Lữ Quỳnh

Lữ Quỳnh-001

Nơi Nghìn Trùng Con Gió Bay

Trịnh Công Sơn mất ngày 1-4-2001. Như thế anh bước qua thế kỷ 21 được tròn ba tháng. Vượt qua năm 2000 và bước vào thế kỷ 21 là niềm vui của anh. Chỉ tiếc rằng thế kỷ này không được vinh dự giữ chân anh lâu, không còn hân hạnh ghi dấu những ca khúc mới của Trịnh Công Sơn nữa.

Năm 2000 trở thành cái mốc thời gian khắc nghiệt với Sơn từ nhiều năm trước. Nhìn quanh nhau tuổi đời đã xế, sức khỏe đã mòn, dù có thách đố thời gian đến đâu bằng sự sáng tạo miệt mài, yêu thương cuồng nhiệt, cố kéo dài ngày ra đến 1 – 2 giờ sáng hôm sau để tham lam nhìn ngắm cuộc đời, cỏ cây trời đất, thì cũng chẳng làm thay đổi được gì cái khoảnh khắc 365 ngày ấy. Rất nhiều lần đi chơi với nhau, Sơn luôn nói: Tụi mình phải vượt qua năm 2000, chỉ còn mấy năm nữa thôi.

Chỉ có mấy năm nữa thôi, thời gian tưởng chừng quá ngắn ngủi ấy, thế mà Sơn đã bị rơi rụng quá nhiều bạn bè. Ở Hội Âm nhạc Sài Gòn, nơi anh thường lui tới làm việc mỗi ngày, các nhạc sĩ Xuân Hồng, Diệp Minh Tuyền, Ngô Huỳnh, Phạm Trọng Cầu đã lần lượt ra đi. Trước đó, năm 1995, anh Văn Cao ở Hà Nội, và gần đây Thái Bá Vân, Hoàng Thiệu Khang, Định Giang… Nhìn lại quanh mình sao bạn bè vắng đi nhanh quá, Sơn bắt đầu bị ám ảnh nhiều về sự bấp bênh của đời sống. Những cái chết được gọi tên quá nhịp nhàng.

Một cú điện thoại nửa đêm: Quỳnh à, anh Văn Cao mất rồi. Hoặc: Xuống ngay đi, Mây vừa gọi vào, Thái Bá Vân… Hoàng Thiệu Khang kêu đau ngực, một mình lấy taxi vào bệnh viện Nguyễn Trãi buổi chiều, thì mới tối, điện thoại reo: Anh Khang đưa về nhà rồi, đêm nay liệm. Sao đời sống phù du thế. Mới ngồi quán với nhau tối qua mà. Khang khỏe mạnh, chưa một lần đi bác sĩ, dạy học suốt tuần không mỏi, ăn uống điều độ, luôn nói với Sơn bằng giọng giả Huế: Sơn lo sức khỏe của Sơn đi. Còn moa thì đủ sức rồi, năm 2000 với thế kỷ 21 có nghĩa chi mô. Thế mà anh ra đi tức tưởi vào một buổi chiều tháng 8, chỉ còn 4 tháng nữa là tới năm 2000!

Sau mỗi cú phone nghiệt ngã như thế, bạn bè kéo đến bên Sơn. Và lần nào cũng thế, một chai Chivas mới được mở ra, rót một ly cho người vừa nằm xuống, một cây nhang được đốt lên, cắm vào cái chai nhỏ. Bạn bè lần lượt cụng ly với người vừa mất. Im lặng. Khói hương tỏa quanh bàn và những hồi ức làm mọi người cay mắt. Ngoài trời đêm dày đặc. Gió rúc vào vòm hoa giấy cổ thụ trước nhà.

Một buổi sáng ngồi ở quán Văn Nghệ đường Trần Quốc Thảo, thấy nhạc sĩ Ngô Huỳnh đạp xe đi ngang, Sơn chỉ anh ấy và nói: Ngô Huỳnh bị gan nặng lắm, nghe không qua khỏi, hôm nào tụi mình ngồi với anh một bữa. Ngô Huỳnh tác giả bài Con Kênh Xanh Xanh. Và bữa rượu chưa kịp mời thì được tin anh mất.

Từ đó ra đường gặp một người vẫy tay, mình phải đưa tay chào vội. Làm được gì cho nhau thì chớ chần chừ. Vì đời sống nhiều bất trắc quá. Để không bao giờ ân hận bởi một sự lười biếng cỏn con, một vô tình không đáng có.

Trịnh Công Sơn trầm mình trong suy tư về cái cõi tạm của đời người. Ai cũng phải một lần chào vĩnh viễn nhân gian. Nhưng giã từ cách nào đây. Quỹ thời gian còn ít, nên phải liệu mà chi tiêu hợp lý. Từ đó những bài hát của anh là lời tỏ tình với cuộc sống, lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa cùng mặt đất mà anh đã một thời chia sẻ những buồn vui cùng mọi người. Trong bài Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng, anh nói lên lòng yêu tha thiết cuộc sống cùng nỗi tuyệt vọng khốn cùng của phận người: Tôi là ai mà còn khi dấu lệ. Tôi là ai mà còn trần gian thế. Tôi là ai, là ai, là ai… mà yêu quá đời này!

Ca khúc của anh gắn liền với cảm xúc máu thịt. Bằng tâm hồn rất nhạy cảm, anh ghi nhận từng rung động, để rồi dùng thứ ngôn từ phù thủy của mình viết ra. Em còn nhớ hay em đã quên, Chiều trên quê hương tôi, Huyền thoại mẹ, Xin trả nợ người, Hoa xuân ca, Con mắt còn lại, Bống bống ơi… là những ca khúc tôi từng được anh chia sẻ với.

H. trong Hoa xuân ca là tên người con gái Hà Nội xinh đẹp ở cạnh nhà Tôn Thất Văn, một họa sĩ nổi tiếng, nơi mà mỗi tuần bạn bè kéo về ăn uống vui vẻ. H. thường xưng hô với Sơn là Monsieur và em. Một buổi chiều tôi chở anh về nhà Văn trên chiếc P.C sơn màu vàng cam (mà Phạm Trọng Cầu gọi là màu nắng), anh đã dùng vỏ bao thuốc lá viết lên lưng tôi. Lúc xuống xe, anh chép lại lên giấy những dòng nhạc và nhẩm hát: Cây sẽ cho lộc và cây sẽ cho hoa… Tôi nói chắc anh đặt tên bài này là Hoa ca? Sơn nói không, mình đặt là Xuân ca.

Trong Hoa Xuân Ca
có hai câu hay và rất tượng hình:

Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ
Em suối kia rất ngọt và tôi đứng hai bờ.

Bài Con Mắt Còn Lại, anh lấy ý từ hai câu thơ của Bùi Giáng: Còn hai con mắt, khóc người một con. Hai lời đầu được viết trong buổi chiều uống rượu ở nhà Tôn Thất Văn, làng Báo chí. Anh em hát lui hát tới bài này rất vui. Lúc ra về, trời tối, rượu thấm, Sơn ngồi sau vỗ vai tôi: Quỳnh à, mình ghé chỗ Quế H. đi. Quế H. đang trọ ở nhà khách bộ Đại học ngay hồ Con Rùa. Tại đây, Sơn lấy Con Mắt Còn Lại ra, cười hát với nhau. Rồi cảm hứng thế nào anh viết luôn lời 3 tại chỗ. Lấy phone gọi hát cho bạn bè nghe lời mới giữa đêm khuya khoắt. Con Mắt Còn Lại để lại nhiều kỷ niệm rộn ràng nhất.

Trong cuộc nhân sinh thực hư mù ảo này, Trịnh Công Sơn đã vắt kiệt đời mình để sống. Lúc vui chơi giữa đời biết đâu nguồn cội, anh vẫn nghĩ đến cái hữu hạn của phận người và luôn linh cảm về sự chia lìa một ngày nào đó.

Trịnh Công Sơn đã bỏ lại bạn bè, người thân và hàng triệu khán-thính giả vô cùng yêu mến anh để ra đi vĩnh viễn. Trịnh Công Sơn đã giã từ cái trần gian cay cực lẫn huy hoàng mà anh yêu tha thiết này để về nơi Nghìn Trùng Con Gió Bay. Tôi mong rằng ở nơi ấy, vẫn có những sớm mai ửng hồng hay những hoàng hôn lao xao gió, vẫn có cái nắng lạ trên bức tường rêu của chốn quê nhà. Để anh không bao giờ thấy mình hiu quạnh.

Anh Sơn ơi, anh đã yên nghỉ, nhưng sao lòng bạn bè vẫn không nguôi, bởi tấm lòng anh còn đó. Hay bởi cuộc chia tay vội vã thiếu lời giã từ nhau?

Bao Nhiêu Năm,
Rồi Cũng Chỉ Là Khoảnh Khắc
* Gửi Phi Long và các bạn còn, mất một thời.

Lần nào về cũng thế, tôi dành ngày đầu tiên đến thăm anh. Và lần nào cũng thế, Xí ra mở cổng với câu chào cậu mới về, rồi trong lúc tôi thắp một cây hương cho anh, Xí pha xong tách cà phê đặt trên chiếc bàn nhỏ cạnh chỗ ngồi. Bàn thờ anh lúc nào cũng đầy hoa với vài chai rượu mà lúc sinh thời anh thường uống. Chiếc PC màu nắng không còn thấy ở cạnh, có lẽ nó được cất đi để mở rộng cửa thông ra phòng trước, vừa kê sẵn chiếc bàn dài với ghế để tiếp khách. Cũng gần tới sinh nhật của anh rồi.

Tôi ngồi nhìn chân dung anh, một trong số ảnh từng được cùng nhau xem để chọn in catalogue trong những lần triển lãm với Đinh Cường và các bạn. Bức ảnh hôm nay, sau gần mười một năm, thêm màu thời gian và khói hương trở nên buồn bã thế nào.
Cây hương tỏa khói, đang lụn dần.

Đêm cuối trước khi rời quê hương cách nay mười mấy năm, tôi đã không ngồi với anh. Đó là một đêm Sài Gòn mưa lớn, tôi với Tôn Thất Văn và bạn bè ngất ngưởng trong những tiệc rượu tiễn đưa, nối nhau từ quán này qua quán khác. Sáng hôm sau từ phi trường tôi áy náy gọi về chào anh, anh chúc tôi lên đường và tôi hẹn anh sẽ trở về sớm. Sài Gòn không còn mưa, nhưng bầu trời ở phi trường hôm đó thật ảm đạm.

Nợ anh một ly rượu giã từ, để mãi xót xa, khi nghe bạn bè kể lại, trong những lần gặp nhau, anh thường trách tôi, tại sao phải ra đi. Trách tôi không phải vì không có người đi lang thang với anh trong thành phố lúc bốn năm giờ sáng, nhìn những bếp lửa hồng của người lao động mở hàng sớm bên đường. Trách tôi không phải vì không biết gọi cho ai lúc nửa đêm để chỉ kể về một giấc mơ. Trách không phải từ nay không còn thỉnh thoảng ghé nhà uống rượu nghe cháu Hải chơi guitar classique. Cũng không phải ngồi với nhau trên sân thượng lúc bốn giờ sáng chờ ngày ửng hồng để ra quán miến gà đường Lê Thánh Tôn, không phải để ăn, mà để nhìn thành phố chuyển động trong đôi mắt nồng nàn của một thiếu phụ trẻ. Rồi đến studio của anh Đinh Cường.

Tôi biết anh trách tôi vì anh nghĩ rằng tôi sẽ không hạnh phúc ở xứ người. Tôi làm sao vui được khi thiếu bằng hữu chung quanh. Ở nơi đó tôi sẽ san sẻ với ai những niềm vui nỗi buồn. Tôi phải làm việc mỗi ngày nhiều hơn tám tiếng để tồn tại. Tôi sẽ không còn tiếng cười vui của những buổi trưa uống rượu vang, nghe Xu kể chuyện tiếu lâm ở tầng bảy Saigon Center. Từ nay trên đất khách làm sao tôi đón được giao thừa như ở Việt Nam. Nhớ những năm cũ, anh thường ghé tôi sau khi đón giao thừa ở nhà, ngồi uống với nhau ly rượu đầu năm lúc hai giờ sáng. Anh thường lên nhà với Tịnh. (Tịnh còn nhớ không một giao thừa năm 1986 (?), không nhớ âm lịch là năm gì, Tịnh lái xe đưa anh Sơn và Hà qua quận 8, lên nhà mình lúc bấy giờ ở tầng 2 chung cư Phạm Thế Hiển, mang theo chai Ararat hiếm hoi, uống với nhau một ly rồi về). Ôi cái thời nghèo khó mà ấm áp làm sao. Cúng giao thừa bằng một bình hoa cau rẻ tiền, mà xúm nhau khen là hoa trắng ngần quá đẹp. Chiếc bánh chưng mà cứ mỗi sáng ba mươi tết hằng năm, anh Đinh Cường trên chiếc mobylette đem cho. Các cháu giờ đây tuổi đã trên dưới bốn mươi vẫn nhớ các anh mỗi lần nhắc những kỷ niệm.

Mười một năm cũng chỉ là khoảnh khắc thôi. Đến một tuổi nào đó người ta sẽ nghĩ về thời gian như ngắm một mặt sông phẳng lặng, tưởng nó ngừng trôi mà thực ra đang âm thầm chảy. Ở một tuổi nào đó người ta sẽ lần lược mất đi những người bạn. Chỉ mất đi mà không có sự bù đắp. Một hôm anh Đinh Cường gửi cho tôi tấm ảnh chụp chung, trong đó hai người bạn thân thiết đã ra đi, với giòng chữ chỉ còn lại chừng này, thôi hãy giữ mình và sống như từng sống với nhau. Lời anh làm tôi bần thần mãi.

Mười một năm. Tấm ảnh anh được cắt ra từ bìa sau một cuốn sách, đặt khiêm tốn trên kệ sách phòng tôi. Một góc nhỏ dành cho anh. Không hương, không hoa. Chỉ có chiếc ly thủy tinh và chai Black Label, chập chờn ngày tháng cũ….

Một Ngày Mà Trăm Năm

Thức giấc với bình minh hoa hồng
tiếng sóng biển báo tin anh đến
lòng bao la hạnh phúc
em đếm từng bông hoa
không phải triệu đóa
mà nhiều vô cùng với em

ngày mở ra rực rỡ
rộn ràng nhịp tim
chờ anh đến
biển hôm nay xanh
những chú còng gió
đuổi nhau trên đồi cát
và em đuổi anh
trên tháng ngày cuồng điên nỗi nhớ
biển sẽ dìm anh
sẽ dìm em
xuống đáy sự khát khao.

Nhưng mà anh đâu đến
biển dối gạt em rồi
đóa hồng lụi tàn nhanh
vì tưới bằng nước mắt
bức điện tín màu xanh
đưa tin anh về đất *

em đứng dưới tàng cây
ngoài kia trời dậy sóng
bão nổi và mưa tuông
lòng em mùa biển động
nước mưa hòa nước mắt
gió níu cành khăn tang
em bám bờ cát lạnh
một ngày mà trăm năm!

Sông Sương Mù

Bởi không còn cách nào hơn để trấn tĩnh đám trẻ, người đàn bà đã nói vào tai chúng nó mỗi khi nghe tiếng đạn rít qua đầu và nổ chát trên xóm chợ: súng dưới đồn bắn đi đó mà, các con cố ngủ đi đừng sợ. Lâu dần câu nói đó trở thành điệp khúc và không còn hiệu nghiệm để giữ tâm hồn đám trẻ yên ổn như những lần đầu. Bé Phượng bắt đầu thắc mắc, khi nhận ra sự hốt hoảng của mẹ. Mỗi lần nghe tiếng đạn réo, môi mẹ run rẩy những lời cầu nguyện, hai cánh tay vội vàng ghì lấy chị em nó vào lòng. Người đàn bà lúc đó, vì bản tính tự vệ, đã cố thu rút mình và đám con lại thật nhỏ, vô tình quên đi sự ngột ngạt và đau đớn của chúng nó. Đám trẻ vì sợ hãi quá, không dám khóc, nhưng vẫn cố đưa hai bàn tay nhỏ bé ra gỡ dần vòng tay mẹ để có thể ngẩng cao cổ thêm một chút cho hơi thở được nhẹ nhàng. Bé Phượng lớn hơn cả, thỉnh thoảng bị mẹ bỏ quên được ngồi thư thả trong một góc hầm, tuy thế nó cũng không dám có một cử động nhỏ nào, nó phải ngồi ôm gối và gục đầu xuống mỗi lần nghe tiếng đạn bay qua và nín thở chờ tiếng nổ vang lên tức ngực, mới đưa mắt lấm lét nhìn mẹ, bây giờ chỉ còn là một khuôn mặt tái xanh với đôi mắt như lồi hẳn ra ngoài chân mày vì khiếp đãm. Những lần đó trông mẹ tội ngiệp quá chừng và nó muốn khóc.
Đã nhiều ngày qua, không có đêm nào là không nghe tiếng nổ rền trong khu vực quận, do đó trong lần nghỉ hành quân mới nhất dù không tới nửa ngày, người chồng cũng đã loay hoay mang những tấm ván xuống đặt dưới hầm để tránh hơi đất cho lũ trẻ. Người đàn bà rất hài lòng vì nghĩ rằng nàng và đám con có thể ngủ luôn dưới hầm, tránh được những lần hốt hoảng đến ẵm đứa này quên kéo đứa khác mỗi lần choàng tỉnh giữa tiếng đạn pháo kích, chạy từ nhà trên xuống chiếc hầm ở cạnh bếp.
Bé Phượng lúc đó có vẻ thích thú với chỗ ngủ mới, nhưng dần dà rồi nó cũng bực mình vì mỗi lần súng nổ là mỗi lần cát từ trên hầm rơi xuống mắt nhức nhối. Đã xót mắt đến không ngủ được, mà xuýt xoa thì bị mẹ mắng tại sao ngủ không chịu nằm nghiêng nằm sấp. Trong bóng tối của chiếc hầm, con bé không dám hé răng. Nó trở mình quay mặt vào thành đất, những giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má làm dịu lòng nó lại.

Công việc mỗi ngày của bốn mẹ con thật giản dị. Sáng sớm bé Phượng mang áo quần dơ của các em xuống bến sông giặt, trong khi người đàn bà loay hoay nhóm bếp nấu một nồi khoai lớn cho đám trẻ ăn lai rai cả ngày thay quà vặt, và một nồi cơm dành cho buổi trưa vì nàng thường ở chợ về trễ. Khi nào bé Phượng ở bếp lên, cũng là lúc người đàn bà sửa soạn xong quang gánh để ra chợ. Nàng dặn con, câu nói mọi ngày tưởng như không thay đổi, dù chỉ một tiếng:
– Nhớ chơi với em ngay miệng hầm, đừng đi đâu xa nghe Phượng ?
Con bé vâng lời mẹ. Nhưng có những buổi sáng trời tốt, không gian im tiếng súng, nó vẫn thèm dẫn em ra bến sông chơi. Ở đó nó có thể ngồi trên một thềm đá, nhìn sương mù trên mặt sông dày đặc và chờ đợi những chuyến đò ngang xuất hiện, lúc đầu chỉ nghe tiếng chèo khuấy nước, tiếp theo là nửa con đò rồi người lái với vành nón mờ nhạt hơi sương. Bé Phượng cảm thấy thích thú khi nhìn cảnh vật bên sông dần dần hiện ra trong sương mai mỗi lúc một tan dần. Sự xuất hiện của cảnh vật như một khám phá riêng của nó. Kìa ngọn cây, kìa mái nhà, kìa người gánh nước…
Nhiều lần bé Phượng muốn hai đứa em mình cùng tham dự vào trò chơi đó, bằng những câu đố: “sau cây bàng là cái gì?” rồi chờ một chút cho sương loãng dần để nhận ra là cái nhà và đố tiếp sau cái nhà là cái gì? cho đến khi nắng đã lên rực rở giữa sông, và trò chơi trong sương mù chỉ còn như giấc chiêm bao. Nhưng những đứa em của Phượng có vẻ không khoái trò chơi ấy. Chúng nó thích khom lưng lăn những trái vông trên cát để tưởng tượng đến dấu xe hoặc xé những ngọn lá chuối vấn kèn thổi te te bắt chước người dân vệ gác cầu. Đám trẻ có đời sống riêng thật vô tư. Trong những lần pháo kích, chúng nó đã sợ hãi vì tiếng nổ vang dội khủng khiếp, chứ chưa biết sợ hãi về những gì xảy ra đằng sau tiếng nổ ấy. Người đàn bà thường cẩn thận bắt chúng ngồi dí dưới hầm, cho đến khi nàng biết chắc những chiếc xe cứu thương đã chở hết nạn nhân ra khỏi khu vực. Người đàn bà quen dần cảnh đổ nát của chiến tranh, nàng không còn sợ hãi và lo lắng quá về cái tai nạn từ trời cao trút xuống ấy nữa. Thật khó mà trốn thoát. Sống phút nào hay phút đó, người đàn bà nghĩ thế, và cảm thấy bình tỉnh lại. Điều lo lắng nếu có ở nàng là sự lo lắng đôi khi như mối bận tâm thường trực, về người chồng mà những cuộc hành quân liên miên đã giữ chân chàng tận vùng đồi núi phía bắc quận lỵ từ nhiều tuần lễ nay.

Không nhìn hết được mặt sông vì sương mù dày đặc, nhưng bé Phượng cũng biết mặt sông sáng nay thật phẳng lặng. Trời lành lạnh. Trong không khí như có bụi nước. Con bé không để ý nó đã dậy sớm hơn mọi ngày. Dòng sông yên tĩnh trắng ngần sương mù nhìn xa như một giãi lụa. Những giọt sương còn rơi tóc tách thật nhỏ và êm đềm từ những ngọn lá cao xuống các tàu lá thấp. Bé Phượng bước xuống bến sông đặt nắm áo quần dơ trên một tảng đá, rồi khom mình đưa tay khoáy nước. Nước lạnh quá làm nó rụt tay về, nhưng rồi lại nhúng xuống, lần này sâu hơn và nó mỉm cười nhìn theo sóng nước phía sau bàn tay di động. Nó im lặng với sự nghịch ngợm đó được một phút thì ngẩng mặt lên, bỗng dưng có cảm giác phía sau mình đang có người nhìn trộm. Nó e dè thoáng chút sợ hãi, từ từ quay mặt lại. Vẫn sương mù dày đặc trong các cành cây. Con bé yên tâm ngồi nhìn ra sông và bắt đầu nhúng mớ đồ dơ xuống nước. Nó không biết rằng cái cảm giác có người nhìn trộm đó chẳng nhầm lẫn chút nào, bởi người đàn ông đang ngồi thu mình dưới một gốc cây bên mé nước lúc đầu đã đứng dậy định tiến về phía nó nhưng sau nghĩ thế nào lại ngồi xuống như cũ, ánh mắt đăm đăm nhìn ra mặt sông có vẻ ngóng đợi. Gã cho tay vào túi áo móc bao thuốc lá lấy một điếu gõ gõ xuống mặt đồng hồ rồi gắn lên môi. Gã cho tay vào túi quần để tìm hộp quẹt, túi bên trái rồi túi bên phải. Gã quên hộp quẹt đã hết và chiếc vỏ không đã bị gã ném xuống dòng sông từ bao giờ.
Cuối cùng người đàn ông gở điếu thuốc ra khỏi môi lăn lăn giữa hai ngón tay trỏ và cái, rồi có lẻ như không dằn được sự thèm một hơi thuốc, gã đành đứng dậy một lần nữa nhích bước lần về phía con bé xin lửa. Tuy những ngọn lá khô đã ướt đẫm sương đêm không gây ra tiếng động nào dưới mỗi bước chân người đàn ông, con bé vẫn linh cảm thế nào một lần nữa quay lại và ngở ngàng đứng dậy, trong tay còn nguyên nắm áo quần đang giặt dở. Người đàn ông đưa một bàn tay ra phía trước như muốn trấn tĩnh sự kinh ngạc của bé Phượng. Gã nói:
– Bác cần một que diêm.
Con bé vẫn đứng lặng, trong khi gã tiến thêm vài bước. Bấy giờ Phượng có thể nhìn thật rõ người đàn ông. Đó là một kẻ lạ, quá lạ đối với nó trong khu vực này. Gã đội một chiếc mũ lưỡi trai bằng nỉ xám, áo quần màu cứt ngựa nhưng không giống như đồ lính mà cha nó thường mặc. Cách phục sức đó làm cho người đàn ông có vẻ gọn gàng và nhanh nhẹn ra. Bé Phượng vẫn nhìn sững gã cho đến khi gã mỉm cưới nhắc lại câu nói cũ:
– Bác cần một que diêm, cháu có mang theo đấy không?
Con bé lắc đầu. Nó đứng yên một lúc mới nói:
– Bác đợi cháu chạy về nhà lấy ra cho nhé?
Người đàn ông đưa tay cản:
– Thôi, cám ơn cháu. Bác đâu cần lắm.
Rồi đưa mắt nhìn ra mặt sông vẫn còn dày đặc sương mù, gã hỏi:
– Sáng nay cháu dậy sớm hơn mọi ngày hả?
Bé Phượng có vẻ lúng túng:
– Sáng nào cháu cũng ra đây, thế sáng nào bác cũng có đây để thấy cháu cả à?
Người đàn ông mỉm cười với nó không nói gì. Tự nhiên con bé thấy sự xa lạ lúc đầu đối với người đàn ông không còn nữa. Nó hỏi:
– Bác ra đây làm gì thế bác?
Đưa tay chỉ ra sông gã nói:
– Bác đợi đò.
Con bé cũng nhìn ra sông nghĩ ngợi một lúc rồi ngẩng mặt lên:
– Cháu cũng thế. Sáng nào cháu cũng đợi đò. Trước khi nhìn thấy chiếc đò, cháu đã biết nó sắp tới bờ nhờ tiếng chèo khuấy nước…
Người đàn ông chợt cười thành tiếng.
– Thế bây giờ…
– Bây giờ thì đò chưa sang đâu, bác ra bến sớm quá. Hay bác thử gọi đi.
– Gọi đò trong lúc không nhìn thấy gì bên kia sông cả, bác chẳng muốn chút nào. Trời sương mù nhiều quá.
Bé Phượng ngẩng lên nhìn người đàn ông.
– À, bác có thích sương mù không bác?
Người đàn ông vẫn nhìn ra sông ậm ừ một lúc mới trả lời:
– Ờ thích, thích ghê đi chứ.
Con bé ngồi xuống nhưng chưa vội nhúng mớ áo quần xuống nước. Nó hỏi:
– Thế bác ở bên kia sông hả?
– Ờ…
– Nhà bác chỗ nào nhỉ. Khi hết sương mù rồi, cháu có thể nhìn thấy không?
Khuôn mặt người đàn ông bỗng nghiêm lại. Gã đưa mắt nhìn xuống con bé và ngay lúc đó cả hai người cùng nghe tiếng chèo khuấy nước.
– Không, nhà bác ở sâu bên trong nữa . Đò sắp vào bờ rồi phải không cháu?
– Dạ.
Bé Phượng đứng dậy nhích sang một bên chờ cho mũi đò cặp bến. Khi người đàn ông bước xuống lòng thuyền rồi, nó mới giật mình hỏi:
– Sáng mai bác có ở đây nữa không bác?
– Có.
Gã đáp gọn nhưng giọng gã làm cho con bé cảm thấy buồn buồn. Đò quay mũi, nó thấy người đàn ông đứng bất động giữa lòng thuyền. Con bé nhìn theo cho đến lúc con đò, cả vành nón của người lái nhạt nhòa trong sương trắng. Tự nhiên nó cảm thấy ngậm ngùi.

Một đêm thật yên tĩnh. Người đàn bà sửa lại thế nằm cho hai đứa con nhỏ, rồi ra trước miệng hầm ngồi nhìn vẩn vơ khu vườn trăng. Thật ra thì nàng nhìn mà chẳng thấy gì hết. Có chăng, ánh trăng chỉ làm tăng thêm trong lòng người đàn bà nỗi nhớ nhung chồng cộng với sự lo lắng đến chảy nước mắt. Bé Phượng vẫn chưa ngủ, suốt buổi tối nó cứ bị hình ảnh người lạ mặt buổi sáng ám ảnh hoài. Chiếc mũ lưỡi trai màu xám che đôi mắt thật trìu mến của gã làm nó cảm thấy bâng khuâng như chưa bao giờ có cảm xúc đó. Thấy mẹ đang sụt sùi trước miệng hầm, nó nhổm dậy khom lưng bước ra ngoài ngồi xuống cạnh. Người đàn bà vuốt tóc con gái:
– Sao chưa chịu ngủ?
Con bé im lặng một lúc, rồi trả lời mẹ bằng một câu hỏi khác:
– Sao mẹ ngồi đây mãi thế?
Rồi cũng không đợi câu trả lời, nó nắm tay mẹ hỏi tiếp:
– Sao mẹ lại khóc?
Người đàn bà nhìn qua một phía khác dấu nước mắt, nhưng những giòng nước mắt lại tuôn nhanh khi nàng đột ngột hỏi con:
– Phượng có nhớ cha không?
Con bé trả lời bình thản:
– Cha đi hành quân để làm gì vậy mẹ? Cha lâu về quá, có lẽ cha chẳng nhớ gì tụi con cả.
Người đàn bà gõ nhẹ lên đầu đứa bé.
– Đừng nói bậy. Dễ dầu gì cha về được khi mặt trận còn sôi động hoài.
Dĩ nhiên là bé Phượng không hiểu gì lắm, nhưng nó giữ im lặng. Ngườu đàn bà nói:
– Ngày mai con ở nhà trông hai em, mẹ sẽ nấu sẵn cơm và thức ăn cho các con trọn ngày. Mẹ đi thăm cha. Mẹ sẽ bảo với cha Phượng ở nhà rất ngoan, rất giỏi….
Bé Phượng ngẩng mặt nhìn mẹ. Dưới ánh trăng khuôn mặt con bé mũm mĩm khác mọi ngày.
– Mẹ nhớ bảo cha cố về cho được nhá.
Người đàn bà gật đầu. Hai mẹ con ngồi bên nhau một lúc, rồi người đàn bà đẩy con xuống hầm. Bấy giờ trời đã khuya. Trước khi thiếp ngủ, bé Phượng còn nghe mẹ dặn:
– Sáng mai khi hai em còn ngủ, con chịu khó đem chiếu ra sông giặt nhé. Nhà chỉ còn một chiếc mà tụi trẻ đái dầm bấy nay…
Con bé không nhớ mẹ còn dặn gì nữa không vì ngay lúc đó nó đã ngủ vùi trong hơi đất quen thuộc.

Lúc bé Phượng thức dậy thì người đàn bà không còn ở đó. Nó nhìn vào những thức ăn và nồi cơm nấu sẵn, nghĩa là mẹ phải dậy sớm lắm và giờ này đang đứng bên quốc lộ chờ xe. Bé Phượng nhớ lời mẹ dặn đêm qua, sáng nay phải mang chiếu ra bến giặt. Nó vội đắp lại chiếc chăn trên bụng cho hai em rồi ôm chiếu ra bến sông. Đi được một quãng, nó tần ngần đứng lại vài giây rồi quay trở về.
– Tại sao mình không mang theo hộp diêm nhỉ? Biết đâu bác ấy chẳng cần tới?
Con bé nghĩ thế và cảm thấy lòng vui lạ lùng. Một sự náo nức xuất hiện trong tâm hồn, lúc đầu thì không nhận ra nhưng sau đó nó hiểu.
– Hẳn giờ này bác ấy đã có mặt ở đấy rồi. Không biết bác thức dậy lúc nào mà có mặt ở đây sớm thế…,
Bé Phượng tự hỏi nữa mà chẳng thèm đến sự trả lời nào. Nó bước thoăn thoắt về phía bờ sông. Trời vẫn như mọi hôm, đầy sương mù và dòng sông vẫn là giãi lụa trắng bát ngát.
Vắt chiếc chiếu lên một tảng đá, bé Phượng đưa mắt nhìn quanh tìm kẻ lạ. Vẫn những ngọn cây sương mù ôm kín, vẫn gốc cây quen thuộc bên mé sông nơi người đàn ông xuất hiện hôm qua, vẫn bến nước tĩnh lặng này, nhưng kẻ lạ thì không thấy. Con bé thất vọng ngồi xuống một tảng đá. Tự nhiên nó cảm thấy thiếu vắng một cái gì trong tâm hồn. Kẻ lạ đã sai hẹn với nó.
Bé Phượng ngồi im như một pho tượng không biết trong bao lâu cho đến khi nó sờ phải hộp diêm trong túi áo và sực nhớ tới câu nói dịu dàng của người đàn ông khi hỏi xin một chút lửa,cũng là lúc nó cảm thấy nước mắt mình chảy vòng đôi mi và dòng sông trước mặt mịt mùng hơn bởi sương mù. Trong sự yên tĩnh đang có của buổi sớm, bỗng con bé nghe tiếng đạn réo qua đầu rồi tiếp theo những tiếng nổ dữ dội chung quanh. Bé Phượng nằm ngay xuống một kẻ đá, cố thu mình thật nhỏ. Tảng đá còn ướt đẫm sương. Hơi lạnh từ đất tỏa lên thấm qua lớp vải áo làm nó run cầm cập.
Chờ cho trái đạn sau cùng nổ dứt một khoảng lâu, bé Phượng mới ngồi dậy. Hình ảnh đầu tiên trong tầm mắt nó là dòng sông rực rỡ ánh nắng. Sương mù chỉ còn vướng vất trên những vòm cây cao bên kia sông. Con bé nhìn chăm con đò đang neo trong bờ dưới một khóm tre. Con đò sáng nay đã không sang ngang, mà kẻ lạ cũng không có mặt để chờ đợi.
Bé Phượng đứng dậy uể oải kéo chiếc chiếu thả chìm xuống nước. Nó nhớ lời mẹ dặn đêm qua và giặt vội vàng khi chợt nghĩ giờ này hai em nó hẳn đã thức dậy. Hẳn phải thức dậy ngay, khi có tiếng nổ đầu tiên rồi chứ. Nó nghĩ vậy và cảm thấy nóng lòng quá đổi. Bỗng có tiếng người nói phía sau:
– Thôi đừng giặt nữa cháu à…
Con bé hớt hãi quay lại. Người lính bước xuống những bậc cấp bằng đá. Nó nhận ra người lính có vẻ quen thuộc, hình như là bạn của cha. Người lính nói:
– Giặt chiếu làm gì sớm thế ?
Con bé ngửa mặt lên nhìn người đàn ông:
– Mẹ cháu bảo nhà chỉ còn một chiếc mà tụi em đái dầm…
Người lính cười buồn:
– Thôi vứt chiếu đi, theo chú về nhà…
Con bé tần ngần mở to mắt nhìn người lính:
-Mẹ cháu dặn…
Người lính quay mặt đi:
– Chú biết rồi, nhưng bây giờ không cần thiết nữa.
Con bé hớt hãi và nước mắt nó bắt đầu chảy nhanh xuống má.
– Nhưng còn các em cháu…
Người lính nói chậm rãi:
– Cháu dại quá. Cháu nhớ loạt đạn pháo kích vừa rồi chứ? Thôi về nhà chú đi…

Bé Phượng ngồi thụp xuống đưa hai bàn tay bưng mặt khóc thét lên. Trong khi người lính kéo thấp mũ lưỡi trai xuống và khịt khịt mũi. Người lính nhất định không cho bé Phượng trở lại chiếc hầm cũ. Anh nghĩ con bé sẽ khóc thật nhiều trong những ngày đầu nhưng rồi nó sẽ nguôi quên và nhất là khi quốc lộ được khai thông và mẹ nó có thể trở về với nó. Mỗi buổi chiều người lính thường dẫn con bé ra sông chơi, nhưng nó có vẻ thích đến đó vào buổi sáng hơn. Buổi sáng thì người lính dậy muộn, hơn nữa cũng không mấy khi anh được ở nhà ban đêm. Bé Phượng sau ngày hai em chết không có dịp để nhìn sông sương mù, không còn dịp để nhớ lại hình ảnh kẻ lạ mà nó gặp buổi sáng nào trên bến nước.
Một buổi chiều người lính dẫn bé Phượng đi dọc theo bờ sông. Con bé tung tăng như một chú sóc nhỏ. Tóc nó bay rối trong gió. Thỉnh thoảng nó ngồi thụp xuống một bãi cỏ để chờ người lính lừng khừng đi tới. Nó bắt đầu nguôi quên thật, tâm hồn trẻ thơ có khác. Lúc hai người đến một khúc quanh của dòng sông, người lính dừng lại. Anh lấy thuốc lá gắn lên môi, rồi cho tay vào túi quần lấy hộp quẹt. Hộp quẹt chỉ còn một que diêm. Người lính đưa que diêm và hộp quẹt trống ra trước mặt bé Phượng , ý chừng cho nó cùng hồi hộp vì chỉ còn một que diêm cuối cùng. Anh thu đốm lửa giữa hai bàn tay xòe ra, nhưng đóm lửa đã tắt khi sắp kê vào đầu điếu thuốc. Người lính không có vẻ bực mình ném vỏ diêm xuống cỏ, lấy điếu thuốc ra khỏi môi rồi buông thõng hai tay nhìn con bé mỉm cười.
Con bé cười trả người lính, đoạn chạy đến đám cỏ nhặt chiếc vỏ hộp quẹt mân mê trong lòng bàn tay. Nó nghĩ sao chú này giống bác ấy thế. Tự nhiên nó cảm thấy lòng lâng lâng buồn.
Hai người, một già một bé đi bên nhau, không nói với nhau một tiếng. Bỗng họ dừng lại khi thấy đám đông trước mặt. Bây giờ con bé mới hỏi:
– Cái gì thế chú?
Người lính nghĩ ngợi một lúc, rồi nói:
– Hình như xác địch ấy mà, hắn bị bắn chết đêm qua…

Bé Phượng tần ngần một chút rồi không tránh được tò mò, nó kéo tay người lính chen vào đám đông. Bỗng con bé dừng hẳn lại. Nó vừa nhìn thấy chiếc mũ lưỡi trai bằng nỉ xám, rồi chỉ trong một giây sau thản thốt nhận ra xác chết là người đàn ông, kẻ lạ mặt mà nó đã gặp một lần trên bến sông. Nó bỏ đám đông nắm tay ngươi lính kéo đi. Nó buồn bả, lấy làm tiếc là lần trước không có sẳn hộp diêm cho bác ấy mồi điếu thuốc.

Bóng Đêm Vô Biên
* Tặng chị Nguyệt Mai

1 .mở mắt thấy sớm mai
sương hồng trong cánh lá
lòng reo vui âm thầm
ngày mới. ngày mới đến
con đường như dài thêm
tiếng cười xanh trong mắt

2. sao ngày qua quá mau
đóa hồng chưa kịp nở
tiếng cười chưa đủ vang
đã hoàng hôn tím ngắt

3. ta bóng đêm vô biên
lòng mở. như lai hiện
bạn bè về linh hiển
ấm áp một quan hoài

4. rồi ta chờ sớm mai
mà đêm dài bất tận!

Áng Mây Vàng

giọt nước đựng trời mây
tàn hương bay lấp lánh
lắt lay bóng mẹ về
tóc con chừ điểm bạc

tám năm ngày mẹ đi
vẫn nụ cười trên mộ
trần gian đường gập ghềnh
hoàng hôn đời lệ nhỏ

một năm rồi mười năm
chỉ dài như hơi thở
thanh tịnh quang chân tâm
áng mây vàng tưởng niệm

Bóng Thời Gian

sao môt ngày qua nhanh quá
mới bình minh đã hoàng hôn
chưa kịp mở lời yêu dấu
trái tim kia vội chập chờn

sao một tuần qua nhanh quá
thứ hai thôi chủ nhật rồi
chưa kịp hẹn mà đã lỡ
ngập ngừng giọt đọng trên môi

rồi tháng cũng qua vội vã
với gian truân chuyện cuộc đời
chưa nhận ra mùa nắng hạ
đã đông về xám tuyết rơi

cả bốn mùa đi. rồi lại
tuổi vui buồn lặng lẽ trôi
bấm đốt tay nghe đầu bạc
quạnh lòng. chờ đất gọi mời

Lữ Quỳnh

Lữ Kiều

Lữ Kiều

Xuôi Dòng

I. Những vết thương tuổi nhỏ

Đập Đá. Đó là tên một cái đập ngăn hai dòng nước, một bên là sông Hương, một bên là nước từ con sông nhỏ Vân Dương chảy ra. Thời 1953 – 1955, chúng tôi ngồi với nhau trên bờ đập, nhìn về phía làng Vân Dương. Chúng tôi gồm có tôi, Lữ Quỳnh, Nghi Hữu, Lê Trọng Nhạn, những người bạn mới quen nhau ở lớp đệ thất trường Nguyễn Tri Phương. Lữ Quỳnh với câu chuyện ở Mỹ Lợi. Nghi Hữu với rất nhiều tên làng quê. Nhạn với làng Phước Tích, ngôi nhà cổ, lò gốm cạnh con sông Ô Lâu cùng những bóng ma Hời. Đó là những câu chuyện làng quê trong 9 năm chiến tranh chống Pháp vừa chấm dứt khi chúng tôi bước vào trường trung học.

Đêm trăng sao trên đầu, gió mang hơi nóng từ mặt sông chịu nắng suốt một ngày hạ, còn chúng tôi thì thả hồn tưởng tượng theo những lời thầm thì kể chuyện nửa hư, nửa thực. Giờ đây, nhớ lại, vẫn còn cái rùng mình thảng thốt khi bước chân vào làng Vân Dương. Nghi Hữu chỉ lên cây đa cổ thụ:
– Đây là chỗ treo cổ mấy tay Việt gian!

Giọng Hữu nghiêm trọng, tự tin, ra vẻ từng trải trước sự ngờ nghệch của người bạn trẻ thành phố. Nghi Hữu nói:
-Mi biết không, có buổi tối tau rình coi. Nơi sau đình kia mấy người tù bị trói ké, quì xuống. Họ nói gì tau nghe không rõ. Rồi một người đọc bản án, tau chỉ nghe được tiếng: Xử tử! Người ta tròng thong lọng vào cổ, dẫn tử tù đến gốc đa, một người leo lên cột dây vào cành đa. Phải lựa cành chắc. Có lần khi treo cổ thì cành dãy, tử tội rơi xuống, phải làm lại…

Hữu nói tiếp: có buổi sáng, dắt trâu ra đồng, tau thấy bốn cái xác bị treo tòn ten, hình như một cái chưa chết, trợn mắt dòm tau, tau chạy té đái…Mạ tau nói, có đêm ma thắt cổ về gõ cửa sau nhà tau xin ăn, mạ tau mở cửa thì thấy ma biến mất, nhưng mạ tau kịp thấy nó rõ ràng, miệng mấy con ma đỏ lòm, lưỡi dài thòng đến tận ngực!

Cửa sau nhà Nghy Hữu mở ra một cánh đồng ruộng. Tôi và Lữ Quỳnh theo các bạn dẫn trâu ra đồng ăn cỏ, băng hết cánh đồng là làng Ngọc Anh, Lai Thế. Ở đó có bạn Trần Ngọc Thái, Hoàng Kim Can.

Can ngồi trên bờ ruộng khô, chỉ tay ra xa, nói:
– Tụi bay thấy ngôi nhà ngói to đùng không? Nhà cụ Thượng đó. Tây đốt không cháy! Còn cái cầu gỗ kia, đó là nơi người ta chém đầu bọn theo Tây!

Bọn theo Tây là ai, tuổi 12 của tôi chưa hình dung ra. Can kể thêm:
– Tau đi xem chém đầu, dễ sợ lắm. Tiếng dao chém xuống cổ nghe cái Phụp! Phải chém nhiều lần đầu mới rời khỏi cổ. Máu chảy có vòi…Thân hình người bị chém gồng cứng lên, hai chân đạp loạn xạ một hồi mới ngừng.
– Thiệt hả?
– Thiệt. Trời lúc đó chạng vạng, nhưng tau đứng gần nên thấy rõ. Mà lạ lắm tụi bây biết không.Tử tội bị trói dẫn ra đầu cầu, quì xuống, bị chém., rồi đứt đầu, giãy chết mà không la một tiếng. Mấy người đao phủ cũng vậy. Yên lặng như tờ…Chỉ có tiếng dao chém Phụp!
– Sợ không?
– Vài ngày sau tau mới sợ, không dám qua cầu. Người ta đồn đêm đêm có mấy con ma cụt đầu hóng mát trên cầu.

Tôi xanh mặt. Không thể tưởng tượng đứng hóng mát mà không có đầu. Can càng hù tới: Mi biết không, trong xóm tau nhiều người đi khuya về bị ma thu, sáng ra thấy mình nằm giữa bụi tre gai, phải chặt cả bụi tre mới lôi ra được, sau đó người bị ma thu trở nên điên điên khùng khùng, phải lên nhờ ôn (tức hòa thượng) trên chùa Trúc Lâm trị bệnh tà!

Có lần trên trảng cát ở quê Lữ Quỳnh, làng Mỹ Lợi, bạn kể cho tôi nghe về cảnh tượng Tây về làng. Bạn nói: Tây đi lùng, lùng sục tìm những du kích Việt Minh. Mỗi lần vậy, dân làng chạy vô núi trốn, đứng trên cao nhìn về làng trông thấy khói bốc lên là biết Tây đốt nhà. Bạn chỉ một nấm mồ, nói, mộ chị Tú. Lần đó chị trốn không kịp, bị Tây đen rạch mặt bắt (sau này tôi mới biết đó là những người lính châu Phi thuộc địa Pháp, người Sénégal hay rạch mặt). Chúng kéo chị vô giữa vườn chuối hãm hiếp chị. Lần đầu tiên tôi nghe từ hãm hiếp, không hình dung ra được rõ nhưng lờ mờ nhận ra đó là một điều gì rất ác độc tàn nhẫn.

Bạn kể tiếp: khi dân làng trở về, họ tìm thấy chị Tú trần truồng, máu me, bất tỉnh. Khi tỉnh lại, chị không nói một lời, mắt mở trừng trừng và bắt đầu nôn ói. Tiếng chị Tú nôn ói liên tục, vang to trong đêm. Cả làng lo sợ, yên lặng lắng nghe. Sau bốn ngày đêm, tiếng ói nhỏ dần rồi tắt. Chị chết.

Thời chiến tranh , tuổi thơ các bạn tôi đã chứng kiến những cảnh như vậy. Có thể có những điều vui, an lành hơn, nhưng chính những hình ảnh tang thương khốc liệt ấy đã để lại vết thương trong tuổi nhỏ các bạn.

Những vết thương của tuổi thơ! Có lẽ tôi nói hơi quá, nhưng điều chúng tôi trải qua trong những tháng năm tàn khốc ấy là những đòn roi quất lên tâm hồn của một thế hệ, vết thương còn rỉ máu khi chúng tôi bước vào môi trường học đường, gặp nhau và trở thành bạn của nhau. Đã là bạn, thì nỗi đau riêng trở thành đau chung. Nếu vết thương không được chữa lành, biến thành sẹo, dù sẹo lớn hay nhỏ, sẽ định hình những tính cách bất lợi cho cuộc đời về sau của họ. Bao nhiêu tội ác – giết người, cướp của, kể cả giết người hàng loạt – hoặc nhẹ hơn, bệnh tâm thần, lệch lạc tình dục, mất khả năng hội nhập xã hội, nghi ngờ sự thiện… đều bắt đầu bằng những vết thương tuổi thơ như vậy.

Thế nhưng, điều kỳ diệu đã xảy ra. Những vết thương tuổi nhỏ đã được băng bó, xoa dịu và chữa lành những năm sau đó, sau ngày im tiếng súng, bằng môi trường văn hóa, xã hội, giáo dục của đất Thần kinh.

Tôi muốn nói đến trường Quốc học, đến tất cả những mái trường công và tư ở Huế, tôi muốn nói đến môi trường giáo dục tuyệt vời mà tuổi thơ bất hạnh của chúng tôi được hưởng, đến những lớp học mà khi bước vào chúng tôi được an toàn giữa tình bằng hữu, tình thầy trò…Tôi biết ơn môi trường văn hóa với tính truyền thống, tiếp nối không bị chặt đứt khỏi quá khứ, thể hiện bằng những giá trị tinh thần, giá trị tâm linh. Tất cả điều ấy là những liều thuốc trị liệu tuyệt vời chữa lành những vết thương kia kịp tránh khỏi biến thành sẹo. .. Đồng thời giúp chúng tôi trưởng thành, vững vàng, biết yêu cái đáng yêu, biết ghét và chống cái phải chống, nhất là chống lại sự tổn thương do chiến tranh .Từ đó, đã hình thành một thế hệ 60 bản lĩnh, yêu hòa bình, phản chiến sau này…

Những thập niên nửa sau thế kỷ 20, đất nước đã có những bước đi lịch sử phức tạp. Chúng tôi đã tham dự lịch sử, theo cách của mình, đã có những con đường rẽ, đã có những cuộc chia ly vì ý thức, đã có nhiều khác biệt giữa những người bạn tuổi nhỏ cùng đi một đường, thế nhưng vẫn có những mẫu số chung nối kết chúng tôi, đó là những giá trị nhân văn, đạo đức của thời trẻ, những giá trị ấy lớn theo đời, hình thành bản lĩnh và nhân cách một thế hệ, dù ở đâu, làm gì, với ai.

Có thể còn nhiều điều phải suy nghĩ, phải bàn lại những cái được, cái mất của một thời, nhưng với tất cả sự khiêm tốn, tôi tự hào về thế hệ mình.

II. Cô giáo cũ

Năm 1961, cô giáo vừa rời trường Sư phạm và dạy môn Triết học lớp đệ nhất văn chương và vạn vật trường Quốc học.

Bấy giờ cô 24 tuổi, chúng tôi ở độ tuổi đôi mươi. Cô đẹp. Đẹp và dịu dàng. Cô vừa lập gia đình xong. Những lời giảng triết lý của cô về sự Thật, về cái Thiện, về cái Đẹp đã cùng ánh mắt và nụ cười của cô đi vào lòng bọn trai trẻ chúng tôi, lũ bọn trai mà: “hồn lưu lạc chưa hề thờ một Chúa…” trong câu thơ của Huy Cận.

Bốn mươi năm sau, chúng tôi gặp lại cô. Thời gian xa cách tưởng như không hiện hữu, bởi vì cô vẫn là cô, cho nên chúng tôi vẫn là những chàng trai thời đệ nhất trong xác phàm của những trung niên hư hao. Tôi nói điều đó với Châu Văn Thuận, chàng trưởng lớp đệ nhất C1 ngày ấy, vẫn mang quả tim nồng nàn không có tuổi vượt qua bao tai ương. Đôi mắt cô không còn đen như trước, đã có những vẫn đục vì đời, vì người, vì tháng năm, nhưng nụ cười của cô vẫn dịu dàng xinh đẹp như ngày nào. Và nhất là tấm lòng cô, bất chấp thời gian, vẫn nguyên vẹn sự hồn nhiên tin cậy, tin người, tin đời, tin điều tốt lành, tin những lời cô giảng 40 năm về trước. Có thể chúng tôi giờ đây già hơn cô, đã trải qua bao tai ương cay nghiệt của lịch sử, chúng tôi là một thế hệ nghi ngờ, hoang mang cho nên cần vô cùng một chút lòng tin. Của tin còn một chút này (Nguyễn Du). Của tin ấy còn đầy trái tim cô giáo cũ.

Có lần tôi cùng cô dự một đám tang. Cô mặc một màu đen, trang điểm kín đáo. Cô vẫn muốn đến với mọi người bằng dung nhan đẹp nhất, như hoa nở cho đời. Lần ấy, tôi ngồi cạnh cô, nhìn sóng mũi thanh tú của cô (hình như đó là dấu nhấn trên khuôn mặt cô, như điểm nhấn trong bức tranh vậy), tôi nghe tiếng tụng kinh buồn bã, ngửi mùi trầm hương, lòng ngậm ngùi về sự tàn phai của kiếp người, những tình yêu chết đi không cứu vãn được. Tôi nói điều đó với cô, cô trả lời:
– Không, ở tuổi nào, người ta cũng bắt đầu yêu được…

Giọng cô chân tình, xác tín làm tôi bang hoàng. Có thật ở tuổi nào cũng có thể yêu? Hình như ngày ấy, tôi tưởng lòng mình là viên đá chạm đáy hồ không còn loạn động vì những đợt sóng đời. Lời cô làm tôi tỉnh thức. Cô đã truyền cho tôi lòng tin cậy. Tôi nhớ đến một nhân vật của Dostoievski, nàng Sonia tội nghiệp đã đem tình yêu của nàng phục sinh chàng sinh viên sát nhân tội lỗi.

Tôi nhớ đến người bạn gái trong căn nhà cuối hẻm, nàng sống một mình chịu đựng bao nhiêu khổ lụy, nàng là nỗi khổ, nhưng nàng vẫn dành cho cuộc đời nụ cười bao dung, nhẫn nại và tin yêu.

Hình như ai cũng cần một niềm tin. Cũng như một chút may mắn. Cô giáo cũ đã giúp tôi nhìn ra điều ấy…

Đêm ấy, tôi gọi điện thoại cho người bạn gái bất hạnh, tôi nói rằng tôi cầu mong em hãy yêu như thể chưa hề bị ai phụ bạc.

III. Nụ cười an nhiên của bạn

Tôi đến thăm chị Bùi Ấu Lăng vào buổi sáng. Chị bệnh, đang nằm thiêm thiếp, cố gắng nhỏm dậy khi tôi bước vào. Chúng tôi là đôi bạn nửa thế kỷ, đủ thân tình để ngồi lại với nhau trong những phút khó khăn này.

Tôi nói với chị rằng, chịu đựng thân xác mình cũng mỏi mệt lắm, nhưng thôi, phải thương lấy nó vì thân xác chung thủy với ta cho đến phút cuối đời.

Chị cười, nụ cười An Nhiên Tự Tại của một người đã chiêm nghiệm giới hạn của sống – chết.Bởi chị đã qua đau khổ nên hiểu hạnh phúc. Đã thấm thía tình đời nên hiểu giá trị sự sống. Trong đó có những ràng buộc với người thân, mà vì họ, đôi khi ta phải quên đi thân mình, nhưng cùng vì họ, phải giữ lấy xác phàm hư hoại, đứng dậy sau mỗi lần ngã xuống, với một nụ cười. Nụ cười cho mọi người, nhưng nước mắt cho riêng mình.

Chị đã chiến đấu với căn bệnh trầm kha trên mười năm, 10 năm với người bệnh dài vô tận so với người không bệnh. Là thầy thuốc, là con bệnh, là người bạn, tôi chia xẻ với chị điều ấy, về cuộc sống triển hạn, cho dù tôi biết rằng chúng ta không thể gánh dùm nhau nỗi đau, nhưng làm nhẹ đi một ít, một chút thôi, thì biết đâu, có thể …
Trong ánh sáng mờ đục của căn phòng chị đang nằm, tôi thấy mọi chuyện mù mờ hư ảo như quá khứ…như trí nhớ…

Tôi nhắc đến một thời tuổi trẻ, ngôi trường cũ, những người bạn còn, mất, ở gần hoặc ở xa. Đôi mắt chị sáng lên, như thể sống lại những ngày vui cũ.

Đó là những năm tháng đầu thập niên 60, chị là chị Cả trường Đồng Khánh bước chân vào lớp đệ nhất văn chương trường Quốc Học. Chị Cả có nghĩa là người nhận phần thưởng danh dự toàn trường (điều chị đã ghi trong tiểu sử của mình, để thấy chị trân quý phần thưởng năm đệ nhị C 1959-1960 của trường Đồng Khánh). Chị nhớ đến những ngày học tập và văn nghệ, những buổi thuyết trình hằng tháng cho toàn trường tham dự mà chị là người khởi đầu với bài nói chuyện “Du xuân qua các miền Đất Nước”. Chị kể về ban Thi Ca Học Sinh của đài phát thanh Huế mà anh bạn Trần Ngọc Thao làm trưởng ban, chị làm phó ban, có Huỳnh Văn Uyên thổi sáo. Trần Ngọc Thao sau này là nhà văn Cung Tích Biền.

Tôi nói về cuốn biên khảo “Hoa Tiên: một tình yêu đích thực” vừa in xong, thơm mùi giấy mới vừa đem từ nhà xuất bản về, chị trân trọng kí tặng bản đầu tiên cho tôi. Đó là cuốn luận văn cao học văn chương của chị, trình bày năm 1974 tại viện đại học Đà Lạt trước ban giám khảo gồm có kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, học giả Giản Chi và giáo sư Lê Hữu Mục, là những tác giả hàng đầu của văn học miền Nam, mà tên tuổi của họ bảo đảm cho chất lượng luận văn của chị.

Không phải chỉ là một luận văn, mà là một công trình nghiên cứ nghiêm túc của thầy và trò, là tình yêu với áng cổ văn xuất chúng bị quên lãng vì người, vì đời, vì thời gian…

Đã 35 năm, bản thảo cuốn sách nằm đáy tủ. Hình như cả thời thanh xuân Bùi Ấu Lăng gắn liền với chữ nghĩa tác phẩm Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, lúc còn đi học, lúc làm sinh viên sư phạm Việt văn, lúc đi dạy ở trường Bùi Thị Xuân Đà lạt và cuối cùng là luận văn cao học cũng về tác phẩm ấy. Chị cười. Chị kể về những ngày mưa gió Đà lạt, tìm vô Chi Lăng để gặp cụ Giản Chi, để phiên âm từng dòng thơ Hoa Tiên, bàn bạc từng cách đọc các dị bản…

Tôi nói với chị rằng giờ đây số người biết đến Hoa Tiên không nhiều, nhất là về người nhuận sắc Hoa Tiên là Nguyễn Thiện, một tác giả cùng quê và có bà con với Nguyễn Du, đối tượng nghiên cứu của luận văn. Tôi nói về công phu phiên âm và tổng kết những dị bản của tác phẩm. Và nhất là chị đã chỉ ra hơi thơ Truyện Kiều trong bản Hoa Tiêu nhuận sắc…Chị nói, ừ, thì theo Thầy khó lắm nhưng mình học được rất nhiều, từ kiến thức đến nhân cách. Những ngày ấy, chị mới 32 tuổi.

Giờ đây sau 35 năm, chị cho in lại, giới thiệu lại một tác phẩm bị quên lãng, như trả nợ cho tiền nhân. Sách giữ nguyên chữ nghĩa 35 năm trước, không đổi một chữ. Chị cười, nụ cười an lạc, càng an lạc khi hơn trong chữ nghĩa, vì chữ nghĩa không có tuổi, còn chúng tôi thì mang nặng gánh thời gian…

Buổi sáng trong căn phòng mờ ảo, chúng tôi nhắc đến những mối tình học trò tan vỡ và bền chặt. Tôi ngồi, nghe chị nói lòng nhẹ nhàng nghĩ về những điều không nói được giữa hai người, nhưng vẫn chia xẻ được bằng im lặng. Tôi nghĩ đến những tế bào ung thư đâu đó trong chúng ta. Có Hoại mới có Diệt. Đơn giản thôi, cớ sao lòng ta sắt se làm vậy!

Tôi nói với chị, nỗi đau như ly rượu đắng, đôi khi ta thử nghiêng ly chia bớt cho người. Mắt chị long lanh. Có thể vì hàng nước mắt sắp rơi, nhưng cũng có thể vì một nụ cười sắp hé lộ.

Tôi gỡ miếng thuốc dán trên bụng chị. Đó là miếng dán có tên DUROGESIC, loại thuốc giảm đau cực mạnh của nền y học hiện đại.

Tôi nói: Bạn hãy cố gắng ngủ đi, quên đi, quên cơn đau, quên mình, quên người. Thực ra, quên cũng là một đức tính.

IV. Sen

Tôi qui y ở chùa Từ Hiếu, một ngôi chùa cổ cách thành phố khoảng bảy cây số, trên đường đi lên Vạn Niên. Thời gian qua, không thể nhớ những bước chân tuổi thơ chạy trên những viên sỏi sân chùa cũ. Nhưng không quên, không bao giờ quên màu nước xanh ngọc bích của cái hồ bán nguyệt nằm ở mặt tiền, bước qua khỏi cổng tam quan là nhìn thấy. Ôi, màu nước in hình trời, cây cỏ, bóng chùa, cái màu xanh rêu phong mà không cũ, đầm ấm sâu thẳm mà vẫn sáng láng rực rỡ hào quang của ngọc bích. Trên mặt hồ ấy là những đóa sen hồng, sen trắng. Và bên cạnh màu hồng, màu trắng kia là màu lam khói hương của tà áo mẹ tôi.

Sau này, tôi còn dịp nhìn những sen hồng sen trắng khắp miền đất nước. Sen hồ Tịnh Tâm, ở Tây Lộc, sen ở Đồng Tháp, trong rừng tràm của khu Xẻo Quýt. Sen trên những đồng sen bát ngát ở Campuchia. Sen ở vườn thượng uyển bên Tàu. Thậm chí, tôi cũng tò mó ngắm những loài hoa rất gần với sen như bông súng, hoa nénuphar ở ngoại ô Paris, trong vườn của họa sĩ Claude Monet.

Nhưng chỉ có sen ở hồ bán nguyệt chùa Từ Hiếu gây cho tôi cái bồi hồi về một vẻ đẹp và một tình cảm lạ lùng, mà mỗi khi hình dung lại, tôi tưởng như đó là những người bạn thân thiết luôn luôn trung thành với tôi từ tuổi thơ cho đến giờ tóc đã bạc. Bởi vì, trong cánh sen kia, hình như thấp thoáng màu khói hương của tà áo mẹ tôi, và nụ cười bất tuyệt của đức Phật.

Năm 1995, con mắt của tôi bị bệnh, thị lực kém hẳn đi. Có những đêm trực ở bệnh viện, bước xuống những bậc cấp cầu thang để đi thăm bệnh, tôi dò dẫm từng bước. Tôi không còn quyền vấp ngã, vì tôi không còn gượng dậy được. Đêm dài, tôi không ngủ. Tôi nghĩ đến lúc trước mắt tôi chỉ còn màu đêm vĩnh viễn. Se sắt vô cùng. Tôi nhớ đến từng khuôn mặt người thân, ở gần, ở xa, còn hay mất. Tôi nhớ mẹ tôi. Dù ở tuổi nào, dù cuối cuộc đời, khi mất mẹ, người ta vẫn cảm thấy mồ côi. Tôi nhớ đến những đóa sen ở ngôi chùa cũ, người bạn không bao giờ thay lòng đổi dạ trong đời tôi. Và tôi vẽ những bông sen trong tâm cảnh ấy.

Trong những đêm không ngủ ấy, tôi vẽ sen bằng chất liệu màu nước. Cho nhanh. Cho đỡ mất công nhìn kỹ vì mệt mắt. Tôi thích những đài sen – vì tôi biết trong ấy có những hạt sen thơm tho – rồi những chiếc lá sen còn tươi xanh lục. Tôi vẽ những chiếc lá sen khô cuốn lại, tan tác đen nâu như ống thổi lửa. Tôi vẽ sen hồng cạnh sen trắng. Sau này, có thì giờ, tôi dùng chất liệu sơn dầu, vẽ trên giấy hoặc trên bố, tôi vẽ những nhụy hoa tàn, những cánh hoa tàn rơi trên mặt bàn mà mẹ tôi vẫn cẩn thận dùng một cái chổi đót bé tí quét gom trong tờ giấy, rồi gói lại. Mẹ không nỡ vất đi cái gì thuộc về hoa sen.

Vẽ sen say mê như vậy trong khoảng hai năm, đột nhiên tôi không còn hứng nữa. Đó là thời gian tôi đọc bộ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Đó là thời gian tôi đọc những câu thần chú trong mật tông có liên quan đến sen; thậm chí, tôi có dịp tỉnh táo để nhìn những bức họa hoa sen được thể hiện bởi bao nhiêu họa sĩ và thiền sư.

Tôi nhìn thấy ảnh chụp một đóa sen được vẽ trên đá tại vùng núi ở Hi Mã Lạp Sơn, nơi tuyết phủ quanh năm, và nơi ấy không có hoa sen, người vẽ chưa thấy đóa sen bao giờ.

Tôi hiểu ra, sen không chỉ là một đóa hoa, mà là một cái gì hơn thế nữa. Thời nhỏ, tôi cũng là một cậu bé trong đoàn Phật tử, cũng được đính một huy hiệu hoa sen trên ngực áo. Hình như huy hiệu ấy, ở Huế, phát xuất từ chùa Từ Đàm, do họa sĩ Phạm Đăng Trí vẽ (tôi biết rằng, tờ báo Phật giáo tên là Liên Hoa do thầy Thích Đức Tâm chủ biên cũng do họa sĩ Phạm Đăng Trí trình bày).

Vấn đề không phải là hình dáng sắc màu của hoa mà là điều đóa hoa sen gợi cho lòng ta. Như tích “niêm hoa vi tiếu”, khi Phật đưa đóa sen cho tăng chúng và mỉm cười thì chỉ có đệ tử Ca Diếp mìm cười đáp lại. Dù chỉ là huyền thoại, nhưng tôi cũng hiểu được cái vô ngôn của nét đẹp kia. Sen chỉ là cái cớ. Cái cớ cho người ta bước tới, hay dừng lại, tinh tiến hay vô minh. Cái cớ cho điều lành hay điều dữ. Cho tâm an lạc, hay sự loạn động. Và trong cõi ta bà này, sen – với tôi – là cái cớ để yêu thương hay từ biệt cuộc sống này. Bời chỉ là cái cớ, cho nên nó hữu hình mà vô hình, như ngọn núi xanh mà không phải là ngọn núi xanh.

Hay nói theo lời kinh, không chỉ là cái cớ mà còn là phương tiện. Để tự mình tìm thấy khuôn mặt thật của mình (Bản lai diện mục).

Tôi không vẽ sen được nữa. Bởi vì những đóa sen hồng sen trắng trở thành một ý niệm. Như mẹ tôi, như bạn tôi trở nên một phần trí nhớ của đời tôi. Cái phần đã tạo nên nhân cách của mình, và từ đó, số mệnh của mình.

Có những đêm ngồi thao thức dưới ngọn đèn, tôi tự hỏi nếu không có những cành sen ở hồ bán nguyệt chùa Từ Hiếu, thì đời tôi sẽ ra sao. Ra sao? Tôi không biết nữa, nhưng chắc chắn sẽ khác.

Những dòng này viết cho bạn tôi, để trả lời một câu hỏi. Cám ơn bạn đã gợi cho tôi bao nhiêu điều se sắt mà tôi tưởng đã vượt qua, nhưng nào tôi có vượt qua được đâu, dù có trầm tư bao nhiêu lần về Tứ Diệu đế.

Lữ Kiều

Linh Phương

Linh_Phng

Để Trả Lời Một Câu Hỏi
* Kỷ Vật Cho Em

Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến trận Pleime
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – Bình Giả

Anh trở về hàng cây nghiêng ngã
Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng

Mai trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt

Mai anh về em sầu thê thiết
Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng
Cho em làm kỷ niệm sang sông
Đời con gái một lần dang dở

Mai anh về trên đôi nạng gỗ
Bại tướng về làm gã cụt chân
Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân
Bên người yêu tật nguyền chai đá

Thì thôi hãy nhìn nhau xa lạ
Em nhìn anh – ánh mắt chưa quen
Anh nhìn em – anh sẽ cố quên
Tình nghĩa cũ một lần trăn trối.

Nhà Thơ Và Thiên Sứ

Chàng đi về phía biển
Mênh mông gió-mênh mông nước mắt
Gió thổi nỗi đau bay ra đại dương xanh ngát
Gió thổi nước mắt tan vào hư vô
Sóng thần dìm chàng giữa cơn cuồng nộ
Mặt trời thiêu rụi bầy kên kên rỉa xác người
Ngày tận thế được tính từng phút-từng giờ
Khi tên tông đồ rắp tâm phản bội
Để Chúa phải chịu bị hành hình trên thập giá

Thiên sứ chạy đến cánh đồng đầy hoa
Hái những bông hoa chảy máu trong đôi bàn tay xinh đẹp
Rải khắp chỗ Kosala akya Siddrtha ngồi nhập diệt
Bầy rắn hung hãn nằm dưới chân núi Hymalaya
Chờ giết chết sự lọc lừa-giả dối

Ngày tận thế được tính từng phút-từng giờ
Muhammad không thể thay đấng toàn năng khai thiên lập địa
Nàng quỳ xuống đọc kinh Qu’ran – kinh Thánh -kinh Phật
Khi tất cả nhân loại đều biến mất

Thuở hồng hoang tái lập
Sông Hằng chỉ còn hai người
Nhà thơ và thiên sứ

Mai Em Về Bên Ấy

Có một điều anh không thể quên
Khi bàn tay chạm vào khuôn ngực
Dưới lớp áo mỏng tanh nẩy hạt
Đợi mùa sang chớm nụ hoa tình

Mai em về bên ấy một mình
Anh gởi nắng quê nhà hong ấm
Má em hồng và môi em thắm
Nồng nàn hương trời đất Việt Nam

Mai em về bên ấy xa xăm
Đem theo nhé! Chùm hoa Phượng đỏ
Đem theo nhé! Con đường-góc phố
Để mà thương-mà nhớ Sài Gòn

Nơi ngày xưa anh đã lớn khôn
Tuổi mười tám bướm hoa mơ mộng
Tuổi mười tám lên đường ra trận
Mang tình yêu canh cánh trong lòng

Mai em về bên ấy buồn không ?
Rừng có nở đầy bông hoa tuyết
Gió có thổi tạt vào mắt biếc
Chút mưa bay mây xám giăng mù

Anh ở đây chờ lá vàng thu
Hồn hiu hắt hết đời lưu lạc
Chiều nay rồi bao nhiêu chiều khác
Vẫn là anh lặng lẽ đợi chờ

Anh Về
Không Lá Diêu Bông

Một hôm anh
nhớ cánh đồng
Lúa non vội chín
để vàng chiều xưa

Thương ngày
em đứng dưới mưa
Thuở anh yêu
lúc đời chưa
dập vùi

Một hôm
gió thổi vụt vù
Sông mênh mông rộng
mà đò bặt tăm

Anh về
không lá diêu bông
Cho nên chẳng được
làm chồng của em

Cây dằm
ai để giữa tim
Cho anh đau khổ
triền miên kiếp người

Bao năm rồi
vẫn còn ngờ
Ở đâu đó
em thẫn thờ
đợi anh

Tóc Em Thơm
Mây Khói Sài Gòn

Mùi anh xin gởi lại cho người
Tay níu vội khoảng trời xanh thương nhớ
Mắt em buồn sầu vương mây khói
Tóc em thơm mây khói Sài Gòn

Bàn chân hồng in dấu nụ hôn
Hương em đọng trên môi anh mãi
Vẫn tiểu thư của thời trẻ dại
Em hiền ngoan e ấp buổi hẹn đầu

Mấy mươi năm mình lạc mất nhau
Hội ngộ rồi em ơi đừng khóc ?
Ôm thật chặt -siết vòng ôm thêm chặt
Hơi hướm nào ngai ngái không tan

Mùi anh xin gởi lại Sài Gòn
Trao cho em dẫu đời còn xa cách
Trao cho em một tình yêu duy nhất
Anh giấu kín lâu rồi trong trái tim thơ

Giữ nhé em ngày đợi -đêm chờ
Tay níu vội giấc mơ chồng vợ
Giữ nhé em mắt sầu vương mây khói
Để tóc em thơm mây khói Sài Gòn

Linh Phương

Lê Văn Trung

Mộng Tàn

Nhớ mùa trăng cũ
Bên song
Em ngồi đan aó cho chồng phương xa-
Tôi về
Tạt ghé thăm nhà
Màu trăng vàng lạnh
Mắt nhòa hơi sương—-
Lênh đênh tôi
Cuộc tình buồn
Nửa đời lưu lạc
Tay không
Mông tàn

Yêu em
Thôi vậy
Cũng đành
Ba chìm bảy nổi
Gập ghềnh
Ngược xuôi
Yêu em
Đành vậy
Ngậm ngùi
Năm tàn
Tháng lụn
Bóng đời tàn phai.

Ta Về Một Bóng
Bên Đường

Ta về
Hiu hắt con đường cũ
Hàng phượng buồn
Quên chưa trổ bông
Mưa tạt qua sông rờn rợn sóng
Gió oan khiên buốt lạnh trong hồn

Ta về
Ga vắng
Con tàu nhỡ
Nét chữ ai đề lạnh vết rêu
Ta đọc như kinh
Bầm nỗi nhớ
Niềm đau dâu biển nửa câu Kiều

Ta về
Hiên vắng
Nhà hoang
Gọi
Tên người
Nghe vọng tiếng buồn phai
Ta gom hết lá vàng năm cũ
Mới thấy lòng xưa cũng đổi mùa

Ta về
Quên
Nhớ
Thôi đành vậy
Áo bạc màu theo cuộc nhiễu nhương
Em còn đâu đó
Phương trời lạ
Ru giùm ta mấy khúc đoạn trường

Ta về
Một bóng
Soi bờ nước
Thấy đời mình chao một thoáng maay
Tay mỏi vổ buồn thanh gươm rỉ
Đời người như sợi tóc tàn phai.

Bi Khúc 72…

Hãy khóc
dù một lần
cho cuộc đời này
cho cuộc tình này
cho tôi
và cho em
nước mắt sẽ chảy vào
mạch máu của nỗi khổ đau
của niềm khát vọng
của hạnh phúc bị chìm khuất
nước mắt sẽ chảy vào
từng thớ thịt của nỗi đam mê
từng tế bào của niềm bi uất
từng hơi thở của nỗi bất hạnh
nước mắt sẽ chảy vào
giữa trái tim chúng ta
đang từng nhịp đập
mòn mỏi
đang từng nhịp vỗ
muộn phiền
hãy khóc lên em ơi
nước mắt là dòng suối chảy qua đời ta
từ nguồn cội cô đơn
khi chúng ta chỉ là hai hạt bụi..

Bi Khúc 69, 70…

Em ạ em làm sao hiểu được
tôi là mây muôn vạn kiếp là mây
đời mây sẽ trôi tan vào trong gió
chìm trong sương và đắm giữa rừng cây
em đứng giữa đồi cao nhìn mây trắng
mây trong em mây trong mắt trong hồn
mây chảy xuống và mây chìm trong tóc
mây trườn qua ngực biếc buổi tình xuân
em đứng giữa vườn mây mà chợt khóc
mây trọn đời tan cuối cõi trời không.

70.
Cho tôi vui với! Cuộc đời!
hồn tôi mở cửa gọi người trần gian
cho tôi tình ái mê hoan
máu tôi đỏ thắm chảy tràn nguồn thơ
cho tôi môi mắt dại khờ
vườn tôi nắng hạn đã khô cháy long
cho tôi một chút son hồng
một chút hương một chút nồng nàn say
cho tôi vui vơí! một ngày!
trăm năm tôi trọn đêm dài bão giông
rồi trong suốt cuộc tình buồn
tôi xin tạ hết tấm lòng cỏ cây
bốn phương bải rộng sông dài
đời vui có vẹn một ngày không em?

Cùng Lận Đận
Bên Trời Một Lứa
* tặng Phạm Ngọc Lư

bao năm chưa gặp lại
giờ người đã thế này
áo giang hồ bạc thếch
rượu giang hồ còn say?

ta một trời dâu bể
người trăm phương bụi mù
tên lính già thất trận
vết thương cũ còn đau

ta mời người uống cạn
ly rượu tàn cuối đông
trôi theo dòng hoạn nạn
“thiên nhai luân lạc nhân” (2)

ta nhớ mười năm cũ
lòng như mây trắng bay
ta nhớ người ngày ấy
tình thanh xuân còn đầy

giờ mười năm gặp lại
áo giang hồ tả tơi
hồn giang hồ vữa mục
tình giang hồ muôn nơi

ta biết bởi gì đâu
hỏi nhau càng thêm buồn
ngươi cũng hiểu từ lâu
chuyện đất trời mênh mông

ai đã từng xuôi ngược
qua trăm bến ngàn bờ
hiểu những điều sau trứơc
lòng nào không xót xa

ta nhìn ngươi đứt ruột
ngươi nhìn ta ngậm ngùi
ôi cõi ngoài xa lắc
chỉ còn ta với ngươi.

Phương Trời Hiu Quạnh

tôi tìm em đứt mòn hơi
hai mươi năm dấu chân người mờ phai
tìm em suốt cuộc tình dài
đường vô tận
bến chờ
ngoài nẻo không
còn gì sau cuộc phù vân
lệ tình em ướt đẫm phần mộ tôi

tôi tìm em
một phương trời
một phương tôi
một phương người
quạnh hiu.

Thúy Kiều
Mời Rượu Chàng Kim

Xin mời nhau chén rượu này
Mừng trong luân lạc một ngày bình yên
Baõ giông chìm nổi lênh đênh
Mười lăm năm lệ ân tình chưa nguôi
Nâng ly nhìn tỏ mặt người
Đàn rơi mấy giọt đầy vơi đoạn trường
Xin mời nhau chén tình nồng
Từ trong sâu thẳm cõi lòng tang thương
Lạy này thâm tạ mười phương
Lạy này thâm tạ trăm đường phiêu linh
Triệu nỗi nhớ vạn niềm quên
Chút trinh xin nguyện đáp đền mai sau’.

Đêm Nằm Đợi Mưa

Đêm tôi nằm đợi mưa về
Tác kè gọi bạn tình nghe não lòng
Lời ru buồn lọt qua song
Như lời khắc khoải chờ mong nghìn trùng

Mưa đời em giọt tình nồng
Rơi về đâu giữa mịt mùng đời tôi
Bờ bãi tôi buổi xa người
Đìu hiu lau sậy ngậm ngùi khói sương

Mưa đời vạn nẽo nghìn phương
Giọt nào rơi chạm nỗi buồn đêm tôi ?

Lục Bát Lê Văn Trung

Hội An

Phố xưa
Người bỏ về đâu
Viễn Lai Kiều
Nỗi biển dâu
Vẫn chờ

Tôi
Người khách
Cũ
Nghìn xưa
Bước chân hụt giữa hai bờ Hoài giang.

Xa Lạ

Đôi khi dừng lại bên đường
Nhìn thiên hạ giữa phố phường ngược xuôi
Thấy ta lạ lẫm trong người
Thấy tình em cũng xa xôi nghìn trùng.

Có Còn Ai?

Muốn đưa tay níu tay người
Nhân gian rộng quá đất trời bão giông
Lòng khuya tăm tối mịt mùng
Có ai quay lại về cùng ta không ?

Trăm Năm Về Giữa

Đêm thức giấc, giọt sương buồn
Rơi lạnh căm giữa nỗi lòng hoang vu
Hỡi êm người của nghìn thu
Trăm năm về giữa mịt mù đời tôi.

Vẳng Nghe Tiếng Gọi

Tiếng ai gọi cuối con đường
Hay là tiếng của nghìn phương gọi về
Ta còn chìm giữa cơn mê
Vẳng nghe tiếng gọi mà se sắt lòng.

Ngang Qua Gò Dưa
Chạnh Nhớ Thi Sĩ Bùi Giang

* Kỷ niệm ngày mất của tiên sinh 7.10.1998

Ôi huyệt mộ trần gian này muôn thuở,
Ông nằm nghe sương rớt hột bình nguyên
Ngàn thu biếc tung tăng bầy dê nhỏ
Lá cồn lay xao xác gió xa miền
Ông nằm nghe tiếng chiều xanh nức nở
Con dế buồn vọng tới bến vô biên
Con bướm trắng con chuồn chuồn cánh đỏ
Con chồn loang những sắc mượt lông mềm

Ông đã đi từ bình minh nguyên thuỷ
Ông đã về từ cõi tịnh tinh khôi
Một con mắt khóc người xa buổi ấy
Còn một con dõi mông cháy bên trời
Ông đã đi , đã đành là đi vậy
Mà trần gian không nở khóc chia phôi
Trái tim đỏ vẫn ngời dòng máu chảy
Một vì sao rực lửa phía xa xôi

Mây trắng mãi bồng bềnh muôn vạn nẻo
Quê nhà ơi vượn hú cuối chân đèo
Hồn ông với hồn thiên thu lạnh lẻo
Dòng sông trôi bờ quạnh bến hoang liêu
Hồn ông với hồn trăng sao rạng chiếu
Rừng truông khuya lồng lộng gió muôn chiều
Hồn ông với hồn đất trời vi diệu
Đã vạn lần hổn hển một tình yêu

Ông đã đi từ mang mang nguồn cội
Ông trở về từ thăm thẳm cao xanh
Trần gian hỡi trăm năm chừng ngắn ngủi
Một lần qua là từ biệt sao đành
Ông đã đến và đi riêng một cõi
Đã phai vàng thổn thức mấy thu xanh
Đã hò hẹn, đã tương phùng, chờ đợi
Đã chia lìa muôn ngàn nẻo lênh đênh

Ông đã đi mà vạn lần gởi lại
Linh hồn ông thao thức mấy phương người
Ông đã về mà lòng sầu cháy mãi
Trái tim nồng nhịp mỏi chốn xa xôi
Mở đôi mắt muôn vì sao nhấp nháy
Khép bờ mi chìm mộng cuối chân trời
Ông đã đi, đã đành là đi vậy
Mà trần gian không nở khóc chia phôi

Các em hỡi những nàng tiên Mọi nhỏ
Tình lao xao da thịt cháy hương rừng
Các em hãy về đây quì bên mộ
Khóc một lần thương tiếc bóng thanh xuân
Nghe xương máu ngấm trong hồn cây cỏ
Tận cõi về thăm thẳm của riêng ông
Ông đã đi mang mang hồn thiên cổ
Vẫn còn đây lời Phụng Hiến sau cùng.

Bi Khúc 60

Ôi các em những con sâu con kiến
những cơn buồn lẫn lộn những cơn vui
tôi sống giữa trần gian tràn dâu biển
các em là cơn mộng cháy khôn nguôi
ta đâu có mời nhau đôi giọt rượu
mà hồn say như lá rụng bên chiều
ta đâu có vùi nhau trong khát đói
mà tình run như bóng đổ lưng đèo
ôi các em những con chim con chóc
nhảy tung tăng trên vực thẳm hồn tôi
tôi sống giữa trần gian buồn muốn khóc
các em là khăn lụa ấm màu môi
ta đâu có hẹn thề không chờ đợi
mà sợi buồn đã bạc đến trăm năm
ta đâu có bên mộ đời réo gọi
mà tình đau như nguyệt nở đêm rằm
tôi lầm lủi một mình trên mặt đất
các em là mây trắng là mù sương
tôi về giữa trần gian tràn tiếng hát
lời ngậm ngùi xanh biếc ngọc-đau-thương.

Lê Văn Trung

Lê Văn Thiện

Le Van Thien

Ngoại Lệ

Bây giờ còn sớm quá, trời đất lờ mờ. Kiên đạp xe nhanh xuống đường cái, một cây xoài to ngã nghiêng bên đường như một người khổng lồ mang áo tơi đứng đợi ai. Chưa có người nào đi chợ. Một chú gà cồ nhỏ trong cái nhà cạnh đường bỗng ó lên, nhưng tiếng gáy đứt phựt, tức tối. Kiên nhìn ra, tầm mắt không tới khúc quanh của con đường ngoài kia, chỉ thấy lối mòn trắng ở giữa, cong queo. Tháng này không phải là tháng Chạp. Những ngày cận tết người ta đi chợ sớm lắm, gà gáy một hai lần đã có tiếng nói ngoài đường. Hình như không ai biết mỏi cẳng vì quãng đường dài bảy cây số từ làng đến chợ lớn trên quận, nhất là những cô bé có khi hai ba tháng mới được đi một lần. Ở nhà làm quần quật cả ngày, được đi chợ là được nghỉ ngơi, lại thêm có dịp xem hàng quán nhộn nhịp, vui tươi. Nên đêm sửa soạn mấy thúng rau trái để sáng vô chợ bán cũng là đêm khó ngủ được.

Kiên chống xe, ngồi xuống cỏ. Khỏi làng một chặp có con truông khá dài, hai bên là rừng chồi, cây mọc trên cát, con đường lên quận bò ngang qua đó. Chiều xẩm và lúc mờ sáng qua truông thấy dễ sợ lắm, hồi trước sợ cọp bây giờ sợ ma. Mấy đứa trẻ nhỏ thì ngán bà Lên, Kiên cũng vậy. Trước kia vợ chồng bà ta có cái nhà ở đầu truông, nhưng làm ăn không khá nên cách đây gần hai năm hai vợ chồng bỏ vô một làng trong đó ở. Lối nửa năm sau, một buổi chiều, bà vợ ra mò cua dưới con sông cạnh đó chẳng may sụp búng, chết đuối. Xác bà ta theo nước sông chảy xuống, ra biển. Và dễ ớn hơn nữa là cái xác ấy lại lần mò tấp về làng cũ, dưới bến, chỗ neo mấy chiếc ghe chài. Sự việc hãy còn mới nên đi ngang truông một mình, mấy đứa bé sợ phải gặp bà Lên về ngồi trên nền nhà cũ, tóc tai phủ mặt phủ mày như cái xác khi được vớt bỏ nằm dưới bến.

Vẫn chưa thấy người nào qua lại. Kiên vơ vẩn ngước lên nhìn trời. Trống nhà làng đột nhiên vang lên, tiếng thật trong và rõ. Trống gọi dân làng đưa đám ma. Làng này có thói quen: nếu có người chết, mọi người phải nghỉ việc để đến thăm tang gia và phúng điếu kẻ quá cố, dù quen hay lạ. Cho nên nghèo cùng đến mấy, người chết vẫn được ấm cúng và tang chủ vẫn có đủ tiền làm ma chay. Để việc này mãi mãi hiệu lực người ta thường nhắc: ngày có người chết, ai bỏ đi làm, sau này trong gia đình người ấy có thế nào thì phải tự lo liệu lấy, ráng kênh vác xuống gò mà chôn. Tiếng trống đình luôn luôn thúc giục dân làng nên đi làm việc nghĩa, cho người và cũng là cho mình.

Kiên mừng rỡ đứng lên, vừa nghe có tiếng nhiều người nói chuyện xen tiếng cười. Một tốp năm người đàn bà gánh thúng mủng bước đi nhanh.
– Ý! Ông địa ơi!
Một bà đâm bổ tới sát chiếc xe đạp. Mấy bà khác dừng lại.
– Ai đứng kỳ vậy?
– Dạ con.
Bà mặc áo dài đến nhìn mặt Kiên.
– À thằng Kiên. Tưởng ai.
Bà la ông địa để gánh xuống, Kiên nhận ra dì Tâm:
– Mầy đứng tần ngần làm tao mất hồn. Đi đâu sớm vậy Kiên?
– Dạ, con vô chợ mua cho thằng Tình hộp sữa. Nay nó yếu quá.
Dì Tâm chặc lưỡi:
– Thằng bịnh cả đời. Tội quá, nếu để nó sống thì cho nó mạnh đi, hành hạ thân xác nó tội nghiệp.

Kiên thấy câu nói của dì giống mẹ mình. Những ngày em Tình trở bịnh nặng mẹ Kiên vẫn thường nói như thế. “Thánh thần cô cậu có để nó sống thì cho nó lành bịnh, còn số nó không ở được với cha mẹ anh em thì hãy đem nó đi, đừng hành nó tội nghiệp.” Thằng bé thân thể gầy gò trăn trở trên gường bịnh làm mẹ nó đau lòng, cúng vái lung tung. Kiên thì không tin rằng cô cậu nào bắt nó. Thằng nhỏ mang bệnh tật vào mình từ khi chưa đầy một tuổi. Thầy phù thầy pháp có, nhà thương bác sĩ có, nhưng nó vẫn phải mang lấy một cái tay quẹo, đôi chân đi không vững, và suốt bảy năm trời, bảy tuổi, chỉ mạnh được một hai năm là cùng. Bây giờ thì gần chết.
– Nhưng sao mày đứng đây? Thím Hải hỏi.
– Dạ, còn tối con sợ quá. Kiên cười.
– Thằng nhát như thỏ. Mày phải biết: mấy năm trước, hồi chưa có lính canh gác như bây giờ, một mình tao ở quận về lúc nửa đêm, còn dám nữa là.
– Dạ hồi đó chắc bà Lên chưa chết?
– Chuyện! Chết sống cũng vậy. Bây giờ đã nằm xuống đất bà ấy cắn mổ được ai mà sợ.

Thím móc túi, hình như lấy trầu. Kiên dắt xe theo sau, tốp đàn bà đi trước. Trống làng lại vang lên, nện mạnh từng tiếng. Mợ Tần sang vai gánh:
– Chắc cũng xế đám mới đi?
– Không xế thì trưa. Còn chờ thằng con út ông ấy về.
– Đứa nào?
– In như thằng Hạnh. Con trai ổng bốn năm đứa dễ lộn lắm..
Thím Hải trầm ngâm một lát:
– Đúng rồi. Thằng Cả nằm nhà, mấy thằng lớn đi lính xa, chỉ có thằng đó nhỏ nhất mà đi xa nhất, tận Kontum, Pleiku gì lận. Hồi còn sống ông Canh nhắc nó luôn.

Tới đầu làng bà mặc áo dài đi rẽ lên, bà viếng đám tang. Nghe có tiếng kèn đám chết kêu ngắc ngứ trong nhà thợ Năm, mợ Tần nói nhỏ:
– Gớm! Cái thứ ấy mà thổi thử trong nhà trong cửa. Hư hao gì thì đến nhà đám sửa chứ. Nghe phát khiếp.
Dì Tâm cười:
– Ông ấy thường làm vậy rồi. Đám nào ổng cũng đem kèn ra, thử đi thử lại cả buổi. Lại còn rung, còn ngân rồi khè khè xuống như khóc, ngán.
Dì quay lại:
– Thằng Kiên thật có công. Đem xe mà dắt bộ. Như tao thi nãy giờ đã gần tới chợ.
Mợ Tần hỏi:
– Liệu em mày có sống được vài ba tháng nữa không? Tao thấy sợ…
Mợ nghĩ một chút và tiếp:
– Như việc ai cũng phải đi phúng điếu người khuất, làng này có cái lệ thường chết cặp đôi. Để ý thì biết ngay. Tháng sáu năm ngoái ông Trường chết buổi sáng, xế một chút thì con Cương chết, cả hai đều bịnh lâu năm. Hôm tháng chạp bà Sáu chết bữa trước, hai ba bữa sau thằng nhỏ con ông Xê chết theo. Mấy năm trước cũng như vậy luôn. Nay ông Canh mới chết, mà thằng em mày bịnh nặng, tao e quá.

Kiên im lặng không nói gì. Dễ nhớ nhất là năm cha Kiên mất, hôm sau cũng có người chết: bà mẹ anh Thư ở cùng xóm, cách nhà Kiên một đám ruộng. Biết đâu lần này thằng Tình lại không theo ông Canh.

Qua hơn nửa truông, trời đã sáng tỏ. Kiên lên xe đạp đi, mấy người đàn bà bước thong thả đằng sau, tiếp tục nói chuyện.

Đến quận hãy còn sớm, mới có một vài hàng mở cửa, chợ chưa có ai. Kiên hỏi mua hộp sữa và về ngay. Mặt trời mọc, con đường lớn nhiều người qua lại, đông nhất vẫn là kẻ đi chợ. Kiên hối hả đạp xe nhanh, bây giờ có lẽ bọn học trò đã đến nhiều. Thằng Tình không ăn uống gì từ hôm qua. Kiên nhớ đến ông Canh. Lời mợ Tần ban nãy. Đứa học trò gái ngồi chồm hổm trên ghế, Kiên còn nhớ rõ cử chỉ con bé: nó xòe bàn tay ra, mấy ngón như cung lại, nó nói với mấy đứa bạn:
– Hòn dái ông Canh bây lớn vậy nè.
Mấy thằng nhỏ bật cười. Một đứa hỏi:
– Sao mấy biết?
– Hồi trưa tao theo con Lại vô coi. Con Lại nói ông nội nó gần chết rồi. Tao thấy ổng nằm trên giường, một đổi lại lăn qua bên này, rồi lăn qua bên kia. Ổng rên nữa, rên lớn lắm.
Nó chu miệng và giơ bàn tay lên, lập lại điệu bộ lúc nãy: xòe bàn tay ra, cung các đầu ngón lại:
– Lạ lắm! Ổng nằm ngửa trên giường, chỉ bận áo, không bận quần. Hòn dái ổng sưng thiệt là to, bây lớn vậy nè.
Mấy đứa nhỏ cười sặc. Con bé thêm:
– Cha con Lại quỳ ở đầu giường khóc, nó cũng khóc. Tao sợ quá bỏ chạy về.

Xế hôm qua ông Canh gần chết, sáng hôm nay ông ấy đã chết. Bây giờ thằng Tình yếu quá, nó gần chết. Chiều nay hay sáng mai, biết đâu nó lại…

Kiên đạp xe rẽ lên lối nhỏ về nhà. Một tốp học trò đang đi ở trước, thấy Kiên chúng dừng ngay lại, lật mũ bỏ nón chào:
– Anh Năm.
– Anh Năm.
– Đi đâu về sớm anh Năm?

Kiên gật đầu cười. Bọn nhỏ chạy theo xe, Kiên đạp chậm lại:
– Làng đi đám chưa các em?
Con Đan nhanh nhẩu:
– Dạ mới đi đây. Hai ông khiêng trống đi trước, ông xách chiêng sau, rồi tới mấy người cầm cờ, đi vô ngõ giữa. Lúc trống làng vô em chạy xuống coi. Người ta thiệt nhiều, có trò Trừ nữa, em rủ đi học, trò ấy biểu coi chút nữa, người ta đông đảo vui quá.

Thằng Quý hỏi:
– Sao hôm qua nó nói ở nhà ông Canh thấy sợ lắm, bữa nay nó lại xuống coi?
– Nay người khóc nhiều hơn hôm qua, nhưng ông Canh đã bị bỏ trong hòm, đậy kỹ rồi ít sợ. Đan trả lời thông thạo.

Kiên chống xe xuống sân, đem sữa vô nhà. Tình nằm, mắt nhắm nghiền, nó thở hơi lên. Mẹ Kiên ngồi đầu giường:
– Em nó mệt lắm rồi con ơi!

Kiên thấy mình muốn khóc.

Tám giờ đúng. Kiên móc túi lấy còi thổi. Bọn học trò ào ào chạy vô lớp, bàn ghế đụng nhau lạch cạch. Thằng Chút nói:
– Mình vô lớp sớm quá. Chưa nghe trường công đánh trống
Con Ngào nhìn nó:
– Ừ, bữa nào trường mình cũng vô trước một chút. Sớm càng ngon.

Kiên vỗ hai tay vào nhau:
– Các em nghe đây…
Bọn học trò ngẩng đầu lên, im lặng:
-…Em Tình bịnh nặng, các em không nên đùa giỡn inh ỏi như mọi bữa, nghe chưa?
Chúng nó đáp một rập:
– Dạ…ạ…

Kiên viết bài tập trên bảng. Sáu đứa Lớp Tư ngồi ngay ngắn trông. Bàn Lớp Ba, những đứa học trò lớn nhất trường,. còn lục đục, đứa viết, đứa kẻ, đứa cào bút sồn sột xuống mặt ghế. Chỉ có bọn Mẫu Giáo, lực lượng đông đảo nhất, là ồn ào hơn cả. Một số học bài, đánh vần rào rào, số khác quay qua quay lại cãi nhau. Tiếng con Đan:
– Sao không nghe tiếng trống đám chết nữa hé?
Thằng Châu nói:
– Chắc đã chôn rồi.
– Ẩu, người ta nói đến chiều mới đem đi
Con Phụ dự vào, tiếng nói ồm ồm:
– Ai nói? Cứ láo, đến xế thì chôn.
Mỗi đứa góp một câu, loạn lên. Kiên gõ mặt bảng cộp cộp:
– Im đi chứ. Em nào còn nói chuyện bị đòn bây giờ.

Học trò thì giống nhau, lớn hay nhỏ nghịch ngợm, quấy phá, ồn ào. Kiên thấy ngán bọn đệ tử nhóc của mình. Dù đã rất cố gắng quất mạnh tay roi lên đầu lên mông chúng, nhưng lũ nó vẫn không sợ. Không phải là không sợ. Chúng sợ, nhưng chỉ những lúc bị đánh, sau đó chúng lại tật nào hoàn tật ấy: thọc trước, thọc sau, thầm thì, rì rào rồi ồn lên, lan to ra như gió lốc. Cách đây chín tháng, Kiên cũng ở trong cái thành phần dễ sợ này. Lớp Kiên có sáu chục đầu nhưng thường thì ít khi có mặt ở trường đông đủ, mặc cho đó là năm thi. Không hẳn lớp này nghịch phá nhất trường, nhưng nó cũng loạn lắm. Nạn nhân bị đem ra quấy chọc nhất là hai ông thầy quan trọng: một cụ quốc văn, cụ này dĩ nhiên là già, vì già mới cụ. Thứ đến là ông toán, anh này trẻ trạc nửa đời thôi. Anh được ông trời tạo ra một cái hình dáng rất dễ cho bọn học trò vẽ. Chỉ cần vạch một cái đầu dài, phải cho dài, và cẳng cũng dài là đã giống. Thêm nữa, dường như để thuận ý trời, anh thầy này còn tự tạo cho mình vài nét dị biệt khác: cái đầu hớt cao, ít chải, trước trán thường có một lỏm tóc ngã phủ xuống. Và, theo trào lưu mới, anh mặc những cái quần ngắn mà mấy thằng bạn Kiên quả quyết rằng ống chỉ rộng chừng 16 hay 14 phân. Anh ta dạy toán, giảng mau, hay nhưng phải cái chứng hay gắt, cứ luôn cao giọng: “Các anh học lối này thì khi thi sẽ rớt như mít rụng, để mà xem.” Câu này anh đem áp dụng thường trực, giờ dạy nào cũng nói như vậy ít ra một lần. Và…lâu lâu, mới bước vào lớp, nhìn lên bảng anh ta đã thấy một hình người, đàn ông, mặt dài, chân dài, tóc hớt cao, mặc cái quần tới đầu gối, và từ đầu gối trở xuống lông mọc đâm tua tủa. Bên trên, trước cái gạch làm miệng có một vòng tròn lớn đâm ra trước, giống như một thầy phù thủy chụm miệng phun bùa phép. Trong cái vòng đó có hàng chữ: “Các anh phải liệu lấy thân, cứ học theo lối nầy thi khi thi sẽ rớt như mít rụng…để mà xem”. Anh thầy đứng trông, sững sờ. Bọn học trò im thin thít, ra tuồng đứng đắn.

Với cụ quốc văn trường hợp này cũng có thể xảy ra, nhưng chỉ độc một lần. Hôm đó, ngay khi thấy giữa tấm bảng đen có mấy nét nguệch ngoạc hình dung một cái đầu khỉ, khỉ có mang gương, cụ hầm hầm quay xuống, xông vào phòng ông hiệu trưởng và nằng nặc xin thôi. Cụ nói: “Tôi dạy đã mấy chục năm trời chưa thấy bọn nào quá quắt như vậy.” Ông hiệu trưởng nổi trận lôi đình, và sau đó toàn lớp bị đuổi cảnh cáo bảy ngày. Không ai chứng nhận nhưng bọn học trò đều đồng ý ngầm rằng cụ quốc văn giống hệt như con khỉ, giống ở cái mặt hóp. Từ đó, từ bữa bị chỉnh, cụ quốc văn không được thấy mình bị phác họa lần nào nữa, nhưng chưa phải đã là hết, chúng còn tìm nhiều cách chọc làm ông già giận phát run và đâm ra ngại mỗi khi bước chân vào cái lớp ấy.

Ra xong hàng chữ viết tập cho lớp Năm, Kiên cầm sách đọc chính tả. Tám đứa lớp Ba cắm cúi viết. Thằng Giác ngồi khuỳnh tay, bẹt chân, bộ tịch dềnh dàng, lấn cả chỗ đứa bạn bên cạnh. Tài huých hông Giác phản đối:
– Ngồi gọn lại chút mậy, giơ cả càng que ra làm sao tao viết.

Thằng Định mắt lấm lét, đang chăm chú viết bất thình lình chồm lên liếc nhanh qua vở Tài. Thấy rõ được cái chữ mình đánh vần mãi không ra, nó lanh lẹ viết lấp vào chỗ trống. Bắt được, Tài chộ:
– Ê, đừng cóp chớ. Tao mét anh Năm bây giờ.

Không đáp, Định cúi đầu sát vở mình, làm như chẳng nghe thấy. Có tiếng động ầm ỳ, tiếng máy nổ thì phải, nghe hơi xa.
Tàu lửa!
Đang viết Châu ngửng lên:
– Tàu lửa hả, đâu?
– Ầm ầm đó.
Con Đan trả lời và nhìn ra sân. Chúng lắng tai nghe. Chợt con Phụ nói, tiếng ồm ồm:
– Hổng phải.
Mấy đứa lớp Ba quay lại, ngơ ngác.
– In như máy bay, hổng phải tàu lửa.

Tiếng động cơ lớn dần và bây giờ đã rõ. Một đoàn phi cơ bay rầm rầm qua, chúng giống nhau, cũng trục lúc và mỗi chiếc mang một cái chong chóng to trên lưng, quay tít. Bọn nhỏ cũng chồm lên nhìn ra sân, Giác tỏ ra hiểu biết:
– Máy bay chong chóng, cứu thương.
Tài phụ họa:
– À, anh hai tao cũng nói, thứ này bay đi cứu thương.
Nó nhỏ giọng, vẻ quan trọng:
– Bữa nay chắc ngoài đó đánh nhau dữ lắm…Đến mười mấy chiếc cứu thương bay ra!
Định nghe, dáng chăm chú. Bỗng nó hỏi:
– Ở ngoài nào có đánh nhau, Tài?
Thằng nhỏ làm ra kẻ lớn, cau mày:
– Thì ở ngoài xa kia chớ đâu, ngoài Bắc ngoài Huế gì đó
Nó chống tay xuống bàn nói thật nhỏ:
– Tụi bay hổng thấy sao, chín mười ngày nay máy bay ra vô đầy trời, mà xe lửa thì…lạ…
Mấy đứa kia chụm đầu lại im thít.
-…Hổm nay thiệt lâu mình chẳng thấy hình dạng đâu cả, phải không? Chắc gãy đường rồi, xe chạy không được.
Mấy cái mồm cùng “À” lên một tiếng.
– Hèn gì- thằng Giác nói- hổm nay mình hổng nghe tàu lửa hú lần nào

Đoàn tàu bay qua đã xa, tiếng ầm ầm vẫn còn nghe rõ. Kiên nâng sách lên đọc tiếp một câu chính tả.

….Buổi học trôi qua bình thường. Lũ học trò ra về, xô lấn nhau, giành nhau đi trước. Kiên ôm chồng sách lên nhà trên. Bé Tình nằm không cựa quậy, mắt nó nhắm, duy có hơi thở thật mạnh, dồn dập. Mẹ Kiên vẫn ngồi, tay bó gối nhìn đứa con, thấy mình bất lực. Dễ chừng từ sáng tới giờ – không, từ hôm qua – bà đã ngồi mãi như thế. Kiên thấy thương mẹ như thương thằng em mang cái định mạng khốn khổ. Kiên ra giếng rửa mặt. Mợ Tần ngoài ngõ đi vào, tay nắm một nhánh cây nhỏ, chắc để dọa những con chó có tính thích dọa những chị đàn bà đi vào nhà lạ mà cầm những cành cây nhỏ, như mợ Tần.
– Có chó không mậy? Mợ Tần hỏi lớn.
– Dạ có!
Mợ đứng khựng lại, ngó xung quanh rất nhanh. Kiên cười xòa:
– Nhưng nó chạy đi chơi đâu mất rồi.
Mợ Tần mừng rỡ đi vô:
– Thằng làm tao hết hồn.
Mợ bước lên thềm:
– Chị Ba!
Tiếng mẹ Kiên hỏi:
– Cái gì. Ai đó?
Mợ Tần cẩn thận dựng cái roi tựa vào tường trước thềm:
– Dạ tôi. Cháu bớt chút nào không chị?
Mẹ Kiên đáp nhỏ, Kiên không nghe thấy, nhưng đoán được:
– Chẳng bớt chút nào mợ ơi, mà nó còn…có mòi nặng thêm.
Rồi có lẽ bà thút thít. Mợ Tần tới sờ trán thằng nhỏ, ngó sững nó và lát sau bước tới ngồi cạnh mẹ Kiên:
– Ừ, cháu thở nặng hơi quá, tôi sợ…

Mợ không nói nữa nhưng mẹ Kiên cũng biết được những tiếng tiếp theo:…”tôi sợ nó không sống nổi!”

Hai người đàn bà đứng dậy bước xuống giường và ngồi bệt dưới nền, đặt khay trầu ở giữa. Không nói gì, mợ Tần bỏ miếng trầu vô miệng, nhai nghe sào sạo. Mẹ Kiên dí viên thuốc lá vào sát hai hàm răng và chà mạnh qua lại.

Kiên xối thêm một gàu nước nữa lên đầu, mát lạnh da thịt. Vuốt tóc ra sau. Kiên chạy vào nhà. Mợ Tần hỏi:
– Con Nhẫn đâu?
Kiên đáp thay mẹ:
– Dạ nó đi chợ.
– Chưa về à? sao tao không gặp?
– Dạ nó bán chuối, làm gạo và vô tận chợ lớn mua cá nữa nên về trễ.
Mợ Tần cười:
– Một công hai ba chuyện, con nhỏ giỏi chớ!

Mẹ Kiên vẫn còn còn đánh răng thuốc. Mợ Tần với lấy ống thiếc nhổ đánh phẹt một búng nước trầu.

Nhẫn gánh gánh gạo nặng bước lên và đặt mạnh trước thềm. Kiên thấy trước:
– Con Nhẫn về.
Mợ Tần chồm lên ngó ra. Nhẫn vứt nón xuống thềm, bỏ cây đòn gánh ngang qua thúng gạo, vuốt lại mấy sợi tóc rồi đi vô, lại giường cúi xuống nghe hơi thở của Tình, xong nó bước ra:
– Ồ ghê quá…
Kiên hỏi:
– Cái gì Nhẫn?
Nhẫn nhìn mẹ, nhìn mợ Tần:
– Anh Lài chết rồi.
Mợ Tần giật nhỏm mình:
– Thằng Lài chết hả, Lài con chị Phó phải không?
– Dạ, anh Lài con thím Phó, ảnh đi lính. Nghe như ảnh chết đã hai ba ngày rồi, bị trúng đạn đầy mình. Người ta liệm xong chở về. Thím Phó khóc quá trời. Người ta giở hòm ra cho thím thấy mặt con lần chót.
Nó nói tiếp, mau mắn:
– Chị Bông cũng có tới. Chị ôm hòm khóc ồ ồ. Người ta coi bà con thăm đông nghẹt.
Mợ Tần chặc lưỡi:
– Thiệt ngán. Ông Canh chưa được chôn đã tới thằng Lài.

Con Bông chưa được cưới đã thành góa.

Kiên ngẩn ngơ, tay nắm cứng cái lược quên cả chải.
– Kiên, mầy thấy không?…
Mợ Tần bỗng gọi to, Kiên giật mình:
– Dạ, cái gì mợ?
Mợ Tần đứng dậy tới chống tay vào cạnh bàn, nhìn mẹ Kiên, quan trọng:
– Tôi nói thiệt mà , làng này đã có cái lệ dễ sợ…lúc nào cũng chết một lượt hai người, không cùng ngày thì cũng chỉ cách nhau một hai bữa. Lần này thì quả cùng ngày.
Mợ nuốt nước miếng đánh trót:
– Bọn thằng Bút, thằng Hưng để ý chuyện này trước hơn ai hết, tôi nghe thấy tụi nó nói và ngẫm lại thì trúng thiệt. Hồi mai tôi đã nói rồi mà, có thằng Kiên đây nghe, nay ông Canh chết thì không lâu sẽ có một người chết theo, trúng quá. Làng này đã có cái lệ…

Mợ nói luôn một hơi, như thích thú trước cái khám phá mới mẻ của mình. Mẹ Kiên ngồi nghe im lặng. Nhẫn kéo vạt áo lau mồ hôi trán:
– Gớm quá hé!

Nó đi ra bưng chồng hai thúng gạo lên nhau, đem đôi gióng đi cất. Mợ Tần đã đi lại ngồi xuống đối diện với mẹ Kiên như lúc nẫy. Đột nhiên như nhớ ra điều gì hay lắm, mợ vỗ cẳng mẹ Kiên một cái mạnh:
– Này, chị Ba!
Mẹ Kiên thót mình:
– Hả?
– Khỏe rồi đó…Chị chẳng khỏi sợ rồi…
Không đợi mẹ Kiên hỏi, mợ tiếp:
– Thằng Lài nó thế cho thằng nhỏ Tình đây rồi đó. Đã đủ cặp, đúng lệ rồi, thằng Tình chắc mạnh.
– À…
Mẹ Kiên “á…á” trong miệng, vì thật ra bà không được tin tưởng lắm:
– Được vậy thì sướng quá.
– Ừ, chắc rồi, nó không chết đâu, mai chiều nó sẽ mạnh, thằng Lài thế cho nó.

Bỗng thấy Tình động đậy, hai người đàn bà nghe tiếng khè khè phát ra thật to, từ cổ họng thằng bé, tay nó quơ mạnh lên. Mẹ Kiên đứng bật dậy. Mợ Tần đứng dậy theo…Thằng bé uốn mình, mắt nó trợn trừng, tiếng khè khè lớn hẳn, Mẹ Kiên ngồi bạch xuống giường và đột ngột khóc rống lên. Kiên chạy vô. Nhẫn ở nhà sau chạy lên.
– Em chết rồi con ơi! Kiên ơi! Nhẫn ơi!…
Bà mẹ ẵm xốc thằng bé dậy, nhưng nó đã xuội lơ.
– Trời!

Mợ Tần kêu lên và đứng ngay ra nhìn.

Kiên đưa tay quẹt nước mắt. Nhẫn ngồi bệt xuống khóc.
– Em chết rồi con ơi! Kiên ơ…ơi!

Lê Văn Thiện

1 23 24 25 26 27 34