vauvernargues). Giống như chàng nhà thơ đang “mở tình đón nhận cánh chim rơi”:

“rất nhiều bữa em liếc vào kín đáo
rất nhiều lần em ngoái lại bâng khuâng
đôi mắt to hàng chân mày khá đậm
cánh mũi thon giúp đỉnh ngực phập phồng”

Chiêm ngưỡng dung nhan người đẹp qua tấm gương to, chàng đã nhận ra: “rất nhiều bữa em liếc vào kín đáo / rất nhiều lần em ngoái lại bâng khuâng”. Không yêu thương, không “để tâm” thì “liếc vào” để làm gì nhỉ? Lại nữa “rất nhiều lần em ngoái lại bâng khuâng” – sau cái “liếc vào kín đáo”, thì nàng đã ngoái nhìn lại mà không trông thấy bóng dáng chàng, nên mới “bâng khuâng” thương nhớ chăng? Tỉnh yêu đã bắt đầu làm cho tâm hồn cả hai trở nên thơ trẻ, rất dễ thương! Bên nầy khung cửa, chàng cũng đã thấy “đôi mắt to hàng chân mày khá đậm / cánh mũi thon giúp đỉnh ngực phập phồng”. Cái “sự thấy” nầy của chàng, tôi nghĩ – là do lòng thương nhớ, tưởng tượng nhiều hơn! Nhưng không sao, đó lại là một “nét đẹp” trong sáng cần thiết của tình yêu.

“ta quả thật rất vụng về mô tả
chân dung em không thuộc dạng Thúy Kiều
cũng chẳng giống Kiều Nguyệt Nga của Lục
giản dị bởi vì đúng dạng ta yêu”

Ban đầu đã khiêm tốn tự giới thiệu “ta chẳng có tài gì hay ho cả”, bây giờ lại “ta quả thật rất vụng về mô tả” – nhưng sau khi so sánh người mình yêu thương với hai giai nhân tuyệt sắc Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga, thì chàng cũng phơt lờ hai giai nhân kia, bởi không “đúng dạng ta yêu”! Chỉ có nàng – “Nhành hoa súng Ái Nghĩa” – mới đích thực là người ta yêu, thương nhớ! Đây là một cách nói “ngây thơ & trẻ con” mà đã đạt được tình cảm cao độ cho người đọc, nhất là với nàng!

Chàng đã khẳng định:

“sẽ rất nhảm nếu vẽ em bằng chữ
hay bằng thơ bằng nhạc ba hoa
xin nói gọn: em là tuyệt sắc
đệ nhất giai nhân trong cõi người ta”

Cách “nói gọn” sau khi cho “vẽ em bằng chữ / thơ / nhạc / họa” đều “ba hoa” (nghĩa là đều bất lực) – bởi khi đã yêu, người mình yêu thương là “tuyệt sắc” nên phải là: “đệ nhất giai nhân trong cõi người ta” cũng là chuyện rất đỗi bình thường! Không có ai đẹp & tốt hơn người yêu của mình, là vậy!

“ta thú thật chưa làm thơ tán gái
ngộ em rồi cũng muốn thử tài chơi
ngồi một chặp thơ tình ra cả đống
chỉ hình như chưa đúng độ tuyệt vời”

Một lời “tự thú” nữa cũng rất “tuyệt”, đã góp phần tô điểm cho tình yêu của chàng đối với nàng, bằng lời lẽ rất tự nhiên. Những từ ngữ “thú thật / ngộ / một chặp / cả đống” diễn tả rất chân xác hoàn cảnh, xúc cảm của chàng khi ngồi nghĩ nhớ về nàng. Khi đã yêu, ai mà không vậy?

“thơ viết nhiều làm sao cho em đọc
gởi báo đăng là chuyện đương nhiên
báo chạy đủ cả tên người được tặng
mà xem chừng rất đỗi vô duyên”

Điều quan trọng hơn là “thơ viết nhiều làm sao cho em đọc”? Đây mới là điều khiến chàng đêm ngày ăn ngủ không yên. Nếu nàng không đọc được, thì làm sao hiểu rõ tấm chân tình của của mình đây? Thơ làm nhiều hóa ra vô ích hay sao? Nhưng, “gởi báo đăng là chuyện đương nhiên / báo chạy đủ cả tên người được tặng / mà xem chừng rất đỗi vô duyên”.
Không chọn theo cách làm “vô duyên” (và thiếu tự trọng) ấy, chàng đã:

“tìm mọi cách quen cậu em sau xóm
và trời xanh không phụ kẻ có lòng
ta đã được theo em về Ái Nghĩa
ta đã nhìn thật rõ nét mi cong”

Rồi cuộc tình, cuộc đời của cả hai, cũng lênh đênh “như áng mây trôi” một ngày nào không xa, sau đó:

“chỉ vậy thôi rồi từ từ phai nhạt
cũng sau khi thăm chị ở Hội An
em hiền hậu đã trở thành y tá
còn ta đây là thương binh tan hàng

đời chẳng như sông chỉ vài ba nhánh
ta trôi xa thật quá đỗi tứ tung
mỗi một chặng lượn một nhành hoa súng
em cũng là… đóa hoa lạc trên sông”

“Tất cả tướng đều từ duyên sinh, cũng từ duyên diệt” – đây là định luật bất biến của vạn hữu, nhưng trong cõi vô thường nầy, với “Nhành hoa súng Ái Nghĩa” của tình yêu thương, nhà thơ Luân Hoán đã lưu mãi hương thơm cho đời!

Mang Viên Long
***

Nhành Hoa Súng Ái Nghĩa

ta chẳng có tài gì hay ho cả
ngoài ngón nghề tán gái rất nên thơ
em khuê cát, ta như chàng bán dạo
nhưng đã yêu, chưa biết ngại bao giờ

lần thứ nhất tình cờ em qua ngõ
quá bất ngờ đành ngẩn mặt trông theo
ánh mắt ta, điện dưới tần cao thế
chỉ đủ giúp em biểu diễn vòng eo

sau mánh lới điều tra vội vàng hiệu quả
ta mở ngay chiến dịch trông vời
phải nắm chắc từng phân nhan sắc
để mở tình đón nhận cánh chim rơi

em mới đến trọ, sau nhà ta mấy bữa
có nghĩa là em thường phải về ngang
chẳng có thể bắt ghế ngồi ngoài cửa
để hồ đồ thưởng thức nét dung nhan

ta lập tức xoay lại chiều bàn học
mặt hướng ra đường nay thay lại tấm lưng
một chiếc gương đủ to để thu đời phản chiếu
có cả em trong dáng bước ngập ngừng

rất nhiều bữa em liếc vào kín đáo
rất nhiều lần em ngoái lại bâng khuâng
đôi mắt to hàng chân mày khá đậm
cánh mũi thon giúp đỉnh ngực phập phồng

ta quả thật rất vụng về mô tả
chân dung em không thuộc dạng Thúy Kiều
cũng chẳng giống Kiều Nguyệt Nga của Lục
giản dị bởi vì đúng dạng ta yêu

sẽ rất nhãm nếu vẽ em bằng chữ
hay bằng thơ bằng nhạc ba hoa
xin nói gọn: em là tuyệt sắc
đệ nhất giai nhân trong cõi người ta

ta thú thật chưa làm thơ tán gái
ngộ em rồi cũng muốn thử tài chơi
ngồi một chặp thơ tình ra cả đống
chỉ hình như chưa đúng độ tuyệt vời

thơ viết nhiều làm sao cho em đọc
gởi báo đăng là chuyện đương nhiên
báo chạy đủ cả tên người được tặng
mà xem chừng rất đổi vô duyên

tìm mọi cách quen cậu em sau xóm
và trời xanh không phụ kẻ có lòng
ta đã được theo em về Ái Nghĩa
ta đã nhìn thật rõ nét mi cong

chỉ vậy thôi rồi từ từ phai nhạt
cũng sau khi thăm chị ở Hội An
em hiền hậu đã trở thành y tá
còn ta đây là thương binh tan hàng

đời chẳng như sông chỉ vài ba nhánh
ta trôi xa thật quá đỗi tứ tung
mỗi một chặng lượn một nhành hoa súng
em cũng là… đóa hoa lạc trên sông

Luân Hoán

Chuyện Cô Bé
Xấu Số Và Ông Lão

Một người bạn đã kể lại rằng:
“Có một cô bé vừa gầy vừa cao bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca; cũng chỉ vì cô bé nhà nghèo, lúc nào cũng mặc mỗi một bộ quần áo vừa rách, vừa cũ, lại vừa rộng nữa…
Cô bé buồn tủi ngồi khóc một mình trong công viên. Cô bé nghĩ, tại sao mình lại không được hát? Chẳng lẽ mình hát tồi đến thế sao? Cô bé nghĩ mãi rồi cô cất giọng hát khe khẽ. Cô bé cứ hát hết bài này đến bài khác cho đến khi mệt lả mới thôi.
“Cháu hát hay quá!’.
Một giọng nói vang lên: “Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ, cháu đã cho ta cả một buổi chiều thật vui vẻ”. Cô bé ngẩn người. Người vừa khen cô là một ông cụ tóc bạc trắng. Ông cụ nói xong liền đứng dậy và chậm rãi bước đi.

Hôm sau, khi cô bé tới công viên đã thấy ông già ngồi ở chiếc ghế đá hôm trước, khuôn mặt hiền từ mỉm cười chào cô bé. Cô bé lại hát, cụ già vẫn chăm chú lắng nghe. Ông vỗ tay nói lớn: “Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ của ta, cháu hát hay quá!”. Nói xong cụ già lại chậm rãi một mình bước đi.
Cứ như vậy, nhiều năm trôi qua, cô bé giờ đây đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng khắp nước. Cô gái vẫn không quên cụ già ngồi tựa lưng vào thành ghế đá trong công viên nghe cô hát ngày nào. Một buổi chiều, cô đến công viên tìm thăm cụ nhưng ở đó chỉ còn lại chiếc ghế đá trống không.
Hỏi một người làm trong công viên, cô nghe được câu trả lời:
“Cụ già ấy đã qua đời rồi. Cụ ấy sống cô độc, và bị điếc đã hơn 20 năm nay!” . Cô sững sốt giây lâu, rồi thẩn thờ bước đến ngồi xuống ngay chỗ ông lão vẫn thường ngồi bên cô ngày nào; đôi mắt đỏ hoe, rưng rưng hai dòng nước long lanh chảy dài xuống đôi má…”

Tôi đã “bị” câu chuyện đơn giản ấy ám ảnh hoài suốt ngày: Cô bé bị “loại ra khỏi dàn đồng ca” của tập thể nhà trường chỉ vì nghèo! Cô vừa buồn, vừa cảm thấy xấu hổ, bởi sự “phân biệt” không chính đáng của người thầy, mà lẽ ra – chính nơi ấy không nên có. Loại ra khỏi “dàn đồng ca” – cũng có nghĩa là “loại ra khỏi tập thể” chỉ vì “ngoại hình” (hay dù bất kỳ một lý do nào khác ngoài tài năng, đức hạnh, trong bất kỳ một môi trường, lãnh vực nào, cũng là một việc làm không đạo đức). Loại ra khỏi xã hôi, bỏ mặc bên lề đời sống cộng đồng, lại là một hành động không có trách nhiệm! Sự cư xử không công bằng, bất công, vô cảm của người thầy nọ; cũng giống với những sự bất công dẫy đầy trong xã hội, mà chúng ta vẫn thường gặp!

Ồng lão sống cô độc, lại bị điêc đôi tai; nhưng tâm hồn ông vô cùng trong sáng, yên tịnh. Mặc dù ông lão không còn có “đôi tai để nghe” bình thường như mọi người; nhưng lại có “đôi tai mầu nhiệm của tâm hồn”; đã lắng nghe được tất cả nỗi vui buồn, bất hạnh của cô bé, như đôi tai của Bồ tát Quan Thế Âm! Ông cảm nhận được niềm hân hoan, hạnh phúc của cô bé mỗi khi nghe được lời ông khen tặng, cám ơn! Và, ông đã luôn luôn “tặng” cho cô bé những lời nói yêu thương dịu dàng như “ban tặng” cho cô bé “những đóa hoa của sắc đẹp” (“Tiếng nói từ ái là bông hoa của mọi sắc đẹp” – Xenon Dêlee) suốt một thời gian dài…

Với cô bé, dù đang nghèo khó, bị “nhận chìm” trong khổ đau, thất vọng – nhưng đã nổ lực tự mình vươn lên, bền bỉ, bên nỗi “cảm thông & chia sẻ” chân thành của ông lão bị “điếc đôi tai để nghe” nhưng có đôi tai “để biết và yêu thương”; cuối cùng, cô đã nhận được sự thành công vẻ vang bằng chính năng lực, và sự kiên nhẫn của mình, không phải ai cũng có thể có được!

So với ông lão, chúng ta rất diễm phúc có đủ đôi tai “để nghe” tốt, nhưng có bao giờ trong đời, chúng ta đã lắng nghe bằng “đôi tai của tâm hồn” để mang lại niềm vui sống, hạnh phúc cho người thân, bạn hữu, như ông lão chưa? Đã “sử dụng” đôi tai không bệnh tật, để nghe những điều đáng nghe cho đời sống mình an vui, đời sống người được yên bình chưa? .

So với cô bé, rất nhiều người trong chúng ta cũng được diễm phúc hơn (đời sống sung túc, dáng người toàn vẹn, gia đình quan tâm v v v); nhưng đã làm được gì để lợi lạc cho chính mình, và cho cả những người thân yêu như cô bé chưa?

Cuối cùng, sự quay trở lại công viên để “tìm thăm ông lão” ngày xưa, sau khi đã thành đạt lẫy lừng của cô bé nghèo hèn; là sự “quay về” của Tình thương yêu, của lòng Biết ơn; mãi mãi tỏa ngát hương cho đời sống như lời Đức Phật đã dạy: “Hương Chiên đàn, hương Da già la, hương Bạt tất kỳ, hương Thanh liên; đều là những thứ hương vi diệu, nhưng không bằng hương Đức hạnh xông ngát tận chư thiên!”

“Tuyệt Huyết Ca”
Của Đặng Tấn Tới

Tại sao tôi chọn đọc thi phẩm “Tuyệt huyết ca” mà không là “Thi Thiên” (tác phẩm thứ tư, phát hành mùa Thu Quí Sửu), hay thi phẩm mới nhất vừa phát hành trong mùa Xuân 1974 là “Trúc Biếc” của Đặng Tấn Tới ? Tại sao là một tập thơ mỏng manh, được in ra vội vàng trong một năm đầy biến cố (mùa hè 1972), kỹ thuật trình bày cũng xoàng xỉnh, mà không là một tập nào trong 04 tập thơ xem như được độc giả lưu ý nhiều nhất ?

Chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca” tôi cần nói tới hai điều :

1-Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của kẻ sĩ Việt Nam (hay nói cách khác: Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của người nghệ sĩ Việt Nam) hai mươi năm “lạnh nghe hồn réo mười phương, Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn”.

2-Minh chứng, lần chót nhưng không phải là thừa thãi, không có sự phân chia (không phải sự tìm hiểu, nghiên cứu) nào trong Thi ca là thích hợp ; hay nói cách khác, không thể uốn nắn, xếp loại một cách gượng ép, cứng nhắc, với nhiều ác ý để từ đó đưa ra những luận cứ nhất thời rất hàm hồ, về những thi phẩm đã được giới thiệu.

Phần một (xin tóm tắt) : Thi phẩm “Tuyệt Huyết Ca” gồm 27 đoạn thơ song thất lục bát, tất cả 108 câu thơ, chung quanh một nhan đề chính đã được chọn. Sử dụng lối thơ cổ truyền Việt Nam để diễn tả những khúc ca máu hồng tuyệt vời của dân tộc, Đặng Tấn Tới đã dồn hết rung cảm tích tụ kỳ diệu bao năm giữa “Trăng cổ độ ố mầu tăng hải, Trải thu phần quan tái vài bông”, trong cảnh tượng đời sống ghê khiếp như ma quái “Người vất vưởng tận hang cùng cốc. Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương” vào thời gian được ghi nhận là biến loạn nhất trong hai mươi năm chinh chiến.

Tôi tạm chia “Tuyệt Huyết Ca” thành một bố cục như sau : Đoạn một : (08 câu đầu) Tình cảm mang mang thúc đẩy lần viết (hay lần mở) từng trang tuyệt huyết của Dân tộc. Đoạn hai : (72 câu tiếp) có thể chia làm 04 tiểu đoạn. Tiểu đoạn a: (08 câu) Viết (hay mở) với tư thái thong dong, trang trọng, chua xót và có chút gì như là chán nản. Tiểu đoạn b : (16 câu) . Những trang đầu tiên – là một cuộc tao ngộ kỳ bí, đưa đẩy tác giả túy lúy trong cảnh “Sông nước chảy chiêm bao máu rạng. Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương”. Tiểu đoạn c: (16 câu) . từ cuộc hội ngộ “chung tuyệt huyết” tri kỷ trên, thảm cảnh ma quái trần gian tỏ lộ sáng ngời như đời sống ngày đêm của Dân tộc đã hai mươi năm “Người vất vưởng tận hang cùng cốc/ Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương/ Máu khô thịt nát bên đường, Rợp mầu tinh huyết đò dương đắm chìm”. Tiểu đoạn d : (32 câu) . Thái độ tìm thấy khi đã kinh qua cảnh đoạn trường (ở đây cũng là tâm sự, thái độ của kẻ sĩ – hay nghệ sĩ, đối với mọi biến động) : Giải quyết những nỗi ưu tư bi thiết bằng sự an ủi của chính mình, bằng sự xoa dịu của đôi mắt nhân ái trầm buồn của Phật Lão, và sau rốt, bằng vào sự hy vọng (vẫn còn hy vọng) : “Non nước cũ rạng ngời sông núi / Trời trong xanh muôn tuổi thơ ngây / Nước trôi mây cuốn chưa đầy / Ngày sương nắng biếc hồng rây ánh vàng”. Đoạn 3 (28 câu cuối): Con người đau khổ thống thiết từ đầu (cuộc tao ngộ) đã đổi khác : Ở đây là một cõi mới, một đời sống tiên cảnh lạ thường, hay là một cõi chiêm bao mộng mị của đa số nghệ sĩ Việt Nam. Nhờ đâu con người (em Nguyên Thủy) đã chết với máu me, với hình hài tiều tụy, với xương trắng cát lạnh, đã được sống lại vào đoạn kết ? Nhờ đâu? Xin thưa : Nhờ niềm hy vọng. Nhờ ước mơ. Nhờ mơ tưởng. Nhưng phải chăng mọi hy vọng ở tương lai cũng chỉ là chiêm bao ? Đoạn kết : “Mây gió nổi trôi ngàn bước mộng/ Bàn chân không lùa sóng vô biên/ Ta đi dạo khắp cõi miền/ Này là phố thảo kia triền xóm hoa”.

Đặng Tấn Tới trong “Tuyệt Huyết Ca” không phải u mặc như Tâm Thu Kinh, cũng không gảy những đoản khúc du dương (hân hoan hay bi lụy) liếc ngó đời sống với đôi mắt nhuốm đượm màu sắc Lão Trang – một thái độ ẩn dấu, e dè, nản chán – đó là thái độ hay tâm sự của kẻ sĩ hiện thời. Trong 108 câu thơ ở “Tuyệt Huyết Ca” đã kéo được tấm màn cho ngần ngại cho thấy rõ ràng một hình ảnh của nhà thơ : Đây là những hình ảnh trung thực, gần gũi, linh hoạt, chứa chất nhiều tâm sự bi đát (không giấu diếm – qua những cái nhìn, đến tư tưởng) có thể đại diện cho đa số kẻ sĩ (hay nghệ sĩ) hiện thời : Thương nhớ quê hương, xót xa vì vận nước, nhưng chỉ thể hiện bằng những thái độ tiêu cực (Than thân trách phận, buồn nản, tuyệt vọng, hy vọng, mơ ước, mộng mị, chiêm bao, và thoát tục : Một tính chất biểu hiện hiển nhiên trong vài năm gần đây tâm sự, quan niệm, đời sống của người nghệ sĩ (hay kẻ sĩ) rất phù hợp với vận nước, cùng những cố gắng khai phá cho Thi ca một lối thoát). Sự chuyển biến tâm tư trên có thể giải thích tóm tắt : Quá Đau Khổ Ngao Ngán -> Thất Vọng -> Quá Thất Vọng -> Hy Vọng – > Trở Về Với Mình = Mộng / Ước / Chiêm Bao / Thoát Tục, v.v…. Tất cả những trạng thái tình cảm quanh co nầy đã được ghi dấu trong “Tuyệt Huyết Ca” bằng một giọng trầm tĩnh, trang trọng nhưng lại quá lâm li bi đát.

Tình cảm đó là:

Mang mang cát bụi lên đường
Những xương máu cũ phai hường là đâu?
Trăng cổ độ ố mầu tang hải
Trải thu phần quan tái vài bông
Nao nao gió giục sang hồng
Rụng bao nhiêu cánh giữa lồng nhân sinh
Ngậm ngùi thương cảm :
Ghé trong mây trắng môi cười
Một xe cát bụi xô người ra đi

Và :

Vin sắc máu trong tòa hồng sử
Tay run mầu lữ thứ cô hương
Lạnh nghe hồn réo mười phương
Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn

Nồng nhiệt, tha thiết:

Ta uống cạn giòng trong bích ngạn
Cuộn tâm bào ức vạn sinh linh
Quá giang ca ngộ cô tình
Lấp mầm sinh tử như mình như ai
Người thoáng hiện di hài cuối nguyệt

Đoạn trường:

Hồn đau nhỏ máu tơ đồng
Mấy cung hồ rợn mênh mông gió gào
Sông nước chảy chiêm bao máu rạng
Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương

Chán nản :
Mây trôi lớp lớp vô thường
Trời xanh còn lại con đường chim bay

Nhìn thấy:

Người vất vưởng tận hang cùng cốc
Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương
Máu khô thịt nát bên đường
Rợn mầu tinh huyết đò dương đắm chìm

Và:

Phơi xương trắng ngoài đêm cát lạnh
Vùi đó đây từng mảnh thân non
Đất bay đá chạy chi còn
Bi thương cổ lục héo mòn tân thanh !

Vì thế, tâm sự:

Trường thu hận tan tành sông núi
Bao mạng người làm củi nung tim
Mây ơi nở nụ im lìm
Chở hồn hoa trắng bay tìm tình tang

Tiếng kêu thương trầm thống còn vọng mãi muôn đời:

Nghìn thu trước ai tình xanh mắt
Nghìn thu sau hiu hắt hồn hương
Cùng nhau về tụ đầu sương
Long lanh chút mộng cuối đường tài hoa.

………………………………….

Không kể đến những tâm sự được giải bày mạch lạc trong một bố cục chặt chẽ (điều nầy cố ý hay vô tình ? Tác giả đã : “Ta cũng sầu mở quá độ chơi”) phô diễn và liên kết từng dòng xúc cảm, từng chặng thăng trầm, như một lan tràn tươi mát của suối nguồn. Ngoài một lối sử dụng thể thơ song thất lục bát độc đáo, mới lạ, tuyệt vời nhất trong những áng thơ song thất lục bát đã có tự cổ chí kim (Tôi chịu trách nhiệm về những phát biểu đã nói hôm nay cho tới ngàn sau), không có một câu thơ nào trong 108 câu của “Tuyệt Huyết Ca” tì vết, suy suyễn (mà bạn có biết là tại sao có 108 câu?). Tôi có thể ví như một xâu chuỗi hạt, 108 hạt ngọc đều ngời sáng và quí giá như nhau. Không chú trọng tới những ưu điểm hình thức, điều quan trọng tôi muốn nói lên khi chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca”, phân đoạn và dẫn chứng, rằng không có sự phân chia nào trong Thi ca là thích hợp cho mỗi tác giả, không cố định và bắt buộc phải chịu dán cái nhãn hiệu kỳ quặt xa lạ đối với họ (Thi sĩ) Rằng Thơ phải đọc bằng tâm hồn, rung cảm tự nhiên, đọc và mê man tàng tịch trong mỗi dòng mỗi chữ. Rằng thơ phải như thế – xúc cảm ; nồng nhiệt, phẫn nộ, hay đau xót, hân hoan cũng phải chảy vào lòng người bằng ngõ ngách sâu khuất nhất của tâm hồn. Chứ không phải là một kỹ thuật dụng chữ. Dụng ngôn. Đao to búa lớn. Tôi có thể vắn tắt : Sự rung cảm truyền đạt bền bỉ và sâu sắc là phần quyết định chân giá trị của một thi phẩm chứ không phải : Viễn mơ, Dấn thân, Thiền hay một cái gì ngộ nghĩnh khác.

Gặp “KINH PHÁP BẢO ĐÀN”
Của Lục Tổ Huệ Năng

* Cùng Hòa Thượng Thích Thiện Đạo
Tại Chánh Điện Chùa Phi Lai.

Sau hơn một tuần sống ở Phi Lai, một buổi sáng, sau bữa cơm chung vui vẻ với các cô chú, tôi xin phép thầy Thiện Đạo xuống Tuy Hòa thăm chơi vài hôm. Tôi muốn đi loanh quanh trong cái thị xã đầy ắp kỷ niêm một thời ấy, để ghé thăm vài người bạn đồng nghiệp, bạn văn, nhân tiện mua ít sách báo để về lại Phi Lai có cái đọc cho vui, sau những giờ mải mê kinh sách!

Về Tuy Hòa, tôi thường ghé lại nhà anh chị Trần Huiền Ân, có lần ăn ngủ ở đó – cũng có khi về “tạm trú” nhà chị Lê Tămh Mính. Nhà chị Mính khá rộng, đó là một vila có nhiều phòng, giữa khu vườn nhiều cây xanh, rất thoáng mát. Chị dành cho tôi ở ngay căn phòng mà lúc xưa khi còn dạy học ở Nguyễn Huệ, tôi đã ở. Căn phòng có cửa sổ rộng nhìn ra vườn, có giường nằm cá nhân, có bàn làm việc, có tủ chứa áo quần, rất thuận tiện. Hai nơi nầy là “địa chỉ thường trú” của tôi khi “có dịp” vào Tuy Hòa…

Tôi ngồi uống trà cùng Thầy ở chiếc bàn thấp kê sát cửa sổ ở nhà khách như mọi buổi sáng, tôi nói: “Thưa thầy, hôm nay tôi định đi Tuy Hòa vài hôm…” Thầy cười: “Ờ, ông nên đi thư giãn một chút, nếu muốn!” Nói xong, Thầy quay vào phòng riêng, phía sau nhà Tổ – trở ra, Thầy đưa cho tôi tập sách dày, giấy hẩm: “Này, cầm quyển nầy về dưới đọc đi!” Cầm tập sách trên tay, tôi thoáng đọc tựa sách: “Kinh Pháp Bảo Đàn” của Lục Tổ Huệ Năng, do Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành nội bộ, in ronéo. Tôi nhìn Thầy, cười: “Thầy cho tôi mượn hay sao?” – “Tôi đã đưa cho ông, là của ông rồi!” Thầy Thiện Đạo trả lời rất gọn. Tôi cảm thấy rất vui vì có thêm tập Kinh mới…

Không thể chờ đợi các chuyến xe lam, bởi từ chợ Hòa Thịnh đến bến xe lam Tuy Hòa, có thể mất hẳn một buổi; tôi đi bộ ra chợ, đón xe thồ đi ngay. Tôi đến Tuy hòa khoảng 9 giờ, ghé lại nhà chị Mính. Tôi tìm đến phòng ở dành cho tôi như ở nhà mình. Chồng kinh sách trước đây tôi đọc, vẫn được xếp nằm ngay ngắn trên bàn, phòng ốc sạch sẽ; tôi đẩy mở rộng hai cánh cửa sổ cho nắng tràn vào.

Ngồi ngay vào bàn, tôi mở vội “Kinh Pháp Bảo Đàn” ra đọc, với sự nao nức, hưng phấn, như mỗi lần có được tập kinh sách mới. Tôi say sưa đọc, cẩn trọng từng câu, cảm thấy lời kinh đã có một sức hấp dẫn lạ lùng, nhất là cảm thấy rất gần gũi, thân thiết. Đọc đến trang 14 – đến đoạn kinh sau đây, tôi bỗng cảm thấy không còn có ham muốn đọc thêm nũa: “(…) Huệ Năng sau đến Tào Khê lại bị bọn người ác tìm đuổi mới ở nơi Tứ Hội tị nạn trong đám thợ săn, trải qua mười lăm năm, khi đó cùng những người thợ săn tùy nghi nói pháp. Những người thợ săn thường bảo giữ giềng lưới, khi Huệ Năng thấy những con vật mắc lưới đều thả. Mỗi khi đến bữa ăn, hái rau gởi luộc trong nồi thịt, hoặc có người hỏi thì đáp: “Chỉ ăn rau ở bên thịt.” Một hôm, mới suy nghĩ: “Thời hoằng pháp đã đến, không nên trọn trốn lánh.” Huệ Năng liền đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Khi ấy có gió thổi, lá phướn động, một vị tăng nói gió động, một vị tăng nói phướn động, hai người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)”

Chỉ một lời nói của Lục tổ Huệ Năng với mấy vị sư đang tranh cãi về chuyện “phướn động hay gió động” đã như dòng thác lũ, bất ngờ tuôn chảy vào trong tâm thức tôi: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)”, tôi lạnh người, nghe âm vang cứ lớn dần, hình ảnh lá phướn trên cột cờ cao trước sân chùa Pháp Tánh bay trong gió lộng cứ ám ảnh trong tôi; với nỗi bàng hoàng khôn xiết! Tôi ngồi bất động, ngơ ngẩn giây lâu. Đôi mắt tôi dường như được tiếp nhận một thứ ánh sáng mới, nhìn ở đâu tôi cũng thấy mới lạ; tôi quay nhìn ra vườn thấy tàng cây màu xanh im sững một nỗi lặng thầm ngàn năm; nhìn lên chồng kinh sách đang nằm yên lặng trên mặt bàn, như trơ cứng, lạnh lùng, không còn quyến rũ, réo gọi tôi như trước đây nữa. Bất giác, tôi tự nghĩ, sao mình lại có thể giữ lại những quyển sách này đến bây giờ? Tôi ngồi im lặng đắm chìm trong giây phút bị xáo trộn chóng vánh ấy, với quyển kinh đang mở rộng trước mắt. Tôi định gấp quyển kinh lại, nhớ là “trang 14”, không đọc tiếp nữa…

Ngay phút ấy, tiếng chị Mính từ phòng nhà sau vọng vào: “Anh Long ơi! Thầy Thiện Đạo gọi…” Tôi ra khỏi phòng, đến nhận ống nghe từ tay chị Mính: “Chào thầy…” – “Ờ, đã đọc quyển “Kinh Pháp Bảo Đàn” chưa?” – “Thưa thầy, đã đọc, nhưng đến đoạn kinh nầy, tôi quyết định không đọc nữa!” – “Đoạn nào vậy?” Tôi đọc thuộc lòng: “… Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)” Sau tiếng cười, Thầy khuyên: “Cứ đọc tiếp đi nhé!” Tôi do dự: “Thưa Thầy, tôi sẽ đọc tiếp, nhưng không phải lúc nầy! Cám ơn Thầy rất nhiều…”

Tôi trở về phòng, nằm yên, không muốn làm gì, để tận hưởng giây phút hiếm hoi quý báu khi nhận được nguồn pháp hỷ vô bờ từ “Kinh Pháp Bảo Đàn”. Tôi lại nhìn ra bầu trời, lá cây bên ngoài cửa sổ, vẫn cảm thấy chúng là sự hiện hữu lạ lẫm, nhiệm mầu. Tôi có suy nghĩ: “Dù “Pháp Bảo Đàn kinh”, đúng quy định, được xếp là “Luận”, nhưng, chính đó là một quyển “Kinh” rất mầu nhiệm, vì đã làm cho những cái tâm vô minh, được bước dần vào Đạo!” Tôi nghĩ tiếp: “Bất kỳ lời nói nào có năng lực làm cho chúng sanh điên đảo, u tối được tĩnh tâm, an lạc và đạt đến ‘bất thối chuyển’, đều là Kinh!” Tôi vội lấy hai tờ giấy manh khổ nhỏ luôn có sẵn trên bàn, ghi lại vài “cảm nhận” về giây phút bất chợt rất linh diệu vừa qua; (như ghi lại một kỷ niệm, một trang nhật ký) tuy vẫn biết rằng “văn tự” rất giới hạn và khô cứng đối với xúc cảm và sự nhiệm mầu của chân tâm!

Viết xong phần cuối của tập Hồi ký (đã chia sẻ trên newvietart.com & hoadongphuong) hơn nửa năm sau, đang đọc lại và biên tập lần cuối Hồi ký đã viết – tình cờ lục trong mấy thùng sách cũ để tìm lại bản thảo các truyện, tôi đã bắt gặp tập “Kinh Pháp Bảo Đàn” ngày nào nằm yên lặng, còn nguyên vẹn ở đó (mà tôi cứ nghĩ quyển sách đã thất lạc đâu đó trên bước đường lận đận bao năm). Là một duyên may – trong quyển Kinh cũ nầy có bốn trang tôi viết tay trên hai tờ giấy manh khổ nhỏ, với đề tựa bằng bút lông hai mầu xanh đỏ: “Buổi Sáng Nhân Đọc “Kinh Pháp Bảo Đàn” Của Lục Tổ Huệ Năng” được xếp bỏ vào giữa quyển Kinh. Xin ghi lại nguyên văn nội dung – như lưu giữ một kỷ niệm:

“Quyển “Kinh Pháp Bảo Đàn” giảng giải của Lục Tổ Huệ Năng, do Ngài thuyết nói, đệ tử sau nầy ghi lại, được Thiền viện Thường Chiếu in ronéo, để “phổ biến nội bộ”; không thấy ghi ngày tháng năm ấn hành.

Trong lời “lược khảo”, người dịch bảo đúng lý xưa nay, lời của Phật mới được gọi là Kinh; lời của Chư Bồ Tát, Chư Tổ thì gọi là Luận; còn lời của Thiền sư thì gọi là “Ngữ Lục”.

Tuy vậy, theo di chúc của Lục Tổ Huệ Năng đã dạy: “Sau khi ta tịch, các ngươi muốn làm lợi ích cho đời sau, thì nên ghi lại những lời ta dạy, thành một quyển sách, đề tên là “PHÁP BẢO ĐÀN KINH”. Vì thế Ngài Pháp Hải, một vi Thiền sư đệ tử của Lục tổ, trụ trì chùa Bảo Lâm, đã ghi lại như thế.” Lời “lược khảo” kết luận: “(…) nên y theo lời dạy của Lục tổ, quyển sách nầy đề tên như thế; chứ đúng ra, quyển sách nầy được xem là một quyển “Ngữ Lục’ mà thôi!” (trang 1).

Nay ta được căn lành nhiều kiếp, được đủ duyên đọc “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục tổ do Thượng Tọa ân sư trao cho, chỉ kịp đọc đến dòng thứ 3 và 4 trang 14, đã được hiểu rõ, ta chợt bừng thấy được bản tánh chơn tâm, thầm khế hội vô ngôn ý của Lục tổ, qua lời đáp: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhơn giả động”. Vậy mà đã gần suốt 15 năm ta đã khổ đau, phiền não, không ngày giờ nào được yên ổn thân tâm, có lúc đã nghĩ tới sự tự hủy thân mình…

Trong gần 15 năm tối tăm đó, ta đã vào chùa xin Quy y Tam bảo (cho ta và cả bốn đứa con); đã ăn chay nằm đất tại nhiều ngôi chùa. Ta đã vào đảnh lễ Phật, niệm Kinh, cầu nguyện, sám hối tại 10 ngôi chùa trong nước – nơi ta đã có dịp dừng chân trên bước đường lưu lạc – mà chưa thấy thực an lòng!

Ta đã được các thiện tri thức cho đọc kinh sách Phật, được trì đọc và biên chép cả Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, luận Tối Thượng Thừa của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn; mà vẫn chưa thấy được mối nhân duyên trùng điệp từ bao kiếp của đời ta, chưa có niềm an lạc hoàn toàn!

Sáng nay, lúc 10 giờ 20 phút ngày 15 tháng 3 năm Ất Hơi (14 tháng 4 năm 1995) khi từ chùa Phi Lai trở về phòng trọ, đang có sẵn tập “Kinh Pháp Bảo Đàn” trong tay, ta mong ước được đọc hết quyển sách quý, vì lòng ta đã tha thiết, ngưỡng vọng với Phật pháp từ rất lâu rồi!

Chỉ trong vài phút đọc, trang 14 đến dòng thứ 3-4, nghe Lục tổ tình cờ nói với chư vị sư chùa Pháp Tánh: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhơn giả động” – ta chợt hiểu suốt đời ta, Tâm ta, liền thấy hoàn toàn thanh tịnh, an lạc… cho dù, thân ta đang còn trôi nổi trong dòng nhân duyên hiện kiếp!

Ta tự biết chính Tâm ta là núi trân bảo!

Ta tự coi mình như vừa mới được sinh ra, kể từ thời gian 10 giờ 20 phút, ngày Rằm tháng Ba – Ất Hợi.(14.4.95), với đầy đủ chơn Tâm, Phật tánh từ vô thủy vô chung nào, chưa hề mất!

Ta đã buông sách xuống, thật trong lòng không muốn đọc thêm một dòng nào nữa. Ta thực không còn nghĩ, nhớ, tưởng tới chồng Kinh sách đang nằm chờ sẵn trên bàn, như trước đây mươi phút nữa. Tất cả Kinh sách ấy bây giờ đối với ta là KHÔNG. Pháp tức KHÔNG!

Ta cũng chợt nhận ra rằng, tại sao Lục tổ trước khi tịch, đã di chúc, phải ghi tên tựa quyển sách là “Pháp Bảo Đàn Kinh”. Tại sao gọi là KINH? Có gì đâu phải chia ra “Luận”, chia ra “Ngữ lục”, chia ra “Kinh”! Chia ra như thế, là đã làm trái ý Phật. Không hiểu Phật pháp. Làm sai lời Phật dạy rồi!

Ngài đã buồn lòng biết bao!

Phàm lời của bất cứ người nào nói ra, làm cho một người (hay nhiều người) được thấy rõ ngọn nguồn của Tâm mình, bản tánh của mình, mà được an vui – tuy là một cử chỉ, một sự im lặng, chỉ đủ cho một chúng sanh thôi, giác ngộ Tâm Phật của chính mình, và tri kiến gỉải thoát giữa dòng sinh tử; thảy đều được gọi là Kinh cả, được gọi là Phật cả!

Chúng sanh là Phật sẽ thành…

Lục tổ Huệ Năng đã để lại lời dạy trong Kinh Pháp Bảo Đàn cho ta (và bao người) được cơ duyên giác ngộ – ta gọi đó là Kinh, là lời Phật…

Ngài đã biết trước được điều nầy chăng?
Cúi xin đảnh lễ!

Tuy Hòa, Rằm tháng Ba Ất Hợi”

Từ đó, tôi rất vui, khi tự đặt cho mình một “đạo hiệu” là Huệ Thành (pháp danh được bổn sư đặt cho khi quy y là Sơn Thành), ngay buổi sáng hôm ấy!

Về sau, nhớ tới giấc mơ năm xưa đã được bổn sư ở chùa Ngọc Lộ giải thích, cho là “Con sẽ nhận được một quyển sách quý” – tôi tin, quyển sách quý mà tôi luôn mong chờ từ bao năm nay, chính là “Kinh Pháp Bảo Đàn” của Lục Tổ Huệ Năng đã đến với tôi hơn chục năm sau!

Tôi rất biết ơn thầy Thiện Đạo – vị “Ân Sư” của tôi, người thầy đã trao “Kinh Pháp Bảo Đàn” buổi sớm nào ở Phi Lai với lời nói “Tôi đã đưa cho ông, là của ông rồi!”, tri ân nhiều bậc thiện trí thức mà tôi đã có “duyên lành” gặp gỡ trong gần bốn chục năm qua trên bước đường lưu lạc đó đây, và ngay cả trong quãng đời còn lại, đang trôi nổi hôm nay…

(Còn tiếp…)

Thêm Một Buổi Sáng Chủ Nhật
Ấm Áp Nghĩa Tình

Sáng hôm nay – chủ nhật, 13.7.2014, cũng tại quán cà phê Biên Thùy thân quen yên vắng nằm ở vùng quê Nhơn Hưng, quý văn hữu An Nhơn đã có buổi gặp gỡ cà phê đầu ngày nhân dịp tác phẩm thứ 20 của tôi vừa được ấn hành: tập tiểu luận và tạp bút “Như Những Giọt Sương” tập 3 (nhà XB Hội Nhà Văn – trình bày bìa họa sĩ Lê Sa Long – chân dung và phụ bản họa sĩ Đinh Cường) để cùng nhau chia sẻ niềm vui, cảm nhận, trong không khí đầm ấm, thân thiết, nghĩa tình.

Người bạn văn vong niên Trúc Lập – Đỗ Văn Liệp, người cao tuổi nhất (86 tuổi), đã có mặt rất sớm. Anh là người bạn văn đồng hương thân thiết, luôn chia sẻ, động viên tôi, và rất chí tình với anh em trong mọi sinh hoạt thường nhật, nhất là trong các buổi gặp gỡ giao lưu văn nghệ. Anh Trần Duy Đức – người cao tuổi thứ 2 (68 tuổi), cũng đã đến rất đúng hẹn ngay sau đó. Quý thân hữu Từ Văn Minh (từ Đập Đá), Trình Ngọc Chương (Bình Định), Nguyễn Như Tuấn, Minh Nguyên, Đỗ Xuân Phương, Hoàng Trọng Quý, cô giáo Thu, Nguyễn Hồng Sơn (từ Nhơn Khánh) luôn là những “hạt nhân” của tình văn nghệ ở An Nhơn. Nhà thơ Phạm Văn Phương dù đang rất bận rộn chuẩn bị đi Nam Định “viếng gia” để hỏi vợ cho quý tử, cũng đã không thể vắng mặt. Hai người bạn văn gọi đến chia vui và “xin lỗi” vắng mặt là nhà thơ Nguyễn An Đình đang “bị mấy chiếc răng đau nhức hành hạ” và Trần Minh Nguyệt còn đang bận bịu với công tác chấm thi, Còn Bùi Hoài Vân lại “đang ngồi bàn họ dự đám cưới”. Đặc biệt, nhạc sĩ Lê Minh Thế – người con đất An Nhơn đang sinh sống và làm việc ở Kontum- về thăm quê cũng đã đến chung vui, góp thêm “hơi ấm” cho buổi gặp gỡ…

Đáp lại những tấm chân tình nồng hậu ấy, tôi đã rất hạnh phúc được bày tỏ lời cảm ơn đến với tất cả anh em đã luôn gần gũi, chia sẻ, đã đem lại cho tôi nhiều niềm vui và an ủi để tiếp tục cuộc “vui chơi” cùng anh em thêm nhiều hơn nữa. Tuy buổi gặp gỡ rất đơn sơ nhưng đã ghi dấu trong tôi rất sâu đậm, khó quên trong cuộc đời cầm bút nhiều gian khó của mình. Tôi cũng bày tỏ lòng mong mỏi được đón đọc những tác phẩm mới của tất cả, để có dịp chia vui cùng nhau như hôm nay.

Anh Trúc Lập đã thay mặt anh em ngỏ lời chúc mừng và chia vui với tôi nhân tác phẩm thứ 20 vừa được xuất bản. Anh cho biết dịp này cũng là nguồn động lực cần thiết cho tất cả để anh em “lấy đà” giới thiệu tác phẩm mới của mình trong tương lai gần.

Tiếp lời, anh Trần Duy Đức cũng đã chia sẻ cảm nhận khi được cầm trên tay tập sách dày dặn, mỹ thuật thứ 20 của tôi với hy vọng trong những tháng ngày kế tiếp tôi sẽ có thêm nhiều tác phẩm mới bởi (theo nhận định của anh) sự sáng tạo và sức sống trong tôi còn tràn đầy…

Quý anh Lê Minh Thế, Như Tuấn, Trình Ngọc Chương, Đỗ Xuân Phương, cô giáo Thu, Minh Nguyên… cũng đã lần lượt chúc mừng, chia vui, cùng có chung niềm tin tưởng và hy vọng vào những tác phẩm tiếp theo của tôi để tất cả cùng nhận được “những giọt sương” tươi mát, cần thiết cho đời sống vốn có nhiều ưu phiền.

Tôi đã rất vui và hạnh phúc được trao đến tận tay tất cả tác phẩm mới là những trang viết tâm huyết qua bao năm tháng của mình. Nhân dịp này, tôi có “hai món quà nhỏ” muốn gởi tặng, nhưng chưa biết “giải quyết” thế nào cho ổn, vì chỉ có hai (trong lúc tổng số là 14): Đó là bức phác họa chân dung tôi của họa sĩ Đinh Cường gởi cho và tạp chí Quán Văn sổ 23 có đăng bài tạp bút “Hai món quà của họa sĩ Đinh Cường” của tôi như chia sẻ niềm hạnh phúc với tất cả…

Anh em đã vừa vui vẻ góp ý, mạn đàm, vừa lai rai cà phê, trà , và cả Tiger (theo nhà thơ Như Tuấn là để cho… thêm ấm áp!).

Cuối cùng món quà phác họa chân dung tôi của họa sĩ Đinh Cường được gởi cho anh Trúc Lập (người cao tuổi nhất); và tạp chí Quán Văn 23 được gởi cho anh Trần Duy Đức (người cao tuổi thứ hai). Cả hai món “quà nhỏ” ấy có giá trị vật chất chưa quá 50 ngàn đồng nhưng tất cả cũng đều nghĩ như tôi: đó là một kỷ niêm vô giá trong trong tình văn nghệ và bằng hữu.

Họa sĩ Từ Văn Minh đã làm công việc “phóng viên nhiếp ảnh” – ghi lại những giờ phút của buổi sáng chủ nhật đầy tình thương yêu và tình văn nghệ…

Buổi gặp gỡ đã tạm kết thúc sau hai giờ tâm tình, trao đổi – ghi thêm trong những kỷ niệm đời mình những lần sum họp và vui vẻ , khó quên.

Ăn Giỗ Vợ Bạn

An có thói quen tắt nguồn diện thoại trước lúc đi ngủ. Phòng ngủ của anh lại gần kề phòng con và các cháu; nên mỗi lúc chuông điện thoại reo mà chưa kịp bắt máy, thì con cháu không ngủ yên được! An bị rầy rà mấy lượt, nên khi uống hai viên Rotundin, chuẩn bị lên giường, là đã tắt máy ngay! Cho khỏi phiền…

Đêm hôm qua, không rõ vì sao, An đã lên giường ngủ một giấc, mà điện thoại lại reo vang inh ỏi? Lúc ấy vào khoảng 10 giờ 30, cả nhà đang ngủ say hết. An giật mình, đưa vội tay lên đầu giường như cái máy, mở to mắt nhìn, thấy tên “Nguyễn Viết Đào”…Anh bắt máy, chủ yếu chỉ nghe, không dám nói. Câu nói duy nhất của An trước khi tắt máy, tắt nguồn, là “Tôi sẽ đến. Cám ơn anh!”.

Nếu An nhớ tắt nguồn như mọi đêm, thì đã bỏ mất một cơ hội gặp gỡ, chia sẻ với bạn. Sự “quên ngẩu nhiên” có lẽ, đôi khi – cũng là một diều tốt, An nghĩ vậy – cũng có thể là một “nhân duyên lành”; vì trong cái rủi vẫn có cái may bên cạnh…

Sáng sớm hôm sau, An gọi cho Đào để xin lỗi, và cho biết lý do đêm qua không thể trò chuyện lâu hơn được. Biết An sẽ có mặt, Đào rất vui: “Anh em ít có dịp gặp nhau, nay nhân ngày giỗ bà xã, cậu nhớ xuống để mình còn cảm thấy gần gũi – như xưa nhé!”.

Lời người bạn như âm vang trong đầu An “để anh em còn cảm thấy gần gũi như xưa”; thật ra quê của Đào chỉ cách An khoảng mười mấy cây số thôi, nhưng anh em ít có dịp gặp nhau lâu. An chợt nhớ lời người bạn vừa thuật lại tuần trước, khi An được mời đến dự ngày giỗ cha của anh ta. Anh ta kể, vừa gọi cho một cậu bạn đang là Phó giám đốc một cơ quan ngày xưa của anh, với lời mời rất thân tình, dầu cậu ấy nhỏ tuổi hơn: “Nhân ngày giỗ ông già mình, mời cậu mười giờ hơn ghé uống chén rượu cùng gia đình và anh em…” – người bạn đáp gọn một câu “chưa chắc!”, rồi cúp máy cái rụp; mà không thể hiểu nổi sự kì quặt của một con người, có thể nói là đã “có chút địa vị và học thức” trong xã hội của chính mình đang sống! Mỗi ngày, An vẫn thường bắt gặp những sự kỳ quặt như thế nhiều hơn, mà không thể giải thích được…

Đào mời An có mặt từ khoảng 10 giờ đến 10 giờ 30, nhưng An đã quyết định đi sớm, để đến sớm hơn. An có thói quen “không dám” đi trễ. Nếu bận việc phải đến trễ hơn 15 phút – đều gọi báo và xin lỗi trước. Đào lớn hơn An hai tuổi, học cùng trường Cường Đễ, nhưng học trên một lớp. Cả hai đã có thời gian ba năm sống chung một nhà trọ từ lớp đệ tứ. Đào thi hỏng tú tài hai, bị động viên vào học trường võ bị Thủ Đức; trong lúc An tiếp tục học đệ nhất, và cuối năm vượt qua được kỳ thi với tỷ số đậu mười phần trăm giai đoạn thi viết, qua phần oral chỉ còn lại tám phần trăm. An chọn thi vào trường Đại học Sư Phạm Saigon…

Đào là con út một gia đình phú nông khoa bảng, danh giá ở xã TP, được lo cho việc ăn học xa rất chu đáo; trong lúc An ít khi trả tiền cơm tháng một lần cho bà chủ nhà trọ đúng hẹn. Trong đám chín cậu học trò đang tá túc ở trọ ấy – có lẽ, An là người bất hạnh nhất: An mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, sống nhờ vào chút tình thương của người anh. An luôn trả tiền cơm một tháng đến hai ba đợt vì người anh chưa bao giờ vui vẻ đưa cho An một lần . Nhưng, Đào lại chọn An để kết thân, gần gũi, quý mến anh nhiều nhất. Cả hai thường đi học chung mỗi sáng. Đào thường rủ An đi long rong ngoài phố, vào quán ăn kem, vào xi nê chiều thứ 5, hay ra biển mỗi chiều tối, trước giờ ngồi vào bàn học cho đến khi đôi mắt không mở ra được nữa. Đào vẫn hay dành nhiều thời gian cho việc chải chuốt, săm soi gương mặt, mái tóc, áo quần; nên khiến An thường bị đi học trễ vì chờ đợi Đào đứng trước tấm gương soi hơi lâu…Có hôm, đã ra đến đường – Đào còn kéo An lại, hỏi: “Cậu nhìn thấy cái đầu tóc mình thế nào? Mình ăn mặc vậy có được không?” – “Number-one, trễ rồi, cha nội…”. An không ưa Đào về chuyện chải chuốt, nhưng lại mê Đào về chuyện đàn hát; Đào chơi guitar rất giõi, nhưng hát thì chỉ “hay hát” thôi (chứ không phải hát hay)…

Đào ra trường bộ binh một thời gian, nhưng sau đó được tuyển vào không quân. Có lẽ vì nhu cầu, cũng có thể vì “bộ gió” cao ráo, khỏe mạnh, hào hoa của anh ta nữa. Đào được cử sang Mỹ học lái máy bay trực thăng và L19 hơn một năm, về nước phục vụ ở phi trường Cam Ranh; trong lúc An đang còn học năm cuối đại học.

Khi còn ở Saigon, nghe Đào báo tin sẽ cưới Kim Thanh vào dịp cuối năm – An hơi ngỡ ngàng một chút, nhưng không ngạc nhiên nhiều. Thuở còn học đệ nhị, trong lúc đang nổ lực để chuẩn bị thi tú tài phần một, An đã nghe Đào rỉ rả tâm sự về cuộc tình của anh với Kim Thanh. Rất mùi mẫn. An chỉ nghe, mà không ý kiến. Mới vừa tuổi mười tám , nhà nghèo, An chỉ lo cắm đầu học, không hề dám nghĩ nhiều đến chuyện yêu đương, mặc dầu cũng có đôi bóng hồng chen vào đầu An, nhưng không ở lại lâu, không sâu đậm…An hiểu lờ mờ rằng, Tình Yêu rất rắc rối, rất kỳ cục – nên An chỉ ngồi nghe Đào say sưa kể chuyện vì nể tình, mà không dám góp vào câu nào…Không biết rõ, tốt hơn là nên im lặng – An luôn ghi nhớ lời khuyên đó của chị, khi rời nhà đi học xa.

Đào đã giới thiệu KimThanh cho An biết vào một lần gặp nhau ở bãi biển. Kim Thanh đẹp. Có duyên. Vóc dáng gợi cảm. Cô có học qua năm đệ nhất ở trường tư thục Bồ Đề, nhưng thi tú tài hai không đậu; đang làm việc ở Ty Xã hội. Trước khi gặp Đào, Kim Thanh đã có một đứa con trai hai tuổi với chàng trung úy thiết giáp, mà chưa làm đám cưới. Rút cuộc, chàng trung úy hào hoa đã theo đoàn xe tăng lên cao nguyên, không hẹn ngày trở lại…Trước ngày nhận về làm “phù trể” cho Đào, An còn nghe vài người bạn cùng trường thuở xưa cho biết, Kim Thanh còn lớn hơn Đào hai tuổi! An cười: “Cậu không nhớ lời ông bà ta đã nói sao? – “Nhất gái hơn hai, nhì trai hơn một” đó mà!”. Ngày theo họ nhà trai đến nhà gái để làm lễ, An chỉ trông thấy một mình mẹ của Kim Thanh (và chú bác, cô dì…) trên bàn họ đón khách – hỏi nhỏ Đào: “Ông già của Kim Thanh đâu rồi, cậu?” – Đào thì thầm: “Ông già còn đang ở Hà Nội!”.

Cách nay chín năm, Kim Thanh mất vì bệnh ung thư, mặc dầu Đào đã lo chạy chữa cho vợ gần như “sạch sẽ” vốn liếng còn lại sau năm 75. Kim Thanh mất, để lại cho Đào bốn người con – Đào gọi người con riêng của Kim Thanh là “con Cả”, người con trai đầu tiên của Đào là “con Trưởng”, và tiếp theo là cô gái và một cậu con trai út. Đào đã cùng Kim Thanh lo việc xây dựng gia đình cho người con Cả bài bản, dù hoàn cảnh lúc ấy đang rất khó khăn. Hai người con trai sau nầy của Đào đang sống và làm việc ở Saigon. Chỉ có người con Cả và cô con gái giữa là vẫn sống ở quê, gần Đào. Tất cả, cho đến nay – đều đã được lập gia đình riêng, có cửa nhà, công việc làm ăn tương đối ổn định. Đào đã có cháu nội và ngoại đầy đủ, đuề huề.

Hằng ngày, người con Cả ở trên phố chợ đều chạy về tưới vườn cây cảnh, quét dọn khu vườn cho Đào một lần vào buổi sáng sớm. Trưa, cô con gái mang thức ăn đã nấu sẵn đến cho Đào và đứa cháu nội (con của người con Cả) dùng cả ngày. Đào chỉ nấu nồi cơn điện, cho vui – tùy thích. (đứa cháu nội lớn nhất chín tuổi con của người con Cả đã về sống với ông nội từ hai năm nay, cho ông nội vui!). Nhờ có đứa cháu nội, Đào có thể nhờ đỡ vài việc lặt vặt như chạy lên phố chợ mua gói thuốc, mấy lạng café, hay cái card điện thoại khi đang bận soạn tiếp vở tuồng hát bội “Kim Vân Kiều” (sau khi đã soạn xong tuồng “Ngọn Sóng Bạch Đằng” và “Tiếng Gọi Biên Thùy”), hay đang có bạn ghé thăm chơi. Hằng ngày, vào lúc ông cháu được thư thả -Đào chăm chút dạy thêm cho cháu học Anh ngữ, rồi học đàn. Ngôi nhà lá mái cũ nơi cái xóm vắng giữa đồng của vợ chồng Đào chỉ cách khu phố chợ mấy đám ruộng, một đoạn đường bê tông vài trăm mét, thường là nơi giao lưu của những người bạn Đào từ thời còn cắp sách, đến bây giờ đã “răng long – tóc bạc”. Đây cũng là ngôi nhà từ đường của dòng họ “Nguyễn Viết” bởi người anh trưởng của Đào đã chết trong chiến tranh.

Buổi chiều, hai ông cháu thường ngồi ở chiếc ghế đá ngoài góc sân, Đào ôm đàn hát đủ thứ bài, từ tân nhạc, đến cổ nhạc – đứa cháu ngồi bên chỉ nhìn Đào mà cười, rồi vỗ tay! Nhiều bạn thân, kể cả bà con của Kim Thanh, có đôi lần góp ý, mong Đào “bước thêm bước nữa” cho có người kề cận sớm hôm, cho vui, mỗi khi nhìn vóc dáng Đào đã 62 nhưng còn rất phong độ; nhất là khi nhìn thấy cảnh sống quạnh hiu lúc đứa cháu nội chưa về sống chung – nhưng anh chỉ cười: “Tìm bồ bịch thì dễ ợt, nhưng tìm vợ – khó lắm!”.

Sau năm 75 – trong buổi giao thời rẫy đầy đổi thay khó lường, đời sống đang gặp vô vàn khó khăn, lòng người hiểm sâu khó biết; nhưng Đào vẫn áo sơ mi thẳng nếp, quân tây, bỏ vào trong tươm tất, giày vớ nhiêm túc, đầu tóc chải chuốt gọn gàng, mỗi khi có việc phải ra đường…Có việc lên thị trấn, Đào đều ghé thăm An thân tình, gần gũi như thuở cùng nhà trọ hơn bốn mươi năm trước, dầu lúc nầy An đang là người thợ lem luốc, vất vả (chứ không còn làm thầy nữa!). Lần nào gặp Đào (dù tình cờ ở đâu), An cũng vẫn thấy Đào “không có chút gì thay đổi” – nghĩa là vẫn áo quần thẳng thốm, giày tất đầy đủ; cử chỉ thong dong, kỹ lưỡng, và đạo mạo; khi thời cuộc đang thay đổi. Và An cũng đã tìm thấy nơi hình ảnh bạn một niềm vui sống trong cảnh ngộ bi đác đang phải vượt qua – nhất là mỗi lần được gặp, trò chuyện với Đào bên tách café nơi góc quán hiên nhà vỉa hè nào đó…

Ngày giỗ lần thứ ba của Kim Thanh, để xả tang – Đào có gọi mời An xuống nhà “uống ly rượu”, và anh đã có mặt dầu ngay chiều hôm ấy là phải bươn bả vào Saigon. Trong buổi sáng hôm ấy, An đã rất vui được gặp lại anh và chị của Kim Thanh, mà đã hơn ba mươi lăm năm không có dịp gặp lại. Buổi sáng hôm ấy, có đông đủ các cháu gọi Đào bằng “dượng”, bằng “chú”. Từ con Cả đến con Út – đều đông đủ, sum họp – khiến An cứ nghĩ rằng, đó là một cuộc gặp gỡ hạnh phúc…

An xin phép Đào được thắp nén hương đầu tiên cho Kim Thanh sau ngày chị ra đi. Bức ảnh của Kim Thanh chụp năm 92 được Đào rọi lớn, đặt giữa bàn thờ sáng rực ánh đèn, vẫn còn ghi rõ nét duyên dáng, hồn hậu nơi gương mặt phảng phất buồn của chị; đã làm An bàng hoàng nhớ lại một thời tuổi trẻ nơi bãi biển, lần đầu được Đào giới thiệu. An thoáng nghĩ, thời gian đã làm đổi thay tất cả – nhưng, tình yêu thương vẫn còn đây bên đời sống của Đào đang nghi ngút khói hương…

Mùa Vu Lan Năm Ấy

Mùa hè năm ấy tôi vừa học hết năm thứ ba ở trường Đại học Sư phạm – khoa Văn, thì lớp học tình thương ở chùa Từ Nhẫn của Sư cô Diệu Sơn cũng bắt đầu khai giảng. Buổi tối Rằm tháng Tư – Lễ Phật Đản, tôi theo mẹ đi chùa lễ Phật, rồi đến vấn an sức khỏe Sư cô. Sư cô Diệu Sơn bao giờ cũng niềm nở, thân tình trò chuyện với mẹ tôi, với mọi người – như người thân ruột thịt trong nhà. Vẻ điềm đạm, khoan hòa của Sư cô như tỏa ra niềm an lạc cho người được gần gũi. Tôi cảm thấy như có một sức lôi cuốn vô hình mỗi khi được đến thăm Cô với mẹ. Có lẽ tình thương yêu chân tình của Sư cô dành cho tất cả là mãnh lực mầu nhiệm chăng?

Dịp này, Sư cô cũng cho biết, lớp học tình thương của chùa Từ Nhẫn, dự định sẽ khai giảng vào dịp hè. Nghe vậy, tôi liền ngỏ ý xin Cô cho tôi được tham gia dạy môn Văn. Sư cô vui vẻ nhận lời ngay: “Nếu con có lòng phụ giúp thì tốt lắm chứ – Cô cám ơn con!”.

Tối ấy về nhà, tôi đem việc xin làm cô giáo của lớp học tình thương chùa Từ Nhẫn kể lại với ba tôi. Ông cười : “Con là Phật tử, đã quy y Tam Bảo, mà lâu nay cứ đi chùa lễ Phật không thôi, thì chỉ đứng ngoài cổng mà chưa gần được Đạo…”.
– Thế làm sao để gần được Đạo, hở ba ? – Tôi tò mò hỏi.
– Có khó gì đâu ? – Ba tôi lại cười, nên siêng đọc Kinh sách, thâm hiểu ý Phật, làm theo lời Phật dạy …

Dường như nhìn thấy nét mặt tôi còn ngơ ngác – ông vui vẻ tiếp : “Ví dụ như lời dạy của Chư Phật : “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý …”. (chớ làm các điều ác / siêng làm các việc lành / giữ tâm ý trong sáng, thanh tịnh).
Tôi reo lên : “Phật chỉ dạy có bấy nhiêu thôi sao, ba ? Thế thì dễ quá!”.

Ba tôi lại cười – nụ cười ẩn chứa chút gì như châm biếm, như thương hại, trách móc. Ông không trả lời ngay cho tôi mà kể lại câu chuyện thi hào Bạch Cư Dị đến tham vấn thiền sư Sào Đạo Lâm: Để đáp lại câu hỏi của Bạch Cư Dị “Thế nào là đại ý của Phật Pháp?” – Thiền sư Ô Khoa – tên thường gọi của thiền sư Sào Đạo Lâm, vì Ngài có chiếc “tổ” nhỏ trên cành cây cổ thụ cao để thiền định; Ngài đã đọc bài kệ ấy. Bạch Cư Dị cười ngạo mạn : “Tôi tưởng điều gì lạ, chứ việc ấy, trẻ con 7, 8 tuổi cũng đều biết cả! “. Thiền sư Ô Khoa đã ôn tồn dạy : “Đúng vậy, trẻ con 7, 8 tuổi đều biết, nhưng ông già 80 vẫn chưa làm xong!”.

Ba tôi mỉm cười : “Nhiều người đã thường lầm tưởng như thế. Lời Phật không cao siêu, khó hiểu hay thần bí – mà lại rất gần gũi, đơn giản; nhưng có bao nhiêu người đã thực hành được?”.

Ba tôi gọi những người học Phật suông chỉ chuộng hình thức, là những “Kẻ chăn bò thuê!” – như tôi chẳng hạn. Là kẻ đi chăn bò thuê, thì suốt đời đâu có được lợi ích gì lớn lao cho mình?

Đang dịp nghỉ hè, được thực tập làm cô giáo, lại có cả cha mẹ, các em hỗ trợ tinh thần; tôi đã đến lớp giảng dạy cho các em rất chuyên cần. Biết được hoàn cảnh khó khăn của các em, tôi tự nhủ càng phải nổ lực dạy tốt hơn nữa. Nghe Sư cô đang cần giáo viên dạy tiếng Anh, tôi chủ động đến gặp, xin Sư cô “kiêm nhiệm” luôn môn này. Bởi vậy, cả tuần, ngày nào tôi cũng có giờ lên lớp. Tội nguyện sẽ hết lòng làm việc để khỏi phụ lòng mọi người. Nhất là của Sư cô và các em…

Chỉ dạy hơn một tháng mà tôi đã “nhận được” nhiều thứ: Được làm cô giáo, được quý Sư cô thương mến, được đám học trò yêu quý, quấn quít không rời. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc vì chưa có mùa hè nào tôi làm được việc đem lại niềm vui cho nhiều người như thế. Làm điều thiện, việc nghĩa là để “cho đi”, mà tôi lại “nhận về” nhiều quá!

Phần thưởng lớn nhất đến với tôi thật bất ngờ: Vào buổi sáng ngày Rằm tháng Bảy năm ấy, vừa bước chân vào cửa lớp – tôi đã thấy toàn là hoa Hồng ở mấy dãy bàn. Mỗi em cầm một đóa Hồng thật tươi, thật rực rỡ – vừa đứng dậy chào tôi, vừa đồng thanh nói lớn: “Chúng em xin chúc mừng cô!”.

Một thoáng bàng hoàng – tôi đang choáng ngợp bởi hơn ba mươi đóa Hồng tới tấp chạy ùa lên bàn tôi; đặt vào tay tôi – cùng với tiếng cười rộn rã hồn nhiên. Tôi cảm nhận ngay được niềm vui của người có diễm phúc được tặng hoa Hồng ngày Vu Lan thật to lớn biết bao! Kẻ cho, người nhận – đều có được niềm hạnh phúc mênh mang, khó tả.
– Cô cám ơn các em ! Cám ơn tất cả các em… Tôi nói lớn giọng – gần như thét lên !

Tôi phải lập đi lập lại đến mấy lần, chúng mới yên lòng trở về chỗ ngồi. Tôi lấy một đóa Hồng gắn vào ngực áo mình, thầm cám ơn đám học trò đã nhắc cho tôi nhớ niềm vinh hạnh lớn lao trong cuộc đời mình: Tôi còn có Mẹ ! Đồng thời, tôi cũng ngậm ngùi nghĩ rằng, trong đám học trò nghèo khó, thơ dại trước mắt tôi – đã có nhiều em không còn mẹ bên cạnh đời mình nữa.

Sau buổi dạy, tôi gom hết mấy chục đóa Hồng, mang về nhà. Người đầu tiên tôi tặng lại hoa là mẹ tôi. Bà cầm đóa hoa, ánh mắt bỗng sáng lên – rồi long lanh giọt lệ! Tôi thoáng ngỡ ngàng, im lặng trước những giọt nước mắt của mẹ. Mẹ tôi khóc vì bà đã nhớ mẹ xưa? Mẹ khóc vì nghĩ đến ngày không còn bên tôi? Tôi hân hoan tặng hoa cho ba tôi. Tặng cho các em tôi. Hoa Hồng rực rỡ trong phòng khách, bàn học, còn được cắm trên mấy khung ảnh dọc vách tường nữa … Tôi nhìn hoa, thoáng nghĩ : “Chưa bao giờ mình được tặng hoa nhiều như thế này, có nhiều tiền dễ gì mua được niềm vinh hạnh này nhỉ? “.

Mùa hè năm sau tôi ra trường, xin dạy tại trường PTTH Krong But – tỉnh Đăk Lăk. Ý nguyện của tôi là được dạy gần nhà, có thời gian chăm sóc cho ba mẹ, các em và nhất là được tiếp tục dạy thêm ở lớp học tình thương Từ Nhẫn. Tuy vậy, mọi việc trong đời dường như ít khi đến với ta như sở nguyện: Tôi không chen nổi ở một ngôi trường nào trong thị trấn, trong huyện, dầu tôi đã phấn đấu tốt nghiệp với loại giỏi!

Từ thưở nhỏ, được sống quanh quẩn ở thị xã miền duyên hải; lên đến Cao nguyên tôi cảm thấy như có một sức hấp dẫn thầm kín, mới lạ. Ở Krong But, cỏ cây, núi rừng, bầu trời … đều như xanh hơn, trong sáng hơn, và cũng “có hồn” hơn. Tôi như một cánh chim biển bay lạc lên Cao nguyên – luôn cảm thấy ngơ ngác trước bao điều mới lạ. Tôi thầm nghĩ: Mai kia, có khi nào tôi sẽ là cư dân thường trú ở cái thị trấn cheo leo giữa núi đồi bát ngát này không nhỉ ?

Mấy tháng đầu tôi nhớ nhà quá chừng. Nói rõ là nhớ ba mẹ tôi, các em tôi – nhớ cuộc sống được chở che, được chia sẻ trong một mái gia đình … Đi xa, tôi thiếu nhiều thứ, và cũng nhớ nhiều thứ. Tôi là một cánh chim đang chuyền cành, rời tổ. Tôi đang bước từng bước rụt rè đi vào cuộc đời tôi với nỗi tiếc nhớ mênh mang.

Tôi dành thời gian để viết thư về nhà cho ba mẹ tôi, nói đến sự cô độc, nỗi buồn, mỗi chiều đứng ở hiên trường hay từ cửa sổ phòng trọ nhìn ánh mặt trời khuất dần bên dãy núi đen sẫm. Đôi lúc, tôi cũng đã bày tỏ sự mong muốn trở về bên gia đình như chấp nhận sự thất bại. Nói tóm lại, tôi viết miên man, viết đủ thứ chuyện, để hy vọng vơi đi nỗi buồn trống vắng …

Cuối cùng, những lời khuyên nhủ và động viên của ba tôi, đã kéo dần tôi trở lại cuộc sống bình thường. Trong một thư, ba tôi dặn : “… Con đừng để sự buồn phiền nhàn rỗi làm hư hỏng mình. Con hãy tìm niềm vui trong công việc bên cuộc sống quanh con đang chờ đợi…”. Một buổi chiều, tôi ngồi nắn nót viết lại lời Đức Phật dạy mà ba tôi đã từng đọc cho tôi nghe: “Tự thắng mình còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác”. Hôm sau, lại viết thêm lời này trên tấm bìa cứng, dựng ngay trước bàn làm việc : “Une vie oisive est une mort anticipée” (Một đời sống nhàn rỗi là một cái chết trước kỳ hạn) của Woefgang – Goethe.

Bốn năm trôi qua – thời gian hơn một ngàn bốn trăm ngày tuy không dài, nhưng đời tôi đã phải trải qua những biến động, đổi thay, không thể tưởng tượng nỗi: Mẹ tôi mất. Rồi sau đó không lâu, cha tôi bị tai biến mạch máu não – phải tập đi bằng dụng cụ chuyên dùng. Tôi bị chao đảo, bồng bềnh, như con thuyền trước bão. Ý nghĩ xin nghĩ dạy lại trở về, bởi vì, ba tôi đang cần có tôi bên cạnh. Nghĩ đến những bước chân xiêu vẹo, run rẩy, mỗi sáng ba tôi tập đi lại trước sân nhà bên cạnh đứa em; lòng tôi càng se thắt, đớn đau. Biết được dự định cuả tôi, ba tôi đã nghiêm khắc dạy : “Con đừng quá yếu đuối như vậy! Con hãy tiếp tục những bước đi của con. Việc nhà đã có các dì phụ giúp, đã có cô bác, bà con xóm giềng; đời sống, hạnh phúc của con là của ba!”.

Tôi đã tiếp tục bước đi của tôi, nhưng làm sao có thể xóa tan nỗi buồn đau khi tôi hãy còn quá trẻ? Tôi mãi mê bên công việc như một cách để tự rèn luyện, và an ủi mình. Ngoài những giờ lên lớp, tôi tham gia sinh hoạt trong gia đình Phật tử Liên Hoa của khuôn hội thị trấn; luôn có mặt trong các chuyến công tác từ thiện xã hội; xin dạy Văn (và Anh Văn) cho lớp Sơ cấp Phật học của huyện. Khi có dịp, tôi cũng đã tham dự các khóa Bát quan trai một hai ngày; công việc đã đem lại cho tôi nhiều niềm vui thật bất ngờ.

Một trong những niềm vui ấy là tôi đã gặp Viên – người bạn đồng nghiệp, nhưng dạy khác trường với tôi trong một chuyến cứu trợ ở một bản xa. Buổi trưa giữa rừng, chúng tôi đã ngồi bên nhau ở triền suối; Viên đã chân thành kể về đời anh cho tôi như với một người thân yêu: Nhìn ánh mắt, nghe giọng nói trầm ấm của anh; tôi nghĩ, anh thèm muốn nói chuyện, tâm sự, như chưa bao giờ được bộc bạch cùng ai. Tôi biết được anh hiện đang sống với gia đình một người chị, anh mồ côi cả cha mẹ từ thuở còn rất nhỏ, anh đã theo chị lưu lạc lên Đăk Lăk rồi đến Krông Bút nhiều chục năm… Anh kể lại đời mình một cách tự nhiên, không dấu diếm, cũng không chút mặc cảm . Ngồi nghe anh, mà tôi như nghe rõ nỗi xao xuyến thăng trầm của chính cuộc đời mình! Anh đã chiếm trọn trái tim đang trống trải, ưu phiền của tôi mất rồi! Tôi có cảm giác như hơi thở anh, giọng nói anh, đã truyền vào tôi hơi ấm nồng nàn, tươi mát, khó quên!

Từ ngày được gần anh, có anh – tôi càng yêu mến cuộc đất tràn ngập nắng gió nghèo khó này hơn bao giờ hết. Tôi thầm phục nhà thơ Chế Lan Viên, khi ông viết : “Tình yêu làm đất lạ hóa Quê hương”. Quả thật vậy, tình yêu thương của Viên đã bắt đầu làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi đã không còn chút phân vân, e ngại trên mỗi bước chân đi trên cuộc đất hiu quạnh, xa lạ nầy như xưa nữa. Nổi quyến rủ nhẹ nhàng của núi rừng, trời mây quanh tôi, như càng siết chặt lấy tôi, từng ngày qua…

Vào một buổi sáng sớm ngày chủ nhật núi rừng còn ấp ủ một màn sương mờ đục; Viên đã đến gõ cửa phòng trọ của tôi, trên tay cầm hai đóa hoa hồng trắng. Gặp anh, tôi rất đỗi ngạc nhiên – đang phân vân ngơ ngác, thì anh đã cười :
– Còn hai hôm nữa mới đến Vu Lan, nhưng chiều qua đi dạy về, trông thấy có hoa hồng trắng đẹp, anh chọn hai đóa tặng em …

Tôi cố che giấu niềm xúc động – giọng có vẻ như thờ ơ, lạnh lùng:
– Thứ ba mới đến Rằm cơ mà!

Nói xong, tôi chợt nhận ra, nỗi buồn thầm lặng se thắt bấy lâu, đang bắt đầu trỗi dậy. Ánh mắt ngời sáng, chợt long lanh đôi hạt lệ của mẹ khi tôi mang hoa hồng ở lớp học tình thương chùa Từ Nhẫn về tặng cho bà, bỗng hiện về như hai mũi kim sâu thấu tim tôi. Viên nhìn tôi lặng đi trong giây phút, có lẽ anh cũng đã nhận ra trên gương mặt, đôi mắt tôi, một nỗi nhớ thương sâu khuất? Một nỗi cô độc lặng thầm của kiếp nhân sinh?

Viên cầm lấy tay tôi. Đặt hai đóa hoa hồng trắng vào giữa lòng bàn tay tôi – giọng anh vừa chân thành, vừa cố ý vỗ về tôi: “Anh phải tặng hoa cho em trước, nếu không, lỡ có người tặng hoa cho em trước mất thì sao? “.

Cầm hai đóa hồng trắng, mà tâm trí tôi lại choáng ngợp bỡi một màu hồng rực rỡ tươi thắm của mùa Vu Lan năm nào ở lớp học Từ Nhẫn. Những đóa hồng nồng nàn kia sẽ mãi mãi không còn được ở trên ngực áo tôi nữa, mà sẽ được thay vào – ngay giữa tim tôi, những đóa hồng trắng lạnh lẽo và u buồn !

Tôi gắn một đóa hồng trắng lên túi áo Viên – giọng rưng rưng chực khóc : “Em xin tặng anh, chúng ta sẽ cùng chia sẻ niềm bất hạnh cho đến hết cuộc đời…”

Mang Viên Long

Mạc Phương Đình

Mạc Phương Đình 1

Buồn Vui Cùng Bạn

thơ vẫn cứ bập bềnh như thế
nhiều nỗi buồn, chút ít niềm vui
vừa nghe tin bạn về miên viễn
không khóc mà đau với ngậm ngùi

bao năm bỏ xứ đi luân lạc
vốn liếng còn chi, ngoài bạn bè
thân phận làm thuê cho đủ sống
quê nghèo lá rách cũng nghiêng che

cuối tuần họp mặt dăm ba đứa
bắc ghế ngoài sân nói chuyện đời
đọc lại thư nhà bè bạn gửi
xem hình què cụt bỗng chơi vơi

lâu lâu gửi chút tình qua biển
lá nát tìm đâu được lá lành
lá rách đậm đà trong nghĩa nặng
thời gian lây lất cũng trôi nhanh

mai kia chẳng hẹn con đường ấy
mình sẽ gặp nhau, nở nụ cười
tay bắt mặt mừng không hổ thẹn
thiên đường, địa ngục vẫn cùng vui.

Chiều Cuối Năm

có những chiều cuối năm như thế
thân quê người, đầu ở quê hương

dẫu chân bước đi, ngõ lạ xa đường
mắt như thấy cành mai đang nở
xoè cánh bướm khoe mùa xuân rực rỡ
nắng vàng rơi từng giọt xôn xao
mắt thơ ngây ấm áp hoa đào,
có những chiều cuối năm như thế
cây bút ngập ngừng dòng chữ run run

dòng thư thăm sao vướng mắc câu buồn
đôi chút bâng khuâng tình người dâu bể
một thủa đi tìm dòng đời tử tế
mong cho nhau ngày tháng trùng phùng
giọt lệ mừng, chén rượu say chung,
những chiều cuối năm nhìn trời nhìn đất
giấu vào tim một khối ngậm ngùi
nhắc riêng mình điều còn điều mất
bẻ nụ sầu cắm giữa niềm vui.

Trên Đỉnh Mùa Xuân

người đi qua, mùa xuân đã nở
đoá thơ ngây khoác áo bình yên
xanh như ngọc trái sầu rụng xuống
để bàn tay vội vã trăm miền

nghe điệu nhớ vàng theo ánh nắng
con chim chuyền cất giọng trên cao
hương mai đẫm chút tình gió bụi
câu hát ru pha dấu nghẹn ngào

trên dốc đời mùa xuân đếm nhịp
còn cưu mang xa lạ một dòng
mây lơ lửng quay ngang ngõ cũ
nhắc nhớ gì một bước long đong

xin gói trọn niềm đau một thuở
mang đi theo vào đỉnh mùa xuân
gởi cho gió mịt mù nhân ảnh
người có nghe hoa cỏ thật gần .

Thu Của Một Thời

có một thời đêm đêm chờ trăng
chừng như ngày tháng chẳng xoay vần
vàng rơi trên lá, trăng hay nguyệt
một nhánh sầu tư dưới bước chân

có một thời dấu đời loang lổ
cả bốn mùa ngày nào cũng thu
em khoe áo hạ xanh như nắng
sợi khói trong thơ bỗng mịt mù

có một thời theo mầu gối lạ
gói thời gian pha khúc ru khuya
em đi va vấp theo đường mới
cứ ngỡ thu sang bóng nguyệt về

một thời mổi ngày thôi chờ em
mắt ngộp màu thu đẫm nụ tình
nồng cả tương tư trong giấu lệ
em đi chân buồn trong lênh đênh

một thời mơ tưởng thu là mộng
để lá vàng bay mãi với trăng
dỗ giấc mơ chìm đêm tiếng nhạn
góc hồn đọng mãi chút bâng khuâng

Người Về

Người về thắp nắng trên cao
rót câu hát cũ chảy vào tim ta
nắng chia nửa gió đường xa
người chia nỗi nhớ vỡ oà tiếc thương
giận chi nhịp guốc sân trường
còn khua sợi tóc lỡ vương một lần
mỉm cười dấu nửa màu trăng
thơ ngây con mắt đánh vần nét thơ
thả ngày theo bước bơ vơ
buông dòng mực tím ngẩn ngơ đường về
ngoài sân đầy rụng hoa lê
trong tim giọt máu tỉ tê một mình .

Soi Mình

Soi gương nhìn thấy bóng mình
soi em tìm lại chút tình đã xa
thuyền xưa lỗi ngón tay ngà
xuôi dòng mắt đợi xót xa mắt người

tìm đâu ngõ khép nụ cười
để quên chất ngất một đời hẹn nhau
thời gian dẫu vẫn xưa sau
vẫn chưa đủ trọn một câu thơ buồn

bẽ bàng đau một dại khôn
gọi thơ vẽ lại nụ hôn tháng ngày
em từ để phấn hương bay
ngẩn ngơ bỏ chén rượu đầy mình ta

bến đời xế bóng mây qua
thôi mai đừng nỡ về xa ngập ngừng
trong hồn bỗng thoáng rưng rưng
như xuân vừa đuổi vầng trăng xuống đời

Cốc Rượu Khuya

Quán khuya chợt mắt nhận nhau
bỗng dưng kỷ niệm ngẩng đầu nỗi vui
hai mươi năm, khoảng ngậm ngùi
bao nhiêu dốc khó đau đời lãng quên
chia từng bóng nhớ không tên
bước chân lầm lũi dẫm trên đỉnh sầu
tuổi xuân theo nước chân cầu
trôi qua mờ mịt giữa mầu nhân gian
tấc lòng đau với quan san
hận dòng nước đục ngỡ ngàng biển khơi
mộng xưa lấp biển vá trời
bọc thây da ngựa thác lời mẹ cha
mười năm trong cõi ta bà
nỗi hờn nỗi giận, xót xa nỗi mình
bàn tay cầm giữ lênh đênh
nâng ly nốc cả gập ghềnh vào tâm
đắng cay chén rượu thăng trầm
âm ba từng đợt sóng ngầm gọi nhau .

Khám Phá

em là nắng là mưa hay là gió
là ánh trăng hay đốm lửa đêm sao
là cỏ thơm hay lộc non mới nở
mà bỗng dưng anh ngào ngạt hoa đào

nắng bỡ ngỡ rớt buồn trên mái tóc
sợi mai xưa lấp lánh chút tà huy
mưa lặng lẽ lối về ôm mộng cũ
ngọt môi anh cắn vỡ trái xuân thì

bờ cỏ thơm còn xanh xao viễn xứ
lời trăm năm chưa nói được vài câu
nghe lộc non tràn đêm câu tình tự
tiếng yêu em rạo rực nước chân cầu

về góp lại từng hạt mưa hạt năng
hạt lửa sao cùng cộng cỏ trăng đầy
em nhật nguyệt dấu mình mơn mởn nở
để hồn anh say khướt cả đêm nay .

Nhớ Sài Gòn

Nhớ Saigòn buổi chiều mưa bất chợt
mái hiên nào anh đã đứng cùng em
cơn mưa ngắn đủ cho mình quen biết
và cho nhau một nỗi nhớ êm đềm

nhớ Sàigòn, những hàng cây bóng mát
ta chờ nhau vào những buổi tan trường
những chiếc lá bay trong chiều kỷ niệm
xuôi dòng đời như những sợi tơ vương

nhớ Saigòn, con đừờng qua Chợ Cũ
một đêm nào mình đã nắm tay nhau
trăng mười tám phía bờ sông rọi lại
ánh trăng khuya lấp lánh nụ hôn đầu

nhớ Saigòn một mình anh ngóng đợi
chuyến tàu đêm em trở lại sân ga
tàu đến chậm trong màn mưa buổi tối
mừng ôm nhau mưa, nước mắt nhạt nhoà

nhớ Saigòn ngày chia tay lặng lẽ
em trở về vàng võ ánh đèn khuya
đêm chôn dấu nỗi buồn anh để lại
bánh xe lăn qua vũng nhớ đầm đìa

nhớ Sàigòn, một nửa đời ở đó
bao yêu thương xin giữ lại cho mình
từng góc phố từng con đường năm cũ
vẫn từng ngày theo gót kẻ lênh đênh.

Mạc Phương Đình

Lương Thư Trung

Lương Thư Trung

Thơ Lâm Hảo Dũng,
Ngọn gió-nồm-nam thổi cuối trời…

Nhắc tới thơ văn vùng sông nước Hậu Giang, không thể không nhắc đến nhà thơ Lâm Hảo Dũng, có lúc anh còn ký bút hiệu Mây Viễ n Xứ (1). Lâm Hảo Dũng bắt đầu làm thơ từ thời còn đi học tại trường trung học Hoàng Diệu (Sốc Trăng) và sau này khi vào đời, anh tiếp tục làm thơ viết văn cùng thời với các lớp văn nghệ sĩ như Trần Phù Thế, Lưu Vân, Triều Uyên Phương, Trầm Mặc Nghệ Thế và rồi Phù Sa Lộc, Nguyễn Bạch Dương, Ngô Nguyên Nghiễm, Hà Thúc Sinh, Lâm Chương, Tô Đình Sự, Trần Hoài Thư… Tác phẩm đã xuất bản: Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà (thơ), Đi Giữa Thời Tan Nát (thơ), Tóc Em Dài Em Cài Bông Hoa Lý (thơ)

Lâm Hảo Dũng quê làng Bố Thảo, Sốc Trăng. Nói về quê Bố Thảo của anh, tác giả cho biết:”Quê Bố Thảo của tôi cũng bình dị như bao làng quê khác, người dân sống bằng nghề ruộng rẫy, không có nét dặc biệt như ở Kế Sách nổi tiếng về cây trái, Phú Tâm có bánh pía, mè lau … Năm 19 tuổi tôi dã rời xa quê, đi học, đi làm và đi lính. Châu Đốc đối với tôi mới thật sự là có nhiều kỷ niệm, cảnh núi sông, bạn bè văn nghệ như Ngô Nguyên Nghiễm, Lưu Như Thủy, Nguyễn Thanh Xuân, Trấn Biên Thùy, Cao Thoại Châu (di lính, gặp ở Pleiku)”.
Thiệt tình ra, cái nét bình dị của làng Bố Thảo cũng là cái nét tiêu biểu của bao làng mạc miền Tây Nam nước Việt. Cũng năm ba bụi tre làng, cũng hàng bần dưới mé sông; cũng bao mái nhà lá đơn sơ, cũng gốc cà gốc ớt, cũng dưa leo đậu đũa, hàng cau, vườn trầu, đống rơm, bông so đũa, cọng rau om, rau thơm, bông điên điển, mương lạch, đìa bàu… Tất thảy đều nói lên cái nét đơn sơ mà thân thiết với đời sống người dân nơi sông nước miền Tây Nam này . Xin mời bạn cùng tôi ghé lại thăm căn nhà của thi sĩ qua bài thơ “Nhà tôi”

“Ơi những ngày xưa dưới mái nhà
Mẹ ngồi lựa thóc ngắm mây xa
Những lo mưa sớm bên đồng nội
Làm mất màu tươi mấy gốc cà

Xanh ngắt một màu bên liếp rẫy
Giàn dưa leo sớm bỏ vòi cong
Còn ghen đậu đũa vừa đơm trái
Hay lũ rau thơm đám cúc tần

Có mấy hàng cau nhỏ thế thôi
Mẹ thường nhắc nhở những khi vui
Một mai đám cưới không lo thiếu
Trầu tốt cau ngon thuốc đượm mùi

Đây đống rơm khô dưới gốc gòn
(Là nơi tôi rải mộng lang thang)
Chờ em từ thuở con trăng tối
Cho đến trăng đầy em mới sang

Thèm quá nồi canh chua cá lóc
Chút bông so đũa cọng rau om
Ai lên phố thị mà không nhớ?
Mùi vị dưa nồng điên điển thơm

Mười mấy năm rồi đi biệt xứ
Nhà tôi còn đó mẹ tôi không?
Nghe thương những cánh chim tu hú
Mãi gọi bên sông điệp khúc buồn.”

Ngôi nhà của Lâm Hảo Dũng chỉ chừng ấy nét bình dị quen thân mà khắn khít biết bao! Dường như ai đã từng sanh ra và lớn lên nơi các làng quê đều nghe như mái nhà của tác giả cũng chính là mái nhà yêu dấu của chính mình. Bức tranh quê nơi sông nước miền Tây còn được Lâm Hảo Dũng làm đầy thêm bằng những tâm cảm thiết tha qua nỗi lòng của một đứa con xa quê nhớ về mẹ già qua bài thơ “Về với má” trong thi tập “Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà”. Ở đó, chúng ta bắt gặp lại dòng sông Hậu với nắng, mà lại là “nắng lưa thưa” mới tuyệt diệu. Bạn có nhớ ra “nắng lưa thưa” là nắng gì không? Xin thưa cùng bạn “nắng lưa thưa”là nắng vào lúc gió nồm nam thổi qua có mang theo hơi nước từ vùng biển Rạch Giá, Cà Mau làm mây đen như báo hiệu trời muốn chuyển mưa ; và những vạt mây đen ấy kéo qua che khuất ánh sáng mặt trời làm cho bầu trời đang nắng bổng dịu mát lại; khi mây bay qua khỏi, bầu trời lại chan hòa ánh nắng…Chỗ này, chỗ kia lác đác những vạt mây đen như vậy làm cho nắng cũng lưa thưa man mác cả một vùng; tức là khi thì nắng, khi mát, cứ thay nhau liên tiếp đến khi trời quang mây tạnh. Rồi tác giả còn dẫn ta về thăm lại cây dừa lão, thăm lại mùa lúa chín, thăm lại mấy gốc bần, giàn mướp khía, cây bình bát, dây me đất, đám ô rô, đám mái dầm, mùi thơm cúc tần cùng hương thơm loài rau có tên sao nháy, cùng vị chua của mớ lá vang…, hết thảy những hình ảnh và hương vị đồng quê ấy càng làm nỗi nhớ của người con xa quê chập chùng thêm biết bao…:

“Con cũng muốn về thăm lại má
Thăm dòng sông Hậu nắng lưa thưa
Có cây dừa lão thân gầy qúa
Đứng khóc theo mùa con nước đưa
Thấy nhớ làm sao mùa lúa chín
Má ngồi khâu áo ở đầu sân
Thương thằng hai đã nằm trong đất
Thằng Út mơ màng tính vượt biên
Con gởi buồn theo mấy gốc bần
Mấy giàn mướp khía mới đơm bông
Mấy dây bình bát dây me đất
Và đám ô rô lũ mái dầm
Má biết con yêu thích cúc tần
Cái hương sao nháy rất thanh tân
Từ khi con bỏ quên đời lính
Lòng chết còn thương những lá vang”

Còn nữa, nào là kinh xáng múc, rồi có cả tiếng chim bìm bịp kêu mỗi lần nước lớn, cùng tiếng chim tu hú gọi Tết về nơi những bụi tre sau nhà cứ vang vang bên tai mỗi ngày nhưng nay không còn nghe lại nữa càng làm vấn vương hoài trong tâm tưởng của tác giả qua lời trách móc nhẹ mà đau như cắt ruột:

“Ai cắt lià chi từng núm ruột
Mà kinh xáng múc cạn khô dòng
Mà chim bìm bịp chim tu hú
Cũng trốn bay về chốn biển đông.”
(Về với má)

Đời sống người dân quê nơi các làng mạc miền Nam chỉ mơ xã hội yên bình để làm một người dân bình thường hầu lo cày bừa cắt gặt kiếm sống qua ngày; nhưng ước mơ bình dị ấy nhiều lúc thời cuộc biến đổi, xã hội loạn lạc, đâu phải ai cũng sống an cư lạc nghiệp được với ruộng vườn của mình. Chính vì thế, trong dân gian có thêm hạng “phó thường dân”, tức là hạng người thấp kém, chưa được là người dân bình thường như mọi người, nên họ là hạng người không bằng ai ngay tong làng quê của mình, nói gì đến các nơi chợ búa phố phường! Tuy vậy, Lâm Hảo Dũng lại “chỉ muốn làm phó thường dân” thôi, mà lại là “phó thường dân Nam bộ”mới là đúng mực Nam Kỳ, tức cũng là một phó thường dân như mọi phó thường dân nhưng rất chịu chơi, không ngán ngại điều gì. Mời bạn nghe tác giả tả nỗi lòng của mình qua niềm mơ ước làm một người dân quê quèn ấy:

“Phó thường dân tà tà đi bát phố
Ngắm quần loa ống túm áo chim cò
Ngắm tóc dài của tiểu muội tiểu thơ
Đâu cần biết ngày mai mưa hay nắng
( Phó thường dân dường như lười biếng tắm)
Đi giữa đồng thèm hát khúc hoài lang
Áo bà ba ai xanh tím đen vàng
Chàng yêu hết nên đem về nhốt kín
Phó thường dân thích giăng câu đặt trúm
Thích lai rai nghe gío mới se buồn
Ngủ dật dờ bên xáng múc chiều hôm
Đời trôi chậm hay nhanh chàng bỏ mặc”

(Tôi Chỉ Muốn Làm Phó Thường Dân Nam Bộ)

Nhưng rồi Lâm Hảo Dũng cũng đành trách than cùng số phận của kẻ xa quê biền biệt mấy mươi năm:

“Phó thường dân mấy mươi năm biệt xác
Bỏ đồng không hiu quạnh gái quê hiền
Bỏ mất hồn thương mãi tiếng chim quyên
Là vĩnh biệt đất nồng thơm sửa mẹ

(Tôi Chỉ Muốn Làm Phó Thường Dân Nam Bộ)

Nỗi thất vọng về một mơ ước đơn giản ấy không thành lại chính là nỗi thất vọng lớn vô cùng, nếu không muốn nói là nhiều lúc nhà thơ của chúng ta tuyệt vọng đến kinh hoàng… Nỗi tuyệt vọng không làm được “phó thường dân Nam Bộ” đó cứ mãi làm cho tác giả càng thấy nhớ mây, nhớ trăng, nhớ con đường làng quê đến não nùng:

“Tôi có cuồng chưa có hóa điên
Khi nhìn mây trắng nóc trời xanh
Con trăng đất khách mà như ngỡ
Đi giữa làng quê của Việt Nam”
(Tên Lữ Hành Phương Đông”

Để rồi thi nhân thả hồn mình hồ nhập cùng hồn quê qua những ngày thân ái cũ:

“Tôi vẫn thèm nghe mắt để trông
Cái hồn cây cỏ thở mênh mông
Những hàng ổi dại bầy chim sẻ
Xô nát rừng phong rực sắc hồng

Những chiếc đầm bay kênh kiệu quá!
Đâu vải quê nghèo áo của tôi
Ai trong buổi tiệc mà không nhớ
Màu cá đồng xanh lục tỉnh ơi!”
(Tên Lữ Hành Phương Đông)

Có thể nói Lâm Hảo Dũng dù ở bất cứ nơi đâu hồn anh cứ mênh mang về một nỗi nhớ quê nhà. Như lời kể của tác giả, một trong những địa danh làm nên nỗi nhớ của nhà thơ là Châu Đốc, một tỉnh lỵ vùng biên giới Việt-Miên một thời lúc tuổi thanh xuân dạt dào nhựa sống anh đã dừng chân và để lại hồn mình miên man trôi theo dòng nước mát với những mùa trăng trên bến nước Cửu Long và nay vẫn còn đọng lại trong trái tim người thì sĩ đầy lãng mạn qua những dòng thơ vừa tình tứ mà ngọt ngào, vừa êm đềm mà tha thiết biết bao với dòng sông, ngọn núi, ánh trăng cùng người yêu bé nhỏ một thời dù nay đã lâu quá rồi và cũng xa quá rồi một thời nhiều nhựa sống ấy … :

“em khóc dòng sông khóc nước sông
ta đi sầu ngát tận trong lòng
nhớ trăng đầu núi trăng đông nội
và những mùa trăng sông Cửu Long

em ở bên kia trời cách biệt
mắt buồn vây kín núi Sam xa
ta như lữ khách không nhà cửa
ngủ đậu trên chùa mỗi tháng ba

em khóc dòng sông đó phải không
ngàn năm vẫn nhớ má em hồng
vẫn yêu đường đá miền Châu Phú
những chuyến đò đêm nước ngược dòng

bởi ta lười biếng làm sao thấy
em đẹp như là hoa hướng dương
vu vơ em hát hay ta hát
mà tóc tung bay rất ngập ngừng

em khóc dòng sông đó phải không
đêm mơ về thấy chín con rồng
vẫy đuôi trên nóc Tây An Tự
đón hội Long Hoa một tối rằm”

(Bài thơ gợi nhớ về Châu Đốc)
Dĩ nhiên rồi, Lâm Hảo Dũng làm sao quên được những bạn bè ngày cũ của anh nữa qua bốn câu kết bài thơ với nỗi lòng chân thành cùng bằng hữu thật tha thiết:

“ta nhớ một đời riêng để nhớ
những mùa trăng cũ bạn hiền xưa
Cồn Tiên bên quán ngồi châm thuôc
rượu ngất ngây hồn vị tiễn đưa”

(Bài gợi nhớ về Châu Đốc)

Nhớ về Châu Đốc là thế, ở đó có nét đẹp riêng của một tỉnh lẻ miền Tây Nam Nam phần mà ai đã có ghé qua và ở lại đó rồi mới thấy được cái nơi tưởng chừng như quạnh quẽ đìu hiu ấy vậy mà rồi khi rời xa hồn vẫn bâng khuâng lưu luyến mãi hoài …

Lâm Hảo Dũng là một chàng trai lớn lên giữa thời chiến, cũng như anh, những chàng trai thời ấy không chọn cho mình cái nghề đánh giặc thế mà rồi cũng phải lên đường ra trận. Có bận anh về qua Năm Căn, Cà Mau với dòng sông Trẹm như một kỷ niệm khó quên dù nay không còn chiến tranh như bao mùa binh biến cũ với lời thơ vừa như tâm tình vừa như trách móc:

sontrem

“Ấy dòng sông Trẹm tôi quen
Nắng cao để lắng vị phèn đỏ hoe
Người đi đâu biết sang hè
Chỉ nghe quanh quẩn tiếng ve gọi sầu
Em khăn tắm quấn ngang đầu
Nhìn tôi con mắt bạn thù ai hay?

Ấy dòng sông Trẹm xưa nay
Còn thương cây mắm rễ cài trên không
Lênh đênh em một chiếc xuồng
Ðời tôi lính trận cỏ bồng chân mây
Xa nhà mượn chén rượu cay
Khóc khi mai biết tuổi đầy buồn lên

Ấy dòng sông Trẹm tôi quen
Nhà ai đã vội đốt đèn đêm nay
Dầu mù u ngọn lắt lay
Em nơi âm phủ khói bay tìm về
Hận người con muỗi vo ve
Nằm trong cuộc chiến bạn bè giết nhau

Ấy dòng sông Trẹm trôi mau
Nước đi nhắc lại cái màu thời gian
Nhớ hồi ở miệt Năm Căn
Rải quân mấy cụm đóng đồn giữ dân
Mùa khô con cá thưa dần
Tôi xui xẻo biết em làm giao liên
Ấy dòng sông Trẹm tôi điên
Thề không trở lại đi thuyền năm xưa.”

(Ấy dòng sông Trẹm tôi quen)

Là một người lính, Lâm Hảo Dũng nay đóng quân ở nơi này mai nơi khác như một kẻ giang hồ phiêu bạt. Rời Nam Căn miệt U Minh, nhà thơ và người lính Lâm Hảo Dũng lại ra trấn thủ vùng cao nguyên Pleiku, Kontum như một thách đố với con người vốn sanh ra và lớn lên từ miền châu thổ đồng bằng. Nhưng cũng chính nhờ vào những chuyến đi mang nhiều thay đổi ấy, tác giả đã cho người đọc có những câu thơ viết về vùng cao nguyên xa mù ấy thật dạt dào:

“Con đường ấy vẫn hoen màu bụi đỏ,
Gió lơ thơ nghe nắng mới ngập hồn.
Anh sống thở trong tâm hồn trai trẻ,
Nghe nỗi buồn đâu đó đến phân vân.

Hoa cúc dại thắm trên đường xa tắp,
Và quê hương tha thướt lá xanh trà.
Em có thả những chòm mây nhung nhớ,
Cho rừng hoang im vắng tiếng chim ca.

Đời viễn khách mơ hồ không biết được,
Bước chân vang rộn rã buổi quay về.
Em mắt biếc hồn nhiên bên cánh cửa,
Gửi hư ơng nồng quay quắt bóng người đi .”
(Chiều hàm Rồng)

Ngày nay dù qua đi hơn 35 năm, nhưng đọc lại những câu thơ Lâm Hảo Dũng viết về vùng ba biên giới với những địa danh một thời ngập tràn khói lửa, lòng tôi sao thấy nao nao về một nỗi hiểm nguy ghê rợn của ngày nào … Những địa danh như núi Phượng Hoàng, Pleiku, KonTum, Tân Cảnh, Daksut, Dakpet, Ngok Long, Poko, Konko, Dakbla, Đường 14, và nhiều địa danh khác là những dấu binh lửa một thời khó phôi pha trong lòng người lính và nhà thơ Lâm Hảo Dũng. Xin mời bạn đi vào một vài chứng tích ấy qua một vài câu thơ của tác giả:
“Một mai về lại tam biên đó
Hãy ngắm Poko núi Phương Hoàng
Thấy tao như một vầng trăng nhỏ
Ngủ dưới chân rừng đêm tối đen”

(Một mai về lại tam biên đó)

Và trong “Tân Cảnh hồn tôi”, Lâm Hảo Dũng cho người đọc thấy được khói lửa chiến tranh đang ngùn ngụt cháy ở nơi vùng núi đồi cao nguyên với núi rừng bao la ấy và lúc nào cũng ngan ngát cái dũng khí của một người lính trận nhớ núi nhớ rừng:

“Từ dạo tôi rời thị trấn núi
Bỏ con đường dốc nắng lưa thưa
Bỏ chùa hiu quạnh hàng thông đứng
Bỏ giáo đường im bóng xác xơ
Những trưa quán cốc nhìn mưa xám
Còn thấy mây mù đỉnh Ngok Long
Giặc cắt đường về trên Daksut
Hỏi đồn Dakpet lạnh lùng không?
Ai lên Trí lễ mùa cam chín?
Ngắm hộ dùm tôi cảnh Phượng Hoàng
Địch chở đạn bom về gởi bán
Nên trong mùa gặt ngút điêu tàn
Quê hương buồn gởi theo biên giới
Những lá rừng xanh mới của tôi
Hãy ngang tàng lớn đừng kinh khiếp
Cho đất miền cao đẹp núi đồi”

Mặc dù trên những mặt trận mà người lính thi sĩ ấy đi qua đầy những vết tích chiến tranh với biết bao gian nguy, thế nhưng khi biết mình sắp đổi về đồng bằng, Lâm Hảo Dũng thấy nhớ lại những ngày lãng mạn một thời qua bốn câu kết trong bài “Pleiku Sầu Gởi Lại”

“Đời lính trận trên cây cầu sống chết
May còn em làm ấm chút vui lây
Rời bỏ núi tôi sắp về châu thổ
Lửa buồn ơi đem hỏa táng tôi đây”

Nhưng có lẽ hình ảnh chiến tranh rõ nét nhất nơi con đường 14 với mùa Hè Đỏ Lửa năm nào :

“Ai biết con đường loang máu đổ
Những hồn lưu lạc dưới Poncho
Những hồn vất vưởng bên bờ suối
Đi hái hoa xuân mọc dưới mồ
Ta bỗng cười khan đùa chiến trận
Bình Tây chưa chết vẫn còn đây
Hạ Lào đi suốt vùng biên giới
Nhìn Ngok Tu Ba xác ngập đầy
Hè nay ta lại trên đầu súng
Chợt xót xa cho khách chiến bào
Đang đốt đời trong cao điểm đó
(Bao giờ thấy lại ngọn Chư Pao?)

(Đường số 14)

Và viết về mùa hè năm 1972 đã qua rồi ấy, Lâm Hảo Dũng có một bài thơ khó làm cho người đọc bỏ qua được với mấy câu thơ mà mỗi lần đọc lại tôi vẫn nghe lòng mình buồn vô hạn…:

“Khi em bỏ Pleiku về với biển
Một ngày vui tôi kiếm cũng không ra
Nắng tháng năm nóng theo màu cuộc chiến
Tôi lên rừng săn đuổi đám mây xa
Đồi Lam Sơn để ngóng về Tân Cảnh
Dakto ơi !tôi tạm biệt bao giờ
Rồi soát điểm rồi nằm quanh Trung Tín
Rồi hoa đời chưa nở đã tuơi khô
Cho tôi thấy một mùa hè đỏ sắc
Đẹp não nùng trong từng gốc gai thơm
Và trên những chỗ ngồi ươn ướt đất
Bằng hữu tôi vừa trút thở linh hồn”
(Đã qua rồi một mùa hè) (1972)

Theo nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, “Lâm Hảo Dũng có hai câu thơ đọc nghe nhức nhối, như luồng điện dí vào da thịt. “Chư Pao ai oán hờn trong gió.
Mỗi một khăn tang một tấc đường. ”
Câu thơ của những ngày hè đỏ lửa 1972, khi chốt Chư Pao của Bắc quân cắt ngang đường tiếp tế cho Kontum đã biết bao nhiêu chiến sĩ hai bên hy sinh và biết bao nhiêu tấn bom đạn đã đổ trên mỏm núi.”(2)

Lâm Hảo Dũng còn nhiều lắm những bài thơ viết về chiến tranh như vậy, nên làm người đọc có cảm tưởng anh đang viết bút ký chiến tranh bằng thơ. Nhưng có lẽ cũng ghi nhận thêm một điều này nữa là ngoài những nỗi nhớ mang mang về chốn cũ kể cả nơi làng quê vùng đồng bằng và các vùng chiến địa cao nguyên một thời mà anh đã xông pha nơi các trận mạc ấy, Lâm Hảo Dũng khi chợt nhận ra mặt trận nào rồi có ngày sẽ êm tiếng súng, chiến tranh nào rồi cũng kết thúc một thời kỳ và người lính trẻ năm nào rồi cũng phải giã từ vũ khí với màu thời gian phảng phất trên mái tóc điểm sương khi tuổi đời thấp thoáng ở ngưỡng cửa năm mươi, cái tuổi mà người xưa gọi là “Ngủ thập tri thiên mệnh”, và rồi tác giả có bài thơ “Cho tôi hoài ở tuổi năm mươi”. Chắc có lẽ bài thơ này tác giả làm khi anh vào độ tuổi năm mươi ấy, nay thì đã qua rồi cái thủa “năm mươi” rồi mà sao nghe như vẫn tha thiết lắm về một ước vọng xa xăm …

Cho tôi hoài ở tuổi năm mươi
Để tôi thấy tôi còn xuân sắc
Mây vẫn chở khoảng trời xanh ngan ngát
Tôi sợ rồi ai gọi tiếng buồn ôi

Tôi cô đơn ôm bóng tối cuộc đời
Tôi kinh khiếp đếm thời gian lặng lẽ
Tôi còn trẻ nghìn năm tôi vẫn trẻ
Đừng mang tôi rời bỏ tuổi năm mươi
Đêm quạnh quẽ tưởng chừng như lắng đọng
Tiếng tôi rên từng nhịp thở rung đều
Tôi cứ chờ triệu ngàn năm ánh sáng
Một bóng hình tôi ghét gọi người yêu

Cho tôi hoài ở tuổi năm mươi
Tôi thấy có thiên đường và địa ngục
Tôi bật cười đâu hay tôi sắp khóc
Tình yêu ơi tôi chối bỏ lâu rồi”

Dĩ nhiên rồi, làm sao ở mãi tuổi năm mươi, làm sao níu lại được thời gian, phải không thưa anh? :

“Thế là tôi lừa dối chính tôi thôi
Thế là tôi chôn sống trái tim người”
(Cho tơi hồi ở tuổi năm mươi)

Vốn thi sĩ là những nghệ sĩ với một tâm hồn lãng mạn vơ bờ và tâm hồn Lâm Hảo Dũng cũng bềnh bồng trong sơng nước giĩ trăng lãng mạn ấy . Với bài thơ “Tôi Vẫn Biết Em Buồn Bên Mái Lá”, là một trong những vần thơ chan chứa cái chất lãng mạn ấy:

“Tôi vẫn biết em buồn bên mái lá
Hàng bụp thưa đôi búp nhú ơ hờ
Đất xa trời bao năm mà đất nhớ
Những ngày giông đêm tối hẹn hò mưa”

Nhưng điều tôi muốn ghi nhận nơi đây là cái chất quê nhà ở trong thơ Lâm Hảo Dũng nó bền bỉ biết dường nào ! Khi bạn nghe ra những chữ như “thương hàng cau ngan ngát”, “em hãy cắn giùm tôi vài quả ổi”, “chùm mận tươi khi gió chuyển mùa sang”, “Nhớ đầu doi cuối vịnh”, “mái chèo”… là bạn sẽ cảm nhận nơi thơ Lâm Hảo Dũng dù có trải qua bao năm tháng dài bao lâu đi chăng nữa và tuổi đời dù có không được “ở hoài tuổi năm mươi” đi nữa, thơ anh vẫn thênh thang một trời quê nhà yêu dấu ấy :

“Em có mắt của một đời xa xứ
Thương hàng cau ngan ngát mấy chân vườn
Thương chết được nhưng bao giờ thấy lại
Bóng hình tôi về ngủ giữa hồn em
Tiếng chim hót sao nghe buồn qúa đổi
Bởi ngày qua nắng tắt sợi thu vàng
Em hãy cắn giùm tôi vài qủa ổi
Chùm mận tươi khi gío chuyển mùa sang
Tôi vẫn biết em buồn bên mái lá
Hỏi giòng sông đưa nước đến bao giờ?
Sông xa nguồn chắc sông sầu muốn khóc
Nhớ đầu doi cuối vịnh mái chèo khua
Đâu chỗ vá trên áo người cô phụ
Một thời xưa duyên dáng cuốn qua rồi
Nghe đứt ruột tưởng chừng trong đáy cốc”
(Tôi vẫn biết em buồn bên mái lá)

Tóm lại, theo thiển ý của tôi, cho dù có phải trải qua những mùa chinh chiến cũ, cho dù có phải lang bạt kỳ hồ ở bất cứ gốc biển chân trời nào, hồn thơ của Lâm Hảo Dũng chính là ngọn gió nồm nam vùng Bố Thảo (Sốc Trăng) mãi hoài mang hương đồng cỏ nội vùng sông nước Hậu Giang thổi mãi tận cuối trời … Chính vì thơ anh là ngọn gió nồm nam vùng Bố Thảo ấy nên cái nét đặc sắc của nó là mát và ngọt. Cái mát của gió và cái ngọt của sông nước Hậu Giang, của những mảnh vườn ngào ngạt hương hoa, của những cánh đồng lúa vàng bông trĩu ngọn làm thành những câu thơ chuyên chở được cái hương nội cỏ đồng dù quê mùa đó nhưng êm đềm; dù nghèo khó đó mà thơm tho, thanh bạch; dù giản dị đó mà thâm thuý vô cùng. Cái nét đặc thù ở thơ Lâm Hảo Dũng là do cái tinh chất của gió, của nước, của ruộng rẫy, của vườn quê làm nên những câu thơ mang phong cách rất riêng và rất trữ tình của vùng châu thổ miền Tây Nam nước Việt vậy !

Phụ chú:
(1) “Trần Phong Giao và những người viết trẻ” của Trần Hoài Thư, trên mục “Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn Hữu” trang VOA, ngày 03-11-2010
(2)Bài “Giới thiệu thơ Lâm Hảo Dũng” của Nguyễn Mạnh Trinh, trang báo Người Việt Boston, ngày 28-2-2009

Lá Thư Văn Nghệ
Gởi Nhà Thơ Cái Trọng Ty

Mến chào anh Cái Trọng Ty,
Dù cùng nơi cư ngụ với anh ở Houston cách nay cũng vài ba năm, dù cùng có dịp cụng ly với anh vài ly rượu ấm hôm nào, dù cùng ngồi nhiều buổi cà phê Nguyễn Ngọ với anh trong những dịp cuối tuần, nhưng tôi chưa lần nào nghe anh kể về những bài thơ anh viết, những gian truân trong mỗi bước chân đời, những trăn trở về những thời khốn khó mà anh đã có những ngày phải để hết tâm tư mình cố vượt qua nó! Anh thì điềm đạm, khiêm nhường, thích lắng nghe với nụ cười hiền, ít nói, càng làm cho người quen biết quanh anh càng khó nhận ra ở anh có một đời sống tâm hồn vô cùng phong phú qua gần năm mươi bài thơ mà tôi vừa tình cờ đọc được qua một trang nhà…

Thật thế, thưa anh. Với tuổi trẻ, anh đã có một thời khoác chiến y với súng trên vai đi vào miền gió cát bụi mù… Và những ngày tuổi đôi mươi ấy có lần anh đã ghi lại vào một buổi chiều trên bải biển Tuy Hòa (Phú Yên) với “cuộc rượu bốn người”:

“năm ấy ra trường về phố biển
trời Tuy Hòa màu áo trận buồn hiu
bờ cát vắng dấu giày saut sóng xóa
quán bên đường nhìn xuống biển mù khơi”

(Cuộc rượu tay tư)(*)

Thế rồi, theo dấu binh lửa, ba người bạn của anh từ chiến trường Kontum xuôi về miền duyên hải cùng vui trong “cuộc rượu” ấy nay đã tản lạc hết rồi, để anh ngậm ngùi ngồi ghi lại cái bi thảm của một thời chinh chiến cũ:

“soi mình một bóng trên đồi đá
ngọn nến võ vàng áo trận phai
màu nắng chiều vàng màu thuở đó
quán nhậu ngày mưa tìm ở đâu
ta về như nắng về xa lạ
thấy cả chiều xưa cuộc rượu tàn.”

(Cuộc rượu tay tư)

Rồi đời lính chiến ấy như mãi hoài làm anh nhớ lại những buổi di hành, những chiều dừng quân, những lúc hiểm nguy, những lần thoát chết trong đường tơ kẻ tóc… Nỗi nhớ ấy mang trong anh biết bao địa danh trải dài suốt dãy đất miền Trung khô cằn qua từng nhịp thở của một người lính trẻ… Hết làng ven biển Lương Sơn với hàng dừa vi vu trong gió chiều của Nha Trang ngày nào rồi quay về Phan Rí Cửa, Tuy Phong của Phan Thiết với gạo trắng hạt dài ngon cơm ngày mùa mới gặt; rồi lại ngược lên Sông Pha bên này chân đèo Ngoạn Mục với núi rừng cao nguyên chớn chở, nhìn về phía bên kia đèo cao vòi vọi, khách lữ hành nhìn thấy quận lỵ Đơn Dương của Đà Lạt nằm ẩn mình dưới chân đèo bao bọc bởi gió thông reo; và anh lại phải trở xuống miền xuôi để xuôi về Nam qua Mường Mán (Phan Thiết) vào những ngày binh lửa sắp tàn với sân ga một thời hiu hắt…

“Lương Sơn xa lắc đồi rỉ máu
ta ngựa cuồng quay quắt chiến trường xưa
đồng đội cũ đâu lưng từ nổi chết
suy gẫm đời chung thân thế phiêu du”

(…)

“rừng âm u còn vọng tiếng quân đi
khuya Mường Mán
đường qua Ga hiu hắt
đơn vị tàn
sông núi cũng tàn theo…”

(Tháng tư bẻ súng)

Thế nhưng người lính chiến ấy với tâm hồn lãng mạn của một thi sĩ anh không quên ghi lại những mối tình qua mỗi chặng dừng quân trên đường ra trận:

“quê em tận đồng sâu heo hút
lúa ngoài đồng lép hạt gió Lào khô
buổi sáng di quân quay quắt em nhìn
sau tay áo có lệ nhòa giấu kín
trong bụi mù tôi thấy bóng em trôi…”

(Tình em rau đắng)(*)

Và rồi, với những niềm riêng thổn thức trong lòng khi cảnh vật chung quanh tiêu điều, hoang phế làm anh chợt nhớ lại quê mình:

“đời rong ruổi rừng thâm u muỗi vắt
chút nước sình gạn lọc nấu nồi canh
những gói cơm khô nhai hoài nhạt thếch
thèm bát canh chua. mẹ nấu chiều xưa

tình tôi một cánh chim trôi dạt
đáy ba lô mệt nhọc những âu lo
chân bước xuống thuyền lính thú lên ngàn
nghe vượn hú nhớ vườn quê da diết

giữa đêm trăng non bãi gò hoang dã
lửa ma trơi nhòe nhoẹt gió đồng không
ngày lưới đạn đêm trói mù hỏa pháo
biết bao giờ em hỡi chút tình quê.”

(Tình em rau đắng)

Nhớ quê, nhớ Mẹ, và rồi người lính Cái Trọng Ty ấy lại nhớ bạn, nhớ đồng đội một thời nay đã ra người thiên cổ từ độ nào:

“đầm hoang chạy mãi về phương bắc
đơn vị hành quân trục lộ Tuy An
chi khu cằn cỏi kề núi đá
thôn xóm đìu hiu đất triệt người
đường vắng chiều lên dốc Đại Hàn
trường sơn xa hút ngày sắp hết
nương rẫy nhà ai khói thở ra

đất sầu lạnh lẽo mờ hốc đá
quanh quẩn đồng chiều địch bắn nheo”
…..

“ngày đó đơn vị về Củng Sơn
Củng Sơn khí độc da xanh mét
bốn hướng trời tru
đất diệt người
bên kia Trường Sơn cọp gầm rú
chàng bơ vơ giữa núi rừng già
một tối qua đèo địch phục kích
xác nằm phơi suối độc sông sâu
chàng không về lại Nha Trang cũ
biển chiều nay đỏ quạch máu người
mẹ già xa như khói trà hôm sớm
con của mẹ vùi thây nơi xó rừng…”

(Qua đầm Thị Nại)
[*Tưởng niệm Trung Úy Phước.Bạn tôi]

Thưa anh,

Theo dấu chân anh, tôi cũng nhận ra trong từng địa danh anh dừng lại dường như nơi nào anh cũng để lại chút tương tư. Chẳng hạn như anh về Sông Mao, Chợ Lầu, Phan Rí thuộc vùng Phan Thiết, anh cũng có “những đêm trăng hoang dại” để thấy đời “bạc bẽo” mà nhớ hoài, nhớ mãi tới tận bây giờ…

“về sông mao
về chợ lầu phan rí
phòng tuyến dài từ dạo ấy sang xuân
sân ga vắng phố chàm trăng hoang dại
tháp hời khuya chìm vô vọng trăm năm
đồi sương đọng dấu giày mờ cỏ lát
trảng lưa thưa mưa xóa bãi mìn chông”
….

“đêm hôm ấy trăng khuya đồi bát ngát
tôi theo trăng về muộn trước sân ga
nghe xa vắng còi tàu qua phố chợ
thân xác bọt bèo sống chết như chơi
dòng sông đục nước trôi mù mịt sóng
cuồn cuộn tai ương
đời bạc bẽo vô cùng

(Đêm trăng hoang dại)

Trong những ngày lang bạt theo những dấu chân di hành qua khắp các vùng đất khô cằn ấy, người lính-làm thơ ấy ngồi nghĩ lại phận mình cùng thân phận tuổi trẻ của những người cùng thế hệ anh mà đành buông tiếng thở dài “thiên địa bất nhân”, một lời trách mà cũng là một lời ta than đất trời, với tôi, nghĩ cho cùng lời than trách ấy không lấy gì làm quá đáng:

“dòng sinh tử dường như đùn ải bắc
cõi nhân quần chuyển động bến lao xao
tôi bơ vơ buổi chiều vàng chướng khí
trên vách đời mờ tỏ dấu chân em
lòng thấm lạnh tôi quay về ấp ủ
đêm vỗ về từ cội rễ tâm linh

sao ngơ ngác khi đất trời chuyển dịch
cấy tinh trùng thai nghén cuộc nhân sinh
chí cùn sức kiệt dài mơ ước
bão tố vần xoay thiên địa bất nhân…”

(Thiên địa bất nhân)

Qua những lời trách móc vừa qua, hình như anhmuốn nhìn lại mình thêm một lần để cạn tỏ những suy tư về mình, về tha nhân, về thân phận con người chẳng khác nào một chu kỳ giữa đến và đi qua những làn sóng nhấp nhô vổ vào chân cầu chơi vơi giữa dòng nước mùa nào cũng chảy xiết:

“như một lần tôi qua cầu độ nhật
dưới sông sâu nước chảy luân hồi
chỉ thấy tôi trôi
cùng mây về với biển…”
….
“sóng nước vô hồi
chẳng thấy biển về đâu
khúc dạo đầu bên kia cầu phổ độ
mưa hạc vàng thẩm thấu những đời xa…”

(Sóng nước luân hồi)

Với dòng nước trôi ngang qua cầu “phổ độ” không hề ngừng lại ấy, anh cũng phải nhận ra rằng sau những mùa chinh chiến tàn dường như cũng đồng nghĩa với những ngày tháng dài dằng dặc phải qua những trại tù Trà Bương, Xuân Phước không hẹn ngày về:

“tuyệt đường Kỳ Lộ lưu đày
kiếp tù thay vật kéo cày vỡ hoang
dấu chân mộ huyệt rũ tàn
xó rừng Xuân Phước gian nan nẽo về

xương tàn bóng ngã dài lê
vàng mai hú vọng Em về đêm mưa
vườn Uyên phương ấy mùa xưa
nhớ người u ám nắng vừa khuất mây

tù qua đây đất loay hoay
nghe trong lao nhục lưỡi cày khổ đau…”

(Bên dòng Trà Bương)
Thế nhưng, trớ trêu thay, khi người lính được trở lại nhà thì anh cũng phải chứng kiến bao cảnh đời đổ nát của những người chung quanh trong đó có bạn bè mình mà nghe như “khúc tù ca” còn âm ỉ mãi mãi trong lòng:

“ra khỏi trại tù ngỡ ngàng hụt hẫng
quê hương lầm than đoạn đời cơ khổ
gặp lại mày một thời thân aó khố
những ân tình cũ thoáng bơ vơ…”

(Khúc tù ca)

Rồi nào là cha đau bại liệt, nào là vợ con nheo nhóc, rồi nào là một hôm người vợ lính ấy lại bỏ quê chồng về lại quê mình, Phan Thiết, thật chia cắt đoạn trường. Đứt ruột kẻ ở đã đành mà còn đau lòng người đi nữa! Quả thật hậu quả của chiến tranh thật bi thảm biết dường nào! Nhà thơ Cái Trọng Ty là người cùng quê với anh bạn một thời gốc Huế ởcố đô, anh thay bạn diễn tả lại nỗi lòng kẻ phải xa lìa vợ con giữa những ngày cam khổ ấy:

“Huế nắng Huế mưa nặng tình da diết
mày cô đơn chăn chiếu rộng một mình
bữa đói bữa no từng bữa mong manh
cha mẹ qua đời quê nhà tách biệt…”

(Khúc tù ca)

Thưa anh,

Qua những ngày chinh chiến, qua những năm tháng tù đày nhưng dường như với người lính làm thơ như anh không phải không có“một thời để nhớ”,phải không anh? Một thời để nhớ ấy của anh thấp thoáng qua những vần thơ của anh mà tôi vừa bắt gặp, nếu không lầm, có lẽ đó là:

“anh thoáng thấy môi em tròn buông xả
nơi nụ cười vô ngại
rót từ tâm…”
…..

“ngôn ngữ nào chuyên chở nụ hoa lành
tình cứ thế bềnh bồng thơm hạnh phúc

khi có em
ghé thăm ngày tháng mới
chốn không gian đi ngược với thời gian
những ước ao len lén chợt nồng nàn”
….

“đêm có muộn
trăng trôi hoài ra biển
mà ngày mai chỉ tội nhớ nhau thôi
mối tình đó lặng câm thăng hóa
ấp ủ kín bưng thuyền ngược sóng đời

phố phù hoa
đoá phong lan xa quá
cánh tay ngà mơ mộng gối đêm mưa
em đi qua đời anh tình khách lạ
đêm thu mình ôm kín mảnh tình riêng”

(Chỉ là mây sao)

Với“Chỉ là mây sao”vừa kể hay chỉ là mộng tưởng trong mối “tình vọng tưởng” sau đây của anh chắc cũng là những kỷ niệm một thời đáng nhớ ấy nữa của riêng anh?

“tình u mê làm loài chim bói cá
sóng đong đưa nghìn dặm kiếm tìm em

tình vọng tưởng chỉ là Hương nguyệt mật
dẫu hân hoan chỉ là chốn riêng mình
nơi eo gió hạnh phúc tròn túi mật
nơi cội nguồn cách biệt.móng tăm xa…”

(Tình vọng tưởng)

Rồi tôi lại bắt gặp ở anh một thời đáng nhớ nữa qua các vần thơ trong “Chuyến đò ba bến”, “Tháp hời trăng cổ lũy”, “Sợi nắng”, “ Màu thời gian”, “Bèo chơ vơ tiếng sóng”, “Có một mùa trăng xa như biển”, “ Thư tình trên cát” vân… vân… Mỗi mỗi câu thơ qua những bài thơ ấy đều chuyên chở những kỷ niệm một thời, dĩ nhiên trong những niềm nhớ tưởng ấy có nỗi buồn man mác như gió chiều nhẹ thổi qua vườn nhà cũ mà nghe ra xao xuyến biết dường nào!!! Nhưng bài thơ “Mẹ”mà tôi được đọc có lẽ là niềm thương nhớ trong anh vô bờ bến bởi lẽ trên cõi đời này không ai chiếm trọn trái tim mình bằng người sanh ra và nuôi nấng dưỡng dục mình từ lúc mới lọt lòng mẹ cho chí đến những ngày khôn lớn… Người con có hiếu ấy lại có một tâm hồn nghệ sĩ nữa thì tình thương mẹ tăng lên gấp bội phần qua những vần thơ chan chứa biết bao tình mẫu tử:

“đêm ấy giữa mịt mù sóng biển
con đã xuống thuyền
sinh tử đỏ đen
ngoãnh lại bờ xa
thấy lờ mờ phố nhỏ
Mẹ vẫn đứng ngồi dưới ngọn đèn khuya
thắp một nén nhang
trước bàn thờ Tiên Tổ
nguyện cầu cho con sóng nước bình yên…”
(…)

“đêm nay mưa ướt trong hơi thở
đêm đoạn đành
con phải vượt biên
thuyền đã biển khơi
giữa hai lằn ranh giới
con chỉ muốn quay về hơi ấm Mẹ thôi
nhớ thương mà quay quắt trong lòng
đời Mẹ ngày một héo hon
nỗi mất còn ngày một ngọn gió thu
thăm thẳm trong tim
ngọt ngào tiếng Mẹ
một đời con
con ve sầu chưa lột xác
nhặt nhạnh thu gom
những quá khứ hao mòn
tóc Mẹ ưu phiền thêm bạc trắng ra
như cánh buồm giạt gió mưa nhòa.”

(Mẹ)

Thưa anh,

Qua gần năm mươi bài thơ của anh mà tôi vừa đọc được, theo thiển ý của tôi, có thể đúc kết lại thành một chuỗi thời gian dài tạo thành một dòng sống liền mạch trong tâm hồn anh qua“những ngày lính chiến- những lúc tù đày và một thời để nhớ” với những bài thơ đa phần làm theo thể tự do mà như dòng nước từ trong núi thẳm của cõi lòng anh với chút lãng mạn của người nghệ sĩ nócứ rì rào tuôn chảy mãi hoài bất tận vậy! Dường như ở đó, thơ anh là tiếng nói của lòng anh đã đành mà nó còn cưu mang nỗi niềm của những người lính trẻ một thời với thế hệ của anh giữa những ngày mùa chinh chiến cũ nữa!

Như phần đầu lá thư tôi có nhận xét:“Anh thì điềm đạm, khiêm nhường, thích lắng nghe với nụ cười hiền, ít nói…” và có lẽ chính vì cái nét ít nói rất dễ mến ấy khi tôi tình cờ đọc được những suy tư của anh về chiến tranh, về cuộc đời, về những kỷ niệm một thời đáng nhớ với những trăn trở của người lính trẻ ngày nào cùng cách nhìn đời của một người già dặn của anh hôm nay càng làm cho tôi càng thêm thích thú biết bao!

Hôm nay qua rồi gần bốn mươi năm cuộc chiến đã tàn mà chừng như nỗi niềm người lính-làm thơ Cái Trọng Ty vẫn man-thiên nỗi nhớ thuở nào! Phải thế không, anh Cái Trọng Ty?

Mến chúc anh cùng gia đình luôn luôn bình an và hạnh phúc mãi mãi…
Thân mến,

Lương Thư Trung

Luân Hoán

Luan Hoan

Buồn Đầy
Mặt Trăng Tháng Tư

hôm nay mười bốn trời trong
đêm Montréal rộng thong dong mây nằm
trời xa mà ngó thật gần
ngỡ như tay vói đụng trần trời cao

tôi ngồi lặng lẽ đếm sao
nụ mờ nụ sáng đều thao thức buồn
nỗi buồn nhè nhẹ dễ thương
lẫn vào trong gió bay luồn đến tôi

từ ngày chưa được thôi nôi
tôi đã quen biết sao trời, vầng trăng
lên năm mẹ dạy hiểu rằng
có mặt chú Cuội chị Hằng ở trên

nhiều năm sau đêm đêm
tôi nằm mơ sẽ được lên trăng vàng
và thấy cây đa rõ ràng
chị Hằng chú Cuội lang thang đâu rồi ?

mẹ tôi dạy: muốn lên trời
ông Lê Thương bảo mượn đời cái thang
tôi chăm chỉ sống đàng hoàng
vui buồn sướng khổ thời gian đã giàu

cái-thang-đời, đâu có đâu
vậy mà tôi đã từ lâu nay trèo
lúc chầm chậm khi vèo vèo
tôi qua từng chặng giàu nghèo thế gian

không cách chi chạm trăng vàng
để rồi một bữa giận nàng Hằng Nga
đêm ấy trời đẹp lắm mà
chị Hằng tuột xuống nóc nhà chúng tôi

mươi giây sau chợt rụng rời
chị Hằng đón mẹ lên trời hồi mô
mẹ đi bỏ nụ ca dao
còn đang mớm dở tình vào hồn tôi

tình thương của mẹ chưa vơi
người chưa truyền hết nỡ rời chúng con
nhìn trăng đêm ấy bồn chồn
tháng tư đúng giữa ngày rằm Đản sinh

Phật hiền cũng chỉ làm thinh
nhìn tôi im lặng đứng bên giường người
hình như Phật còn mỉm cười
tòa sen đang đỡ Ngài ngồi sáng ra

tôi đã không dám khóc òa
cũng không lau giọt lệ sa xuống cằm
hiểu ra đời của thế nhân
mỗi người chừng mực chia phần đã lâu

lần đầu được hiểu niềm đau
lạc người yêu dấu rộng sâu thế nào
không bám thơ thẩn ca dao
lựng chựng đứng dậy đi vào nhà trong

ngâm ngấm buồn khắc vào lòng:
lạc thôi, không mất, mươi năm là cùng
mẹ đang ở trên không trung
tôi sẽ lên gặp khi cùng cuộc tôi

đúng năm mươi ba (53) năm rồi
con sẽ gặp mẹ mấy hồi mẹ ơi !
trăng rằm không sáng hết trời
chỉ lòng tôi giữ sáng ngời ánh trăng

hình như trăng mượn ánh đèn
trên bàn thờ mẹ cằn nhằn chi tôi:
-con hư không giữ được người
lành lặn nguyên vẹn như hồi mẹ sinh!

không gió, lửa nến lung linh
bất giác nước mắt vô tình chảy ra
mở cửa tôi rời khỏi nhà
vợ tôi đang cúng bà gia chưa từng…

chạy hoài không có chỗ dừng
tôi quay về đứng sau lưng vợ hiền
tủ thờ thiếu đủ gia tiên
cười thầm thằng bé điên điên thế nào

tôi đâu hiểu tôi ra sao

Chiêm Bao
Giữa Siêu Thị

vào shop lười biếng tháp tùng
vợ hiền dắt cháu truy lùng đồ “vente”
tạm thời làm Hồng Thất Công
“cầm gậy đánh chó” nhìn mông thả giàn

ngỡ vừa gia nhập Cái Bang
lim dim mắt đục mơ màng linh tinh
đang mang trọng trách trong mình
cứu hiền diệt ác an bình thế gian

giữa chợ mơ gặp cây đàn
ngửa mũ gảy khúc tình tang lượm tiền
người người qua lại liên miên
bình tỉnh tự tại an nhiên dạo tình

không để ý các em xinh
xúm quanh im lặng hoan nghinh nhân tài
chơi qua chừng năm bảy bài
ngừng tay ngó đám chân dài im ru

“thị tại môn tiền náo” ư ?
không “nguyệt lai” cũng hồ như đã “nhàn”
trong ta tâm tịnh bình an
chợ đông vẫn thấy nhẹ nhàng lặng yên

vài phút nhắm mắt lim dim
giống y điệu bộ em thiền êm ru
ở Carrefour Anjou
mà ta cảm nhận đang tu trong chùa

thấy gì vợ cũng ham mua
ví tiền mỏng mảnh chào thua quay về
đúng lúc ta rời cơn mê
cùng nhau ghé quán no nê bù trừ

ngày cuối tuần qua cái vù !

Vùng Thanh Thoát

một bữa nọ tình cờ tinh nghịch đặt
bàn tay che vừa kín cửa thiên đường
thân phát sốt theo động tiên vun mãi
trời không mưa mà tay ngấm mật hương

sự mầu nhiệm vẫn từng giây biến hoá
từ u mê bỗng linh hoạt khác thường
rồi từ đó mỗi ngày tôi mỗi đặt
bàn tay lên cõi sống văn chương

nhận rất rõ mình trưởng thành từng phút
qua khe hoa mướt ngọt tình sương
đời ghen tức lắm lần ngăn tay đặt
nên đôi khi tâm thức thiếu bình thường

em, nghiệp chủ kho tàng vô giá đó
riêng mà chung nhờ đồng dạng môi trường
cùng thanh thoát mở lòng cho tay đặt
nên thơ thơm từ thềm cửa thiên đường

cảm ơn lắm ngọn đồi linh hiển mộng
chúm chím cười chờ phân phát yêu thương
đã quì gối bao lần không đếm nổi
và còn hơi nguyện tiếp tục cúng dường

em nghiệp chủ, nằm nghiêng hay nằm ngửa
đứng hay ngồi không sai biệt nguồn hương
điều kỳ diệu của từng lần tay đặt
đều ban cho những khác biệt lạ thường

tôi đã lớn đã khôn từng bữa một
vẫn nức lòng chờ đợi lớn khôn thêm

Yêu Và Thất Tình

đâu có yêu ai để thất tình
chỉ toàn thinh thích những em xinh
sóng là của biển vô cùng tận
chưa tiến thêm lên đã quay mình

cứ thế mà giàu những ước mơ
nhiều khi còn bạo phổi làm thơ
em Y, em X, em J … nữa
thật giả thành ra khá mơ hồ

cho dẫu rằng yêu hay là không
thất tình cao lắm cũng vài năm
trái tim không hạn bao nhiêu chỗ
nhưng dễ dầu chi em mãi nằm

thơ thẩn nhiều khi chỉ vẽ trò
mười thằng thi sĩ chín ngài cho
nhớ thương bành trướng theo con chữ
một gã dường như giỏi giả đò

em cứ tha hồ hãnh diện đi
trăm năm còn mãi nét xuân thì
từ trong máu thịt người thi sĩ
lắng đọng thơm tình ngọn tuyệt thi

thơ mới cũ gì cũng có em
dẫu “tân hình thức” cũng xêm xêm
mắt môi mông ngực linh tinh nữa
những thứ tình yêu vốn rất thèm

tôi bảo chưa yêu, em có tin ?
ghê chưa, tôi quá đỗi hợm mình
nhưng thôi, tha thứ em yêu nhé
em có tôi và tôi có em

Chợt Thấy Nụ Tình Xưa

tưởng rằng lòng rất bình an
hóa ra có chút bàng hoàng, bâng khuâng
nghìn trùng xa chợt hoá gần
như hơi thở chạm tay chân ngày nào

vẫn còn đây cái hàng rào
nằm trong hẻm nhỏ mở vào lòng ta
lẫy hờn tưởng chỉ thoảng qua
sao trong đuôi mắt mở ra ngàn trùng

vẫn còn nguyên nỗi ngại ngùng
buổi chiều gót biếc ghé chùng tiếng thơ
những con cá nhỏ trong hồ
thong dong hay chỉ giả vờ lắng nghe

cái gì như chút sắt se
ngày xa xưa ấy thoáng đè nội tâm
mảnh dằm yên ngủ bao năm
chợt ngo ngoe thở, hương trầm xót xa

hoá ra là vậy, hoá ra
nụ tình khác với nụ hoa rất nhiều

Tình Cho
Một Nửa Của Nhau
* Nhân ngày tình nhân 2008

chỉ vừa tròn bốn mươi năm
“người dưng khác họ” ăn nằm với nhau
nắng mưa dụ tóc thay màu
ta chưa dám phỉnh em sầu chia đôi

tình trồng nở đỏ cánh môi
câu thơ ăn cắp của đời nở hoa
ngấm từng cái véo thiết tha
ghiền từng cái ngắt mặn mà yêu thương

trải trăng vừa kín góc vườn
xuân phong nhất độ chung giường thủy chung
nguồn tình bất tận xổ tung
kể từ nồi đậy khíp vung vơi đầy

hú hồn, thuở ấy… hôm nay
chắc ta đã phải đưa tay vào còng
cảm ơn chiều tặng cơn dông
giọt mưa tiếp tục trổ bông đến giờ

Hương Thu

mùa thu không đến tình cờ
lòng như vẫn gặp bất ngờ lạ chưa
bắt đầu từ một cơn mưa ?
bắt đầu từ ngọn gió đưa hững hờ ?

tôi đâu nhớ chắc hôm nào
mùa thu đã bước chân vào phố tôi
sáng ra mở cửa ngẩn người
một chiếc lá rụng bùi ngùi bay qua

ngó lên cành trước hiên nhà
vàng phai chín đỏ nằm dài bên nhau
thế là mùa thu bắt đầu
thời gian xê dịch theo màu lá cây

nước trời chứa sẵn trên mây
hình như sắp sửa thả bay xuống trần
gói vội một chút bâng khuâng
ra xe xuống phố ngắm dung nhan người

lạnh chưa hỡi những em tôi
váy còn hở cả cánh đùi trắng thơm
giày còn bày ngón chân thon
màu sơn móng tợ môi son đậm đà

tôi cho xe chạy lướt qua
mùi hương thánh nữ hay là hương thu
hương gì cũng chẳng của tôi
của trời đất với của người đang yêu

thu dang tay rộng thêm nhiều
và tôi chợt thấy mình yêu đất trời
yêu em điều hẳn nhiên rồi
trái tim mới rợi như hồi mười lăm

Hương Bài Thơ Cũ

bốn mốt năm xa chợt sáng nay
hương bài thơ cũ gợn chân mày
tiếng vàng thỏ thẻ reo hồn nhạc
đánh thức tình vui mở cánh bay

đứng lại trên hè ngã tư xưa
một thời chờ đợi run tay đưa
đôi câu viết vội trên bao thuốc
tim đập liên hồi quên gởi thưa

kịp nhớ bàn tay rất thẹn thùng
giấu ngay vào vạt áo rung rung
quay mình thả bước nhanh theo bạn
nhưng gót chừng như vướng nhớ nhung

em khuất dần trong đám bạn bè
ta vào trở lại quán cà phê
trái tim rộn rã chưa kịp tĩnh
và suốt cả ngày như vẫn mê

ta vậy, còn em… đến bây giờ
mới hay em vẫn đợi chờ thơ
những hôm qua ngã tư quen ấy
ta vắng, em buồn lo ngẩn ngơ

tội nghiệp cho em đã hết lòng
vì thơ, đã vội vã qua sông
mang theo tất cả bao câu chữ
truy niệm cuộc tình chẳng trổ bông

cảm tạ tình em nuôi dưỡng thơ
ươm thơm thương nhớ đến bây giờ
cũng may thơ chính là em đấy
ta với em là… cũng chính thơ

vốn hiểu lòng nhau đã quá lâu
từ hôm mắt chạm mắt lần đầu
bài thơ không chở nguồn ngôn ngữ
chỉ đựng tình yêu trao gởi nhau

vẫn nhớ đêm trong cánh võng xanh
đêm trên nền phản ván yên lành
mắt tình quấn quít tay không chạm
hạnh phúc reo theo gió lướt mành

sẽ nhắc nhiều hơn kể nhiều hơn
cửa đông mãi ngát những hương thơm
hương bài thơ cũ chưa hề cũ
vẫn mới tinh khôi ở trong lòng

Vùng Thanh Thoát

một bữa nọ tình cờ tinh nghịch đặt
bàn tay che vừa kín cửa thiên đường
thân phát sốt theo động tiên vun mãi
trời không mưa mà tay ngấm mật hương

sự mầu nhiệm vẫn từng giây biến hoá
từ u mê bỗng linh hoạt khác thường
rồi từ đó mỗi ngày tôi mỗi đặt
bàn tay lên cõi sống văn chương

nhận rất rõ mình trưởng thành từng phút
qua khe hoa mướt ngọt tình sương
đời ghen tức lắm lần ngăn tay đặt
nên đôi khi tâm thức thiếu bình thường

em, nghiệp chủ kho tàng vô giá đó
riêng mà chung nhờ đồng dạng môi trường
cùng thanh thoát mở lòng cho tay đặt
nên thơ thơm từ thềm cửa thiên đường

cảm ơn lắm ngọn đồi linh hiển mộng
chúm chím cười chờ phân phát yêu thương
đã quì gối bao lần không đếm nổi
và còn hơi nguyện tiếp tục cúng dường

em nghiệp chủ, nằm nghiêng hay nằm ngửa
đứng hay ngồi không sai biệt nguồn hương
điều kỳ diệu của từng lần tay đặt
đều ban cho những khác biệt lạ thường

tôi đã lớn đã khôn từng bữa một
vẫn nức lòng chờ đợi lớn khôn thêm

Gởi Thiếu Khanh

sáng mùng một nhận lì xì
từ anh bạn gởi qua vi tính rằng:
chúc anh chị vui vẻ ăn
một cái tết ấm tuần trăng mật tình
riêng chị tiếp tục xinh xinh
để anh bút mãi rung rinh chữ vàng

vân vân và rất tàng tàng
gói lì xì nặng vô vàn tình thân

thật ra, xin được phân trần
bạn tôi viết rất bình dân gọn gàng:

… dồi dào sức khỏe, bình an,
hạnh phúc
và chấm xuống hàng
ký tên

bút danh vừa cứng vừa mềm
dương âm bằng trắc đi kèm đủ đôi
Thiếu Khanh chững chạc chịu chơi
thơ văn đã có một đời sống riêng

cho xin lỗi nghe, bạn hiền
ba hoa là thú tôi ghiền, trời cho
níu lời chúc bạn khai thơ
vừa chạy vừa viết nửa giờ lái xe

đưa cháu đến trường rồi về
xuất hành khai bút cặp kè đã xong
năm nay con ngựa phiêu bồng
chúc tôi cùng bạn vẫn thong dong hoài

cho thòng thêm:
thăm những ai
má hồng có ý lai rai với tình

chúng tôi rủng rỉnh thơ tình
muốn mừng tuổi gởi bọn mình nụ hôn !

Luân Hoán

1 22 23 24 25 26 34