Đêm,
Nhớ Trăng Sài Gòn
Sau ba năm lưu lạc nơi xứ người, bài thơ Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn của nhà thơ Du Tử Lê sáng tác năm 1978, mang nỗi buồn xót xa của kẻ mất quê hương, nhớ lại hình ảnh xa xưa với bao kỷ niệm đã in sâu trông tâm khảm. Sau giờ tan sở ca hai ở hãng Rockwell International tại Costa Mesa, lái chiếc xe cà rịch cà tàng trên đường về nhà giữa đêm trăng thanh gió mát cùng nỗi buồn thê lương nơi đất lạ quê người, thay vì buông tiếng thở dài, nhâm nhi dòng suy tưởng trong ý thơ hiện về “theo bánh xe lăn”. Và, Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn.
“đêm về theo vết xe, lăn
tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên, vàng
tìm tôi đèn thắp hai hàng
lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây
ngỡ hồn tu xứ mưa bay
tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
đêm về theo bánh xe, qua
nhớ tôi Xa Lộ; nhớ nhà Hàng Xanh
nhớ em kim chỉ khíu tình
trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
nắng Trương Minh Giảng. lá hè Tự Do
nhớ nghĩa trang: quê bạn bè
nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường
đêm về theo vết xe, lăn
tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?”.
Năm 1979, nhạc sĩ Phạm Đình Chương vượt biển, năm 1981 định cư tại Hoa Kỳ. Tình cờ bắt gặp bài thơ Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn trên trang báo, ông biến ngôn ngữ trong thi ca vào cung bậc và ca khúc mang tựa đề bài thơ trở thành ca khúc tuyệt vời. Khởi đầu với tiếng hát Lệ Thu, trong thời điểm đó, mịt mù xa cách, ngậm ngùi với thân phận, cho hồn quyện vào giai điệu và lời ca. Và, theo dòng thời gian, nơi nắng ấm Cali, tiếng hát Thái Thanh, Quỳnh Giao, Tuấn Ngọc, Ý Lan, Vũ Khanh, Trần Thái Hòa, Lê Hồng Quang… đưa ca khúc vào tâm hồn người thưởng ngoạn trên mọi miền đất nước.
Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ tài hoa phổ thơ, để lại cho đời nhiều tình khúc quen thuộc, bất tử.
Tuyển tập Mộng Dưới Hoa gồm 20 Bài Thơ Phổ Nhạc của Phạm Đình Chương do trưởng nam của ông, ca sĩ Phạm Thành ấn hành tại Hoa Kỳ năm 1985.
Khởi đầu với ca khúc Mộng Dưới Hoa – thơ Đinh Hùng, từ năm 1957. Và, từ đó với Màu Kỷ Niệm – thơ Nguyên Sa, Nửa Hồn Thương Đau, Dạ Tâm Khúc, Bài Ngợi Ca Tình yêu – thơ Thanh Tâm Tuyền, Người Đi Qua Đời Tôi – thơ Trần Dạ Từ, Đôi Mắt Người Sơn Tây – thơ Quang Dũng, Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội – lời Hoàng Anh Tuấn… Với dòng thơ của Thanh Tâm Tuyền, ca khúc Đêm Màu Hồng còn mang tên phòng trà nổi tiếng tại Sài Gòn vào năm 1967, hằng đêm, được mở đầu và kết thúc chương trình. Bóng dáng ca sĩ Hoài Bắc (Phạm Đình Chương) vừa nghệ sĩ, vừa phong trần, trong ánh đèn màu, trong men nồng, cất tiếng hát trầm ấm… thu hút người thưởng ngoạn lạc vào nơi chốn xa xăm.
Cuộc tao ngộ giữa thơ và nhạc với Du Tử Lê và Phạm Đình Chương như định mệnh. Ca khúc đầu tay khi định cư tại Cali với Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn và ca khúc cuối cùng với Quê Hương Là Người Đó cho đến ngày từ trần vào tháng Tám năm 1991. Bài thơ Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn được ấn hành trong Thơ Tình Du Tử Lê là tập thơ đầu tay ở hải ngoại trong năm 1984, và cũng là thi phẩm thứ sáu. Kể từ năm 1957 đến nay, tròn nửa thế kỷ, Du Tử Lê cho ra đời khoảng mười lăm tập thơ. Nhiều bài thơ đã được các nhạc sĩ Anh Bằng, Phạm Duy, Từ Công Phụng, Trần Duy Đức, Phan Ni Tấn, Đăng Khánh, Ngọc Trọng, Hoàng Thanh Tâm, Lê Văn Thành, Phan Nguyên Anh, Hoàng Đình Bình, Nguyên Ngọc… phổ nhạc. Và, nhiều bài viết nói về tác giả, tác phẩm của Du Tử Lê ở hải ngoại vì vậy chỉ đề cập về bài thơ qua dòng nhạc của Phạm Đình Chương.
Năm 1971, Phạm Đình Chương phổ thơ Du Tử Lê với ca khúc Khi Cuộc Tình Đã Chết và đúng 10 năm sau, nhạc sĩ bắt gặp dòng thơ mang cùng tâm trạng với nhau để dệt thành ca khúc. Du Tử Lê cho biết, là nhạc sĩ tài hoa với tài nghệ phổ thơ nhưng bài thơ Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn nằm trên chiếc dương cầm những sáu tháng. Bài thơ theo thể lục bát nên muốn phá thể cái âm điệu đó để chuyển sang giai điệu khác nên “dây dưa” như vậy. Nhà văn Mai Thảo thấy vậy, nói, vất mẹ nó đi, Phạm Đình Chương đáp, biết mẹ gì về âm nhạc mà nói.
Và, sau đó, đứa con được chào đời. Tác giả giữ được hồn và câu thơ cho ca khúc. Chỉ có vài lời được biến đổi để phù hợp với cung bậc. Câu thơ “đêm về theo vết xe, lăn – tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?” chuyển thành “Đời tan, tan nát chiêm bao…”.Câu thơ “nhớ nghĩa trang: quê bạn bè – nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường” được chuyển thành “Nhớ nghĩa trang xưa, quê hương bạn bè…”. Với bài thơ lục bát nầy, có nhạc trong thơ, nhưng nhạc sĩ biến âm điệu thăng hoa, bay bổng theo từng cung bậc để thơ và nhạc “xe tơ kết tóc”.
Nỗi nhớ trong thơ và nhạc của Du Tử Lê và Phạm Đình Chương, có lẽ, trong giây phút nào đó nơi chốn nầy, cũng là tâm trạng của nhiều người. Nắng ấm Cali, đất lành chim đậu… nghe thật dễ thương, quyến rũ như thôi thúc con người ly hương. Hơn một nghìn năm về trước, hình ảnh mà nhà thơ Hạ Tri Chương bày tỏ khi “nắng hạ gặp mưa rào, đất khách gặp người quen” luôn luôn ám ảnh trong lòng mọi người. Với đấng mày râu, hai câu thơ của ông “Mạc mạn sầu cô tửu, nang trung tự hữu tiền” trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Hồi Hương Ngẫu Hứng quá chí lý, tội gì ngồi nhâm nhi đơn chiếc, có chút đỉnh tìm bạn cùng vui, không còn gì bằng vùng đất nầy. Thế rồi, ngày qua ngày, đất lành biến thành dữ, mất tên Sài Gòn rộng lớn ở quê hương, tạo dựng tiểu Sài Gòn nơi đất khách. Và, không biết ai đặt cho hỗn danh “chốn gió tanh mưa máu” nghe mà ớn lạnh.
Ai đã quen với một thời bom đạn, ai đã từng cam chịu cảnh nghiệt ngã tang thương, quằn quại dưới ách thống trị của chế độ độc tài, đảng trị thì dưới bầu trời tự do, sá gì với cái hỗn danh đó mà ngao ngán? Nếu cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày trước có mỉa mai cũng đành cam chịu vì đã “đi một đàng, học một sàng khôn” rồi thì làm người khôn luôn để “ở chốn xao xao” cho khỏi cảm thấy cô đơn trống vắng khi “lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây”, không làm thơ mà làm thinh thì buồn đứt ruột.
Sinh hoạt ở Sài Gòn ồn ào, xô bồ cả ngày lẫn đêm. Ở tiểu Sài Gòn nầy lại khác. Khi màn đêm buông xuống mang theo sinh khí sôi động, náo nhiệt chìm dần vào bóng đêm. Đêm rằm tháng Bảy, cùng Du Tử Lê, Hoàng Sỹ, ngồi nhâm nhi ly cà phê ở Café de Paris trên đại lộ Bolsa, tiểu Sài Gòn. Nhìn vầng trăng tròn, nghe ca khúc Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn, bỗng nhớ lại ngày tiễn biệt nhạc sĩ Phạm Đình Chương về cõi xa xăm cách đây 16 năm.
Ban ngày oi bức, buổi tối trăng thanh gió mát, ngồi dưới mái hiên phì phà điếu thuốc, trò chuyện cùng bằng hữu, nghe nhạc, ngắm trăng, tìm lại hình ảnh xa xưa… Du Tử Lê trầm ngâm như ôn lại hình ảnh ba thập niên về trước. Anh tâm sự, lúc đó, không bao giờ nghĩ sẽ có ngày trong khung cảnh như vậy cùng bằng hữu. Bao nhiêu thay đổi, kẻ mất người còn, còn mang hơi thở, còn sống với kỷ niệm. Và, Sài Gòn hình ảnh của Sài Gòn năm xưa vẫn là Sài Gòn muôn thuở.
Thi phẩm cuối cùng ở trong nước Đời Mãi Ở Phương Đông, hình ảnh Sài Gòn và xa lộ:
“Sầu người kéo bước tôi lui
Ngày trên núi gởi về xuôi mắt rừng”
(Khi Ở Pleiku Nhớ Sài Gòn)
“Ở đây , người có thiên đường
Có ngôi mộ nhỏ, có hồn vấn vương
Có đau đớn khắc trên tường
Có tôi đã gởi thịt xương sang người”
(Khi ở Xa Lộ)
Chỉ vài ngày xa cách Sài Gòn, Du Tử Lê đã gởi niềm thương nhớ và ở xa lộ “có hồn vấn vương” vì vậy khi lưu lạc nên nầy bờ đại dương, mịt mù xa cách, làm sao quên được?
Sau ngày nhạc sĩ Phạm Đình Chương vĩnh viễn ra đi, tập thi phẩm “Đi Với Về, Cũng Một Nghĩa Như Nhau” của Du Tử Lê, bài “Thơ ở phạm đình chương”, như lời tâm sự:
“có dễ chưa một thời đại nào
lại mang nhiều hạt mầm
hoan lạc
và khổ đau
như thời đại chúng ta…
… sách vở chẳng bao giờ tìm được
tung tích đại bàng
cất cánh về hư vô
chói lọi…
… đã thuộc về ngoại sử
sự mất tích của Hoài Bắc.
như dấu chấm hết
nơi cuối những nhạc phẩm Phạm Đình Chương
một ngày trong tháng tám”.
Với, Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn. Với, mối lương duyên giữa thơ và nhạc, người về cõi mây trời, người còn lại nơi dương thế, và, một ngày nào đó chỉ còn lại hồn thơ nét nhạc lưu lại trần gian. Tròn nửa thế kỷ, từ những bài thơ đầu đời như Thú Tội năm 1957 đến nay Du Tử Lê đã sáng tác trên một nghìn bài thơ, và Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn được in lại trong tuyển tập Thơ Du Tử Lê toàn tập 2 (1975-1993), tác phẩm 46, đánh dấu 50 năm sáng tác thi ca của anh.
Mười hai thế kỷ về trước, bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt Tĩnh Dạ Tư của Lý Bạch đã để lại hậu thế hai câu thơ trác tuyệt:
“Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương”
Trăng và cố hương trong thơ Du Tử Lê và dòng nhạc của Phạm Đình Chương cùng nỗi niềm và tâm trạng của người xưa có lẽ gắn liền với “giai đoạn lịch sử” của đất nước.
Phan Xuân Sinh,
Đứng Dưới Trời Đổ Nát
“Le moi est haisable”. Hơn ba trăm năm về trước, Blaise Pascal (1623 – 1662) để lại cho đời câu nói “cái ta – thì, là, thật – đáng ghét”. Albert Camus (1913 – 1960) đã lặp lại lời đó và được đề cập rất nhiều trong thời hiện đại. Paul Valéry (1871 – 1945) cho rằng cái ta đáng ghét nhưng đó là cái ta của người khác. Ba khuôn mặt lẫy lừng trong văn học Pháp cùng nhận định khe khắt về cái ta, không biết trước Pascal, có danh nhân nào đã nói câu đó nhưng sau Camus thì bắt gặp rất nhiều, đôi khi bị lạm dụng thái quá, có phần phiến diện?.
Nhìn lại thi ca Việt Nam, cái ta trong ngôn ngữ thi ca thể hiện qua ca dao rất nhiều, điển hình về cái ta với hình ảnh “ta tắm ao ta”, cái ta đó, chan chứa tình người, gói trọn tâm tư tình cảm cho nhau với quê hương, đất nước. Lãng mạn, trữ tình trong tình yêu như: “Mình ơi, có nhớ ta chăng? Ta như sao Vượt, chờ trăng giữa trời” để tỏ bày tâm sự, nỗi niềm nhớ thương như thông điệp tình yêu được dàn trải tự nghìn xưa cho đến mai sau.
Vào thế kỷ XV, Bạch Vân Cư Sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) với vần thơ trác tuyệt về cái ta trong bài thơ Thú Thôn Ở, cái ta trong Tự Thuật của tiên sinh vào tuổi bát thập được truyền tụng qua bao niên kỷ. Trên thi đàn Việt Nam, rạng rỡ với cái ta trong thơ Tản Đà, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Quang Dũng, Thâm Tâm… của thời tiền chiến, Tô Thùy Yên, Nguyễn Bắc Sơn… tuyệt vời, thân thương và làm sao nhẫn tâm ghét bỏ.
Mùa Hè năm 2000, thi phẩm Đứng Dưới Trời Đổ Nát của Phan Xuân Sinh, tạp chí Văn xuất bản, được góp mặt trong dòng văn học lưu vong. Với Phan Xuân Sinh, vào đầu thập niên 60, tôi đã cảm mến đôi bài thơ của anh trong tuổi học trò. Trải dài những bốn thập niên, đợi vào thời điểm thiên niên kỷ mới, chào đời tập thơ.
Đứng Dưới Trời Đổ Nát gồm năm mươi bài thơ được tuyển chọn, trong đó có bốn mươi sáu bài với bóng dáng cái ta. Cái ta trong thơ Phan Xuân Sinh được trang trải trong tình yêu, bằng hữu, cái ta với rượu, cái ta của người lính trận trong cơn binh lửa, cái ta trong thân phận kẻ chiến bại lưu lạc phương xa… nó tàng ẩn, bàng bạc, thoáng hiện trong cuộc sống giữa thế nhân, mang nặng tình người, gắn bó với hệ lụy cuộc đời và bi kịch thời đại.
Ta, Tuổi Trẻ, Tình Yêu
Sinh trưởng và lớn lên ở Đà Nẵng, mang tâm hồn lãng mạn ngay từ thuở học trò, Phan Xuân Sinh đã si tình bóng hình thục nữ đất thần kinh:
“ta chết điếng một thời, em Thượng Tứ
bởi nụ cười, môi mỏng gái thâm cung”
(chút tình cho Huế)
“em đỏng đảnh treo mảnh tình trên giá
ta ngước nhìn thèm ứa máu chạy quanh”
(vài đoạn tứ tuyệt… mùi hương)
Ngày xưa, Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương ghi lại thiên ký sự cô gái đi chùa, gặp một văn nhân, tâm hồn say đắm “Em cầu xin Trời Phật. Sao cho em lấy chàng”. Ngày nay, tuy ngoại đạo nhưng mãnh lực tình yêu đã đưa đẩy chàng trai:
“ta tắm gội ăn chay nằm đất
cũng chắp tay khấn vái tứ phương…
… ta cũng có đôi ba ngày tịnh khẩu
bởi vì em tụng mãi những tràng kinh”
(theo em lên chùa)
Và, thổ lộ tâm trạng của kẻ si tình, có lẽ đó cũng là tâm trạng của hầu hết chàng trai khi vương vấn trong cuộc tình bàng bạc qua dòng thơ:
“ta bâng khuâng đứng bên đường
xa em còn chút vấn vương bên lòng”
(mờ phai)
“hai tay đưa chén ngang mày
mời em cạn chút rượu nầy cùng ta
ngồi đây, ta trải chiếu hoa
đặt đôi gối gấm để mà tựa lưng”
(mời em uống rượu)
Theo dòng thời gian, Phan Xuân Sinh vấp phải nỗi đau thương, khổ lụy để rồi bày tỏ qua dòng thơ đầy ngậm ngùi, xúc động:
“mới hay đâu dễ gì quên được
em một thời dậy sóng đời ta
là để lại lưỡi dao oan nghiệt
cứa nát ta bằng êm ái mượt mà”
(cho người tình phụ)
“gặp nhau chi giữa con đường
nên lời ta đượm hàng hàng cách ngăn
em về chia nửa vầng trăng
khóc giùm ta giữa gối chăn bạc tình”
(gặp người xưa giữa phố Boston)
Bao nhiêu năm lang bạt kỳ hồ, bao năm đeo đuổi theo bóng hình với thú đau thương. Trở về với thực tại, trở về tình yêu đích thực, kẽ tình si đành tạ lỗi vời người bạn đời:
“một đời em tối ngày tất bật
nên yêu em ta gác chuyện ăn chơi
ngựa hoang đàng là ngựa quen đường cũ
ta hoang đàng ta chỉ biết hầm hơi…
… ta chết lặng, trách mình lầm lỡ
tạ lỗi cùng em. Em thiệt dễ thương”
(ta lỗi với vợ hiền)
“em vì ta lao mình cứu rỗi
trải lòng ra, phơi giữa đất trời…
… ta gượng dậy qua cơn bạo bịnh
đời có em. Ta thật bình yên”
(sớm chiều lặn lội)
Ta, Bằng Hữu, Lưu Linh
Lớn lên trong thời chiến, Phan Xuân Sinh cũng phải “Xếp bút nghiên theo nghiệp kiếm cung” như hầu hết bằng hữu của anh trong thời chiến. Và, một thời, chàng trai lãng mạn trong tình yêu và thơ văn, nổi tiếng Sĩ quan trẻ gan lì của Đại đội Trinh sát thuộc Trung đoàn 51 Biệt Lập ở Quảng Nam.
“ta bao năm lửa hờn tàn rụi
chuyện đao binh như giấc chiêm bao
gặp lại bạn, lòng ta quay quắt
chuyện xa xưa như mới thuở nào”
(gặp lại bạn ta)
Đơn vị anh nhiều lần xung trận, và anh đã nhiếu lần ngã xuống trên quê hương với nhiều chiến tích. Trong hoàn cảnh đó, niềm vui còn lại trong anh với rượu và bằng hữu.
“quanh ta, bạn bè đâu chết tiệt
chỉ thấy toàn một lũ hám danh…
… bạn hiền ta, cùng nhau nâng chén
giũ sạch bên ngoài chút hư danh”
(nói chuyện với những bạn hiền)
“ta uống cùng ta thêm cốc nữa
lừ đừ ta cất giọng say say…
… ta muốn quên đi đời hệ lụy
nhủ với lòng ta cố gắng cười”
(lu rượu đầu xuân)
“chếnh choáng vài ly quên ráo trọi
ngủ vùi khi thiên hạ ngả nghiêng”
(trong cơn say)
“đêm nay, ta muốn say cùng bạn
chuyện bên ngoài, vất lại đằng sau”
(chén rượu, tạ lòng bạn hiền)
Năm 1990, Phan Xuân Sinh được định cư tại Hoa Kỳ, vẫn như thuở nào, trọn đời anh sống với bạn bè dù cuộc sống xứ người bị xô đẩy bởi nhu cầu cuộc sống.
“gặp lại bạn, lòng ta quay quắt
chuyện xa xưa như mới thuở nào”
(gặp lại bạn ta)
“chén ruoụ đựng chút tình thân cũ
ta thấy đời đang dậy mùi hương
nhìn nhau hai đứa đâu còn trẻ
mái đầu điểm bạc chút phong sương”
(uống rượu với bạn cũ bên bờ vịnh Half Moon bay)
Đời nhà Tấn ở Trung Hoa, Lưu Linh tự Nguyễn Lãng ở Trúc Lâm suốt đời sống phóng đãng với rượu và bằøng hữu,, tiên sinh nổi danh với bài Tửu Đức Tụng, được lưu truyền qua bao thế kỷ. Người đời mến chuộng tiên sinh nên khi thả hồn trong rượu, muốn làm đệ tử người xưa. Thuở còn đi học, Phan Xuân Sinh rất mê bài Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác vào thời tiền chiến. Và, hình như nó đã lôi cuốn cả tâm hồn yêu thơ, con người PSX nhập cuộc qua mấy thập niên.
Ta, Chiến Chinh, Đời Lính
Đã từ lâu, trong lần gặp anh, Phan Xuân Sinh tâm sự: Trong chiến cuộc khủng khiếp đó luôn luôn đe dọa và ám ảnh cuộc sống, đôi khi men rượu như ngọn lửa hâm nóng bầu nhiệt huyết, đôi lúc hòa nhập cùng đồng đội trong thời điểm tử sinh, phó mặc tuổi trẻ với chiến chinh. Vì vậy, dòng thơ của anh thể hiện cuộc sống bạt mạng của người lính trận:
“dừng quân ta cũng thường ngồi nhậu
rượu đế vài ly cũng sụt sùi…
… thì thôi, ta uống cho say đã
một chút danh rồi cũng tiêu ma”
(nhớ ngày ra quân)
“ta vẫn nằm. Trên đồi gió thổi
chim hót ban ngày, pháo dội ban đêm
em cứ chạy theo từng mốt mới
còn ta, uống rượu để tìm quên”
(nghe chim hót trên đồi 55)
“cái thuở ta làm tên lính trận
ôm ba lô ngồi mơ mộng một mình…
…ta mang vết thương làm người si dại
những tình thư ta viết thật điên cuồng”
(dấu xưa)
“thôi hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
bầy làm chi trò chơi xương máu
để đôi bên nuôi mầm mống hận thù”
(uống rượu với người lính bắc phương)
Ta Với Tiền Nhân
Nghĩ lại thân phận tuổi trẻ trong hoàn cảnh đất nước đắm chìm trong hận thù và lửa đạn. Anh lại nghĩ về hình ảnh người xưa. Lâm Chương cho rằng, nói với người xưa là cái cớ để anh tỏ rõ cái uất của mình.
“đêm nay nằm, ta lại nhớ tới ngài
gối lên nỗi đau của người thất thế”
(đêm nằm nhớ Ức Trai)
Ức Trai là bút hiệu của Nguyễn Trãi vào thế kỷ XV, thời Hậu Lê, tiên sinh là bậc khai quốc công thần đã cùng với anh hùng đất Lam Sơn Lê Lợi, suốt mười năm nằm gai nếm mật để kháng quân Minh, khôi phục lại sơn hà xã tắc. Trong đỉnh vinh quang của danh vọng, tai ương tại vườn Lệ Chi đem lại thảm thương cho tiên sinh và dòng họ bị tru di tam tộc!.
“ta bạc đầu sao chẳng ra chi
ngài bạc đầu làm nên việc lớn…
… người với ta cùng quê người đất lạ
ta hư cả đời ngài đã thành danh”
(hầu chuyện cùng Ngũ Tử Tư)
Vào thời Chiến Quốc, Sở Bình Vương giết thân phụ và anh của Ngũ Tử Tư nên Ngũ Tử Tư tìm cách trốn ra khòi nước Sở để mong ngày phục hận. Trên đường đến cửa ải Chiêu Quan, quân Sở canh phòng cẩn mật, trong một đêm tìm cách vượt biên giới, tóc bạc phơ. Đông Cao Công cảm kích tìm phương kế trốn thoát, sang nước Ngô, phò Hạp Lư, thôn tính nước Sở. Sau, Phù Sai lên ngôi vua, Câu Tiễn dùng mỹ nhân kế Tây Thi, Ngũ Tử Tư can ngăn, Phù Sai nổi giận chém đầu.
Thời Tam Quốc, Tào Tháo bỏ chạy và sau đó lập nên nghiệp dĩ. tào Tháo, Tôn Quyền vàn Lưu Bị trang giành quyền lực, chia trung Hoa ra làm ba. Người đời cho Tào Tháo là kẻ gian hùng nhưng PXS lại có cái nhìn ngược lại, đem lòng ngưỡi mộ:
“ta kẻ hậu sinh, giở lại pho sách cũ
mà khen ông đúng là bậc tài hoa
ta vỗ án thư thét lên khàn cổ
phải giải oan nầy mới thỏa được lòng ta”
(giải oan cho Tào Tháo)
Ta, Đất Nước, Tình Người
Trần Hoài Thư cho rằng thơ Phan Xuân Sinh ngậm ngùi như một dòng sông cũ mang theo những nỗi buồn của lịch sử và thân phận. Vâng, thời trai trẻ, PXS đã theo tiếng gọi của núi sông, gán bó với quê hương, đất nước vì vậy hình ảnh ấy vẫn canh cánh bên lòng. PXS mang trong lòng niềm đau trên đất khách:
“ta khách lạ lạc xứ người
manh hồn phương đông, văn vật”
(Chào New Orleans)
“ta một mình cuối bãi
lơ láo, kẻ cùng đường…
đứng giữa triền vực thẳm
ta thành đứa khùng điên”
(giữa đất trời, vật vã)
“đứng giữa lòng phố thị
ta làm tên thất thời…
,,, ta gian truân thấm mệt
khoanh tay nhìn tình trôi”
(bên kia nỗi nhớ)
Có lẽ, tâm trạng của PXS cũng là tâm trạng chung của nhiều người đã một thời sinh tử, gắn bó với quê hương. Ở đó, với bao hệ lụy, kỷ niệm buồn vui đã in đậm trong tâm tưởng.
“đứng bên bờ ta thử làm tráng sĩ
cứ nhìn theo người bước qua sông…
… ta chỉ biết ngó về sông nước cũ
tình đã sang cổ lụy mấy ai ghi”
(muộn màng)
“có một cái gì xôn xao rất lạ
để hồn ta bay theo lá vu vơ”
(lời tỏ bày cùng quê nhà)
“những tiếng kêu như xé nát lòng ta
thốn tận tim gan như lời trách móc
ta nghe như tiếng ai đang khóc
đầu ta dău như ai bửa làm đôi”
(quê nhà lũ lụt)
Qua bao năm xa cách, trở về cố hương, trở về nơi chôn rau cắt rốn, PXS vẫn như thuở nào với cảnh cũ người xưa.
“bao năm ta trở về chốn cũ
ngồi bên sông chờ chuyến đò qua
cây với ta một màu ủ rủ
người có hay ta lệ nhạt nhòa”
(bên sông nhớ người)
“ta cùng nhau uống giếng nầy
hình như giếng cũng mang đầy nhớ thương”
(bài lục bát cho Đà Nẵng)
“ta thèm chiếc xe trâu, thủng thẳng
trên đường làng ngất ngưởng chiều về”
(người lữ hành, lỡ chuyến tàu năm hai nghìn).
Kết
Qua năm mươi bài thơ được chọn lọc trong bốn thập niên với thi phẩm Đứng Dưới Trời Đổ Nát, cái Ta của Phan Xuân Sinh là nỗi niềm, tâm sự, khắc khoải, yêu thương… và hoài niệm trong tình bạn, tình yêu, quê hương.
Phan Xuân Sinh làm thơ vào đầu thập niên 60. Bài thơ đầu tiên Chiều Công Viên xuất hiện trên tuần báo Nắng Mới vào năm 1962. Và, trong năm đó anh được giải thưởng về thơ do Ty Thông tin Đà Nẵng tổ chức. Anh có vài bút hiệu, và cuối cùng trở về với tên tuổi bản thân.
Là bằng hữu, đọc lại từng bài thơ của anh, bao nhiêu kỷ niệm hiện về. Với thơ, với rượu, với bằng hữu, tha nhân… được dàn trải trong ngôn ngữ thi ca rất thật và sinh động.
Nếu có lần nào, ngồi bên Phan Xuân Sinh, uống rượu, nghe âm điệu trầm khuất qua giọng ngâm của anh, nhỡ có say cũng “cạn chén hồ trường”.
Cung Tích Biền
Giữa Hai Lằn Đạn
Nhân dịp Hội ngộ Liên Trường Quảng Nam – Ðà Nẵng vào đầu tháng 9 năm 2007 vừa qua tại Little Saigon, gặp lại bạn bè, nói chuyện thơ văn quê nhà, có đề cập đến nhà văn Cung Tích Biền. Cuộc phỏng vấn của Lý Ðợi được phổ biến trên trang web Talawas vào tháng 2 năm 2007, những điều Cung Tích Biền bộc bạch nói lên những điều uất khuất và rõ ràng, giải tỏa được phần nào những điều ngộ nhận trước kia và có sự cảm thông hoàn cảnh trớ trêu của anh. Tôi nói, trong giai đoạn đổi cả chế độ, đổi đời, hỗn mang… nhiều người cùng cảnh ngộ nghiệt ngã và cũng có trường hợp như nhà văn “cùng tất biến” nhưng cần nhận chân đâu là sự thật. Trong giới văn nghệ và báo chí, có bạn có thù, kẻ ưa người ghét, những gì nghe qua trong bàn trà, cuộc rượu, có vẻ mù mờ “tam sao thất bổn” không thể vin vào để viết, phê phán. Ðôi khi có những lời bàn tán mà người trong cuộc không biết gì cả, khi biết được thì chưng hửng và không biết phát xuất từ đâu! Dư luận cũng là con dao hai lưỡi và xác tín phải trải qua thời gian.
Cách đây vài năm, tôi đọc bài viết trên nhật báo Người Việt ở Little Saigon về nhóm Mở Miệng, gồm các người bạn trẻ Lý Ðợi, Khúc Duy, Nguyễn Quán, Bùi Chát. Lý Ðợi thực hiện tập thơ Bảy Biến Tấu Con Nhện, được thực hiện theo kiểu phong thư, bì thư là bìa, ruột thư là những bài thơ, chỉ photocopy với số lượng 100 bản nhưng bị tịch thu và thiêu hủy vào đầu năm 2004. Ở trong nước, mọi việc in ấn để phổ biến đều bị kiểm duyệt, không có phương tiện truyền thông trong tay, các bạn trẻ có vẻ lập dị để gây sự chú ý nhưng cũng nói lên cái gì đó sự đột phá của giới trẻ. Trong ngành truyền thông hiện nay, có thêm hệ thống internet tạo được cơ hội thuận tiện cho bất cứ cá nhân ở xã hội nào bị trói buộc, bày tỏ ý nghĩ, ngòi bút của mình. Sau đó, đọc vài bài viết của Lý Ðợi trên trang web Talawas và Da Màu, có thêm cây bút trẻ người cùng xứ nên để ý. Bài viết Ngày Xưa Vũ Hạnh của Lý Ðợi, tuy ngắn nhưng nói lên thái độ bất bình của giới trẻ với Vũ Hạnh “vu cho cái tội đồi trụy, phản động, và nên cho vào tù” khi bốn tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu được Công ty Phương Nam ấn hành trong nước. Dương Nghiễm Mậu bị Vũ Hạnh và Mai Quốc Liên của tờ Văn Nghệ đem ra đấu trường tố cáo.
Về trường hợp nhà văn Vũ Hạnh, tôi đã đề cập qua bài viết Vũ Hạnh, Kẻ Hoạt Ðầu Văn Hóa, đăng tải trên tờ Saigon Times ở Los Angeles, số ra ngày 27 tháng 12 năm 1991 và các tờ báo ở hải ngoại. Mong người bạn trẻ Lý Ðợi đọc hết những bài viết của nhà văn “chụp mũ” Vũ Hạnh sau nầy để viết tiếp. Xin trích vài dòng trong bài viết của tôi về Vũ Hạnh:
“…có một lần, vào năm 1988, bài thơ của Trần Vàng Sao đăng trên tạp chí Sông Hương đã dùng từ “chí sĩ”. Vũ Hạnh viết bài đả kích, chụp mũ nhà thơ trên báo Tuổi Trẻ và Công An, từ “chí sĩ” ám chỉ Ngô Ðình Diệm. Tác giả và BBT Sông Hương bị kiểm điểm, đính chính! Lẽ nào ông không đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí và hình ảnh Ngô Thời Nhậm (Ngô Thời Sĩ)?”
(Việt Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức, Hà Nội 1931, định nghĩa chí sĩ là người có tiết tháo và trích dẫn hai câu trong phú chiến Tây hồ:” Gánh quân thân ai đã mỏi vai rồi. Kẻ chí sĩ làm thinh đi chẳng dứt”).
Với nhà văn Cung Tích Biền, qua bao năm im lặng, không hiểu vì lý do nào lại trả lời khá dài và đầy đủ chi tiết cuộc phỏng vấn với người bạn trẻ mới bước chân trong làng văn, nghề báo, không đại diện cho cơ quan truyền thông nào. Tôi đoán, với một người giàu kinh nghiệm và hiểu biết, có lẽ Cung Tích Biền phát hiện với “người phỏng vấn” có điểm gì đó mới “mở miệng”.
Qua cuộc phỏng vấn, cuộc đời Cung Tích Biền, nhà văn nổi tiếng ở thập niên 60, 70 ở miền Nam VN, với nhiều chi tiết mà trước đây có vài bài viết về tác giả chưa đề cập đến. Bài phỏng vấn chỉ được phổ biến trên trang web Talawas. Và, đây là cuộc phỏng vấn lâu nhất vì theo Lý Ðợi
“…lần đầu tiên tôi đề nghị thực hiện phỏng vấn trực tiếp nhà văn Cung Tích Biền là ngày 28-11-2003, nhưng do một vài lý do khách và chủ quan, lần đó bất thành. Lần thứ hai, tôi đề nghị và được ông đồng ý để thực hiện trực tiếp là ngày 28-10-2006 và bài phỏng vấn này sơ kết câu hỏi cuối cùng vào ngày 22-01-2007, hoàn tất ngày 28-01-2007.”
Tuy không gần gũi với nhà văn Cung Tích Biền qua năm tháng nhưng đồng hương với nhau, khi đọc bài phỏng vấn của Lý Ðợi, tôi cũng có ý định tìm hiểu thêm qua vài nhân chứng để viết vì nhân cách nhà văn sống còn với tác phẩm. Gần tuổi thất thập, nhìn lại bản thân, Cung Tích Biền tự khiển trách mình khi đối diện với thực tế và bẽ bàng trước chế độ mà thời trai trẻ tường rằng hay ho mà tâm sự được gởi gấm qua vài bài thơ của anh khi còn sinh viên ở Huế. Nói như O Wilde “Khi ta tự khiển trách thì dường như không còn ai khác có quyền khiển trách”, vì vậy, tôi ghi lại những gì biết được còn sự thật, trắng đen… minh định với thời gian. Bài viết không có tính cách nhận định về tác giả và tác phẩm (sẽ đề cập sau) mà thu tóm những điều nhà văn Cung Tích Biền “mở miệng” phối hợp với ý kiến các thân hữu thân quen với anh và tôi.
*
Cách đây gần nửa thế kỷ, nhân dịp Lễ Vu Lan, anh Cung Tích Biền và chị tôi cùng các huynh trưởng trong Gia Ðình Phật Tử tổ chức sinh hoạt văn nghệ. Hình ảnh vũ khúc Lên Chùa Dâng Hoa do anh sáng tác rất tuyệt vời, phần đầu với ca khúc Lên Chùa Dâng Hoa, phiên khúc anh lồng vào dòng nhạc mở đầu ca khúc bán cổ điển Sérénata của Enrico Toselli. Anh đàn mandoline rất hay, tôi mê vũ khúc và tiếng đàn; từ đó, chị tôi khuyến khích cố gắng tập luyện sẽ trở thành Trần Ngọc Thao thứ hai. Anh và tôi, cùng họ và chữ lót, cùng quê (Thăng Bình, quê ngoại của tôi) vì vậy, sau nầy, nhiều người hỏi tôi có họ hàng gì với Cung Tích Biền. Anh là huynh trưởng, bạn của người chị thứ sáu tôi, không họ hàng gì cả, và, tôi được biết anh trong sinh hoạt Gia Ðình Phật Tử từ đó,
Quen thân với Phan Nhự Thức khi tôi theo học Khóa I Nguyễn Trãi của Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt vào cuối năm 1966. Vì quân trường còn trong thời kỳ phôi thai nên phải gởi theo học giai đoạn I cùng với Khóa 24 của Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Lúc đó, Khối Chiến Tranh Chính Trị vừa thành lập ban biên tập SVSQ Khóa 23 và 24 cho tờ nguyệt san Thủ Ðức có Nguyên Sa, Lưu Trung Khảo, LS Trần Sơn Hà, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Chu Tân, Cao Thoại Châu, Lâm Chương, Phan Nhự Thức… và tôi. Thân tình Phan Nhự Thức từ đó, sau nầy có nhiều kỷ niệm gắn bó với nhau, Phan Nhự Thức cho biết rất thích hai cây bút của quê tôi là Vũ Hạnh và Cung Tích Biền vừa được nổi tiếng, nhưng tiếc rằng Vũ Hạnh đi theo con đường khuynh tả. Tôi nói, cả hai người là bạn với mấy người chị của tôi và cũng có óc địa phương nên sáng tác nào cũng đọc hết, và tôi cũng đồng quan điểm đó.
Sau thời gian lao tù và quản chế, năm 1987, từ Ðà Lạt về Sài Gòn, nghe tin Phan Nhự Thức còn sống lang bạt đâu đó nên đi tìm. Ðược tin anh Cung Tích Biền đang bán tranh sơn mài ở kiosque 28 trên đường Nguyễn Huệ, ghé thăm và gặp Phan Nhự Thức. Phan Nhự Thức cho hay, sau khi ra tù, chui về Sài Gòn, sống vất vưởng, nhờ Cung Tích Biền đưa vào làm ở hãng nước đá của người thân có mối quan hệ với chính quyền nên ăn ngủ tại chỗ, tránh được sự truy lùng thành phần sống chui, không hộ khẩu.
Bạn bè cho biết, Cung Tích Biền là Ðại úy trong Quân Lực VNCH nhưng không bị đi tù như anh em còn được tự do làm ăn, thành phần bên kia chiến tuyến… không nên giao thiệp. Câu đầu tiên tôi hỏi, có ám hại, phản phé ai không? Khi nghe trả lời không, tôi nghĩ rằng anh dựa “lá bùa” để yên thân khi thời cuộc thay đổi, ít ra, còn giữ được lương tri của con người. Theo Phan Nhự Thức, gia đình Cung Tích Biền bị phân đôi, có hai người tập kết, hai người là sĩ quan trong Quân Lực VNCH. Người anh tập kết, chết năm 1969 và thêm người anh, sĩ quan cấp tá Quân Lực VNCH, chết trong trại tù năm 1978, cả hai không tìm được xác. Và, bút hiệu Cung Tích Biền là tên ghép của các anh chị. Có lẽ Cung Tích Biền đã giải ngũ năm 1973 nên sau năm 1975, biết “lăng ba vi bộ”, có ô dù thân nhân tập kết và vài người bạn cùng quê như Huỳnh Bá Thành, Cung Văn Nguyễn Vạn Hồng… nên biết cách tránh né, mong an toàn mạng sống nhưng rồi cũng tan nát như chúng ta. Sau ngày 30 tháng Tư, cũng có vài sĩ quan trong văn giới mang bảng đỏ nhưng rồi bị thất sủng, vào tù, nay được định cư tại Hoa Kỳ.
Với bản thân Phan Nhự Thức, Cung Tích Biền là người bạn tốt, chân tình, trầm lặng, chấp nhận mọi thị phi để sống với vợ con. Sau đó, đôi ba lần, tôi ghé lại kiosque của anh, tán gẫu với nhau, tôi hỏi chuyện viết lách, anh cho biết, thỉnh thoảng viết lai rai, vì buôn bán tranh ở Pháp nên được vài tạp chí để đọc cho khuây khỏa. Qua ý kiển giữa bạn bè và tâm sự của Phan Nhự Thức, xa cách quá lâu và coi anh với hình ảnh huynh trưởng ngày xưa nên rất tế nhị khi giao tiếp; vả lại, mỗi người một hoàn cảnh, điều quan trọng đối với tôi, có bán rẻ nhân cách, xu thời, đạp lên mạng sống anh em?
Năm 1990, trước khi đi diện HO sang Hoa Kỳ, nhờ Trần Thanh Ngọc (khóa II ÐH.CTCT) đèo Huy Tưởng và tôi ghé thăm căn nhà tranh nho nhỏ của Phan Nhự Thức ở nơi xó xỉnh cuối phi trường Tân Sơn Nhất, xa Sài Gòn, làm nơi tá túc sau khi lập lại cuộc tình, bạn bè giúp đỡ tận tình, trong đó có Cung Tích Biền.
*
Qua những điểm chính về tiểu sử trong bài phỏng vấn Ðành Lòng Sống Trong Phòng Ðợi Của Lịch Sử do Lý Ðợi thực hiện với nhà văn Cung Tích Biền, trong đó có vài đoạn tóm lược trích dẫn.
Tên thật Trần Ngọc Thao, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1938 tại Thăng Bình, Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống chữ nghĩa thơ phú. Năm 12 tuổi đã theo các anh các chị đi diễn kịch, đàn ca ở miền quê trong tỉnh. Năm 1954 ở lại quê nhà, anh em bà con ruột thịt, bạn bè, tập kết ra Bắc. Năm 18 tuổi, bị bắt ra nhà lao Hà Lam, quận Thăng Bình tra khảo. Bị ăn đòn bằng những khúc tre tươi, vỡ đầu, suýt bị phèo óc, bị đánh, khi khúc tre nát ra tua tủa như tăm xỉa răng, lại thay khúc khác. Rất may, vì mới tép riu, chỉ là ở trong vùng kháng chiến, chưa phải thành phần Cộng Sản nguy hiểm cần treo ngược lên xà nhà, tra điện, hay bó rọ thả sông.
Hồi còn học trung học đã tập tễnh làm thơ viết truyện ngắn. Năm 1958, được một giải thưởng truyện ngắn toàn Quảng Nam. Lúc học tại Huế, được một giải thơ của trường Quốc Học. Theo học Ðại học Văn Khoa ở Huế, đầu thập niên 60, một thời gian, phụ trách một chương trình thơ cho đài phát thanh Huế. Chương trình mang tên Con Tàu Thi Ca. Ngoài các chương trình thông thường, thực hiện ba chương trình liền nhau những nhà thơ tiền chiến đang sống dưới chế độ Hà Nội. Ðài cúp ngay cái đám miệng còn hôi sữa. Thế là chết yểu. Năm 1963, dạy học tại Ðiện Bàn Quảng Nam (lúc này anh còn gần gũi một số bạn thân mà một phần lớn trong số đó sau này đã ra khu MTGPMN) thì bị động viên vào Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Ra trường, bị chính quyền Nguyễn Khánh có văn bản cưỡng bách cư trú tại miền Tây (Cần Thơ), không được về Trung, thời gian bốn năm. Năm 1967, thân mẫu qua đời, không về chôn cất. Mỗi tuần, phải trình diện An Ninh Quân Ðội Vùng 4 chiến thuật một lần vào ngày Chủ Nhật. Thấy Cần Thơ cũng chốn phồn hoa, An Ninh Quân Ðội đẩy đi xa hơn, được lệnh về Bạc Liêu. “Miền Nam Cộng Hòa có cái hay, nghi ngờ một sĩ quan động viên có liên hệ với Cộng Sản, tham gia phong trào sinh viên đấu tranh chống Ngô Ðình Diệm, từng sống trong vùng kháng chiến chín năm, có anh em ruột thịt tập kết ra Bắc, có liên hệ với bạn bè khá đông, rất thân quen, hiện đã ra khu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, vậy mà cứ cho lên lon, thăng chức bình thường như mọi sĩ quan khác”.
Tháng 11 năm 1965, sáng tác truyện ngắn Ngoại Ô, Dĩ An Và Linh Hồn Tôi khi phục vụ tại Sư đoàn 21 Bộ Binh, lưu lạc tận Bạc Liêu., Sư đoàn 21 Bộ Binh. Tháng 3 năm 1966 truyện đăng trên tuần báo Nghệ thuật, lần đầu tiên, ký bút hiệu Cung Tích Biền. Bút hiệu nầy giữ mãi tới ngày hôm nay.
Từ 1968 đến 1973, mang lon Ðại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trú đóng ở tiền đồn, Ðức Hòa Hậu Nghĩa, năm 1970 về căn cứ Trảng Lớn, Tây Ninh. Năm 1973 giải ngũ, cư ngụ tại Sài Gòn.
Sau tháng Tư năm 1975, đi học tập cải tạo thời gian ngắn, cùng tổ với Mai Bá Trác và Nguyễn Quốc Chính. “Mất nhà cửa vì bị tịch thu, (duyên cớ là ở nhờ nhà chị vợ, chị đi Mỹ, nhân thể tịch thu, người ta hốt ráo bất luận của ai ra ai). Nghèo khó ra đi, vợ ra tới cửa nhào vô lấy cái nôi của đứa con thơ, bị cậu quận đội Tân Bình ngăn lại không cho. Con cái ra nằm trần trên nền đất lề đường. Sau, ở nhờ nhà thi sĩ Ðoàn Minh Hải…”. Chị Mai, hiền thê của anh nhỏ hơn 15 tuổi. Người Quảng Trị. Bên nội họ Hoàng. Bên ngoại Lê. Hồi trung học, học trường Ðồng Khánh, Huế. Vào Sài Gòn, ở nhờ nhà người cậu ruột là luật sư Lê Nguyên Phu, học trường Văn khoa, tốt nghiệp cử nhân Triết Tây. Có viết một số truyện ngắn đăng trên vài tập san văn chương, bút hiệu Hoàng Thị Kim. Lấy chồng, sinh con, bỏ viết. Trong khi đó “Cả một đời, vợ con tôi chưa hề mua được một vật dụng gì cho ra hồn, từ tiền nhuận bút của tôi”.
Ðã năm năm nay, chị ăn chay trường, với anh là hình ảnh người mẹ, người chị vì cam chịu và lo lắng cho chồng con. “Sớm mai thường trực tụng kinh. Chiều chiều đi chùa. Tối thường cúng kiếng trước cổng nhà, vãi gạo muối bánh kẹo ra đường”. Ðó là mái ấm
Cũng như hằng triệu người miền Nam thất sủng, đói khát bươn chải đủ thứ nghề, chạy xe ba gác, xe ôm chỗ Ngã Ba Ông Tạ. Ði làm thợ mây tre lá tuốt bên quận Tư cùng Chu Vương Miện và các thầy chùa ăn mặn, sướt máu bàn tay. Ra tận Bình Dương học nghề sơn mài bị sơn ăn sưng da phù mỏ. Ra đầu đường bán sách cũ, dọn vỉa hè bán cà phê bò kho, thu gom ve chai… Năm 1976 xuống tận Cà Mau làm cu ly xây trại nuôi heo cùng Thế Phong, Nguyễn Thụy Long.
Trong Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút của nhà văn Nguyễn Thụy Long có đề cập đến thời điểm nầy. Tôi email hỏi thăm Nguyễn Thụy Long và anh cho biết:
“Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, tôi và Thế Phong, Cung Tích Biền xuống tận Cà Mau làm cu li, thời gian không dài lắm, vài ba tháng. Tổ hợp Việt Nam Kỹ Thuật bị giải thể vỉ chủ nhiệm Nguyễn Văn Ngơi, người quen của nữ văn sĩ Lệ Hằng bị bắt vì tổ chức vượt biên. Tổ hợp giải thể, ba chúng tôi trở về Sài Gòn, sau đó tôi bị bắt và đi tù đến năm 1980 mới trở về. Khi ra khỏi tù tôi gặp Cung Tích Biền, tình cảm vẫn như xưa dù CTB bị mang tiếng nhiều là người “cách mạng 30-4”, nhưng anh cũng chẳng hại gì ai hết, vẫn có những quý mên nhau như người xưa. Ðôi khi còn những có những giúp đỡ nhau thiết thực trong thời bao cấp… Như trường hợp thi sĩ Phan Nhự Thức bị bệnh ung thư và chết (tháng 11 năm 1995), tôi biết CTB lo cho bạn gần hết”
Khi đề cập đến tác phẩm của mình ở trong nước, theo Cung Tích Biền
“Ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 nhà nước Việt Nam đã có lệnh cấm (bằng văn bản pháp quy, có danh sách rõ ràng từng tên tác giả, tên tác phẩm) là cấm lưu hành, in ấn, tàng trữ bất cứ dưới hình thức nào hầu hết tác phẩm dưới thời miền Nam Cộng Hòa. Toàn bộ tác phẩm của tôi cũng nằm trong lệnh cấm này. Một lệnh cấm mang tính an ninh triệt để. Vi phạm là phản động, đi tù không cần tuyên án. Ðể yểm trợ cho lệnh cấm này có hiệu quả tuyệt đối đã có những đơn vị xung kích đi từng nhà, từng khu phố thu gom sách. Ðốt.
Tháng 8 năm 2005, theo sự chỉ dẫn của nhà văn Mường Mán (vì anh đã được cho phép sao lục tác phẩm cũ) tôi đến một thư viện tại Sài Gòn để xin sao lục những sáng tác của tôi trước 1975, nay với tôi là tuyệt bản. Tại đây, Thư viện Khoa Học Tổng Hợp, bảo tôi về làm đơn xin phép nhà nước.
Ðơn viết xong, nhờ vợ tôi ra phường ký xác nhận. Nộp đơn vào thư viện, lại phải viết tiếp một đơn khác xin sao lục, vì đơn ở phường mới chỉ có giá trị chứng cư trú.
Ðơn xin sao lục được chấp nhận lại phải làm phiếu đăng ký xin sao lục những gì, trên báo, tạp chí nào tháng năm nào. Phiếu đăng ký nộp vô, bị gạch bỏ một số không được sao lục, số được phép thì do nhân viên thư viện chụp hình in ra đĩa CD. Thư viện có một chiếc máy rất cũ, làm việc rất chậm. Tôi không được quyền mang máy ảnh, quay phim tư liệu vào thư viện để tự thực hiện, cho nhanh. Ðóng tiền trước ba trăm nghìn đồng.
Ðúng một tháng sau, y hẹn, tôi đến thư viện. Ðĩa CD làm xong nhưng tôi được lệnh là không cho phép nhận mang về. Lý do: “Truyện phản động, không được phép sao lục, chưa có phép lưu hành”.
Từ đây có một cuộc phản kháng. Tôi nói với cô Hương cán bộ thư viện là tác phẩm của tôi, tài sản tinh thần của tôi, tôi có quyền sao lục. Tác giả sao lục tác phẩm chính mình sao lại gọi là lưu hành. Mà dù tôi chống lại lệnh cấm, tôi lưu hành là quyền của tôi, sẽ do pháp luật can thiệp, bỏ tù tôi chịu. Thư viện giam giữ đã ba mươi năm tác phẩm của tôi mà không cho tôi sao lục là một hình thức chiếm đoạt tài sản”.
Thế nhưng “ Ðã hơn một năm trôi qua tôi chẳng thấy ai thực hiện một cách sòng phẳng, đúng luật chơi là ký, và trao cho tôi cái giấy, là một lệnh cấm đó cả. Ba trăm nghìn đồng tôi ứng trước nay vẫn còn nằm trong thư viện. Hơn một năm tôi chưa hề nhận được cái giấy mời hay một cú điện thoại đến trả lời dứt khoát… Tôi rất ung dung tự tại. Không hề buồn hay uất mần chi chuyện vặt này. Hơn ba mươi năm kinh nghiệm dạy cho tôi cung cách “nằm nụng” tại “lơi lày”. Rằng thì là lánh, lãng, lơ, lì, lừa, luồn lách, lật lọng, lờ, lâu, rồi quên…”
Khi email cho anh Hồ Nam (nhà thơ Vương Tân), tôi nói sẽ viết bài về anh Cung Tích Biền, cần biết rõ hư thực vì hai anh đã quen nhau trong nhiều thập niên, anh hồi âm cho biết, nên viết vì giải tỏa được vấn đề để trả lại sự công bằng trong văn học. Bài viết của anh Hồ Nam từ Sài Gòn, với tựa đề Cung Tich Biền và Những Biến Chuyển Của Lịch Sử vừa nhận được khi tôi đang viết.
“Cung Tích Biền (tên khai sinh Trần Quốc Thao sinh năm 1937 nhưng giấy tờ lai ghi 1938) được Mai Thảo khi làm chủ bút tuần báo Nghệ Thuật coi như một hiện tương văn học khi giới thiệu truyện ngắn đầu tay của Biền đăng trên tờ tuần san này.
Cung Tích Biền mặc áo lính học trường sĩ quan Hành Chánh Tài Chính, mãn khóa về một đơn vi Thiết Giáp đôi mũ nồi đen thường giao du với Nguyên Vũ và Tú Kếu nên đưa truyện dài cho Tú Kếu nhờ Tú Kếu giới thiệu với Chu Tử và Chu Tử không những đã chọn đăng truyện dài của Cung Tích Biền mà còn nói với tôi truyện dài của Cung Tích Biền viết không kém gì Nguyễn Thụy Long và trên chân Duyên Anh một bậc.
Dưới mắt tôi thời đó Cung Tích Biền chỉ là một người trẻ có văn tài và ‘’nhậu’’ vào loại hào sảng một người giao du được và chỉ thế thôi không gì khác hơn.
Ngày 30 tháng tư năm 1975 xảy ra người ta thấy Cung Tích Biền đeo băng đỏ đội nón cối cùng với Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn) đến tiếp thu Câu Lạc Bộ Báo Chí và có người còn nói Cung Tích Biền là Việt Cộng ”nằm vùng” cỡ thứ trưởng hay đại tá gì đó!
Sau những năm tôi đi tù cải tạo về phụ giúp Phạm Kiều Tùng bán quán báo ở góc đường Bùi Chu và Võ Tánh, Cung Tích Biền ghé thăm mời đi uống cà phê và nói ở nhà trên một cao ốc ở đường Nguyễn Huệ. Cung Tích Biền có một chai rượu ngon muốn mời tôi tới nhậu và tôi đã tới dù Nguyễn Ðình Ðông “tay hòm chìa khóa” của Chu Tử khuyên không nên ‘’giao du’’ với công an ‘’chìm’’ như Cung Tích Biền.
Mãi tới cuối thế kỷ hai mươi, khi Phan Như Thức qua đời (tháng 11 năm 1995) vì bệnh ung thư vợ con mang chôn ở Bình Hưng Hòa, tôi mới gặp lại Cung Tích Biền. Bữa đó Biền đọc ”điếu văn” khóc Thức như một tiếng nấc nghẹn ngào của phận ”kẻ sĩ” chịu nhiều oan trái (nhà thơ Phan Nhự Thức là chủ tịch Hội Ðồng tỉnh Quảng Ngãi) bị đi tù cải tạo, ra tù lãnh tờ giấy ra trại đề ngày ký 31 tháng Hai, khi đi phỏng vấn của chương trình HO phái đoàn Mỹ nói giấy tờ gì Thức cũng thừa điều kiện sang Mỹ đinh cư nhưng lịch của loài người không có ngày 31 tháng Hai. Thức cần điều chỉnh lại giấy ra trại một thư thông hành để đươc đi Mỹ Thức điều chỉnh tờ giấy này mất cả năm trời vừa được phái đoàn Mỹ báo chuyến bay thì lăn đùng ra chết vì ung thư!
Sang thế kỷ hai mươi mốt, một buổi trưa tôi nhận được điện thoại của Nguyễn Thụy Long báo Nguyên Vũ Vũ Ngư Chiêu muốn nói chuyện với tôi rồi chuyển điện thoại cho Nguyên Vũ nói chuyện với tôi.
Nguyên Vũ mời tôi đến uống rượu vang tại một quán chuyên bán đặc sản Quảng Nam gần Tịnh Xá Trung Tâm, vùng Gò Vấp.
Tại quán nhậu này tôi thấy bên cạnh Nguyên Vũ có Nguyễn Thụy Long và Cung Tích Biền. Bữa đó khi rượu ngà ngà rồi tôi hỏi Cung Tích Biền về chuyện đeo băng đỏ và tại sao Biền là Ðại úy Quân Lực VNCH không bị đi cải tạo. Cung Tích Biền nói cảm ơn câu hỏi của tôi để có dịp cho Cung Tích Biền giải tỏa sự hiểu lầm của nhiều người với Cung Tích Biền. Trước hết, Biền nói Biền đã giải ngũ trước ngày 30 tháng Tư nhiều năm vì là thương binh nên có trình diện đi cải tạo tại trường Dũng Lạc (Gò Vấp) nhưng ở đây cán bộ Việt Cộng cho về có lẽ nhờ Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt trung tá Công An Việt Cộng) nói giúp sao đó.
Cung Tích Biền thú thật có ngươi anh ruột là Việt Cộng đi tập kết đã chết ở Trường Sơn trước 1975 và giao du thân mật với Nguyễn Vạn Hồng và Huỳnh Bá Thành nên ngày 30 tháng Tư có hu hợ đeo băng đỏ chứ chẳng hề ”nằm vùng” bao giờ cả.
Cung Tích Biền không dấu chuyện có viết báo Công An thời Huỳnh Bá Thành làm Tổng Biên Tập, khi Thành ”đột tử” Cung Tích Biền bị ra rìa.
Cung Tích Biền thú thật làm văn nghệ có Ðảng lãnh đạo Biền chịu không nổi đã viết văn “chui” gửi cho Khánh Trường đăng trên tờ tạp chí văn học Hợp Lưu.
Nghe Cung Tích Biền nói, tôi bảo với Cung Tích Biền rằng Phật Thích Ca từng quả quyết rằng tướng cướp tới cổng chùa quăng dao đi nghe kinh và “đầu” cửa Phật, chịu khó tu hành cũng có thể trở thành Bồ Tát huống chi Biền chỉ “hu hợ” theo Việt Cộng nay đã nhìn thấy rõ con đường văn chương chữ nghĩa của mình và phản tỉnh, anh em có thể nói chuyện với nhau được. Có vấn đề gì đâu huống chi đây chỉ là ngộ nhận.
Bữa đó có mấy người mà chúng tôi uống hết hơn 10 chai Bordeaux, Nguyên Vũ có vẻ hứng lắm cười luôn miệng và tâm sự rằng rất tâm đắc với câu nói của Phật Thích Ca “tướng cướp quăng đao trước cổng chùa vào chùa nghe kinh có thể thành Bồ Tát”
Sau bữa nhậu đó, ít năm tôi thấy trên mạng bài trả lời phỏng vấn của Cung Tích Biền chứng tỏ con người Biền đã khá dứt khoát sau khi được giải tỏa những “ẩn ức” và Biền xứng đáng là một người cầm bút của thời đại hôm nay, ngòi bút chỉ vì Chân Thiện Mỹ không vì cái gì khác.
Trong cuộc gặp gỡ giữa người viết bài này chiều 11 tháng 9 năm 2007, tại quán bán đặc sản Ðất Quảng gần Tịnh Xá Trung Tâm. Cung Tích Biền cho biết Biền đang ung thư ruột già nên chương trình sáng tác chỉ lập cho từng ba tháng một và Biền đang viết bộ tiểu thuyết Chuồng Trại (cũng có tên la Truồng Chạy) rất đắc ý. Không biết Biền có hoàn thành kịp bộ tiểu thuyết này không vì ngoài ung thư còn tiểu đường nữa bệnh nào cũng đang ở giai đoạn nghiêm trọng có thể “chùa thua” bất cứ lúc nào.
Trả lời câu hỏi chết đi được đầu thai lại làm người Biền có muốn thay đổi thân phận không, Biền nói nếu được làm người nữa Biền chọn cái kiếp đang sống đầy oan khiên và bất trắc đã từng sống để tiếp tục sống.
Nói về chuyện tạp chi Da Mầu làm số đặc biệt về Cung Tích Biền cho biết thế kỷ trước tờ Hợp Lưu có ý định làm một số về mình Biền đã phản đối nay trên 70 tuổi rối Da Mầu làm số báo đặc biệt về Biền thì Cung Tích Biền đã đồng ý vì nghĩ mình đang gần đất xa trời không nên phụ lòng người mến mộ mình”. Hồ Nam
Cung Tích Biền cho biết “ròng 40 năm nay với bút hiệu nầy” và không viết bài nào đánh bóng chế độ trước cũng như sau 1975, “Từ khi được gọi là thành niên tới ngày hôm nay, tôi đã sống 21 năm trong nước Việt Nam Cộng hòa, 31 năm trong xã hội chủ nghĩa. Cộng lại hơn nửa thế kỷ. Tôi chưa từng dùng ngòi bút ca ngợi bất cứ một chế độ đương quyền nào”. Theo bài viết của Hồ Nam, không biết khi viết cho tờ Công An, dùng bút hiệu nào?
Theo họa sĩ Nguyễn Ðình Thuần ở Little Saigon, năm 1989 triển lãm tranh ở Hội Mỹ Thuật, nhờ Cung Tích Biền viết cho bài giới thiệu, khi gởi bài viết đến tờ Lao Ðộng nhờ đăng tải, thấy tên Cung Tích Biền, họ từ chối, phải nhờ người khác viết mới đăng báo.
Qua những năm thăng trầm, anh có được cơ ngơi với cái kiosque để sinh sống và nơi tá túc ở chung cư Nguyễn Huệ, trước dây, bạn bè nói với tôi vì có gốc gác. Theo họa sĩ Hồ Thành Ðức, bạn thân của anh từ ngày ở Huế, còn thuộc những bài thơ của anh mà tác giả không còn lưu trữ hay đã quên (như đã đề cập ở trên, anh được giải thơ ở trường Quốc Học). Năm 1977 Hồ Thành Ðức vượt biên, bị tù hai năm, sau khi được thả, Hồ Thành Ðức có quen biết với vài giới chức trong Hội Văn Nghệ nên được trông coi vài kiosque. Thấy Cung Tích Biền lông bông nên Hồ Thành Ðức giao cho kiosque để làm ăn và nhờ vậy xin được nơi cư ngụ ở chung cư Nguyễn Huệ. Còn vấn đề viết lách, không nghe Cung Tích Biền đề cập.
*
Hình ảnh sau ngày 30 tháng Tư, Cung Tích Biền được đưa lên báo “đeo bảng xanh, bảng đỏ” nhưng rồi bị tước đoạt tất cả, may mắn chỉ “học tập cải tạo” thời gian ngắn và làm lại cuộc đời trong hoàn cảnh trớ trêu. Trong một gia đình, bên nầy và bên kia chiến tuyến, không thể nào thoát khỏi oan trái xảy ra của mỗi chế độ, và người trong cuộc dễ bị ngộ nhận.
Giữa thập niên 60, sau thời gian xuất hiện với các truyện ngắn, Cùng Tích Biền tạo được thế đứng tròng làng văn, anh cho biết: “Có một thời gian, cùng lúc tôi viết feuilleton cho năm tờ nhật báo: Ðộc Lập, Ðông Phương, Ðiện Tín, Sóng Thần, Hòa Bình… Ngoài ra, còn viết mỗi tuần một kỳ hai trang cho tuần báo Ðời, do nhà báo Ðỗ Quý Toàn thư ký tòa soạn, họa sĩ Ðằng Giao trình bày, trang báo rất trang trọng, đẹp. Những truyện dài Bên Dòng Nước Biếc, Luống Cải Vàng, Bến Mưa Ngâu của tôi xuất hiện trên Ðời.
Cũng thời gian này, truyện dài Những Bọ Và Rắn được đăng trên tạp chí Quần Chúng do nhà báo Cao Thế Dung chủ trương. Truyện dài Trường Giang, đăng trên tuần báo Khởi Hành, do nhà thơ Viên Linh thư ký tòa soạn…
… Cho đến nay tôi chưa hề in một tác phẩm nào trong hơn 20 truyện dài đã đăng hoàn chỉnh trên các nhật báo Sài Gòn”.
Các tác phẩm đã được xuất bản: Ai Tỉnh Ai Ðiên (1968), Hòa Bình Nàng Tình Rỗng (1968), Nỗi Buồn Thắp Sáng (1969), Cõi Ngoài (1969)…
Nhà văn Cung Tích Biền thành danh, nổi tiếng qua nhiều tác phẩm trong thập niên 60, 70, quen thuộc với độc giả ở miền Nam VN, nhưng không hiểu vì sao ít có bài viết về tác giả và các tác phẩm văn học. Ở trong nước, tác phẩm của anh trước kia bị xếp vào bảng phong phần “truyện phản động không được phép sao lục, chưa có phép lưu hành”! Khi bị liệt kê vào bảng phong thần thì không có cây bút nào đá động đến và nếu có cũng không có tờ báo nào dám đăng tải. May ra có vài truyện ngắn sau nầy được đăng trong tuyển tập như Thằng Bắt Quỷ trong tổng tập Truyện Ngắn Việt Nam thế kỷ XX, NXB Kim Ðồng, truyện ngắn Không Thể Là Hiện Thực trong tuyển tập Ðêm Bướm Ma, NXB Văn Học…
Ở hải ngoại, các cây bút trong nước đã một thời quen thân với anh, hiện đảm trách tờ báo trong tay nhưng suốt ba thập niên qua, ít ai đề cập đến. Có lẽ họ ngần ngại thời điểm anh đeo băng đỏ nhưng họ không “cảm thông” khi anh bị đuổi ra khỏi nhà, sống vất va vất vưởng, nghể không ra nghề, thợ không ra thợ để sống còn. Với những gì anh đã nhận chân sự thật để nói ra, nếu đó là sự thật thì “Sự chân thành là cái danh dự của lương tri”, nói như Galerita.
Trong quyển Văn Học Miền Nam Tổng Quan của nhà văn Võ Phiến, NXB Văn Nghệ, ấn hành năm 1986, trong phần tác giả, tác phẩm có ghi đôi dòng về tiểu sử Cung Tích Biền nhưng trong trang sách, không một lời nhắc đến. Bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, NXB Văn Nghệ 1999, phần truyện gồm ba tập đề cập đến hầu hết nhà văn nhưng cũng không có Cung Tích Biền. Quyển Văn Học Từ Ðiển của Thanh Tùng, NXB Khai Trí năm 1973 và được ấn hành ở Hoa Kỳ năm 1990, chỉ liệt kê tổng quát tiểu sử tác gia, có vài tác giả chỉ có một, hai tác phẩm, chưa có tên tuổi, xuất hiện sau anh, cũng được đề cập nhưng không có tên nhà văn Cung Tích Biền.
Năm 1993, tập truyện Thằng Bắt Quỷ do Tân Thư ấn hành ở Hoa Kỳ. Gồm các truyện ngắn trước và sau năm 1975: Dị Mộng, Qua Sông, Ngoại Ô Dĩ An Và Linh Hồn Tôi, Trong Nghĩa Ðịa Xanh, Người Tù Tình Nguyện, Giao Thừa, Trên Ngọn Lửa, Lời Ảo Hóa, Rừng Ðôm Ðốm, Thằng Bắt Quỷ và Thừa Dư.
Trong các truyện ngắn sau nầy, Cung Tích Biền với bút pháp ẩn dụ, thế giới huyễn hoặc không bày tỏ thực trạng của cuộc sống như những tác phẩm viết trước năm 1975. Trong khí đó, độc giả mong ở nhà văn thành danh với ngòi bút sắc bén với cái nhìn hiện thực,
Hiện nay, cuốc sống gia đình được ổn định tại Gò Vấp, con gái lớn đã lập gia đình và ở Nam California. Tuy nhiên, anh vẫn mang nặng hình ảnh của hai người anh nên cuối bài phỏng vấn, Cung Tích Biền bày tỏ nỗi đau bây giờ, có hai người anh, bên nầy và bên kia đã chết mà không tìm được tông tích:
Người thứ nhất: ông Trần Ngọc Biền, bộ đội, chết năm 1969 tại Nghĩa Ðàn, Nghệ An. Người thứ hai: ông Trần Ngọc Tấn, Thiếu tá Quận trưởng Tịnh Sơn kiêm Quân trấn trưởng Quang Ngãi. Sau tháng 4 năm 1975, đi học tập và chết trong trại cải tạo. Gia đình chỉ được thông báo cái chết từ năm 1978 mà không biết nơi chôn cất. Cũng đã ở tuổi cổ lai hy, nếu được quy kết mộ hai ông anh ruột cũng là một thỏa lòng.
Trong tình nghĩa bạn bè thân tình với nhau cho rằng anh sống bạt mạng, đệ tử của Lưu Linh nên đôi khi cũng bất cần thân thể. Tuy nhiên, không tránh khỏi sự chê bai. Tôi nhớ, có lần người bạn nói với tôi Trần Hoài Thư “cao ngao, bộ mặt khinh khỉnh”, tỉnh bơ khi chào hỏi. Thật ra vì cận thị nặng, không nhìn xa được để đáp lễ nên bị mang tiếng và Cung Tích Biền thì nghe nói nhiều hơn. Ngày trước, mỗi lần Trần Hoài Thư từ núi rừng về Sài Gòn, tá túc ở nhà trọ Cung Tích Biền, ngồi quán cà phê, cả hai nhìn xa đều “mục hạ vô nhân” thì làm sao tránh khỏi lời chê trách “mục trung vô nhân”!
Thật ra, Cung Tích Biền chẳng vỗ ngực xưng danh “nhà văn nhớn” như vài người khác mà còn khiêm nhường. Qua câu hỏi của Lý Ðợi: “Vắng bóng trên thập kỷ rồi. Ông sẽ xuất hiện lại chứ. Ẩn danh mãi sao ông nhà văn?”. Cung Tích Biền: “Danh đâu mà ẩn. Chỉ là tìm chỗ trốn cái gió tanh mưa bụi. Tôi có một kho tàng sống qua mấy thời kỳ. Chỗ giáp ranh của thực hư, chính tà. Nửa tỉnh nửa điên…”.
Tròn hai thập niên, chưa gặp được anh. Với những gì biết được ghi lại, còn nhiều thiếu sót. Không gì hơn, đón nhận hồi ký của nhà văn Cung Tích Biền. Gần năm thập niên rồi, bên nầy bờ đại dương vẫn nhớ hình ảnh và ca khúc Sérénata:
“Viens, le soir descend
Et l’heure est charmeuse
Viens, toi si frileuse,
La nuit déjà comme un manteau s’étend…”.
Sống với nhau, sinh tử tử sinh, còn lại nhớ chăng ở đạo làm người. Mười bảy năm xa cách, mong có ngày cụng ly ở quán đặc sản Quảng Nam.
Tình Khúc Gởi… Nha Trang
Mùa hè đầu thập niên 60, từ Đà Nẵng, chúng tôi mở cuộc “hành phương Nam” vào thành phố Nha Trang. Dũng có người bà con ở dưới Cầu Đá, đã nhiều lần vào Nha Trang, mô tả vùng trời phương xa thật hấp dẫn, ba đứa còn lại được nghe bạn kể nên rất náo nức, được dịp rủ rê nên chớp ngay cơ hội sau vài ngày nghỉ hè. Bốn đứa mang theo hai chiếc xe đạp để tiện việc di chuyển, đáp chuyến xe đò Phi Long từ mờ sáng, đến Nha Trang vào lúc mặt trời lặn.
Hình ảnh thành phố biển nên thơ và dễ thương đó đã in đậm trong tôi theo dòng thời gian.
Giữa thập niên 60, tôi bước chân vào quân ngũ và hình như có duyên nợ với núi rừng cao nguyên, từ ngày tháng ở quân trường cho đến khi chọn đơn vị. Thỉnh thoảng có dừng chân nơi thành phố biển, và lúc chia xa, lòng còn vương đôi chút.
Bóng dáng Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt… đã đi vào ca khúc, và khung trời Nha Trang qua dòng nhạc, lời ca của Minh Kỳ và Hồ Đình Phương tạo thành bức tranh huyền ảo, linh động, rất có hồn, khi nghe, gợi trong lòng nỗi nhớ thương man mác. Một nơi chốn với đôi nét chấm phá, thoảng nghe cũng mường tượng khung cảnh trữ tình:
“Nha Trang là miền quê hương cát trắng
Trông lên xanh êm màu trời
Nhìn ngoài nước thắm xa khơi…
… Nha Trang là miền khách du muốn tới
Cho phai bao nhiêu bụi đời
Để tìm nguồn yêu sống vui…
… Là đây biển tình bao la
Ngồi trông sóng chiều vươn xa
Lòng đôi lứa thề trăm năm duyên tơ…”
Có lẽ hình ảnh trong ca khúc “Nha Trang” chưa bày tỏ hết tâm trạng giữa cảnh và tình nên tác giả gởi thêm vào cung bậc trong “Nhớ Nha Trang”û để dàn trải tâm tư, tình cảm:
“… Từ ngày được trông Nha Trang, tôi càng mến yêu quê nhà:
Đây là đóa hoa muôn đời còn hương.
Từ ngày biệt ly Nha Trang, mỗi lần trông nắng vàng tới, xót xa hồn tôi…”.
Cảm nhận hình ảnh nơi chốn được thể hiện trong lời ca, tiếng nhạc là lẽ thường tình trong cuộc sống nhưng khi nơi chốn đó đã in sâu bao kỷ niệm, khi rơi vào nghịch cảnh, hoàn cảnh trớ trêu gắn liền với hệ lụy của cuộc đời, như vết hằn in sâu trong lòng, bao nỗi xót xa.
Cuối năm 1970, tôi thuyên chuyển về Nha Trang, không biết “được” hay “bị”, với cuộc sống lang bạt kỳ hồ, tôi chẳng có điều gì để quan tâm. Tôi biệt phái sang Trung Tâm Điều Hợp Tâm Lý Chiến Vùng II Chiến Thuật, Trưởng Ban Điều Hành, mỗi ngày chỉ viết vài tờ truyền đơn và vài dòng để phóng thanh nên công việc khá nhàn vì thế có dịp bù khú với bạn bè. Trung Tâm cũng nằm trong doanh trại của đơn vị gốc, thuộc khuôn viên của bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, Pleiku. Bốn đứa kết thân nhau, la cà café và nhậu nhẹt đến nỗi Vũ Ngọc Hải, bạn đồng khóa, em ruột của đơn vị trưởng, không chịu về Sài Gòn lấy vợ.
Bà cụ gọi lên khiển trách ông anh thế nào không biết, rồi một buổi sáng âm u, ông gọi tôi lên cho biết phải tách bốn “cậu” ra bốn nơi để Hải lập gia đình. Đơn vị có địa bàn hoạt động khắp vùng II nên ông bảo tôi muốn phục vụ ở đâu, cho ông biết. Tôi không có ý kiến vì “Ở đâu cũng ăn cơm tháng, ngủ giường bố” nên để ông quyết định. Khi ông đề cập đến Nha Trang, tôi chịu ngay. Hai hôm sau, có xe đi công tác về Nha Trang, tôi vội vã lên đường. BS Nguyễn Trường Xuân, Y Sĩ Trưởng, về Sài Gòn học tiếp giải phẫu, Vũ Ngọc Hải về Cục An Ninh Quân Đội, còn Huỳnh Văn Hiếu, Trưởng Ban 4, trụ trì Pleiku. Khi về đến Quy Nhơn, lấy cớ thăm bạn bè, ở lại vài hôm. Gặp lúc mưa bão nên từ Quy Nhơn vào Nha Trang mất hết mười hai ngày, tưởng chừng đương sự mất tích.
Hình ảnh Nha Trang sau cơn bão lụt như giai nhân bị dập vùi trong bão cát. Trong mười năm qua, tôi vẫn yêu mến khung cảnh nên thơ đã bắt gặp từ dịp nghỉ hè. của thuở học trò. Từ đó, tôi rất thích hai ca khúc đề cập đến địa danh đã ru lòng mình về cõi mộng nhưng khi “chọn” được nơi đã từng ấp ủ, tôi lại rơi vào tình trạng bất đắc dĩ. Bởi đơn vị được “trú đóng” ở nơi tốt lành nên sĩ quan phải phục tùng và “biết điều” với đơn vị trưởng, còn tôi thì bạt mạng, ngang bướng nên khó hòa đồng, khó bề thích nghi trong môi trường không mấy tốt đẹp.
Hôm trình diện, có ông bạn gợi ý cò mồi về thông lệ, Sĩ quan ra mắt anh em với chầu nhậu ở Gió Khơi. Tôi phán ngay việc nhậu nhẹt là chuyện nhỏ nhưng chưa thân ít khi cụng ly, cạn chén hồ trường.
Thế nhưng, đệ tử của Lưu Linh, có máu văn nghệ, chẳng mấy chốc, có bạn bè đàn đúm. Lý Bạch đêå lại cho đời nhiều bài thơ bất hủ về rượu, trong đó có hai câu thơ rất mết:
“Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh”
(Xưa nay thánh hiền đều lặng lẽ. Chỉ người uống rượu mới lưu danh).
Đơn vị “cấp” cho tôi căn nhà bỏ trống trong khu gia binh, căn nhà chỉ dành cho Sĩ quan có gia đình nhưng tôi không hiểu vì sao được “chiếu cố” như vậy. Buổi tối cuối tuần lai rai đôi ba chén với anh Vĩnh, Hạ sĩ quan Tiếp Liệu, anh hỏi tôi ở trong căn nhà nầy có thấy gì không? Tôi ngạc nhiên hỏi lại có gì mà thấy? Anh cho biết trước đây có người thắt cổ chết… Tôi rót chung rượu đặt ở vị trí người quá cố, lâm râm hai câu thơ của Nguyễn Bá Trác trong Hồ Trường:
“Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một Hồ Trường”.
Nơi tôi ở trở thành nhà vãng lai, có lẽ người chết kẻ sống đều thờ thần rượu Dionysos, Bacchus, đệ tử của Lưu Linh nên dễ thông cảm, xí xóa cho nhau. Hình ảnh Nha Trang năm xưa dần dà trở về trong lòng tôi, buổi tối uống café, thả bộ trên bãi biển, đêm về chén tạc chén thù với đồng đội, vô cùng thích thú.
Người bạn thân đầu tiên là Đoàn Trọng An, quê ở Vạn Giả, anh là người Công Giáo, tôi là Phật tử thuần thành ngày trước, cũng như Vũ Ngọc Hải, rong chơi với nhau quên cả bổn phận phải đi Lễ cuối tuần, và tôi cũng chẳng biết ngày Rằm, Mồng Một gì cả. Đôi khi tự biện minh, tuổi trẻ thời chinh chiến, nay còn mai mất, nếu có gì sai sót xin dành lại kiếp sau.
Trong dịp công tác, Đoàn Trọng An quen với cô giáo, người Hà Nội, chàng giới thiệu cho tôi. Và từ đó, Nha Trang với duyên nợ được ấp ủ trong lòng tôi trải dài qua bao thập niên với bao biến thiên trôi nổi theo thời cuộc. Tôi rất quý An ở đức tính chân thật, hiền lành nên bị cấp trên bắt nạt và lợi dụng. Cặp kè với tôi rồi cũng khổ thân, bị chuyển lên công tác ở Đà Lạt. Tôi giới thiệu lại cô em nhưng duyên nợ không thành.
Mùa hè 1971, tôi theo học Khóa 3 Trung Cấp CTCT, những lá thư tình rất tuyệt trao gởi cho nhau, xây dựng cuộc tình tương lai. Cuối năm đó, tôi đổi về Đà Nẵng, khi thưa với mẹ tôi chuyện lập gia đình. Mẹ tôi trố mắt rồi hỏi: “Có thật không con?”. Anh chị lại ngạc nhiên, lúc trú đóng ở Nha Trang không tính chuyện đó, về lại quê nhà lại lấy vợ phương xa. Mẹ tôi vui mừng cho đứa con út của người, dừng bước chân giang hồ để tìm về tổ ấm.
Người bạn thân kế tiếp là Nguyễn Kim Quý, gốc gác Nha Trang, anh và tôi không ưa với nhau từ lúc giáp mặt ở đơn vị. Trong dịp Tết Tân Hợi 1971, tôi làm Sĩ quan trực đơn vị trong ngày cận Tết, khoảng 11 giờ tối đêm 30, anh mang đến chai Whisky của miền Scotland và chơi trò đánh cuộc, ai thua phải trực.
Vừa uống vừa đem chuyện Kim Dung luận bàn về rượu với cuộc tao ngộ kẻ chánh, kẻ tà giữa Lệnh Hồ Xung và Điền Bá Quang trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, tình bạn qua chung rượu với Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc trong Lục Mạch Thần Kiếm, tình yêu nảy sinh giữa hai thái cực, minh giáo và tà giáo giữa Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố khởi nguồn từ chén rượu… Hình ảnh Mạc Đại tiên sinh gầy gò với lưỡi kiếm mỏng manh dắt trong đáy dao cầm, trong quán rượu có chín gã hán tử ngồi nhậu bố lếu bố láo, vì không biết nên vô tình xúc phạm đến tên ông, ông già chỉ hoa tay với làn ánh sáng lấp lánh rồi bỏ đi, cơn gió thoảng qua, chín cái miệng chén bị cắt đứt bằng nhau rơi xuống mặt bàn, vỡ tan…
Tán gẫu với câu chuyện bên chai rượu trong nửa giờ đã hoàn thành xong nhiệm vụ đánh cuộc được giao phó, tôi chiếm thượng phong nhưng rồi bảo anh về ăn Tết với gia đình, tôi làm bổn phận kế tiếp với giấc ngủ dài trong ngày đầu năm. Từ đó, chúng tôi có dịp chuyện trò với nhau, sau đó anh biệt phái sang phái đoàn thông dịch ở xứ Chùa Tháp, tôi đổi về Đà Nẵng, rồi cả hai cùng thuyên chuyển về quân trường ở Đà Lạt, trở thành đôi bạn thân.
Với Kim Thanh Nguyễn Kim Quý, kỷ niệm tình bạn trong hai mươi năm qua, bài viết “Một Bông Hồng Cho Người Cựu Tù Nhân Chính Trị” trên nhật báo Người Việt (28-7-1991) tôi viết về anh và nhân cơ hội giới thiệu luận án Tiến sĩ văn chương Pháp “La Prison Chez Stendhal” dày 520 trang, vừa được hoàn thành tốt nghiệp. Tháng 3-1992, anh tham dự Hội Thảo Quốc Tế Stendhal tại Paris và thuyết trình đề tài “Stendhal, Paris et Le Mirage Italien”. Tôi giới thiệu tiếp khuôn mặt người bạn trên báo chí ở Quận Cam vào tháng 4-1992.
Anh và tôi cùng cảm nhận được ngòi bút của nhà văn Pháp ở thế kỷ XVIII đã để lại trong tác phẩm “Những nhân vật nữ đẹp tuyệt vời và thế giới ngọt ngào hương phấn, nửa hư nửa thực… Tôi yêu Stendhal có lẽ vì cùng nỗi lãng mạn như những nhân vật ông tạo dựng, cô đơn, đi bên lề xã hội, suốt đời ôm ấp trong tay ảo ảnh một thiên đường đã mất, nơi đó tình yêu không có vết nhăn, không có lọc lừa, không có phản bội” (Kim Thanh – Betima & Mùa Xuân).
Stendhal thời trẻ, chán ngán Paris, lưu lạc xứ người, bị ngộ nhận là kẻ đánh mất quê hương nhưng cuối đời ông trở về chết nơi quê nhà, với ông, quê hương như vòng tay của người mẹ hiền, lúc nào cũng mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang quay về trong lòng mẹ…
Nguyễn Kim Quý dạy Pháp văn ở Đại học Eastern Washington University nhưng thuộc loại bất cần đời, tính nết cũng hơi phách đôi chút nên bị kỳ thị, bỏ dạy về Oregon làm công chức, lập lại cuộc đời sau thời gian trong chốn lao tù, tan vỡ cuộc tình.
Với tôi, ngòi bút của Kim Thanh chỉ nhắc nhở đến hình ảnh con ngựa bất kham, bạt mạng lại có mái ấm gia đình.
Cảm tạ Nha Trang, cảm tạ bạn bè đã đưa con ngựa chứng về nơi biển trời mênh mông, bát ngát, rất thân tình.
“Nha Trang ngày về, mình tôi trên bãi khuya
Tôi đi vào thương nhớ, tôi đi vào cơn gió
Tôi xây lại mộng mơ năm nào
Bờ biển sâu, hai đứa tôi dìu nhau.
Năm xưa, biển nầy người yêu trong cánh tay
Đêm nay còn cát trắng, đêm nay còn tiếng sóng
Đêm nay còn trăng soi, nhưng rồi
Còn mình tôi trên bãi khuya khóc người tình…
… Nha Trang biển đầy, người yêu không có đây
Tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát
Chôn sâu vào thân xác lưu đày
Dã tràng ơi! sao lấp cho mối sầu nầy”
Trót theo chồng nên rời xa quê hương cát trắng. Năm 1972, nhà tôi đổi lên dạy học ở Đà Lạt, sau 1975 tiếp tục cuộc sống nơi xứ lạnh. Mỗi năm, cứ hai lần vào dịp Tết và hè, nhà tôi đưa con cái về Nha Trang sum họp với đại gia đình.
Mùa hè năm 1982, tôi trở lại Nha Trang sau những năm trong vòng lao lý. Thăm bãi biển Nha Trang, nơi để lại trong tôi nhiều kỷ niệm không bao giờ phai. Tôi lặng lẽ đi dưới ánh trăng thượng tuần tỏa ánh nhạt nhòa trên bãi cát. Tình khúc “Nha Trang Ngày Về” của Phạm Duy như nỗi lòng, tâm trạng của kẻ chiến bại, mang nỗi khổ đau với bao vết hằn chồng chất đang tìm về nơi thiên đường đánh mất. Đâu rồi “con đường tình sử” của Bá Đa Lộc, mỗi lần thả bộ, nhà tôi lại nhắc đến những hình ảnh bạn bè giữa thập niên 60, năm Đệ Nhất A của trường Võ Tánh; Đâu rồi những góc phố thân thương, những hàng quán ban đêm với món ăn mang đặc sản Nha Trang… tất cả đã chết theo thời gian và còn lại nơi đây cảnh đìu hiu của “đất Hán Hồ”. Đâu rồi “Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ?” (Vũ Đình Liên)…
Mỗi lần về Nha Trang, tôi ghé lại thăm Nguyễn Cư, được bạn ta cho uống café vàø kể chuyện đời. Nhà tôi và bà xã của Nguyễn Cư cùng học với nhau từ trường Nữ Trung Học đến trường Võ Tánh Nha Trang. Ngôi nhà của chị trên đường Độc Lập có hai căn, một căn là nhà thuốc bắc Nam Sanh Đường, một căn mở quán café 108. Tôi thường đến quán cahé nầy và có một kỷ niệm khó quên. Cuối tháng 6, 1971 tôi hẹn với người tình đi uống café, trước giờ hẹn tôi ghé lại quán bida trước tiệm café 108, bị kẻ đạo chích móc cái ví sau túi quần Jean. Sau thời gian đôi tình nhân ngồi uống café tâm tình với nhau, đến khi trả tiền, sờ váo túi sau, cái ví bay mất, tôi lặng lẽ tháo cái đồng hồ Seiko để cầm. Em gái chị Mai Lăng nói “Anh chị quen thân với anh chị em, khi nào trả cũng được”. Thản nhiên đưa người tình về nhà, khi quay lại quán tìm thì thấy cái ví nằm dưới bàn bida, chỉ mất tiền lương vừa lãnh, giấy tờ vẫn còn nguyên. Khi tôi kể lại cho người yêu biết, nàng lại “mến” cái tính lãng tử của tôi và trách sao không nói để “em trả tiền”! (Bây giờ mà xảy ra như vậy, bu nó không thể nào “mến” cái lãng tử mà phán “con nào móc rồi chứ gì? Bỏ mẹ sa trường…).
Tôi mới chợt hiểu rằng tại sao bao nhiêu lần về với gia đình, chưa bao giờ nhà tôi ra biển một mình, trong cô đơn, chỉ có nước mắt, chỉ có tiếng thở dài cho thân phận. Mồng Một Tết Mậu Ngọ 1979, Thành, em ruột của nhà tôi, vừa tròn hai mươi, tổ chức cuộc vượt biên cùng bạn bè trong đội banh ngay Bưu Điện – Quán Gió Khơi ngày trước, Thành giấu kín người thân trong gia đình, chỉ tin cho nhà tôi biết trước lúc đi. Rồi Thành đã vĩnh viễn ra đi, bóng chim tăm cá. Từ đó, nhà tôi sợ nơi chốn tuyệt vời như sợ mũi tên đâm vào lồng ngực!
Tôi trở về lang thang nơi chốn cũ với nỗi niềm mà Erich Maria Remarque chọn làm tựa đề trong tác phẩm “Một Thời Để Yêu & Một Thời Để Chết” trong bối cảnh sau Đệ nhị thế chiến.
Chia tay Nha Trang, hè 1990, đôi tình nhân ngày xưa qua năm tháng thăng trầm, bất hạnh mới tìm được giây phút êm đềm bên nhau giữa mây trời và cát biển của ngày tháng cũ.
Giã biệt Nha Trang, giã biệt khung trời ngày cũ trước giờ rời bỏ quê hương.
Bao năm trôi qua, xa cách quê nhà, tôi vẫn mong có được ngày về để khe khẽ hát “Nha thành mến yêu, một ngày trời sang mùa mới… Gió ơi! gió ơi! ngân hòa thêm tiếng lòng tôi”.
Với niềm ước mơ, một ngày nào đó, hai mái tóc bạc màu ngã mình trên bãi cát, ôn lại kỷ niệm xa xưa để hàn gắn lại lớp bụi thời gian.
Vương Trùng Dương