Huyền Lam

Hòn Đá Bên Cây Tùng

Sinh ra lớn lên tại khu ghetto nghèo đầy tội phạm thường thấy tại các thành phố lớn, John không có cha, mẹ nghiện ngập suốt ngày. Bao nhiêu tiền chính phủ trợ cấp hàng tháng cho gia đình nghèo, mẹ anh dùng mua rượu, thuốc.

John nhiễm theo tính xấu môi trường chung quanh, tuy chưa dính vào ma túy, nhưng thỉnh thoảng trốn học, cạy cửa xe, đột nhập nhà ăn trộm để có tiền mua những món đồ mình thích. John cũng từng bị cảnh sát bắt một lần nhưng dưới tuổi trưởng thành nên chưa phải ngồi tù.

Do mẹ anh không còn tiền mua thực phẩm, John ăn sáng ăn trưa tại trường học được Bộ Xã hội tài trợ cho học sinh nghèo. Chiều tối John cuốc bộ đến nhà ăn từ thiện dưới phố dành cho người khốn khó. Đến đây ăn đã nhiều năm nhưng John không quen ai trong nhóm thiện nguyện, bởi mỗi ngày có những nhóm khác nhau tham gia phục vụ.

Người duy nhất John nhớ đến là ông già tuổi ngoài 70 thường làm vào chiều thứ Bảy. Mỗi lần gặp, ông cười tươi, chào mọi người đến ăn rất chân tình. Ông khéo léo múc các món thức ăn vào khay, tươm tất gọn gàng. Khi đưa khay thức ăn, ông bao giờ cũng niềm nở, chúc người ăn ngon miệng như thể đang phục vụ cho vị khách cao quý tại nhà hàng sang trọng nào. Mỗi lần gặp ông, John cảm thấy an lạc, nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng khi vắng người, thấy John ngồi ăn lẻ loi một mình, ông pha ly nước cam đem đến.

John thường không giấu ông điều gì, ngay cả chuyện đánh nhau ở trường hay cạy xe ăn cắp vặt bị cảnh sát bắt. Ông ngồi nghe chăm chú gật gù, cám ơn người thiếu niên to lớn tuổi teen đã chia sẻ. Sau mỗi lần trò chuyện, ông luôn cười rất tươi khuyên John:
– Làm cậu bé tốt tính đi! Đừng làm chuyện dính vào phiền phức nữa, khi đến tuổi trưởng thành sẽ không tốt cho cháu.

John bản tính ương ngạnh, máu giang hồ ảnh hưởng từ khu ghetto, cười lanh lảnh, chỉ vào bắp tay cuồn cuộn, tự hào:
– Cháu mạnh, chắc như đá tảng. Không ai làm gì được cháu đâu!

Không giống như những người khác đến dùng cơm một thời gian rồi ra đi, John đến đây hàng ngày, năm này qua năm kia nên tất cả các nhóm thiện nguyện đều biết đến cậu tuổi teen này. John trở nên thân thiết gắn bó với ông già, gọi ông thân mật hí hỏm bằng cái tên tự đặt: Ông già Cool (cool: vui vẻ, điềm tĩnh).

Bẵng đi một thời gian dài John đột nhiên biến mất không đến dùng cơm. Mọi người thắc mắc muốn tìm hiểu nhưng không biết địa chỉ. Mấy tháng sau, viên cảnh sát đến tìm ông Cool tại nhà ăn, trao bức thư:

“Ông Cool ơi, cháu đã 20 tuổi rồi, đang ngồi tù vì tội trộm cướp. Mẹ cháu mất hơn nửa năm nay. Tháng tới cháu sẽ được thả nhưng không biết phải đi đâu, làm gì để sống. Với hồ sơ tội phạm nếu không người bảo lãnh sẽ không ai mướn cháu, dù có tiền thuê nhà không ai sẽ cho cháu thuê. Cháu không muốn sống trở lại với giới giang hồ để tiếp tục con đường cũ. Cháu muốn làm người tốt, ông ơi!”.
***
Buổi chiều bước chân ra khỏi nhà tù, nét mặt John mệt mỏi, hoang mang cực độ sau một đêm trằn trọc. Cảm giác được tự do không đủ làm anh vui khi đối diện tương lai vô vọng phũ phàng. John thất thểu bước đến trạm đăng ký xe miễn phí dành cho tù nhân mãn hạn, dù không biết phải đi đâu. Hình như có ai đang vẫy tay nơi xa xa. Nụ cười tươi mát ấy, khuôn vóc điềm tĩnh ấy, không thể nào ai khác, John mừng rỡ kêu to, anh chạy ào đến ôm choàng, siết chặt:
– Ông Cool!
Ông xoa nhẹ, vỗ về tấm lưng chắc thịt của người thanh niên mới lớn, ông cho biết các nhóm thiện nguyện tại nhà ăn đã quyên góp mướn căn phòng gần đó giúp anh có nơi cư trú trong 6 tháng. Ông sẽ chở John về nhà ở tạm đêm nay rồi ngày mai đi nhận phòng. John bàng hoàng như không tin vào chính tai mình. Mới vài phút đây thôi anh thấy cô đơn lạc lõng tận cùng. Thế giới như không có anh, loài người như không biết đến sự hiện hữu của anh. Cảm giác được yêu thương, được chấp nhận làm John xúc động mạnh. Mắt anh hoen ướt đầu tiên trong đời.

Ông Cool sống một mình trong căn nhà nhỏ chỉ có một phòng ngủ nhưng có phòng khách lót sàn gỗ khá rộng thoáng. Nơi đây ngoài mấy kệ sách, vài tấm gối ngồi trên sàn của Nhật (tọa cụ), có chiếc bàn thô sơ chưng bức tượng đồng ngồi mỉm cười thật đẹp mà John không biết là ai và có ý nghĩa gì.

Ông Cool làm sẵn món mì Ý đãi John trong buổi cơm chiều. John kể cho ông nghe nhiều khía cạnh khốc liệt đời sống trong tù. Ông chăm chú lắng nghe, gật gù. Dùng bữa xong, ông khuyên John đi tắm để ông lót nệm ngoài phòng khách cho John ngủ tối nay. Khi tắm xong, John bước ra, không gian thanh tịnh lạ lùng. Anh chợt giật mình khi thấy ông Cool phong thái rất an nhiên, ngồi thẳng lưng lặng im giữa căn phòng, miệng mỉm cười cùng bức tượng trên bàn.

Đột nhiên ông nói khẽ:
– Cháu ngồi xuống đây bên cạnh ta, trên tấm gối này, chúng ta cùng trò chuyện.

John nghe lời, ngồi xuống như dáng ông ngồi, nhìn vào bức tượng đang mỉm cười. Không gian lắng đọng, anh nghe được cả hơi thở chính mình.

Ông Cool hỏi John:
– Cháu kể về đời sống trong tù, thế cháu có dự tính gì sau khi ra tù không?
– Cháu không biết bắt đầu ra sao ông ạ, mọi chuyện đối với cháu như ngõ cụt. Cháu may mắn được ban thiện nguyện giúp 6 tháng tiền trọ, nhưng sau 6 tháng cháu cũng không biết phải làm gì.

Vẫn nhìn bức tượng mỉm cười, dáng an nhiên bất động, ông lên tiếng:
– Thật ra cháu đã biết bắt đầu rồi đấy chứ. Cách đây 1 tháng, cháu biết bắt đầu bằng nhận thức rằng mình phải làm người tốt. Chính điều ấy đã gieo mầm cho những điều tốt đẹp hôm nay. Nếu cháu tiếp tục con đường làm người tốt thì điều tốt đẹp sẽ tiếp tục đến với cháu.
– Nhưng cháu tiếp tục như thế nào hở ông? Cháu sẽ cố gắng xin việc làm, nhưng cháu không có kinh nghiệm gì. Ai sẽ mướn một người từng ở tù như cháu?

Nhẹ nhàng, ông Cool khuyên:
– Cháu hãy cố gắng kiếm việc làm hàng ngày. Ai cũng muốn thuê người tốt. Vậy cháu nên làm gì để mọi người có cơ hội biết cháu là người tốt?

Suy nghĩ một lúc lâu, John lên tiếng, giọng vẫn còn rổn rảng, khô cứng của giới giang hồ:
– Mỗi ngày ăn ở nhà ăn thiện nguyện, cháu sẽ giúp dọn dẹp, rửa chén hoặc bất cứ việc gì cần làm.

Ông Cool đôi mắt sáng biểu lộ niềm vui:
– Thật tuyệt vời! Cháu thấy không? Cháu biết mình phải bắt đầu như thế nào mà.

Chỉ vào bức tượng trên bàn, ông nói tiếp:
– Làm người tốt bao gồm làm người chung quanh cảm thấy an vui. Mỗi ngày cháu ráng bỏ ra 10 phút, ngồi một mình, thở nhẹ nhàng, tập cười như bức tượng kia cười. Gặp ai cháu cũng cười nhẹ nhàng như bức tượng nhé. Làm được như thế, nhiều điều mầu nhiệm sẽ đến. Cháu sẽ thấy đời sống đáng yêu, âu lo cũng bớt đi rất nhiều. Mấy mươi năm nay mỗi ngày ông đều ngồi tập cười như thế.

John trầm trồ:
– Ồ, thì ra vì thế mà ông lúc nào cũng cười rất tươi mát với mọi người. Ai cũng thân thiện quý mến ông. Làm thế nào cháu cũng có một tượng như thế? Tượng là Buddha (Phật) phải không ông? Phật là vị thánh như thế nào?
– Ông sẽ cho cháu một tượng như thế. Phật là người có thể tự tại mỉm cười trước mọi hoàn cảnh. Cháu có thể nghĩ đơn giản rằng: Phật là người lúc nào cũng cool. Sau này cháu muốn tìm hiểu thêm, ông sẽ nói thêm.
***
Ngày đầu tiên John trở lại dùng cơm tại nhà ăn, mọi người vui vẻ đón chào. Khi anh ngỏ lời muốn giúp những việc lặt vặt tại đây, các nhân viên từ thiện đều đồng ý nhưng có chút ưu tư trong lòng: không biết tính khí giang hồ trước đây của anh có làm công việc khó khăn nặng nề thêm? Thế nhưng chỉ sau vài ngày, mọi người thì thầm bàn tán “thằng John rổn rảng ngang ngược ngày trước sao giờ dễ thương quá đỗi!”.

John không hề câu nệ bất cứ việc gì, từ lau chùi dọn dẹp cho đến nấu nướng. Anh tâm niệm lời ông Cool dạy, lúc nào cũng niềm nở cười tươi. Gặp những người già, anh tận tình đem đồ ăn thức uống đến tận bàn và thỉnh thoảng hỏi han cần thêm chi. Chỉ một tháng, hơn trăm nhân viên tình nguyện của các tổ chức phục vụ tại đây đều quý mến John. Sau hai tháng, biết John hằng ngày nỗ lực xin việc làm, ông chủ chuỗi nhà hàng sang trọng thỉnh thoảng đến đây làm thiện nguyện đã ngỏ lời mướn anh.

Ông ta nói với John:
– Anh làm việc không lương mà vẫn vui tươi tận tình như thế thì tôi biết khi có lương anh sẽ làm tốt hơn thế nữa.

John như không tin vào tai mình, vui mừng cực độ khi lần đầu tiên trong đời được mướn đi làm.
Anh đến vội nhà ông Cool báo tin. Gặp ông, anh dang hai tay lên trời sung sướng hét to:
– Ông ơi! Thật nhiệm mầu, cháu có được việc làm rồi! Cháu thật không ngờ những điều ông dạy đơn giản như thế lại thành sự thật. Lãnh lương đầu tiên, cháu sẽ đãi tiệc ông.

Ông Cool hân hoan, giọng điềm đạm từ tốn:
– Ông thật vui cho cháu, nhưng phải nhớ nhé, mỗi ngày cháu tiếp tục cố gắng bỏ ra ít phút tập thở và cười. Nếu mình bỏ lơ đi một ngày thì sẽ từ từ thành hai ngày và rồi đánh mất chính mình tự lúc nào. Điều mầu nhiệm cũng sẽ biến mất. Thực hành trong mỗi ngày nhắc nhở ta sống trong ý thức, nhắc nhở ta sống trong chánh niệm.

Khung cảnh giờ ăn tại nhà thiện nguyện. (ảnh minh họa) – Ảnh: H.L

John hỏi:
– Chiều Chủ nhật hàng tuần, ông cho cháu đến nhà ngồi chung với ông nhé, để dạy cháu thêm?

Ông Cool nhìn John trìu mến, vỗ nhẹ vào vai anh:
– Được chứ, ông rất vui khi cháu đến!

Cuộc sống John kể từ đó thuận buồm xuôi gió, anh được tài trợ đi học thêm, thăng tiến chức vụ theo năm tháng, từ người hầu bàn, thành ca trưởng, trợ lý. Mười năm sau anh được thuyên chuyển qua tiểu bang khác làm quản lý nhà hàng. Tuy xa ông Cool nhưng anh vẫn liên lạc mỗi tuần và hàng ngày thực hành lời ông dạy.

Một hôm, khi gọi thăm như thường lệ, anh rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói đầu dây khác lạ. Qua vài câu xã giao thăm hỏi, giọng người lạ báo tin:

– Tôi là cháu Thiền sư Sota từ tiểu bang khác về, cách đây vài hôm bệnh viện báo tin ông đã qua đời anh ạ. Ông ra đi khuôn mặt vẫn cười rất an lạc. Ông có để lại di chúc, trong đó có nhờ anh tí việc.
***
Một ngày mùa xuân, người đàn ông tên John tuổi ngoài 30, theo lời dặn trong di chúc để lại của ông lão dạy thiền nơi miền Tây­ bắc Hoa Kỳ, lái xe hơn 2 ngàn cây số xuôi Nam tìm đến Vườn quốc gia Zion, bang Utah, Hoa Kỳ. Đoạn đường dài như bất tận ấy, một mình lái xe, John thả hồn trong cảm xúc nhớ thương ông lão vô biên…

Sau một đêm nghỉ ngơi tại nhà trọ trong Vườn quốc gia, sáng sớm anh hỏi người quản lý giúp nhận định địa điểm tên một đỉnh núi trong hơn mấy chục đỉnh tại đây, John lần theo đường mòn đi bộ lên đỉnh núi cao. Con đường trắc trở, khi đi, khi trèo qua những khối đá, phải mất 4 giờ John mới tới nơi. Anh loay hoay ngang dọc trên đỉnh một lúc lâu rồi thốt lên mừng rỡ:
– Ô, đây rồi! Ôi, đẹp quá!

Một cây tùng xanh tươi mọc ngay trên bờ đông của đỉnh mà một phần thân trườn ra bên ngoài vực sâu thăm thẳm cả ngàn mét. Gió ở đây khá mạnh, rít từng cơn làm John cảm tưởng có thể hất văng anh xuống vực bất cứ lúc nào.

John mở ba-lô lấy hộp đựng tro, anh quỳ xuống, cẩn thận tỉ mỉ, rót từng giọt tro qua những khe đá nơi rễ cây tùng mọc. Xong việc anh ngồi đối diện cây tùng, hồi hộp mở lá thơ ông Cool để lại, không biết ông viết gì trong ấy mà phải đến đây mới được đọc.

John giọng mỗi lúc mỗi nghẹn ngào:
“Thời trai trẻ biết bao lầm lỗi, ta lang thang đến đây. Trong tuyệt vọng chán chường ta có ý định nhảy xuống vách núi kết liễu cuộc đời. Nhưng mi ­- cây tùng bỗng nhiên hiện diện vững vàng ngay trên vách. Ở đây chỉ có đá và gió, thân mi thì có thể rơi xuống vực sâu bất cứ lúc nào, nhưng mi vẫn sống khỏe trên vùng núi khắc nghiệt này, vẫn xanh, vẫn tươi mát chở che soi bóng cho hòn đá thô cứng bên cạnh. Cám ơn mi cứu mạng, giúp ta bài học nhiệm mầu. Xin gởi đám tro tàn góp phần cho mi”.

Nước mắt John tuôn chảy, xúc cảm từng cơn chấn động châu thân. John thấy mình hết sức phước đức được ông Cool bằng xương bằng thịt chỉ dẫn từng bước trong cuộc sống. Còn ông Cool khởi đầu chỉ có cây tùng. Anh thấy mình có nhiệm vụ làm cây tùng tiếp nối cho những hòn đá khác.

Nghẹn ngào, hùng tráng, anh ngâm to bài thơ ông Cool làm cho cây tùng trên đỉnh núi cao, giữa không gian lộng gió:

Núi sừng sững cao
Vực thăm thẳm sâu
Gió cuồng điên bạt!
Sấm gầm động vang!
Hề ta đứng! Mỉm cười cùng năm tháng
Soi bóng đời che chở đá cô liêu.

Huyền Lam

Huy Tưởng

Bốn Bài Lục Bát

1.
“Giã từ cõi mộng điêu linh
“tôi về buôn bán với mình phôi pha”
Tưởng như cơn cớ đã là
Thõng tay giữa chợ người ra kẻ vào…
Tiếp nhau vồn vã câu chào
Trả nhau âm hiểm lắng vào thịt xương
Đêm nằm nghĩ quá đoạn trường
Chi li so đọ vô thường… nữa sao ?!

…giã từ hàng quán xôn xao
Vội đi quên gửi câu chào cuối đông.
Tôi giờ
tĩnh tịch
quán không !
2.
Mấy mươi năm. sống. ai ngờ
tựa câu thơ chép lên tờ chiêm bao
thả bay biền biệt trăng sao
chữ đi tầm tã. rạt rào dưới hoa…
Mấy mươi năm. sống. hóa ra
là cái chớp mắt nối ta với trời !
Mấy mươi năm
giữa
ngôi Lời.
3.
Con chim bay vút lên trời
Đánh rơi tiếng hót bao lời nỉ non
Tôi về nhặt ý cỏn con
Viết bài thơ gói nỗi buồn mang theo…
Hành trang ấy
ít hay nhiều?

4.
Thật. không muốn chép lại. bài
thơ hôm qua rớt sõng soài ngoài hiên
những lần chín đỏ cơn điên
chép tờ phỉ lạc xô nghiêng đất trời.
Không muốn viết. dẫu một lời
mặc cho nọc độc con người thấm qua…
Thinh lặng
từ đó
bước ra…

Con Đường

Này em ta dắt nhau về
Vang vang dưới núi
Chiều tê lạnh rồi
Con ong cái kiến
Qua đồi
Và trăng xanh nữa im lời nước mây
Bước chầm chậm dưới hàng cây
Đừng rung em nhé
Sợ ngày rụng theo
Bóng ta rớt dưới chân đèo
Em ơi có thấy ít nhiều hoang vu
Thôi nằm ngủ dưới rừng thu
Mai ta thức dậy thân mù mịt sương…

Mai ta bỏ phố quên phường
Dìu nhau đi suốt con đường hư không

Đêm Nằm Mộng
Thấy Bùi Giáng

Đêm qua. Bùi Giáng hiện về
Mang bao giỏ xách bộn bề thị phi
Lùa chân theo gió mà đi
Áo xanh tóc trắng. phương phi khác thường!…

Nhớ thời dãi nắng dầm sương
Nửa khuya hú gọi loáng đường Lê Chân
-Bái xin hoàng hậu mẫu thân
Hồng nhan xô Trẫm xuống phần mộ xanh…

Ô hay! Bàng Giúi sao đành
Tan trong tráng lệ vô thanh ra về ?!
Tôi nằm thiếp giữa cơn mê
Câu thơ thánh nhập mãi đè nặng tôi
“Xác thân Bồ Tát tan rồi
“Tụng kinh dưới đất. trên trời mây bay…”

Trên trời. mây mãi còn bay
Dưới đất tôi cố níu ngày xuống đêm
sao cho giấc mộng dài thêm…

Huy Tưởng

Huy Trâm

Huy Trâm

Hồng Ân
* Tặng Thanh Nga

Cành cam chín – một hồng ân
Thêm hồng ân nữa! Đầy sân lúa vàng
Mây chiều lững thững qua ngang
Khơi nguồn mỹ cảm Trời ban cho mình
Bao nhiêu ân sủng chung quanh
Mà em không biết Trời dành cho em!
Còn nguồn ân nữa trong tim
Biết thương yêu, để vơi niềm khổ đau
Ôi! Hồng ân quá nhiều mầu
Tạ ơn Tạo Hóa – Ngẩng đầu trông lên

Lỡ Buổi Đẹp Trời

Những lá phong bay, đẹp biết bao?
Mà mình tranh cãi – nặng lời nhau
Người thương làm khổ người thương đó!
Cãi đến bao giờ mới dứt câu?

Đêm về, anh hối hận Vân ơi!
Không biết thương em để nhịn lời
Đau yếu, thuốc thang ngày mấy bận
Còn nghe trách cứ chuyện lôi thôi.

Rưng rưng anh nhớ buổi đầu xưa
Trong quán chiều hôm nghe gió mưa
Em nhẹ đưa tay và khẽ bảo:
“Này coi! Em sống đến bao giờ?”

Nơi em, hiện rõ nét mong manh
Của khách tài hoa – giầu nghĩa tình
Vui đấy mà buồn ngay được đấy!
Có thương thì cảm nhận cho nhanh.

Lỡ Buổi Đẹp Trời

Những lá phong bay, đẹp biết bao?
Mà mình tranh cãi – nặng lời nhau
Người thương làm khổ người thương đó!
Cãi đến bao giờ mới dứt câu?

Đêm về, anh hối hận Vân ơi!
Không biết thương em để nhịn lời
Đau yếu, thuốc thang ngày mấy bận
Còn nghe trách cứ chuyện lôi thôi.

Rưng rưng anh nhớ buổi đầu xưa
Trong quán chiều hôm nghe gió mưa
Em nhẹ đưa tay và khẽ bảo:
“Này coi! Em sống đến bao giờ?”

Nơi em, hiện rõ nét mong manh
Của khách tài hoa – giầu nghĩa tình
Vui đấy mà buồn ngay được đấy!
Có thương thì cảm nhận cho nhanh.

Huy Trâm

Huy Phương

Huy Phương Gốc

Tìm Bạn Tri Âm

Ngày 21 tháng 6 vừa qua, truyền thông Mỹ vừa loan tin cô nữ sinh Katherine Lester, 16 tuổi, “tìm bạn tri âm” qua website đã phải lòng anh chàng người Palestine Abdulad Jinzawi, 20 tuổi. Cô định lên máy bay sang Jesuralem, nhưng đã bị nhà chức trách Hoa Kỳ giữ lại vì lý do an ninh. Nguồn tin cho biết có 87 triệu người vào trang Myspace.com để tìm bạn, trong đó có tới 20 triệu là tuổi choai choai như cô nữ sinh người Mỹ kể trên.
Tại Úc đã có 4,5 triệu người độc thân đã tìm đến việc hẹn hò qua internet. Match.com và RSVP, mỗi website có hơn hai triệu thành viên, và những thành viên này, ngày nay đã có đôi thành vợ thành chồng. Giám đốc điều hành những website này đã cho biết số người tìm bạn tăng rất nhanh trong vòng ba năm trở lại đây. Tuổi kết hôn của một người bình thường là từ 27 đến 29 tuổi, nhưng trong tuổi này, người ta lại quá bận rộn với những công việc sinh kế hằng ngày, ngoài thương trường hay trong công sở, nên ít có cơ hội giao tiếp với người khác phái để tìm hiểu và dẫn nhau tới hôn nhân. Vì vậy internet là cơ hội dễ dàng để những người này vào, trao đổi, tìm hiểu và cuối cùng đồng ý một chỗ hẹn hò. Trong nhiều năm qua, nhiều tội ác đã xẩy ra vì trao đổi trên internet, nhưng đó chỉ là con số nhỏ, nhu cầu trao đổi tìm bạn, tìm người để đi đến hôn nhân trên internet vẫn cần thiết.
Phụ nữ thường ở thế thụ động, nhưng internet chính là nơi để cho quý bà quýù cô chủ động khi đưa hồ sơ mình lên net và sẵn sàng liên lạc với đối tượng nào mà họ thấy thích.
Ngày xưa, cách đây nửa thế kỷ, lúc chưa có internet, và ngay cả bây giờ tại trong và ngoài nước, đối với một số đông còn ít xử dụng tới internet, thì những dòng chữ trên báo vẫn còn quý giá để người ta có cơ hội trao đổi, tìm hiểu và chọn một người tri kỷ hay là một người tình. Kết quả đi đến hôn nhân, đương nhiên cũng có thể có, nhưng với bản tính người Á Ðông, không ai muốn tiết lộ rằng mình lấy chồng hay lấy vợ là do mục “tìm bạn tri âm” trên báo chí.
Tôi nghĩ tờ Thẩm Mỹ là tờ báo đầu tiên ở Saigon, cũng có thể là ở Việt Nam mở ra mục Tìm Bạn Tri Âm, để làm nhịp cầu cho người ta tìm đến nhau bằng thư từ gởi theo lối cổ điển là qua bưu điện. Cho đến nửa thế kỷ sau, ở quê nhà hay ở hải ngoại, tìm bạn vẫn là một nhu cầu cần thiết cho những tâm hồn cô đơn, mặc dầu tiết mục đã đổi qua nhiều tên khác nhau: “Tìm Bạn Tri Kỷ”, “Tìm Nhau Qua Lá Thư Hồng”, “Kết Bạn Thư Tín”…
Ngày trước, không biết có bao nhiêu người trưởng thành phải cần đến mục Tìm Bạn Tri Âm để kiếm cho được một người tri kỷ trong cái quãng đời trống vắng của họ, nhưng cái bọn học sinh trung học chúng tôi thời ấy thằng nào cũng sung sướng có được một vài lá thư xanh xanh từ Saigon, Nha Trang hay từ Vạn Tượng, Nam Vang hồi âm. Vài tuần trước đó, bọn chúng tôi đã cố nắn nót viết một bức thư trên giấy pelure xanh để gởi tới địa chỉ một cô nàng nào đó trên báo Thẩm Mỹ, rồi ngày ngày ngóng chờ người phát thư đi qua nhà gọi tên. Lẽ cố nhiên không bao giờ dám để cho ông bố nghiêm khắc của mình biết chuyện, vì không lo học mà “tìm bạn tri âm”, cũng như không dám khoe với bạn bè. Về phía con gái thì những cô thiếu nữ con nhà giàu, đẹp đẽ, nết na, đã không thiếu những anh chàng đeo đuổi, có khi chưa học xong trung học, đã có người đưa xe hoa tới rước, cần gì phải mất công đi tìm người trong mộng qua tờ báo. Về phía con trai, thì những anh chàng có “3 chữ gi..” thời ấy là những chàng “học… giỏi, nhà… giàu, đẹp…giai” thì đâu cần đi tìm những người chưa biết mặt biết tên, như những chàng trai mơ mộng khác:“Chưa biết tên nàng, biết tuổi nàng,
mà sầu trong dạ đã mang mang”…(Huy Cận)
Ðất nước chúng ta, qua chiến tranh, ly biệt, đổi đời, con người gặp phải những hoàn cảnh đổ vỡ, ngang trái, nhiều người phải chịu cảnh cô đơn, nên trên mặt báo những mục tìm bạn tri âm, tri kỷ lúc nào cũng đông khách. Cũng có những trường hợp nam tìm nam, nữ tìm nữ, những thiếu phụ một lần đổ vỡ, những gái lỡ thời “chưa một lần kết hôn”, muốn tìm bạn trai “để sống nốt cuộc đời còn lại bên nhau”.
Năm 1975, sau khi bỏ nước ra đi, thi sĩ Cao Tần đã chán nản, đau xót kêu lên: “ta làm gì cho hết nửa đời sau?”. Thì đây là câu giải đáp trong mục “Tìm Bạn…”của một nam nhân 52 tuổi “thích dạo biển, dạo sông lúc hoàng hôn”: “ta dìu nhau đi cho hết 1/3 cuộc đời còn lại”, hay là của một single mom 50 tuổi :“nửa cuộc đời còn lại trao hết cho anh!”(nửa cuộc đời còn lại này chúng ta phải hiểu tính từ 50 đến chẵn 100 tuổi, vậy ai là người có lòng, xin đừng ngần ngại nữa!)
Không chỉ những thanh niên, thiếu nữ trung niên, dang dở cuộc đời, chính tuổi già đơn lẻ cũng cần tìm nơi nương tựa cuối đời. Không thiếu những ông cụ lục tuần, hay sắp sửa bước tới tuổi “cổ lai hy”, cũng có những lời nhắn tha thiết “tìm một bạn gái khoảng 50 tuổi nhưng vẫn còn say yêu.”!
Trên những dòng rao người ta tìm thấy một nền văn chương rất là mùi mẫn, ai oán làm xúc động lòng người, như bài thơ sau đây, vần điệu rất vững vàng:- “Sáu mươi xuân lẻ, vẫn đơn côi
Khuya sớm cày thuê trả nợ đời.
Ðất khách tào khang đà gẫy đổ
Quê nhà đơn độc, lệ đầy vơi.
Trần gian, nhi nữ ai tri kỷ
Chắp nối tơ duyên, trọn kiếp người”.
Khó mà tìm được trên các tờ báo tây hay trên internet, một dòng tìm bạn sang cả, đầy tính văn học như vậy, vì mỗi người Việt Nam là một thi sĩ. Ðiều đó thật không ngoa.
Bây giờ không phải chỉ ở hải ngoại tìm nhau, mà thấy nhiều cô gái ở Việt Nam, dư bằng cấp nhưng nuôi giấc mơ “đi lấy chồng xa”, mơ đi Mỹ, hèn chi con gái danh giá của ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng lấy Việt kiều Mỹ cũng phải. Qua lời rao chúng ta thấy: Ðại Học Ngoại Thương, Cử nhân Ðại Học Tổng Hợp, Cao Ðẳng Nha Khoa, Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học, đang học Tiến sĩ, giáo sư Ðại Học Saigon- đăng báo ở đây để tìm chồng như lời rao sau đây:-“Tốt nghiệp đại học Anh Văn, ngoan hiền, mơ Mỹ Quốc. Thư đầu nhờ người bác ở Quận Cam chuyển”, -“Cao Ðẳng Nha Khoa Saigon, hiền ngoan, muốn làm quen với các anh có quốc tịch Mỹ, thật lòng muốn về Việt Nam cưới vợ”.
Các cô gái tại quốc nội tìm chồng, không phải trường hợp từng người, mà có những lời rao từng “chùm”, như “chùm thơ”, “chùm tư tưởng” theo ngôn ngữ trong nước: “Sáu cô gái, người miền trung, đang đi học tại Nha Trang, Saigon. Cha mẹ đang ở tỉnh X. Muốn tìm bạn trai, bên này, hợp ý, sẽ tiến tới hôn nhân…”
Ðang đi học xa nhà, mà đã muốn tìm chồng, đề nghị cha mẹ gọi về … đét đít.
Cũng có người ở hải ngoại đăng báo tìm chồng cho “một chùm” con cháu như sau: “Mình mới về Việt Nam thăm nhà, có ba đứa cháu tuổi từ 18 đến 22, hiền ngoan, thùy mị, đang học đại học muốn tìm bạn trai ở Mỹ, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, tuổi tác, miễn là có quốc tịch.”
Năm 1975, nhà nước Cộng Sản đã để cho chảy máu chất xám. Trí thức khoa bảng ùn ùn xuống tàu vượt biển vì không ưa chế độ Cộng Sản, bây giờ vì mơ Mỹ, nhiều cô tốt ghiệp đại học tại Việt Nam lại muốn bỏ nước ra đi theo con đường …tìm chồng. Không khéo lại xẩy ra một cuộc thất thoát chất xám thứ hai.
Ởû Mỹ này người ta bắt đầu sợ mập, nên trong lời rao cô nào cũng cẩn thận ghi hai tiếng “không mập”, còn đàn ông thì lại sợ bị chê lùn, nên anh nào cũng không quên nhắc hai tiếng “cao ráo”. Một anh chàng lại ghi trong lời rao: “Nam, mong tìm được một nàng không ngoài 54, dáng gầy gầy…”.
Những lời rao trên các trang tìm bạn, hay cả trên internet chưa chắc đã là những lời nói thật, có lẽ mọi người đều giảm cái xấu của mình đi một tí và tăng cái tốt của mình thêm lên. Chuyện xưa kể rằng, có một cô gái chẳng may bị vá môi, khi chụp ảnh gởi cho bạn, cô ngậm một đoá hoa hồng, trông “romantic” hết ý! Phía chàng trai, trời bắt có cái lưng gù, chàng gởi cho nàng một bức ảnh đang ngồi trên lưng ngựa đang phi, trông hùng dũng biết bao! Thế mà trên một mục rao tìm bạn, một cô nàng đã dám ghi rõ “dữ và xấu, nên bị chồng bỏ, muốn tìm người thích bị ăn hiếp…”
Có lẽ vì vậy, mà nhiều lời nhắn nhe đã vừa cảnh cáo, vừa năn nỉ : “xin đừng đùa giỡn mà tội nghiệp!”
Khi người đời còn có nhu cầu, thì những mục tìm bạn trên báo chí hay qua mạng vẫn còn cần thiết. Nhiều người lúc nhỏ đi học, ra trường đi làm, chạy theo nghề nghiệp hay có người còn phải lo bổn phận cho gia đình, như nhân vật “Người Anh Cả” trong tác phẩm của Lê Văn Trương, chưa bao giờ nghĩ tới hạnh phúc của cá nhân mình. Lúc nhìn lại, thì ngày tháng quá quạnh hiu mà tình cảnh quá cô độc. Mỗi người mỗi cảnh, “đoạn trường ai có qua cầu mới hay!” Phải chăng hình phạt dành cho một người tù là sự cô độc, vậy xin những ai đang còn cô đơn khuya sớm một mình, nếu không chịu nỗi sự trống vắng, quạnh hiu xin đừng ngần ngại, vì “lời nhắn không quá 45 chữ, thư làm quen xin dán sẵn tem, kèm theo chi phiếu $5.00, xin gởi về…”
Xin các bạn yên tâm: “sẽ hồi âm, dù thư đến trễ…”

Tiếng Chim Buổi Sớm

Ngày bị đày ra tận Hoàng Liên Sơn, “lán” tù tôi ở bên một dòng suối nhỏ, đầu “lán” có một cây rừng, đến mùa hè hoa nở đỏ. Buổi sáng, tôi thường thức giấc sớm, nghe có con chim lạ đến hót những tiếng líu lo ở trên cành. Tôi nằm yên, quên hết phiền muộn, tận hưởng những âm thanh tuyệt diệu, âm thanh đầu tiên của một ngày. Để sau đó, không bao lâu, là tiếng kẻng tù gắt gỏng nổi lên giữa buổi sớm mai, bắt đầu một ngày lưu đày khốn khổ.

Ai cũng cho rằng khi nằm trên giường thì bắp thịt ta được nghỉ ngơi, nhịp tim đều đặn, hơi thở nhẹ nhàng, giác quan tinh tế hơn, và ta có thể tập trung tinh thần vào những cảm giác hay những ý tưởng của mình một cách tuyệt đối. Ông Lý Lạp Minh, một nhà văn Trung Quốc khuyên ta buổi sáng nên nằm giường mà nghe chim hót, là điều thú vị nhất. Tôi cũng đã hưởng được những giây ấy, mặc dù là ngắn ngủi. Ở thành phố hay thôn quê, đâu cũng có chim, chẳng qua là vì cuộc sống tất bật, chúng ta không để ý đó thôi.
Tôi còn nhớ Saigon, buổi sớm mai, những quãng đường như Hồng Thập Tự với những hàng cây cao đầy bóng mát, luôn luôn ríu rít tiếng chim kêu. Ngày ấy đời còn vui, chim còn đậu đất lành, tiếng động cơ của xe cộ hay tiếng xích lô máy nổ dòn dã cũng không đuổi hết đàn chim phải bay rời xa tổ. Ngày đất nước rã rời, phải lên tàu Sông Hương ra Bắc, những hôm phải vác một con dao lên những đồi tre, qua những cánh rừng, chặt chục cây mương hay kiếm mớ củi, cô đơn lầm lũi giữa làn cây, nghe tiếng chim kêu mới thấy nỗi sầu trong dạ.
Có những tiếng chim chiêm chiếp như tiếng gà con, bồi hồi nhớ đến đàn con còn bé dại ở quê nhà. Có tiếng chim cu gáy xa xa, đáp lại ở đâu đó tiếng đồng loại hoà điệu, nghĩ lại tấm thân cô đơn với nỗi buồn nơi xứ lạ. Rồi tiếng chim rừng khắc khoải “bắt cô trói cột” vẫn thường nghe mỗi trưa nơi rừng Việt Bắc, tiếng kêu kéo dài cho đến lúc nắng quái buổi chiều. Tiếng kêu đanh lại, nghe như gằn từng tiếng, theo đầu óc tưởng tượng của mỗi người với những hoàn cảnh riêng, như lời kêu thống thiết, oán thán, trách móc não nuột. Tiếng chim “bắt cô trói cột” nghe thành “hết cơm tới bột” còn chút khôi hài, đói rã họng “đói cơm đứt ruột” còn nghe lời động viên “khó khăn khắc phục” lập đi lập lại nghe tới nhàm chán. Nghĩ theo lời chim, mường tượng như nỗi than khóc “nhớ con đứt ruột”.
Rồi con chim “cuốc” lầm lũi đâu đó trong khóm lúa, bụi cây, vào cuối xuân hay đầu mùa hè, không hề biết hót mà kêu lên những tiếng khắc khoải, từng tiếng từng tiếng một, nghe ra não nùng, hờn oán của người “mất nước” phải khoanh tay, để “nhớ nước đau lòng con quốc quốc” (Bà Huyện Thanh Quan). Con chim này được gọi là Đỗ Quyên hay Từ Quy, theo tích xưa, là hoá thân của Vua Thục Đế, mất nước khóc đến chảy máu mắt, chết đi hoá thành con chim, cất lên những tiếng kêu não nùng. Tiếng chim “cuốc” nghe xót xa phù hợp tâm trạng người “mất nước” phải xuống tàu đày đi biệt xứ. Nhớ lại câu thơ của Chu Mạnh Trinh:
“Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu
Đỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm.”
Cung miếu triều xưa nay vắng ngắt,
Trăng mờ khắc khoải “cuốc” kêu thâu.
(Tiên Đàm dịch)
Hay của tướng trung liệt Phan Thanh Giản:
“Ải Bắc ngày chờ tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu!”
Còn loài “chim quyên” khác ta thường thấy là một loài chim nhỏ, có bộ lông óng ánh, nâu pha đốt đỏ, có tiếng hót rất hay, thường vào ban trưa ở trong bụi hay đầu hồi nhà. Nhưng không hiểu tại sao người ta lại đánh giá cao để ví chim quyên cao như người quân tử, quân tử sao mà sa cơ, như “chim quyên xuống đất ăn trùn, anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than”.
Gà là loại cầm, nó không biết hót, nhưng con gà trống có tiếng gáy vào buổi ban trưa làm cho người ta nhớ đến bao nhiêu điều: “hiu hắt gà trưa gáy não nùng”. (Lưu Trong Lư)
Nhà văn Lâm Ngữ Đường thích nghe tiếng kêu của một loại “gà nô” ( tiếng Tàu còn gọi là “giá cô”). Nói là giống gà nhưng nó hót như chim. Tiếng hót có bốn âm do, re, mi … âm mi kéo dài hai ba nốt, ngưng hẳn một tí, rồi tiếp theo bằng một nốt thấp hơn. Giống chim này có nhiều ở phía Nam Trung Quốc, hót trễ vì đây là một giống chim dạn dĩ, không sợ giàng thun bọn trẻ, trái lại hầu hết loại chim khác đều hót sớm vì sợ loài người ác độc. Có khi chúng bặt tiếng luôn vì lưới bẫy giăng khắp nơi, ví lưới chim đem ra chợ bán là một nghề mới kiếm cơm.
Tiếng hót của giống gà nô này có ba âm và âm cuối kéo dài, có người nghe là “chè, xôi, chuối … thịt”, âm thịt kéo dài ra, thấp xuống rồi ngưng bặt (theo Nguyễn Hiến Lê). Nghe giống như ý nghĩ mấy ông xôi thịt làng xã ngày trước và ngay cả hôm nay. Giống chim này ở Việt Nam cũng có, thời Tây thuộc tôi có nghe người ta nhại tiếng chim là “père, mère, frère … tout est perdu” (cha mẹ anh em mất cả rồi). Nghe ra ngậm ngùi làm sao, như sau một trận hồng thủy, chiến tranh… như một câu oán than: “cha mẹ già đã khuất núi, quê hương đã thất lạc, mộng ước đã tàn phai …” (Bùi Bích Hà).
Tôi có người bạn già vẫn bị người ta chê là đã vì tự do mà bỏ xứ, sao bây giờ lại giam cầm bao nhiêu loại chim trong khu vườn nhỏ, gây nên cảnh “chim lồng cá chậu”, khuya sớm lo quạt nồng, ấp lạnh, vất vả tấm thân già. Nhưng bù lại, bạn tôi hưởng được cái thú ở đời là mỗi buổi mai thức giấc nằm nướng trên giường nghe tiếng chim khướu hót ngoài hiên. Những buổi sáng đầu mùa hè, tiếng chim sơn ca (chiền chiện) trong ánh sáng mờ mờ của buổi rạng đông đã bắt đầu cất tiếng hót. Những lúc sung sức, ăn uống đầy đủ giọng sơn ca “luyến láy” tuyệt vời, nói theo danh từ làng ca kỹ. Ban trưa, khi trời nắng ấm là lúc những con chim khoen (gọi là vành khuyên vì trên mắt chim có hai vòng khoen trắng) rộn ràng tiếng hót. Buổi tối nếu trong nhà còn đèn sáng, sơn ca vẫn còn cất tiếng, khi có tiếng nhạc ồn ào, thì giống chim khuyên cũng líu lo tưng bừng. Ban trưa nắng, trời ấm nghe tiếng chim cu gù. Những đêm trăng, chúng ta còn nghe tiếng chim “mocking bird” kêu, một loại chim có rất nhiều trên đất Mỹ. Dù là giống chim trời của bốn phương, nhưng giống chim cùng loại đậu ở đâu cũng hót tiếng như nhau, nên người chơi chim còn nghe được chút âm thanh quê hương đâu đó. Hoạ Mi, khướu và những giống chim Á Đông đã theo những người nuôi chim bằng nhiều con đường khác nhau, sang đến miền đất này, để khuya sớm chuyện trò với gia chủ bên tách trà buổi sớm.
Trời đất yêu loài chim nên tạo ra rừng cây, loài người yêu chim thì phát minh ra cái lồng. Ông Trịnh Bản Kiều bên Tàu, ngày xưa khuyên em ông đừng bao giờ nhốt chim trong lồng, vì chúng ta nên dung hoà với thiên nhiên và vui với vạn vật. Ông cho rằng không phải vì không yêu chim mà ông khuyên em đừng nhốt chim trong lồng, nhưng vì có cái đạo yêu chim và nuôi chim. Muốn nuôi chim thì trồng vài trăm cây chung quanh vườn nhà để chim tìm tới làm tổ. Buổi sáng tỉnh giấc, còn trăn trở trên giường mà nghe tiếng chim hót thì còn gì thần tiên bằng. Lúc đã xuống giường, mặc áo, đánh răng súc miệng, uống trà, còn thấy chim vỗ cánh rực rỡ, bay qua bay lại thì cái vui nhìn chim trong lồng đâu có so sánh được.
Ở trên đời này ai cũng ghét giọng con chim cú, nhất là chim cú kêu nửa đêm, để người ta miệt thị là “cú giòm nhà” hay “cú kêu nhà bệnh”. Cũng là loài chim, nhưng chúng lại không có tiếng hót của trời cho, mà chỉ có tiếng kêu như giống ngan ngỗng tầm thường. Một loài chim khác chỉ biết kêu hay nói, là giống vẹt. Chúng mang màu sắc sặc sỡ như xiêm áo của bà đồng cốt, tiếng kêu chát chúa chói tai mà nhiều người vẫn thích do cái tài bắt chước ngọng nghịu tiếng nói của loài người, đó là “nói như vẹt”. Đến thăm nhà nuôi vẹt, nghe tiếng vẹt nói ngộ nghĩnh, chúng ta thường cất tiếng cười hỉ hả, nhưng giống vẹt lại cho đó là tiếng tán thưởng vì giọng nói ngô nghê, sao chép vô nghĩa của nó. Ta có bao nhiêu giọng nói quen thuộc, chúng ta chưa đến nỗi thiếu giọng người, thế mà cũng có người thích giọng vẹt-người.
Những ngày mới đến Mỹ, tôi có nhận thấy ở Mỹ có nhiều bầy quạ đen. Chúng kêu loét choét sau vườn, nhiều khi sà cả bầy xuống sân cỏ. Tôi cho đây là loại chim vô tích sự. Người đời quý màu sắc, mà loài quạ chỉ mỗi màu đen. Người ta thích tiếng hót mà loài quạ chỉ biết kêu. Ai cũng thích sự hiếm quý, mà loài quạ bay đến từng đàn, đuổi đi không hết. Vậy mà nhà thơ Trương Kế của Trung Hoa ngày xưa, nửa đêm nghe tiếng quạ kêu cũng sinh tình làm bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” bất hủ. (Nguyệt lạc, ô đề sương mãn thiên…)
Trong khi trái đất này còn quá nhiều loại quạ, vẹt, cú, kên kên… mà chúng ta còn nghe được có tiếng chim hót, hạnh phúc biết bao! Nếu bạn ở trong một vùng vắng tiếng xe, một buổi sớm mai nào đó, thức giấc, nằm yên trên giường, xin im lặng, thử tìm nghe có tiếng con chim nào đến hót trên cành cây ở đầu nhà không?

Huy Phương

Hoàng Định Nam

Hoàng Định Nam

Tôi, Cổ Viện

Lòng tôi, một thời , là rừng hoang.
Em, con thú nhỏ ,dạo lối mòn.
Vết chân để lại trên bờ suối.
Nước trôi hoài chưa xóa hết dấu son.

Lòng tôi, một thời, là phố thị.
Phố đông người, phố vẫn nhận ra em.
Em qua đó một lần, rồi xa khuất.
Chút bụi hồng lưu lại vẫn có tên.

Lòng tôi, một thời, là sông vắng.
Em, cánh buồm, thiếu gió xuôi trường giang.
Sông hoang lạnh cả đôi bờ lau sậy.
Thuyền trôi rồi,gợn sóng mãi chưa tan.

Lòng tôi, một thời, là sa mạc.
Em cơn mưa qua đấy một lần.
Mưa tan nhanh trả lại trời nắng cháỵ
Sao cát vàng giữ mãi giọt nước xanh.

Lòng tôi, một thời, là bão tố
Em ,cành mềm,lả ngọn ,bình yên.
Trường lớp ấy, em đi về mấy buổi
Có buổi nào em học chuyện nhân duyên?

Lòng tôi, bây giờ, là cổ viện
Bảo tàng những kỷ niệm xa xưa .
Em có đến, mời em, người du khách.
“…vâng! ngày tàn, nên hoang vắng, xin thưa”

Nói Với Em Sau Cơn Bão

Khi em về, cơn bão đã qua lâu
Cây đã lặng và mây trời đã tĩnh
Nước đã trở lại dòng sông cố định
Mà người nay đã tan tác nơi đâu

Em trở về hiểu được nghĩa biển dâu
Thì tâm hồn đã hằn sâu vết xướt
Gió từ đâu mang dòng sông chảy ngược
Ngập hồn em, xám ngắt cả màu trời

Em đến đây từ đổ nát xa xôi
Từ chiến tranh ,từ hận thù đen tối
Tưởng chìm sâu dưới tháng ngày qua vội
Em đâu ngờ thêm lần nữa tang thương

Đất nước này ,em trải mộng mười phương
Giờ lại “đứng dưới một trời đổ nát”*
Dẫu cuộc đời có muôn ngàn bi đát
Có cần không, em nếm qúa nhiều lần ?

Khi em về, đâu nữa những người thân
Nhà đổ sập, bên lòng em gò đống
Em ơi! biển vẫn xanh, sông vẫn rộng
Đường thênh thang cho lần nữa em đi

Triệu bàn tay dìu em thoát hiểm nguy
Cũng từ đó triệu làn hơi sưởi ấm
Truyền qua em từ những lòng rất đậm
Dù chẳng cùng ngôn ngữ, khác màu da

Có thể làm em chua chát, xót xa
Khi nhớ lại những gót chân cuồng bạo
Từ những kẻ cùng chung giòng máu
Đã bao lần vùi dập tuổi thơ em

Tuổi thơ em cơn ác mộng từng đêm
Ngày nắng cháy trên đồng khô mót ,lượm
Khoai, cháo thay cơm còn chưa đầy bụng
Cá thịt bây giờ là cổ tích xa xưa

Cha tù đày, mẹ đội nắng dầm mưa
Nuôi con lớn theo ngược triền gian khổ
Chưa vào đời đã trùng trùng giông tố
Thổi điên cuồng trên dốc ngược tưong lai

Rồi… mười mấy năm vàng những nắng mai
Em ấm áp giữa muôn tình xa lạ
Dẫu hôm nay Katrina ,nỗi buồn nghiệt ngã
Cũng còn đây-Em-triệu tấm lòng son .

Hoàng Định Nam

1 27 28 29 30 31 34