Như Phong

Như Phong

Tiếng Sóng Vỡ

Vạt nắng mong manh
theo chân em về biển
bãi cát nằm nghe tiếng sóng rì rào
cánh hải âu sãi cánh lưng trời
mây chở về một đôi tim khờ khạo
tóc em thề trên suối nguồn hư ảo
dấu chân ngoan trên những ngã đường trần
tiếng sóng gọi
tình yêu ngàn năm
hồn đá xanh rêu ngủ vùi trên bờ cát lỡ
dấu thời gian hằn lên nỗi nhớ
thuở dấu yêu tuổi đá cũng xanh xao
ngồi đây nghe tiếng ru của biển
giấc mơ tình yêu vỡ òa khánh kiệt
như cánh hải âu đi hoang trong ngàn trùng ly biệt
giữa hồng hoang khản tiếng gọi tìm nhau
những ái ân xưa phút chốc hóa dã tràng xe cát
em về đâu khi tắt nắng hoàng hôn
ta về đâu để sưởi ấm linh hồn
vẫn còn đây muôn thuở tình yêu em
vẫn còn đây khúc nhạc tình rất mhớ
cánh chim về lặng lẽ buổi hoàng hôn
dấu chân về trên biển cát cô đơn
bờ vai phong trần chênh vênh
trái tim thương tích từng cơn
nghe từng cơn đau nhói lên ngọt lịm
giữa hoang vu đời thường
bước chân trần rướm máu cô đơn
đường trăm tuổi mai về nơi góc núi
giữa trăng suông ngồi tưởng niệm tình em

Bước Chân Lãng Du

Đường phố mưa đêm
giọt trăng rưng rức
ta khách lãng du say đời cô độc
bước chân nghiêng lạnh buốt linh hồn
từ độ em về vạt nắng hoàng hôn
dấu phong trần oằn vai cát bụi
về đây nghe tuổi đời dong rủi
cuộc rong chơi vay trả một kiếp người
lật những trang đời nghe như cổ tích
tình yêu, tình người … bổng như cơn mưa
nghe tiếng côn trùng khóc giữa đêm khuya
lời gió âm u thổi về từ vùng huyệt lạnh
chợt rùng mình nghe đắng bờ môi
trăm năm là giấc mộng hời
mộng chồng lên mộng nên đời trầm luân
từ em bước qua cửa luân hồi nhập thế
ta hóa thân làm kẻ tình si
đường nhân gian xuôi ngược
ta cõng tình em đi
trên đỉnh đời dốc đứng
hàn phong buốt chân trần
giữa muôn trùng cát bụi
linh hồn đã rêu xanh
về đây nằm nghe xôn xao niềm tục lụy
những khát khao hơi ấm thịt da người
sao bổng thèm say vùi một giấc
để mơ về nơi chốn yêu em…!

Đường phố mưa đêm
giọt trăng rưng rức
ta khách lãng du say đời cô độc
bước chân nghiêng lạnh buốt linh hồn
từ độ em về vạt nắng hoàng hôn
dấu phong trần oằn vai cát bụi
về đây nghe tuổi đời dong rủi
cuộc rong chơi vay trả một kiếp người
lật những trang đời nghe như cổ tích
tình yêu, tình người … bổng như cơn mưa
nghe tiếng côn trùng khóc giữa đêm khuya
lời gió âm u thổi về từ vùng huyệt lạnh
chợt rùng mình nghe đắng bờ môi
trăm năm là giấc mộng hời
mộng chồng lên mộng nên đời trầm luân
từ em bước qua cửa luân hồi nhập thế
ta hóa thân làm kẻ tình si
đường nhân gian xuôi ngược
ta cõng tình em đi
trên đỉnh đời dốc đứng
hàn phong buốt chân trần
giữa muôn trùng cát bụi
linh hồn đã rêu xanh
về đây nằm nghe xôn xao niềm tục lụy
những khát khao hơi ấm thịt da người
sao bổng thèm say vùi một giấc
để mơ về nơi chốn yêu em…!

Một Cuộc Rong Chơi

Cuộc rong chơi
trăm năm qua rất vội
những ngậm ngùi nhân thế chợt phù vân
mãi lãng du giữa chốn đường trần
được mất/hơn thua
nhục vinh/thành bại
cũng phù du sau ba vạn sáu ngàn ngày
quay quắt một đời vay trả, trả vay
cũng mãi quẩn quanh với sân si hỷ nộ
đêm qua đóa Quỳnh Lan nở rộ
sáng nay hoa không thấy mặt trời
đến thế gian làm một cuộc rong chơi
thuyền trôi dạt vào biển mê, sông ái
bến giác bên kia ai người lèo lái
tiếng thét gào vang vọng giữa nhân gian
nước mắt em rơi
tình còn kia sao chợt bẻ bàng
phút chốc phù du tan trong sương khói
bổng thấy nhọc nhằn trên bờ mi em ngoan
ánh mắt rủ buồn như rất xa xăm
cứ ngỡ đời trăm năm
giữa nhân gian làm khách
mai về nơi lòng đất
người khóc người ngàn năm
còn lại lời kinh suông
trên tháp buồn nhỏ lệ
và còn người si tình
ngồi tụng lời đam mê
đường trần gian một cõi đi về
đường tình yêu sao vẫn mãi si mê !…

Nợ Em Một Cuộc Ái Ân

Nợ em một cuộc ái ân
chăn nghiêng gối lệch
giọt trăng lạnh lùng
lời hẹn thề không trọn thuỷ chung
mộng xanh tan vỡ
muôn trùng chia xa
từ thuở em về xanh xao giấc mộng
ta oằn vai nặng nghánh phong trần
rướm máu chân đời cõng tình đi quanh
mấy cuộc phong vân say đời lãng tử
ta còn nợ em một cuộc ái ân
trên đỉnh đời dốc đứng
chợt thấy tình mong manh
cuộc hành trình về nơi trăm tuổi
sỏi đá chông chênh khấp khểnh đoạn trường
tình yêu em còn nặng một niềm thương
rụng bao mùa trăng lạnh
ta mấy mùa say gục giữa đường
đông lạnh lùng gió bấc
hạ trắng mấy mùa thương
em người tình mắt lệ sầu vương
tóc nghiêng thề bên bờ trăng lạnh
môi tím đợi chờ giữa đêm hoang
ta miệt mài lãng tử
còn nợ em mấy khúc đoạn trường
hãy hát đi em
lời ca đau thương của người cô phụ
hãy khóc đi em
cho thương nhớ ngục tù vỡ nát tim ta
ngày sẽ đến và tình sẽ nở hoa
ta sẽ đền em vòng tay siết chặc
ta sẽ hôn em nụ hôn dài nhất
giữa thiên đàng màu nắng rực môi em
mai ta về trả nợ ái ân !…

Nhân Tình Khúc

Vẫn là em làm hồn ta nghiêng chao
vẫn là em làm tim ta xanh xao
từng bước chân giữa đêm khuya vụn vỡ
cõi đi về rượt bắt những hư hao

xin hãy là một tình nhân liêu trai
đường phố gầy ta đi trong điên say
mặc cho đời có đi về chốn nào
vẫn lả em hớp hồn ta đam mê

mai có về em ngang qua đời ta
dù nhọc nhằn và đắng cay xót xa
vẫn là em, vẫn là em muôn thuở
là nhân tình ta say đắm ngu ngơ

xin hãy về cho tình yêu nở hoa
dù muộn màng vẫn đam mê tương tư
cám ơn đời còn tình yêu loài người
cho thế gian còn điệu buồn ru em

nắng có tắt và hoàng hôn rụng xuống
đêm có sâu và vầng trăng có nghiêng
dù mong manh như những hạt sương
vẫn là em về từ ngàn năm trước

từ luân hồi em hoá thân nhập thế
ta tìm về từ cổ tích duyên xưa
đường nhân gian tình hồng vừa kết nụ
đóa tình hoa bật sống dậy vươn mầm

em vẫn mãi là tình nhân ta đợi
từ ngàn năm về nội trú trong ta
nếu mai kia trăng có đến tuỗi già
em vẫn mãi là nhân tình ta nhé….!

Những Nỗi Buồn Đi Qua

Có một nỗi buồn
miên man miên man
có một cuộc tình như mây đi hoang
có người si tình
nghe đau con tim
ngồi say gục đầu giữa đêm hoang vu
một hồi kinh cầu vang lên u buồn
và em mơ hồ đi ngang qua đời
để lại muộn phiền dài đêm tương tư

có một nỗi buồn
êm như dòng sông
chảy vào lòng người mênh mông mênh mông
và cuộc tình buồn mong manh như sương
lạnh buốt linh hồn từng đêm mơ hoang
em lung linh về mắt môi huyền hoặc
gót chân lụa là ngang qua địa đàng
ta dang tay chờ vòng tay muộn màng

có một nỗi buồn
như mưa giêng hai
ray rức lòng người ngàn năm chưa phai
một cuộc tình nào về trên nhân gian
sưởi ấm tình người bao năm đợi chờ
em mang nụ hồng về tươi trên môi
thịt da ươm mầm trái cấm thơm tho
cho ta si tình trăm năm đọa đày

có một nỗi buồn
trôi êm trôi êm
như làn mây chiều tím loang hoàng hôn
ta nghe thật thà đau cơn tương tư
và em muôn đời dấu yêu tình nhân
cho ta say tình ngất ngây hồn thơ
từ trăm năm về em như hoàng hôn
ta ngồi gục đầu say hương tương tư

Lộn Ngược

Lộn Ngược ngẩng đầu
nguyệt khuyết treo ngang
nâng ly đối ẩm
ngỡ ngàng nhìn nhau
em từ thượng giới
trắng phau
ta
từ tục địa
nhuốm màu tục nhân
càn khôn còn mãi xoay vần
nên khi lộn ngược
trắng
đen
vẫn là
co mình nằm giữa Ta Bà
phân hai ranh giới
cũng là
âm
dương
gát chân
nói chuyện yêu đương
thì cho hợp lẽ vô thường đó thôi
nên ta
dốc hết một đời
yêu em cho kịp
kẻo trời nổi cơn
nắng mưa
chuyện của càn khôn
yêu em
trút bỏ thần hồn của ta

Trên Đỉnh Cô Đơn

Em đi giữa xanh xao đời
hát lên lời tình buồn muôn thuở
ta ngồi giữa chợ đời
bụi phong trần phủ lấp bóng xanh xao
em mang theo một nỗi buồn hư hao
trũng sâu lòng mắt
đường nhân gian đêm hoang vu lạnh ngắt
ta mang nặng tình em
tiếng cú kêu vỡ nát màn đêm
lời con tim si tình bật khóc
có tiếng gió mang về lời thương khúc
có nỗi buồn người sương phụ cô đơn
có phiến lá bay ngang qua trần gian rất vội
không kịp nói lời giã biệt trần gian
như tình yêu ly tan
và như dáng em vụt qua đời nhân ảnh
đêm hoang vu
cho loài côn trùng rủ nhau về khóc thương phận mình
ta nghe mắt cay cho một cuộc tình
từng bước độc hành đi trong tuyệt vọng
ta nghe trái tim nhói đau cho thân phận mình
trái tim vỡ nát
trái tim đơn côi
trái tim đợi chờ
tình nhân ơi….!
ngày tìm nhau thật rất xa xôi
em có còn hát lời tình buồn nhân thế
em có nghe khúc tình ca dang dở
có nghe ngày tháng buồn trên đỉnh cô đơn

Đêm Rượt Bắt Hư Không

Đêm thức trắng
ngỏ đời sao hoang vắng
đường trần gian sỏi đá cũng rong rêu
ta lãng tử bước chân đời đã mỏi
đêm mù khơi ngồi hoá đá ven đường
em chợt về giữa cơn mơ huyền hoặc
ta vươn tay chộp bắt bóng hư không

đêm trắng xóa một màu tang trắng xóa
người với người phút chốc hóa hư vô
gió giao mùa ru buồn hồn phiến lá
xanh xao gầy trên đỉnh gió cô đơn
còn nỗi nhớ nào thoi thóp từng cơn
đêm hoang vu nghe hồn quyên réo gọi

bước chân hoang lạc loài riêng nỗi nhớ
lạnh nhân gian mù mịt cõi đi về
cuộc tình sầu tương tư dài lê thê
ta trú thân giữa trần đời oan nghiệt
thờ phượng em một tình yêu bất diệt
trái tim ta vừa quấn mảnh tang buồn

đêm sâu thẳm ngồi nhớ em rất nhớ
gọi hồn nhau rờn rợn tiếng vô hồn
bước chân nghiêng nghe trái tim thổ huyết
tình yêu nào bất chợt hóa cơn điên
đi về đâu giữa đêm tàn oan nghiệt
hơi thở xanh xao giữa cõi u miên

Dấu Ấn Tình Yêu

Có cánh gió chở hồn ta qua đó
có phiến lá mang tình thư em đến
có hạt sương long lanh như giọt lệ
khóc tình mình ướt đẩm vũng trời sầu

tiếng mưa đêm ru canh tàn lạnh buốt
tiếng gối chăn trằn trọc thức thâu đêm
em bổng về từ trăm năm hoang dại
đóng khố đi quanh khắp chốn địa đàng

lời tình ca vang lên trên đỉnh đời dốc đứng
làn môi em hoang vu trên ngàn năm băng giá
giữa trần gian sao thiếu vết chân người
em nghe không có tiếng rên của đá

lời đá ăn năn
lời đá trối trăn
lời đá rong rêu ru tình tuyệt vọng
lời ru ngàn đời khóc tình yêu ly tan
ta độc hành mang trái tim hành khất
những giọt máu vỡ tung trên suối nguồn em
món quà đức chúa trời ban cho nhân thế

đêm ma quái bắt hồn ta khờ dại
em bắt hồn ta mãi mãi khó quay về
thịt da em huyền hoặc những đam mê
cho trái tim ta suốt đời mang dấu ấn

vẽ chân dung em giữa đêm dài vô tận
rờn rợn bàn tay rượt bắt một linh hồn
tình yêu là trò chơi cho trái tim rướm máu
ta như người chết hóa oan hồn đi giữa nhân gian

Mắt Em Đọng Một Cõi Buồn

Cõi buồn về đọng mắt em
như xa vời vợi nghe man man buồn
nghe như lỡ nhip cung đàn
như trang cổ tích tiền nàng Huyền Trân

cõi buồn như áng phù vân
trôi về lảng đãng mộ phần cỏ hoang
trăm năm ru một điệu buồn
ừ thôi em! dẩu muộn màng xanh xao

buồn về gọi những hư hao
chợt thương em giữa nhân gian lạc hồn
thôi em trầm khúc lỡ làng
về trang điểm lại dung nhan thuở nào

tình xưa dạo khúc thương vay
nắng lên sưởi ấm tim này nở hoa
tình kia lạnh buốt mấy mùa
tương giang mấy độ nắng mưa lỡ làng

em về điểm lại dung nhan
cho đời tươi nắng xuân vàng cánh hoa
cho tim nở nụ tình xưa
em về khoác áo lụa xưa ngọc ngà

thôi em !… tình dẩu chia xa
gởi tương tư ấy theo làn gió bay
cõi buồn …buồn những thương vay
cõi tình cũng đã…nhạt phai lâu rồi…!

Đợi Em Lạnh Buốt Đỉnh Sầu

Em như vạt nắng hoàng hôn
sưởi ta ấm lại mảnh hồn thương đau
ta như cánh lá phai màu
tàn thu sương lạnh nhớ nhau mấy mùa

nằm nghe sóng vỗ trong lòng,
lời buồn khúc hát từ trăm năm
ta như người chết còn hơi thở
em giận hờn chi lời trối trăn

như tiếng quyên buồn kêu khắc khỏi
ta gã si tình nên khóc nhau
em về phía ấy ta đỏ mắt
hồn tan tim nát quay quắt đau

gió bấc từng cơn giật ngoài song
đông về buốt giá ngọn đông phong
ta ngồi chuốc ta say gù gật
ừ em! nỗi buồn sao mênh mông

khản cổ gọi em từ đáy vực
đợi em lạnh buốt trên đỉnh sầu
mai ta có chết em đừng khóc
hảy chúc lành cho kiếp mai sau

em về tụng nốt lần kinh cuối
phổ độ hồn ta khỏi ngục hình
bởi yêu nên em ta có tội
mai có luân hồi ta tìm em

Bềnh Bồng

Chiều đông mưa bụi
nghe bâng khuâng buồn
ngồi trông cố quận
nghe lòng lệ tuôn
ta từ đâu đến
mai về nơi đâu
tình em là sắc
ta đi tìm không
đêm rơi vào vọng
ta ngộ sắc không

em xõa tóc thề đi tìm bến giác
chiều về mắt ướt đọng dư âm
nhân gian xuôi ngược đời hư ảo
ta đã tụng nhầm mấy trang kinh
chiếc lá cuối cùng mùa thu trước
đêm qua rụng chết trước sân thềm
làm sao em biết đâu bờ giác
rượu sân si vẫn ngọt môi mềm

em về từ thăm thẳm
ta chân đời ngả nghiêng
bồng bềnh trong bể khổ
em mất trí ta điên
bụi trần gian phủ tóc
ta bất lực tìm nhau
đời mình như cánh gió
len lách đi tìm nhau

bỗng nghe ra đời như trăn trối
chợt sắc chợt không chợt xót xa

Khung Trời Cũ

Chiều qua phố
em cài lên vạt nắng
gió chiều lên
lồng lộng tóc em bay
hoàng hôn rơi
tím loang trời chân mây
và áo em
tím khung trời hò hẹn

em về đó
chiều buồn
con phố nhỏ
dấu tích buồn
khe khẻ một niềm dau
bàn tay xưa
mười ngón mộng xanh màu
như màu mắt em
một thời mộng mị

em xuống phố
nắng lụa
vàng muôn thuở
mắt xanh xao
thiên thanh màu ngây thơ
ta say trong mắt em
nụ tình hoa chớm nở
xanh thăm thẳm màu trời
vùng tiếc nhớ
ngày tháng cũ
qua mau….!

Hồn Đá Ngậm Ngùi

Ngậm ngùi hồn đá rêu phong
hồn trăng đã ngủ giấc trăm năm buồn
tương giang sóng vỗ gọi nguồn
gọi cơn gió lạnh nhớ thương đôi bờ

tình ai mộng giấc hửng hờ
đàn ai réo rắc cung tơ lạnh đời
hồn ta thả nhịp chơi vơi
rơi trên sỏi đá gọi lời tri âm

tim ta nhỏ giọt thì thầm
giọt tương tư cũng trầm ngâm vỡ òa
tiếng lòng réo rắc hương xưa
đường trăng năm cũ cũng vừa vỡ đôi

giã từ những bước chân đời
ta về đóng cửa cuộc chơi trả người
trả ta nhịp thở trối trăn
trả em nước mắt ăn năn mấy mùa

ngậm ngùi hồn đá đêm mưa
nằm nghe trăng khóc thuở chưa ngọc ngà
hồn tan trên những xót xa
em ơi! là những ngọc ngà thương vay

dẩu còn một chút tình say
mắt môi cũng đã phôi phai bạc màu
tình ơí! còn những hao gầy
ngậm ngùi hồn đá giữa đời buồn tênh

Hóa Duyên Em

Từ thuở em về xanh giấc mộng
ta ngồi phủi bụi những trang kinh
bụi bay phủ lấp lời bát nhã
nhìn xuống nhân gian bạc trắng tình

em chưa khoát áo lam về núi
làm sao ta mặc áo sa di
nên bước xuống đời đi khất thực
khi tăng, khi tục, lúc sầu bi

ta hóa duyên em chút tình thôi
mai đem về núi lánh xa đời
cũng có chút tình nơi nhân thế
để thương để nhớ để chơi vơi

từng bước chân rơi trên sỏi đá
bình bát trống không hồn đi hoang
gió tục mưa trần ta hành khất
em nơi nào sao không hóa duyên

em lửng lơ giữa cõi nhân gian
lời kinh chưa thuộc sao vội vàng
em lánh xa đời xa trần thế
hay sợ lạc loài giữa nhân gian

Đi Tìm Cái Lẽ Huyền Không

Có khi nào ngồi một mình
em nghe tiếng gió về thì thầm
lời yêu đương từ kiếp trước
có bao giờ em đi
giữa chợ đời xuôi ngược
em nghe gót chân mình
rã rời trên sỏi đá không em

có bao giờ em thức trắng đêm
nghe xót xa một kiếp người lầm lỡ
và em có mơ
thấy kiếp tiền thân
đâu đó ở trên trời
em vui say nên làm rơi chén ngọc
và em bật khóc
và ta cũng khóc
khi mình đoạ đày xuống trần gian
em mất đi hạnh đạo mấy ngàn năm
ta theo em lội khắp nhân gian khốn khổ

đã nhiều đêm
ta tụng kinh phổ độ
mong một ngày em giác ngộ sân si
chốn vô thường mỗi một sát na đi
ta nghe gần gủi hào quang Phật
mai mốt về ngồi nơi tịnh thất
tìm về cái lẽ Huyền Không
phía ấy vươn lên chiếc cầu vổng
ta đi nhé lên chiếc cầu ngũ sắc…
đường về quê xưa còn xa lắc
đi thôi em mình còn xa cách một vầng trăng

Như Là Giọt Sương

Em như giọt sương mai
Tan trong nắng sớm
hình hài
bốc hơi
ta đi
trong cõi mù khơi
câu ca thổ mộ
ru đời hát rong
trần gian
là cõi nhọc nhằn
nằm nghe trăng rụng
hồn tan vào hồn
từ em xõa tóc nghê thường
từ ta run rẩy trên nguồn mắt em
lụa là
trải nắng chi em
cho ta điên dại
giữa đêm
lạnh lùng
mai sau
nếu có tương phùng
thì xin em
hãy
ngại ngùng
mắt môi…

Vin Vai Đi Giữa Cuộc Đời

“Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say”*
(phạm thiên thư)

Người xưa cỡi áo từ quan
nay ta cỡi gió đi trong phong trần
em ơi! Dù có nhọc nhằn
lội sông vượt suối cũng đành nghe em

vì rằng vận nước đỏ đen
nên ta lên dốc xuống nghềnh hụt hơi
vin vai đi giữa cuộc đời
gai tươm áo lụa, mưa trơn gót hài

em ơi! cuối đoạn trần ai
về đây thở dốc dù rằng xanh xao
lần mò đi lên núi cao
tìm nơi tịnh cốc bỏ xôn xao đời

vén mây cho nắng xanh trời
ngồi trong hang đá gõ vài hồi kinh
may ra tìm lại được mình
lỡ quên đánh mất thuở tình long đong

tóc râu thoi thóp từng cơn
ngồi nhìn lá rụng mà ăn năn buồn
tụng câu sám hối,vô thường
trăm năm xuôi ngược như phường hát rong

về đây đếm lại nhọc nhằn
được thua như hạt bụi lăn qua đời
ta về rời bỏ cuộc chơi
trả sân si lại cho đời tranh đua

Khúc Trường Sinh Cho Mẹ

Con đi mãi Mẹ cứ ngồi đợi mãi
Ba mươi năm tóc mẹ đã phai rồi
Thương nhớ mẹ trái tim con hóa đá
Đông về rồi Mẹ nhé vẫn đơn côi

tối đêm qua con gọi về thăm mẹ
đầu giây kia Mẹ như có tiếng cười
sao con nghe nghẹn ngào trong tiếng nấc
Giáng sinh về con kính Mẹ mùa vui

Con đi mãi và Mẹ ngồi đợi mãi
dấu chân con còn lạc lỏng cuối trời
xin kính Mẹ những tháng ngày tuổi Hạc
một cánh hoa tươi đẹp nhất trên đời

đường xa lắm và đời con bão nỗi
nhưng Mẹ ơi con đã lạc lối về
và Chúa ơi xin người nhìn xuống thế
ban hồng ân cho Mẹ tháng ngày vui

mai con về cho Mẹ nở nụ cười
con sẽ nấu ấm trà thơm Tiên Hạc
giả cối trầu cay, nấu nồi canh ngót
mời Mẹ dùng trong chất ngất yêu thương

con đưa Mẹ đi dạo khắp phố phường
Mẹ khoe hàng xóm thằng hai về đó
Ba mươi năm trời lang thang mây gió
Nay nó về hạnh phúc lắm đời tui

Hóa Thân
Ngồi Giữa Hao Gầy

Mai lên núi ngồi nhìn vách núi
tìm lại ta cái thuở tiền thân
bản lai diện mục như có khác
lụy tình em nên lạc xuống trần

nên ta bị đày đi hành khất
gội nắng mưa tắm bụi phong trần
hằng đêm ta về ngồi lần hạt
đi kinh hành tìm lại tiền thân

nhìn vách đá tụng kinh bát nhã
bụi trần gian thấm đỏ trang kinh
sao nghe hồn lạc cõi u minh
bởi hồn phách còn vương tục lụy

ta lên núi nghe đời lạc chợ
trăng rụng trên tay mảnh vô thường
đá rong rêu nằm nghe muôn thuở
suối vô ưu rửa sạch muộn phiền

ta lên núi theo mây về núi
nắng cũng vui về ẩn quanh đây
gió về góp vần thơ thoát tục
ta hóa thân ngồi giữa hao gầy

Độc Hành

Ta đi
giữa mùa gió bấc
bước nhọc nhằn
giữa phố
lạnh căm
từ thuở em lỗi hẹn
ta quay về tụng niệm sắc không
bụi thời gian
vàng thâm những trang kinh
sao khói nhang vẽ hình em lên vách
trông như bóng Phật
cũng giống bóng ma
đêm độc hành giữa chốn ta bà
ta đi vào miên viễn
gió hú
mưa gào
bất chợt thôi miên
bước kinh hành
nhân thế gọi ta điên
ta mỉm cười
cúi đầu
tụng niệm
có qua cầu
gặp lại ấy là duyên
buồn vui
như khói
sao vẫn man man một cõi ưu phiền
tiếng khánh ngân
lời phổ độ
trông thấy em về khoác áo sa di
đông phong như lưỡi hái
chưa chém chết sân si
tóc em còn thề muộn
sao dứt được ưu phiền

Gởi Em Còn Mái Tóc Thề

tóc em thề vạt nắng thưa
sợi vương nắng sớm sợi vương mưa chiều
sợi chìm trong giấc cô liêu
sợi rơi đáy cốc những chiều thoáng say

ta ngồi tụng khúc kinh này
sao nghe bóng Phật mang hình dáng em
đêm vào trong giấc vô minh
ta đi hóa đá trên ghềnh sân si

đi ngang qua cõi A- tỳ
tóc em vẫn chảy sân si vào hồn
nửa đêm trời đất giao hoan
ta nghe máu chảy trên nguồn tóc em

ta đi vào cõi thôi miên
tóc em thề giữa bình yên ta bà
một tay gõ nhịp Di Dà
tay kia lại vướng ra ngoài hư không

hương tóc em chín nụ hồng
cho ta về lại bến sông năm nào
trang kinh tụng đã nhạt màu
mà sao hương tóc vẫn nao nao lòng

ngỡ rằng tình đã thong dong
tóc em thề cõng tháng năm nhọc nhằn
tóc xưa rụng xuống ăn năn
hư không trắng xóa về trong Tâm thiền

Như Phong

Nguyễn Đình Toàn

Nguyễn Đình Toàn 12

Khi Em Về

Khi em về trời xanh và gió mát
Con đường mòn thơm lá mục quê hương
Vườn cải ngồng đỗ ong bướm về sân
Anh nằm đấy buổi trưa và tiếng nắng

Mặt đất mềm bước chân em chợt nặng
Lá tre vàng dồn thổi mùa thu đi
Luống huệ ấy xòe những vồng hoa trắng
Và đầy thềm lá rụng liếp phên che

Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều quá lắm
Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo
Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng
Đi qua dần khi nước mắt buông theo

Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó
Trời tháng giêng, tháng bảy buồn như nhau
Gió vẫn thơm mùi hoa bưởi, hoa ngâu
Rồi tết đến, rồi lòng anh nhớ quá

Khi em về bước xưa chừng xa lạ
Và cỏ hoa tất cả đã vắng im
Giấc ngủ ấy một đời anh ao ước
Từ máu mình hoài rứt khỏi đường tim

Em đừng khóc, đừng buồn, đừng nhìn nữa
Cứ cúi đầu, cứ thế, rồi ra đi
Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết
Và dấu giầy mai sẽ lá sương che

Nguyễn Đình Toàn
Viết Về Hoàng Hải Thủy

Hoàng Hải Thủy là một trong những nhà văn đã nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông nổi tiếng trước nhất như một người viết phóng sự, sau đó, như một dịch giả và một người viết tạp văn.
Từ tạp văn ở đây hiểu theo nghĩa, gặp gì viết nấy, trộn lộn cả phóng sự, văn chương, trích dẫn thi ca, âm nhạc, những ngôn ngữ do ông sáng tạo, bịa đặt ra.

Cái cách viết của ông có thể có nhiều người không thích. Nhưng khi người ta nói không thích cách đùa cợt trớt nhả của ông, có nghĩa là người ta đã đọc ông rồi.
Có phải như vậy chăng?
Phải công nhận rằng, tất cả những gì Hoàng Hải Thủy viết , đều có một sức hấp dẫn, dù nó được ký tên Hoàng Hải Thủy hay Công Tử Hà Đông. Đang viết bình thường, ông thêm vào một chữ “vưỡn“, “em vưỡn yêu anh, mí nị em thơm như múi mít.” Trong ngôn ngữ miền Bắc của chúng ta, hai từ “mí nị“, cũng có người nói là “mí lỵ” là hai tiếng “mới lại” được phát âm trẹo đi. Hoặc, những tiếng “ê, a” không có nghĩa gì, nhấn mạnh vào những chữ ấy chỉ để chê bai, chọc quê. Nghe một người con gái nói: “Em vưỡn yêu anh” thì có lẽ không anh nào dám tin đó là sự thật. Cái phần sự thật có thể có đó, so với cái phần sự thật có thể không trong câu nói nghiêm chỉnh hơn “Em vẫn yêu anh” có gì khác.
Các bông đùa của Hoàng Hải Thủy luôn ở trên lằn ranh vui buồn, thật giả đó.
Đọc “Sống và Chết ở Sài Gòn” người ta được biết những chuyện liên quan tới một số văn nghệ sĩ, trí thức, như Vũ Hoàng Chương, Thượng toạ Trí Siêu ( Lê Mạnh Thát ), Thanh Nam, Vũ Bằng, Duyên Anh, Thái Thủy, Mai Thảo, Trịnh Viết Thành, Hoàng Anh Tuấn, Uyên Thao.. .., về Trại Giam Phan Đăng Lưu, nơi Hoàng Hải Thủy đã trải nhiều năm tù.
Chương Hoàng Hải Thủy kể lại những năm tù ở Trại Phan Đăng Lưu với nhiều tù nhân khẳng khái được Nhà văn Đặng Trần Huân coi là một chương tuyệt tác.
Người ta nhớ lại những năm sau 1975, hầu hết các văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cũ, đều bị bắt giam.
Hoàng Anh Tuấn sau khi được thả, đã được thân nhân bảo lãnh ra khỏi nước. Hoàng Hải Thủy có mấy câu thơ gửi Hoàng Anh Tuấn được các bằng hữu của ông thỉnh thoảng nhắc lại:
Hai chuyến xe hoa về đất mẹ,
Bây giờ xa-lộ sáng đèn chưa ?
Ở đây thì chán, đi thì nhớ,
Sài Gòn mưa mà Mỹ cũng mưa.
Hẳn nhiều người đều biết Hoàng Anh Tuấn ngoài việc làm thơ còn là một đạo diễn điện ảnh. “Hai Chuyến Xe Hoa” “Đất Mẹ” và “Xa Lộ Không Đèn.” Hoàng Hải Thủy nhắc trong bài thơ tên những cuốn phim Hoàng Anh Tuấn đã thực hiện.
Sống và Chết ở Sài Gòn được viết theo kiểu tùy hứng, nhớ đến đâu viết đến đấy.

Chương ông viết về việc ông bỏ lỡ chuyến di tản năm 1975 là một chuyện cười ra nước mắt.
Khi đó, Hoàng Hải Thủy đang làm việc cho USIS tức Sở Thông Tin Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Trước ngày 30/4 ông Giám đốc USIS cho biết sẽ cho nhân viên đi nhưng con trai các nhân viên phải dưới 17 tuổi mới được đi theo bố mẹ. Nhân viên phàn nàn, ông nói ông phải làm theo lệnh của chính phủ Việt Nam, không thể làm trái luật pháp, cũng không thể nhận diện em nào trên hay dưới 17 tuổi. Ngay lúc đó Hoàng Hải Thủy thật thà không hiểu câu nói của ô. Giám đốc Alan Carter, ý ông muốn bảo “các anh cứ khai các con anh 16 tuổi chứ tôi có cần các anh chứng minh đâu“. Y hệt như câu thơ của T.T.K.H, “đến khi tôi hiểu thì tôi đã” muộn mất mấy chục năm rồi.
Trong cuốn sách Hoàng Hải Thủy có nhắc đến cái chết của các nhà văn Vũ Bằng, Nguyễn Mạnh Côn, nhà báo Minh Vồ, nhiều chi tiết về những năm đen tối, khốn khổ sau 1975 mà người dân miền Nam đã phải trải qua.
Được biết cuối năm 2002 nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội/Hà Nội đã cho xuất bản cuốn “Hai Mươi Nhăm Năm Một Vùng Tiểu Tuyết” ý muốn nói tiểu thuyết ở miền Nam, nội dung đề cập tới tiểu thuyết miền Nam từ 1887 tới Hồ Biểu Chánh rồi nhẩy vọt qua tiểu thuyết từ 1975 đến 2000 đề cao những tác giả cộng sản nhất là các tác giả từ miền Bắc vào. Tất cả văn học miền Nam ( từ 1954-1975 ) không có một dòng.
Nhà văn Đặng Trần Huân viết: “Với chủ trương rõ ràng của nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam hiện nay như thế, thử hỏi nếu không có những bộ sách như Văn Học Miền Nam của Võ Phiến hay những tạp bút như Sống và Chết ở Sài Gòn thì sau này lấy đâu ra tài liệu về văn học và đời sống của văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà ? Ta phải cám ơn Võ Phiến, cám ơn Hoàng Hải Thủy đã giúp ta tài liệu để còn nhớ không quên những văn nghệ sĩ một thời sáng chói, dù nhớ cách nào đi chăng nữa.”
Các văn nghệ sĩ của chúng ta sống ở miền Nam trước 1975, cho đến nay, đã mất đi nhiều lắm. Người chết trong tù, chết trong nước, người chết già, chết bệnh, người chết nơi xứ lạ, quê người, số còn lại e rằng ít hơn số đã mất.
Và, trong số những người còn lại, Hoàng Hải Thủy là người duy nhất cho đến nay vẫn viết và viết được một cách đều đặn. Cách viết của ông gần như không có gì thay đổi, pha trộn văn chương với phóng sự, nửa đùa, nửa thật. Nhưng với cái nhìn sâu sắc của người đã ở ngoài cái tuổi “cổ lai hy”, đọc ông, người ta có cảm tưởng mọi sự trên đời đều hình như lúc nào cũng có ha mặt, một mặt bi thương và một hài hước.
Nói đến mọi sự trên đời, bởi vì, Hoàng Hải Thủy đề cập tới rất nhiều chuyện trong các bài viết của ông, bằng hữu, nghề nghiệp, kỷ niệm, tình yêu, chính trị, thời sự, tù đầy, cảm khái trước cái đẹp của thiên nhiên, thời tiết, kiếp sống tha hương.
Loạt bài mới nhất của ông cho đăng trên các báo chí gần đây, những phê phán chua chát của ông đối với chế độ cộng sản, sách báo của các tác giả ở trong nước và những người ông cho là đến bây giờ vẫn còn bị cộng sản mà mắt, được rất nhiều người đọc. Dù có cùng quan niệm với ông hay không, người ta vẫn thấy ở ông một tấm lòng thiết tha với đất nước, yêu cái đẹp, yêu sự thật.
Tập Đất Hồ Ngàn Năm của Hoàng Hải Thủy cho xuất bản mới đây gồm tám đoản văn: Huyền thoại Vương Chiêu Quân, Giang Tả Cầu Hôn, Rồng Nằm, ngựa chạy, Sự Tất Như Thử, Trăm Năm Binh Lửa, Thơ và Sự Khốn Cùng, Mơ Ngày Về Vẽ Lông Mày, Thiên Long Tình Sử.

Hoàng Hải Thủy cho biết ông bắt chước ông Lê Quý Đôn ghi lại những chuyện hay hay đọc được cùng với những suy luận, những nhận xét của mình.
Qua cuốn sách người ta được biết thêm một Hoàng Hải Thủy rất yêu thơ, đọc rất nhiều thơ Đường, dịch nhiều thơ Đường và còn có thể làm thơ bằng chữ Hán nữa.
Đoản văn về “Thơ và Sự Cùng Khổ” của Hoàng Hải Thủy gây nhiều xúc động trong lòng độc giả. Hoàng Hải Thủy viết đoản văn này sau khi đọc một bài thơ của Nguyễn Du trong “Bắc Hành Thi Tập”, chắc Nguyễn Du đã sáng tác trong chuyến đi sứ sang Bắc Kinh và qua nơi có ngôi mộ Đỗ Phủ.
Thi hào Đỗ Phủ trong một chuyến đi xa đã nhuốm bệnh và chết trên một con thuyền trên sông Tương. Vì nhà nghèo, vợ con không đưa được ngay di hài ông về quê nhà, phải tạm chôn ở Nhạc Châu. Bốn mươi năm sau, người cháu của Đỗ Phủ là Đỗ Tư Nghiệp mới rời được hài cốt Đỗ Phủ về Yểm Sư, mai táng trên núi Thú Dương, thuộc Hà Nam.
Tuy vậy ở Lỗi Dương vẫn có ngôi mộ giả của Đỗ Phủ do viên Huyên lệnh Lỗi Dương họ Nhất xây để tưởng niệm nhà thơ lớn.
Người Hoa ngày xưa thường xây những ngôi mộ giả các nhân vật họ kính trọng.
Đỗ Phủ thơ hay tuyệt thế nhưng suốt đời nghèo khổ, nghèo đến độ không nuôi nổi vợ con và thân mình, để đến nỗi một người con nhỏ của ông phải chết vì thiếu ăn.
Nguyễn Du đặt câu hỏi, ông (Đỗ Phủ) cùng khổ đến thế phải chăng vì thơ ? Phải chăng ta có thể quy tội làm ông khổ là thơ ?
Chính Đỗ Phủ khi nhớ tới Lý Bạch, nhớ tới Khuất Nguyên tự trầm mình ở sông Mịch La đã than thở: “Làm thơ hay như Khuất Nguyên, như Lý Bạch mà cuộc đời khổ sở đó là vì văn chương ghen ghét những người mệnh đạt. Văn chương không cho những người làm thơ được thành công trong đời.”
Bàn về thơ và sự cùng khổ Âu Dương Tu, một danh sĩ khác của Trung Quốc viết: “Không phải thơ làm người ta cùng khổ. Chính vì người làm thơ có cùng khổ thơ của người đó mới hay.”
Đỗ Phủ nói: “Văn chương ghét mệnh.”
Nguyễn Du cho rằng: “Làm gì có chuyện văn hương ghét mệnh. Làm gì có chuyện trời ghen với người.”
Nhưng trong truyện Kiều Nguyễn Du lại viết :
Lạ gì bỉ sắc, tư phong.
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Hoàng Hải Thủy viết: “Đây không phải một điều mâu thuẫn trong quan niệm về nhân sinh của thi sĩ. Không phải Nguyễn Du bất nhất trong quan niệm của ông về đời người. Ý thức của chúng ta rất phức tạp, đa dạng. Nguyễn Du tất nhiên là phức tạp hơn người thường.”
Hoàng Hải Thủy lấy trường hợp của ông để nói thêm về câu hỏi được nêu ra: Thơ có làm cho người làm thơ phải khổ sở không ?
“Viết tiểu thuyết từ năm 25 tuổi, có thể nói tôi suốt một đời yêu thương, gắn bó, sống chết với việc viết truyên. Với tôi, viết là hạnh phúc. Tôi đã sống để viết, viết để sống và trước năm 1975, tôi đã sống được với việc viết truyện của tôi. Trước 1975, ở Sài Gòn, Thủ đo Quốc Gia Việt Nam Cộng hòa của tôi, trong hai mươi năm, tôi đã sống để viết và đã viết để sống. Sau 1975, tuy biết viết là tù tội, tôi vẫn viết. Dù vậy tôi vẫn không thể trả lời thỏa đáng câu hỏi: “Thơ có làm cho người làm Thơ cùng khổ hay không ?”
Tôi thấy Nguyễn Du đúng khi thi sĩ nói: “Chữ tài liền với chữ tai một vần.”, “ngu si hưởng thái bình.”
Người có tài thường gặp tai họa. Chuyện đó tôi thấy thường xẩy ra trong đời và trong thời loạn.
Tôi chịu câu nói của Âu Dương Tu: “Thơ không làm cho người làm thơ cùng khổ. Chính vì có cùng khổ thơ mới hay.”

Ngày Tháng

Tôi bước xuống lối đi, và mặc cho mưa hắt vào mặt rát và lạnh. Ông khách nhìn theo tôi trong mái hiên tối. Trời mưa tầm tã. Dưới những tàn cây cao và quãng trống hai bên đường gió thổi bạt hơi và mây đen dầy đặc. Sự rét mướt hắt hủi quấn lấy tôi. Đường vắng ngắt, chỉ còn những ngọn đèn đường tỏa ánh sáng xuống các vũng nước trên mặt nhựa, gió thổi làm lướt đi từng loạt. Tôi bỏ mũ cho mưa dội trên đầu và khi về đến nhà thì ướt hết cả người. Bà bạn chưa về.

Tôi thắp đèn, tắm rửa thay quần áo, nhớ đến tiếng nước dội của bà bạn hôm qua tôi không khỏi rùng mình, những dòng nước lấp lánh sáng và trong tuôn chảy trên người. Đó là hạnh phúc hay sự nhơ nhớp, bất hạnh ?

Thêm một lần nữa tôi cảm thấy mình mất mát một cái gì. Một cái gì đó không phải nó đã lọt khỏi tay gìn giữ của tôi mà như tự nó đã tách rời, đã lìa xa mình, một sự tự băng rã. Mấy ngày liền tôi sống trong tình trạng vừa ngẩn ngơ vừa nóng nảy. Bà bạn có vẻ nghi ngờ nhưng bà không hỏi gì tôi cho mãi tới hôm đi chơi chùa. Lúc chúng tôi lễ xong và ra ngoài sân chùa ngồi chơi trên ghế đá dưới gốc cây điệp lớn, bà mới nói bóng nói gió hỏi. Trời hôm đó rất đẹp. Nắng trong, sân chùa lơ thơ những ngọn cỏ non mọc ở những khe gạch, hơi mát tỏa từ những vòm lá xanh lẫn mùi thơm của hoa dại. Ở phía sau chùa là những ngôi nhà do các Phậ tử cất, và các em nhỏ đang tập hát một bài hát đạo trước thềm sau giọng cao của một huynh trưởng.

Bà bạn nói:
-Chúng ta tiếp tục cuộc rong chơi tay ba này cho đến khi ông không còn ở đây nữa.
Ông khách nhìn bà bạn bảo:
-Tôi sắp phải về Saigòn rồi.
Tôi nghe tiếng hát của bầy trẻ, nói:
-Bản nhạc này tôi thuộc từ hồi còn bé.
Bà bạn ngửa cao mặt lên nhìn trời. Tôi cũng nhìn theo bà. Ở sau ngọn cây cao nhất, là những cành khô, trụi lá của những cây chung quanh, mặt trời chiếu những tia vàng chói và linh động. Ánh sáng bay múa bằng những vồng, hạt và những tia nhọn.
Bà bạn bảo:
– Cứ nhìn một lúc chắc hoa mắt. Mọi người sống đều kỳ cục, lúc nào và ở đâu cũng tìm cách che dấu, trong nhà cửa, trong quần áo, bộ dạng.

Ông khách nói:
– Khi già thì người ta không dấu gì được nữa. Tóc trắng và da nhăn. Như tôi đang bắt đầu đây.
Tôi nhìn ông khách và bà bạn thấy họ sống thật dễ dàng: muốn ăn, ngủ, đi chơi, nói gì thi nói. Khuôn mặt ông khách không xấu quả thật ông bắt đầu già. Tôi nghĩ giá đừng có gì trở ngại tôi có thể ở gần ông và tôi sẽ truyền hết cái tươi trẻ của tôi cho ông. Chúng ta sẽ san bằng hạnh phúc phải không anh? Bằng đủ mọi cách.
Bà bạn hỏi tôi:
– Cô không nói gì sao ?
Tôi cười với họ, bảo:
– Tôi nghe bà và tôi sung sướng lắm.

Bà bạn lắc đầu, nhắm mắt làm một bộ điệu thật là dễ thương. Nắng chiều qua kẽ lá làm thành những vòng tròn nhỏ và đa dạng xao động trên sân, bám trên người bà bạn. Bà ngồi vắt chân lên nhau và hơi nghiêng về một bên, đùi bà tròn, dài, trông lớn, trông đẹp và khoẻ mạnh. Tôi tự hỏi sao trông bà như thế mà bà không có con ?
Bà nói với ông khách:
– Nếu Tết này ông dựng được kịch thi chúng tôi sẽ về Saì-gòn xem.
Ông khách cười bảo:
– Ôi cả đời tôi chỉ có mỗi một việc tôi làm được trọn vẹn đó là việc tôi chẳng làm trọn được việc gì cả.

Bà bạn bắt chước tiếng kêu của ông nói:
– Ôi vậy mà đến bây giờ ông vẫn còn chua chát được như thế sao ?
Ông khách cười nhìn mọi người. Bà bạn đứng dậy đi xuống chỗ lũ trẻ đang tập hát bên dưới, bà nói phải đi một tí ngồi mãi bị tê chân.
Còn lại ông khách trên ghế. Tôi mở to mắt nhìn ông.
Ông hỏi:
– Hôm nọ em về có ướt không?
Tôi gật đầu không nói gì. Tự nhiên tôi thấy sự bỏ đi của bà bạn thật đúng lúc. Bà biết để lại sự lố bịch cho người khác. Tôi thấy mọi cử chỉ của tôi đều có vẻ thừa thãi, không cần thiết, không biểu tỏ được gì, ngoài sự ngớ ngẩn. Vẻ bình tĩnh, đến lạnh nhạt của ông khách làm tôi choáng váng hết cả ngườìi. Tôi cảm thấy khốn khổ, nhục nhã, những gì nặng nề nhất trong giây phút chụp lấy mình. Và rất nhanh nước mắt tôi đột ngột chảy ra.
Ông khách nhìn tôi yên lặng giây phút rồi bảo:
– Em nhìn việc gì cũng nặng nề cả.

Tôi thấy lao đao lần thứ hai, không phải vì sự đổi thay trong giọng nói của ông khách mà chính vì tôi vừa chợt nhận ra không có gì lạ đã rơi vào giữa chúng tôi. Nghĩ thế tôi lại sợ. Tôi sợ cái khoảng không đó. Bởi đằng sau nó đã có một cái gì xẩy ra rồi. Tôi bị bao vây bởi sự khốn khó nào đây? Em không dám nói lời yêu anh nữa, dù chỉ với một mình em, ngấm ngầm như một lời an ủi. Em muốn dấu mặt mình cho cả mình không ngó thấy. Chân tay long ngónng, em phơi bầy ra đây sự đần độn của mình.
Ông khách lấy bàn tay vuốt ve, cử chỉ vừa thân mật vữa pha lẫn chút thất vọng. Tôi biết ông thất vọng. Vì cách cư xử quá trẻ con của tôi.
Ông nói:
– Tâm hồn em đuối, em lại thích tạo những xúc động mạnh, em không chịu nổi những xúc động đó, rồi em nhìn gì cũng qua làn nước mắt tủi thân và tự bó mình như thế có ich lợi gì ?
Tôi nói:
– Em sợ anh khinh em.
Ông bảo:
– Em liều lĩnh lại hay sợ hãi. Phải can đảm sống lấy một mình chứ. Không cho ai quyễn về mình cả.

Tiếng nói của ông cho tôi một niềm tin tưởng vu vơ. Như bóng nắng bên ngoài có đó, tôi nhìn thấy, nhưng chẳng nắm giữ, nương tựa được gì. Giữa nó và tôi có một sự chia lìa rõ rệt. Khi anh không còn ngồi đấy, khi em chỉ còn lại một mình nó sẽ đổ vỡ, sẽ tan biến, sẽ đêm tối. Khi em bằng lòng nhận anh vào tận thân thể có thể nào em nghĩ anh không có quyền gì về em không? Chính nghĩ như thế, anh đã đẩy em vào chỗ sa ngã. Đó không phải là một cái quyền người ta có thể cho hay không cho. Mà là một tự nguyện. Em có thể nghĩ đến anh như một niềm an ủi, một nơi nương tựa cái đầu sợ hãi của em khi biết rằng anh không từ chối. Anh có đấy nhưng anh không nhận điều em nghĩ đến anh, thì em nhận gì nơi anh?
Tôi nín khóc và ngồi lại ngay ngắn. Tôi cố lấy lại bình tĩnh để cho mắt khỏi đỏ, ngộ nhỡ bà bạn trở lại nhìn thấy.
Ông khách nói:
– Có lẽ tôi phải cho em biết điều này; bằng tuổi tôi khi người ta nói yêu một người, câu nói ấy không còn có cái nghĩa như khi người ta còn trẻ nói nữa. Nó không phải câu nói vồ vập, gìn giữ, hòa mình, mà nó chỉ biểu tỏ một chút cảm tình thành thật nào đó trong giây phút. Thế thôi. Người ta không để ý đến sự đằm thắm hay phai nhạt nữa.
Tôi nói tôi phải cám ơn sự thành thật của ông. Thực ra thì vì tôi không được yêu, chúng ta không ở trong tình yêu, nên tiếng nói của chúng ta mới mang vẻ lạnh nhạt của những kẻ đứng bên ngoài. Và chúng ta chỉ hiểu nhau qua sự lạnh nhạt đó. Ông khách bảo, đó là sự tham lam nhầm lẫn của tuổi trẻ. Mỗi người cần có đủ sự lạnh nhạt để có một đời sống riêng: đó là của cải của chúng ta.

Bà bạn trở lại với vẻ mặt của người ban ân huệ. Bà đã cho chúng tôi tự do. Điều đó làm tôi lộn ruột. Lúc nào bà cũng tỏ ra mình ở trên kẻ khách. Sự tức giận xâm chiếm tôi một cách mau lẹ.
Và tôi muốn tỏ cho bà biết như thế. Nhưng bà cười nói tự nhiên, bảo:
– Thôi đi về chứ, trưa rồi, còn ăn cơm không đói.
Tôi tự thấy mình thật là hàm hồ và không thể nào bằng bà được. Một lần nữa tôi lại thấy ghen với bà. Họ xứng đáng với nhau hơn tôi.
Tâm trạng tôi cứ luôn thay đổi không lường như thế. Nên tôi thường khổ một mình. Tôi như kẻ tay này làm tay kia phá đổ.
Ông khách bảo:
– Bà hãy ngồi cho đỡ mệt, mồ hôi ướt cả lưng áo kia kìa.
Bà ngồi xuông bên cạnh tôi, giọng vui đùa:
– Dạo này cô hay sầu dữ. Phải vui lên. Rình mò mình mãi có ích gì đâu.

Tôi có cảm tưởng bà đã trải qua hết những gì tôi sống nên bà đoán và nói đúng. Tôi đã sống như một kẻ rình mò mình. Vết tàn tật kia là cái chết ám ảnh từng giây từng phút. Tôi tức giận đột ngột, yêu thương đột ngột và nguội quên đột ngột. Tất cả những thứ ấy thành một nỗi nhớ không hình ảnh nguyên cớ, là quãng đường tôi đi qua, là đứa trẻ không cha mẹ, là một gia đình đầy sự ghen ghét trẻ con, là tuổi thơ đã mất, không ngừng dày vò không tên.
Chúng tôi trở về quán ăn. Trong lòng tôi vẫn còn ấm ức với bà bạn. Tôi lại nghĩ giá đừng có bà, đừng có những sự ngăn trở vẩn vơ này, có lẽ tôi đã được sống những giây phút hạnh phúc với ông khách.
Bà bạn bảo:
– Có những người viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, và chúng ta hưởng cái hay ho của họ. Đừng tham dự vào đời họ làm gì.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Sao tự nhiên bà lại nói thế ?
Bà bạn nhìn ông khách và tôi tủm tỉm cười. Môi bà ướt bóng, hai mắt long lanh, trời nắng làm cho má bà đỏ hồng, trông bà đẹp và duyên dáng. Bà nói:
– Tôi nghĩ vậy. Em ưa đọc sách và gặp ông ấy tất hai người sẽ nói với nhau truyện sách vở. Và là dịp ông gieo sự khó khăn cho em.

Nói xong bà cười lớn tiếng và nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi chột dạ, và không hiểu thực ra, bà định nói gì. Phản ứng tự nhiên khiến tôi nghĩ nếu quả thật bà định ám chỉ gì tôi, thì tôi sè nói thẳng
với bà, như đã có lần bà nói với tôi: “tôi đã ngủ với ông khách”. Nhưng nghĩ lại tôi lại thôi. Cũng câu nói ấy bà nói với tôi nó chỉ có nghĩa là một sự thật. Đến lần tôi nói ra nó lại có vẻ tục tĩu. Tại sao vậy ? Hình như tại khi nói ra điều ấy lòng bà ngay thẳng còn tôi gian lận.
Tôi nói, và phải vừa nói vừa cười cho lời nói bớt vẻ gay gắt :
– Tôi nghe bà và sẽ giải quyết mọi sự khó khăn một mình, nếu có, và theo đúng ý mình.
Bà lấy khăn chùi miệng, ngước mắt nhìn thẳng vào mặt tôi, dịu dàng:
– Tôi cũng chỉ muốn chúng ta vừa lòng như thế!

Ông khách nói:
– Tôi không ăn tráng miệng nhưng sẽ dùng cà phê. Bà và cô uống gì ?
Chúng tôi đồng ý không ăn tráng miệng và dùng cà phê, bà bạn lấy cớ trưa bà sẽ không ngủ, còn phải thức đánh bài, tôi nói dù uống cà-phê muốn ngủ tôi vẫn ngủ được.
Buổi trưa nắng nhưng gió từ trên núi thổi xuống nên ơn ớn lạnh. Quán hàng vắng chỉ còn ba chúng tôi. Tôi nhìn bóng ba người sâu trong tấm kính cửa và bên ngoài phố người đi lại cùng với xe cộ. Tôi nhìn xuống bao diêm của ông khách để trên góc bàn. Mày sẽ thua thiệt nêu lúc nào mày cũng nhìn mọi sự qua lần nước mắt. Em không muốn nhìn thấy anh qua làn nước mắt của em nữa. Thôi tỉnh dạy đi con nhỏ, đừng nói lẩm cẩm một mình như thế.
Bà bạn hút thuốc cùng vói ông khách. Bà mời ông đến nhà ăn một bữa cơm từ biệt trước hôm ông về Sài-gòn, và bà muốn tôi có đồng ý không? Tôi cười bảo tôi sẽ làm một món ăn đặc biệt đó là bún chả và tự khoe là tôi pha nước mắm rất ngon.
Ông khách cười bảo với tôi:
– Rồi tôi biết trả ơn cô bằng gì ?
Bà bạn xen vào:
– Ông chịu khó sống lâu viết kịch cho cô ấy đọc.
Ông khách tiếp:
– Thế còn bả ?
Bà bạn cười đứng dậy bảo:
– Thôi mình về chứ . Còn tôi ấy à ? Được, nếu muốn gì tôi sẽ điều đình với ông .
Lời nói của bà trao nghiêng hẳn người tôi đi. Tôi không chịu nổi mẩu đối thoại của họ mà đằng sau là cái hình ảnh tôi đã nhìn thấy. Tôi có nghĩ oan cho họ chăng? Tôi không biết. Chỉ biết nghe bà nói như vậy tôi bỗng thấy choáng váng như có người đẩy hẳn đi một cái.

Ra đến cửa bà bạn chia tay tôi và ông khách đi đến nhà bạn bà. Bà mở ví soi qua lại mặt và xem có quên thưốc lá và diêm không, xong bà băng ngang đường đi về phía vườn hoa.

Ông khách hỏi tôi có buồn ngủ thì ông đưa tôi về nhà tôi trước rồi ông về sau. Tôi nói không buồn ngủ và chúng tôi đi chơi với nhau. Một lát mỏi chân chúng tôi gọi xe về nhà ông khách. Ông bắc ghế ra ngoài hiên sau và chúng tôi ngồi nói chuyện. Vườn sau nhà ông ăn liền với khu rừng. Nắng soi vàng các lá cây và chiếu những luồng ánh sáng trong xuống các nền cỏ. Rừng càng sâu trông càng mát, tôi nghe tiếng chim hót nhưng không nhìn thấy một con nào. Ông khách nhường cho tôi chiếc ghế xích-đu nên tôi có thể ngả mình rất dễ chịu. Tôi nhớ đến bà bạn và tự nghĩ trong hai người tôi là kẻ gian lận. Không phải tôi gian lận với bà vì nghĩ cho cùng ra, tôi cũng chẳng có bổn phận gì với bà.

Tôi gian lận với linh hồn vô tội của tôi. Tôi đã bịp bợm nó để sống. Ông khách ngồi trong một cái ghề bành mây có nệm và tựa bằng bông bọc vải vàng. Ông kéo ghế sát vào chỗ tôi và ông hôn tôi dưới chiếc ống sắt của tay ghế. Cuộc đi chơi kéo dài đã cho tôi cảm giác nhàm chán, mệt mỏi nhưng tôi không từ chối cái hôn của ông. Tôi nằm yên lặng trên chiếc ghế vải nhìn ông.
Mùi khói thuốc lẫn trong hơi thở của ông. Gió mát từ khu vườn ùa ra mơn man trên da mặt và chân tay. Khi ông khách hôn tôi lần thứ hai thì tôi phản đối. Tôi xây mặt đi. Tôi không còn gì để gìữ gìn đối với ông, nhưng tôi tự thấy thật là tội nghiệp cả ông lẫn tôi, nếu chúng tôi cứ để lôi kéo vào trong chuyện đó một sự trượt chân.

Tôi giữ ông lại bảo:
– Không thể như thế được. Trước đây chúng ta là người lạ. Nhưng bây giờ chúng ta đã biết nhau. Xin cho em được sống với anh, không phải sự sa ngã.

Tôi nói và chợt nghe tiếng mình. Tiếng nói xa lạ như một sự vỗ về của cơn sóng vào bãi bể. Tôi không nói với ông khách. Tôi đã nói với một người khuất mặt nào. Hình như đó là một lời tạ lỗi với ba tôi, một lời cầu xin phù hộ, một sự kêu gọi dẫn dắt nào. Hình ảnh người chết hiện đến mơ hồ lúc ấy làm tôi tủi cực. Bóng dáng mẹ tôi còn xa hơn người chết. Nhưng tất cả các thứ đó có lẽ chỉ là sự liên tưởng. Tôi thấy tôi bị đứt rời khỏi mọi liên lạc, tôi nằm đấy với linh hồn vô tội xa lạ vói mọi cảm giác, mọi sự việc, đó là đứa trẻ đi lạc không có ai kêu gọi. Trong một cơn mê hoặc tôi đã nói lại với ông khách hết cả những điều tôi nghĩ này. Tôi nói và tôi khóc lúc nào không hay. Mãi tới lúc tôi thấy ông lắc mạnh vai tôi và gọi rất lớn tôi mới choàng tỉnh, lúc ấy sự thổn thức dâng nghẹn ngực, và tôi khóc nức nở. Ông vuốt ve tôi và bảo tôi nín đi, nín đi. Sau đó ông dắt tôi vào chơi trong rừng. Khi tôi lấy lại được bình tĩnh hoàn toàn tôi bảo với ông đừng nhớ gì những lời tôi nói. Ông đặt tôi ngồi trên một thân cây khô để trên một bãi cỏ, và ngồi xuống bên cạnh bảo, năm nay ông đã ngoài bốn mươi, ông cũng chẳng có gia đình của cải gì, ông không nghĩ đến chuyện lấy vợ nữa, nhưng nếu tôi muốn thì chúng tôi có thể lấy nhau. Tôi nói, tất cả những gì tôi nói với ông vừa rồi để dẫn đến việc muốn ông hỏi lấy tôi. Tôi cũng nói rằng, ông không thể lấy một người vợ như tôi được, bởi với cái dấu vết tàn tật tôi mang trên mặt có thể là điều trở ngại cho ông sau này. Tôi cũng hỏi ông là sự quyết định vừa rồi của ông có phải vì ông thương hại tôi hay vì muốn nhận lãnh một trách nhiệm gì? Ông bảo mọi sự không rõ ràng như cách tôi đặt câu hỏi, ông không biết trả lời thế nào, nhưng nếu tôi muốn ông sẽ xin cưới tôi. Tôi hỏi thế ông có nghĩ vẻ mặt xấu xí của tôi ông có thể chịu đựng được mãi không, rồi còn bạn bè ông nữa, họ sẽ nghĩ thế nào về ông? Ông bảo ông không định tôn tất cả cái xấu của tôi thành cái đẹp, ông có ít bạn bè, nhưng tất nhiên vẻ mặt của tôi cũng tránh được một vài điều bàn tán gì đó, nhưng điều ấy không có nghĩa gì với ông. Tôi nói, như thế ông đâu có được lấy vợ, ông phải chịu đựng tôi suốt đời sao? Ông bảo, mặc cảm tự ti của em là kẻ thù nguy hiểm nhất. Ông cũng nói, ông không cho việc lấy tôi là một hạnh phúc của đời ông, nhưng ông cũng không cho đó là một tai nạn. Tôi bảo, như thế tôi sẽ trở thành người vợ dửng dưng của ông sao? Ông nói tôi có nhiều vẻ đáng yêu, nhưng từ lâu rồi, đời sống ông ít còn ồn ào. Tôi nói, vậy tôi cũng từ chối làm hòn đá thử chiều sâu của cái giếng yên lặng đó. Ông cầm lấy tay tôi bóp mạnh và nói như tự nói với mình, ông sợ ông không còn đủ nhanh nhẹn để vượt qua cái hàng rào tôi tự rào quanh mình. Tiếng nói của ông làm tôi đau đớn, vì tôi biết rằng ông không hề coi tôi như một vật báu của đời ôNg, không thể không chiếm giữ. Nhưng nếu tôi muốn tôi tin ông sẽ lấy tôi. Nhưng lấy như thế để làm gì ? Không phải chúng tôi lấy nhau mà là giải quyết một vấn đề. Vấn đề đó là gì? Là muốn được nhìn thẳng vào lương tâm mình mà không hổ thẹn sao?
Bỗng nhiên tôi nhìn lên mái tóc khô của ông và vẻ già nua thoáng hiện trên mặt ông và thấy hết sức cảm động. Tôi biết ông thành thật với tôi. Hay ít ra thứ đó cũng là một cố gắng thành thật một cố gắng tốt. Tôi vẫn tin rằng thành thật là một điều khó khăn, thiếu cố gắng và thiện chí không thể thành thật được. Nên tôi nói ông tôi ít giao thiệp, có ít kinh nghiệm trong việc này, nhưng mỗi lần ở gần ông tôi thấy tôi rất dễ cư xử. Suốt buổi chiều ông không tìm cách hôn tôi nữa. Ông dẫn tôi đến các khu rừng rất đẹp có nhiều hoa lạ và lan trắng. Ông bảo khi về Sài-gòn rồi tôi có thể rủ bà bạn hoặc ra đây chơi một mình. Tôi bảo ông đừng nhắc đến việc trở về Sàì-gòn nữa. Chiều bắt đầu nhạt và khói núi bốc lên, gió reo trên các ngọn thông, rừng mờ hơi sương và rét. Chúng tôi trở về nhà, hai bàn tay tôi lạnh giá, trên áo còn thơm mùi hoa. Căn nhà mờ trong bóng tối. Hai chiếc ghế và mặt bàn bỏ không đã đầy lá. Tôi chạy vào nằm luông xuống chiếc ghế vải. Chiếc ghế đu đưa và lần vải mềm ôm sát lấy lưng. Đêm đen dưới lớp ngói mái hiên. Bóng tối ru tôi vào đời sống thật của mình, tôi nhớ đến chiếc bao lơn ở nhà, nhớ tới ông tôi và bà cô, ông chú. Ông khách rủ đi ăn và chúng tôi khiêng vàn vào trong nhà. Nhà tối om. Ông khách nói, mình đi luôn chứ ? Nhưng khi tôi bước lại gần ông, ông bỗng nắm lấy vai tôi kéo lại gần ông. Ông ôm chặt tôi vào lòng và cúi hôn trên môi tôi. Mùi nhựa thông, phấn hoa, thuốc lá trên tay và trên mặt ông làm tôi ngây ngất. Tôi run sợ, nhưng muốn biết bao được ông âu yếm như thế. Bóng tối đã che đậy cho mọi sự giả dối, và chúng tôi đã trở thành những người tình thực sự. Chúng tôi bỏ bữa cơm chiều.

Ba ngày sau, ông khách trở về Sài-gòn. Bà bạn và tôi mời ông ăn một bữa cơm như đã dự định.
Bà bạn tiếp cái ăn và rót rượu cho ông. Sự bí mật giữa tôi và ông khách không biết bà có biết không, nhưng bà thản nhiên, đúng hơn bà cười nói và cư xử rất tự nhiên. Riêng tôì ngồi với họ mà thấy mà thấy tự chính mình mới là kẻ gây ra tội lỗi. Nếu tôi đừng sa vào cuộc, cuộc tình của họ sẽ như trăm ngàn cuộc tình khác. Có tôi vào, nó chia ba và trở thành xấu, thành tội. Lúc ông khách ra về tôi tránh không đưa tiễn ông, tôi đứng trong cửa sổ chỗ giường bà bạn nhìn ông qua lần kính. Bà bạn trở vào nhìn tôi mỉm cười, nhưng rồi bà như nghi ngờ điều gì, mặt bà chợt tư lự. Chúng tôi lo dọn dẹp bữa ăn, sau đó ai về giường người ấy. Bà bạn mời tôi hút thuốc, trở trở dậy đi lại phía giường bà lấy thuốc hút. Khói thuốc cay và đắng xốc lên mũi và làm tê đầu lưỡi.
Tôi cười bảo:
– Có ngon lành gì đâu mà bao nhiêu người nghiện thế.
Bà nhìn tôi cười bao dung nói:
– Vậy đừng tập làm gì.

Bà nói và bảo tôi bắc ghế lại gần bà ngồi và nếu thích thì hát cho bà nghe với. Tôi lấy ghế và đàn lại, dù cay bỏng miệng tôi cũng nhất định không chịu bỏ thuốc đi. Tôi hát cho bà nghe ít câu trong bản nhạc “Ngày Đó Chúng Mình” của Phạm Duy. Bà nằm yên lặng mở mắt mơ màng nhìn lên trần. Khói thuốc thơm vẽ trên mặt bà những đường mỏng mềm mại. Em hát cho anh, cho em, cho cuộc tình không tên của chúng ta: “Ngày đó có em ra khỏi đời rồi, và đem theo trăng sao chết cuối trời u tối…Ngày có kêu gọi hồn người, trùng dương ơi có sót sa cũng hoài mà thôi …”
Nghe tôi hát xong bà bảo:
– Em phải tìm cách chữa cái mặt mới được.
Tôi nói:
– Để tôi có thể trở thành một người vợ đẹp đẽ sao?
Bà tiếp:
– Chúng ta đều là những kẻ tàn tật cả. Nhưng …như thế để đỡ bi thảm đi.
Đây là lần thứ nhất tôi nghe người ngoài đề cập đến vết thương của mình mà không thấy đau sót hay buồn. Vì đó là một ước muốn tốt, thật, của bà đối với tôi chăng? Hay niềm đau ấy đã trải qua quá nhiều cơn và ngày tháng, nên đã trở thành trai cứng ?

Tôi nói với bà, thực ra có lắm lúc tôi cũng không biết có phải ước muốn thứ nhất trong đời tôi là chữa khỏi bệnh chăng? Bà bảo, ôi nghĩ thế thì biết thế nào mà lường, cảm thấy cần làm gì thì hãy cứ làm đã chứ. Tôi nói, lắm lúc tôi thấy bà thật là lãng mạn lúc lại thấy bà thật thực tế. Bà bảo bà ít để ý đến sự phân tách về mình. Vì nếu cứ quanh quẩn với việc dò la mình thì đến phát điên. Nhưng bà cũng tin lãng mạn chỉ là nhận xét của tôi, chứ bà tự thấy bà không phải thế. Tôi hỏi thế cuộc tình của bà với ông khách không mang một chút tính lãng mạn nào sao ? Bà cười đáp, nếu nói như cô thì ai cũng lãng mạn hết. Tôi nói, tôi tin đó là vật báu của đời người nó làm cho chúng ta trở nên dễ thương và đẹp trước mặt người khác. Bà ngồi cao lên dựa lưng vào thành giường,duỗi thẳng hai chân dưới lần chăn mỏng nói, có lẽ sự cần thiết đó đối với mỗi người khác nhau chăng ? Tôi không biết tôi đã có nhìn người khác qua con mắt lãng mạn không ? Bà tiếp, nhưng nếu sống như em mọi quyết định đều quan trọng cả. Tôi nói, nếu quyết định đó liên quan đến mình. Bà bảo, như thế có khi lại có nghĩa ngược lại, không có gì quan trọng đối với em nữa. Lời nói của bà làm tôi sững sờ. Nếu việc gì em cũng cho là quan trọng thì có gì quan trọng nữa đâu, bà tiếp. Tôi bật cười trước lối giảng giải của bà. Buổi trưa giống những buổi trưa khác lọt vào phòng những tiếng động nhỏ của các cành cây và lá va chạm, tiếng máy nổ ở xa. Một cảm tưởng thân yêu chợt nẩy ra trong lòng tôi đối với bà, cùng một lúc tôi cũng nhớ lại hình ảnh bà ở trong khu rừng với ông khách? Treo cây đãn lên chiếc đinh trên tường, tôi nói với bà bạn những lời xua đuổi những ám ảnh bực bội. Bà rủ tôi buổi chiều nếu muốn thì đi chơi với bà xem bà đánh bài. Tôi nhận lời. Bà nói, cô sẽ học được đủ mọi tật xấu. Tôi nói đùa với bà, tôi chỉ còn thiếu có những tật xấu thôi, để trở thành hoàn toàn. Tôi cũng hỏi bà thích đánh bài lắm sao ? Bà chặc lưỡi làm bộ điệu lắc đầu bảo, không nên hỏi một người nào câu hỏi ấy. Nhưng theo bà, đánh bài là một đam mê thích thú. Nói quá ra, nó biểu hiện một tinh thần độc lập và ưa chuộng tự do. Bởi không lúc nào người ta cảm thấy tự do và toàn quyền bằng khi quyết định cây bài. Và bà thêm vào sau hết, nhưng dầu sao thì đó cũng là một biểu hiệu tai hại. Tôi hỏi, bà lục ở đâu ra những lý lẽ kỳ cục đó ? Bà cười đáp, ở trong sự hư thân và những ngày sống một mình. Bà nói và nhìn xuống hai bàn tay mình đang úp trên bụng. Hơi thở của bà phập phồng đưa tấm chăn và hai bàn tay lên cao, xuống thấp.

Tôi hỏi, bà có yêu ông khách không? Bà cười bảo, sao cô cứ băn khoăn về chuyên đó. Ông ấy cũng là người đáng yêu đấy chứ ? Lối trả lời không trả lời của bà làm tôi ngượng. Bà tiếp, đối với tôi tình yêu có thể đến trước hay sau cuộc gặp gỡ giữa hai người cũng được. Tôi nói, tôi đã cố gắng nhưng không thể nào có được một quan niệm sống chắc chắn như bà. Bà vẫn cười, bộ cô tưởng tôi nói như thế có nghĩa là những khuôn số, nếu mọi việc rơi vào trường hợp sẽ có những giải đáp nhất định à? Tôi cũng cười bảo, tôi đang ngớ ngẩn. Chiều tôi đi theo bà xem đánh bài và mặc dầu cố để ý tôi cũng vẫn không phân biệt được vài cái khung với các chữ. Vì không biết chơi, nên ngồi một lúc tôi chán bỏ về nhà nằm đọc sách. Nhưng sách cũng không đọc được. Căn nhà trống trải, tôi thấy buồn, đứng dậy đi lại trong nhà, tới phía cửa sổ, ngó ra con đường ông khách đã đi qua. Ở ngoài đó bây giờ là buổi chiều. Trời xám và những cây thông den thẫm vẽ vào triền núi những cành lay động. Tôi mở toang cửa sổ và nghe tiếng chim sáo kêu rất lớn lọt vào phòng./.

Nguyễn Đình Toàn

Nguyễn Xuân Thiệp

Nguyn_Xun_Thip

Về nhà, về nhà…

Nhà đâu, chỉ thấy đường xa mịt mùng

Hai câu thơ trên là đề từ của một truyện ngắn trong tập Lênh Đênh Qua Cửa Thần Phù của Dương Nghiễm Mậu. Hai câu thơ nghe thật buồn, diễn tả tâm trạng của một con người tuyệt vọng trên đường dài, giữa cõi đời từ nay không còn nơi chốn để đôi chân hướng về.

Với Nguyễn, hoàn cảnh hình như có chỗ tương tự với nhân vật trong truyện. Về nhà, đó là mong ước lớn nhất, thiết tha nhất của một con người. Về nhà, vâng. Nhưng còn nhà đâu nữa mà về. Ở bên kia một con sông, ở bên kia một cánh đồng hay biển rộng, chỗ đó là nhà của ta thuở xưa phải không. Hình như là vậy.

Vâng, thuở xưa Nguyễn cũng như mọi người, từng có một mái nhà thân ái, che mưa che nắng suốt bốn mùa.

xin cho tôi được một lần
trở về trong căn nhà tuổi nhỏ

Nhớ đã có lần mình viết lên như thế. Nó là một ước nguyện. Ngôi nhà đó ở Vương Phủ. À, mới sáng nay thôi, qua không gian ảo, có người nhắc lại: những cây bàng, mái ngói, hàng tre, hàng dừa, cây bưởi bên cửa sổ. Và bờ ao xanh… Có phải rứa không?…Sở dĩ người bạn văn nhớ kỹ như thế vì đã nhiều lần, rất nhiều lần mình tả ngôi nhà ở Vương Phủ trong những bài tản mạn. Đó là căn nhà thời thơ ấu, cạnh nhà của Võ Ngọc Trác, nhà thơ siêu thực. Vừa rồi, Đinh Cường về Huế, Nguyễn có nhờ chụp những cây bàng ở Vương Phủ và ngôi nhà thuở ấy. Nhưng trong những tấm hình Cường gởi, không còn thấy đâu bóng dáng ngôi nhà xưa, chỉ có nhà Võ Ngọc Trác (nay cũng hoàn toàn đổi khác) với bàn thờ nhà thơ. Nguyễn cũng có gọi điện cho Trần Vàng Sao ở Vỹ Dạ, hỏi về xóm Vương Phủ, nơi có ngôi nhà thơ ấu, ngày xưa.… Trần Vàng Sao trả lời: Anh ơi, đã đổi thay hết cả rồi. Vậy đó, làm sao Nguyễn về tắm lại bến sông sau nhà cô Dạ Khê?

Về nhà, về nhà… Đó có thể nào là ngôi nhà ở số 3 Nguyễn Trường Tộ, Đà Lạt. Ngôi nhà nhìn qua hàng thông xuống tận Hồ Xuân Hương. Những bậc thềm đá xưa có bông hoa quỳ nở, cạnh khóm lau gầy. Và trên mái ngói còn mảnh trăng đong đưa? Nguyễn cũng đã hơn một lần nói về ngôi nhà này.

đi qua
đi qua
chiều
trước thềm ngôi nhà ấy
những cánh hồng. khô
của tháng tư. ai vừa đốt
cháy lên
màu nắng. còn đau. ký ức tôi
hay đi qua
khu chung cư trên đồi thông. những bậc đá. và cỏ lau
số 3. nguyễn trường tộ
thấy gì trên con dốc
ngọn đèn. ai thắp lên trong chiều
bông dã quỳ. ôi
đã chết

Ngôi nhà số 3 Nguyễn Trường Tộ. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát ở đây. Lê Uyên Phương đã cho Nguyễn nghe Sử Ca ở đây. Nhà văn Võ Hồng và bạn Duy Năng tới thăm Nguyễn ở đây. Và Thanh Sâm, và Đinh Cường, Lê Văn Ngăn cùng nhiều bạn bè nữa từng lui tới, có người ở lại một đêm hay đôi ngày. Căn nhà, chắc vẫn còn đó, với cây thông già, những bậc thềm đá, và khóm lau… Còn đóa quỳ vàng, e đã chết cùng mặt trời thuở ấy.…

Về nhà… về nhà… Nhà đâu? Căn nhà ở tầng 3 Lô J Cư Xá Thanh Đa nhìn ra mặt sông chăng? Đúng là thế. Ôi con sông, không phải sông Hương mà sáng chiều lúc nào cũng đẹp. Nguyễn và các bạn thường ngồi ở sát balcon, nhìn ra sông uống rượu vào những ngày đầu xuân. Tháng 5 năm 1995, Nguyễn gặp bạn bè ở đây lần cuối rồi ra đi không nghĩ tới ngày trở lại. Từ đó tới nay, tất nhiên bản thân mình và gia đình cũng sống dưới những mái nhà nhưng đó không phải là nhà mình. Với Nguyễn, nhà cha mẹ mình là nhà mình, còn nhà của con cái thì không phải thế huống chi là nhà thuê.

Vậy, xin nhắc lại: về nhà, đó là mong ước lớn nhất, thiết tha nhất của một con người. Về nhà, vâng. Nhưng còn nhà đâu nữa mà về. Ở bên kia một con sông, ở bên kia một cánh đồng hay biển rộng, chỗ đó là mái nhà của ta thở xưa phải không? Hình như là vậy. Nhưng đường về nay đã quá xa.

Vệt Nắng Chiều Nay

chiều
một mảng nắng
bay lạc vào sân
khiến lòng chợt vui
như khi nghe tiếng cười của trẻ
biết mùa xuân đang trở về
bầy chim trốn rét cũng đã trở về
người thi sĩ
với túi bản thảo
và cây đàn gỗ. xưa
cũng đã trở về
dưới mái nhà
nghe bếp lửa reo
nụ cười của mẹ
ôi vệt nắng chiều nay
sao thân yêu thế

Mùa Đông Của Tôi

đêm mùa đông
ngồi đốt một ngón nến
nhớ
bình trà. mùi hương hoa hồng
và những chiếc lá. trên bàn

giấc mơ
của tranh tĩnh vật
ngoài trời
tuyết chưa tan. những mái nhà. im lặng
con chim. đậu trên cây. sáng nay
đã bay chưa
dường như
không còn ai
không còn ai
về lại
con đường của mùa thu trước. dưới lá khô

Những Con Chim Hải Âu

những con hải âu
chiều nay
bay quanh hồ nước. từng đàn. từng đàn
chúng đùa vui. kêu rân. trong nắng
a. có phải đây là những con hải âu mùa nào
lại trở về
mang trên đôi cánh
những ảnh hình
nay chỉ còn là cái bóng của hàng cây
anh chợt nghĩ tới em
giờ này cũng ngồi bên hồ nước. ở chinohill. bên những gốc thông. thơm mùi nhựa mới. trong nắng chiều nhẹ rơi. nắng chiều và chiếc khăn lụa với những bông magnolia màu tím
nghĩ đến một câu thơ đã viết
về một bức tranh
với người chơi vĩ cầm trên những mái nhà
hải âu ơi
hãy bay về phía đó
mang cho người tiếng nói của tôi
và chút hương. của ly rượu. chều nay
chim nhé

Cậu Bé Đi Tìm
Mặt Trời Trong Đám Lá Khô

đôi khi
thấy buồn
anh muốn làm cậu bé
đi tìm mặt trời trong đám lá khô
cậu sẽ gặp
con ong của emily dickinson
kể chuyện mùa hoa loa kèn sắp nở
và cậu cũng gặp
con dế. gáy. dưới bụi cỏ
kể chuyện vầng trăng lãng du
cậu đi lang thang
qua xứ của hoa fuki
tuyết vừa tan
nắng lên rực rỡ
cậu gặp những vị bụt tí hon
cùng nhau múa hát
quên đường về

chỉ là chuyện xưa. cổ tích. thôi
cũng xin gởi tới người

Khúc Thơ
Sáng Mùa Đông
Trời Không Có Nắng

buổi sáng trời không có nắng
ngồi một mình. với tách trà. và nhớ
như sông
collage từ những mảnh vụn. thời gian

chợt thấy lại
con bướm vàng. trên hàng dậu. thuở ấu thơ
tiếng còi tàu
sân ga. không đốm lửa
cây cầu. như cánh con albatross sa trên dòng nước
tôi không về nữa
chỉ có mái ngói màu nâu. vương phủ. và cây bàng thức đợi
chim én ơi
còn bay lượn trên những cột buồm. bến bạch đằng
và mái lầu hotel du parc
tôi đi
mang trong hồn. gầy. những cánh bay. chớp xé
đường chiều
vỉa hè gạch xám. người đứng đợi người. bao năm
tiếng kèn thê thiết
biệt ly. ngàn dặm. nghiêng nghiêng qua trời. sóng chao
những chiếc lá thông khô. dưới chân. mùa thơm cổ tích
th ơi. th ơi
mặt trời treo cổ. trên nóc nhà thờ con gà
ngước nhìn. thời gian. collage hồn. lưu xứ
bay. bay
những cụm tuyết. trưa qua. còn đọng trong hồn
trên khung cửa sổ
chợt thấy
cây sồi
bóng quạ
tôi đi. qua lưu đày. với áo rách vai
hồn du thủ
nửa đêm. tìm bóng. dưới mái gồi
khóc nghẹn. bát cơm chiều. trộn sắn. và muối hột
tôi về
sài gòn chết
vầng trăng. rũ tóc. trên con sông. cầu kinh
mùa hạ
tiếng ve kêu. ôi tuổi nhỏ của tôi
hát lên đi ve
dù bụng đói
như tôi vẫn hát. lời vô ngôn
với cuộc đời. với người. hư ảo ngày trôi qua trong ngôi nhà gỗ rừng hoa fuki
hư ảo. như giấc mơ nơi thành phố biển. với hàng cọ. và căn phòng mặt trăng
và giấc mơ. về lại trên sân nhà
đốt lên đống lửa. lá bàng. sưởi ấm
tôi
hồn lãng du. collage thời gian. của gỗ. và đá

Xin Cứ Bình Yên,
Ngưòi Sẽ Về

mùa đông
còn lại bóng cây khô như trong thơ e. e. cummings
và những mái nhà
mặt trăng trên bức tường. run. trong những lời kinh của gió
nước mắt. những giọt tuyết rơi
đọng lại
cánh chim. bay ngang bầu trời
tơi tả
thôi
hãy bình yên
xin cứ bình yên
người sẽ về
mang theo nắng của mùa hè qua
sưởi ấm
bàn tay. mùi oải hương
những tiếng chuông. của chiếc đồng hồ nhà ga xưa. thầm gọi
đã nghe thấy. từ xa
cỗ xe. và hai con ngựa
chiếc lồng đèn. soi bóng
người về
người sẽ về
với màu đỏ của môi và rượu
trong quán chateau
cô hầu bàn đã bày ly tách
trên mặt bàn gỗ nâu
những bông loa kèn đang chờ đợi
người về
người sẽ về
trong hương nắng mới

Về Như Cây Đứng Khóc

dù ở một nơi xa. thật xa
vẫn nhìn thấy
căn phòng. và ngọn đèn. mắt ai
bên bông hồng đỏ
như lời gọi
của một người, gởi một người
về đi. về đi
kẻo mai
gió lạnh đầy
không còn ánh lửa

dù ở một nơi. xa thật xa. xứ của mặt trời mù. quạ. và cánh đồng
cũng tưởng như trước hiên nhà
nơi có khóm oải hương. và mùi cà phê. buổi sáng
một người ngồi đợi
đã bao năm
đợi ai. chờ ai
từ bức tranh siêu thực. bước xuống
hay từ bài serenade
bay lên
hay từ thơ e.e.cummings
về lại giữa đời này
như cây
đứng khóc

Đà Lạt Ở Một
Góc Khuất Của Virginia

em và bầy chim én
vẫn bay trên phố xưa
những mái nâu. cao. thấp
quán sách. hương cà phê
(NXT)

Người viết đã thật sự được sống cái không khí thoảng mùi nhựa thông của Đà Lạt khi ngồi với các bạn ở nhà Nguyễn Minh Diễm, thành phố Alexandria, Virginia, tối chủ nhật cách đây cũng đã dăm bảy năm. Buổi họp mặt gồm vợ chồng Diễm, vợ chồng Thanh Quang, anh Phúc và vợ là Thanh Trúc, Lê Khắc Huyền và kẻ này. Ngô Vương Toại nói sẽ cố gắng đến, cuối cùng đã không đến được. Tối hôm ấy, món giả cầy chị An Thục Đức vợ Diễm nấu thật tuyệt vời.
Ngồi ở một góc khuất của Virginia mà tưởng như đang ở Đà Lạt, trong ngôi nhà đường Nguyễn Trường Tộ hay Nguyễn Du nhà Diễm hay Calmette nhà Nguyễn Quang Tuyến. Ba mươi năm qua rồi mà như mới hôm qua. Như cùng có mặt Lê Văn Ngăn, Hoàng Khởi Phong, Thái Lãng và bạn Tuyến và bạn Nguyễn Thạc. Như chúng ta vẫn ngồi với nhau như thế này, rất nhiều lần, những năm tháng ấy. Không, không hề có biển dâu, xa cách…
Và Phùng Văn Hưởng vẫn đọc Hồ Trường, hát cho chúng ta nghe ThiênThai -Hưởng nay không còn nữa, than ôi. Bởi trong buổi họp mặt có hai người mà trí nhớ như một cuộn phim chiếu lại từng đoạn từng đoạn –đó là Nguyễn Minh Diễm và anh Phúc, chồng Thanh Trúc- tôi đã thấy lại, tôi đã thấy lại những cây cầu, những con đường, những dãy phố… Và hàng thông sau nhà ga Đà Lạt. Và Nhà Thờ Con Gà đứng trong sương. Những con chim én bay dưới mái Hotel du Parc nơi đặt Đài Phát Thanh. Và ai như tôi đứng trên góc lầu cao nhìn xuống con đường Nhà Chung, đường Tự Đức. Và ai mắt màu hoa pensée trong đêm màu hồng của Night Club. Cầu Bá Hội Chúc, cầu Ông Đạo rồi thì quán cà phê của Dì Ba, ôi cái kiosque thứ hai ấy trên lối đi vào hàng bán hoa dưới chợ Hòa Bình. Chính ở đây, trong cái kiosque đèn màu này, nhiều đêm Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Bửu Ý và kẻ này ngồi ngắm Dì Ba ngây ngất.
Chúng tôi nói với nhau mà không sợ mất lòng các giai nhân khác của thành phố: Dì Ba xứng đáng là trang quốc sắc, người đẹp nhất Đà Lạt ở những năm tháng ấy. Anh Phúc, vì có Thanh Trúc ngồi bên, không dám đồng ý, nhưng anh nói anh quen, rất quen với chồng Dì Ba lúc bấy giờ làm nghề bán bảo hiểm. Ôi, Dì Ba đâu rồi… Nhớ Đinh Cường có vẽ một portrait về Dì Ba rất đẹp trưng bày ở phòng triển lãm Alliance Francaise. Dì mặc áo nhung màu rượu chát, tóc dài, mắt xanh đen. Ôi. mắt em xanh như đêm dài / Để người quên kiếp mai… (Phạm Duy)
Và con đường Duy Tân, chỗ quán sách Nhân Văn nhìn lên là nhà của nhà khảo cổ Nguyễn Bạt Tụy. Không hiểu cái ngôi nhà kiến trúc rất lạ, như tổ chim, nằm trên đầu con dốc ấy, còn không? Và Huỳnh Chùm, người đánh xập xám chuyên binh lủng, và Trần Hoài họa sĩ… nay về đâu. Tôi nói với Nguyễn Minh Diễm: Tuyến vừa email cho biết Hạnh Chi đã sang Mỹ.
Năm 1979, Tuyến về lại Đà lạt, một buổi chiều đi bộ lên con đường dốc Nhà Thờ Con Gà, thấy Hạnh Chi ngồi ôm con trên bậc thềm, mắt nhìn ra phía hồ Xuân Hương. Ôi, Hạnh Chi cũng là một nhân vật đặc biệt tiêu biểu của Đà Lạt. Ngày ấy, nàng thường lững thững đi từ phố, qua cầu rồi lên dốc nhà thờ về ngôi nhà ven đồi dã quỳ trong đường Nhà Chung. Đi bộ, một mình, tóc dài bay theo gió, đôi khi cầm một đóa hoa hồng. Tôi tự hỏi, sau 1975, Chi có còn đi như thế không? Và tôi thấy tôi về lại, như hồn ma nhớ hơi lửa ấm:
đã về. dốc sương mù
đã về. cây hoàng hôn
tiếng gà trưa vẫn gáy
bông phù dung. trong vườn
em và bầy chim én
vẫn bay trên phố xưa
những mái nâu. cao. thấp
quán sách. hương cà phê
Ở đó, những dãy phố rợp bóng dù. Giờ đây trong căn nhà của Diễm, ở một góc khuất của Virginia, kẻ này được thấy lại hình bóng của tiện nội ngày xưa:
Tôi thấy em đi. giữa chiều áo lụa
Dãy phố dài. thấp thoáng. bóng dù xưa
Em. tay dắt con. mắt nhìn trời rộng mở
Khi nắng reo hanh vàng. mùa mới sang thu…
Các bạn ơi, chai rượu màu ráng trời hoàng hôn kẻ này mang tới dường như đã cạn, xin mở chai khác. Hình như lúc chiều trên đường tới đây, kẻ này có thấy xe chạy qua những hàng thông. Đẹp, đẹp lắm, nhưng làm sao đẹp bằng thông Đà Lạt, trên đường lên Dinh 2 tới nhà Hoàng Khởi Phong. Ở đó, trong nhà Hiển nhìn xuống thung lũng đầy thông, một đêm nào họp mặt trong ánh lửa củi ngo từ lò sưởi, có cả Thái Lãng và Trần Hữu Lục, Nguyễn đọc Trong Vườn Tôi Hoa Phù Dung Đã Nở. Diễm chắc chắn còn nhớ, còn Thanh Trúc thì ngoài cuộc, lúc ấy e còn nhỏ xíu?
Đà Lạt, ở một góc khuất của Virginia. Thật ra chỉ là những ảnh ảo, như trong một bức thư Trà viết từ Woodbridge: “Thành phố vẫn chìm trong sương mù. Từ cửa sổ tầng hai nơi làm việc, Trà đang ngắm một Đà Lạt yêu dấu của Th. Không có tháp chuông nhà thờ, không màu đỏ trường Yersin, không có con đường mang tên Nguyễn Trường Tộ, và cũng không có quán cà phê của Th. và bè bạn… “

Trà. Hoa Cúc

bình trà
những cành hoa cúc màu vàng
nỗi nhớ
trong căn phòng
của những chiếc lá và tranh
mù sương. mù sương. ngoài của sổ
k. ơi
anh gọi đó là thơ
là nghệ thuật
haiku

mai sau
sẽ có một lúc nào đó
thấy lại bình trà
và những nhành hoa cúc
trong bình
và trên mặt bàn
anh sẽ kêu lên
thơ ơi. trà ơi
dẫu nhiều ngăn cách
như giấc mơ vượt lên đời sống này
vượt lên nỗi đau. bệnh tật
dẫu chỉ một lần
như chiếc lá khô. bay

Chào Boston Chào Bạn Bè

từ giấc mơ của cơn giông
xứ sấm sét
tôi tới đây. chào boston
chào bạn bè anh em. thành phố cổ

và xin tặng nhau, thơ này
của xứ
hoa hải đào. nở đầy trong màu nắng
tháng mười
theo chim. tôi đến đây. gặp boston
gặp bến cảng mù sương. ánh đèn. soi góc hè gạch xám
ôi. lou giờ đã xa. trăng gầy đỉnh whispering pine. hồn thảo mộc
và ly cà phê. trong trí tưởng. uống ở harvard square. với cái bóng của mình.
và hoàng thị bích ti
không còn thấy. phố tàu. los angeles
mưa sương. mưa sương. cầu longfellow

này anh em. bạn bè
chúng ta đã đi hết biển
qua các đại dương. và châu lục
không về lại mái đình xưa
bá ngọ
thời của quỷ
ngói lở. cột xiêu. sen tàn. mùa hạ chết
để gặp nhau đây. điểm hẹn boston
con tàu may flower. bắc qua thế kỷ. ký ức của tiếng sóng bờ xa
về phố biển. trời.plymouth

vâng. tôi từ xứ bò. miền đồng cỏ
hái bông vô ưu. ngày nắng phai
chào boston. thế giới dường như rất nhỏ
xướng ca. ồn. quên lệ rơi

Đọc:
Mơ Cùng Tôi
Giấc Mơ Đà Lạt

đọc ‘mơ cùng tôi giấc mơ đà lạt”
của Phạm Cao Hoàng
tôi gặp. và yêu
những câu thơ lục bàt. anh viết cho cúc hoa
cả những trang văn
về những ngày cúc hoa bị nạn
ôi. một tình yêu thật đẹp. và sắt son
đọc phạm cao hoàng
tôi còn được về lại
đà lạt
với những bông dã quỳ
và những con đường thân quen
cà phê tùng
quán sách nhân văn. chỉ còn cái bóng. và bạn bè. và những con chim én
quán lục huyền cằm
của lê uyên & phương
nơi đây. noel 1973
cùng với thái tú hạp. hoàng khởi phong. lê văn ngăn
trong ‘đêm đọc thơ & hát thơ’
tôi được sống không khí của nghệ thuật. và thi ca
trong mùi của sương mù. của cà phê và trà tường vi
ôi. làm sao quên
cũng tại lục huyền cầm
trong thơ và nhạc. phạm cao hoàng đã gặp cúc hoa. lần đầu
từ đó đi bên nhau trọn kiếp
tôi còn thấy
gốc thông già
nơi hoàng và hoa chụp chung bức ảnh của thời mới yêu nhau
dung cũng đã chụp cho tôi
noel 1961
một bức ảnh đứng dựa gốc thông
thời mới cưới
bao nhiêu năm. như mây. trôi qua
phạm cao hoàng và cúc hoa. lại ngồi bên nhau. trong nhà thủy tạ
hoàng uống ly hennessy. còn hoa ly cà phê sữa
như thuở nào
ôi. tôi biết về đâu để gặp lại người của tôi
dắt tay nhau ra thủy tạ
ngồi chờ trăng lên
phạm cao hoàng và cúc hoa
có đi lên con đường nguyễn trường tộ
chỗ đối diện với khách sạn au sans souci
là nhà tôi thuở đó
nơi điểm hẹn của diễm. thái lãng. lê uyên phương. đinh cường. khánh ly. trịnh công sơn. thanh sâm…
ôi. làm sao nhớ hết
cảm ơn phạm cao hoàng đã cho tôi sống lại
một thời tuổi trẻ dấu yêu
xin cảm ơn

Nhịp Bước Mùa Thu

sáng nay. tôi lắng bước mùa xưa
chim nhỏ. năm nao. đậu khóm dừa
sông chớm đôi bờ thu quạnh quẽ
đường dài, son đỏ. quán lau thưa

nhà ai. phơi áo. ngoài hiên nắng
nắng tắt trưa qua. lạnh bến chờ
cây ố. sắc tường. vương phủ ấy
trẻ nghèo. nhặt lá. ngói rơi. hư

nghìn mùa. sương khói. dậy âm vang
lộp bộp. hiên sau. trái rụng vàng
bóng sậu. kêu qua bờ mía dại
xa nhau. mùa thu. mưa trong trăng

em đi. nhịp bước dạo đôi mùa
áo biếc. chìm trong dáng núi xa
trống lẻ. trường bên. hờ hững điểm
hoàng thành vừa chợp giấc mơ trưa

thời đại xây trên lòng quá khứ
tiếng mùa. hốt gió. rắc ly tan
này em. nhìn lại nương cày cũ
mặt đất. khô se. bặt tiếng đàn.

Đêm Mùa Đông
Thức Giấc
Nghe Tiếng Hót Chim Họa My

đêm mùa đông
một cơn ác mộng
đánh thức tôi
2 giờ 45 phút sáng
em. em có chờ tôi. trên ngọn đồi sương tím
sao mãi hoài tôi đợi
mong. gặp lại nhau một ngày nào

tôi nằm. nghiêng tai. lắng nghe
dường như. trong vòm lá tối. ngoài khung cửa
có mảnh trăng thượng huyền. và tiếng chim họa mi
hót
tiếng chim họa mi
như từ thơ. tomas transtromer
trong đêm khuya
cất lên. lảnh lót
như lời trẻ reo
ôi. tiếng chim họa mi. đến thăm tôi
ý chừng thấy tôi cô đơn. tuyệt vọng
bảo tôi
sẽ không có chia ly. và cái chết
không có. những cánh đồng của tóc. và môi khô
không có. ngọn gió của gai nhọn
người đi rồi sẽ quay về
em và tôi sẽ bay lên
như trong tranh chagall
lovers and half moon
bay lên trong tiếng hót họa mi
chúc phúc mọi người. và cuộc đời
mãi mãi bên nhau
như chưa bao giờ có chia tay. mùa đông. và những chuyến gió

Nguyễn Xuân Thiệp

Nguyễn Thị Khánh Minh

Nguyễn Thị Khánh Minh

Phạm Thu Dung,
Kể Chuyện Thời Gian
Theo Dọc Đường Đất Nước

Khi gấp cuốn sách của Phạm Thu Dung lúc 2 giờ sáng, ý nghĩ đến với tôi đầu tiên, như thể tôi vừa xem xong một bức tranh. Việt Nam Yêu Dấu như một bức tranh cuộn, đang bung ra cho người xem, những thời gian nối tiếp nhau, người xem tự mình cảm nhận sắc mầu của nó, nhận những ánh sáng tối tùy theo chỗ đứng của mình và tự họ khoác cho nó ý nghĩa theo cách nhìn của họ. Có muốn tìm họa sĩ thì chẳng thấy đâu nữa…

Chỉ nghe đâu đây giọng kể trầm tĩnh nhẹ nhàng về ký ức thời gian… Hoàn cảnh đất nước qua nhiều giai đoạn, khung cảnh địa lý các miền, nơi chốn xinh tươi…, nơi chốn đạn bom…, mà thành Việt Nam Yêu Dấu, trong đó người đọc đi theo nhịp sinh động của một gia đình dẫn dắt bằng những ý nghĩ hồn nhiên trong sáng của một cô bé tên Uyển Nhi. Gia đình ấy từ lúc mẹ gặp cha, đến thuở mẹ về là về với cha, đến thuở mẹ mang ối a đầy lòng* những đứa con… Từ chữ Từ cho đến những chữ Đến…, không tưởng được là những gì đã ập vào mái ấm ấy. Họ như luôn ở trên một con tàu bập bênh giữa đại dương, cứ vượt qua cơn sóng gió này lại tiếp đương đầu với bão táp khác. Và vì giọng kể tự nhiên như của một khán giả chứ không phải là nhân vật chính mà Việt Nam Yêu Dấu đã đập vào ta những nhịp tim đau buốt. Tôi biết cái bình tĩnh trầm lặng của người đã chạm mặt với tận cùng đau khổ. Và tôi quá khiếp hãi cái đại dương cuộc đời! Mà cuộc đời ấy lồng trong phận nổi trôi của một đất nước mà tác giả đã trìu mến gọi, Việt Nam Yêu Dấu (VNYD).

VNYD đan xen những thời hạnh phúc ngắn ngủi lẫn bi thương trong những giai đoạn khốc liệt của lịch sử Việt Nam. Trong đó kẻ phải hứng chịu thiệt thòi là trẻ thơ. Mà theo tác giả, ở đâu trên trái đất này, những quốc gia bé nhỏ không có quyền quyết định vận mạng của mình thì nơi đó là nơi để những đại cường quốc mở cuộc thư hùng. Trước lời hỏi này, hỏi ai có rúng động lương tri:

Ai đánh cắp tuổi thơ và giam cầm chúng tôi trong những hình hài tàn phế này? (trang 18)

Với bất hạnh mà Phạm Thu Dung và triệu triệu trẻ em, nạn nhân của chiến tranh, phải chịu, chúng ta chỉ biết im lặng và cúi đầu. Ngôn ngữ bất lực. Hãy nghe trái tim ấy đập những lời,

Tôi bắt chước Chizuko, gấp giấy thành hình chim hạc, tặng em Iraq, Libya, Syria cầu xin hòa bình đến trên quê hương các em. Tin tưởng nơi Thượng Đế và tha tội cho tôi nếu em hiểu rằng chúng ta cùng là nạn nhân của các Đại Cường Quốc. (trang 19)

Thật tình, tôi không hiểu những kẻ nắm vận mạng những đất nước bé mọn khi đọc những dòng này có chút hổ thẹn nào không, có chút phản tỉnh nào chăng? Chính một nạn nhân trực tiếp của chiến tranh lại lên tiếng thú tội và cầu xin tha thứ! Có phải vì chính mình là nạn nhân mà tác giả cảm thấy mình đủ tư cách gánh lấy trách nhiệm trước nỗi đau của kẻ cùng số phận và lên tiếng thú tội nhân danh thân phận mình đã, đang gánh chịu? Không lên án, không phê phán, mà là Lời Thú Tội (trang 15). Tôi cứ phải ngừng đọc để đưa tay lên chận những nhịp thổn thức trong tim mình.

Cũng chính vì thế, dường như, qua lời kể của tác giả, chúng ta chợt nhận ra người lớn phần nào đã đánh mất lòng tin cậy của trẻ, khi tác giả đã nói, Tôi viết cho trẻ con xem…(trang 16), tôi càng nhận thức rõ cái tàn nhẫn và vô tâm của thời đại chúng ta đang sống. Mỗi ngày người ta được làm quen nhiều hơn những tàn ác mà con người gây ra cho nhau, thậm chí, cái đói, cái chết của trẻ thơ -mà người ta luôn nói là tương lai của nhân loại-, cũng không được đặt lên bàn chính trị để cân nhắc khi nhóm một ngòi nổ chiến tranh. Lợi lộc trước mắt khiến người ta đã lờ đi cái tương lai ấy. Vậy trẻ thơ tìm gì để nương tựa vào người lớn, có chăng, là những con người cùng chung số phận lên tiếng và đứng tựa vào nhau. Tiếng gọi nhân ái yêu thương ấy, là Việt Nam Yêu Dấu, mà bạn đang cùng tôi mở ra từng trang, theo nụ cười và nước mắt, trên từng dặm con đường cong cong chữ S.

Những thời gian tuần tự hiện ra theo ký ức tác giả, như trên tôi đã nói, nếu chúng ta kéo ra thành một bức tranh dài để nhìn một cách tổng quát, tự nhiên nó sẽ đưa đẩy ta tới nhận xét, quãng thời gian nào trong lịch sử Việt Nam, con dân đã có được an lạc hạnh phúc, thông qua nếp sống của gia đình bé Uyển Nhi, điều ấy, vô hình chung, họ là những chứng nhân của lịch sử. Tác giả có được bình tĩnh để chỉ đưa ra sự việc, qua suy nghĩ hồn nhiên của cô bé, không biết, và một đứa trẻ thì không cần biết gì khác ngoài việc, em và gia đình sống với nhau, no ấm hạnh phúc. Chỉ cần một chỉ tiêu này quyết định sự nhận định về một thể chế, một quốc gia hạnh phúc.

Chương 1 và 2, Mùa Xuân Phú Thọ và Mùa Hè Ở Đồ Sơn. Nói về thời trẻ của ba mẹ Uyển Nhi. Đi theo bước tác giả vào bức tranh một miền Bắc yên ả, thanh niên thiếu nữ tân thời miền Bắc được sống, học hành và ăn diện rất theo trào lưu của thế giới, dù còn vài hạn chế theo quan niệm cổ xưa, con gái thì không cần học cao lắm, như mẹ cô Phương Quỳ nói “không, phải giữ phong tục cổ truyền. Cha mẹ đã nhầm lẫn khi cho con học Đệ Nhất Cấp. Hết năm nay, con ở nhà sửa soạn lấy chồng” (trang 28). Rồi những phong tục đón Tết thời đó, chúng ta thấy được đó là một nét văn hóa đẹp đã phôi pha ít nhiều theo thời gian, thật tiếc. Thấy được không khí đi Chùa Hương ngày xuân, có cảm giác như nam thanh nữ tú thời đó rất hợp với không khí u tĩnh của Chùa Hương, không như bây giờ nghe nói cảnh viếng chùa rất bát nháo và xôn xao buôn thần bán thánh. Lại nghe tiếng sóng reo chân những kẻ yêu nhau đi dạo trên bờ cát Đồ Sơn. Nhịp sống chậm chậm để tận hưởng an vui là điều mà bây giờ nhiều người nhắc đến để ước mơ. Xem bức tranh này tự nhiên tôi ước gì mình được sống những giây phút gia đình và bạn bè trong khung cảnh trữ tình ấy. Những con người ấy đang sống hạnh phúc. Hạnh Phúc. Đó không phải là mục tiêu của mọi chủ thuyết, chủ nghĩa, chế độ chính trị hay sao? (trừ những kẻ lợi dụng nó làm chiêu bài che đậy những mờ ám khiến con đường đến nó phải lát bằng máu và sinh mệnh.) Người ta còn cần gì ngoài Hạnh Phúc?

Chương 3, Mùa Lúa Hải Dương, đây là bức tranh tôi nghe vang vang tiếng hát đệm, thương em từ thuở mẹ về là về với cha…, cô dâu Phương Quỳ về nhà chồng ở Hải Dương. “Đồng lúa chin vàng trải tận chân trời. Đàn ông cắt, đàn bà buộc thành bó gánh đi. Một thôn nữ hát, Con cò bay lả bay la / bay từ cửa phủ bay qua cánh đồng…”(trang 99). Lúa chín và tiếng hát hò. Đó là gì nếu không là ấm no và hạnh phúc. Nhưng bức tranh đã phảng phất những mảng mây nặng báo hiệu một cơn mưa. Tác giả nói bằng một giọng bình thường như tường thuật một hiện tượng của thời tiết, cho ta thấy le lói cái thòng lọng oan nghiệt chực chờ trên mỗi số phận gia đình Việt Nam. “Quang Lưu, hao hao giống anh, nhưng tính lại khác. Trong lòng luôn căm hờn người anh. Vài năm trước có bạn giới thiệu chủ nghĩa Cộng Sản, thuyết Karl Marx, Lenin. Quang Lưu hấp thụ thuyết này và tôn sùng đảng trưởng Hồ Chí Minh.” (trang 101)

Cho ta thấy, bàn tay bạch tuộc của nước lớn, “Anh Vinh viết thư: xin ba mẹ tha tội bất hiếu. Con không thể làm gì đến khi người Pháp cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Con chỉ có một tình yêu duy nhất: sống và chết cho quê hương…” (trang 109)

Gia đình cô bé Uyển Nhi đã bắt đầu sóng gió theo cơn lốc của chiến tranh. “… kháng chiến nổi dậy chống thực dân xâm lược. Ngày ngày, người Pháp xử tử những thành phần chống chính quyền Đông Dương… (trang 111), lời văn như một bản tin tức trên đài, đẩy người đọc đến câu hỏi, họ nhân danh gì để xử tử người dân mà họ đang đứng trên đất nước người ta? Trong cùng một gia đình cũng phe này phái kia. Khi gia đình người anh đi Hà Nội lánh nạn thì người em chận xe: “…Dừng xe không tôi bắn! Ông Phạm nhấn ga, xe vọt đi trước khi Quang Lưu nổ súng. Phương Quỳ ôm con sát vào lòng…” (trang 116). Đây là nỗi bất hạnh kéo dài từ bấy đến nay trên đất nước Việt Nam chúng ta. Nỗi huynh đệ tương tàn. Lẫn vào đó tôi nghe tiếng trẻ thơ thủ thỉ hồn nhiên (lối kể chuyện đan xen đặt những tình huống trái ngược bên cạnh nhau của Phạm Thu Dung gây cảm xúc rất cao nơi người đọc,) Mẹ mua cho con búp bê và quần áo mới nhé… (trang 116). Phải, tôi muốn hỏi như tác giả, Ai đã đánh cắp tuổi thơ?

Chương 4, Hà Nội Trong Bom Lửa. Bức tranh đã tỏa mùi khói của chiến tranh. Ngay thủ đô Hà Nội. Không còn hình ảnh những cánh đồng vàng trĩu lúa chín. Mà là những xác chết trên những con đường làng mạc, thành phố. Gia đình tản mác, người ta nhớn nhác sống, trong bước trốn chạy bom đạn. Những nỗi sợ len vào cuộc sống. Sợ Cộng Sản, Sợ Pháp. Sợ Quốc Dân Đảng. Sợ tên bay đạn lạc. Trong thời gian này, bé Uyển Nhi ra đời, mùa thu Hà Hội. Ra đời trong cảnh miếng đất nhỏ bé là nơi tranh giành thử nghiệm vũ khí, chủ nghĩa. Trong một trận oanh tạc ở Hà Nội, em đã bị miểng bom cắt ngang xương sống, hậu quả là mang thương tật suốt đời. Giọng văn ở chương này làm tôi có cảm tưởng tác giả đang cố kìm dòng nước mắt… Tác giả ơi, sao không khóc đi cho những con chữ kia bớt làm đau lòng người đọc,.

Chương 5, Vượt Dòng Bến Hải (trang 159). Bức tranh tang thương nhất trong 7 bức của Việt Nam Yêu Dấu. Hiệp định Genève ký kết, Việt Nam thành hai miền hai chế độ. Cuộc di cư 1954 đưa hàng triệu người không chấp nhận chế độ Cộng Sản vào Nam, dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì bệnh tật của Uyển Nhi gia đình em không thể đi bằng máy bay, người cha quyết định dùng thuyền vượt sông Bến Hải. Họ trốn đi vì đó là vấn đề sinh tử của gia đình họ. Đây là bức tranh tôi phải dừng lại để quay mặt đi, như thể hồi bé xem phim tới đoạn nào sợ, lấy tay bịt mắt lại vì không chịu nổi một đối diện trực tiếp với cái ác. Và tôi liên tưởng đến cuộc vượt biên của hàng triệu người 20 năm sau đó, nhân lên n lần nỗi thương tâm. Cuộc vượt biên quá sức bi thương khốc liệt trong lịch sử nhân loại. Không một lời nào chối được tội này trước lương tâm con người. Tôi mong bạn có cuốn VNYD trong tay để mở những trang này và đi theo nó bằng chính dòng nước mắt của mình. Tôi chỉ xin trích đoạn làm tôi xúc động, cảm giác của nhân vật sau khi vượt sóng gió, súng đạn chết chóc, đến được đất liền: “…Chẳng rõ lành hay dữ, miền Bắc? không thấy cờ đỏ sao vàng miền Bắc, chàng tiếp tục đi. Xa xa có túp lều đánh cá, bên cạnh treo cờ vàng ba sọc đỏ miền nam. Quang Bảo quì gối: Cảm ơn Trời Phật. Chàng chạy về gốc dừa nơi gia đình tạm trú, reo: Phương Quỳ! Chúng ta ở miền Nam.” (trang 172) …“Người mẹ tự nhủ đây là sự thật…Nàng lấy bẹ và lá dừa làm tấm ván buộc vào lưng Uyển Nhi. Cái bướu sau lưng lớn dần làm gẫy gập thân hình nhỏ bé… em hỏi mẹ: Mẹ ơi, con bị làm sao vậy?” (trang 171). Lối kể chuyện của Phạm Thu Dung luôn vậy, trong cảnh bi khốn, bỗng một câu hỏi trẻ thơ như thế như một cú nốc-ao cảm xúc ta vậy!

Hậu quả chiến tranh đã làm em phải chịu thiệt thòi tức tưởi đến thế, và lúc này có bao nhiêu bao nhiêu Uyển Nhi như vậy trên trái đất chúng ta?

Hãy nghe tác giả đã thốt lên, dõng dạc: “Tôi tên Phạm Thu Dung, muốn thú tội. Tôi viết Việt Nam Yêu Dấu với mục đích: cầu mong Hoa Kỳ cùng các Đồng Minh chấm dứt chiến tranh Iraq, Libya, Syria… và ở đâu nữa?”

Ngang đây có một ước mơ, thật bi hài, chính một nạn nhân chiến tranh lại nói lời thú tội! Tôi mơ, tôi tin, lời ấy sẽ góp phần thức tỉnh lương tri thế giới, một thế giới không còn nằm trong bàn tay điều động của những Đại Cường Quốc chỉ biết cân đo đong đếm tài lợi hơn là sinh mạng con người. Giấc mơ, Niềm tin ấy có chân để đi đến thành tựu không?

Chương 6 và 7, Tuổi Thơ Nha Trang và Khung Trời Gia Long. Cảm ơn tác giả đã để những bức tranh này cuối cùng sách, để trái tim người đọc bớt co thắt vì những cảm xúc đau đớn. Một hình ảnh vui để đối cực với thương tâm bức tranh vượt sông. Ta đã theo thời gian đi từ Hà Nội đến Sài Gòn. Tác giả dừng lại lúc Uyển Nhi 13 tuổi, với ước mơ: “Tiếng ve vang rền trong nắng hạ. Hoa phượng đỏ thắm dưới trời xanh, chim líu lo ca lẫn tiếng cười của nữ sinh trong khung trời Gia Long. Thời gian hỡi, ước chi thời gian đứng lại, cho tôi một giây phút thôi để khung cảnh này mãi mãi chẳng đổi dời.”(trang 406)

Đúng vậy, hãy dừng nơi đó thôi. Vì chúng ta đã biết rồi, những gì xảy ra sau đó, cho đến 30.4.1975, cho đến lúc này, chúng ta, một phần của con dân Việt Nam có mặt ở đây, California, và ở tản mác khắp nơi trên thế giới.

Tôi xin kết thúc bằng chút cảm nghĩ mình về tác giả, một người từ nghịch cảnh bản thân đã khiến được ý chí mạnh mẽ, cộng thêm thừa hưởng một nền giáo dục tuyệt vời từ cha mẹ, đã sống và dựng cuộc đời mình một cách thành công bằng sự tự tin, lạc quan, kiên định. Với số phận và lòng quả cảm mình, tác giả đã chinh phục được người đọc rồi huống chi còn thêm một văn tài như thế, lại còn vẽ nữa. Tôi muốn nói thêm một điều mà tôi rất quí ở Việt Nam Yêu Dấu, là tác giả đã lồng vào đó những câu truyện cổ tích như Tấm Cám, Trầu Cau…, những trò chơi của trẻ con xưa như Nu na nu nống, Thảy cuội…, và những bài đồng dao. Điều này góp phần vào sự gìn giữ, truyền bá những vốn quý của văn hóa Việt cũng như cho ta thấy cách giáo dục trẻ thơ bằng cách kể chuyện, hát, sẽ gây được cho trẻ em những tình cảm tích cực, yêu cuộc sống, con người, như ta thấy các em trong gia đình Uyển Nhi. Tôi tự hỏi, cái gia đình gặp đầy cảnh ngộ như thế có vượt qua nổi không nếu dưới mái ấm ấy không từng ngày vang vang tiếng hát trẻ thơ? Đây là cách giáo dục theo tôi nghĩ những bậc cha mẹ trẻ nên theo và gìn giữ. Hiệu quả tốt của nó khiến tôi khẳng định, nếu Uyển Nhi, không thừa hưởng được sự giáo dục và yêu thương từ bậc cha mẹ như thế hẳn em đã không vượt qua số phận một cách đáng ngưỡng mộ và không thể là một Phạm Thu Dung tài năng như hôm nay. Xin một biết ơn đến bậc phụ huynh của tác giả và trân trọng Việt Nam Yêu Dấu.

Với chỉ trong 3,000 từ và cảm nghĩ của một người, ắt hẳn là có hạn chế khi nhận định tác phẩm này. Tôi biết mỗi người đọc sẽ góp thêm cảm nghĩ của mình, thì bức tranh Việt Nam Yêu Dấu sẽ có được nhiều màu sắc khác lạ, cho dù chủ ý của tác giả khi viết sách chỉ là mong ai đó “… nếu có khi nào, chạnh lòng còn trông lại chốn xưa…”

Mùa Thu. Những Chiếc Ô
Và Dải Nơ Vàng

Calif. đang ở vào những tuần đầu của mùa thu, cảnh vật đang bị quắt queo vì cơn nóng trái mùa, tuần này hầm hập 85 đến 100 độ, người như bị vặt đến héo hắt không chỉ vì thời tiết đất trời mà còn như vỡ dưới tiếng đập của thời sự. Dư vang chết chóc của mùa hè từ những thảm hoạ máy bay, dịch ebola, chiến tranh, khủng bố vẫn đang còn làm thế giới rung rinh, như cái thòng lọng thắt lại dần, thì thử hỏi chúng ta làm thế nào để có thể sống an lạc, như vẫn thường chúc nhau cuối mỗi e-mail? Chưa bao giờ, sống là một thử thách như thời này. Mỗi hơi thở là mỗi mạo hiểm, không biết lúc nào sẽ sập xuống cái bẫy của những tin tức mà cứ mỗi lúc lại đem đến một khủng khiếp khác nhau. Khi sự chịu đựng của người ta tăng lên, có nghĩa là cái ác đã trở nên bình thường, cứ thế, chai dần cảm xúc. Quen dần với những điều mà mới hôm qua tưởng sẽ không thể xảy ra được trên đời này. Cái ác đang tôi luyện chúng ta thành vô tính chăng.
Chợt, một ngày, trong cái cối xay tai trời ách người như thế, vòng quay được lơi ra bởi hình ảnh những chiếc ô, những dải nơ vàng. Nó như tiếng phong linh trong trẻo rộn rã vang lên. Nó như vạt óng ả phết lên mùa thu hiu hắt của mọi tâm trạng này. Nó mang chất lãng mạn. Nó là cái gì như sinh khí.
Toát ra từ dáng vẻ thư sinh với cặp kính trắng, lấp lánh tuyên bố “Tôi không muốn đùn đẩy cuộc đấu tranh dân chủ cho thế hệ sau. Đó là trách nhiệm của chúng ta”. Sẽ có một mùa hoa mọc lên bởi hạt giống nhiệt huyết trong sáng ấy, đó là Joshua Wong, 17 tuổi, được xem là một lãnh đạo cho phong trào đòi dân chủ tại Hồng Kông, phát động vào những ngày cuối tháng 9, tới nay vẫn còn tiếp tục, thu hút quan tâm của thế giới.
Toát ra từ không khí sôi sục mà ôn hoà, được mọi người khâm phục, một cuộc biểu tình mang tinh thần bất bạo động, không hỗn loạn, không xả rác, không hôi của, không gây hấn, những cái không chỉ có được của một nền giáo dục chú trọng đến Đức, Trí con người, mà họ đã được thấm nhuần ngót một thế kỷ qua tại Hồng Kông. Báo Slate magazine gọi họ là “những người biểu tình lịch sự nhất thế giới”
Toát ra từ không khí trẻ trung, sáng tạo, của hình ảnh những chiếc ô, và được gọi là cuộc Cách Mạng Dù. Tham gia biểu tình, đa số là thanh niên, cả lớp tuổi teen, ai cũng cầm theo dù, để che mưa nắng, nhưng khi bị vòi rồng xịt nước và hơi cay thì nó trở thành một thứ bảo vệ, họ nằm xuống để tránh vỡ hàng ngũ và phủ lên nhau những chiếc dù. Như hàng ngàn cây nấm nhỏ đủ mầu mọc lên sau trận mưa của nghìn tấm lòng trẻ trung đang sống cho lý tưởng của mình. Chiếc dù, nó có rộng một không gian để che thêm cho người bên cạnh, có chút chi vì người… Không biết là tình cờ tự phát của đám đông hay là ý tưởng của những đầu óc lãnh đạo rất sáng tạo, mà chiếc dù đã là một đại diện hết sức thơ mộng cho một phong trào chính trị. Phải chăng nét ấy là một trong những điều đã gây sức cuốn hút? Và, đánh động nhịp tim lãng mạn của tôi. Chiếc ô. Chả phải hai người yêu đi bên nhau nắng hay mưa thường cũng là chiếc ô xinh trên đầu, và còn dùng che cho một nụ hôn vội vàng nữa, ôi là, chiếc dù, giờ nó che cho nghìn nghìn tấm lòng bất khuất kia dưới sức mạnh tấn công của vòi rồng và hơi cay. Họ ngủ dưới những cây dù ngoài đường để duy trì tinh thần tranh đấu, họ viết những biểu ngữ trên dù cho lộng lẫy nắng tự do, chưa bao giờ thấy cây dù lại nhiều công dụng và đáng yêu đến thế. Có thanh niên còn cầm dù che cho cảnh sát lúc trời mưa, và hình ảnh làm xúc động được truyền đi trên facebook, một sinh viên áo đen cầm dù đứng bất động trong mù mịt khói cay, một cảnh sát sau khi bắn hơi cay đã vội lấy chai nước rửa mắt cho một sinh viên qua hàng rào, thật tình chưa có một cuộc biểu tình nào có những hình ảnh đẹp, nhân bản đến thế, chả bù cho những bạo lực của công an ở Việt Nam trong những cuộc biểu tình chống Trung Cộng, oan sai…

Lại nói đến một biểu tượng thơ mộng nữa, là dải nơ vàng, phong trào đã dùng nó làm biểu tượng cho khát vọng dân chủ. Hình ảnh những chiếc dù và những dải nơ vàng, cùng những tấm giấy đủ mầu ghi lời cầu chúc, khẩu hiệu đấu tranh, dán kín những bức tường làm không khí biểu tình đầy sắc mầu như lễ hội, họ cài trên ngực áo, họ đeo vào cổ tay, treo trên hàng rào, cửa nhà, cột điện, khắp các nẻo đường vàng rực một loại hoa dân chủ ấy. Tôi càng thích hơn khi biết nguồn gốc của dải nơ vàng. Theo nghiencuuquocte.net, 400 năm trước, ở Anh người ta rất yêu thích bài thơ “Dải ruy băng vàng trên vai cô ấy” (She wore a yellow ribbon), nói về người vợ đeo dải nơ vàng để tưởng nhớ và hy vọng chồng phương xa sẽ trở về. Trong cuộc nội chiến Anh vào thế kỷ 17, những người lính ra trận đeo ruy băng vàng trên cổ như thể đeo sự nhớ thương của người vợ bên mình. Kỵ binh Hoa Kỳ ở thế kỷ 19 cũng đeo trên cổ ruy băng vàng với ý nghĩa như thế, như truyện tranh anh chàng Lucky Luke với dải băng vàng ở cổ áo, xem lúc nhỏ mà giờ nhờ cuộc biểu tình Hồng Kông, tôi mới được biết rõ nguồn gốc. Đến khi Irwin Levine viết bài hát “Cột một dải ruy băng vàng lên cây sồi già”(Tie a Yellow Ribbon Round the Ole Oak Tree) thì nó được phổ biến trên toàn thế giới thập niên 1970. Bài hát nói về một anh chàng bị kết án 3 năm tù về tội buôn lậu(!). Trước khi được về nhà, anh viết cho vợ, If you still want me, Oh, tie a yellow ribbon ’round the ole oak tree… “Nếu em còn yêu anh thì hãy cột một dải ruy băng vàng lên cây sồi trước nhà…” Và khi chàng về đến nhà thì thấy cây sồi như mái tóc vàng óng ánh bởi ngàn sợi ruy băng! Sao tôi thấy mê những ý tưởng thiên thần này quá. Từ đó yellow ribbon mang ý nghĩa của Hy Vọng, Chiến Thắng và Tình Yêu. Phong trào biểu tình đã chọn nơ vàng để gửi đi thông điệp họ tin vào một chiến thắng bằng vũ khí Bất Bạo Động và Tình Yêu. Cũng có nghĩa, chấp nhận hy sinh để hái được đoá hoa Dân Chủ.
Một nét thơ mộng, mà khẳng khái, nữa là họ chọn bài “Do you hear the people sing” (Bạn có nghe mọi người hát) trong vở nhạc kịch “Những người khốn khổ” (Les Miserables) để cùng nhau ca vang trong cuộc biểu tình, đây là bài mà các nhà cách mạng Paris hát trong cuộc nổi dậy chống chính phủ. Một nét dễ thương và thông minh, họ hát vang bài Happy Birthday để thông báo cho nhau có kẻ lạ trà trộn vào hàng ngũ để gây rối, và sẽ bị tống khứ dưới sức mạnh của hợp ca.
Điểm qua những biểu tượng, thì đã có hai trong số đó lấy từ kho văn học, tôi thấy bị quyến rũ bởi ý tưởng của một phong trào chính trị mang đầy tính nghệ sĩ này. Chỉ có một biểu tượng buồn là chiếc áo thun đen mà họ mặc khi đi biểu tình, màu sắc đen trong vô vàn sắc rực rỡ của dù, của nơ vàng, của những tấm giấy nguyện cầu, là để tưởng nhớ sự kiện Thiên An Môn, cũng hàm ý lên án sự đàn áp bằng bạo lực. Màu đen ấy là nét quyết liệt bên cạnh những hình ảnh thơ mộng kia. Với những biểu tượng vừa dịu dàng vừa kiên cường được chuyên chở bởi một lớp thanh niên có ý thức chính trị và có trình độ văn hoá cao, có phải vì vậy mà cuộc biểu tình này gây được sự chú ý và tình cảm thế giới?
Trong những giờ khắc căng thẳng ấy, có những hơi thở ra nhẹ nhàng từ những người trẻ tuổi, trẻ trung thì cái gì cũng có thể xẩy ra, và đã xẩy ra một cách ngộ nghĩnh, đẹp đẽ, như vầy, một cặp đôi đã đính ước nhau trong lúc cô Crystal Chan còn mặc chiếc áo mưa trong suốt để phòng hơi cay, trên cánh tay cậu Yau Chi-hang thì đầy khẩu hiệu đấu tranh, sau đó cả hai cùng hô “phổ thông đầu phiếu thực sự”. Lại có cặp chụp hình cưới trong hàng ngũ biểu tình (tienphong.vn). Cái lãng mạn của thời phải sống chung với quá nhiều khắc nghiệt, cũng có khác, và có lẽ nó quý hơn xưa, vì nó quá khó khăn, trắc trở.
Tôi muốn nói đến một ánh sáng xanh vào đêm 29 tháng 9. Thay vì là đêm thắp nến như thường tình, thì họ, những người trẻ của thế hệ hôm nay đã thắp bằng ánh sáng điện thoại di động, hàng chục ngàn iPhone toả ra màu xanh huyền diệu trong đêm. Lồng trong không khí sôi sục của một cuộc biểu tình chính trị là ánh sáng của bài thơ. Bài thơ xanh hy vọng. Hy vọng họ sẽ chiến thắng, và sẽ gây được hiệu ứng tới những nơi trên thế giới còn vắng bóng tự do dân chủ, dân quyền.
Đó là những chi tiết làm tôi cảm động và rung động.
Trong một lan can ở khu Admiralty (khu Kim Chung), người ta thấy một biểu ngữ màu vàng, chữ đen, câu “You may say I’m a dreamer. But I’m not the only one”Bạn có thể cho rằng tôi là một kẻ mộng mơ, nhưng không chỉ riêng tôi” (thanhnien.com.vn). Ai đó đã nói, hầu như những điều thành tựu trên cõi trần gian này đều khởi đầu từ một giấc mơ. Những người trẻ ở Hồng Kông hôm nay đang thức dậy để hiện thực giấc mơ của mình, để nhân dân họ được sống trong cảnh mà họ ước mơ. Cho tới hôm nay, những đòi hỏi của sinh viên học sinh và dân chúng chưa được chính quyền Hồng Kông đáp ứng, và chúng ta chờ đợi những ngày sắp tới trong cầu nguyện và tin tưởng. Tôi xin thắt trên cổ tay mình một dải nơ vàng.

Hôm nay, 14 tháng 10, kể từ lúc bùng ra ngày 26.9, cuộc biểu tình đã bước sang ngày thứ 19, chính quyền Hồng Kông đã động đậy, không phải để đối thoại với sinh viên học sinh và nhân dân, mà lịnh cho cảnh sát dỡ bỏ rào chắn của họ ở khu Admiralty, sau khi những hàng rào bằng kim loại bị cắt thì sinh viên dựng lại bằng hàng rào tre, họ nói: “Chúng tôi có thể rời đi vì chúng tôi không thể chống lại các anh, nhưng chúng tôi sẽ không bỏ cuộc”, “Chúng tôi sẽ dựng lại chướng ngại vật sau khi cảnh sát dỡ bỏ. Chúng tôi sẽ không đối phó với họ bằng vũ lực” (vnexpress.net)
Ngày 15 tháng 10, theo tin tức RFA “Cuộc biểu tình bất bạo động của sinh viên học sinh Hồng Kông đã bước sang một bước ngoặc mới khi cảnh sát tiến hành các cuộc đàn áp bằng sức mạnh bất kể người biểu tình vẫn kiên cường không tỏ thái độ chống lại hay bỏ cuộc. Liệu sức chịu đựng của họ kéo dài được bao lâu và thử thách này phải nên chấp nhận trong thái độ nào?… 46 người bị bắt, hàng trăm căn lều bị xé rách, mọi chướng ngại đều bị giải tỏa và nhất là đã có máu đổ. Xét về bề ngoài thì sự đàn áp chưa đến nỗi thô bạo nếu so với các cuộc cách mạng khác…tuy nhiên đối với Hong Kong, xứ sở có truyền thống dân chủ từ hơn trăm năm qua thì việc cảnh sát đánh đập sinh viên, học sinh là hành động khó tha thứ.”
Tôi thấy buồn và lo lắng. Cầu nguyện cho họ giữ được lửa đấu tranh, xin Thánh Gandhi ban cho họ sức mạnh bất bạo động. Cơ hồ như một đường chỉ mong manh, khi những tấm thân, đầu óc thư sinh ấy bị khích động bằng bạo lực, liệu họ có đủ bình tĩnh bất bạo động không, có đủ đoàn kết và lì đòn để phong trào không bị dập tắt không. Tôi sợ thấy hình ảnh những chiếc dù bị rách, nằm thúc thủ trên những con đường, tôi sợ những đoá hoa vàng dân chủ bị héo dưới nắng bạo lực… Cuộc tranh đấu này sẽ kéo dài tới bao lâu. Thời gian ơi, xin ở cùng họ, những tấm lòng yêu nước trẻ trung, nghệ sĩ và trong sáng.

Những Mùa Nắng Nha Trang

Nếu tôi là họa sĩ, có lẽ những giọt nước mắt xa Nha Trang sẽ được vẽ bằng một mầu sắc nào đó rất lung linh trong một bức tranh mùa nắng, có đôi mắt to của một cô bé 16 tuổi đựng suốt năm tháng ấu thơ dạt dào tiếng sóng, một ngày con sóng bật ra khỏi khóe mắt thành những hạt lệ, nên nó sẽ là một mầu rất mặn biển, để người xem tranh biết được nỗi chia lìa đó đã cứa xót lòng tôi đến thế nào.

Tôi không là họa sĩ, cũng không là một tài năng cụ thể nào đó để có thể thưa thốt cùng người một cách diễm lệ hình ảnh 16 mùa nắng Nha Trang, Nha Trang nhi đồng, Nha Trang dậy thì, và, Nha Trang khói sương giật lùi sau chuyến xe lửa đang chở tia nhìn nuối buồn đau của tôi ngày tôi bị gỡ đi cái núm gió nắng mặn mòi ấy. Thế nên tôi cứ khắc khoải khi đêm về thốt nghe như có tiếng tầu lửa vang bên ngoài cửa sổ. Thế nên tôi nghĩ mình nợ Nha Trang một món nợ ân tình. Tôi nghĩ, vâng, tôi nghĩ nếu cho tôi trở lại mười sáu năm đầu đời để lại dung giăng dung dẻ với Nha Trang, thì có lẽ tôi sẽ biết nạp một cách tận tình hơn hơi thở phập phồng của phố biển, để bây giờ có thể viết về nó một cách tròn đầy hơn, tha thiết hơn.
Thật sự lúc này tôi thấy mình đã sẩy đi ít nhiều ký ức về Nha Trang, Người đã cùng tôi một thời bé dại. Tôi đâu biết rằng mỗi bước nhảy cò cò của tôi là từng bước một ánh nắng buổi mai đi về sau lưng, mỗi mảnh ngói nhỏ ném xuống đánh dấu ô “cái nhà” của mình chỉ là một không gian hư ảo, tan đi khi những đường phấn kẻ ô chơi bị xóa vội vàng dưới cơn mưa …Tôi cũng không hay mỗi trái banh thảy lên là từng thẻ đũa bị tóm, tờ tợ như từng mảnh thời gian bị lấy đi, để khi tàn một ván chơi thẻ thì thời gian không còn dấu gì trên vuông gạch…Chắc không ai lúc bé mà không chơi trò u mọi, tôi nhớ, chỉ với 5,6 anh em trong nhà nên chia phe không đều, luật chơi lại ấm ớ, chơi miễn sao mấy anh em thấy ổn là được, chỉ mỗi mình tôi là con gái, lại nhỏ bé, hơi thở ngắn nên hình như tôi làm tù binh hơi bị nhiều, chỉ mong phe ta u u tới cứu. Tiếng u u xa vời không đến được để gỡ ra cho tôi nỗi buồn xa quê, nó ở đó mở mắt hoài vọng một bàn tay Nha Trang. Còn gì nữa bé thơ ơi, Nha Trang ơi, hãy về trong giấc mộng để tôi được kinh nghiệm thêm lần nữa những nhịp đập ban sơ đầu đời. Có nước sông mầu nhiệm nào cho mình trẻ lại, chắc tôi sẽ tham lam như người đàn bà trong cổ tích, uống cho đến khi hóa thành trẻ sơ sinh, để lại được lớn lên từ hạt gạo thơm ruộng đồng nước ngọt Nha Trang, để lại học nói từ hương biển mặn. Để lòng xanh đại dương. Để tóc lại được mướt xanh dương liễu. Để tâm an bình như ngọn núi trầm lặng tím đứng trên biển trong hoàng hôn. Để bước chân được lay động khi trong chiều trên con đê thấy đoàn tầu xe lửa nhả khói phía xa bên kia những cánh đồng quê nội. Để lại được lớn lên, lần nữa, Nha Trang… Lớn lên da ngào muối biển/Lớn lên cát trắng chân quen/Lớn lên môi cười nắng ấm/Lớn lên mắt xanh trời rộng/Lớn lên sóng vỗ trong lời/Lớn lên tóc rằm dương liễu/Lớn lên biển ở trong tim* (thơ ntkm)…

Người đem tôi vào không khí mẹ ấy, là bà nội tôi, là vòng tay của mẹ tôi, dĩ nhiên là có yếu tố hoàn cảnh nữa nhưng cái đó không là điều cụ thể trong tôi. Bà nội từ Thuận Mỹ, đã mua vé máy bay cho mẹ và các anh tôi, bay từ Hà Nội vào Nha Trang, lúc ấy tôi chỉ được mấy tháng, ngủ say trong tay mẹ. Tôi chưa nghe mẹ tôi kể về những ngày đầu ở Nha Trang thế nào. Cho đến bây giờ, chỉ biết một cách lâng lâng vui sướng rằng, bước chân đầu tiên chạm đất của tôi là đất Nha Trang, âm thanh bập bẹ tiếng con người của tôi là âm thổ nhưỡng cát trắng biển xanh. Hình ảnh đất trời đầu tiên mà tôi biết cảm xúc là vòm trời cong giáp biển, là con mương ốm o chảy loanh quanh ở làng nội. Màu sắc thơm vị giác tôi là màu cà phê sữa của con mương, đầy mắt tôi là màu tím rưng rức bụi trâm ổi. Và hương, một thứ hương tôi đã gọi là bùa, cái hương đồng nội trộn lẫn mùi nắng trưa, đất bùn, phân trâu bò, lá tre xanh. Âm thanh quyến luyến tôi là tiếng xình xịch xe lửa mỗi cuối tuần đưa gia đình tôi từ thành phố về quê, và tiếng sóng vẫn là vọng âm quen trong “giấc ngủ nhớ nhà”. Tôi nhớ khi tôi mới tới ở Santa Ana, đêm đầu tiên tôi giật mình thức giấc vì tôi đã nghe như có tiếng sóng rào rào vọng tới, tôi hỏi và được giải thích đó là tiếng xe hơi chạy trên freeway, trời, sao giống âm tiếng sóng xào biển khuya vậy, không biết tôi cảm giác chính xác không hay là vọng ảo, bạn ơi? Nói nhỏ cùng ông Tạo rằng, chân dung người tình Nha Trang của tôi đấy, chỉ cần người “điểm nhãn” nữa là thành duyên nợ. Nhưng mà thôi, chỉ hẹn hò cũng đã ngất ngây một kiếp tôi rồi…

Trên con đường hò hẹn ấy, là những bước theo mẹ tới trường, trên một con dốc ở Cầu Đá, rồi con đường nhỏ lởm chởm ở phố Sinh Trung, bước ngắn bước nhỏ nên gõ nhịp rất mơ hồ trong cõi nhớ, ở đó những cây muồng bên vệ đường luôn là bóng mát cho những đứa trẻ ngồi chơi đùa, nhà ba mẹ tôi nhỏ lắm, tôi nhớ nền nhà màu xi măng đen, và ngạch cửa với hai bậc tôi vẫn thường bước lên bằng đôi guốc mộc quai nhựa trong, sao bé thế mà lại đi guốc nhỉ, nhưng đó là hình ảnh tôi rất thích về mình, bé xíu, mặc quần lụa trắng hai ống so le ít nhiều, lại lênh khênh trên đôi guốc, đứng dưới gốc muồng, bên cạnh hai ông anh, cũng bé, đang chơi bắn bi. Đó là thời gian của chồi nắng. Chồi 3, chồi 5 tuổi. Nắng ăn nắng ngủ và nắng khóc nhè.

Trên con đường hò hẹn ấy, là giàn hoa ti- gôn hồng, hoa giấy đỏ giăng ngang cổng một ngôi nhà trên con đường đất dẫn tới cuối là một ngôi trường tiểu học, ở đầu con dốc nhỏ, con dốc mà anh Khoa tôi đã có lần ngã rất đau, đến nỗi cái bánh xe đạp nhỏ bị quẹo thành số tám. Nhà ba mẹ tôi lúc này lớn hơn ở Sinh Trung nhiều lắm, có một cái thềm rộng hình chữ L ngược, được che rợp bởi giàn hoa giấy và thiên lý tây, hương rất thơm vào những đêm khuya, dù chưa đủ lớn để bắt kịp được mùi hương với ý nghĩa tâm linh của nó, nghĩa là, chỉ đơn giản mùi mình thấy thơm, không phải hương làm mình bâng khuâng. Bạn hiểu ý tôi không? Thềm nhà ấy như biển trên đó có chiếc thuyền chở ba mẹ anh em tôi những buổi tối chơi đùa đến khuya, để kết thúc có khi là một bữa phở xe mà anh em chúng tôi lúc chờ đứa nào cũng chảy nước miếng, tôi thề là chưa có bát phở nào trong đời tôi ngon đến thế, mà nghe kể lại giá chỉ có 5 cắc một tô. Thềm nhà ấy cũng là nơi chúng tôi ngủ vào những ngày nóng, thời đó ban đêm nhà không phải đóng cửa, tôi nhớ rõ như thế, đó là vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Những ngày mưa thì thềm nhà lại biến thành một sân trượt nước, có lần anh cả tôi nhảy từ thành cái hồ nước xuống thềm và anh trượt thẳng vào cơn bất tỉnh, làm cả nhà cuống sợ, anh Khôi ơi, anh còn nhớ hương vị thứ thuốc chữa cơn ngất của anh không? Từ ấy chúng ta không còn được trượt nước dưới mưa lạnh nữa.
Thềm nhà ấy, nắng xiên vai 7 tuổi ngồi chơi thẻ một mình, có khi tôi rủ được Khuê, cậu em kế chơi cùng, nhưng nó là con trai, đâu kiên trì với trò chơi “lẻ tẻ”, các anh tôi vẫn kêu những trò của tôi là thế, phải là chơi bắn súng giàn trận đánh nhau, đúc kiếm trong những khuôn củ khoai, anh Khoa, anh Khải à, còn nhớ cách đúc kiếm này không vậy, em nhớ, những cây kiếm nhỏ rất đẹp, sáng loáng, ngày đó, em rất thích, những muốn xin một cái để dành vào kho đồ chơi lẻ tẻ của mình. Những trò chơi như thế kéo tuổi thơ chúng ta đi qua tháng ngày, em là con gái ở giữa 3 ông anh và 3 cậu em, không theo nổi những trò chơi lớn, nên ngày đó em hay đứng một mình… em thích chơi năm mười, ẩn núp mà không muốn bị tìm thấy…dường như em đã lớn lên trong cái kén của riêng mình, như thế.
Trong kén ấy, nắng 8, 10 tuổi nhả những sợi tơ…, nắng sắm vai cổ tích, nắng chuyện trò với búp bê. Không hiểu sao, cái ông anh họ bên nội, lớn hơn tôi nhiều lắm, giật lấy con búp bê của tôi và làm hư tóc, rách cả cái áo đầm đỏ của nó, rồi anh ta bỏ đi, tôi đứng ôm con búp bê bị thương trên thềm trưa nắng, mẹ tôi lại đi vắng, tôi chả biết mách ai, chỉ đứng đó ôm con búp bê chờ mẹ, hình như búp bê cũng khóc. Tôi rất ghét người anh họ này, thậm chí đến khi lớn tôi cũng không thể nào tha thứ cho anh ta được, vì từ lúc đó tôi không còn chơi búp bê nữa, hễ thấy một con búp bê nào là hình ảnh con búp bê áo đầm đỏ bị thương lại làm tim tôi co thắt. Đó là con búp bê tôi thích nhất. Lúc này thì cái đau đó đã là một vết sẹo phai dấu, người anh họ kia cũng đã không còn. Sau này tôi có thêm một con búp bê khác, phần thưởng một bài thơ thiếu nhi, nó cũng mặc áo đầm đỏ, nhưng tôi không tha thiết nữa, có điều nó làm tôi nhớ đến một ông bác nhà văn, bạn của ba mẹ tôi, ngày đó bác ở Sài Gòn ra Nha Trang chơi cũng khá lâu, hình như bác bị ốm nặng hay sao mà tôi thấy khăn tay bác có dính máu, tôi nhớ mãi câu bác nói, bác không chết đâu chờ con thành thi sĩ làm thơ người lớn, bác xoa đầu tôi, không phải thơ búp bê nữa nhé. Thế mà, vào một ngày cuối tháng tư sau đó rất lâu, bác đã tử nạn trên một con tầu, và mộ bác là lòng biển xanh thẳm. Ôi biển của tôi, biển rất hiền rất bao la của tôi, bỗng một thời nổi lên những con sóng oan nghiệt. Bác ơi, con xin lỗi bác là con đã yêu biển, không ngờ rằng đó là nơi vĩnh viễn bác ở lại, và con cũng không là thi sĩ viết những bài thơ người lớn như bác nói. Nhưng con viết những lời của con búp bê với trái tim biết đập dẫn dòng máu đỏ về tim nuôi sống những cảm xúc, con sẽ tặng bác một bài thơ như thế, hòa âm những nỗi đau…
Nắng thời này đúng là tơ là lụa, nắng nối một đường hoa thơm cỏ lạ từ lòng bố mẹ thị thành đến lòng bà nội quê nhà, nắng mở con mắt ngạc nhiên từ ô cửa sổ toa tầu. Có lẽ thời gian này, thích nhất là những cuối tuần được về quê nội bằng xe lửa, và cả những con thuyền giấy thả ra ngoài cửa sổ khi tầu đi qua cầu, các anh tôi reo lên khi những chiếc máy bay giấy tung theo gió, rồi, cắn ngón cái, vẫy những ngón còn lại để lêu lêu tôi, thuyền mà lại bay lên trời, hí hí… Tôi cũng khá ngẩn ngơ vì điều ấy, ôi hay vì vậy mà những ước mơ không bến đỗ của tôi vẫn là hoài vọng cho tôi một đời ngóng theo? Và giấc mơ của tôi là chiếc thuyền giấy mỏng manh, bay đi…? Nói đến xe lửa, thì lại gắn với những giọt nước mắt trên thềm ga Nha Trang những lần tiễn ba tôi đi Sài Gòn. Ngày đó ba tôi phải dạy học hai ba nơi. Thế là, có những ngày ba tôi xa nhà và tôi thấm mùi đưa tiễn, chín mười tuổi đã biết cái mặn của nước mắt khóc vì xa người yêu mến, ba tôi rất thương tôi, vì chỉ có hai đứa con gái trong một đàn con trai, lúc ấy em gái tôi chỉ khoảng một hai tuổi, nên chắc vì thế mà cứ mỗi lần đưa ba đi xa là mẹ chỉ dẫn theo mình tôi. Ưng ức mãi trong nhớ hình ảnh con tầu khuất dần để lại đường khói đen dài, để lại mẹ và tôi đứng trên thềm ga rộng bên cạnh những đường ray bị bỏ lại im lìm, tôi nắm chặt tay mẹ òa khóc, gió thổi lộng hai tà áo lụa màu mỡ gà của mẹ, tôi khóc hoài, đến nỗi mẹ phết vào vai tôi, tiên nhân con bé này làm má cũng khóc đây này, có nín đi không. Lúc này nhớ lại lời mẹ, tôi thấy tức cười và thương mẹ quá, giọng nói mẹ ướt nặng như tấm khăn bị nhúng nước. Rồi hai mẹ con líu ríu ra về, tôi nhớ thường là ngồi trên một chiếc xe xích lô đạp, ghé vào nhà bạn thân của mẹ, bà giáo Hương, chắc có lẽ mẹ tôi muốn chia sẻ nỗi buồn chia tay, tôi thì vẫn rấm rứt cho tới giấc ngủ đêm…
Nắng đẫm trang vở học trò. Ôi nắng 11, 13 tuổi. Tuổi bản lề giữa nụ nhi đồng và hàm tiếu hoa, chẳng phải tuổi 13 mà đã được gọi là nàng của nhà thơ tình yêu Nguyên Sa đâu. Nắng non bình minh mặt trời vừa nhú trọn khỏi mặt nước xanh. Nắng chưa nhấn mạnh hơi thở mặt trời mãn khai, đêm chưa mơ màng trăng liễu vào giấc ngủ say. Biển còn vỗ sóng ngoài tầm mơ mộng.
Hồi này vì nhảy một lớp nên tôi bằng lớp với anh kế, và thế là chơi với toàn bạn của anh, nên cũng khá là được cưng, anh em kết nhau tới tuổi Tú Tài, chắc là có rất nhiều hình ảnh trùng trong ký ức của nhau. Nhưng đâu có dòng sông nào trở lại, phải không các anh, trôi theo ngàn xanh những hạt biển, bao giờ nữa dòng sông đưa đám lục bình quây quần trở lại với nhau trong ánh tím thơ ngây… Anh Tấn Khải, Toàn, Huy, Được, nhớ không, một góc trời Nha Trang, các anh đã có một người em gái, là tôi? Và các bạn Kim Anh, Hoàng, Dìn, Tường, Phong, Như Ngọc, Hiên, Hồng… giờ nhìn lên mảnh trăng thượng tuần có cảm thấy đó là ánh sáng của mắt nhìn chúng ta thời thơ ấu? dù cho sợi thời gian dài đã mấy mươi năm, tôi tin thế, nếu có ngày chúng ta gặp lại và nhìn nhau…
Nắng chẻ xanh ngàn tia lá dừa đường vào Vĩnh Điềm, có mắt cười, giọng nói vui của một người anh bên ngoại, sao anh hiền và sao anh chiều tôi đến vậy, tôi rất ngưỡng mộ anh vì anh học rất giỏi, nhất là toán, và vì tôi dốt toán. Mẹ anh tần tảo nuôi con nên anh mơ ước một chiếc xe gắn máy hoài mà không có, nghĩ thương anh quá, tôi lấy một tờ giấy vẽ thành tờ giấy bạc ghi số tiền đúng giá chiếc xe ấy, bảo anh cầm đi mua xe, anh cười rất vui với hàm răng khểnh, nói, đây là số tiền lớn nhất đầu tiên anh có. Anh Quế ơi, chưa ai chiều và nhịn em như anh, em nhớ những buổi anh cặm cụi dạy em học toán, em đổ lười không chịu học, chỉ muốn nghe kể chuyện, vậy mà anh vẫn nhỏ lời dỗ dành… em nhớ con gió thổi heo hút trong cái hẻm nhỏ vào nhà anh, đâu nghĩ gió thời gian, gió cuộc đời thổi anh em mình xa nhau mấy chục năm trời, khi vừa gặp lại mới đây, em không ngờ chúng mình còn khóc được nhiều đến thế, thấy như biển Nha Trang dạt dào bao năm, đang vỡ…

Trên con đường hò hẹn ấy, tôi dừng lại bởi sắc hoa sầu đâu trước ngõ, nó còn có tên là soan, sầu đông. Những cánh tím nhỏ nhỏ ray rắt gió se lạnh Nha Trang. Lại là sắc tím. Ngay trong vườn nhà. Nhà ba mẹ tôi lúc này ở trên một con đường mới mở phía phải cuối đường Phước Hải, tên Lữ Gia, con đường cao như một con đê, nhà cửa còn ít nên tôi nghe được cả luồng gió chạy, có lần tôi đã té xe đạp xuống vệ đường sâu khi những chiếc xe GMC chở lính Mỹ vượt qua, có lẽ tôi giật mình vì tiếng la hét của họ, mỗi lần nhìn vết sẹo té xe trên đầu gối là tôi nhớ đến Thu Hương, cô bạn ngày hai lượt cùng tôi đi học trên con đường thênh thang gió này.
Dưới bóng cây sầu đâu thả những cánh tím trắng mơ màng ấy, tôi và các bạn thường họp nhau những tối ăn chè và hát hò. Vẳng lại rất xa. Đến nỗi như mơ hồ, tiếng đàn guitar của Thi, của anh Khải, tiếng hát của Minh Tâm, Thu Hương, Nguyễn Được, tiếng cười nhỏ e ấp của Tuyết Mai, các bạn nhớ coi ngày đó tôi có ngâm thơ không. Tôi đã mê thơ Quang Dũng lắm mà. Âm thanh thời đó của chúng ta bay lên tàng cây tím rồi theo mỗi đứa một mảnh trời riêng…sầu ơi tan về đâu…
Nắng ấy là nắng tím. Nắng dậy thì. Nắng biết im lặng bên cửa sổ nhìn hoa tím sầu đâu. Biển khẽ đi vào quỹ đạo mộng mơ.
Tôi và Thu Hương mỗi ngày đi bộ đến trường, đã có những bước chân ai đi ở đằng sau, ngày đó chưa có bài thơ Em Tan Trường Về của Phạm Thiên Thư để bạn hát tôi nghe nhỉ. Thế mà cũng nắng mưa một đoạn đường đưa đón, một thoáng con dốc đá lên Nhà Thờ Núi trao vội lá thư nói chuyện nhớ thương, tả tình tả cảnh hoa lá cành, ấy vậy mà cũng bận rộn lòng để vướng chút tơ. Nhưng tôi phải kể cho có ngọn ngành. Một đêm anh Khải, tôi cùng các bạn, dĩ nhiên là có người bạn đã giăng tơ kia, đi chùa núi leo lên đến Kim Thân Phật Tổ, tượng Phật mầu trắng sừng sững trên đỉnh núi, chúng tôi gặp một bọn du đãng, chọc ghẹo tôi và Thu Hương, tôi sợ muốn chết, nhất là sợ đám con trai đánh nhau thì thế nào cũng có đổ máu, tôi nói với anh Khải tôi, thôi anh, mình chạy đi tụi nó dữ lắm, em sợ. Và thế là chúng tôi nắm tay nhau chạy, nói thế nào nhỉ, ừ, chạy nhanh hết sức có thể của tuổi 15, 16, chạy băng qua những ngôi mộ ở sườn núi. Có câu tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu lận mà. Về đến nhà mới hoàn hồn. Hoàn hồn thì tỉnh người ra, và người bạn kia, chẳng phải là người hùng cứu người đẹp như trong xi-nê gì gì nữa, “mối tình” bốc hơi nhanh hơn hạt nước trên thềm nắng. Hôm nay ngồi nhớ lại tôi không khỏi bật cười cái tuổi mười sáu, dễ thương dễ ghét ấy. Thu ơi, mi có nhớ không, con đường Phước Hải mòn bao chiếc guốc, phai bao nắng những chiếc áo dài trắng đầu đời…, những buổi trưa ngồi lục cơm nguội ăn với sườn ram trong căn bếp nhỏ ở nhà mi, những buổi chiều cùng nhau xách giỏ đi chợ sau ngôi chùa Kiều Đàm, mi bày cách lựa cá nục tươi, những buổi tối ngồi học bài cứ canh nhìn qua cửa sổ nhà nhau để xem đứa nào tắt đèn trước, thế là thức học đến khuya… này, Thu, nhớ cả đôi mắt buồn mơ màng của mi khi hát bésame, bésame mucho… cả hai đứa đều 16 tuổi như cô tác giả bài hát ấy, chưa hề tưởng đến một nụ hôn, thế mà cứ du dương hồn nhiên bésame… bésame… tuổi mười sáu như được Nha Trang mớm cho cái ngát xanh của trời và biển, sóng cứ vỗ đều trên cát, gió cứ lộng những hàng dương …

Trên con đường hò hẹn ấy, một ngày tôi bước lên một toa tầu để lại đôi mắt Nha Trang buồn thẫm trên ga. Trên con đường hò hẹn ấy, đã rêu phong bao cột mốc thời gian?
Nắng bây giờ là nắng biết được mệnh trời. Nắng trôi theo con sông Cái chảy những dòng hẹn với biển xa. Đã hẹn đã hò, cũng ước cũng thề, thì dẫu con đường có dài, thời gian có mịt mù thế nào đi nữa thì cũng có lúc chúng mình sẽ gặp lại, nói cho sâu lắng đá vàng hơn, thì chúng mình sẽ tái ngộ, nối lại một đường tơ lơ lửng, Nha Trang ơi, Giấc Mơ ơi. Từ lúc cất bước vào kiếp người là tôi đã bước lên một con đường mang tên Hò Hẹn. Và xa nơi tít tắp kia, cuối đường, thời gian sẽ trả lại cho tôi những gì nó đã lấy.

Cách đây một tháng, ngồi trong quán mì Triều Châu ở Santa Ana, anh chị Thành bảo, em viết một cái gì về Nha Trang cho đặc san số tới đi, kỷ niệm một chuyện tình chẳng hạn. Tôi đã cười ú ớ, một chuyện tình ư (ơ, nhờ vậy mà tôi có bài viết này), từ sơ sinh đến 16 tuổi ở đó, tôi chỉ có một người tình duy nhất, Nha Trang, viết hoa một cách nắn nót, gửi trao. Cả hai đều thủy chung gắn bó. Tôi biết, khi tôi trở về, tôi sẽ về bằng nhịp đập trái tim 16 tuổi, và chàng, Nha Trang, vẫn sẽ vòng tay ấm ngày cũ đón tôi. Cả chàng lẫn tôi đều là hòn đá vọng, chờ nhau, trên con đường hò hẹn trẻ trung ấy.
Và tôi cũng xin được một lần nói nhỏ, mối tình ấy hóa thân vào giấc mộng, một đời tôi mơ. Mối tình ấy là chiếc bóng, theo tôi không rời. Để tôi luôn quay đầu lại, nghe được tức khắc tiếng của biển, chiếc khăn lụa xanh trên con đường người bỏ dấu tôi tìm… Đó có phải là phút giây tôi chạm được khói sương của cõi hẹn hò?

Nhà Thơ Lữ Quỳnh
Và Con Mắt Của Giấc Mơ

Một buổi sáng tháng 7 của mùa hè này, tôi được gặp gỡ ba người anh trong cõi văn chương.
Một đến từ Virgina, nơi quanh năm rét mướt, nên hơi cọ của anh đầy lửa, lửa xanh khơi từ trái tim phết lên tranh sắc mầu của hy vọng, hoạ sĩ Đinh Cường.
Một đến từ miền bắc Calif. miền đất nở ra một thung lũng hoa vàng thơ mộng, nên thi sĩ đi trong thời gian của mình những bước thao thức của giấc mơ, người thơ Lữ Quỳnh.
Một, ở ngay đây, lần đầu tôi được diện kiến dù từ lâu đã văn kỳ thanh, nhà thơ Thành Tôn, nhớ nhất câu thơ của anh, buổi sáng soi gương và đội mũ/ lòng đã hồ nghi khuôn mặt quen. Đôi khi soi gương tôi cũng có cái nhìn ngờ ngợ mình như thế.
Nhưng sáng nay thì khuôn mặt mùa hè thấy được niềm vui rất rỡ ràng từ những tình thân. Tôi đang thời gian dưỡng thương chờ phục hồi, cũng hơi e ngại khi phải xuất hiện với một dung nhan sau cuộc mổ và đi đứng với cái walker, nhưng kinh nghiệm đã cho tôi biết rằng, những phút giây quí, có thể sẽ không trở lại trong đời, lần nữa. Nên sau đó tôi có được tự nhiên chuyện trò, nhìn anh Đinh Cường ngồi xem world cup với nhà tôi với phong thái của các ông say mê bóng đá. Thật thú vị khi tôi chợt nghĩ rằng, tôi biết một hình ảnh khác của hoạ sĩ khi không cầm cây cọ. Còn anh Lữ Quỳnh thì đã vội vã đi công việc cùng anh Thành Tôn.
Mà lạ ghê, lần nào gặp anh Lữ Quỳnh cũng chớp nhoáng như thế. Nhớ lại, lần đầu tiên, là nghe anh LQ nói, hôm ở Viện Y Dược Học Dân Tộc, nghe anh Trương Thìn gọi tên khánh minh, thì biết đó là KM. Vậy cũng như không, coi như chưa quen nhau. Lần thứ hai nơi đám cưới con anh TT, tôi ngồi với Ngọc Sương, Quý Loan và Trần Lê Sơn Ý, cô nhà thơ trẻ măng, thơ rất hay, được anh Lữ Kiều vô cùng hâm mộ, anh LQ ngồi đối diện tôi, và được giới thiệu đàng hoàng, đó là lần tôi gặp và được nói đôi ba câu với anh. Lần thứ hai, gặp anh ở toà soạn Việt Báo, Little Saigon, cũng vội vã, anh em chụp với nhau tấm hình rồi chia tay, vì rằng tôi không lái xe, nên có người đến đón thì phải đi về. Lần này, cũng như mây xẹt ngang, rồi đi.
Trong nhóm Ý Thức, chỉ có anh Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lê Ký Thương là tôi được gặp và nói chuyện nhiều, còn anh Lữ Quỳnh thì chỉ, như thế. Những nhân vật này luôn cho tôi cái nhìn rất quý về một thế hệ của những chàng lãng tử. Thế hệ được thời gian trao tặng rất nhiều và cũng lấy đi của họ không ít, có khi keo kiệt đòi trả lãi. Tặng phẩm đẹp nhất là họ có được thời gian để sống cho giấc mơ, và cũng nghiệt thay đó cũng là điều đầu tiên bị tước đoạt. Cái chông chênh giữa được và mất ấy đã để lại trong thơ văn tranh của họ những nét đặc biệt, vừa thơ mộng vừa bi thương.
Thơ mộng ở chỗ họ theo đuổi rất quyết liệt niềm đam mê văn chương nghệ thuật, trong một không gian vốn vô cùng trắc trở của cuộc sống còn, lại lọt vào quãng thời gian khắc nghiệt của lịch sử.
Chính vì vậy mà Bi thương. Trong kề cận sinh tử, những chàng nghệ sĩ có tâm hồn như mây ấy đã nương tựa vào sự gắn bó của tình bạn, có phải vì ý thức được sẽ có những ra đi bất ngờ mà họ hết mình hơn trong những lúc còn bên nhau với ly rượu đầy vơi? Và họ phổ những nét đẹp đau thương ấy vào câu thơ lời văn tranh vẽ?
Họ đã khắc hoạ được một dòng văn chương thơ- mộng- bi- thương.
Cho nên khi đọc họ tôi luôn thấy lòng mềm theo những lãng mạn kiêu bạt cùng ngậm ngùi cho những mất mát mà họ chỉ đủ sức buồn trong phẫn nộ, hay đôi khi là tiếng cười, vì tận cùng của nỗi đau không phải là hạt lệ. Tôi thấy rõ hơn những điều mà tôi đã không thấy hết vào lúc điêu linh ấy. Cái thời mà Lữ Quỳnh đã buông câu cười nhạt “Cánh vừa mọc nhưng thiên đường đã mất”(Hôm Nay, Ngàn Sau). Ôi! Như Thi Sĩ Du Tử Lê ở lời tựa trong thi phẩm Sinh Nhật Của Một Người Không Còn Trẻ, đã nói, “hôm nay, đọc những trang văn của Lữ Quỳnh tôi vẫn còn nghe được tiếng reo vui, hân hoan của những con chữ búng mình trên mặt sông máu/xương gập ghềnh nghiệt, oan vận nước”.
Đọc thơ Lữ Quỳnh, cái ánh sáng lấp lánh pha lê choáng mắt tôi, là của tình bạn. Không chỉ mình tôi thấy như vậy, thi sĩ Du Tử Lê cũng nói trong bài tựa “…tôi cũng còn nghe được tiếng gọi rộn rã thanh niên, đi ra từ trái tim sóng sánh nhiệt-hứng-trẻ-thơ tình bằng hữu”. Vậy xin nghe,

Kể với quê hương
Chuyện núi rừng- máu xương
Và rất nhiều anh em đã chết
…Mỗi lần ước ao cầu nguyện
Chỉ cần giơ hai cánh tay lên
Mà nói với Trời
Niềm vui sẽ nở ra trên nụ cười trắng dã
Nhưng anh biết đã muộn rồi
Khi đất là da thịt anh em
Khi mùa xuân bắt đầu hồng lên sắt máu
Nên em ơi anh phải cúi đầu
Nhận số phận quê hương
Ánh vinh quang trong mắt chúng ta
Những người còn sống
Cũng là của bùn đất các anh
Những người đã chết
Nỗi Nhớ Từ Cao Nguyên

Anh hãy nằm yên đó
Chờ lũ bạn thân này
Chiến trường đang lửa đỏ
Máu còn xanh cho cây
Sân Bay Buổi Chiều

Đường địa cầu thấp thoáng vành nôi
Vạn dặm không dài hơn tiếng khóc
Đường Vạn Dặm

Hôm nay thì tôi biết thêm cái muôn trùng khác của tiếng khóc, cái thăm thẳm của hạt lệ vành nôi. Và cái tràn đầy của chiếc ly không, khi người một mình vắng bạn.

Đường thuốc lá chiều nay vắng bạn
Một ly mình. Và một ly không
Điếu thuốc lá ngậm hoài thấy nhạt
Khói lang thang khói cũng ngập ngừng

Quán hoa giấy chiều nay lãng đãng
Uống ngụm nắng tàn trong chiếc ly không
Chiều Tân Định

Tuổi trẻ không quê hương
Chúng tôi nghèo đủ thứ
Năm tháng thèm quê hương
Như khát lời ru ngọt
Tuổi Đời

Nghèo đủ thứ nên nhà thơ lãng mạn của chúng ta đã giàu những giấc mơ. một ánh sáng, mầu sắc khác trong thơ Lữ Quỳnh.

Trắng như những giấc mơ
Có bạn bè khuất núi kéo nhau về
Thêm Một Năm Xa Tiếng Nói Cười

Lòng ta quanh năm chỉ một mùa vàng lạnh
Giấu bạn bè trong những giấc mơ
Một Lần Rồi Xóa Tan

Giấu bạn bè trong những giấc mơ. Đẹp và cảm động quá.
Và, để có được giấc mơ, chắc cũng không ít lần, nơi ấy, nhà thơ phải chịu giá rất đắt. Cũng cam.

Chiều về nặng trĩu vai
Vác cây đời thánh giá
Đêm nằm canh giấc mơ
Sợ những điều trả giá
Tiếng Chim Lạ Ở Trại Cồn Tiên

Cũng vì, bất cứ giá nào cũng không để tắt ánh sáng của giấc mơ, nên trái tim dẫu có héo hon, cũng nhờ ánh lung linh ấy cấy lại niềm khát khao cuộc sống, và nhà thơ đã thu gặt được mùa màng đầy những mùa thu chín trái.

Những ngọn nến thắp bằng ánh sao
Soi trái tim khô
Đang nẩy mầm bất tử
Giấc Mơ

Lúc mở mắt gặp mùa thu chín trái
Nên lời anh vi vút tiếng chim rừng
Nên hồn hiền như những lứa nam trân
Và hơi thở thơm mùi hoang dạ thảo
Bài Tình Trăng Sao

Ở trên tôi đã nói, ánh sáng tôi thấy rõ nhất trong dòng thơ Lữ Quỳnh là tình bạn. Và ẩn chìm trong ánh sáng ấy là con mắt của giấc mơ. Vì, trong những giờ phút đẹp, thực của cuộc sống Lữ Quỳnh cũng dùng con mắt giấc mơ để hưởng thụ nó, để cảm xúc vui buồn cùng nó. Như một nghệ thuật (hay kinh nghiệm?) để trộn lẫn giữa thực và phi thực. Cái phi thực là áo khoác của thơ mộng lên tất cả những niềm vui lẫn đau buồn, trong thơ Lữ Quỳnh. Tôi có được cảm giác ấy từ bài thơ này,

thường có những giấc mơ
gặp gỡ bạn bè
những người bạn ra đi đã nhiều năm
nay kéo về
nói cười ấm áp
tôi rất vui
rất vui trong từng đêm như thế

để lúc tỉnh ra
ngồi một mình trong bóng tối
quạnh hiu.
Giấc Mơ

Tôi nghĩ, anh quí thương bạn bè, và anh đã được hạnh phúc chia cùng họ, rất thực, những phút giây đẹp đẽ, đẹp đến nỗi anh cho nó là giấc mơ. Mơ trong lúc sống thực nhé. Rồi khi một mình anh lại sống thêm một lần nữa thời khắc ấy, bằng giấc mơ. Trời ạ, người thơ sao biết sống quá vậy! Bởi vì lúc tỉnh hay mơ anh đều mơ cả… Cho nên, cái lúc tỉnh ra thấy quạnh hiu kia, tôi nghĩ, chắc nó chỉ xảy ra ở vào giấc ngủ cuối cùng, cho đến khi anh nhắm con mắt của giấc mơ.
Nhà Thơ Lữ Quỳnh đã giải thích hiện thực cuộc sống bằng giấc mơ. Đã hoá giải những buồn đau của hợp tan bằng giấc mơ. Con mắt của giấc mơ ấy là Mật Ngôn, mà tôi thấy trong tranh Hoạ Sĩ Đinh Cường, con mắt cá không bao giờ ngủ. Bởi tỉnh thức, và mơ.

Tôi muốn chấm hết bài bằng một ý vui. Đọc thơ Lữ Quỳnh tôi ngộ ra một điều rất giản dị

Tôi không còn trẻ để cầm tay em nữa
Nhưng lòng luôn sẵn lửa để cho em
Chiều Mưa Trên Thành Phố Nhỏ

Ra người ta không cầm tay mình chỉ vì người ta nghĩ không còn trẻ nữa nên ngượng, chứ không phải vì giảm lòng yêu thương. Mà chuyện cầm tay chỉ để dành cho tuổi trẻ thôi ư, lạ thiệt, thế nào thì được xem trẻ, bị coi già? Thưa nhà Thơ? … vậy thì, bây giờ tôi sẽ chủ động cầm tay người thương trước, để chứng tỏ mình còn trẻ, biết đâu sẽ được thấy lửa để cho em, và để anh bước qua nỗi tự coi mình già, như nhà thơ Lữ Quỳnh kia. Có đồng ý với tôi không? Và nếu vậy thì phải cảm ơn Nhà Thơ Lữ Quỳnh.

Nguyễn Thị Khánh Minh

Nguyễn Thị Hàm Anh

Tranh Thái Tuấn

Đó là một ngày cuối năm, mùa mưa đã qua và mùa khô cũng đồng thời bắt đầu cho hoạt động mua bán tấp nập, các hoạt động văn nghệ chựng lại, dường như bị dẹp qua một bên nhường chỗ cho việc sửa soạn lễ Tết. Thế nhưng trong cái hối hả đó, một phòng tranh vẫn được long trọng khai mạc.

Tôi đi cùng với bà quả phụ Trần Lê Nguyễn -vợ của cố nhà thơ, kịch tác gia Trần Lê Nguyễn mà sau này là một người rất nổi tiếng trong giới sưu tầm tranh- đến khách sạn Festival ở số 31 Cao Thắng, quận Ba. Nơi đây hiện diện một phòng triển lãm do đôi vợ chồng họa sĩ Lê Triều Điển – nhà thơ Phan thị Quý chủ trì, nằm sâu sau khoảnh sân. Phòng triển lãm trong khuôn viên khách sạn dường như càng lọt thỏm giữa các tiệm bánh và shop quần áo chung quanh. Con đường Cao Thắng vốn chật chội đông đúc, thế nhưng bước vào phòng tranh khác hẳn, cánh cửa kính khép lại đã ngăn cách khung cảnh xô bồ bên ngoài và mở ra một thế giới hội họa, một không gian Thái Tuấn riêng biệt.

Thái Tuấn là khuôn mặt quen thuộc của làng hội họa Việt Nam. Ông sinh năm 1918 tại Hà Nội, tự học, đã sớm tìm được cho mình một lối đi và mau chóng thành công trong lối đi riêng này. Ở trong nhóm Sáng Tạo cùng với Duy Thanh, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ… Đặc biệt, ông còn được biết tới như một cây bút lý luận hội họa. Trước kia, quan điểm hội họa của ông thường được thể hiện ở các bài viết đăng trong tạp chí Bách Khoa, Văn, Văn hóa nguyệt san… và gần đây là báo Người Lao Động, Văn Hoá Phật giáo (Saigon). Định cư ở Pháp từ năm 1984, Thái Tuấn đi đi về về quê hương liên tục. Cứ mỗi lần về, ông thường ở lại dăm ba tháng. Với vóc dáng cao gầy, mái tóc bạc trắng, ở tuổi ngoài tám mươi, ông vẫn giữ được sự tinh nhanh nhưng giọng nói khàn đặc vì dây thanh quản bị chùng. Tôi lắng tai mãi mà không nghe được ông muốn nói gì, đành chỉ bắt tay chúc mừng ông vậy.

Đó là lần đầu tiên Thái Tuấn mở triển lãm tại Việt Nam từ sau năm 1975. Bên cạnh ba bức sơn dầu, cuộc triển lãm lần ấy chủ yếu giới thiệu hai mươi sáu bức tranh được vẽ hoàn chỉnh bằng máy vi tính trên giấy Canson Ivoire. Đó là những bản vẽ duy nhất và có chữ ký tay của tác giả, ông muốn thổi hồn qua computer để hình thành nên những tác phẩm mới mẻ.

Không có tranh tĩnh vật, không tranh phong cảnh. Trung thành với chủ đề con người và đối với con người, còn gì đẹp hơn người phụ nữ, Thái Tuấn không hề phai mòn những rung cảm trước vẻ đẹp Việt Nam, vẫn là những thiếu nữ quen thuộc, cô dâu trong chiếc áo dài thụng cưới cổ truyền cầm nón quai thao, thiếu phụ bế con ngồi trên chõng tre, cô gái yếm trắng đội rổ, thiếu nữ váy đen khỏa thân bên hồ sen hồng…

Em còn khỏa nước cầu ao
Xin đừng khỏa bóng tôi vào lãng quên (Nguyễn Lương Hiệu)

Có khăn chít mỏ quạ, thắt lưng buộc múi, có quạt mo, khăn tay, có bàn trà, giếng nước, mành trúc sau lưng, bình hoa trước mặt… Những vật dụng quen thuộc và người thiếu nữ Việt Nam muôn thuở. Những thiếu nữ của Thái Tuấn ngồi đó, như đã ngồi từ trăm năm trước và sẽ còn ngồi đến ngàn năm sau. Tranh ông không có màu sắc chói chan, rực rỡ. Toàn tím nhạt, hồng tro, xám bạc, xanh ngọc… Không có khối tròn, chiều sâu. Đôi hài mũi nhọn một màu, nền một màu. Chỉ là những mảng màu phẳng giản đơn trên một nền trống thênh thang và những cô gái rũ tóc gội đầu soi mình trước ngọn nến, có vạt lúa non tơ, áng mây trắng xốp… Tranh của Thái Tuấn rất tiết chế về đường nét, ông bỏ hết các chi tiết rườm rà, chú trọng đến đầu, mặt và bàn tay. Đôi bàn tay với các ngón thuôn dài, mềm mại, hiền ngoan như đang cầm giữ, gửi trao đến người niềm hạnh phúc êm đềm… Chỉ những phần tinh túy nhất được giữ lại thế mà bức tranh vẫn tỏa ra sự đầy ắp. Ông không những vẽ ra hình dáng người thiếu nữ Việt Nam mà còn biểu lộ được cá tính, tình cảm, tâm hồn người phụ nữ ấy, bộc lộ nên một vẻ đẹp Á đông trầm lắng, một nét đẹp Việt Nam thuần túy mà dù không yếm thắm, xống nâu cũng chẳng thể lầm lẫn với thiếu nữ của bất kỳ nơi nào khác. Đoan trang nét hạnh, thâm trầm dáng thơ là một câu thơ của Thanh Tâm Tuyền dường như được viết ra chỉ để dành riêng cho các thiếu nữ của Thái Tuấn.

Hôm khai mạc, phòng tranh Thái Tuấn khá đông. Thanh Châu nhỏ bé, lưng còng gánh nặng thời gian từ đầu kháng chiến chống Pháp đến giờ mới gặp lại cố tri, Mạnh Đan râu tóc bạc phơ nhưng vẫn quắc thước, trẻ hơn là Cù Nguyễn, Nguyễn Lâm, Hồ Hữu Thủ… Với Bùi Quang Ngọc khai từ và Thái Tuấn khào khào ngỏ lời cám ơn, bầu không khí ấm áp thân mật làm tôi liên tưởng đến một phòng tranh cũng rất dễ thương vào năm trước nữa của Đinh Cường, Nguyễn Lâm, Trịnh Cung, Nguyễn Trung, Mai Chửng, Cù Nguyễn… tại gallery Vĩnh Lợi. Đó là một dịp để những người bạn cũ gặp nhau, có Nguyễn Đức Sơn đầu đội bê-rê, khoác đầy túi thơ, có Dương Nghiễm Mậu hiếm hoi lắm vì tình bạn mới xuất hiện… nhưng lại vắng mặt Mai Chửng. Ngay tối hôm đó, tôi đến nhà thương Chợ Rẫy thăm ông nằm trên giường bệnh, nuớc da tái xám, mệt nhọc với đủ thứ dây ống lòng thòng chung quanh. Nhưng thôi, những bức tượng đã thay ông góp mặt với đời.

Phòng tranh Thái Tuấn mở cửa mấy tuần. Đôi khi đi ngang đường Cao Thắng, tôi lại tạt vào. Ngày khai mạc là để gặp người quen, còn ngày thường mới là lúc ngắm tranh. Trong căn phòng vắng vẻ, ánh sáng vàng ấm áp từ những ngọn đèn trên trần nhà chiếu xuống. Những dáng dấp thiếu nữ vẫn hiện diện đó, yên ả trú ngụ trong thế giới mơ màng của những bức tranh. Tuy nhiên, đối với tôi, dù tranh được vẽ bằng máy vi tính màu sắc rất phong phú vẫn thiếu sự huyền ảo của chất liệu sơn dầu mà chính nó mới gợi nên được sự rung cảm, xao xuyến nơi người xem tranh. Nên chi, để rồi cuối cùng tôi vẫn dừng lại trước các bức sơn dầu, dịu dàng một cách nồng nàn, tĩnh lặng mà sống động. Đóa môi hồng bạch thật ngây thơ, tinh khiết và ánh mắt đêm huyền của người trong tranh như thấu suốt thời gian, không gian. Cái màu xanh lá đặc biệt của Thái Tuấn, một màu xanh thăm thẳm mới khắc khoải, nhức lòng làm sao. Tôi như bị hút vào “Góc biển”, “Dáng thơ”… những nàng thơ của cõi mộng hiện hình, không biết chọn bức nào hơn giữa những tấm tranh treo chốn Cầu Đông…

Tiếng Hát Hoàng Hôn

Anh chị tôi rủ đi nghe nhạc. Có hai ca sĩ hải ngoại mới về, Duy Quang và Elvis Phương. Hai ca sĩ cũ nổi tiếng từ xa xưa, một thời của quá khứ không mơ hồ… Sau này, qua băng đĩa lưu hành lậu, những giọng hát ấy vẫn khiến người nghe thấy lòng nức nở khi cất lên những bài tình ca bất hủ. Có rất nhiều tình ca do nhạc sĩ VN sáng tác lúc này hay lúc khác, nơi nọ hay nơi kia. Nhưng đặc biệt, tình ca trong quãng thời gian hai mươi năm đó đã đạt đến đỉnh cao cả về số lượng lẫn chất lượng, là một phần lộng lẫy trong gia tài âm nhạc Việt Nam.

Tuy nhiên, những bài hát từng đưa họ lên đỉnh cao danh vọng, đậu lại trong lòng người nghe thì bị cấm, không được hát dù nội dung chỉ ca tụng tình yêu. Ðêm nhạc được tổ chức dưới tên L’histoire d’un amour, tức họ xuất hiện chỉ để trình diễn nhạc tình Pháp. Bởi vì nhạc Pháp có vẻ vô hại, nhạc tình của Pháp lại càng vô hại hơn. Thính giả chỉ thưởng thức nhạc, chẳng mấy ai biết đến lý lịch của các nhạc sĩ sáng tác ra những bài hát đó. Và lý lịch của các nhạc sĩ viết tình ca này hẳn nhiên “trong sạch”!

Hai đêm nhạc được quảng cáo trước cửa phòng trà và dân hoài cổ truyền miệng nhau đi xem. Nói đi xem có vẻ chính xác hơn đi nghe bởi người ta vẫn thường nghe hai giọng ca này qua đĩa và thấp thoáng đâu đó qua vidéo nên không tới nỗi lạ lẫm. Vả lại nhạc nghe qua đĩa dĩ nhiên hay hơn vì âm thanh phòng trà thường rất chát chúa, chói tai. Do vậy chính đi là để nhìn hai ca sĩ bằng xương bằng thịt giờ đây thế nào, có thay đổi nhiều so với ngày xưa chăng. Ði xem họ hát như thể nhặt nhạnh chút gì của một thời xa xưa bỗng nhiên rơi rớt lại, quay về những kỷ niệm bị lãng quên, lục lọi tìm một mảnh của chính mình bị cất dấu, ẩn nấp trong xó xỉnh đâu đó phủ đầy bụi bặm, nấm mốc của thời gian lạnh lùng.

Elvis Phương về nước từ trước, đã hát rải rác chỗ này chỗ nọ nhưng đây là lần đầu tiên Duy Quang xuất hiện trước công chúng. Hai ca sĩ này chỉ hát trong hai đêm nên chị tôi phải gọi điện thoại đặt chỗ trước, hôm sau họ sẽ chuyển sang nơi khác. Nhớ hồi ca sĩ Giao Linh mới xuất hiện cách đây mấy năm. Khi ấy ca sĩ hải ngoại về nước rất ít nên bà được đón tiếp nồng nhiệt. Người ta hào hứng đi xem nguời ca sĩ khi xưa có mái tóc đặc biệt một bên cúp vào, một bên cong ra. Ðiều gì xa xôi, chỉ nghe tiếng đương nhiên rất tò mò muốn thấy hình. Thế nhưng chỉ sau một thời gian rất ngắn được ngự trị ở vài phòng trà trung tâm thì với mấy bài hát ma-ri hết hơi, Giao Linh cùng Tuấn Vũ mau chóng bị dạt ra cho tới khi tên của hai ca sĩ này xuất hiện trên mấy tấm banderole ở rạp Hào Huê, Chợ Lớn và các quán ăn tầm tầm thì kể như vị trí của họ tắt ngúm nơi thành phố. Hương Lan cũng vậy, giọng hát ngọt ngào của ca sĩ này từng lay động lòng người xa xứ với các bài hát mang âm hưởng dân ca, nhưng chính ngay trên quê hương thì đâu có ai hoài hương để lúc nào cũng sẵn sàng rung động trước mấy bài hát bông bầu, bông bí. Không kể vô vàn người hát trong nước nổi tiếng hoặc không nổi tiếng, đều hát ngọt như vậy hoặc hơn vậy, hát những bài như thế và vô số bài mùi mẫn hơn thế, nên chi Hương Lan thỉnh thoảng cũng xuất hiện trên TV trong một chương trình ca nhạc lem nhem nào đó mà không hề ai để ý đến.

Tiếng tăm của hai ca sĩ hải ngoại Duy Quang và Elvis Phương này có phần nổi trội bởi lẽ thức uống đều tính phụ thu khá cao. Chỉ những ca sĩ ngôi sao mới có phần phụ thu này. Ðêm nhạc tình Pháp bắt đầu. Những bài hát của một thời hoàng kim xa lơ xa lắc được các ca sĩ trẻ hoặc không nổi tiếng lắm hát trước. Aline lầu tình trên cát, Les flots du Danube, L’amour c’est pour rien, Apres toi, Bang bang… Một ca sĩ tên Quang Vượng hát rất hay. Rồi Duy Quang bước ra sân khấu. Biết là đêm nhạc Pháp nhưng dường như trong lòng mọi người vẫn mong mỏi một chút “xé rào” để nghe phảng phất những âm giai mơ mòng phổ thơ Tuệ Mai. Thôi bàn học cũ. Sách vở từng năm. Nhớ người tóc xõa. Ôn bài dưới trăng. Thôi chăn gối lẻ. Gửi lại giường xưa. Hương đào ngây thơ. Ủ giùm cho nhé… hoặc da diết đến nao lòng. Người từ trăm năm. Về khơi tình động. Ta chạy vòng vòng. Ta chạy mòn chân. Nào có hay đời cạn. Nào có hay cạn đời… Có vẻ một người từ trăm năm về thật nhưng hình ảnh không đẹp như lời thơ Nguyễn Tất Nhiên. Duy Quang đứng xa trên sân khấu, đầu như hơi hói, tóc như nhuộm nâu, lưng như hơi gù, cổ đưa ra phía trước và một bàn tay buông thõng. Bà chị chắc lưỡi kêu tướng mạo Duy Quang coi chán đời quá, ông anh lắc đầu nói thì soi gương thử xem, bà tưởng mới vài năm phù du trôi qua sao, ngồi quanh đây “đời đã xanh rêu” cả, nào có ai khá hơn ai. MC luôn luôn ra rả giới thiệu khán giả của phòng trà hôm nay toàn những mái đầu bạc rất quen thuộc với ca sĩ và những bản nhạc của thập niên được trình bày đây. Bà chị lại rên rỉ. Nhìn chút coi, ngoại trừ vài vị ở độ tuổi ngoài tám mươi mới bày tóc bạc. Còn lại đều đen nhánh, toàn người trăm năm không phai tóc nhuộm, bói không ra một cọng sương sương. Ðám trẻ loe hoe tưởng có chi lạ ngồi đến giữa chương trình bỏ về hết. Số người ráng ngồi đến cuối buổi là biết niên kỷ bao nhiêu rồi. Tên MC thật không biết điều, cứ lôi tuổi tác người ta ra “bêu riếu”, về hưu sớm sớm cho được việc!

Duy Quang hát lời Việt của ba bốn bản nhạc Pháp. Rõ ràng Duy Quang được nhắc tới bởi rất thích hợp với những bài thuộc loại Ðưa em về dưới mưa. Nói năng chi cũng thừa… hay Này cô em Bắc kỳ nho nhỏ. Này cô em tóc demi gacon. Chiều hôm nay đón gió. Cô có tình cờ nhìn thấy anh… Chắc ca sĩ này biết rõ chỗ yếu của mình nên mau chóng rút lui nhường phần cuối cùng chương trình cho Elvis Phương.

Nổi danh hồi nào trong ban nhạc Phượng Hoàng, vốn học trường Tây nên dĩ nhiên ca sĩ này hát đúng giọng Pháp. Tuy nhiên Elvis Phương không phải là người duy nhất hát nhạc Pháp đúng giọng, lại càng không phải người hát nhạc Pháp đúng giọng hay nhất. Khán giả cũng không phải tất cả đều am tường để mê nhạc Pháp. Nhạc ngoại quốc không mau chóng và dễ dàng đi ngay vào lòng người như Ngựa hoang nào dẫm nát tơi bời. Ðồng cỏ nào xanh ngát lưng trời… Ngày nào bầu trời còn mây bay. Lòng ta vẫn thấy yêu thương hoài… Tôi muốn làm một thứ cỏ cây. Vui trong nắng và quên ưu phiền… Ðối với đa số, nghe loại nhạc như vậy hiểu liền và thấm liền, quan trọng hơn hết, mới thấy đó là Elvis Phương của họ, ca sĩ thủa nào của đám đông khán giả thủa nào!

Vì thế mặc dù nhạc Pháp đúng giọng và hát hay, nhưng khán giả vẫn thấy điều đó không đủ, chưa đúng. Mọi người ngồi nghe một cách kiên nhẫn, ngán ngẩm ngắm người ca sĩ la hét, gào rú, nhảy nhót liên tục mười mấy bài trên sân khấu mà chẳng thưởng thức bao nhiêu, chỉ thấy… thương thương gì đâu! Elvis Phương cố gắng giữ gìn phong độ và khán giả thừa nhận ca sĩ này vẫn còn phong độ. Tuy nhiên, đừng tỏ ra, đừng cố gắng chứng minh một điều gì cả thì tốt hơn. Bởi vì trong chữ “vẫn”, trong sự cố gắng đó đã hàm ý vớt vát, pha vào điều gì chua chát rồi. La hét, nhảy nhót quá chừng dành cho choi choi đi. Khán giả không đợi xem màn đó. Thấy ca sĩ trình diễn trên sân khấu mà bắt mệt. Cả ca sĩ và khán giả đều là người từ trăm năm, lắng dịu một chút thì hay hơn, nhất là hầu hết mọi người đến đây chỉ muốn gặp Elvis Phương để hoài niệm, không phải để sôi sùng sục trong điệu rock mà họ đã quá mệt mỏi nơi cuộc sống hàng ngày. Họ sẽ chọn để nghe rock ở một phòng trà với khung cảnh và không khí khác, với những ca sĩ khác chứ không phải ca sĩ này.

Dường như chịu hết nổi, khán giả yêu cầu nhạc Việt. Ngập ngừng một chút, Elvis Phương hát một bản nhạc xưa, quá xưa chắc hồi chưa sinh ra đời nên không cách nào tôi nhớ được tựa. Không khí phòng trà nóng hẳn lên, mọi người nghe một cách hào hứng, vỗ tay rào rào chứ không phải vỗ tay vì lịch sự. Hết bài, vài giọng la lên hát nhạc Việt đi, rõ ràng ai nấy nóng lòng mong chờ âm điệu dạt dào của những bài tình ca quen thuộc. Ca sĩ lại hát một bài ngày xưa… Thanh Thúy thường hát. Khán giả có chiều thất vọng, nhưng biết sao, thôi thì nghe đỡ một hai bài như vậy còn hơn đi về không được bài nào như ý. Chỉ hai đêm nhạc thôi chứ kéo dài cũng chẳng ai đi lần thứ hai.

Ðúng là biết sao. Bởi vì với nhạc ngoại quốc còn có thể tổ chức được vài đêm hát chứ bông bầu, bông bí… thì ai thèm đi. Bà chị than đi nghe hát như tới gặp người tình xưa, mới vỡ lẽ người tình thương nhớ thực sự chỉ tồn tại trong ký ức, là hình ảnh mơ hồ chìm vào kỷ niệm. Thời gian như dừng hẳn từ lần cuối cùng chia tay đó, giờ nhìn lại thất vọng não nề và giấc mơ dài theo năm tháng bỗng phút chốc vỡ tan thành bọt bóng!

Thật ra số tuổi của họ vẫn còn hát lâu dài, chưa phải muộn, chưa đến lúc rời sân khấu. Nhưng cách họ quay về, cách xuất hiện sau một thời gian quá dài vắng bóng khi trong lòng người hâm mộ chỉ giữ hình ảnh ngày cũ, và lưu giữ giọng hát của họ không thay đổi qua băng đĩa. Sóng đời đã xô nhiều đợt đổi thay. Những con người thật sự sao chỉ hiện ra trên tấm phông nhạt và chính họ gợi nên vẻ gì gượng gạo, Ánh sáng hắt ra là ánh hồi quang dù rực rỡ vẫn chỉ là vạt nắng níu kéo của buổi tà dương.

Người ca sĩ không thể hát một mình đối bóng. Họ cần sân khấu và ánh đèn, cần khán giả nên chi có một phòng trà được mở ra ở Saigon dành cho các ca sĩ qua thời. Có thể tìm thấy Hồng Vân, Lan Ngọc… và một số ca sĩ sau này như Nhã Phương… Phòng trà tuy cũng đèn đuốc xanh đỏ nhưng sàn nhà ciment và một bà quản lý mập mạp mặc đồ bộ, tay cầm quyển sổ nhỏ đi tới đi lui dòm ngó, chỉ huy mọi việc. Phòng trà chia thành hai gian. Gian ngoài sôi động hơn một chút, gian trong trầm lắng với những nhạc sĩ tóc trắng như bông chơi đàn với tất cả sự mê say, nâng niu và vội vã vì thời gian được cầm lấy cây đàn đang dần dần co lại, sợi dây đàn sẽ đứt lúc nào không biết để thanh âm nao nức sẽ im bặt trên chiếc bục trống vắng. Nên dưới không khí rất thân thuộc đó là sự hiu hắt khiến lòng người tự nhiên chùng xuống.

Saigon có số lượng thính giả đông đảo hơn hải ngoại. Vì thế ca sĩ cũ hải ngoại về hát tìm lại vang bóng là điều đương nhiên. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng thế. Ông mơ ước sống lại ánh hào quang rỡ ràng của thời gian ba mươi năm xưa kia, ông muốn quay về nhằm mục đích mưu sinh hay vì lý do nào khác không rõ. Chỉ có điều những câu tuyên bố quỵ lụy của ông khiến mọi người ngỡ ngàng. Thật ra từ cách đây vài năm, nhạc của ông đã được phát qua băng đĩa khá nhiều tại các quán cà phê. Nhạc cổ điển, nhạc Jazz… kén chọn thính giả, thường chỉ tồn tại ở ít quán trong thành phố. Còn hầu hết tình ca du dương trầm bổng nằm tại quán bar, cà phê. Ðể phân biệt “đẳng cấp”, các quán lịch sự thường chỉ chơi “nhạc Trịnh”, nhưng quanh đi quẩn lại nghe hoài bấy nhiêu bài cũng phát chán. Về sau, gần đây, nhạc Phạm Duy đã từ từ thay thế nhạc Trịnh. Trong không khí êm đềm của các quán nước tao nhã, người nghe thả hồn vào thế giới ngập tràn những giai điệu và ca từ đặc biệt của Phạm Duy. Tìm sâu trong muôn thủa, tìm sau lưng bốn mùa, tìm nhau như thiên cổ tìm ngàn thu, gặp nhau trong hơi thở của cuộc đời… Quả Phạm Duy không cần hạ mình đến thế. Giá trị âm nhạc của ông đã được khẳng định và không thể vùi dấu mãi. Những bài hát đã vang lên trong các quán nhạc ở Saigon, Ðà lạt, Nha Trang… như mọi giá trị văn hoá đích thực khác sẽ tồn tại vĩnh viễn, đứng ngoài mọi biến cố cuộc đời.

Hình như Phạm Duy không biết đến điều đó, hay ông vẫn lo lắng bị bỏ quên, vẫn thấy… ngại, hay om sòm vẫn được coi một trong những phương thức quảng cáo thông thường… Thôi thì dù chưa bị đánh cũng xin hàng trước cho chắc ăn. Vả nếu tỏ ra nhu nhã như vậy, may ra bài hát của ông sẽ được chính thức phổ biến rộng rãi. Ông sẽ xuất hiện, sẽ ôm cây đàn hát không phải ở quán nước, phòng trà tẹp nhẹp mà trong những nhà hát to lớn, mở những live show gây được tiếng vang ồn ào. Một giấc mơ quá đẹp có thể giải thích phần nào cho thái độ lạ lùng đạp lên chính mình của ông. Ðẹp quá vì đó là một giấc mơ, và đến giờ giấc mơ vẫn chỉ là điều không tưởng.

Dẫu sao Phạm Duy quá mệt mỏi để có thể chờ đợi lâu, tấm hình chụp trên báo cho thấy ông đã phải ngồi xe lăn khi về tới phi trường. Thời gian của ông không còn bao nhiêu nữa. Ông trở nên gấp rút, vội vã. Ông hối hả xưng tội, nghĩ ra tội để có cái mà hối lỗi. Có còn kịp để ông được hát những bản nhạc của ông trước công chúng thành phố đông đúc cuồng nhiệt như ông tưởng tượng không, bằng bất cứ giá nào? Nhiều người không giận mà chỉ thấy dâng lên cảm giác ngậm ngùi về những cuộc sống mà hoàng hôn đã mênh mông vây tỏa. Nắng úa tàn làm mờ nhòa, lầm lạc nhân ảnh. Một ngày gần cạn, những sôi nổi của bình minh ấm áp, của trưa gắt nồng nàn đã qua đi. Chỉ còn hoàng hôn nghỉ ngơi và tiếng hát vọng từ quá khứ dành cho sự trầm ngâm, hồi tưởng.

Nguyễn Thị Hàm Anh

1 2 3 4 5 6 18