Buổi sáng đứng nhìn người qua lại Người thương, người ghét, người chưa quen Nhưng thế gian đâu có người nào đáng ghét Nên ta thấy người nào cũng dễ thương
Ta đứng chờ em buổi sáng Và buổi chiều và buổi tối để… chào em ! Nhưng hôm nay sao em không đến? Để con đường nhớ quá một người thương
Ta đứng chờ em như một tượng đồng Đôi mắt nhìn quanh một nét buồn Có ngọn gió vờn qua mái tóc Một chiếc lá vàng rơi xuống hoàng hôn
Ta nghe đâu đó lời cầu nguyện Giữa mênh mông một tiếng thở dài Trời cuối thu vàng trên khóm lá Khóm lá vàng, khóm lá tàn phai!…
Trình bày và layout: Nghi Hà In tại Mr.Print Ần Quán
THI VĂN ĐÀN TRẦM HƯƠNG THỰC HIỆN
MỤC LỤC
Lối vào (3) Nguyễn Tôn Nhan thơ – viết về Hoài Nam Tử (8) * Nguyễn Đức Nhơn – Trần Vấn Lệ – Phạm Tương như – Hoàng Xuân Sơn – Du Miên Đà Lạt thơ tưởng niệm Nguyễn Tôn Nhan (18) * Vũ Đăng Lư Dallas chiều thơ nhạc (24) * Đàm Trung Pháp Bút ký (30) * Trần Hoài Thư thơ (35) * Trần Yên Thảo thơ (37) * Hải Phương thơ (39) * Vũ Tiến Lập thơ (41) * Nguyễn Minh Triết biên khảo (42) * Nguyễn Lương Vỵ thơ (52) * Ngô Nguyên Nghiễm thơ (53) * Nguyễn Lập Đông thơ (56) * Trần Văn Lương văn (57) * Lan Đàm thơ (65) * Lãm Thúy thơ (68) * Trần Bang Thạch văn (71) * Như Phong thơ (75) * Kim Oanh thơ (78) * Phan Các Chiêu Hằng văn (80) * Phan Bá Thụy Dương thơ (94) * Dương Thượng Trúc thơ (96) * Lê Hữu Minh Toán thơ (98) * Yên Sơn văn (99) * Cù Hòa Phong thơ (101) * Tâm Thanh văn (102) * Xuân Bích thơ (112) * Kiệt Tấn thơ (114) * Trường Thy văn (116) * Cái Trọng Ty thơ (122) * Trọng Đạt Biên Khảo (124) * Túy Hà thơ (135) * Phan Các Chiêu Hằng thơ (138) * Nguyễn Thị Thanh Dương văn (141) * Dương Quân thơ (147) * Lan Cao thơ (149) * Xuân Du thơ (151) * Nguyễn Thị Thanh Dương thơ (153) * Tình Hoài Hương thơ (155) * Yên Sơn văn (156) * Song An Châu thơ (165) * Lưu Ca thơ (168) * Phan Xuân Sinh văn (170) * Nguyễn Tâm Hàn thơ (179) * Lưu Nguyễn Từ Thức thơ (180) * Chu Thụy Nguyên thơ (181) * Luân Tâm thơ (183) * Tình Hoài Hương văn (185) * Chúc Anh thơ (191) * Mây Ngàn thơ (192) * Nguyễn Khoa Lộc thơ (193) * Song Thy thơ (194) * Phạm Tương Như thơ họa vận (195) * Nguyễn Thế Giác đọc sách (196) * Thái Bạch Vân thơ (202) * Tuấn Đình thơ (204) * Nhật Hạnh nhạc (205) * Thanh Ngọc nhạc (206) .
Lối Vào
Khi chúng tôi ghi lại những lời này thì: Những ngày đông băng giá đầy cay nghiệt chưa qua, những bất an vẫn còn trên từng khuôn mặt đời thường. Chắc hẳn đa phần đang chia sẻ lo âu. Lo cho cỏ cây khó trở mình đứng dậy, lo mùa đông trở chứng kéo dài, lo xăng dầu leo thang đòi nợ. Lo cho nền kinh tế đang cố lết đi với tốc độ rùa bò. Tất cả những điều ấy trái lại không làm cho chúng tôi lo lắng, vì bên cạnh vẫn còn những người bạn chí cốt, kiên trì bám trụ trong thư phòng nhỏ hẹp của căn mobile home tồi tàn mà chiếc lò sưởi già nua không còn đủ hơi nhả ấm. Nơi ấy là chỗ để thai nghén Trầm Hương. Nỗi lo riêng của chúng tôi chỉ xuất hiện khi có khá nhiều câu hỏi đến từ thân hữu và đọc giả cùng một nội dung và có thể đúc kết là: Trầm hương có gì trục trặc, có gì thay đổi, mà sao vẫn chưa phát hành theo lịch đã ghi. Những câu hỏi ấy vô hình chung lại mang hai tích cách khác nhau: Lo âu và phấn khởi. Lo vì biết cách nào để trả lời đọc giả, để giải thích với bạn văn sao cho hợp lý hợp tình. Phấn khởi vì tiếng nói của Trầm Hương vẫn còn người quan tâm và hưởng ứng. Như vậy chúng tôi không lẻ loi, chúng tôi vẫn đang khởi hành đúng hướng. Tiếc thay câu trả lời lại chạm đến điều tế nhị, nhất là đối với giới cầm bút vẫn thường xem tài phú như không và ít khi bàn đến. Tuy nhiên sự thực không vui đôi khi cũng phải nói ra, đó là Tạp chí Trầm Hương mỗi ngày mỗi cố gắng thay đổi chính mình từ hình thức đến nội dung.Và qua kiểm chứng của người đọc, chúng tôi đã nhận được khá nhiều khích lệ, qua sự hưởng ứng đóng góp bài vở của nhiều người viết mới cũng như của những cây viết đã thành danh là chứng tỏ cụ thể nhất. Thế nhưng, lại vẫn là hai chữ thế nhưng cay nghiệt trước đòi hỏi tự nhiên, thêm bài thì phải thêm trang và như thế đồng nghĩa với việc thêm phần… ấn phí. Trong khi đó sự giới hạn chung về mặt kinh tế khiến cho phần ủng hộ của thân chủ quảng cáo dưới hình thức mạnh thường quân cũng chùn tay giới hạn nghĩa là tài chính đang co lại và vì thế: đến hẹn nhưng vẫn… chưa lên. Chưa lên nhưng không có nghĩa là không lên, vì anh em Trầm Hương nói riêng và thân hữu nói chung vẫn đang vận động góp sức để kéo Trầm Hương từ nhà in ra. Sự thực là như thế, nhưng Trầm Hương vẫn kiên trì lên đường bằng đôi chân thiếu sức của mình. Cuộc chơi nào mà không phải hao tốn, vận động cho một mong ước nào mà không phải hy sinh. Trong lãnh vực văn học nghệ thuật, sáng tác nào mà không phải đầu tư trí tuệ để góp phần thăng tiến tư duy. Chúng tôi vẫn lên đường. Và trên đường chúng tôi đi, thông tin thời sự nóng bỏng vẫn không rời, hương hoa Nhài lan rộng từ Bắc phi sang Trung đông và còn nhiều nơi nữa, thế giới Á rập đang lên cơn sốt, chúng tôi kêu gọi sự hưởng ứng của những bạn cầm bút còn tâm huyết và xin được nhắc lại vận động của văn học không tách rời thời cuộc. Thơ văn không chỉ là ngợi ca cái đẹp mà còn phải ngợi ca tính nhân bản trong mọi bối cảnh hiện thực xã hội. Thơ văn không chỉ hiện diện trên những khung cảnh sang trọng mà thường xuất hiện khắp mọi nơi, từ bùn lầy nước đọng, từ ruộng đồng khô hạn hoặc xanh tươi, như hoa mọc khắp mọi nơi. Thậm chí từ những bi thảm như chiến tranh và từ những hoan ca của hòa bình. Thơ văn phải mang thuộc tính quần chúng. Bởi vì từ quần chúng mới có bạn đọc. Có lẽ Quý bạn đọc đang chờ hương hoa ướp chữ, góp tình trong sáng tác. Và hỡi bạn cầm bút còn chờ gì, đề tài và cảm hứng vẫn đầy dẫy trước mặt ta. Ý nghĩa này thay cho lời cảm tạ bạn đồng hành đang cùng di chuyển trên một lộ trình.Chúng tôi hoan nghênh và chờ đợi nhưng sáng tác mới trên tinh thần ấy. Kính mời Quý vị ghé thăm trang Web của chúng tôi: www.hoiquantramhuong.net
Trân trọng Ban Biên Tập.
Lời Tòa Soạn: Trầm Hương số 4 đặc biệt tưởng niệm cố Thi hữu Nguyễn Tôn Nhan, chúng tôi đăng lại bài Cuộc Đời Tư Tưởng Hoài Nam Tử. Bài này là tựa của tập biên khảo và dịch thuật Hoài Nam Tử, anh đưa bản thảo tận tay tôi tại Sài Gòn, lúc sách vừa đem in. NĐN
Cuộc đời tư tưởng Hoài Nam Tử Nguyễn Tôn Nhan
Tư tưởng triết học cổ đại ở Trung Quốc có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng triết học cổ đại Việt nam. Đó là sự thực không cần lý giải và hầu như ai cũng công nhận. Trong khu rừng rậm tư tưởng triết học cổ đại (nhất là trước đời Tần – Tiên Tần – như cách nói quen thuộc). Bộ Hoài Nam Tử (hay Hoài Nam Hồng Liệt) có giá trị đặc biệt. Rất nhiều lần, trong nhiều dịp trao đổi với học giới (nhất là Hán học giới), chúng tôi lấy làm tiết, một nền văn hóa lớn riêng biệt như Việt Nam mà xưa nay chưa hề tiếp thu bằng cách chuyển dịch toàn bộ thư tịch văn căn bản nhất của Trung Quốc vốn được nước ta kế thừa ảnh hưởng từ lâu. Tại sao một nền văn hóa vừa Phật vừa Nho (có thể vừa Huyền học Đạo giáo nữa) thâm sâu như văn hóa Lý, Trần của Việt Nam mà chẳng ai quan tâm chuyển dịch những tác phẩm tổng hợp tư tưởng Tiên Tần sâu sắc, cụ thể như bộ Lã Thị Xuân Thu, Hoài Nam Tử? Tại sao vào thời cận đại khi lớp những nhà Nho học cuối cùng phải bàn giao (miễn cưỡng?) di sản văn hóa tổ tiên lại cho lớp thanh niên Tây học đầu thế kỷ trước, họ chỉ chú ý chuyển dịch sơ sài vài bộ “tứ thư”, “ngũ kinh” (đã qua xác định của Tống Nho) không lưu ý gì đến “chư tử” hết sức quan trọng mà trong một bài ngắn này không thể nhắc đầy đủ hết được. Là một hậu sinh, lại chỉ có công tự học ít nhiều, chúng tôi lấy làm tiếc khi phải tự nỗ lực đọc lấy từ nguyên tác các bộ kinh điển khó bậc nhất của tư tưởng triết học Tiên Tần. Có lẽ vì tiếc công, hay vì một cơ duyên “tiên thiên” nào đó, từ rất lâu, chúng tôi chìm đắm vào Đạo học Trung Hoa (như từ gần 20 năm trước, chúng tôi đã cho xuất bản Đạo Đức Kinh, Xung Hư chân kinh…) Từ lâu Hoài Nam Tử đặc biệt quyến rũ chúng tôi, nhưng lại phải đợi đến “cơ duyên” gần đây, chúng tôi mới bắt đầu chuyển dịch bộ sách vô cùng quan trọng và hấp dẫn này. Trong lịch sử tinh thần của người Trung Quốc, thời “chư tử tiên Tần” rõ ràng là một thời đại huy hoàng. Thời đại này được coi là một “thời đại trục tâm” có sức hấp dẫn lớn. Đây cũng chíng là thời kỳ tư tưởng Trung Quốc lên đến đỉnh cao nhất. “Chư tử” sống giữa thời loạn, cảm nhận được mọi sự đau khổ của kiếp nhân sinh, nhưng họ không đủ sức mạnh để quy định vào một dòng “chính thống” mà chỉ có khả năng tự do tư tưởng, từ đó tùy vào điều kiện riêng, tư tưởng của họ phát triển theo nhiều phương hướng để trở thành những học thuyết tư tưởng khác nhau. Giữa các loại tư tưởng khác nhau ấy cũng xẩy ra nhiều cuộc luận chiến kịch liệt, từ đó hình thành nên cục diện tư tưởng “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng) Đó cũng chứng minh cho sự tự do tư tưởng (vì chỉ có tự do tư tưởng mới “đua tiếng” được). Chính ở thời kỳ này, tư tưởng Trung Quốc đã bộc lộ khí chất cơ bản của nó; Khí chất cơ bản ấy là; tâm lý đạo đức được phát huy rất đầy đủ nhưng tâm lý trí thức lại không được triển khai như mong muốn. Đây là dấu ấn tư tưởng nhân sinh của Trung Quốc. Quay trở lại thời đại huy hoàng này của Trung Quốc , chúng tôi muốn chọn bộ “Hoài Nam Tử” làm đối tượng vì tác phẩm này ra đời trong một xu thế phát triển tư tưởng rất đáng được chúng ta quan tâm. Xu thế này, chính là lúc tư tưởng Trung Quốc đang từ phân tán quay về hợp lưu tổng hợp. Phải chăng xu thế ấy có phần nào tương tự với xu thế ở Việt Nam trải qua “loạn thế” nửa thế kỷ qua? Tư tưởng Trung Quốc thời kỳ tiên Tần biểu hiện thành “bách gia tranh minh”, đến đầu đời Hán đã được Thái sử công (Tư Mã Đàm, thân phụ Tư Mã Thiên) quy nạp thành sáu nhà (lục gia) Nho gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Đạo gia và Âm dương gia. Đến khi Hán Vũ đế độc tôn Nho thuật, cuối cùng hình thành cục diện cơ bản Nho và Đạo bổ sung, dựa dẫm lẫn nhau. Cục diện ấy kéo dài trong một thời gian dài đến tận lúc Phật giáo du nhập vào và phát triển đủ thành một thế lực, cục diện mới thay đổi biến thành “tam giáo đỉnh lập” (ba tông giáo cùng tồn tại). Sự tổng hợp tư tưởng trong lịch sử Trung Quốc được hun đúc qua tiến trình đại thống nhất cuối cùng được định hình, đó là một tiến trình còn lâu dài nữa. Bộ “Hoài Nam Tử” ra đời giữa thời điểm tư tưởng tổng hợp, chưa tiến tới Nho thuật độc tôn, ra đời vào lúc chế độ đại thống nhất chính trị sắp sửa định hình nhưng chưa xác lập tối hậu, cho nên toàn bộ sách tư tưởng tự do để tiến hành chọn lọc, biểu hiện rất rõ nhiều tư tưởng mâu thuẫn, đưa ra rõ ràng tâm thái lưởng lự giữa “thống nhất thiên hạ” và “giữ phong tục khác nhau”. Vậy thì, chúng ta hãy tìm hiểu “Hoài Nam Tử” là tác phẩm ra sao? Khái quát đơn giản đặc điểm tác phẩm này, triết học sử Trung Quốc, đại khái thường dùng hai chữ “kỳ” (kỳ lạ) và “tạp” (lẫn lộn, phức tạp) để khái quát. Cho rằng Hoài Nam Tử kỳ lạ, có tới mấy tầng ý nghĩa: một là do số phận đầy bi kịch của tác giả, phủ lên tác phẩm nhiều màu sắc truyền kỳ. Tác giả Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An và các tân khách môn nhân. Giới quý tộc vương giả đầu đời Hán đa số mê say chìm đắm vào thú vui nhan sắc, âm nhạc hoặc săn bắn rông dài, riêng Hoài Nam Vương Lưu An dốc chí vào học thuật, nhún nhường chiêu nạp kẻ sĩ, tỏ ra có tư thái phong nhã cao thượng. Một chư hầu vương cao khiết chí lớn như thế mà cuối cùng rơi vào kết cục phải tự sát, liên lụy đến vài ngàn người phải chết theo. Hoài Nam Vương là vật hy sinh để lịch sử Trung Quốc tiến vào cục diện chính trị đại nhất thống. Cái chết của ông là một bi kịch của lịch sử. Quyền lực của tước vương đầu đời Hán cực lớn , trong nội bộ vương quốc của mình, chư hầu vương có quyền hưởng thụ tiền thuế, quyền phân bổ quan lại, quyền hành chánh , thậm chí có cả quyền phát hành tiền riêng, triều đình chỉ sai một chức “thừa tướng” tới giúp đỡ, có tác dụng giám sát và liên hệ với triều đình, do vậy những “phong quốc” (quốc gia được phong cấp cho tước chư hầu vương) nghiễm nhiên là một triều đình nhỏ. Phong quốc đầu đời Hán tự có hệ thống ghi năm độc lập. Ở Trung Quốc cổ đại, quan niệm về “chính sóc” và màu sắc y phục tượng trưng cho chính quyền, do đó một chính quyền mới lên ngôi, việc đầu tiên là phải sửa đổi “chính sóc” và màu sắc y phục. Các vương quốc đầu đời Hán không tuân thủ cách làm lịch pháp triều đình (“chính sóc” là một khái niệm thuộc lịch pháp) mà tự ghi năm (theo lịch riêng) chứng minh lúc ấy vương triều Tây Hán chưa chính thức hoàn thành được thể chế đại thống nhất. Thế nhưng, bấy giờ đại thống nhất đang là xu thế phát triển của lịch sử, triều đình cũng đang mong muốn dùng sức mạnh thúc đẩy nhanh xu thế này. Nhân vậy, giữa các vương quốc (được phong) và triều đình trung ương xảy ra nhiều cuộc đấu tranh giành giật quyền lực. Các loại đấu tranh xoắn xít với giành giật ngôi đế diễn biến thành nhiều sự kiện trấn áp mưu phản bị buộc tự sát “liên lụy đến chết vài vạn người” (tọa tử giảsố vạn nhân, như sử chép). Đó là sự việc chấn động lớn đương thời. Lúc Hoài Nam Vương biên soạn bộ “Hoài Nam Tử”, ông có ý dâng sách lên triều đình đầu đời Hán Vũ Đế thay cho một kế sách, do đó ông còn tự đặt tên cho sách là “Lưu thị chi thư”: sách của họ Lưu hoặc kế sách (trị nước) của họ Lưu (họ Lưu tức họ đang thống trị triều đình Hán). Tâm nguyện ấy của ông cuối cùng bị lật ngược mặt trái vì kết quả tội mưu phản dẫn tới. Bối cảnh lịch sử như vậy phủ lên bộ “Hoài Nam tử” một màu sắc truyền kỳ. Mặt kỳ lạ thứ hai của Hoài Nam tử là nó lưu giữ được rất nhiều tư liệu tư tưởng Tiên Tần cho đến lúc bấy giờ. Hoài Nam tử không phải một tác phẩm “trứ tác” theo ý nghĩa hiện đại, nó không phải một “sáng tác phẩm” của Hoài Nam Vương và các môn nhân, mà là sách “biên soạn”, là sách do họ giải thích, chỉnh lý, chọn lộc từ các tư tưởng Tiên Tần. Có người cho rằng bất cứ câu văn nào trong Hoài Nam tử cũng có nguồn gốc xuất xứ sợ rằng hơi quá đáng, nhưng rất nhiều văn cú tư tưởng trong Hoài Nam tử quen thuộc là sự thực quá rõ. Chính nhờ vậy, khá nhiều sách vở thư tịch đã mất mát có thể dựa vào tư tưởng lưu giữ trong Hoài Nam tử mà khôi phục lại. Giátrị sử liệu của Hoài Nam tử rất cao, đó là điều đã được công nhận. Ví dụ tên gọi hoàn chỉnh của 24 tiết khí nông lịch là do Hoài Nam tử xác định sớm nhất. Hoặc hai thiên “Thiên văn huấn” và “Địa hình huấn” của Hoài Nam tử đã bảo lưu nhiều kiến thức về thiên văn, địa lý cổ đại Trung Quốc . Hoặc như thiên “Mậu xứng huấn” bảo lưu tài liệu tư tưởng của học phái Tử Tư, mà không thư tịch nào khác có thể so được. Điều kỳ lạ hơn chính là khí chất tư tưởng rộng lớn kỳ vĩ của bản thân Hoài Nam tử. Hoài Nam tử có hùng tâm “lung lạc trời đất” (lao lung thiên địa) với ý muốn dung nạp mọi lãnh vực tư tưởng, tri thức vào một bộ sách và tổ chức chúng thành một hệ thống lớn. Có lẽ vì vậy trật tự tư tưởng của Hoài Nam tử tương đối khá hỗn loạn, tạp nhạp. Thế nhưng với tầm nhìn tư tưởng cao xa, với khí thế tư tưởng cao lớn hoằng đại, Hoài Nam tử đủ đạt tới danh tiếng của một bộ “kỳ thư”. Tóm lại đây chính là bộ sách “lạ kỳ” khó hiểu mà từ lâu chúng tôi đã lưu tâm nhưng chưa dám bắt tay chuyển dịch. Còn mang tiếng là “tạp” (hỗn tạp, phức tạp), ngay từ bộ “Hán thư” phần Nghệ văn chí đã dùng hai chữ “tạp gia” ở dưới tên sách Hoài Nam tử, rồi các sách sử đời sau đều học theo, hoàn toàn đồng ý xếp Hoài Nam tử vào loại “tạp gia”. Hoài Nam tử ra đời đến nay đã hơn hai ngàn năm, vẫn lưu truyền với danh nghĩa “tạp gia”. Nay truy tìm về nguyên nhân tư tưởng hỗn tạp trong Hoài Nam tử, đại khái có thể nhận ra mấy điểm: Một, văn phong Hoài Nam tử phần lớn dùng câu đối ngẫu, phô trương khoe khoang theo kiểu phú đời Hán, chữ dùng lại hoa lệ trùng điệp nhiều màu vẻ. Nhiều khi câu văn rườm rà có ý vị ẩn dụ nhưng vì vậy, có đôi lúc trùng điệp. Đọc Hoài Nam tử dễ có ấn tượng rực rỡ, đồng thời lại có cảm giác bị hình ảnh rực rỡ nọ làm mờ mịt ý nghĩa. Cách hành văn Hoài Nam tử hình như không theo một con đường tư tưởng duy nhất, mà chỉ dựa vào một ý hướng gần gũi nào đó rồi tưởng tượng phóng túng thêm đồng thời đưa vào nhiều kiến thức khác. Có lẽ phương thức truyền đạt và phong cách ngữ ngôn của Hoài Nam tử là một trong nhiều nguyên nhân tạo nên ấn tượng phức tạp. Kế đó, về tư tưởng, Hoài Nam tử ôm ấp hùng tâm quá lớn, hầu như tác giả muốn đưa vào sách mọi lãnh vực triết học tri thức. Một bộ sách như vậy cần có trật tự về kết cấu. Về mặt này Hoài Nam tử tỏ ra rất yếu. Chính vì vậy, nôi dung càng nhiều, càng tạo cho người đọc cảm giác càng hỗn loạn. Nếu coi Hoài Nam tử như tài liệu tưởng, có thể gọi đây là một kho tàng quý giá, nhưng nếu coi đó là một hệ thống tư tưởng, chắc chắn Hoài Nam tử khó tránh được tên gọi “tạp gia”. Sau cùng, lập trường tư tưởng của Hoài Nam tử chuyển biến du di không định hình. Lúng túng giữa truy cầu tự do của Đạo gia mà vẫn muốn bảo vệ trật tự Nho gia là nguyên nhân cơ bản dẫn đến rối loạn của Hoài Nam tử. Hoài Nam tử có ý muốn đứng trên lập trường Đạo gia để định hướng cho toàn bộ sách, điều đó rất rõ, nhất là dựa vào tư tưởng truyền thống của Trang Tử để đi tìm tự do. Hoài Nam tử coi giá trị bảo vệ trật tự Nho gia là gông cùm. Tư tưởng Trang Tử vốn nhiều mâu thuẫn khi ông muốn “tiêu dao du” đạt tới cảnh giới “chân nhân” khi vẫn còn ở trần gian hệ lụy. Hoài Nam tử cũng muốn vậy, nhưng với thân phận một “chư hầu vương”, rất cần trách nhiệm trị an đời, làm sao thoát ra khỏi giá trị về trật tự xã hội do nhà Nho khởi xướng. Khối mâu thuẫn, dù “bất đắc dĩ” đi nữa, dẫn tới nhiều lúc Hoài Nam tử ca ngợi tư do như Đạo gia nhưng nhiều lúc muốn điều hợp giữa Nho và Đạo, lập trường tư tưởng cứ lúng túng giữa hai bên là nguyên nhân căn bản tư tưởng hỗn loạn của Hoài Nam tử. Sách Hoài Nam tử đại khái hoàn thành vào thời Hán Cảnh đế (ở ngôi từ năm 156 – 141 TCN). Hán Vũ đế lên nối ngôi (ở ngôi từ 140 – 87 TCN), khi được vào yết kiến vua mới, Hoài Nam vương dâng bộ sách lên cho cháu mình (tức Hán Vũ đế), vị hoàng đế mới trẻ tuổi, theo truyền thuyết rất thích văn nghệ tất nhiên vui vẻ nhận sách, “yêu sách nhưng cất kỹ” (ái bí chí như sử chép). Thế nhưng, vừa lên ngôi, Hán Vũ đế đã đưa ra “Thiên nhân tam sách” chứng tỏ đế quan tâm nhất là muốn xây dựng và giữ gìn trật tự đại nhất thống, còn vấn đề trọng yếu Hoài Nam tử đặt ra lại là vấn đề tự do, ấy là việc Hán Vũ đế không quan tâm. Xét về tình huống thực tế phát triển tư tưởng đầu đời Hán, thời đại Hán Vũ đế là một bước chuyển biến, trước đây tư tưởng Hoàng Lão Đạo gia chiếm địa vị chủ lưu, sau khi Hán Vũ đế “độc tôn Nho thuật”, tư tưởng Đạo gia dần chuyển xuống thứ yếu, Nho gia trở thành chủ lưu. Phong cách tư tưởng thời đại thay đổi khiến vấn đề quan hệ xung đột giữa tự do và trật tự trong Hoài Nam tử không được chú ý nữa, đấy là nguyên nhân sách Hoài Nam tử tuy được Hán Vũ đế thích nhưng cất kỹ trong bí các. Suốt thời Tây Hán, không ai chú ý gì đến Hoài Nam tử, có lẽ vì vấn đề Hoài Nam tử đưa ra bị gác lại, hoặc có lẽ bị ảnh hưởng án ngục của Hoài Nam vương, người ta ngại nhắc tới tác phẩm ông. Phải tới đời Đông Hán, Hoài Nam tử mới trở thành sách thông hành với hai bản chú giải của Hứa Thận và Cao Dụ. Cao Dụ từng lớn lời ca ngợi “người có học mà không luận về Hoài Nam tử tức không biết s6u thẳm của đạo lớn đó” (học giả bất luận “Hoài Nam” , tắc bất tri đại đạo chi nhân dã). Trên đây, chúng tôi khái thuật sơ qua để giới thiệu một phần diện mạo địa vị của Hoài Nam tử trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, sau bài tựa, chúng ta sẽ còn dịp nghiên cứu kỹ hơn về tác phẩm lớn này. Xin nói thêm, riêng ở Việt Nam, điển cố văn học vẫn thường nhắc tới nhiều câu chuyện xuất xứ trong Hoài Nam tử như “mâu thuẫn”, “trăm sông về biển”, “Tái ông mất ngựa” mà chúng ta đã được biết từ lâu.
Gởi cho cõi im lặng
Rồi người đi tóc bỏ đuôi gà Tôi lao đao về những sân ga Chiều hôm hoa nở cành chim chết Tặng cho người đôi cánh lông khô
Tôi giang hồ như triệu bóng mây điên Biết về đâu người biết đâu tìm Đời tan nát cả lòng bia mộ Mây cũng không mầu mây cố nhiên
Rồi người đi tôi khóc ướt đồi Mưa xuống cho hồn lạnh chết thôi Thiên nhiên xanh quá tôi vừa thấy Cũng đủ cho tôi dại cả đời
Chiều vui trời ướt nhẹp mây gù Sãi về chùa, tôi sắp theo tu Người không biết được thầy tăng nhỏ Đã nhớ người rên suốt đêm thu
Người đâu biết được cụm mây kia Nhớ run em, nên đã theo về Nơi tôi có triệu cành vô sắc Gửi cho người chết ngợp đam mê
Tôi nằm nghe cây chuyển nhựa non Bóng thiên thâu một mảnh trăng còm Tôi nhớ vô cùng con dế gáy Tóc người gầy dãy dụa bay điên.
Một triệu bông mười giờ
Tôi ở lại bên Ni Nửa ngày cơm gầy guộc Ni giặt giụa sau nhà Bóng trôi đầy mặt nước Ni có hai con mắt Đựng quá nhiều Như Lai Ni có hai con ngươi
Ni đựng cả hồn tôi Trong giường Ni mới dọn Chăn chiếu vẫn thơ ngây
Ni đựng cả tim tôi Trong bào thai giá rét Một triệu bông mười giờ Nở êm đềm vĩnh biệt
Tôi dại dột biết Ni Chỉ có hai con mắt Chỉ có hai con ngươi Đỏ như hai viên gạch Một triệu bông mười giờ nở vô ưu tĩnh mịch
Tôi ghé lại bên Ni Hồn quạnh hiu vô ngã Chút điên cuồng cuối đời Tôi gởi cho Ni giữ Tôi ghé lại rồi đi
Rừng đầy mưa lạnh tóc Tôi nhớ mắt Như Lai Con mắt Ni có hai Sao ngập trời Tây Tạng Tôi khóc ướt cỏ đồi Ngập suốt trời Tây Tạng.
Mùi thiên nhiên
Một nụ hoa thược dược Chứa đựng cả càn khôn Long lanh giọt sương nước Mà dồn dập sóng cồn
Làm sao mà giải được Ý nghĩa của mất còn Trăng mọc sau hay trước Nắng nhạt hay mưa tuôn
Trăng mọc ở đầu non Mờ đến giờ nguyệt tận Bèo dạt dưới mưa tuôn Tử sinh vòng lẩn quẩn
Cành hoa đưa hương phấn Ngào ngạt mùi thiên nhiên.
Nguyễn Đức Nhơn Khóc Nguyễn Tôn Nhan
Mới ngày nào Ở Đất Phương Nam Vui thật vui Bốn thằng ngồi tán dóc Chuyện văn chương Chuyện giang hồ Ngang dọc Vui thật vui Mi hỡi Nguyễn Tôn Nhan!
Sao hôm nay Mi vội vã lìa đàn Tao sửng sốt Thương mày Muốn rơi nước mắt Ở bên này Xa mi nửa vòng trái đất Chỉ cầu xin Mi thanh thản lên đường Về cõi vĩnh hằng Nơi không có tai ương Không phiền não Không bon chen Như hạ giới
Tụi tao Những thằng Còn ở lại Thương mày quá đỗi Nguyễn Tôn Nhan! Thôi từ đây Thi hữu Thi đàn Thiếu một thằng Tài hoa hết mức Thôi Nhan ơi! Tao thực tình Muốn khóc Tiễn mày đi Mi hỡi Nguyễn Tôn Nhan!
Jan-31-2011 Nguyễn Đức Nhơn
Trần Vấn Lệ VĨNH BIỆT NGUYỄN TÔN NHAN
Sài Gòn báo tin hối hả: “Nguyễn Tôn Nhan đã chết rồi!”. Nó chết là nó hết cười một thuở Sài Gòn vội vã. Người ta đụng nó, nó ngã. Người ta đụng nó bỏ đi, nó thì được khiêng đem về Nhà Thương rồi ra Nhà Xác. Không ai nghe tiếng nước mắt rơi trên hè phố Sài Gòn… Người ta chỉ nghe tiếng chuông của một Nhà Thờ gần đó, dĩ nhiên không dành cho nó… Ơi Nguyễn Tôn Nhan dễ thương. Anh đi như chuyện bình thường hôm nào giòn tan phố Mỹ. Hôm nào là đầu Thế Kỷ, bây giờ là cuối đường xa… Nụ cười của anh như hoa, tôi nói với anh, anh nhớ? Nguyễn Tôn Nhan không còn nợ, anh đi, thong thả anh đi… Tôi viết mấy câu gửi về, hỡi ơi lòng tôi đẵm lệ. Một lần gặp nhau, không lẽ chỉ còn tái hội Thiên Thu? Phải chi có trái mù u tôi lăn theo dài ngọn lửa. Anh không được cho nấm mộ, cỏ hoa lỗi hẹn văn chương… Anh nằm trong bình tro xương, không co mà còn chút xíu! Sách vở từ nay nhăn nhíu, từ nay bạc phếch thời gian… Ơ này anh Nguyễn Tôn Nhan, trên bàn để anh cái cốc, nhớ anh không ai đã khóc, rượu như tình rót cho anh… Rượu như tình, rót cho anh. Biết nói câu nào cho phải? Gặp nhau, với nhau không ngại. Xa rồi, quan tái, Trời ơi!
Trần Vấn Lệ
Hoàng Xuân Sơn Vẻ trần
(tiễn bạn Nguyễn Tôn Nhan)
Bàng khe. chim quạ đau. nằm mùa đưa bạn lữ về trăm năm buồn hạt chiều buông một cầu sương mơ hồ trăm chuyến vô thường biệt ly bạn văn ôm đóa trường kỳ hồ hoa mị thảo tường vi cũng là rì rào suối mộ. lăng ba hường nhan sớm gội la đà bướm ong
Hoàng Xuân Sơn 31.1. 2011
Phạm Tương Như Thương tiếc Nguyễn Tôn Nhan
Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Tôn Nhan Tôi may mắn ở diễn đàn cùng anh Trầm Hương Văn sĩ, Thi nhân Việt Nam Âu Á tình thân kết thành Mới hay định mệnh mong manh Xuôi tay một kiếp miền xanh anh về Cũng xa gia quyến, trời quê Câu thơ ngộ nghĩnh, tứ thi đa tình Một chàng nghệ sĩ lạ hình Tóc, râu dáng vóc như khinh mạng đời Vần thơ ý nhị gọi mời Câu đầu đọc dẫn tới đuôi, hết bài Hồn thơ hoa lá mây bay Cám ơn đời có Thi Tài Tôn Nhan Nay anh về cõi vĩnh hằng Hồn thơ gửi lại thế gian hiểu mình Người tài hoa lại đầy tình Danh thơm đến ngát còn khuynh đảo đời Thôi thì về cõi rong chơi Thi Đàn Thi Hữu khóc lời tiễn anh!
Phạm Tương Như Houston Tx. 01/02/ 11
Miên Du Đà Lạt Thế là hết!
Là cát bụi trở về cát bụi, là chuyện trần gian ta vĩnh biệt là giã từ tất cả những đau thương là chia tay với nghiệt ngã vô thường là thôi tiếc, thôi thương, thôi oán hận thế là hết, không còn gì nuối tiếc, Ôi! Trần gian là quán trọ giữa đường Ta, lữ khách chỉ dừng chân nghỉ tạm, thế là hết! như cát bụi trở về cát bụi như hình hài hóa thể lai sinh Ôi! cõi diệt sinh, sinh diệt …
Miên Du Đà Lạt Vĩnh biệt Thi văn sĩ Nguyễn Tôn Nhan
Vũ Đăng Lư Dallas Chiều Thơ Nhạc
(Trích một vài đoạn và hình ảnh trong bài tường thuật “Dallas Chiều Thơ Nhạc” của tác giả Vũ Đăng Lư)
Buổi sinh hoạt văn nghệ chiều 16 tháng 5 được dư luận đánh giá là thành công vượt trội so với các buổi sinh hoạt diễn ra trước đây tại địa phương. Số người tham dự khoảng 300 gồm văn nghệ sĩ, chiến hữu, đồng hương, báo chí, truyền thanh, truyền hình (SBTN) tại địa phương và một số văn nghệ sĩ thuộc Văn Bút VNHN đến từ thành phố Houston xa xôi, như Nhà thơ Vĩnh Tuấn, Phó Chủ Tịch, Nhà thơ Yên Sơn , Tổng Thư Ký và Phu nhân, Nhà văn Nguyễn Thế Giác, Chủ tịch Văn Bút khu vực Nam Hoa Kỳ và Phu nhân, các văn thi hữu Túy Hà, Lê Hữu Liệu, và nhạc sĩ Nguyễn Tuấn Chương. Ngoài ra còn có sự hiện diện của Giáo sư Ts. Đàm Trung Pháp, Ts. Walter Nguyễn, Cô Thu Nga, Giám đốc Đài SBTN/DFW, nhà thơ Hồng Phúc (Trưởng Nhóm Hương Thời Gian) và các niên trưởng Nguyễn Hữu Lý, dịch giả thơ song ngữ Việt-Anh, Tôn Thất Yến, Cao Văn Lâm… Trong buổi sinh hoạt, các nghệ sĩ diễn ngâm thơ: Chi Huệ, Ngô Trọng Cát, Tam Quỳnh, Đỗ Toại cũng như các nhạc sĩ đệm đàn sáo: Trúc An, Đỗ Toại, đã tõ ra xuất sắc trong lối trình diễn độc đáo của mình. Đó là một điểm son của ban tổ chức. Quan khách đến dự buổi văn nghệ hôm nay không nhất thiết chỉ là để thưởng thức giọng ngâm, điệu nhạc của các nghệ sĩ trình diễn hoặc những món ăn ngon của nhà hàng trong ngày cuối tuần mà còn để nhận diện những văn nghệ sĩ gốc lính Thủ Đức nữa, hầu biết họ là ai và đã đóng góp được gì cho văn học nghệ thuật Việt Nam tại hải ngoại. Chương trình buổi văn nghệ được chia làm hai phần: Giới thiệu 3 nhà thơ và 1 nhạc sĩ gốc lính xuất thân từ TSQ/TB/TĐ, và chương trình ca nhạc giúp vui với những ca sĩ tên tuổi ở địa phương. Ông Nguyễn Hân, Trưởng BTC lần lượt giới thiệu ba nhà thơ lên sân khấu. Nhà thơ Nguyễn Đức Nhơn được giới thiệu với quan khách trước tiên. Ông tốt nghiệp Khóa 18 Thủ Đức, đơn vị cuối cùng ông phục vụ là Tiểu Khu Bình Thuận. Đi tù cải tạo 6 năm. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện tị nạn chính trị. Tác giả hai tập thơ : Mùa Gió Bấc, 2005; Giao Mùa, 2007. Ông hiện là Chủ nhiệm Thi Văn Đàn Trầm Hương tại DFW. Tác phẩm “Như Qua Sông Dịch” sau đây được trình bày qua giọng ngâm của Nghệ sĩ Ngô Trọng Các: Mưa chiều ghé quán ngồi nghe nhạc Quán vắng nhạc buồn sầu miên man “Ai lướt đi ngoài sương gió Không dừng chân đến em bẽ bàng” (Văn Cao).
Guốc ai gõ nhịp trên hè vắng Từng bước rơi đều qua lối mơ Nửa chiều vàng vọt mưa và nắng Ta nghe chừng đâu đó một hơi thơ
Cô bé ơi châm dùm ta điếu thuốc Cho cõi lòng bớt lạnh lúc chia xa Ta cũng muốn ngồi đây cho hết kiếp Ngặt đường đời thì rộng đến bao la
Ta bỏ đi giữa trời mưa gió Từng giọt rơi buồn trên bến sông Như tráng sĩ một lần qua sông Dịch Biết có ai còn trở lại không?
Bến sông vắng lòng người cũng vắng Khách giang hồ chọn kiếp phù vân Cô lái ơi! Chở dùm ta qua đó Nơi cuối trời nơi cuối nẻo bâng khuâng.
Kế tiếp, nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh được mời lên sân khấu. Ông tốt nghiệp Khóa II Trường Võ Bị Địa Phương Huế năm 1951. Từng chiến đấu tại chiến trường Quảng Ngải những năm 64-65-66 trong chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng tác chiến. Đơn vi cuối cùng ông phục vụ 8 năm là Trường Bộ Binh Thủ Đức, nơi đó ông giữ các chức vụ Giám Đốc Huấn Luyện, Liên Đoàn Trưởng LĐSV, Trưởng Khối Huấn Luyện và Yếu Khu Trưởng Yếu Khu TBB / Long Thành vào những ngày cuối cuộc chiến. Ông đi tù cải tạo 8 năm, định cư tại Hoa Kỳ năm 1991. Ông đã xuất bản tập thơ “Chuyện Ngày Xưa” năm 1999, được dịch sang Anh – Pháp năm 2000. Tác phẩm tam ngữ này được giải thưởng “Year 2001 New Works Award” do Sacramento Metropolitan Arts Commission trao tặng. Ông hiện là Hội Trưởng Hội Thơ Tài Tử VNHN. Bài thơ “Đường Trăng” sau đây của ông được nghệ sĩ Chi Huệ diễn ngâm:
Có những buổi tinh cầu lòa một nửa Ôm con buồn man mác trộm nhìn em Bước chân nhỏ âm thanh lùa khe cửa Em diễm kiều quen gánh nước trong đêm
Soi gương giếng dáng Hằng Nga óng ả Thả gàu sòng sao em múc nàng trăng? Đêm hối hả nghiêng mình soi bóng ngả Gánh trăng về em chẳng chút nói năng
Qua lối trúc nỡ nào em chẳng ngó Anh đỉnh hồn treo lủng lẳng trái băn khoăn Em gánh nước hay gánh tình ai đó Để anh buồn quay quắt cả đường trăng
Đường trăng vẫn vô tình em dẫm nát Xác tim anh tơi tả dấu chân hồng Bên hiên nhỏ nhánh sầu rơi lác đác Hỏi đường trăng có thấy nhớ nhung không?
Cuối cùng, nhà thơ Nguyễn Đắc Nguyên Khoa bước lên sân khấu. Ông tốt nghiệp Khóa 14 Thủ Đức, ra trường phục vụ ngành Công Binh. Vượt biên đến Thái Lan và định cư tại Hoa Kỳ năm 1981 dưới diện cựu tù nhân chính trị. Đồng sáng lập Thi Văn Đàn Trầm Hương. Tổng thư ký Hội thơ Tài tử VNHN. Tác giả 3 tập thơ: Ngọc Ngà Xưa (2009), Cho Người Tình, Bằng Hữu và Quê Hương (2001), Tình Ta Nay Đâu Khác Tình Xưa (2006). Bài thơ “Nhìn Cuộc Đổi Đời” của ông đã được giới thiệu qua giọng ngâm của nghệ sĩ Tam Quỳnh:
Ta về nhìn cuộc đổi đời Quê hương tan tác người người lầm than Thấy em nước mắt hai hàng Ta nay lỡ vận ngỡ ngàng xót thương
Ta về thù cũ chưa buông Bao đòn hiểm ác chờn vờn bủa vây Ngày đi tù tội trắng tay Ngày về mang tấm thân gầy héo hon
Ta về thẹn với nước non Cúi đầu tạ tội mảnh hồn nát tan Từ khi rã ngũ tan hàng Trái tim rỉ máu âm thầm lệ rơi
Ta về lỗi với đất trời Mang thân lơ láo giữa đời đổi thay Ngày về tay lại trắng tay Đốt buồn bên chén men cay rã rời
Ta về nhìn cuộc đổi đời Nước non xơ xác bời bời ruột gan Thấy em lệ nhỏ hai hàng Ta thân ngã ngựa bàng hoàng đớn đau.
Ngoài 3 bài thơ được trình bày ở trên, 3 bài thơ khác của tác giả Nguyễn Đức Nhơn, (Sau Mùa Chinh Chiến), Như Hoa Lê Quang Sinh (Thương Nhớ Nơi Này), và Nguyễn Đắc Nguyên Khoa (Tìm Trầm) cũng đã được cử tọa nhiệt liệt tán thưởng.
Đàm Trung Pháp Tại San Antonio College
San Antonio College là một trường đại học cộng đồng lớn trong tiểu bang Texas, với khuôn viên tọa lạc trong trung tâm thành phố San Antonio trên đại lộ huyết mạch San Pedro Avenue. Dân chúng ở đây gọi tắt tên trường này là “SAC” (phát âm như chữ “sack” vậy). Lúc đó, mùa hè 1976, tôi đã có việc dạy học toàn thời gian cho hãng Northrop trong căn cứ không quân Lackland, nhưng muốn xin vào dạy thêm tại SAC vào buổi chiều để kiếm thêm chút tiền, cũng như để sống lại cái bầu không khí đại học mà tôi đã đánh mất khi phải rời bỏ thành phố Saigon thân yêu vì quốc nạn 1975. Tôi liên lạc bằng điện thoại vào văn phòng ban Anh văn và được nói chuyện với vị trưởng ban. Ông nhã nhặn lắm, và sau khi biết tôi từng du học tại Mỹ và dạy Anh văn bậc đại học ở Việt Nam, ông mời tôi đến gặp ông tại campus. Tôi như “mở cờ trong bụng” khi ông cho biết khóa học mùa thu 1976 ban Anh văn đang cần thêm một giảng viên (lecturer) buổi chiều để dạy lớp “English composition” cho các sinh viên năm thứ nhất. Ông còn căn dặn tôi nhớ mang theo bản tiểu sử (vita) cũng như phiếu ghi điểm (transcripts) của các đại học Mỹ đã cấp phát văn bằng cho tôi khi đến gặp ông và vị giám đốc các lớp buổi chiều (director of the evening division) ngay ngày hôm sau. Ngạc nhiên vì sao lại có cả một “evening division” tại SAC, tôi tìm hiểu qua cuốn niên giám của trường thì được biết số sinh viên đi học buổi chiều rất đông, ngang ngửa với số sinh viên đi học ban ngày. Đại đa số các sinh viên buổi chiều là những người đã có công ăn việc làm ban ngày và do đó chỉ có thể đi học sau khi tan sở. Họ không còn trẻ như các cô cậu sinh viên vừa xong trung học là những người theo học các lớp ban ngày. Sơ đồ tổ chức của trường đại học hai năm cấp phát văn bằng “associate” này khá chặt chẽ. Đứng đầu là vị viện trưởng (president). Viện trưởng được sự trợ tá của các vị phó viện trưởng (vice presidents) phụ trách học vụ (academic affairs), sinh viên vụ (student affairs), cũng như của vị giám đốc thâu nhận sinh viên (director of admissions). Dưới quyền vị phó viện trưởng học vụ là các khoa trưởng (deans) của các khoa nhân văn và khoa học (arts and sciences), giáo dục tiếp nối (continuing education), vân vân. Và phối trí việc giảng dạy các lớp học là nhiệm vụ chính của các trưởng ban (chairs) các bộ môn (departments). Nhân viên giảng huấn toàn thời gian mang các tước vị từ thấp lên cao là assistant professor, associate professor, và professor. Những nhân viên giảng huấn khác, đa số chỉ dạy một hay hai lớp mỗi khóa học buổi chiều, được gọi là lecturers. Tất cả đều phải có học vị master trở lên. Các lecturers chỉ được nhà trường trả tiền theo số lớp học phụ trách, không được bảo hiểm sức khỏe, không có văn phòng riêng, và trước mỗi khóa học mới phải ký lại hợp đồng dạy học (teaching contract) nếu nhà trường có nhu cầu dùng họ. Đó là cách để các đại học cộng đồng tiết kiệm ngân quỹ, vì trường nào cũng có khuynh hướng sử dụng nhiều lecturers hơn là các giáo sư toàn thời gian. Ông trưởng ban Anh văn giới thiệu tôi với ông giám đốc các lớp buổi chiều tại văn phòng của ông giám đốc. Cả hai người đều lịch sự và hòa nhã vô cùng trong buổi “job interview” ấy, một điều tôi ghi nhớ mãi đến tận ngày nay. Họ xem xét bản tiểu sử và phiếu ghi điểm của tôi từ hai đại học Miami và Georgetown, và hỏi tôi vài câu về kinh nghiệm dạy học. Rồi sau khi tôi ký tên vào đơn xin việc để hoàn tất thủ tục tuyển dụng làm lecturer, họ bắt tay cảm ơn tôi đã hợp tác với SAC, tiễn tôi ra về và cho biết trong khoảng hai tuần nữa tôi sẽ nhận được hợp đồng dạy học gửi về nơi tôi cư ngụ. Ông trưởng ban cũng tặng tôi cuốn textbook để soạn học trình (syllabus) cho lớp. Đó là giây phút “lịch sử” nối kết cuộc đời tỵ nạn của tôi với nền giáo dục đại học Mỹ! Tờ hợp đồng dạy học của tôi được gửi tới nhà y như lời họ hứa. Tôi không thể ngờ mức lương họ trả cho một lecturer lại khá như vậy. Mỗi lớp chỉ học một buổi chiều mỗi tuần trong khóa học, tức là tôi phải dạy 15 buổi, mỗi buổi 3 tiếng đồng hồ. Chỉ làm việc 45 tiếng đồng hồ mà tôi được trả 875 Mỹ kim cho lớp ấy, tính ra là gần 20 Mỹ kim mỗi giờ! Thêm một ngạc nhiên thú vị, vì lúc ấy 20 Mỹ kim có giá trị lắm. Khóa mùa thu 1976 khai giảng vào cuối tháng 8, và sinh viên học với tôi vào các ngày thứ ba mỗi tuần, bắt đầu từ 6 giờ chiều. Tôi đã soạn một học trình kỹ lưỡng cho lớp này, nắm vững nội dung cuốn textbook, và sẵn sàng “ra quân”! Buổi học đầu tiên cho tôi thấy San Antonio là một thành phố đa chủng tộc. Trong khoảng 20 sinh viên hiện diện thì gần nửa thuộc sắc tộc Mễ tây cơ, số còn lại là da trắng và một hai người da đen. Tôi tự giới thiệu qua loa và gửi lời chào mừng họ, trước bằng tiếng Anh và sau bằng tiếng Tây ban nha. Các sinh viên gốc Mễ tây cơ rất đỗi ngạc nhiên và lộ rõ niềm hân hoan vì tôi biết tiếng nói của họ! Sau khi giải thích cho họ rõ mục tiêu của lớp và những trách nhiệm của họ trong khóa học, tôi chia xẻ với họ về quá trình dạy học của tôi tại Việt Nam cũng như công việc tôi đang làm cho hãng Northrop trong căn cứ không quân Lackland. Phần thời giờ còn lại, tôi yêu cầu mọi người viết cho tôi một trang về cuộc đời của họ, để giúp tôi làm quen với họ. Tiện thể, đấy cũng là phương cách thực tế nhất để tôi lượng giá khả năng viết tiếng Anh của họ. Trước khi cho lớp ra về, tôi còn nhắc nhở họ chịu khó đi học đều đặn và đọc kỹ các chương trong textbook như đã ghi trong học trình. Buổi học đầu tiên thuận buồm xuôi gió. Khi đọc các trang sinh viên viết về cuộc đời họ thì tôi thấy khả năng viết tiếng Anh của họ không đồng đều chút nào. Vài ba người viết toàn hảo, đa số viết tạm được, và số còn lại viết dở lắm. Tôi biết là tôi sẽ phải để ý đến nhóm sau cùng này rất nhiều vì họ chưa nắm vững cú pháp và còn phạm nhiều lỗi chính tả. Qua những trang họ viết, tôi được biết họ làm nhiều công việc khác nhau để mưu sinh. Họ đều hy vọng khi tốt nghiệp SAC thì nghề nghiệp họ sẽ có cơ hội thăng tiến. Kinh nghiệm gần một thập niên dạy Anh văn của tôi tại Đại Học Saigon thực đáng giá ngàn vàng! Bao nhiêu “tuyệt chiêu” tôi đều mang ra sử dụng để giúp sinh viên SAC tránh được những lỗi lầm tối kỵ trong khi viết luận văn, như dàn bài lỏng lẻo dẫn đến sự thiếu mạch lạc (lack of cohesion), các câu văn tràng giang không chịu ngừng nghỉ (run-on sentences) vì người viết chưa giỏi cách chấm câu (punctuation), các câu cụt ngủn vì thiếu chủ từ hoặc động từ (fragments), lỗi cú pháp và chính tả (syntactical and spelling errors) gây ra vì cẩu thả, vân vân. Quả thực, tôi đã dùng khá nhiều mực đỏ khi chấm bài của họ! Sau khi trả lại các bài luận văn mà tôi đã chấm và sửa lỗi cho họ, tôi đều có phần tóm lược các lỗi chính và nhắc nhở họ cách tránh những “cạm bẫy” (pitfalls) ấy. Cuối khóa, tôi rất hài lòng với sự tiến bộ của học trò, và hãnh diện là không một người nào bị điểm “D” hay “F” trong lớp ra quân đầu tiên này của tôi! Sau khi nộp bài thi cuối khóa cho tôi thì đa số sinh viên lặng lẽ ra về. Một vài người nói lời cảm ơn và ca ngợi lối dạy học hữu hiệu của tôi. Người cuối cùng lên nộp bài là một sinh viên Mỹ trắng đứng tuổi có khuôn mặt đầy vẻ phong sương, luôn luôn ngồi ở một góc cuối lớp và chẳng bao giờ lên tiếng trong lớp. Một cách chậm chạp, ông ta nói với tôi đại khái, “Giáo sư Đàm ơi, trước khi chúng ta chia tay, tôi xin ông nhận lời tạ lỗi của tôi. Thú thực tôi đã lấy làm khó chịu với ông lúc khóa học bắt đầu vì ông là người Việt. Tôi là một cựu quân nhân Mỹ phục vụ tại Việt Nam, có bạn bè và thân nhân chết trận bên ấy. Tôi cũng lầm to khi cho rằng một người ngoại quốc như ông thì không thể nào dạy người Mỹ chúng tôi viết luận văn bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi được.” Vừa ngỡ ngàng vừa xúc động, tôi trả lời ông, “Ông không có lỗi gì đâu, nhưng tôi đa tạ tấm lòng thành khẩn rất dễ thương của ông.” Chúng tôi xiết tay nhau thật chặt và chúc lành cho nhau khi giã từ. Trên đường đi bộ ra bãi đậu xe, tôi còn nghe văng vẳng bên tai những lời nói thành khẩn bộc trực ấy của ông. Mắt tôi đã nhòa lệ lúc nào không hay.
(Trích từ tập Hoài Niệm Giáo Dục của GS Đàm Trung Pháp)
Trần Hoài Thư Ngày gặp bạn cũ
Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận Thoắt giờ đây: tóc đã điểm hoa râm Khi gặp lại từ phương này quả đất Chợt nhìn lên: giờ vầng trán đã nhăn Trong đôi mắt mỏi mê cùng cơm áo Có chút gì phảng phất của quê hương Mây Đèo Cả như hôm nào dừng lại Chiều Pleiku như buổi nọ mù sương Thấy như thể trời Bồng Sơn mưa đổ Chiều cuối năm quân chuyển xuống Đèo Nhông Đường xe lửa ai ngồi châm điếu thuốc Áo tơi dầu che khuất dãy Cù Mông Thấy như thể lon Guigoz cam khổ Chút đồ ăn còn trộn với tử sinh Nhai hối hả kịp xuống đồi đột kích Mưa xóa dầm dề khu trại gia binh Thấy như thể đêm qua về quận lỵ Vài ba thằng trải chiếu dưới đêm trăng Dăm trái ổi và bi đông rượu đế Con cá khô thiều chia chút tình thân Thấy như thể mồ hôi và nước mắt Mặn và đau từ núi nọ rừng kia Qua An Lão mày tao còn gọi máy Về Phù Ly hai đứa lại xa lìa Thấy trở lại những chuyện đời dâu bể Hôm nào đây miệng hò hét xung phong Trong chớp mắt, cả cơ đồ sụp đổ Buồn gì không hỡi thế hệ long đong Thằng ra Bắc, kêu thầy, thầy bỏ xứ Thằng vào Nam, gọi bạn, bạn lưu vong Sông núi ấy bao hồn ma trở dậy Kéo nhau về, kêu thảm một mùa xuân Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận Thoắt giờ đây, tóc đã điểm hoa râm Khi gặp lại từ phương trời viễn khách Chợt nhìn nhau, sao nước mắt lưng tròng
Trần Yên Thảo KHÚC TÌNH CA CỦA NÚI
1. Khi qua suối Mán rừng Mường thò tay hái nụ vô thường gởi nhau mình về quên chuyện trước sau ta đi rồi cũng hao hao như mình.
2. Cho xong chén cuối quan hà về thanh thản giữa chiều tà M’Nông dặn luôn em Thái em Nùng có xuôi miệt dưới thì đừng rủ ta.
3. Chào dòng nước mắt mới sa ta từ gió Mán về qua mưa Nùng quanh em trùng điệp núi rừng thì cầm như cũng chưa từng có em.
PHẬT MẮNG
Hồ đồ tách bạch thị phi sát sinh, âu có khác chi độ đời hay cho ác thiện rạch ròi mắt tinh anh, khác chi người mù đui.
RỪNG LÊN TIẾNG
Nửa đời quỵ gót tiêu dao vực sâu không đáy đỉnh cao không cùng phơi thân về giữa núi rừng nằm nghe nhớm gốc trên từng sợi lông.
TIẾNG VỖ CỦA MỘT BÀN TAY
Bát Nhã Ba La Mật Đa đơn thân hạt bụi phủ qua đại ngàn tử sinh vừa xếp thành hàng thoắt nghe tiếng vỗ một bàn tay không.
SINH TỬ KHÚC
Vũ Tiến Lập heo may
cỏ bồng cánh mỏng ngược đường chơi vơi giữa đường đang thoái vị nắp chiều đã đậy độ phu còn khơi động mái những con mắt tinh cầu thức giấc ngoại thành trăng vặc và tôi gối tay nhìn trời tịnh độ.
khách trần
gió tru tréo thất thường xua mùa đông vào cửa áo thốc từng nỗi niềm nghi hoặc tháng giên đầy vong đông cảm giác vỗ về mơn trớn trên vai khách trần đêm mặc nhiên và thật nhất ngoài trừ sự nhận biết không trách cứ
rồi chuyển hóa như con đường mặc vết lăn nghiền dẫm giòng sống ảo thuật đi tìm giấc mơ minh bạch nhận ra tha lực đã chết khô nhặt lại một dấu tích cũ sao đổi trời tắt trên tay.
Nguyễn Minh Triết NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HOÁ VIỆT
Văn hoá là sự kết tinh của tư tưỏng bằng kinh nghiệm sống thực của một dân tộc. Dân tộc Việt Nam trải qua hơn 4000 năm mở nước và dựng nước đã có một nền văn hoá thâm sâu với một cơ sở tư tưỏng triết học vững chắc nhờ đó mà dân tộc Việt đã vượt qua được mọi cuộc thử thách của lịch sử để trường tồn cho đến ngày nay. Nền văn hoá đó đã đã được hình thành qua những bước tiến của lịch sử dân tộc cũng như đã được kết tụ và lưu truyền qua huyền sử. Trong giai đoạn khởi nguyên của lịch sử, con người còn chưa có chữ viết nên huyền sử đã đóng một vai trò quan trọng trong việc ghi lại và lưu truyền sử liệu từ quá khứ xa thẳm cho đến khi có chữ viết. Lịch sử của các dân tộc từ Lưỡng hà, Ai cập, Hy lạp đến Trung hoa cổ xưa đều có phần huyền sử. Giá trị của huyền sử phải được hiểu một cách biểu kiến qua những hình ảnh ẩn dụ. Gần đây huyền sử đã được các sử gia thừa nhận tánh cách sử liệu của nó sau khi được thẩm định một cách duy lý và gạn lọc các yếu tố không thực. Nhưng huyền sử còn nhằm đi xa hơn và sâu hơn lịch sử vì huyền sử không chỉ nhằm xác định như lịch sử mà còn muốn đi xa ra bên ngoài tầm với của sử liệu và đào sâu vào những ẩn tàng thâm viễn mà sử ký không đủ khả năng truyền đạt. Lich sử chỉ nhằm kể lại những biến cố còn huyền sử mới đi vào được khu vực tâm linh nói đến những khả thể sâu nhứt của con người muôn thuở vượt giới hạn của thời gian và không gian. Do đó, một số nhà tư tưởng lịch sử Việt Nam đã đề nghị dùng danh từ sử thoại thay vì huyền sử để phân biệt giá trị sử liệu của các câu chuyện này đối với các chuyện thần thoại. Là một dân tộc có 4000 năm văn hiến nên Việt Nam từ ngàn xưa đã có riêng một di sản phong phú về huyền sử. Trước tiên là huyền sử Tiên Rồng hay Một Bộc Trăm Con. Theo huyền sử này thì dân Lạc Việt khởi nguồn từ sự kết hợp của hai giống Tiên và Rồng. Rồng Lạc Long đã kết duyên cùng Tiên Âu Cơ và sinh ra một bọc chứa một trăm trứng nở được một trăm người con trai. Sau đó, cha Rồng nhớ nguồn cội của mình là Thuỷ cung nên chia con ra làm hai, 50 con theo cha xuống biển, 50 con ở lại với mẹ Tiên trên non. Qua huyền sử Một Bọc Trăm Con này tiền nhân đã truyền cho hậu thế nhiều ẩn ý về nguồn gốc và triết lý của dân tộc Lạc Việt. Tiên và Rồng là hai biểu tượng không có thật nhưng Tiên đã được dùng như hình ảnh của con người đã thánh hoá, siêu thoát, tượng trưng cho sự thanh nhã, khoan ái, trường tồn. Trong khi Rồng biểu trưng cho oai dũng, cho sức mạnh, tính nhẫn nại và tài năng biến hoá vô cùng. Cuộc hôn nhân của Tiên và Rồng là sự kết hợp sinh động của nét thanh nhã hiền hoà với sức mạnh và tài năng thiên biến vạn hoá. Sự kết hợp đó đã tạo nên giồng giống Việt, một giống dân vừa xinh đẹp, dịu hiền, vừa hùng dũng, cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa linh động vừa thường hằng, vừa vật thể vừa siêu phàm. Và đó chánh là ẩn ý mà tiền nhân muốn trao gởi lại cho hậu thế để tự hào về đặc tính của dân tộc Lạc Việt. Mặt khác, vì cùng sinh ra một lượt trong một bọc nên tất cả đều bình đẳng không có người trước người sau. Với ý nghĩa này, tổ tiên Lạc Việt đã dạy chúng ta là không chỉ giống giồng Tiên Rồng mà tất cả con người đều cùng một nguồn gốc sinh ra và tất cả các giống dân trên trái đất này đều bình đẳng và phải thân thương nhau trong tình ruột thịt. Sự tích Tiên Rồng cũng thể hiện rõ rệt quan niệm về Đạo của Việt tộc. Đạo bao gồm ba yếu tố là âm, dương và hoá tức âm dương hoà hợp tạo nên Đạo. Bình thường người ta chỉ thấy có âm và dương: âm tán dương tụ. Muốn trở thành Đạo âm dương phải kết tụ, giao hoà để tạo nên mối liên hệ ràng buộc vạn vật với nhau một cách mật thiết. Tiên đã kết hợp với Rồng để tạo nên Đạo sống Việt. Một huyền sử khác cũng chuyên chở những tư tưởng của tổ tiên Lạc Việt là chuyện Chử Đồng. Chuyện xưa kể rằng tại làng Chử xá có một gia đình nghèo mạt đến nỗi hai cha con chỉ có một cái khố vải, hai người phải thay đổi cho nhau dùng mỗi khi đi ra ngoài. Khi cha chết Chử Đồng không nở chôn cha không khố, vì vậy chàng không có gì để che thân. Trần truồng đói rét, Chử Đồng thường lân la ở các bụi lau sậy dọc bờ sông, xa các nơi có cư dân và câu cá mà sống. Cùng lúc ấy công chúa Tiên Dung, con gái của vua Hùng Vương thứ 3 tuổi vừa đôi tám, dung nhan diễm lệ, tính tình cao nhã và thích dùng thuyền ngao du sơn thuỷ. Một hôm thuyền của công chúa ghé vào nơi chàng trú ngụ. Sợ hãi Chử Đồng vội vàng trốn vào bụi lau, đào một hố sâu ẩn mình rồi lấp cát lên trên. Không ngờ một lát sau, công chúa lại cho vây màn quanh khóm lau đó để tắm. Khi nước làm trôi cát, Tiên Dung phát giác ra Chử Đồng và hai người cùng nhìn thấy thân hình lồ lộ của nhau. Chử Đồng sợ hãi bày tỏ sự tình nhưng công chúa cho là duyên trời xui khiến nên cùng Chử Đồng kết duyên chồng vợ. Vua Hùng biết truyện lấy làm giận, cấm không cho công chúa trở về cung nữa. Tiên Dung chấp nhận cuộc sống mới đem của cải cùng chồng gầy dựng làm ăn với dân chúng trong vùng và với thương nhân ở các vùng xa. Dần dần nhà cửa phố xá nơi ấy trở nên khang trang đẹp đẽ, cuộc sống của dân chúng trong vùng cũng ngày một phát đạt và sung túc. Chử Đồng ra biển đi buôn một hôm gặp quí nhân truyền cho phép thần thông và nhờ phép thuật này, Chử Đồng biến khu nhà ở ra cung điện, thành quách nguy nga có kẻ hầu người hạ. Dân chúng hay tin đến dâng lễ vật và tôn xưng hai người làm tiểu vương. Hùng Vương được tin cho là công chúa muốn làm phản nên cho quân đi đánh dẹp. Đến nơi khi quân chuẩn bị tấn công thì phố xá, thành quách bỗng chuyển động mạnh rồi bay về trời. Qua câu chuyện vừa kể ta thấy đây là một cuộc tình độc đáo và khác thường. Sự khác thường ở đây là cuộc tình này không kết thúc bằng cuộc sống vương giả của Chử Đồng mà lại đem nàng công chúa Tiên Dung cành vàng lá ngọc vào sống với đại chúng. Mối tình của Chử Đồng và Tiên Dung đã nói lên nguyên lý Mẹ hay sự vượt trội của nữ quyền trong văn hoá Việt Nam cổ xưa. Vai nữ Tiên Dung trong sự tích Chử Đồng là một công chúa giàu sang có kẻ hầu người hạ nên dĩ nhiên quen với đời sống đầy uy quyền. Trong khi đó Chử Đồng nghèo kiết xác xơ thì làm sao mà có quyền uy với vợ được. Điều này cho ta thấy rõ ở Việt Nam thời xưa người mẹ làm chủ gia đình. Danh từ “nội tướng” còn lưu truyền đến ngày nay đã phản ảnh điều này và nói lên quyền của người mẹ. Công chúa đã bỏ thuyền lên bờ, vây màn ngăn cách với đám hầu cận, ngăn cách với giàu sang quyền tước. Nàng lại còn cởi bỏ xiêm y dùng nước gội sạch mọi bụi bậm vướng bám trên người. Kỳ diệu thay, chính dòng nước gội sạch bụi bám trên người nàng cũng rửa hết cát bùn trên người chàng. Và họ đã tìm thấy nhau rõ ràng, lồ lộ, trong một tư thế không còn bị phân cách bởi ngoại vật, bởi quần áo, bởi giai cấp, bởi giàu sang hay nghèo hèn. Họ đã gặp nhau, hai con người đích thực và nguyên thuỷ đã gặp nhau. Họ đã gặp nhau trong bình đẳng và đã nên duyên vợ chồng trong tự do và tự nguyện. Và phải chăng đấy là những điều tổ tiên muốn ký thác cho hậu thế qua sự tích Chử Đồng? Tình yêu đích thực là tình yêu không giai cấp và những người yêu nhau phải biết tìm đến nhau với tâm hồn trong sáng. Ngoài ra, sự tích Chử Đồng cũng cho ta thấy một quan niệm xã hội rất tiến bộ vào thời bấy giờ là quan niệm tự do luyến ái, sự phân công trong gia đình, và hình ảnh một xã hội bình đẳng và trọng thương. Tiên Dung và Chử Đồng đã tự do lấy nhau bất chấp sự ưng thuận của gia đình là một quan niệm luyến ái rất tiến bộ mà nhiều xã hội mãi đến hậu bán thế kỷ 20 mới chấp nhận. Một huyền sử khác cũng ẩn chứa nhiều tư tưởng của tiền nhân là chuyện Thánh Gióng của làng Phù Đổng. Vào đời Hùng Vương thứ 6, biết được nhà Ân phương bắc đang tập trung binh mã định xâm lấn nước ta, vua Hùng rất lấy làm lo ngại cho sứ đi khắp nơi kêu gọi người hiền tài ra giúp nước. Đang khi đó tại làng Phù Đổng có một cậu bé tên Gióng đã ba tuổi mà không biết nói cười đi đứng gì cả. Nhưng khi nghe sứ vua rao tin, cậu liền bật nói nhờ mẹ gọi sứ giả vào để xin sứ tâu vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, một con roi sắt, một áo giáp sắt, và một cái nón sắt để cậu phá giặc. Khi được sứ tâu vua Hùng tin là điềm lành đúng như mộng đã báo nên vua bèn truyền cho thợ gấp rút rèn đủ những thứ Gióng cần. Trong khi đó, biết được tin láng giềng đem cơm gạo vải vóc tới giúp cậu ăn mặc và cậu bé đã lớn như thổi. Khi ngựa sắt và các thứ đã được đúc xong thì giặc Ân cũng vừa tràn qua biên giới. Gióng liền mặc áo giáp, đội mũ sắt và vươn vai thành người cao lớn. Khi cậu nhảy lên ngựa sắt, lập tức ngựa sắt chồm lên, mũi khịt ra lửa rồi lao vút đi. Chỉ chớp mắt là đã đến chân núi Châu Sơn là nơi đóng quân của giặc Ân. Gióng phi ngựa, vung roi sắt, xông vào quân giặc. Đánh đến đâu quân giặc chết như rạ đến đấy. Khi roi sắt bị gãy, Gióng nhổ những bụi tre bên đường làm vũ khí tiếp tục giết giặc. Khi đánh tan hết quân giặc Gióng cởi ngựa lên núi Sóc sơn cởi bỏ áo giáp rồi bay về trời. Vua Hùng nhớ công ơn vị anh hùng đã dẹp giặc cứu nước bèn phong cho Gióng tước hiệu Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ. Qua huyền sử này ta thấy tổ tiên đã nêu lên vấn đề trách nhiệm của tuổi trẻ Việt Nam nói riêng và của toàn dân nói chung khi đất nước bị xâm lăng cũng như trách nhiệm của cấp lãnh đạo quốc gia trong công cuộc giữ nước. Thánh Gióng là hình ảnh tượng trưng cho tuổi trẻ Việt Nam biết dấn thân cho nước cho dân. Khi đất nước lâm nguy, cậu bé không biết nói cười đi đứng bỗng nhiên nói được là hình ảnh của tuổi trẻ thầm lặng lúc bình thường đã ý thức trách nhiệm của mình khi đất nước lâm nguy và đã đứng lên hưởng ứng lời kêu gọi của vua tòng quân chiến đấu giữ gìn bờ cõi. Thánh Gióng cũng nói lên sức mạnh tiềm tàng của dân tộc và hình ảnh mọi người trong làng đem cơm gạo vải vóc tới giúp cậu bé ăn mặc là hình ảnh toàn dân một lòng đoàn kết trong công cuộc chống giặc ngoại xâm. Lúc bình thường sức mạnh tiềm tàng đó rất âm thầm lặng lẽ nhưng khi quốc gia nguy biến sức mạnh đó sẽ vùng lên và lớn mạnh như thổi đủ sức tạo thành những cơn bão táp có thể giật sập tất cả những cuồng vọng xâm lăng của ngoại bang. Chuyện Thánh Gióng cũng cho thấy sự hữu hiệu của đường lối lãnh đạo quốc gia. Vua Hùng đã sáng suốt cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài đức ra giúp nước chống ngọai xâm chứ không độc quyền yêu nước một mình nên đã đoàn kết được các tầng lớp nhân dân, cũng như giữa vua và dân nên đã thành công trong việc đánh tan giặc Ân. Dựa vào kinh nghiệm sức mạnh toàn dân của tiền nhân mà Hai Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng như Nguyễn Huệ đã để lại những trang sử oai hùng trong việc đánh bại những đoàn quân dũng mãnh của giặc Tàu phương bắc. Chuyện Thánh Gióng cũng minh hoạ tinh thần coi nhẹ lợi danh và chức tước của kẻ chánh nhân quân tử. Khi đã làm tròn trách nhiệm người lãnh đạo chân chánh biết nhẹ nhàng “cởi bỏ áo giáp” không bon chen trong chốn lợi danh, biết lui về đúng lúc để sống cuộc sống an nhàn bình dị trong lòng dân tộc. Những nét đặc trưng của văn hoá Việt không chỉ được nêu lên trong các huyền sử vừa kể mà còn bàng bạc trong rất nhiều chuyện tích khác nữa như chuyện Bánh Chưng, Bánh Dầy nói về cách thức chọn người truyền ngôi vua rất là dân chủ, đồng thời bánh chưng có hình vuông tượng trưng cho đất, bánh dầy hình tròn tượng trưng cho trời. Hai hình ảnh vuông tròn này được dùng để chỉ sự quân bình giữa âm dương trong vũ trụ, sự hài hoà trong cuộc sống xã hội, sự kết hợp hạnh phúc trong tình vợ chồng… Trong khi đó, chuyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh nói về lòng can trường của tổ tiên trong việc chế ngự thiên nhiên để dựng nước và mở nước, chuyện Trầu Cau nói về sự hi sinh giữa anh em và vợ chồng, chuyện An Tiêm nói về làng xã tự trị và đường lối xây dựng kinh tế tự túc, chuyện Trong Thủy, Mỵ Châu nói về sách lược giữ nước và chiến pháp quân sự để đương đầu với thù trong giặc ngoài… Ngoài ra, các đặc trưng của văn hoá Việt còn được tìm thấy trên các di vật cổ đã khai quật được tại các khu vực Hòa bình, Bắc sơn thuộc miền bắc Việt Nam, trên những di vật trong các cổ mộ, hoặc những chứng tích qua các hình thái kiến trúc đình, miếu, chùa chiền, lăng tẩm cũng như qua các phong tục tập quán, lối thờ cúng tổ tiên thể hiện trong cuộc sống hằng ngày của người dân. Trong số các cổ vật đó trống đồng Đông sơn được xem là quan trọng nhứt vì trên mặt trống có ghi lại rất nhiều di chỉ về nền văn hoá Lạc Việt. Những di chỉ nầy cho thấy nền văn hoá Việt cổ là một nền văn hoá nông nghiệp và nền văn hoá đó đã rất tiến bộ so với các nền văn hoá đương thời. Nền văn hoá Lạc Việt nguyên thủy kéo dài khoảng trên 2500 năm suốt từ thời đại đồ đồng cho đến khi nước ta bị nhà Hán xâm lăng vào trước công nguyên. Trong thời gian bị Tàu đô hộ văn hoá nguyên thuỷ của Việt tộc đã bị Hán hoá phần nào. Đến khi dành lại được độc lập, nhứt là trong giai đoạn dưới các triều vua Lý, Trần, Lê nền văn hoá cổ được phục hồi lại song song với sự du nhập các tư tưởng Phật giáo, Khổng giáo, và Lão giáo. Đến thời nhà Nguyễn, tư tưởng Khổng giáo được đưa lên hàng đầu nhưng chẳng bao lâu khi nước ta lại bị Pháp đô hộ, nền văn hoá phương tây đã theo chân người Pháp len lỏi vào đời sống văn hoá của người Việt. Cho nên có thể nói văn hoá Việt Nam là một tổng hợp của ba nền văn hoá. Đó là văn hoá Lạc Việt, văn hoá Hán tộc và văn hoá phương tây. Quá trình tiến hoá của lịch sử dân tộc cho thấy dù bị ảnh hưởng nặng nề gần 1000 năm bởi nền văn hoá Hán tộc và100 năm bởi văn hoá phương tây, dân tộc Việt vẫn không bị đồng hoá và mất gốc chánh là nhờ vào sức mạnh đặc thù của nền văn hoá Lạc Việt nguyên thuỷ. Nhờ vào sức mạnh văn hoá đó nên không những không bị đồng hoá mà dân tộc Việt còn có khả năng tiếp nhận rồi Việt hoá những nét hay đẹp của các nền văn hoá khác. Huyền sử cũng như lịch sử cho thấy một nét đặc trưng khác của Việt tộc là dân Việt đã phải sống trong chiến tranh triền miên và chánh cuộc sống trong chiến tranh lâu dài để bảo vệ giống nòi đã hun đúc nên lòng yêu nước và ý thức quốc gia mạnh mẽ nơi mỗi người dân đối với tổ quốc. Tuy nhiên, dù được trui rèn trong chiến tranh giai dẳn nền văn hoá Lạc Việt không mang tánh chất độc ác tham tàn mà rất nhân hậu, thái hoà cũng như rất huyền biến biết dùng nhu để thắng cương trong những điều kiện lịch sử hiểm nghèo để sinh tồn. Những huyền sử thời Hồng Bàng cho thấy sự khôn ngoan cũng như lòng nhân hậu của các vua Hùng mà mấy ngàn năm sau đã thể hiện trở lại qua tư tưởng lấy chí nhân mà thay cường bạo của chiến lược gia Nguyễn Trãi trong bài hịch viết cho Lê Lợi kêu gọi toàn dân đoàn kết chống quân Minh. Sự lãnh đạo đất nước sáng suốt thời Thánh Gióng đã thể hiện lại trong Hội nghị Diên hồng, một hội nghị đã khơi dậy ý thức quốc gia và lòng yêu nước của toàn dân nên đã đem lại cho quân dân nhà Trần một chiến thắng hiển hách trước quân Nguyên và sự vẹn toàn lãnh thổ cho nước Đại Việt. Theo gương các vua Hùng các vua sau này trong quá trình lịch sử của dân Việt chẳng có vua nào là võ biền, hiếu chiến cả. Chiến tranh của Việt tộc hầu hết chỉ là để tự vệ chớ không phải để thôn tính. Chiến thắng trong chiến tranh cũng đồng nghĩa với sự sụp đổ của bạo lực và tội ác, sự tiêu vong của bất công cho hoà bình và công chính được phục hồi, cho thương yêu và an vui được toả rộng. Tư tưởng Thái hoà nhân hậu của văn hoá Việt còn bàng bạc trong cuộc sống xã hội. Xã hội Việt Nam từ ngàn xưa cho đến nay là một xã hội không có giai cấp nên nàng công chúa Tiên Dung mới kết duyên với chàng thanh niên không khố che thân Chử Đồng. Trong xã hội đó mọi người đều bình đẳng và có quyền lợi như nhau. Ngoài ra, vì cùng sanh ra trong một bọc nên mọi người coi nhau là đồng bào, là bà con ruột thịt và gọi nhau bằng những tên thân quen như trong gia đình. Nhờ tư tưởng thái hoà mà dân tộc Việt đã trường tồn hơn 4000 năm dù đã trải qua biết bao thử thách của thiên nhiên, của xâm lăng và đồng hoá. Thái hoà là hoà vào với hai đối cực, nhưng hoà không có nghĩa là cộng lại thành một số lượng lớn hỗn tạp mà hoà là gây ra sự quan hệ hỗ tương, là đi tìm sự sống đồng điệu, là tìm sự sinh tồn trên con đường tiến hoá. Trong môi sinh, bao nhiêu loại thực vật và động vật đã bị tuyệt chủng vì không đủ khả năng biến thể để phù hợp với tình trạng môi sinh chung quanh. Trong khi đó, những giống loại còn hiện hữu là nhờ biết biến thể những sắc tố di truyền trong DNA để thích nghi với bối cảnh sống, tạo thành hành trình tiến hoá nên tồn tại. Do đó, bản thể của sự tiến hoá là thái hòa. Một nền văn minh, một nền văn hoá muốn tồn tại cũng phải biết sống hợp với nguyên lý thái hoà này tức phải biết đáp ứng nỗi nhu cầu tương hợp và giao lưu giữa hai đối cực. Trong quan niệm triết học đông phương, hai đối cực là hữu hình và vô hình, là trời và đất. Trời là tinh thần, là linh lực siêu vật chất, được thể hiện qua con người dưới dạng ý thức hệ, tư tưởng, chủ nghĩa, và tôn giáo. Trời cũng là Tiên, qua hình ảnh của mẹ Âu cơ. Đất là vật chất, là hệ thống môi trường vật thể chung quanh chúng ta, và cũng là năng lực của khoa học. Đất là Rồng, được biểu hiện bằng hình ảnh của cha Lạc Long. Con người phải hoà với Trời và Đất để sinh tồn và tiến hoá. Tư tưởng thái hoà của con Người giữa Trời và Đất trong văn hoá Lạc Việt cũng được ghi lại trên mặt trống đồng Đông sơn. Mặt trống hình tròn tượng trưng cho vũ trụ. Mặt trống được chia hai, bên âm bên dương biểu thị bằng số chẵn và số lẻ. Vũ trụ muốn được thái hoà phải có sự tương hợp và giao lưu của âm và dương. Như vậy trống đồng đã xác định lại quan niệm về Đạo của Việt tộc qua sự tích Tiên Rồng. Ngoài ra, mặt trống còn có nhiều vòng tròn đồng tâm. Vòng trong cùng là hình mặt trời đem nguồn năng lượng thiên nhiên cho sự sống còn của vạn vật. Vòng giữa minh hoạ cảnh sống thái hoà của loài người đang múa ca hạnh phúc cùng muôn loài. Vòng ngoài diễn tả trái đất với cảnh gió mưa, sông hồ, nước non lưỡng hiệp. Con người trong cảnh thái hoà đó không phải chỉ gồm có thể xác mà còn có phần tâm linh. Con người cũng không phải chỉ là một con vật kinh tế, mà còn phải biết ý thức đến một đường lối sống thái hoà, một đường lối sống quân bình, và toàn diện. Đường lối sống thái hoà mang những nét đặc trưng văn hoá Lạc Việt như vừa được trình bày trong bài viết này chánh là đường lối sống đặc biệt Việt Nam tức VIỆT ĐẠO. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân Việt nhờ có một nền tảng tư tưởng vững chắc mà lại uyển chuyển nên đã trường tồn. Lịch sử cũng đã chứng minh là người Việt Nam dù sống ở đâu, miễn không quên lối sống Việt hay Việt Đạo sẽ không sợ bị đồng hóa hay mất gốc. Việt Đạo còn dân tộc Việt sẽ còn.
Nguyễn Lương Vỵ Thời gian
Bên này biển nhớ bên kia biển Sóng bạc đầu câu chuyện ngày xưa Lá khô nỗi nhớ dâng mùa Niềm thương mận chin dâng mùa tụng kinh
Lời đất trích tấm hình gió lật Cất trong tim sầu ngất tro than Trăng suông đỏ hết hồn đàn Ngàn dâu tím hết non ngàn ngẩn ngơ
Chờ rách mắt câu thơ chưa đến Gọi mềm môi bờ bến chưa đi Sông trôi và chảy rầm rì Núi ngồi và đứng tứ chi rụng rời
Thời mạt thế trời ơi đất hỡi Bởi vì đâu thế giới tan hoang Lưỡi lê điếng tiếng cười khan Hay là tiếng khóc ói tràn mật xanh
Đời quá vắng thôi đành cố cựu Mái nhà xưa rót rượu dâng hương Hồn êm bóng mát từ đường Ừ thôi dâu bể về nương chốn này
Chốn nơi ấy là đây bóng mộ Bóng thời gian lót ổ ta nằm Một ngàn thế kỷ xa xăm Câu thơ ngấn lệ tình thâm tặng người.
Ngô Nguyên Nghiễm Bỗng nhiên gặp lại bạn xưa bèn cùng uống rượu truyền âm
Năm mươi năm không gặp Đời đổi thay đâu ngờ Áo quàng, chân dính đất Hồn lạnh đầu bạc phơ
Thời gian như cánh nhạn Hư ảo (trò gió sương) Ngũ thập tri thiên mệnh Chẳng còn gì bâng khuâng
Ngày nào hoa nguyệt lộ Tang bồng như chim xanh Bây giờ hai thứ tóc Nói năng như ngậm tăm
Thế kỷ đang cô đọng Cứng đôi mày cố nhân Hay là trong cách cảm Nói, cũng bằng như không Nâng ly đi bằng hữu Mười năm là ngọc châu Cắm quanh rào dĩ vãng Môt chút gì, chiêm bao..
Bạn nén dài tiếng thở Ngó bạt ngàn phương trời Con chim hoang đang liệng Như suốt đời, vậy thôi…
Bao năm quên gặp gỡ Trăm điều như mọi điều Cất lời không nói được Hồn ai ngồi quạnh hiu
Bạn, ta – con sóc nhỏ Nhảy loanh quanh trưa hè Đọt trăm bầu trước ngõ Mà lạnh lùng sơn khê
Rượu lạt lẳng lặng rót Ly cạn lẳng lặng đầy Mười năm mà đầu bạc Lẳng lặng, chừa một ai!
Mỗi người một kỷ niệm (của gia bảo riêng nhau) Ta nỡ nào đếm xỉa Vó câu vụt qua mau
Chuyện đời vẫn là vậy Khoảnh khắc còn nhau đây Ngày mai ai biết được Chuyện nào của đám mây…
Ừ thôi, người bạn nhỏ Bây giờ mình đã già Sống trăm nền triết học Như trò đùa hôm qua
Gặp nhau đâu cần nói Ngôn ngữ lạnh chân trời Ó vàng và thỏ bạc Chạm nhau trên đầu môi
Nếu bạn không rót nữa Rượu cũng là cố nhân Thì thôi, đầy ly cạn Rượu sẽ hóa tâm hồn
Mai này ta lại gặp Dù cũng lại mười năm Ngậm tăm hai thứ tóc Tang bồng như chim xanh..
Nguyễn lập đông rượu
tính là để nhẹ vài ly, hóa ra quá chén ly bì cùng đêm. lại là bí tỉ mình ên. để cho nước mắt êm đềm ru mơ
trà
Sáng trời, sáng đất, sáng ta. Thấy lòng khây khỏa pha trà uống chơi. T ách đầu phơi phới mời tôi. Tách sau chưa uống đã rơi lệ nhòa.
Trần Văn Lương Về quê
Hôm đó là ngày thứ năm. Phải, ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11, ngày lễ Tạ Ơn của nước Mỹ. Tôi không phải đi làm, suốt cả ngày hết ăn rồi lại nằm, hết nằm rồi lại xem Ti Vi, cố gắng tận hưởng những giờ phút nghỉ ngơi hiếm hoi ở cái đất nước văn minh cơ khí này. Chợt nhìn đồng hồ thấy đã gần 5 giờ chiều, tôi vội vàng đi thay quần áo để ra bờ biển làm thủ tục chạy bộ hàng ngày. Cách đây mấy tháng, từ lúc bà xã tôi tình cờ phát giác ra cái vòng số hai của tôi càng lúc càng lớn ra và tôi càng lúc càng có triển vọng đoạt giải nhất cuộc thi lực sĩ “bụng nở ngực thon”, thì bà ấy, ngoài việc cấm tôi ăn các đồ béo, lại còn âu yếm ra lệnh cho tôi mỗi ngày: sau khi từ sở làm về, phải ra bờ biển gần nhà chạy bộ ít ra là 4 dặm để tiêu đi bớt mỡ. Tôi kính cẩn tuân lời (các cụ dạy rằng: “Có 3 loại tội bất hiếu, không tuân lời vợ là tội lớn nhất”. Tôi xin chép lại nguyên văn chữ Hán để quý vị tiện đường tham khảo: “Bất hiếu hữu tam, bất tuân thê lệnh vi đại”). Và từ đó, bất kể nắng mưa sáng tối, cứ vào khoảng 5 giờ chiều là những người đi dạo tại bờ biển Newport Beach lại thấy một anh chàng Việt nam ỳ à ỳ ạch bê cái thùng nước lèo của mình từ Newport Pier tới Balboa Pier và trở lại. Đoạn đường chiến binh dài đúng 4 dặm! Bà xã tôi thấy tôi bước ra cửa bèn nhẹ nhàng bảo: – Hôm nay là ngày Lễ Tạ Ơn, em cho phép anh nghỉ ở nhà một bữa. Tiếc công mặc quần áo và thoáng thấy mấy rổ đồ giặt mới lấy từ máy sấy ra chưa kịp gấp, tôi vội vàng vừa đi vừa bảo: – Thôi em ạ, thể dục phải chuyên cần mới có kết quả. Nghỉ được một ngày thì sẽ nghỉ mãi. Anh ra chạy chừng một tiếng sẽ về ngay. Bà xã tôi dặn với theo: – Anh ráng về sớm để ăn cơm với các con. Tôi hấp tấp gật đầu và dong xe đi ra bờ biển. Thực tình trong bụng hôm nay tôi cũng muốn ở nhà cho khỏe, nhưng không hiểu có một mãnh lực nào thôi thúc tôi phải cương quyết đi cho bằng được. Chả lẽ… vì bà cụ chăng? Không có lý! Tôi vừa lái xe vừa thắc mắc mà không tìm ra câu trả lời. Có một điều gì đó mà sau này tôi mới hiểu được. Vừa đặt chân xuống bờ biển, tôi đã thấy ngay bóng bà cụ đổ dài trên bãi cát sát chân trạm cấp cứu số 13. Trạm cấp cứu này nằm giữa đoạn đường chay bộ của tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm, lòng bỗng thấy mừng thầm mà không hiểu tại sao. À, thế là hôm nay bà cụ cũng ra hóng gió. Không biết bà cụ đã bắt đầu mỗi chiều ra ngồi ở chỗ đó từ ngày tháng nào. Tôi chỉ biết là kể từ lúc tôi thực hiện chương trình thể dục bất đắc dĩ này thì tôi đã thấy cụ ngồi đó rồi. Mỗi ngày cụ đều đến trước tôi, và khi tôi ra về thì cụ vẫn còn ngồi đó. Đó là một bà cụ Á châu vào khoảng trên dưới 80 tuổi mà tôi nghĩ là người Việt nam. Tôi chỉ đoán thế dựa trên cách ăn mặc của cụ vì chưa bao giờ tôi được cụ mở miệng ban cho một câu, hoặc nhìn một cái. Mỗi ngày lúc chạy ngang qua cụ tôi đều nhìn cụ gật đầu chào, mong có cơ hội làm quen, vì nhìn cụ, tôi lại liên tưởng đến mẹ tôi cũng cỡ tuổi như cụ đang còn ở tại quê nhà. Đáp lại, cụ chỉ lạnh lùng khẽ gật đầu, mắt vẫn đăm đăm nhìn ra xa như muốn tìm kiếm cái gì bên kia bờ Thái Bình Dương. Cái gật đầu thật là nhẹ, phải để ý lắm mới thấy được. Và cũng chưa bao giờ tôi chạm được ánh mắt cụ. Cặp mắt buồn xa xôi dưới vầng trán nhăn nheo luôn luôn hướng ra khơi. Nhiều lúc tôi muốn tìm cách gợi chuyện với cụ nhưng cuối cùng lại thôi vì tôn trọng sự kín đáo của cụ. Mối liên hệ giữa tôi và cụ chỉ có thế, giới hạn trong hai cái gật đầu trong lần đi và trong lần về. Nghi thức xã giao này được lặp đi lặp lại mỗi ngày trong mấy tháng trời qua. Hôm nay cũng thế, khi đến gần cụ tôi lại nhìn cụ cúi đầu chào, hai chân vẫn tiếp tục chạy. – Chào cậu! Tôi nghe như bị điện giật, hai chân khựng lại. Tôi vội quay nhìn cụ và ấp a ấp úng: – Kính chào cụ. Cụ là người Việt nam? Cụ nhìn tôi khe khẽ gật đầu, nét mặt vẫn lạnh lùng không lộ chút tình cảm nào. Nhưng khi cụ nhìn tôi, tôi thoáng thấy trong ánh mắt cụ ẩn hiện một chút hóm hỉnh như có vẻ giễu cợt sự ngây ngô của tôi: người ta đã nói “Chào cậu” mà mình lại còn hỏi “Cụ là người Việt nam?” Tôi lúng túng tần ngần chưa biết phải làm gì thì cụ đã bảo: – Cậu ngồi xuống đây mình nói chuyện một chút. Hôm nay tôi có ý đợi cậu. Tôi rón rén ngồi xuống cát, cách xa cụ độ một sải tay. Tôi đi từ ngạc nhiên này qua ngạc nhiên khác, không biết bà cụ đợi tôi có chuyện gì. Như hiểu ý tôi, cụ ôn tồn bảo, giọng nói đã bớt đi một tí lạnh lùng: – Cậu ngạc nhiên lắm phải không? Cậu ngạc nhiên là phải vì điều này hơi đột ngột đối với cậu. Tôi muốn gặp cậu chiều nay để từ giã cậu và cám ơn cậu đã chào hỏi tôi trong mấy tháng qua. Hôm nay là ngày cuối tôi ra đây. Mai tôi về quê. Tôi nghĩ thầm trong bụng, bà cụ có vẻ nhà quê nhưng lại thông minh đáo để và nhận xét người hết sức sâu sắc. Bây giờ mới có dịp quan sát kỹ cụ, tôi bỗng thấy nét mặt cụ có vẻ quen quen, nhưng không nhớ ra là đã thấy cụ ở đâu trước khi gặp cụ nơi bờ biển này. Tôi vội vàng hỏi: – Cụ về Việt nam? Tôi lại hỏi một câu ngớ ngẩn nữa. Cụ chậm rãi gật gù, mắt không thèm nhìn tôi: – Vâng, về quê… về Việt nam… về làng… về Hải Dương… Cậu có biết Hải Dương ở đâu không nhỉ? Và không đợi tôi trả lời, cụ nói tiếp: – Hải Dương là quê của tôi đấy. Ngày mai người con cả của tôi sẽ đưa tôi về đấy. Tôi xa quê từ năm 54, bây giờ mới có dịp về. À, cậu trông thấy tôi quen quen phải không? Bà cụ của vợ cậu lúc còn sống thường hay đi chùa với tôi và tôi nhớ hình như có thấy cậu đôi lần lúc cậu lên chùa đón cụ … Ông nhà tôi ngày xưa làm Tuần phủ nên mọi người đều gọi tôi là cụ Tuần, mãi rồi tôi quên hẳn tên thật của mình. À ra thế. Cụ Tuần. Hèn gì thấy mặt bà cụ quen quen. Và tôi cũng nhớ ra lúc còn sống, mẹ vợ tôi cũng có nhắc đến tên các bà bạn đi chùa của cụ, trong đó hình như có tên cụ Tuần. Tôi bỗng thấy hơi gờm bà cụ. Sao cụ biết tôi thắc mắc như thế mà trả lời? Tôi bèn đưa đẩy: – Thảo nào mà cháu thấy cụ quen quen. Hóa ra cụ là bạn của mẹ cháu. Thế thì mình là người nhà cả. Cụ cười nhẹ: – Chính vì thế mà tôi muốn gặp cậu hôm nay để nói chuyện lần cuối và từ biệt cậu, kẻo mai kia cậu lại thắc mắc không biết cái bà cụ mặt mày lạnh lùng khó đăm đăm kia đi đâu mất rồi. Tôi đỏ mặt, không ngờ bà cụ lại nói đúng ý nghĩ của tôi. Quả thật trước kia, sau mỗi lần chào cụ và chỉ nhận được một cái gật đầu như gió thoảng của cụ, tôi hay lẩm bẩm trong bụng: sao mặt mày bà cụ lại lạnh lùng khó đăm đăm thế! Cụ nhìn tôi tiếp tục: – Tôi theo thằng con cả qua đây năm 75, tính đến nay đã được 20 năm. Ngày mai là lần đầu tiên tôi về quê. Và tôi sẽ ở luôn bên Việt nam, không qua đây nữa. Ấy, cậu đừng hỏi tại sao. Lá rụng về cội. Người già nào cũng muốn được chôn xác ở quê cha đất tổ. Tôi đã muốn về từ mấy năm trước cơ, nhưng vì công việc làm ăn kỳ này con trai tôi mới đưa tôi về được. Muộn còn hơn không… Rồi cụ thao thao kể cho tôi nghe về gia đình cụ, về cụ ông, về cậu con trai, về đời sống của cụ tại Hoa kỳ, về việc cụ mỗi chiều ra bờ biển vọng về phía bên kia bờ đại dương để nhớ tới quê nhà… Trong câu chuyện, hình như cụ đoán trước được các câu hỏi tôi định đặt ra và cụ đã trả lời trước khi tôi kịp mở miệng. Thành ra trong suốt hơn một tiếng đồng hồ tôi không chen vào được một chữ. Cụ bỗng chép miệng, thở dài và bảo: – Thôi trời tối rồi, cậu về nhà đi, vợ con cậu đang chờ cơm. Câu chuyện tôi định kể cho cậu hôm nay chỉ có thế. Chúc cậu ở lại Mỹ mạnh giỏi, mai tôi về quê. Cậu về trước đi. Tôi nán lại thêm một tí rồi sẽ về sau. Tôi ngỏ ý muốn đưa cụ về nhà nhưng cụ từ chối. Tôi đứng dậy từ giã cụ, miệng lí nhí nói ít lời cầu chúc cho cụ thượng lộ bình an. Nhìn thấy vẻ bùi ngùi lưu luyến của tôi, cụ cười bảo: – Cậu đừng buồn vì nghĩ rằng sẽ không bao giờ gặp lại nhau. Mọi sự trên đời đều không có gì đi ra ngoài chữ “duyên”. Nếu còn có duyên với nhau thì cậu sẽ có dịp gặp lại tôi, e rằng lúc đó cậu lại không thích. Cụ đưa tay khoát vẫy tôi đi. Không dám nói gì hơn, tôi nhìn cụ lần cuối và từ từ quay đi về hướng đậu xe, lòng cảm thấy hơi bùi ngùi khi phải chia tay với cụ. Và kể từ lúc đó, chẳng bao giờ tôi thấy lại bà cụ nữa trong những lần chạy bộ của tôi. Hy vọng cụ sung sướng ở quê nhà.
Một năm sau, cũng vào dịp lễ Tạ Ơn, một người Việt nam mới vào làm chung hãng với tôi có nhã ý mời các đồng nghiệp người Việt trong sở tới nhà để chung vui nhân dịp sinh nhật 16 tuổi đứa con gái đầu lòng của anh. Bà xã tôi vì bận việc nên tôi được phép đi dự tiệc một mình. Vì tới đúng giờ nên tôi là người khách đầu tiên. Chủ nhà niềm nở đưa tôi vào phòng khách nhâm nhi tí rượu trong khi chờ đợi các vị khách Việt khác điều chỉnh đồng hồ của họ. Căn phòng khách được trang hoàng một cách đơn giản nhưng rất lịch sự và tươm tất. Thoáng ngửi thấy mùi hương, tôi quay nhìn về phía cuối phòng và choáng váng khi thấy bức ảnh trên bàn thờ ẩn hiện sau làn khói mỏng của nén hương. Tôi sững sờ vì rõ ràng đó là hình bà cụ tôi gặp ngoài bờ biển. Vẫn khuôn mặt “lạnh lùng khó đăm đăm” đó, vẫn cái nhìn xa vắng pha lẫn một tí giễu cợt đó, không thể nào sai được. Tôi vội hỏi anh Phong, người chủ nhà: – Có phải đó là hình của cụ Tuần không? Anh Phong gật đầu: – Vâng, đó là hình của mẹ tôi, ở chùa người ta hay gọi cụ là cụ Tuần, vì ngày xưa ông cụ của tôi làm Tuần phủ. Sao anh lại biết mẹ tôi? Tôi vội vàng nói chữa: – Tôi biết cụ vì ngày xưa cụ cùng đi chùa với bà cụ mẹ vợ tôi. – À ra thế! Thì ra mình là người nhà cả, anh hân hoan gật gù. Tôi chết điếng trong lòng, không ngờ mới gặp nhau năm trước mà cụ đã mất rồi. Tôi lắp bắp: – Cụ mất lúc nào vậy anh Phong? – Cũng được hơn 5 năm rồi đó anh. Câu trả lời của người chủ nhà làm tóc tai tôi muốn dựng đứng hết cả lên. Tôi lặp lại như một cái máy: – 5 năm… Không để ý đến vẻ khác lạ của tôi, người chủ nhà kể tiếp: – Phải, mẹ tôi mất cách đây cũng đã hơn 5 năm, mà mãi đến năm ngoái sau ngày Lễ Tạ Ơn tôi mới có dịp đem tro của cụ về an táng tại quê nhà ở Hải Dương, đáp ứng được nguyện vọng cuối cùng của cụ. Tôi tái người nhớ lại lần nói chuyện giữa tôi và cụ đã xảy ra vào đúng ngày lễ Tạ Ơn năm ngoái, một ngày trước khi con trai cụ đưa tro cụ về Việt nam. Chúng tôi hai người im lặng giây lát như để tưởng niệm người quá cố. Chủ nhà chầm chậm ngước mắt nhìn về phía bàn thờ. Và lần này thì đến phiên anh ngạc nhiên hốt hoảng. Anh lẩm bẩm: – Quái lạ, ai thay bức hình đấy nhỉ ? Tôi quay đầu lại nhìn bức hình và cũng ngạc nhiên không kém. Rõ ràng là ít phút trước đây nét mặt người trong hình lạnh lùng nghiêm nghị, môi mím chặt thế mà bây giờ trong hình bà cụ đang cười tươi, để lộ gần nguyên hàm răng đen bóng, hai con mắt lá răm hiện đầy vẻ tinh nghịch. Người chủ nhà hướng về phía vợ đang lui cui trong nhà bếp hỏi lớn: – Em ơi, có phải em thay hình của mẹ trên bàn thờ không ? Người vợ lên tiếng nói vọng ra trong khi vẫn tiếp tục làm đồ ăn: – Em đâu biết hình ảnh gì đâu. Anh là người giữ các bức ảnh mà. Người chồng hừ nhỏ một tiếng trong cổ, nét mặt đầy vẻ bối rối băn khoăn. Khi mắt anh chạm phải tia nhìn dọ hỏi của tôi, anh vội giải thích: – Anh biết không, khi mẹ tôi mất, chúng tôi có phóng lớn và làm khung hai bức ảnh của cụ vì lúc đó phân vân không biết chọn bức nào để thờ. Một bức có hình cụ tươi cười như anh đang thấy đây, và bức kia thì mặt cụ nghiêm trang không cười. Sau khi cả gia đình hội ý với nhau, chúng tôi chọn bức không cười để đặt trên bàn thờ và cất bức kia vào tủ. Tôi là người phụ trách bàn thờ và giữ hai bức ảnh vì tôi là con cả. Tôi nhớ là chỉ có chưng bức hình không cười lên bàn thờ mà thôi. Không hiểu tại sao hôm nay lại biến thành bức hình này như thế. Tôi vội nhìn lên bàn thờ và quan sát kỹ lại bức ảnh. Không biết tôi có tưởng tượng hay không nhưng rõ ràng tôi thấy trong ánh mắt của cụ hiện lên một vẻ tinh nghịch hân hoan đượm nét ngây thơ của trẻ con pha lẫn một chút dịu dàng từ ái của lòng mẹ. Tôi định lẩm bẩm trách thầm cụ trong lòng rằng cụ đã bảo với tôi năm ngoái là cụ về quê thế mà giờ này cụ còn ở đây nghịch phá. Nhưng ý định trách móc vội tan biến ngay khi tôi chợt nhớ lại lời nói cuối cùng của cụ với tôi về chữ “duyên” : “Mọi sự trên đời đều không có gì đi ra ngoài chữ “duyên”. Nếu còn có duyên với nhau thì cậu sẽ có dịp gặp lại tôi, e rằng lúc đó cậu lại không thích”. Tôi vội vã nói thầm lời xin lỗi cụ. Trong khi đó, người chủ nhà vẫn lộ vẻ thắc mắc bất an. – Anh Phong này…. Tôi buột miệng định kể cho anh chủ nhà biết sự tao ngộ ly kỳ giữa tôi và bà cụ của anh, nhưng vội nín bặt khi thoáng thấy ánh mắt can ngăn của bà cụ trong bức hình. – Gì thế anh?, người chủ nhà vội hỏi. Tôi bèn tìm lời khỏa lấp: – Tôi nghĩ là có thể một lúc nào đó anh đã thay bức hình và quên bẵng đi. Với tuổi tác bọn mình bây giờ, làm trước quên sau là chuyện thường. Người chủ nhà lịch sự gật đầu đồng ý, nhưng có vẻ không tin tưởng lắm vào lời giải thích. Những người khách Việt giữ đúng truyền thống giờ cao su đang lục tục kéo đến, và chúng tôi đành bỏ dở câu chuyện để đi chào đón mọi người. Lợi dụng lúc đông người lu bu, tôi chuẩn bị chuồn êm sau khi đã nhờ một người bạn chuyển lời cáo lỗi của tôi tới chủ nhà, viện cớ là bỗng dưng tôi không thấy khỏe. Quả thật là tôi bắt đầu cảm thấy rờn rợn mỗi khi nhìn lên bàn thờ và chạm phải ánh mắt tinh nghịch của người trong ảnh. Không dám nhìn thẳng vào bức ảnh, tôi thầm nói lời từ biệt với cụ và lẳng lặng lách mình ra cổng. Không ngoái cổ nhìn lại, tôi cắm đầu rảo bước như bay đến chỗ đậu xe. Trong tiếng gió thoảng của một chiều cuối thu, mường tượng như có ai nói khẽ vào tai tôi hai tiếng: “Chào cậu”.
Dạo: Tiếng cười còn đọng bên sông, Con đò thiên cổ đã giong chốn nào.
Đò Đêm Bỏ Bến
(Tiễn người đã ra đi trong một đêm về miền vĩnh cửu)
Mây về quẩn bến sông, Nghẽn tắt nắng chiều đông. Nhánh rong già trốc cội, Bối rối đợi bên dòng.
Lung linh ánh điện màu, Nhạc cũ gói niềm đau. Nhớ nhung nào thúc giục Người lục tục tìm nhau.
Con cho đời nửa miệng cười, Vàng thêm màu cúc, xanh ngời sắc lan. Vườn nhà hoa bướm hân hoan, Chào mùa sang để trần gian lụa là.
Bảominh
Con chân sáo bước nhịp ba, Ngày bình minh, tiếng chim hòa suối reo. Mười ngón nhỏ, mắt trong veo, Ngẩn ngơ hàng phím, đàn theo tay người.
Bạt
Thì xuân, vẫn của đất trời, Thì ta, hạnh phúc đã mời cõi riêng.
Xuân thì, em
Sáu mươi, ừ, nhắc mà chi, Để ta vẽ lại xuân thì em xưa. Ngày con gái, mắt đong đưa, Thơm môi, đỏ má đủ vừa hồng nhan. Chiều tan học, bước rất ngoan, Có trăm khách lạ trần gian, thẫn thờ. Người yêu, em hiện trong thơ, Ngẩn ngơ trang sách, hững hờ áo bay. Đêm thục nữ, giấc ngủ say, Những cơn mơ, tháng năm đầy bướm hoa.
Sáu mươi, ừ, cũng vừa xa, Xuân thì em, để mình ta giữ gìn.
Rượu, nửa chai
“Rượu còn nửa chai đời cũng vậy” Long Ân
Ừ chai rượu quý còn đây, Nửa vơi sao vẫn thấy đầy nơi ta. Ngày mùa xuân, người đi xa, Thì thôi, lầu cũ chiều qua rất buồn. Ly nghiêng đỏ, đậm hoàng hôn, Men say độc ẩm lạnh hồn cố nhân. Rót thêm, người nhớ mấy lần, Ta dường quên, suối phân vân đợi chờ.
Nửa chai, rượu lẫn trong thơ, Lời nào tử biệt cuối bờ sinh ly.
Túy hành vân
Ừ về phủ cũ tịch liêu, Núi xưa đỉnh biếc mây chiều còn say. Phá hoang khói sóng dâng đầy, Cát ôm đá lạnh thêm dầy hoàng hôn. Ừ về phủ cũ rất buồn, Trong heo may có tiếng hờn từ ly. Phố tìm lại bước người đi, Đã rêu mái xám, xuân thì dấu phai.
Ừ về phủ cũ miệt mài, Nghe hồn thông gọi đêm dài ngẩn ngơ. Biển khuya con nước xô bờ, Trăng sao cũng lạ, sương mờ bóng nai.
Ừ về phủ cũ trang đài, Em phôi pha- để ta ngoài lênh đênh.
Không về
(Gửi Chị Hồng Phượng)
Người không về xuân này Sớm, bình minh rất lặng Bầy sẻ nhỏ ngũ say Khu vườn xưa quạnh vắng
Người không về xuân này Chiều, hoàng hôn xuống vội Cánh vạc lẻ loi bay Hàng thông già sương gội
Người không về xuân này Đêm hồng hoang mấy độ Chiêm bao đầy heo may Gối chăn đâu ấm chỗ
Người không về xuân này Khóm lan gầy quên nở Phố núi, rượu vừa cay Cũng thôi, thiên đường lỡ
Lãm Thúy Đọc thơ Phan Thị Ngôn Ngữ
Mở trang thơ, thấy khói sầu Bay trong một cõi tình đau bời bời Thấy niềm vọng tưởng khôn nguôi Cháy thiên thu ngọn lửa vùi tro than. Thấy trời cát trắng Nha Trang Biển xanh vỗ sóng, dã tràng cuốn trôi… Thấy người tự thuở nằm nôi Câu ca dao đã ngọt lời mẹ ru Thấy xưa bóng ngoại nhân từ Câu Kiều lẫy mãi, lòng như suối đàn Có cô thiếu nữ dịu dàng Góp trăng sao lại về đan mái tình Có niềm tưởng tiếc mông mênh Trải thiên thu mộng đời trên phiến sầu Vườn ai còn thoảng hoa Ngâu Chân ai còn vọng bên cầu tử sinh Buộc trăm năm một sợi tình Sao hoang vu, bóng với hình. Cô đơn Có bao nhiêu những hoàng hôn Thả trôi những vệt nắng buồn về đâu? Hoa sim, hoa khế một màu Tím như lòng bậu qua cầu thuở xưa! Sang sông dù lỡ chuyến đò Câu thơ còn đọng ngày thơ ngập ngừng Mẹ người buôn gánh bán bưng Mẹ ta ruộng mạ, tảo tần sớm khuya Đời như những nhánh sông chia Nước đi, nguồn cạn; lá lìa, cành đau Nghe ra cũng một tâm sầu Cô đơn, hoài vọng, thương đau, ngậm ngùi Chúng ta một lứa bên trời (*) Cái tâm khắc khoải, cái đời tang thương Cũng con sông nước biệt nguồn Thân trôi viễn xứ, hồn vương quê nghèo Trưa hè, nhịp võng buồn hiu Tiếng ru còn vọng muôn chiều thiết tha Thơ người nói hộ lòng ta Trúc tre ngõ cũ, chiều tà vọng âm Đèn khuya, bóng mẹ âm thầm Canh tàn, bấc lụn, dài năm tháng chờ Cũng niềm thắt thẻo, xót xa Lòng riêng canh cánh, nhớ nhà, nhớ quê Chim bay còn có tổ về Chiều tha hương, một mình, thê thiết buồn Quê người, giục mối hoài hương Vời trông cố quận, mờ sương khói chiều Vầng trăng xế bóng quê nghèo Có nghe ta cũng hắt hiu phận người Chúng ta, hai đứa lạc loài Để mẹ mòn mỏi bên trời cố hương Trang thơ xếp lại, còn buồn Nỗi chi đọng lại trong hồn. Xót, chua! —————————————— *Ý thơ Tỳ Bà Hành – Bạch Cư Dị “Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân”Phan Huy Vịnh dịch: “ Cùng một lứa bên trời lận đận”
Trên núi Sugarloaf
Lên rừng ngắm lá mùa thu Nhân gian nghe cũng mịt mù dưới xa Phút giây lánh cõi ta bà Ngang trời gió thoảng, tưởng ta thoát trần Tưởng đời như ánh phù vân Cõi bon chen chợt tần ngần ngó lui. Bước lên lòng rộng theo trời Núi cao đá dựng, bồi hồi cảnh tiên Dường quên hệ lụy ưu phiền Như sương dưới nắng, tan triền núi xa Đứng trong trời đất bao la Thấy ta – hạt cát giữa Hằng hà thôi! Sá gì với những buồn vui Những trăn trở của kiếp người. Phù sinh Sá gì tiếng nhục, lời vinh Mai rồi cát bụi lại thành tro than Có chi trường cửu vĩnh hằng Gói hành trang cuối cũng ngần ấy thôi. Phân vân ta giữa đất trời Nửa cao hồn núi, nửa ngùi sắc thu Nửa lòng thoát tục, vô ưu Nửa xa xót cảnh đời như chiều tà Nghe mùa tàn rụng phôi pha Ngẫm ra một kiếp người là… phù du. Rừng chiều lá rực nắng thu Vàng ươm sợi nhớ, nghe như cội sầu Đành lòng với nỗi thương đau Trách sao gió lạnh cho màu lá phai Trách sao gió cứ rung hoài Để cây buông lá. Xót ngày tàn rơi! Ngắm thu. Hỏi làm sao vui? Đời người như lá, vàng rơi vô chừng Nhưng trong vô ngã mịt mùng Dường nghe còn nặng nợ: lòng trần ai Chân quen lại bước về đời Lại nghe cơm áo một trời nhiêu khê.
Lãm Thúy
Trần Bang Thạch Bông hồng đỏ Bông hồng trắng
Ngày Vu Lan Báo Hiếu người ta gắn trên áo mình 1 hoa hồng đỏ hay 1 hoa hồng trắng. Màu đỏ tượng trưng cho niềm vui còn mẹ. Màu trắng nói lên nỗi buồn mất mẹ. Trong đời tôi chưa hề nhận được 1 bông hồng đỏ hay 1 bông hồng trắng nào. Điều đó có quan trọng lắm không khi cha mẹ còn sinh tiền mình chưa lần nào cầm tay cha mẹ, âu yếm nhìn vào mắt Người mà nói rằng: Con yêu thương cha mẹ. Người ta cho mình một vật dù bình thường mình biết nói : “cám ơn”. Cha mẹ đã cho mình hình hài, trí óc và khó nhọc trăm chiều nuôi mình khôn lớn, có mấy ai, trong cử chỉ thân tình hay trang trọng, quỳ trước 2 bậc sinh thành mà nói rằng: “Con cảm ơn cha mẹ đã cho con thành người”. Tình yêu thương và lòng biết ơn cha mẹ đã có sẵn trong lòng mỗi người. Có lẽ người mình ít khi bộc lộ tình cảm của mình đối với song thân chớ không phải mình không nghĩ hay không muốn nói ra những lời ấy. Tự nghĩ nếu có thêm 1 lần làm con, chưa chắc tôi nói đuợc lời này, dù biết đó là điều nên nói, sẽ làm cha mẹ vui cả ngày đêm, vui hơn ai cho vàng cho bạc. Tháng Bảy Âm lịch sắp đến rồi. Ngày 15 tháng Bảy là rằm Trung Ngươn, còn gọi là Trung Ngươn Thắng Hội, nguyên thủy là ngày Thánh Quân Đại Hiếu là vua Thuấn, một vị vua huyền thoại thời Trung quốc cổ đại nằm trong Ngũ Đế, nổi tiếng là minh quân, nhân từ, hiếu tử, đã thay trời xá tội cho các vong hồn nơi Địa Phủ. Vua Thuấn còn được tôn vinh là Địa Quan xá tội. Qua câu chuyện hành giả Mục Kiền Liên, chúng ta còn biết rằm tháng Bảy còn là Lễ Vu Lan Bồn. Ngày các con báo hiếu cha mẹ đời này và bảy đời trước bằng cách cúng dường chư Phật và chư Tăng để hồi hướng công đức cha mẹ hiện tiền và Cữu Huyền Thất Tổ. Công ơn cha mẹ lớn lắm. Chúng ta đã nghe những lời ca quen thuộc từ nhạc phẩm Lòng Mẹ của Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình” hay câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn” . Thử đưa ra vài con số cho vui chuyện. Thái Bình Dương rộng hơn 165 triệu cây số vuông, hay là 64 triệu miles vuông, lượng nước bằng 50% lượng nước trên toàn địa cầu, chiếm 28% bề mặt trái đất, rộng lớn hơn tất cả đất đai của trái đất gọp lại. So với nước Mỹ thì biển Thái lớn gấp 15 lần. To lớn như vậy nhưng ngày nay người ta vượt Thái Bình Dương là chuyện nhỏ. Cho nên biển Thái tuy lớn nhưng không thể vượt được lòng mẹ bao la vô bến vô bờ. Núi Thái Sơn ở trung bộ tỉnh Sơn Đông bên Trung Hoa cao chỉ có 1500 thước tây, thua xa độ cao 8850 thước của núi Everest trong dãy Hi Mã Lạp Sơn. Tưởng Thái Sơn cao lắm, nhưng chỉ cần bước lên 7000 bậc đá, trung bình mỗi bậc mất một giây, vừa đi vừa nghỉ thì trên dưới 2 tiếng là ta lên tới đỉnh núi Thái Sơn rồi, nào có cao lớn hùng vĩ gì đâu! Chắc chắn núi Thái cũng không thể so sánh được với công cha. Thực tế là không ai lấy thước mà đo được lòng cha mẹ. Kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: Nếu ta suốt đời cõng mẹ 1 bên vai, cõng cha 1 bên vai, từng giây săn sóc miếng ăn, giấc ngủ, nâng niu, đấm bóp… dù cha mẹ có vãi tiểu tiện trên vai, thì nếu ta có sống tới trăm năm cũng không trả hết công ơn cha mẹ. Có một người thợ điện bên Ấn Độ không biết có đọc những lời trong Kinh Tăng Chi I trên đây hay không nhưng anh đã có hành động tương tợ như vậy ở thời điểm bây giờ. Tin tức này tôi vừa đọc trên net sáng nay. Anh thợ điện ở New Delhi tên là Sanjay Kumar, 42 tuổi, đã thực hiện lời tự hứa là sẽ phụng dưỡng cha mẹ suốt quãng đời còn lại của mình. Cha 95 tuổi, mẹ 80 tuổi. Cha mẹ anh ước muốn đi tắm nước sông Hằng ở Haridwar, anh để cha mẹ nặng tổng cộng 115 kg lên 2 đầu quang gánh thực hiện chuyến hành hương đường bộ gập ghềnh, trơn trợt dài 216 cây số. Nếu anh Kumar trên đây không đọc kinh Tăng Chi I thì quả là anh có tâm Phật. Công ơn cha mẹ vô cùng trọng đại nên thực hành chữ hiếu chính là làm điều thiện, và sự bất hiếu chính là điều ác. Kinh Nhẫn Nhục có mô tả:
“Cùng tột điều thiện, không gì hơn hiếu, Cùng tột điều ác, không gì hơn bất hiếu”.
Cũng có người dưỡng nuôi cha mẹ, nhưng tính tháng tính ngày:“Mẹ nuôi con quản chi ngày tháng, con nuôi mẹ tính tháng tính ngày”. Vế thứ hai tưởng như là chuyện không hề có! Thật trớ trêu! Người không biết lấy chữ hiếu làm đầu thì dù người có làm hàng trăm việc tốt thì cũng như không: “Nhơn sanh bách hạnh hiếu vi tiên”. Nhớ ngày trước học Nhị Thập Tứ Hiếu, nghe chuyện ông Ngô Mạnh Tông thấy ông nầy thật là đại hiếu nên hâm mộ ông mà học thuộc bài này cho đến nay còn nhớ: Ngày đông tháng giá, ngài Mạnh Tông nằm trên đất khóc cho đến khi đất ấm nứt ra mụn măng non để dâng lên mẹ đang yếu đau mà thèm canh măng. Nay hiểu ra thì lòng hiếu thảo ấy cũng chưa đi đến đâu so với tình mẫu tử của Ngô lão bà: Giữa bình địa, phút giây bổng nứt mấy rò măng, mặt đất nõn xanh Đem về nấu được bữa canh Ăn rồi bệnh mẹ, lại lành như xưa Cho hay hiếu động cao dày Tình sâu nên khóc, cỏ cây cũng tình… May mà ngài Mạnh Tông còn mẹ để báo hiếu. Trên đời nầy có biết bao người đã lỡ dịp; khi nhớ lại thì đã quá muộn. Mẹ già như chuối chín cây, gió lay mẹ rụng, con thì mồ cô. Mồ côi tội lắm ai ơi, đói cơm, khát nước con thời cậy ai” hay: “ Còn cha gót đỏ như son, mất cha đi sớm về hôm một mình”. Ca dao đã ràng ràng như vậy. Tục ngữ cũng nói rằng: “Con có cha như nhà có nóc”. Có một chuyện đạo nói về công cha nghe thật thấm thía. Chuyện kể một anh chàng thua lỗ nợ như chúa chõm, khi chết Diêm vương cho làm con trâu để trả nợ, hắn không chịu làm trâu mà muốn làm cha người chủ nợ. Diêm vương thắc mắc, hắn trả lời: Làm trâu đời sống chỉ có chín mười năm, không đủ để trả nợ. Xin để con phải làm cha ông ấy để chăm sóc ông ấy đến già, rồi tiếp tục lo từ cái ăn, cái mặc, dạy dỗ điều hay lẽ tốt cho con cháu ông ấy; cho đến hết đời cũng chưa chắc trả hết nợ. Câu chuyện cho ta thấy người cha hết lòng lo cho con rồi lo cho cháu, chắt… Công ơn ấy lấy gì mà so sánh được. Dù có biết mà tận tụy báo hiếu cũng không khi nào đủ. Phật đã dạy: “Có 2 người trên đời mà ta không bao giờ trả ơn được, đó là cha mẹ”. Người con hiếu chỉ có thể thi ơn nhưng không thể trả hết được. Càng nghĩ đến công ơn đấng sinh thành mà càng thương, càng nhớ: Tám mươi năm Má sống với đời Nhận tân khổ, dành sướng vui cho con cháu Gang chân nứt, da nhăn nheo, rướm máu Bàn tay chai, khô sạm, sần sùi Lưng gập cong, da mặt trổ đồi mồi Bao thay đổi dồn lên màu tóc Má. (“MÁ TÔI”, Lê Cần Thơ) Dù Mẹ đã ra đi nhưng cái dịu dàng, đằm thắm của Mẹ vẫn ẩn tàng trong sắc hoa màu tím để mỗi lần nhìn hoa tím là thấy Mẹ đang ở bên mình: Bao giờ trong quảng đời hiu quạnh Bãi cỏ đời tôi lúc úa vàng Mẹ tôi như sắc hoa màu tím Lẩn vào vạt cỏ buồn mênh mang (“Mẹ tôi hoa tím giữa mùa Xuân”,thơ Nguyên Nhung) Không có đóa hoa hồng nào trên áo, nhưng trong lòng tôi, mỗi mùa Vu Lan, mỗi ngày Mother’s Day, hay ngày Father’s Day… tôi có cảm nghĩ hiện giờ màu đỏ, màu trắng của hoa hồng pha trộn nhau thành cầu vòng rực rỡ ẩn hiện những nụ cười, lòng thương yêu, sự hy sinh, tính cần cù, nhẫn nại, chịu khó… của cha mẹ tôi trộn lẩn với niềm hạnh phúc của tôi đã được một lần làm con của các Người. Cho nên qua thời gian, tôi đã dần dần nhạt đi nỗi buồn mất cha mẹ, nhưng lòng tiếc nuối thì không trôi đi mất vì không còn cha mẹ để phụng dưỡng. Càng đi cuối đường đời, càng thấm thía với mấy câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân: Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn Con sẽ không đợi một ngày kia có người cài lên áo cho con Một nụ hồng bạch Mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ. Mùa Vu Lan nầy, cũng xin đốt nén trầm hương nhớ ơn Cha Mẹ của mình và của người.
Mùa Vu Lan 2010 Trần Bang Thạch
Như Phong Mùa lá chết
Cành khô sương trắng sân đầy lá mây xám ngang trời mưa bụi bay em ngồi hong lại vùng tóc rối ta nhấp ly sầu trắng bàn tay Đêm nay lá rụng sao nhiều quá rụng xuống cuộc đời theo gió bay môi em run run màu của lá trời đất giao mùa buốt trên vai Đêm nay gục xuống đời trăn trối nữa trái tim khô bỗng nghe đau ngoài sân xào xạc mùa lá chết ta trắng mắt ngồi… vẫn còn say
Em ơi! Sao vẫn xót xa
Ngẫn đầu nhìn nửa vầng trăng khuyết đứng soi gương khuyết nữa đời ta mới hay đời thoáng qua như mộng trăm năm sương khói mưa sa ta giủ phong trần trên vai áo mộng vỡ bao lần thuở hoa niên đã từng lập chí ngàn năm vung ba thước kiếm dời non lấp biển thì ra ôi! mộng giữa ban ngày chén rượu nầy ta mời bạn cùng say và đêm nay ta mời trăng đối ẩm có buồn chăng nữa mảnh trăng già mà ta thấy buồn rơi trên tóc còn sân si chồng chất làm sao đến được núi Phổ Đà đã biết rằng tới đây ở tạm mà em ơi! Sao vẫn thấy xót xa
Lộn ngược
ngẫn đầu nguyệt khuyết treo ngang nâng ly đối ẫm ngỡ ngàng nhìn nhau em từ thượng giới trắng phau ta từ tục địa nhuốm màu tục nhân càn khôn còn mãi xoay vần nên khi lộn ngược trắng đen vẫn là co mình nằm giữa Ta Bà phân hai ranh giới cũng là âm dương gát chân nói chuyện yêu đương thì cho hợp lẽ vô thường đó thôi nên ta dốc hết một đời yêu em cho kịp kẻo trời nổi cơn nắng mưa chuyện của càn khôn yêu em trút bỏ thần hồn của ta
Kim Oanh Nhạc tàn thơ chết đời hoa
(Cảm tác Nhạc Đàn Thơ Hát Đời Hoa của tác giả Phạm Tương Như )
Chưa tiễn ai đi thuyền vội nhổ Hồn sầu lòng mảnh vỡ chìm sâu Tình chưa mới âm u nguyệt lộ Nhờ ai kia chôn hộ tình đầu Cung ý nhạc chưa khơi sao lạc? Mực chưa hòa tím lịm màu hoa Tay không ấp trôi chiều mây giạt Phiếm dường chùng giọng bạc lời đau Chim vụt bay không nơi nương náo Áo trắng màu ngơ ngáo tình vôi Đời lặng côi, suốt mùa giông khó Bó đời chân dặm gió nổi trôi!… Tay cố nắm nhưng làm sao tới Huyệt mộ sâu bóng tối mênh mông Hương cố ôm áo nhòa chới với Ngày dần qua dáng mới long đong Đời hát ca! Nụ cười lợt lạt Nhạc trổi cao khao khát trời hồng Rượu thơm nồng hương lòng phiêu bạt Rơi lũng sầu … dáo dát…. hư không!
Rừng lá thu mưa
Lá kia rơi rụng đi mô? Phủ đầy trên những nấm mồ xa xưa Chừ nghe rừng lá thu mưa Ai ơi có tiếc tình vừa vụt bay? Dưới lòng cỏ lạnh sương mai Hồn miên man ngủ vùi say bạc đời Bình minh ló dạng mây trôi Hồn lay theo gió lên đồi Thiên Thai
Trạm nhớ đầu
Anh vẫn nhớ mùa thu năm cũ Chuyến xe lam đưa khách qua cầu Câu hỏi nàng trong dạ khắc sâu Sao nỡ để tình đầu lỗi nhịp? Xe lăn bánh đi xuôi về ngược Trời chợt mưa, nắng chẳng hề đâu Anh vô tình trời đổ mưa Ngâu Nên duyên thắm hai đầu Ô Thước Trách ai làm tình nhạt phai màu Trạm nhớ đầu… xe lam một chuyến Tơ không giăng dây đàn chùng phím Gõ cung sầu… tri kỷ về đâu??? Anh phiêu bạt cuộc đời mây gió Em âm thầm vàng võ chiều thu Anh tung bay vào chốn sương mù Em về đâu? Đường đời muôn ngõ Em chờ đợi bao mùa mưa đổ Nẻo sơn khê mong bước anh về Dòng đời thay đổi, lìa xa quê Quanh em sông núi bốn bề… Ngổn ngang!
Phan Các Chiêu Hằng Những mùa trăng tan
Lúc đến quầy của hãng hàng không để lấy vé máy bay và gửi hành lý, tôi ngần ngừ do dự được năm phút. Năm phút ngắn ngủi phù du. Năm phút là thời gian dài nhất mà lý trí tôi chịu vươn vai ngóc đầu ngồi dậy làm việc, kể từ ngày tôi yêu chàng. Cô thư ký sau quầy tươi cười niềm nở. Một dấu hiệu tốt. Kể từ ngày tôi yêu chàng, tôi cũng đâm ra hay để ý đến những “dấu hiệu”, như để trấn an hay thuyết phục chính mình là mọi việc rồi sẽ êm xuôi tốt đẹp, xuôi chèo mát mái. Cô thư ký hỏi: Cô có thể cho tôi xem bằng lái xe? Tôi móc bóp, lục soạn, lôi ra bằng lái xe cũ mèm của mình. Cái hình có dễ hơn mười năm. Tuổi mới qua hai mươi môi hồng mắt sáng. Mười năm qua tôi lái xe cẩn trọng giữ gìn, không hề bị một tờ giấy phạt, không gây tai nạn lớn nhỏ nào, nên vẫn chưa phải khăn gói đi thi bằng lái trở lại. Cứ vài năm tôi nhận được giấy báo, gửi đi cái chi phiếu vài đồng là an nhiên tự tại. Lái xe thì tôi ngó trước ngó sau, cẩn thận đàng hoàng như vậy đó, mà sao tôi lèo lái cuộc đời tình cảm của mình như kẻ say rượu ngất ngư. Cứ đụng vào bên phải, tông qua bên trái, leo lên lề cao, nhào xuống hố sâu. Đường xa lộ thênh thang thẳng tắp tôi không thèm đi, cứ hiên ngang chui đầu vào mấy ngõ cụt, đường cùng, nên không trầy trụa mình mẩy vì len lách thì cũng u đầu sứt trán vì đâm sầm vào tường vách, nhà phố. Tôi đã nỉ non than thở với chàng: Anh ơi, em biết rồi mình sẽ cùng anh nắm tay rơi xuống chín từng địa ngục. Vậy mà sao em cứ tần ngần đứng đó. Bỏ không được, đi không đành… Chàng cười, phân tích: Ừ, thì tại em hiền lành thương người. Em sợ anh cô đơn. Em mà bỏ anh thì em sẽ được lên thiên đàng. Còn anh thì chắn chắn phải xuống địa ngục. Địa ngục và thiên đàng xa xôi cách trở nhau lắm, cưng ơi. Không có điện thoại. Không fax. Không modem. Không email… Đúng là mịt mù tăm tích. Rồi chàng vuốt tóc, xoa đầu tôi, tỉ như tôi vẫn còn là con bé con ngây thơ, ngoan ngoãn năm nào.
Cô thư ký trao trả lại bằng lái xe, đưa cho tôi giấy vé máy bay trong phong bì, cười tươi tắn: Cô đến cổng A6. Giờ bay là 1 giờ 6 phút. Chúc cô đi đường bình an. Tôi mỉm cười cám ơn, bỏ giấy tờ vào ngăn ngoài của sắc tay. Một giờ sáu phút. Tôi vẫn hay tự hỏi cách sắp xếp giờ giấc của hãng hàng không. Cái gì mà một giờ sáu phút, hai giờ mười hai phút, ba giờ mười tám phút. Chỉ làm cho mọi chuyện có vẻ thêm lộn xộn và khó nhớ. Trong khi đó, theo kinh nghiệm của tôi, nếu máy bay cất cánh trong vòng một giờ đồng hồ như họ dự định là cả một chuyện đáng mừng. Tôi xuống cổng A6, tìm một chỗ ngồi. Đồng hồ trên tay chỉ mười hai giờ rưỡi. Chắc sự chờ đợi cũng không lâu. Tôi vẫn yêu không khí nhộn nhịp ở phi trường, nhất là nhìn ngắm cảnh thân nhân đi đón nhau. Những nụ cười. Những vòng tay ôm. Những giọt nước mắt mừng tủi. Tôi và chàng đã sống qua nhiều bận đón đưa nhau như thế này trong mười năm qua. Vậy mà cũng không sao làm quen được với những tâm trạng bồi hồi níu kéo. Tôi nhìn ra phi đạo. Nắng trưa oi nồng như bốc khói. Những người phu đang chất hành lý lên phi cơ, cử động nhịp nhàng một cách máy móc. Tôi mở tờ báo ra, cố đọc nhưng rồi vẫn nuốt không trôi chữ nào. Những hàng chữ mực đen nhập nhòa hỗn độn. Tin về cuộc khủng bố nơi một thành phố bên Trung Đông. Nạn đói kinh hoàng ở Phi Châu. Chuyện khai thác rừng thừa thãi ở Nam Mỹ. Tôi xếp báo lại. Toàn những tin không may làm mình thêm chán đời. Lúc này tôi hay thở ra thở vào. Chàng gọi tôi hôm qua, giọng ân cần lo lắng trên điện thoại: Dạo này em làm sao vậy? Sao lúc nào cũng có vẽ buồn buồn. Em vẫn ăn ngủ đều đặn chứ? Tôi cười méo mó: Em cũng không biết nữa. Anh thấy em buồn thật sao? Chàng nói ừ, rồi hai đứa bỏ lửng ngang đó. Câu chuyện chấm dứt một cách vô duyên. Tôi kêu thầm trong lòng. Anh ơi, anh hỏi làm chi khi anh không sẵn sàng nghe câu trả lời của em. Có phải anh sợ nếu chờ thêm lâu chút nữa, em sẽ lôi ra trăm ngàn lý do đã khiến nụ cười em ngày thêm gượng gạo héo hon, mà lý do nào cũng dính liền một tên anh trong đó? Tôi lục đục ra vào trong căn nhà nhỏ của mình những đêm không ngủ được. Tôi ca hát nghêu ngao một mình, nhai đi nhai lại một điệp khúc cũ mèm “pour un regards, tu as voulu partir…”, đến đỗi Thư phải la lên: Mi không ngủ thì để cho người ta ngủ nghê một chút. Muốn than trách ai thì tìm người đó mà than trách. Tại sao ta cứ phải chịu làm nạn nhân của những cơn mất ngủ của mi?… Nói hung hăng như vậy nhưng Thư luôn luôn là người bạn tốt. Hai đứa đã thân thiết với nhau từ ngày còn ở trung học, từ ngày còn tóc bom-bê ngắn ngủn, xúng xính trong chiếc áo dài trắng đầu đời. Thư “già” hơn tôi ba tháng, và lùn hơn tôi nguyên cả một cái đầu. Nó hay gọi tôi và nó là Lý Toét, Xã Xệ. Tôi ghét cái tên này, chê nghe không thơ mộng, lãng mạn chút nào. Thư trề môi nhiếc mắng tôi: Xí. Tối ngày cứ thơ với mộng như mi nên mới khổ đời. Tôi và Thư cái gì cũng trái ngược nhau. Tôi sống mơ mơ màng màng bao nhiêu thì Thư thực tế bấy nhiêu. Thư thích nấu nướng nhưng không để ý đến chuyện trang hoàng nhà cửa. Còn tôi mà không có Thư ở chung thì chắc chỉ có nhà cửa đẹp đẽ vén khéo, cây cảnh tươi mát, mà bếp núc thì lạnh tanh ám khói. Thư hứa hôn với một anh chàng cũng hiền lành tẩn mẩn như nó. Tôi dám chắc hai người đã vạch ra luôn chương trình mai mốt sẽ cho con đi học đại học nào. Thư vẽ một đường thẳng băng tiến đến tương lai, rồi cắm cúi bước tới không thèm ngó ngang ngó dọc. Tôi khâm phục cái nhìn rõ ràng của Thư, nhưng không muốn sống cuộc đời đầy qui củ như Thư. Dù tôi cũng không biết mình muốn gì. Cuộc đời tôi xoay quanh quỹ đạo của chàng. Vui buồn theo con nước ròng nước lớn của hành tinh chàng. Chắc tại vậy nên càng ngày tôi càng mất ngủ thường xuyên.
Tôi không nhớ mình bắt đầu để ý đến sự hiện diện của chàng từ lúc nào. Mà chắc lúc đó tôi phải còn nhỏ lắm, cỡ sáu bảy tuổi là cùng. Chàng là bạn thân với ông anh lớn của tôi, bạn đâu từ hồi mới vào trung học. Nhà chàng cách nhà tôi một con đường. Trong tỉnh lỵ nhỏ bé mà tôi đã sinh ra và lớn lên, một con đường có nghĩa là cách nhau vài trăm thước. Nhưng mà trong thế giới trẻ con của tôi, vài trăm thước là xa xôi lắm, xa xôi như mười hai năm cách biệt giữa tuổi tôi và tuổi chàng. Chàng hay đến nhà tôi học hành, đàn địch, tán dóc với các anh của tôi. Tôi để ý đến chàng vì chàng có vẻ chịu khó chiều chuộng tôi nhất, trong đám con trai mới lớn đó. Mổi lần đến nhà, chàng hay khom lưng xuống, mời mọc: Hạ có muốn hái ổi hay trứng cá thì leo lên lưng anh, khỏi mất công leo cây làm chi cho kiến cắn. Một lần chàng bắt gặp tôi ngồi trên thềm nhà tấm tức khóc, chân cẳng sưng vù vì leo cây bị kiến vàng cắn. Hết chuyện cho tôi nhảy phóc lên lưng chàng để hái mận, hái ổi. Chàng lại vuốt tre làm một cây lồng xinh xắn cho tôi: Khi nào không có anh thì lấy cái này mà thọc hái mận ổi. Đừng leo cây nữa. Con gái không nên leo trèo, vừa bị kiến cắn, vừa rách quần rách áo. Những ngày luyện thi tú tài, chàng gần như ăn ngủ ở nhà tôi. Ba má tôi thuộc vào hàng hiếu khách, lại chiều chuộng con cái, nên nhà tôi lúc nào cũng tấp nập bạn bè thức đêm ròng rã để học thi, uống hết ly cà phê này đến ly cà phê khác. Khuya, nhiều khi muốn đỡ căng thẳng thần kinh, các anh lại rủ nhau ra sân đàn hát một hồi. Tôi đã đắm chìn vào những giấc ngủ chập chờn trong tiếng đàn hát lênh đênh ngọt ngào đó. Những Sérénade, những Célèbre Valse lãng đãng trôi vào đêm sâu mịt mùng, hóa thân thành những cọng rêu xanh bám đầy trên ghềnh thác chập chùng của đường tìm về ký ức sau này. Rồi chàng và anh tôi cùng lên thành phố, tiếp tục vào đại học. Những mùa hè trở về tỉnh để học thi, chàng vẫn tìm đến túc trực ở nhà tôi như năm nào, cùng quây quần học hành với những người bạn cũ. Các anh hay rủ nhau ra vườn sau, trải chiếu nằm học dưới tàn cây măng cụt lao xao hoa nắng. Tôi cũng chiếm một góc chiếu, mượn viết màu xanh đỏ tím vàng của chàng để tô tranh, vẽ hình. Chán, tôi lại lang thang đi hái hoa ngâu, hoa lài về trải đầy trên chiếu. Đôi khi tôi mệt mỏi ngủ quên, tóc tai vướng đầy những cánh hoa úa nhầu tơi tả. Chàng gọi tôi là “cộng chúa ngủ trong vườn”. Nhà tôi trồng nhiều hoa ngâu, hoa lài để hái bán cho tiệm trà của người Tàu dưới phố. Tôi không biết uống trà, nhưng mê hoa ngâu, hoa lài từ dạo đó. Những nhánh hoa ngâu óng ả vàng tươi, mỏng manh như chùm trái lạ. Những nụ hoa lài trắng muốt thơm ngát hương về đêm. Tôi hay lẽo đẽo theo ba ra vườn lài mỗi chiều sau khi những công nhân hái hoa đã về hết, lựa chừng đầy một nắm tay những đóa hoa còn hơi bum búp. Tôi bắt chước ba, cũng bụm tay lại, đi tới lui, vừa đi vừa hít thở mùi hương nhẹ nhàng trong tay, rồi mang hoa về phòng để lên đầu giường ngủ mỗi tối. Khoảng nửa đêm, hoa lài bắt đầu hé nở, tỏa hương thơm nồng nàn khắp phòng. Hương hoa lài, hòa lẫn với mùi hương dạ lý thoảng nhẹ bên ngoài cửa sổ phòng tôi từng đêm, là những mùi hương quen thuộc ủ đầy trong giấc ngủ tuổi thơ của tôi ngày đó. Tôi đã chăm chút lựa những nụ hoa tươi tắn nhất để tặng chàng, dặn dò: Anh đem về tối để bên gối nằm. Nhớ nghe. Thơm lắm đó… Chàng mở lòng bàn tay nhận hoa, cười cám ơn: Bé có tin là bông thơm thì hay có…ma? Biết đâu có cô ma xinh đẹp nào sẽ hiện về thăm anh tối nay, nhờ lòng tốt của bé. Tôi mở to mắt nhìn chàng, nghi ngờ: Làm gì có ma. Nếu có ma thì ba đâu có cho em để trong phòng. Ba biết em sợ ma… Ừ, anh nói xạo đó. Ba phải biết nhiều hơn anh là cái chắc rồi. Tôi gục gặc đầu lặp lại lời chàng: Đó là cái chắc rồi! Mùa hè năm sau nữa, chàng quen với chị Trà Mi. Và tôi bỏ ngang thói quen hái hoa lài để cạnh bên giường mỗi tối. Không có ma quỉ nào hiện ra quấy phá giấc ngủ của tôi, ngoài những nỗi buồn không tên tuổi, không rõ nét bắt đầu lởn vởn vây quanh. Những mẩu chuyện vụn vằn trao đổi giữa tôi và chàng lại có tên người khác xen vào: Bé thấy chị Trà Mi ra sao? Tôi dấm dẳn: Ra sao là làm sao? Thì bé thấy chị có dễ thương không? Đẹp không? Thì cũng… đường được. Bộ anh thấy chị Trà Mi đẹp lắm hả? Tôi nhìn chàng soi mói. Chàng không trả lời tôi mà ôm cây đàn guitar vào lòng, khải từng tưng, “chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng, có nàng thiếu nữ đẹp như trăng, mắt xanh là bóng dừa hoang dại…” Chàng hát say sưa. Tôi ngẩng đầu nhìn mặt trăng tròn vành vạnh trên đầu, lầm thầm. Mặt trăng mà đẹp nỗi gì, đặc biệt nỗi gì, tháng nào không có! Còn mắt mà như bóng dừa hoang dại nghĩa là làm sao? Vườn nhà tôi có hàng hàng lớp lớp những ngọn dừa đủ loại, đủ cỡ. Tôi có bao giờ nhìn ngọn dừa mà tưởng tượng ra được đôi mắt của ai bao giờ. Người lớn sao mà rắc rối khó hiểu! Tôi lượm một cành khô, vẽ vời lăng quăng trên đất. Có một cái gì đó gặm nhấm trong hồn tôi. Tôi nhìn bóng mình đổ dài trên nền gạch, coi nhỏ xíu và buồn thiu bên cạnh bóng của chàng. Vậy đó, mà biết bao nhiêu năm về sau tôi vẫn bị ám ảnh bởi phút giây này, qua từng mùa trăng oan nghiệt. Mỗi lần nhìn trăng, tôi lại gợi nhớ về một góc hồn sâu thẳm của chàng mà tôi không bao giờ có thể với tay chạm đến. Có phải vì chàng đã hát “có nàng thiếu nữ đẹp như trăng…” mà tôi thừa biết rằng chàng không bao giờ gửi gấm lời hát đó cho mình?
Tiếng gọi vang trên loa, mời hành khách lên phi cơ. Tôi bỏ tờ báo vào túi xách, theo đuôi đoàn người đi vào lòng phi cơ. Chuyến bay sẽ đến Chicago trong khoảng hơn ba tiếng đồng hồ. Đổi máy bay. Thêm hơn hai giờ bay nữa là tôi sẽ gặp chàng. Sẽ có với nhau vài ngày trong thành phố ồn ào nhưng hoa lệ đó. Chàng đã nói: Anh đã dặn nhà hàng xong rồi. Sáng thứ bảy anh vẫn còn buổi họp, nhưng sau đó mình sẽ thong thả đi ăn cơm tối ở Tavern On The Green trong Central Park, đúng theo ý thích của em. Chìu tôi không được ở những chuyện to tát lớn lao, nên chàng cố gắng chuộc lại những săn sóc nhỏ nhặt. Nào khác gì ngày xưa. Anh cho người ta cả một trái tim nồng nàn tình yêu thắm thiết, mà chỉ dành được cho em một khoảng lưng cong, một bờ vai đầy trong vài giây phút để em trèo lên đó hái mận, hái ổi, để em hong vội những ước mơ hoài vọng đầu đời. Anh thề hứa trao dâng cả một cuộc đời cho người ta trong khi em không đi được cùng anh một đoạn đường chung cho đúng nghĩa. Tôi thở dài. Mình lại bắt đầu suy nghĩ lung tung lang tang. Bởi vậy nên đêm nào cũng loay hoay trằn trọc. Có đêm Thư chịu khó mò dậy, lò dò theo tôi ra ngoài phòng khách: Mi có muốn nói chuyện không? Chuyện gì? Trời đất! Chuyện gì thì mi biết rồi, đừng làm bộ ngây thơ cụ với ta. Rán thức theo mi đến lúc nửa đêm về sáng như vầy là ta đã thương mi quá sức rồi. Tôi cười, nhìn mớ tóc dài rối rắm xõa đầy trên vai Thư: Thôi thì rán chịu khó, để đức lại cho con cái sau này. Ta cho phép mi lấy tên ta đặt tên con đầu lòng cho mi tha hồ kêu rêu chửi rủa. Thư đặt tách cà phê xuống bàn: Lấy tên mi đặt cho con ta, lỡ nó lớn lên cũng điên điên khùng khùng, cũng mơ mộng tào lao như mi thì ta lại càng thêm mất ngủ nửa. Lúc đó, mới thiệt là nợ đời. Thôi, ta xin can. Chuyện mi và người ta ra làm sao nữa rồi? Có giận hờn gì nhau không đây? Thì cũng vậy vậy. Làm gì có chuyện giận nhau. Chỉ có ta giận đơn phương hay không mà thôi, mi biết rồi… Thư hớp một ngụm cà phê, dịu giọng: Vậy thì chừng nào mi mới giận có đối tượng đàng hoàng đây? Hay muốn suốt đời làm người có trái tim từ bi quảng đại, tiếp tục yêu kiểu tình cho không, biếu không? Tôi nhìn Thư cười méo mó: Nếu ta tính được chuyện đó thì đã không bị mất ngủ dài dài. Chắc có cái đinh ốc nào lỏng lẻo trong cái tim ta. Nên bộ óc của ta thì nói một đường, trái tim ta cứ đi một ngả. Nó cứ kêu tích tắc, tích tắc, chàng ơi, chàng ơi… Thư cười, lắc đầu: Nhà cháy đến nơi mà mi còn giễu được. Cũng là một điều hay cho mi. Trước khi trở vào phòng, Thư đứng lại hồi lâu ở ngưỡng cửa nhìn tôi bằng đôi mắt ướt mềm: Ta chỉ muốn cho mi biết là khoa học gia đã chứng minh người ta yêu bằng khối óc chứ không phải bằng trái tim đâu, nhỏ ơi… Mi không biết gì hết, hèn chi mi cứ lộn xộn hoài.
Chị Trà Mi xinh đẹp và hiền hậu. Ai cũng nói như vậy. Ai cũng nói chàng và chị Trà Mi xứng lứa vừa đôi. Chị đi học trên thành phố, trường Luật. Trường đại học nên thơ của “con đường Duy Tân, cây dài bóng mát…” Trong khi đó tôi đã vào trung học, ngày ngày đi bộ dang nắng đến trường mà tìm hoài không ra con đường nào có cây dài bóng mát. Chỉ có những cửa hàng, phố xá, nhà cửa nối tiếp theo nhau. Mỗi ngày tôi qua lại hai lần, in trong óc những cảnh trí trên đường mình qua. Tòa giám mục. Ty cảnh sát. Bệnh viện. Nhà bưu điện. Đài chiến sĩ. Thương xá. Rồi trường học. Tôi đếm được đúng bốn cây sao già cao ngất, ngưởng cửa trước ty cảnh sát, rồi thôi. Tự dưng tôi đâm ra… mất cảm tình với cái nơi chôn nhau cắt rún của mình. Tôi thua thiệt đủ điều. Thì chị Trà Mi cũng lớn lên trong tỉnh lỵ này như tôi thôi. Nhưng chị may mắn đã sinh ra trước. Khi chị thành thiếu nữ duyên dáng yêu kiều thì tôi vẫn là con bé con khờ khạo với đầu tóc khét nắng, đầy vẻ rừng rú man khai. Khi chị yểu điệu thướt tha làm sinh viên đại học thì tôi và Thư chiều chiều vẫn rủ nhau leo lên cây trứng cá bên bờ lạch sau nhà, ăn một bụng thỏa thuê, rồi phân tích chuyện… tình yêu. Khi chị và chàng đổi trao thư tình nồng mặn thì tôi bị liệt vào hàng ngũ bị… sai vặt: Hạ ơi, bé đưa dùm anh cái thư này cho chị Trà Mi nghe. Có thưởng. Em đâu cần anh thưởng. Tôi xụ mặt cầm lá thư, đạp xe đến nhà chị Trà Mi. Chị dọn về ở bên nội, trong ngôi nhà xưa rộng lớn và âm u, lành lạnh làm sao. Nhưng nụ cười của chị thì lúc nào cũng ngọt ngào ấm áp: Anh chị làm bé mất công quá. Vô nhà chơi, chị có cái này cho bé. Chị Trà Mi bắt chước chàng, gọi tôi là bé. Không lẽ tôi cấm chị không được gọi mình là bé, nhưng tiếng gọi vẫn làm tôi muốn co rúm người lại với cái giận dữ không đâu. Tôi lí nhí: Em phải lại nhà nhỏ bạn. Thôi em về… Tôi quay đầu xe lại, tất tả đạp ra khỏi cổng nhà chị. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh chàng đã gò lưng ghi chép bài vở cho chị sau khi nhà chị bị cháy tan hoang hôm tết vừa qua. Ngay cả trong sự mất mát, chị Trà Mi cũng vẫn may mắn hơn tôi. Nước mắt đâu đó bỗng thầm lặng ứa ra. Em đâu cần gì kẹo ngọt bánh thơm của chị. Em đâu cần gì chị phát cho chút thức ăn mọn hèn mỗi lần em làm công tác đưa thư. Thứ em cần, chị đã vô tình cướp mất mà không biết, không hay. Em đã mất những đêm ngủ vùi yên bình trong mùi hương hoa lài ngây ngất. Em đã mất những mùa trăng thơ mộng từ ngày trăng mang hình ảnh chị trong mắt chàng. Nghe ngược ngạo biết chừng nào chưa, là em cảm thấy đã mất mát những gì mà em chưa hề có.
Năm tôi vào lớp mười, chàng học xong bằng tiến sĩ và bàn chuyện cưới hỏi với chị Trà Mi. Ngày cưới của hai người, tôi bỏ về quê thăm ngoại. Tôi biết mình không có tài đóng kịch, nên không dám ở lại nhà để chờ đến giờ chót mà giả vờ ngã bệnh, xin cáo lui. Tôi càng không thể xum xoe quần áo, ăn diện bảnh bao như các chị của tôi để đi dự đám cưới của chàng. Chị Tố Lan cằn nhằn: Con này kỳ cục. Anh Nguyên cưng chiều mày bao nhiêu năm nay, mà giờ tới ngày đám cưới anh mày lại đùng đùng đòi về thăm ngoại. Chị Như Bích tỏ ra thông cảm hơn: Thì nó lớn rồi, nó muốn đi đâu thì đi chớ. Hơn nữa, ngoại cũng đang bệnh, thôi để nó về quê hú hí với ngoại vài ngày. Nó về dưới đó nhõng nhẽo với ngoại thì có. Nó sẽ bắt ngoại nấu một trăm thứ chè cho coi. Con này là chúa nhõng nhẽo mà! Buổi sáng đám cưới của chàng và chị Trà Mi, tôi nằm lì trên võng ngoài sân nhà ngoại, kẽo kẹt đưa võng cả ngày, lơ đãng ngắm nhìn lũ thằn lằn đuổi nhau trên trần nhà. Tôi cố không nghĩ đến những buổi tối tràn ngập tiếng cười đùa, ca hát trong sân nhà năm nào. Tôi cố không nghĩ đến những bụm tay nâng niu hoa lài trắng muốt mang tặng chàng. Tôi chìm vào giấc ngủ trưa nặng nề trong cái tịch mịch của đồng quê, trong tiếng xào xạc của những tàu lá chuối bên hiên nhà. Trong chiêm bao, tôi thấy mình lớn hẳn, dịu dàng là lượt trong áo dài gấm đỏ lắc rắc những chữ thọ màu vàng óng ả, tóc búi cao giấu vào trong khăn hoàng hậu kim tuyến lóng lánh quấn ngang đầu. Tôi cười tươi như hoa hồng ngậm sương buổi sớm, ngập ngừng bước đến với chàng. Tôi run run ngẩng nhìn vào đôi mắt chàng hân hoan chào đón. Nhưng sao khuôn mặt chàng cứ nhòa nhòa như chìm vào trong sương, không mang hình thù nào rõ rệt. Rồi đôi mắt chàng chợt nhòe nhoẹt loãng tan, dần dà biến hút vào màn sưong đục mờ ảm đạm. Chỉ còn khuôn mặt trống không, chập chờn hư ảo. Tôi chới với kêu gào. Nguyên ơi, Nguyên ơi…
Ba năm sau, tôi nghe tin gia đình chàng vượt biên. Tàu bị đắm khi vào gần đến bờ biển Nam Dương và chị Trà Mi chết không tìm được xác. Chàng thoát được vào bờ với đứa con nhỏ ôm trong tay. Tôi không biết như vậy là chị Trà Mi may mắn hay bất hạnh. Chị chết vì chị hiền lành nên sớm dứt nợ đời, hay chị bị định mệnh tàn nhẫn ra tay cướp đi những ngày hạnh phúc chưa kịp đến. Tôi đã cố tình không muốn biết tin tức gì về gia đình chàng, sau khi chị Trà Mi theo chàng rời tỉnh lỵ về nhận nhiệm sở ở một thành phố khác. Nên tôi không biết tình yêu đó có đưa đến một cuộc hôn nhân hạnh phúc như trong truyện cổ tích. Hoàng tử cưới công chúa trong một ngày hội hè linh đình trọng đại, rồi hai người sống đời đời hạnh phúc bên nhau, con cái đầy đàn, đứa nào cũng học giỏi, ngoan hiền, chăm chỉ. Hoàng tử không hề theo bè bạn rủ rê ăn nhậu. Công chúa không hề biết giận dữ cau mày, không đập ly, ném dĩa. Hoàng tử luôn ngọt ngào tình tứ. Công chúa luôn dịu ngọt tươi cười… Tôi gặp lại chàng vài năm sau, trong một cuộc họp mặt vào ngày sinh nhật ông anh lớn của tôi. Anh Tâm ra vẻ bí mật khi nói chuyện qua điện thoại: Hạ sẽ có một ngạc nhiên lớn… Mà tôi ngạc nhiên thật. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại chàng sau bao nhiêu năm. Vẫn nụ cười ấm áp hiền lành. Vẫn lối nhìn xoáy hút vào hồn tôi. Đuôi mắt chàng có vài vết nhăn mơ hồ. Mái tóc chàng có vài sợi bạc lấm tấm. Nhưng trái tim tôi vẫn đập hối hả, rối nhịp. Tay chân tôi vẫn luống cuống, thừa thãi như ngày nào khi đứng xớ rớ bên cạnh chàng. Nhưng bây giờ, ít nhất, tôi đã biết nguyên do. Chàng đứng trước mặt tôi, nghiêng đầu cười dịu dàng: Bé Hạ của anh đây phải không? Em lớn mau thật. Anh không ngờ… Bảy năm rồi, không lẽ anh bắt em nhỏ hoài… Nhưng em vẫn có lối nói chuyện với anh giống hệt như ngày xưa. Có nhắm mắt lại anh cũng nhận ra giọng nói, lối nói chuyện đặc biệt của em bất cứ lúc nào. Hình như đó là câu khen. Tôi cười lúng túng. Chung quanh là bao nhiêu khách khứa lạ, quen, mà hốt nhiên tôi bỗng thấy như chỉ còn mình mình trơ trọi. Với chàng. Chàng níu tay tôi, hỏi han: Đời sống của em bây giờ ra sao? Tâm nói em mới dọn về đây… Em mới học xong thì tìm được việc làm ở đây. Sẵn có gia đình anh Tâm, anh ấy kêu em về ở gần cho có anh có em… Buổi tiệc kéo dài đến khuya. Tôi lãng đãng đi trong sương mù từ nhà trước đến nhà sau, từ phòng ăn qua phòng khách. Không quen uống thứ gì khác hơn ngoài trà và nước lạnh, chút xíu champagne ngọt nồng cũng làm đầu óc tôi vật vờ ngầy ngật. Tôi bỏ đám đông, tìm lối ra sau vườn, ngồi thu người trên cái băng gỗ kê dưới gốc cây già sum sê cành lá. Mặt úp trong tay, tôi lắng nghe cơn say dịu dàng len lõi vào từng mạch máu nhỏ li ti trong người mình. Cảm giác thật bềnh bồng dễ chịu. Chàng tìm ra tôi trong tư thế đó, gọi khẽ: Hạ, anh đây… Chàng ngồi xuống cạnh tôi. Có chú chim nào đó vừa giật mình tỉnh thức, hốt hoảng bay đi làm xô động những cành lá lao xao trên đầu. Tôi ngẩng lên, nhìn vào đôi mắt chàng long lanh trong bóng tối nhàn nhạt vây quanh. Chàng thở nhẹ: Nhìn thấy Hạ đêm nay, anh bỗng nhớ nhà kinh khủng. Anh nhớ những đêm thức khuya học bài với Tâm. Anh nhớ mùi hoa lài trong tóc em… Tôi lao đao, chực ngã. Mùi hoa lài trong tóc em. Tức là chàng có nhớ. Dù chỉ một thoáng nào đó thôi, nhưng chàng có nhớ. Hay có lẽ chàng vẫn nhớ nhiều hơn tôi hằng tưởng. Và tôi cũng nhớ mãi đến nhiều năm về sau, lúc khuôn mặt quen thuộc của chàng ghé xuống cận kề, hơi thở chàng ấm nồng gây gây trên má, và đôi môi chàng ngọt ngào áp nhẹ lên môi tôi. Nụ hôn cuống quít mà dịu dàng, xôn xao mà đầm thấm. Tôi nhớ toàn thân mình đã run rẩy, bàng hoàng, tê điếng trong vòng tay siết chặt của chàng. Giọng nói chàng chìm hẫng vào đêm sâu mơ hồ, vướng víu đâu đó trong dòng tóc buông, đậu khẽ đâu đó trên đôi môi mềm: Hạ ơi, Hạ ơi… Tôi biết chàng đã có gia đình khác. Tôi gặp vợ chàng vài lần trong những buổi họp mặt tiệc tùng ở nhà anh tôi. Người đàn bà da trắng, tóc vàng, đôi mắt xanh lơ màu thủy tinh trong suốt. Tôi trò chuyện với vợ chàng vài lần, không thân mật vồn vã, cũng không hoàn toàn lạnh lùng khách sáo. Tôi chỉ muốn giữ một khoản cách nào đó để có thể gạt ngang hình ảnh của người ấy ra ngoài trí nhớ những khi tôi nằm trong vòng tay chàng, thì thầm nói chuyện yêu đương. Tôi và chàng không thể gặp gỡ nhau thường xuyên, ngoài những cuộc điện đàm, thư qua thư lại hàng ngày trên computer. Một năm vài lần, chàng báo tin: Anh sẽ đi họp ở Las Vegas (hay New York, paris, London, Zurich…) vài ngày. Em có thể thu xếp để gặp anh bên đó hay không? Anh sẽ dặn vé máy bay cho em… Hết chín mươi phần trăm là tôi lại xin phép đi nghỉ hè, lại lui cui ôm hành lý ra phi trường và bay đến một thành phố nào đó trên thế giới. Chàng sẽ đón tôi ở một phi trường xa lạ, ôm tôi vào lòng, vùi mặt trong tóc tôi thì thào, “nhớ em gần điên cuồng…” Tôi và chàng lại có vài ngày giả vờ làm vợ chồng khắng khít yêu thương. Như thế, kéo dài đã gần mười năm. Thư sốt ruột nhìn tôi đắm chìm nổi trôi trong mối tình không định hướng với chàng. Chị Tố Lan thắc mắc: Sao không thấy mầy quen với ai. Tính tới chừng nào mới chịu lấy chồng cho ba má yên tâm đây. Ai cũng đâu vô đó. Còn có mỗi mình mày! Tôi cười cười, lạy trời cho ba má tôi sống thọ trăm tuổi. Hy vọng tới ngày đó tôi sẽ biết cuộc đời mình đi về đâu. Tôi trả lời với chị kiểu huề vốn: Em còn trẻ măng. Ở đây sáu, bảy chục tuổi người ta còn yêu nhau, còn làm đám cưới rình rang tưng bừng, mặc áo đầm trắng đàng hoàng. Tình yêu đâu cần biết đến tuổi tác già trẻ. Thân xác có cằn cỗi tới cỡ nào đi nữa, thì trái tim muôn đời cũng vẫn biết rung động yêu thương. Có gì đâu mà gấp gáp… Chị Tố Lan kêu trời: Con này ăn nói lãng xẹt như bà khùng. Chỉ tại ba má cưng mày là đứa út ít trong nhà, nên bây giờ mày mới kỳ cục không giống ai. Vậy chớ tới ba đứa con gái trong nhà, mà chuyện gì em cũng phải làm giống như hai chị thì còn gì là… thay đổi không khí? Chị Như Bích lại ra tay can gián: Thôi, cho tao xin. Đời đứa nào nấy sống cho êm nhà êm cửa. Con Lan muốn vui vẻ hầu chồng hầu con thì tự tiện. Con Hạ muốn thành gái già nhong nhỏng ăn chơi thì cho nó nhong nhỏng ăn chơi. Cái gì mà phải cãi cọ um sùm. Chỉ có vợ anh Tâm là nhìn tôi cười ý nhị. Bà chị dâu này tinh tế và hiểu biết. Có thể là chị đoán già đoán non được điều gì đó, nhưng tế nhị nên không bao giờ đá động hỏi han đến chuyện đời tư cá nhân của tôi. Lâu lâu, chị ân cần nhìn tôi: Cô Hạ vẫn vui vẻ đó chứ?… Trời, tôi đâm ra ưa giọng nói Bắc kỳ dịu ngọt săn đón của chị làm sao. Tôi không dám thố lộ với ai khác trong gia đình về chàng, vì không tin tưởng vào sự cảm thông của người nào. Nhưng bà chị dâu của tôi đã từng làm eo làm sách khi gia đình chị không muốn gã chị cho anh Tâm. Ba me chị ở tận ngoài Đà Nẵng đã càu nhàu: Thiếu chi người để lấy, mà đi chọn chi cái thằng ở mãi tận trong Nam xa tít mù… Chị dọa bỏ nhà theo anh Tâm, nên ba me chị phải giơ tay đầu hàng cô con gái rượu. Cái con người lãng mạn trong tôi vẫn thầm phục những kẻ hiên ngang, dám cãi lệnh cha me, dám… sống chết vì tình yêu như chị.
Tavern On The Green buổi tối vẫn là khung cảnh tuyệt vời như trong trí nhớ. Trăm ngàn bóng đèn điện nhỏ xíu, lấp lánh như sao giăng được mắc đầy trên những tàn cây cổ thụ bao quanh khuôn viên nhà hàng. Vách tường và nóc nhà đều là những khung kiếng lớn, trong suốt, luôn làm cho tôi có cảm tưởng như mình đang ở giữa trời cao, lửng lơ bay bổng trong vũ trụ bát ngát mở rộng chung quanh. Buổi tối ở Central Park, ít nhất là trong vùng này, luôn luôn có một vẻ lôi cuốn quyến rũ thật kỳ quặc đối với tôi. Những chiếc xe ngựa lộc cộc gõ đều trên mặt đường nhựa, thầm lặng qua từng lối đi giữa vũng sáng đậm nhạt trong công viên. Những bóng lá chao động nhẹ nhàng, khép nép. Buổi chiều, tôi và chàng đã ngồi trong taxi, đi một vòng thành phố. Lúc ngang qua khu Broadway, tôi bỗng nghe buồn bã đến thẫn thờ. Tôi đã biết hí viện Schubert không còn đó nữa, nhưng vẫn ngoái mắt trông tìm. Tưởng như còn thấy dáng dấp ngơ ngác khờ khạo của mình trong ngày sinh nhật thứ hai mươi hai, áo quần là lượt, môi cười rạng rỡ, mắt sáng reo vui, đứng bên chàng đâu đó dưới tấm marquee của A Chorus Line. Tôi nhớ đêm sinh nhật thứ hai mươi hai ngồi quấn quít bên chàng ở Window On The World, nhìn mây trắng la đà đùn thấp chung quanh. Hai đứa kiên nhẫn ngồi chờ một chút cửa mây mở hé, để tôi được nhìn tòa Empire State Building uy nghi sáng rỡ trên nền trời đêm. Rồi cửa mây cũng mở. Tôi cũng nhìn được tòa nhà lộng lẫy tắm đẫm ánh đèn vàng rực rỡ chói chang, như nhìn thấy thiên đường trong chiêm bao. Chàng cười hồn nhiên, hớn hở ôm vai tôi: Thấy chưa, anh đã nói em sẽ có một ngày sinh nhật hoàn toàn. Happy birthday!… Những ngụm champagne nồng nàn. Những môi hôn nồng nàn. Đêm sinh nhật thứ hai mươi hai, tôi trao tặng mình món quà tôi đã kiên nhẫn chờ đợi bao nhiêu năm trời. Tôi nằm ngoan ngoãn trong vòng tay chàng đêm đó, với những giọt nước mắt sung sướng long lanh lăn tròn trên má, thì thầm nói lời cám ơn chàng. Tôi bắt đầu uống cạn những men say ngọt ngào của hạnh phúc. Và nếm vội những mặn đắng của tình yêu.
Trên đường ra khỏi nhà hàng, chàng ghé qua cửa hàng nhỏ bên cạnh, mua cho tôi cái ly thủy tinh bé xíu với hàng chữ Tavern On The Green, viết bằng nét bút mềm lả lướt. Chàng cẩn trọng bỏ gói giấy vào sắc tay tôi: Để em làm kỷ niệm. Tôi nghe vai mình bỗng nặng nề, trái tim mình bỗng nặng nề. Có phải vì tôi cứ đeo mang bao nhiêu thứ kỷ niệm ngổn ngang trong lòng từ ngày yêu chàng, và vẫn còn tiếp tục gom góp kỷ niệm dọc theo đường đi? Người ta sống. Người ta yêu. Còn tôi là con nhỏ suốt đời chỉ đi nhặt nhạnh kỷ niệm, ấp ủ tàn tích. Nên thấy trĩu nặng đôi vai. Tôi bỗng nhìn thấy mình như tấm gương soi đang ở trước mặt. Tôi bây giờ có khác gì tôi bao năm về trước. Tôi chỉ đánh đổi những chùm hoa ngâu, những bụm hoa lài bằng bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh khác. Ly rượu thủy tinh để nhớ một cuối tuần của mùa thu New York. Bức tranh màu nước của đường phố Paris để nhớ buổi chiều trên Mont-martre cùng chàng ngồi nhìn thiên hạ qua lại từ những bậc thềm dài trước Sacré Coeur. Mặt dây chuyền hình trái tim xinh xắn để nhớ buổi sáng viếng thăm San Marino cổ kính u trầm nằm giữa những núi đồi và thung lũng của vùng biển Adriatic. Tôi nghe tiếng mình chầm chậm thở dài. Chàng kéo cái khăn quàng bằng len, âu yếm choàng qua vai tôi: Em làm sao vậy? Lại suy tư đến chuyện gì rồi? Tôi im lặng, vì biết chàng chỉ hỏi, nhưng không chờ đợi một câu trả lời. Chàng không thật sự muốn biết những gì đang xâu xé trong lòng tôi. Hay có lẽ vì chàng đã biết quá nhiều. Như bao nhiêu năm về trước. Nhưng không thể nói được gì hơn bởi vì có những điều chắc tôi không muốn nghe, chẳng hạn như những mùa trăng yêu thương trong hồn chàng đã chết theo người thiếu nữ năm nào.
Phan Bá Thụy Dương Tình khúc nếu mai em về 1. nếu mai em có về xóm biển thả gió về trời cho mây bay bên con suối ngọc mơ màng ngủ cho tóc em nồng hương cỏ may nước mắt mẹ – có rơi dài đêm tối? nỗi niềm cha – còn u ẩn tháng năm? em – em đó sầu dâng mấy độ ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm 2. nếu mai em có về quê cũ đánh thức dùm tôi nhánh ô môi đang rủ sắc buồn bên song cửa với giàn bông giấy đắm sương mai có băng qua bãi, băng qua suối theo tiếng thì thầm trong khói mưa mặc gió hững hờ rung tà áo đã quên sầu, hết xót xa chưa 3. nếu mai em có về xóm biển hãy thắp dùm tôi mấy nén nhang cho bạn bè trên đường bỏ xứ lỡ trầm mình dưới đáy đại dương thắp thêm nhiều nén trên bia mộ cho thân bằng quyến thuộc anh em đã ngã gục qua lằn tên mủi đạn thủa chiến chinh chia cắt đôi miền 4. nếu mai em có về quê cũ đọc lại tình thư đã nhạt màu mà dư lệ đã lem nhòa trang giấy với muộn phiền chất ngất lao đao đò qua xóm vắng ai xuôi ngược có chở đầy trời thương nhớ không mộng hồn nào vấn vương tóc rối gót chân sen em có động chiều hồng?
Dương Thượng Trúc Chén rượu ngậm ngùi.
Nghiêng chai dốc hết ra từng giọt… Ta uống đêm này cho thật say. Đất ngả trời nghiêng, ta quên tuốt. Quên luôn số kiếp kẻ lưu đầy. Hãy nói nữa đi, thằng bạn cũ, Nói về ngày tháng lắm gian nan, Gạo sấy, lương khô mà thấy đủ, Ầm ầm pháo địch vẫn cười vang. Những đêm say khướt trong nhà thổ, Đốt tuổi thanh xuân, chén rượu nồng Rồi mai ngất ngưởng trên trận địa. Thét gào man rợ tiếng xung phong. Nhắc lại những đêm nằm gối súng, Nhìn trăng mơ bóng Giáng Kiều xinh. Đầm đìa sương lạnh, vai ướt sũng. Mà ấm trong tim, một chút tình. Còn nữa… những khi về dạo phố, Em cười e ấp, dáng hiền ngoan. Ôi! Bước chân son còn bỡ ngỡ. Sao hồn ta lạc chốn địa đàng. Đời của chúng mình, người lính chiến. Một thời ngang dọc, giữ quê hương. Giờ mang thân phận thằng lưu lạc. Nhìn lại non sông luống đoạn trường.
Tình này xin gởi khói mây
Chiều về, nắng tắt ven sông, Một người vời vợi ngóng trông một người. Tìm đâu cá nước chim trời. Mong chi hạnh phúc giữa đời hỗn mang? Yêu thương giờ cũng ngỡ ngàng. Hẹn thề thôi cũng giữa đàng gió bay. Ngọt ngào đâu? Chỉ đắng cay Tình này xin gởi khói mây hững hờ. Nhịp đập nhỏ nhoi Bởi yêu em anh mơ thành thi sĩ. Tập gieo vần với hai chữ tình yêu. Để từng đêm hồn chìm trong mộng mị. Mơ dáng hình em tha thướt mỹ miều. Bởi yêu em anh muốn thành nhạc sĩ. Dệt cung tơ ru giấc ngủ em nồng. Âm thanh nào hát lên lời chung thủy. Để ngàn sau anh vẫn mãi chờ mong. Bởi yêu em anh mong thành văn sĩ. Trải tình mình trên trang giấy trinh nguyên. Những câu văn thêm ngọt ngào hương vị. Để tình anh như giọt nước Cam Tuyền. Bởi yêu em anh muốn làm tất cả. Chỉ vì em và chỉ có em thôi. Dẫu tim em có lạnh lùng băng giá. Anh sẽ làm một nhịp đập nhỏ nhoi.
Dương Thượng Trúc Thủy Gia Trang Wichita KS – 2010.
Lê Hữu Minh Toán Em cứ đi
Ừ thôi, em đi có sao đâu Lời phân bua nước chảy qua cầu Trăng sặc sụa co ro đáy nước Chút vô ưu vọng động nỗi đau.
Em giận ta bảo em nhún nhảy Đâu khác chi ví với ngựa trời Ta vốn thật không cần đưa đẩy Có gì đâu, chua ngọt một đời.
Mưa tháng giêng ướt mềm tóc rối Em cuối trời đắm đuối môi hôn Ta đưa em, hồ sầu chới với Những tình xa, tình nhớ, tình buồn.
Em cứ đi và cứ quay về Không níu kéo cầm bằng níu kéo Nếu em còn vương chút đam mê Bờ tục lụy có ta cuối nẻo…
Chỗ nối đường vui Vui để sống
Ngồi buồn suy gẫm chuyện hên xui Sướng khổ trên đời cũng tại tui Tranh chấp hờn ghen toàn vị đắng Thứ tha nhẫn nhục ngát hương bùi Nghe điều xằng bậy tai vờ điếc Thấy chuyện thị phi mắt giả đui Hãy cố yêu người vui để sống Sầu đau oán hận bệnh không lui…
Yên Sơn Lâu rồi đời người cũng qua
Xin cười với nhau nụ cười độ lượng Để làm hành trang khi phải ra đi Cuộc sống hèn sang ngẫm lại ích gì Sau khi bước chân qua cầu sinh tử.
Xin cười với nhau nụ cười thân thiện Để khỏi đau lòng, hối hận về sau Đời sống mỏng manh cũng sẽ qua mau Lắm lúc xuôi tay không hề báo trước.
Xin cười với nhau nụ cười hỷ xả Khó khăn ích gì chỉ bận lòng thôi Lấy lượng từ bi ngăn giọt lệ rơi Xóa thù hận bằng khoan hồng tha thứ.
Tưởng tiếc
Ai không muốn một đời chim soãi cánh Tung tăng bay cùng đất rộng trời cao Đêm vô cùng, đêm huyền hoặc trăng sao Ngày tiếp nối ngày, bốn mùa mưa nắng
Có ai muốn sống một đời thầm lặng Ở quê người mục rã với cỏ cây Quê hương thân yêu rên xiết từng ngày Dưới ách thống trị của loài quỷ dữ
Ba mươi sáu năm làm thân lữ thứ Bóng thời gian ôi nghiệt ngã, vô tình Nhớ quê hương rồi soi lại chính mình Mắt trĩu nặng cho trái sầu rụng xuống
Thế là đã gần một đời… oan uổng Chí làm trai! Nợ cơm áo xứ người Nhớ bầu trời xưa, tưởng tiếc, ngậm ngùi Cánh đã gãy, vết thương còn mưng mủ.
Yên Sơn
Cù Hòa Phong Kỷ niệm quê hương
Quanh đây trời nắng ban trưa Vắng em vắng cả cơn mưa ban chiều Dấu chân anh bước đìu hiu Houston nắng hạ nhớ chiều lá thu. Bổng dưng nhiều gió, âm u Cơn mưa lũ tới đếm từ dấu xưa. Em yêu viết mấy cho vừa Đêm này bên đó là trưa nắng vàng. Gọi em tiếng gió ngân vang, Đậm tình non nước, xóm làng quê hương. Thương nhau nhớ cả con đường Em đi dấu đất còn vương ân tình Quê hương kể chuyện chúng mình Sông Kôn nước biếc in hình bóng ai. Một thời chân đất thở dài Bước lê trên ruộng tìm vài bữa ăn. Ngày đêm gió hú trở trăn Thương hình bóng cũ mượn văn tả đời.
Tâm Thanh Đám mây bên kia hồ Mjosa
Tôi không dám nhìn lâu vào đôi mắt của Gunnar, nó khẩn khoản quá. Tôi phải nhìn sang bên kia hồ Mjosa, nơi có dẫy núi phủ mây trắng, dường như quanh năm. Mỗi lần có điều khó nghĩ tôi thường nhìn sang bên đó, dù đó là thắc mắc của đứa bé bảy tuổi không biết viết thư cho Ông Già No-en phải gián tem bao nhiêu, có bớt giá cho con nít không hay câu hỏi của một đứa con gái dậy thì nên mua cái áo hở ngực tới đâu. Vấn đề hôm nay không phải là con tem, cái áo, mà tình yêu, hạnh phúc – Gunnar hỏi cưới, tôi phải trả lời ra sao. Gunnar đang tình cờ ngồi đúng cái ghế da mà ba tôi ngồi hôm đó, và tôi thì lại tình cờ ngồi đúng cái ghế da chị Lên ngồi, cái hôm kỳ cục đó. Chính ba tôi hôm đó, tại đây, đã gieo trong tôi nỗi nghi ngờ về tình yêu. Trong bao nhiêu năm nỗi nghi ngờ ấy ám ảnh trong người tôi, miên kỳ như mùi ngai ngái trên da bò. Thế này:
Lên là chị em con dì với tôi, con lớn của dì Hoa. Chị có thân hình như một nữ lực sĩ bơi lội. Mỗi lần theo ba má tới thăm gia đình tôi, việc đầu tiên là chị tung tôi lên trời ba lần. “Nữa đi!” tôi cười khanh khách nói. Và chị tung ba lần nữa. Sau đó chị lên phòng khách ngồi nói chuyện với ba trong khi mẹ và dì Hoa vào thẳng bếp chuyện trò và nấu phở. Những người khác, như chồng dì Hoa và mấy anh chị lớn, ngồi trong phòng TV nói chuyện, uống bia, uống nước ngọt, trước cái tivi mở để không. Tôi nhảy vào lòng chị Lên, hóng chuyện, mặc dù không hiểu lắm ba và chị Lên nói gì. Thì thường là chuyện học hành và tập aerobic của chị Lên, chuyện báo đăng chó sói ăn thịt cừu, chuyện một tên cướp ngớ ngẩn, đánh cắp bưu điện để người ta tóm cổ tại chỗ. Có lần hai người tranh luận con bò có răng hay không, ba nói bò không răng, chị Lên nói có răng… Tôi thầm đồng ý với chị Lên rằng con bò có răng mới gặm cỏ được, nhưng tôi im lặng, nghe sau lưng thân hình nẩy nở và rắn chắc của chị, khác hẳn thân hình nhỏ và mềm của mẹ. Trong số những người bà con bên mẹ tôi, ba tôi không thích nói chuyện với ai cả; ba chê họ nói tiếng Na-uy dở quá, mà lại hay nói to, điếc cả tai; ba chỉ thích nói chuyện với chị Lên. Tôi để ý lúc nói chuyện với chị, ba tươi tỉnh khác thường. Chị Lên hay vuốt tóc khiến tôi buồn ngủ, tai lơ mơ nghe tiếng nói đều đều của hai người xen kẽ với tiếng cười vang trong lồng ngực to của chị Lên. Có lần tôi nghe loáng thoáng ba đề nghị để ba tập lái xe cho chị Lên, và chị rất hào hứng, hai người hẹn ngày giờ nơi chốn. Lần khác ba khen chị Lên đẹp. Chị nói chị chẳng có cái gì đẹp. Ba nói bữa nào đi hồ tắm với ba, ba sẽ chỉ cho coi chị đẹp chỗ nào. Chị cười khanh khách nói “Có vợ rồi mà còn nói nhảm.” “Mặc kệ, giết vợ để lấy Lên tôi cũng sẵn sàng,” ba trả lời. Tôi nói hôm đó là cái hôm kỳ cục là vì thế. Sau đó, chị Lên có đi hồ tắm với ba và có đi học lái xe với ba hay không, tôi không rõ. Chỉ biết có lần vợ chồng dì Hoa tới nhà tôi nói chuyện gì, với vẻ rất trầm trọng. Không có chị Lên. Mẹ và dì Hoa to tiếng với nhau rồi cùng khóc. Tôi chỉ hiểu một chút tiếng Việt, và chỉ nghe người lớn nhiều lần nhắc con Lên thế nọ con Lên thế kia. Còn chữ “ông ấy” tôi hiểu là ba. Từ đó chị Lên đi biệt tích. Gia đình dì Hoa không tới nhà tôi nữa. Tôi nhớ chị lắm, ngày tôi chịu phép Thêm Sức chị không tới dự, tôi hỏi chị đâu thì người lớn trả lời chị đang ở bên Mỹ. Nhiều năm về sau, khi bắt đầu có bạn trai, tôi mới tình cờ biết rằng chị Lên đi Mỹ thật, nhưng chỉ chừng nửa năm lại quay về, cặp với một người Thổ. Chị sang Thổ-nhĩ-kỳ ở một năm, được một đứa con trai. Chị bị gia đình chồng ngược đãi, phải nhờ tòa đại sứ Na-uy can thiệp giải cứu về lại Na-uy. Cũng nhờ tòa đại sứ can thiệp chị mới mang được cả đứa con về. Tôi gặp lại chị trên xe điện ở Oslo, cùng với một đứa con trai tóc quăn tít và ngổ ngáo (lúc mới gặp nó lè lưỡi nhát tôi, đến khi quen, nó giựt đứt sợi dây ngọc trai của tôi, may mà ngọc trai giả). Chị kể về mười năm luân lạc, không bi thảm lắm so với những điều tôi đã nghe qua dì Hoa hoặc người ngoài kể. Nhưng rất sôi nổi. Gặp cuộc đời sôi nổi như thế, chắc chắn tôi không chịu đựng nổi. Thấy tôi chăm chú nhìn vào cái bụng dềnh dàng, chị cho biết bây giờ chị đang ở với một ông người Bosnia cư trú bất hợp pháp; cái bầu là của ông này. Chị không nhắc gì tới ba. Tôi không hỏi ngoài thằng bé tóc quăn đang ngồi bên cạnh và đứa con trong bụng, chị còn đứa con nào nữa không. Về nhà tôi không nói với ba má việc tình cờ gặp chị Lên ở Oslo. Ba mẹ vẫn sống chung, ăn uống chung, đi xe chung… Tôi không muốn nếp sống ấy đổi khác đi, trở ngại việc học hành của tôi. Nhưng ba càng làm ra không có việc gì xảy ra, tôi càng thấy lợn cợn trong lòng. Trong trái tim tôi. Cử chỉ lời nói của ba đối với chị Lên khiến tôi nghi ngờ tình yêu.
—o0o—
“Cecilia! Em có nghe anh nói không?” Gunnar kéo tôi về thực tại.Tôi rời ánh mắt khỏi dẫy núi bên kia hồ, quay lại nhìn Gunnar. Anh vẫn nhìn tôi chờ đợi. “Dạ, em nghe,” tôi trả lời. “Sao em không đáp?” Phải, lẽ ra tôi phải vui mừng đáp “Dạ” ngay khi Gunnar ngỏ lời hỏi có bằng lòng cưới anh không. Chúng tôi quen nhau từ cuộc cắm trại chuẩn bị lễ Thêm Sức, rồi thân thiết trong nhiều năm; trong bụng tôi vẫn mong chờ giờ phút anh ngỏ lời. Nhưng tại sao khi anh ngỏ lời, lòng tôi không thể vui mừng như mong đợi? “Gunnar! Em bối rối lắm,” tôi đáp. “Anh tha lỗi cho em, em không trả lời bây giờ được.” “Tại sao? Có điều gì trở ngại?” “Dạ không, hoàn toàn không.” “Em có yêu anh không, Cecilia?” “Anh biết là em yêu anh.” “Vậy tại sao em không trả lời ngay mà lại bắt anh chờ đợi?” “Em cần thời gian suy nghĩ.” Tôi vớ được một lý lẽ xem ra vững chắc. “Chúng ta phải xét xem hai đứa đã sẵn sàng kết hôn chưa.” “Chỉ cần em hứa một lời, rồi bao giờ đám cưới cũng được,” Gunnar nói xong, ngả người ra sau. Mái tóc nâu vàng tươi của anh chạm vào chùm hoa hồng vân trắng, loài hoa mà mẹ lấy giống từ Pháp về và đặt tên là hoa ti-gôn. Bạn bè Việt Nam của mẹ có vẻ thích cây hoa này lắm; còn ba thì cười vì mấy bà Việt Nam chỉ khéo thần thoại hóa một loài hoa vô danh. Gunnar nghiêng người về phía trước, cầm ly cà-phê. “Cà-phê nguội rồi,” tôi nói. “Để em rót mới cho anh!” Anh không từ chối. Tôi vào bếp đổ cà-phê cũ và rót mới cho anh. Anh uống một hớp nhỏ, hình như nóng quá, đặt tách xuống nói, giọng trở lại bình thường: “Mình đi dong thuyền buồm nghe em?” Tôi nhìn ra ra hồ nói thẫn thờ “Hôm nay sao nhiều buồm vậy?” Rồi tôi lẩm bẩm “Tình yêu không thể coi thường được.” Anh ngơ ngác, vì không nghe hoặc nếu nghe thì không hiểu hai câu nói không ăn nhằm gì với nhau và không trả lời vào câu hỏi của anh như thế. Hồi này tôi hay như vậy, anh cũng biết.
—o0o—
Bề ngoài tôi chỉ có vài nét giống mẹ – vành môi chúm và ngón chân cái to khác thường. Còn màu tóc nâu, màu mắt xanh, nước da trắng tôi giống ba. Tuy nhiên mẹ tôi thường hãnh diện nói với bạn bè, “Nó Việt Nam lắm!”. Còn tôi lại lo sợ giống mẹ, sợ chung số phận đàn bà với mẹ. Tôi ghét sự cúi đầu chịu đựng của mẹ. Đáng ghét nhất là tôi cảm thấy đúng như mẹ nói – tôi có tâm hồn Việt Nam (Việt Nam là cái gì thì tôi chưa xác định được). Dì Hoa kể mẹ tôi là cô gái đẹp nhất trong số những người tị nạn Việt Nam đầu tiên tới Na-uy. Mẹ đẹp và dễ thương tới nỗi có một ông thuyền trưởng ngày nào cũng mang quần áo, thực phẩm tới trại tạm cư để được nhìn mẹ, nói vài câu tiếng Pháp với mẹ. Hôm nào mẹ đi học tiếng Na-uy về trễ, ông cứ ngồi trong phòng khách, bồn chồn chờ đợi. Có lần cô giáo đưa cả lớp đi coi nhà bảo tàng rồi đi picnic, ông chờ lâu quá, buồn tay, đem cái giỏ mây của mẹ đan giở ra nghịch. Bây giờ mẹ và dì Hoa cứ còn tiếc nuối cái thời người Na-uy quí người tị-nạn Việt Nam như vàng, con nít ra đường họ cho tiền, người lớn lên xe công cộng đôi khi họ cho đi miễn phí, các hội từ thiện thay phiên nhau tới ủy lạo. Ông thuyền trưởng buồn tay đan hết mấy cái giỏ mây mà hội Hồng Thập Tự bày ra cho các bà các cô trong trại làm để có thêm chút tiền túi; bắt đầu bằng cái giỏ của mẹ, rồi sang mấy cái của các bà khác. Các bà về thấy thế, cười ré lên, các cô hát bài “Anh là thủy thủ”. Ông không hiểu tiếng Việt nhưng biết bị chế diễu, mắc cỡ, nói với nhân viên trực trại “Xin lỗi, tôi quên!” Các bà các cô chưa tha, hỏi “Quên cái gì?”, rồi lại cười ré lên. Nhưng không bao giờ ông quên mẹ. Sau khi mẹ lấy ba, ông vẫn chưa lấy vợ. Vài người quen Việt Nam tò mò hỏi, ông trả lời thẳng “Tôi chỉ yêu Hương thôi.” Hương là tên mẹ tôi. “Vậy chứ sao hồi đó ông không nói sớm?” một người cắc cớ hỏi ngay trong đám cưới mẹ. Ông trả lời “Tôi tưởng tình yêu không cần nói bằng lời.” Lại có người hỏi “Hồi đó sao ông biết cái giỏ nào là của Hương?” Ông trả lời “Biết chứ, nó thơm và đẹp.” Vậy mà hai người không lấy được nhau – chỉ vì một người ít lời một người giữ ý. Ba tôi thì dư lời.
—o0o—
Ba tôi gặp mẹ lần đầu khi mẹ đi lãnh tiền ở ngân hàng mà quên đem căn cước. Mẹ đứng năn nỉ với cô nhân viên ngân hàng “Bây giờ tôi về lấy giấy căn cước trở lại thì ngân hàng đóng cửa mất tiêu rồi. Xin cô tin tôi một lần đi. Tôi là người lương thiện mà!” Sự kiên nhẫn của cô ngân hàng chỉ làm cho cuộc nói chuyện kéo dài thêm, chớ không cho phép cô vượt qua thể lệ. Bỗng một người đàn ông từ văn phòng đi ra, thấy mẹ, dừng lại nghe cuộc đối thoại. “Ông ơi!” mẹ kêu cứu. “Có việc gì vậy, thưa cô?” ông hỏi. Mẹ nói “Ông! Ông làm ơn bảo đảm cho tôi là người lương thiện được không?” Ông mặc đồ lớn đó nghe mẹ nói, bật cười, đưa bút ký tắt vào ô “Căn cước” trên tờ ngân phiếu. Mẹ lãnh tiền xong, nhìn vào trong, thấy ông mặc đồ lớn còn đứng ở cửa văn phòng nhìn ra, gật đầu mỉm cười. Mấy tháng sau, tình cờ, trong một buổi tiệc hội Lion khoản đãi người tị nạn Việt Nam, ông giám đốc ngân hàng gặp lại “cô gái lương thiện” lộng lẫy trong chiếc áo dài. “Trên đời tôi chưa thấy ai đẹp như cô. Tôi muốn cưới cô,” ba nói sau nửa giớ nói chuyện. Sau khi chị Lên bỏ nhà ra đi một thời gian ngắn (lúc đó tôi bắt đầu học lớp năm tiểu học), ba tôi quen bà Bodil mà ba bảo tôi phải kêu bằng tata. Không có một thỏa thuận nào, dù thầm kín, nhưng tôi vẫn coi những buổi đi chơi nhà tata là việc hoàn toàn riêng tư giữa ba với tata, không liên quan gì tới mẹ, không cần kể với mẹ. Nhà tata lại hấp dẫn hơn, sẵn đồ chơi, nhiều phim hoạt họa, và có con chinchilla. Khi tata mua thêm con nữa thì hai con làm chuyện trống mái tự nhiên trước mặt mọi người. Một lần, vuốt ve bồng bế con chinchilla mềm mại lù đù mãi cũng chán, tôi định xin ra ngoài đạp xe với lũ trẻ trong xóm. Mở cửa phòng ngủ, tôi thấy ba nằm chung giường với tata. Tata một tay kéo mền che ngực, tay vẫy tôi lại, mi một cái, rồi xua ra ngoài. “Người lớn không khác gì mấy con chinchilla,” tôi nghĩ trong khi thả xe phăng phăng xuống giốc. Khi tôi thành con gái lớn, ba ít rủ tới chơi nhà tata, nhưng tôi biết hai người vẫn đi lại mật thiết. Tôi cũng bắt đầu cảm nhận ra rằng mối liên hệ giữa ba và tata là một việc thầm lén, nhưng không có cam đảm mách mẹ, sợ mẹ rầy sao không nói sớm. Tôi bỏ qua câu chuyện một bên luôn. Ông nội tôi rất giầu, có để lại cho ba một hòn đảo riêng, trên có hai cái nhà nghỉ mát, có bến tầu riêng. Ba nói sẽ chia đôi, cho tôi một nửa, một nửa cho hai người anh cùng cha khác mẹ của tôi. Mùa hè năm đó, ba hỏi mẹ có ra đảo chơi không, mẹ bận đi ăn thôi nôi con một gia đình Việt Nam. “Vậy anh đi với con Cecilia,” ba nói, và sửa soạn lên đường ngay. Ba hối hả quẹo xe lên đón tata cùng đi. Tôi thấy tata làm tóc mới và diện quần áo đẹp, trông trẻ trung như một cô gái. Đi hơi vội, nên mặc dầu mẹ có chuẩn bị đồ ăn cho cha con, nhưng lại quên nhét theo cái áo thung của mẹ. Tôi có cái tật phải kề mũi vào cái áo cánh có hơi mẹ mới ngủ được, dù đã mười lăm mười sáu tuổi đầu. Tối hôm đó, không có cái áo cánh, tôi nằm trằn trọc hoài, nghe con thuyền va kềnh kệch vào cầu tầu. Mặt trời không chịu lặn, mấy con hải âu cũng không chịu đi ngủ, cứ kêu réo ngoài ghềnh. Cuối cùng tôi nghĩ ra một điều: tôi đổi sang cái phòng ngủ bữa trước mẹ nằm, có thể còn hơi mẹ. Phòng này sát vách phòng ba và tata. Qua vách gỗ, tôi nghe rõ hai người trửng dỡn bên kia và trong những lời trửng dỡn có câu nói của ba “Giết vợ để lấy em, anh cũng sẵng sàng!” Tôi khóc nghẹn ngào.
—o0o—
Gunnar cột giây buồm, lại ngồi bên tôi, nói: “Nếu không lấy được em, anh thà chết dưới hồ này!”. Hai người đàn ông quan trọng nhất trong đời tôi, người thì đòi giết vợ để đi phiêu lưu, người thì đòi chết nếu không được gắn bó. Bề nào chăng nữa, tình yêu của họ là giông bão, hủy diệt. Lòng tôi không yên ổn. Một lần nữa tôi trì hoãn: “Vậy mình sang bên kia hồ đi, Gunnar nhé!” Tôi nhích sang bên, nhường tay lái cho anh. Dẫy núi bên kia thấp nhô trên đám mây như con tầu khổng lồ trôi trên sóng bạc. Thuyền buồm băng qua hồ và trở về bình an; như thường lệ. Sự bình an này trước nay tôi không để ý. Thấy tôi về, mẹ ôm chầm lấy mà khóc: “Con đi đâu vậy? Ba bị bệnh vô nhà thương rồi!” “Ba bị gì vậy, mẹ?” tôi hoảng hốt. “Mẹ không biết. Ba mẹ đi phố về, ba kêu mệt đi nằm. Mẹ làm bếp xong vào phòng coi ba thì nghe ba ú ớ, rồi im luôn, mẹ hỏi, lay không trả lời. Mẹ kêu xe cứu thương…” Chúng tôi vào nhà thương, thấy ba đã tỉnh, nhưng sút hẳn người đi, như bệnh từ nhiều tháng nay. Mẹ khóc, vuốt vuốt những chấm đỏ trên mu bàn tay ba, nói: “Bác sĩ nói sao, ông?” “Ung thư máu.” “Ông ơi! Ông đừng chết nghe!” Nhìn ánh mắt mẹ khi đút xúp cho ba, nhìn nụ cười của mẹ khi cắt móng chân cho ba và đưa bàn chân ông lên mũi hửi, tôi thương mẹ quá, và hối hận xưa nay coi bà Bodil là tata. Bà Bodil cũng biết tin dữ. Bà ngang nhiên vào thăm ba như một người thân. Mẹ hỏi ba: “Ai vậy, ông?” “Người quen.” “Quen ra sao? Sao chưa bao giờ tôi gặp mặt?“ Mặt ba sượng trân, trông rất kỳ cục, tránh nhìn mẹ, quay sang tôi, như cầu cứu. Tôi không hiểu sự cầu cứu đó có nghĩa gì – tôi nói ra sự thật giùm ba hay giấu biệt. Cuối cùng, chán ngán sự giả dối, tôi kể hết sự thật cho mẹ nghe khi chỉ có hai mẹ con ở nhà. Mẹ nghe một cách bình tĩnh khiến tôi phát sợ. Tôi giấu không nhắc câu nói “Giết vợ để lấy em anh cũng sẵn sàng”. Bởi vì tôi biết nếu tôi nói ra mẹ có thể chết được, không cần ai giết. Hôm sau chúng tôi lại chạm mặt bà Bodil trong nhà thương. Mẹ nhịn nhục không nói gì. Ngược lại bà Bodil còn khiêu khích: “Ở đây dư một người đàn bà!” Mẹ không mau mồm miệng như người ta, không biết trả lời sao cả. Lúc đó bà Bodil ngồi trên ghế kê sát giường bệnh, mẹ đứng cuối giường, tay xách giỏ đồ ăn. Tôi nắm tay mẹ để xác định tôi đứng về phe nào. “Người dư là bà!” tôi gằn từng chữ. Mẹ xiết chặt tay tôi hơn nữa. Bodil không ngờ phản ứng của con bé mà lâu nay bà tưởng đặt lòng trung thành nơi ‘tata’ hơn người mẹ da vàng. “A! Thì ra rau nào sâu nấy!” Bodil nói giọng khinh khỉnh, tay nắm tay bệnh nhân, tay vuốt mái tóc hoa râm của ông. Tôi cho rằng chỉ mẹ tôi mới có quyền vuốt tóc ba. Tôi định tiến tới kéo tay Bodil ra, nhưng mẹ biết ý, trì tay tôi lại, nói: “Để cho ba con yên!” Rồi mẹ kéo tay tôi ra ngoài hành lang, ngồi chờ. Chờ cho tối mịt bà Bodil vẫn không ra, mẹ xách giỏ cơm đi về. Sáng hôm sau, xảy ra một điều không bao giờ mẹ chờ đợi – ba yêu cầu mẹ ký giấy xin ly dị. Mẹ và tôi theo Công giáo, ba theo Quốc giáo Tin lành. Hơn nữa mẹ tôi là người đàn bà Việt Nam xưa cũ. Tôi biết rằng mẹ dễ dàng chấp nhận cái chết nhưng không bao giờ chấp nhận và tưởng tượng có ngày mình phải ly dị. “Chồng bỏ mình cứ bám lấy, bỏ được sao?” Mẹ lý luận như thế đó. Mặc dù thống kê nói cứ một trăm cặp lấy nhau thì có gần năm chục cặp thôi nhau, mẹ thường nói rằng năm mươi phần trăm đó rơi béng đi nơi khác, không bao giờ rơi vào giữa mẹ với ba. “Ly dị à?” mẹ ngẩn ngơ. “Sao ông không chờ khỏe đã?” “Bà thông cảm cho tôi,” ba thiểu não. Mẹ cầm cây bút có huy hiệu quen thuộc ngân hàng của ba. “Mà tôi đã làm gì nên tội?” mẹ khóc. Tôi cực kỳ bối rối. Vừa thương mẹ vừa thương ba. Nhưng hình như tôi lo sợ ba chết quá đến nỗi quên nỗi đau đớn của mẹ, quên tức cho sự khờ dại nhu nhược của mẹ. Và dường như chính mẹ cũng quên nỗi đau đớn của mình, hoặc không lường được tầm quan trọng của ngòi bút sắp sa xuống. Như một cái máy, mẹ nức nở đặt bút xuống tờ giấy: “Xưa ông đã ký bảo đảm cho tôi là người lương thiện!” “Kìa ba! Kìa má!” tôi rên rỉ, trong tuyệt vọng. Ba làm như không nghe, không thấy. Ba quay mặt vào tường. Dường như ba cũng đau lòng, nhưng không đau lòng đủ để đổi ý, cản má lại. Tôi tưởng tượng nếu bây giờ má đau lòng mà chết, ba cũng lừng lững mà đi con đường của mình. Có phần nào thật trong câu nói ghê gớm của ba. Của đàn ông! Má ký xong, oà khóc chạy ra ngoài, tôi theo dìu má ra xe. “Mẹ để con lái xe cho,” tôi nói. Trên đường về, tôi cứ bị ám ảnh vì câu nói của ba “Giết vợ để lấy em anh cũng sẵn sàng”. Người như ba, nhu nhược ngay trong tình yêu, chắc không dám giết ai; nhưng ông giết niềm tin của tôi vào tình yêu. Suốt thời gian ly thân, mẹ như sống trong mơ, cứ tưởng ba sẽ đổi ý. Lâu lâu mẹ lấy quần áo sạch của ba đem giặt, ủi, xếp ngay ngắn. Mẹ làm chả giò bỏ tủ đá chờ ba về bất ngờ. Đêm mẹ không khóa cửa, ngày đi làm để chìa khóa nhà trong thùng thư. Mỗi tối mẹ bắt tôi quỳ trước bàn thờ cầu nguyện, xin Chúa can thiệp soi lòng soi dạ cho ba hồi tâm. Nhưng ba không quay lại. Ba nhất định ly dị. Ly dị xong, ba làm lễ cưới với Bodil liền. Trên giường bệnh. Lễ cưới xong, Bodil không tới nhà thương nữa. Một tuần sau, ba chết trong tay mẹ. Bà quả phụ Bodil chỉ xuất hiện để nghe luật sư công bố chúc thư. Theo di chúc, hòn đảo của gia đình chia hai, một nửa phía nam với nhà nghỉ mát trên đó thuộc hai người anh cùng cha khác mẹ với tôi, nửa phía bắc cũng có nhà nghỉ mát và bến tầu thuộc về người vợ chính thức hiện tại, Bodil. Biệt thự mà ba mua để ở với Bodil trong những tháng cuối đời thuộc về bà, đương nhiên, vì đứng tên bà. Mẹ con tôi được tiếp tục ở và làm chủ ngôi nhà bờ hồ.
Ba mất được ba tháng thì bà Bodil đi lấy chồng khác, nghe đâu hôn lễ cũng cử hành trên giường bệnh. Người hằng ngày ra thắp nến trước mộ ba, là má. Tôi giận ba, không thắp nến. Má giảng giải “Ở Trên Đó cái lòng người ta không như dưới dương thế này nữa đâu con ơi.”
—o0o—
Mẹ định để tang người chồng phụ bạc ba năm. Trong thời gian để tang, mẹ không son phấn, và dè dặt tối đa trong việc giao thiệp với đàn ông. Mỗi lần ông thuyền trưởng tới, mẹ bắt tôi ngồi cạnh. Lần đầu tiên thấy mặt người đã đeo đuổi mẹ mình trước khi mình ra đời, tôi có cảm giác rất lạ. Như là tôi nằm trong bụng mẹ mà dòm ra thế giới. Lạ lùng hơn nữa là tôi thấy gần gũi ông ngay, như một người cha. Tôi bưng cà-phê ra, ông nhìn một cách thân ái, nói cám ơn. Cái nhìn của ông dành cho tôi khác hẳn cái nhìn trước đây ba dành cho chị Lên, mặc dù tình cờ ông ngồi đúng cái ghế da ba ngồi. Còn mẹ ngồi trên cái ghế chị Lên ngồi hôm đó. Tôi định bỏ vào bếp thì bị mẹ kéo lại ngồi kề bên. Miễn cưỡng tôi phải chứng kiến cho một lời tỏ tình: “Tôi sắp về hưu,” ông ngập ngừng. “Ước nguyện duy nhất của tôi là được nắm tay bà đi vòng quanh thế giới những năm còn lại.” Tôi nhìn hai bàn tay ông đan nhau để trong lòng, và mường tượng hai mươi lăm năm trước chúng đan ‘cái giỏ thơm’ để chờ đợi. Tưởng chờ vài tiếng mẹ đi học về đã đủ, lại chờ một phần tư thế kỷ. Bây giờ ông vẫn đan tay chờ đợi. Mẹ lặng đi hồi lâu, mặt đỏ hồng không son phấn. Tay mẹ vò chéo áo. Mẹ cố lấy giọng bình thản: “Ông đi đây đi đó cả đời chưa thỏa sao?” “Đi một mình có tới đâu đâu…” Thấy câu chuyện tới hồi đậm đà, tôi gỡ tay mẹ, khoác áo ra khỏi nhà. Tôi xuống bờ hồ ngồi trên tảng đá quen thuộc nhìn sang bên kia. Đám mây thiên thu như xây bằng cẩm thạch. Tôi biết mình sẽ phải nói gì với Gunnar.
Xuân Bích Về đây
về đây thành phố buồn trong cơn mưa hoàng hôn bóng người ngơ ngác đứng trên đường mòn cô đơn
khoanh tay lặng nhớ đời ngập ngừng trong mưa rơi ô hay chiều thứ bẩy một mình ta xa xôi
về đây giữa hàng cây lá vàng theo gió bay da trời hâm ý nghĩ bụi mưa giăng vơi đầy
một mình như năm xưa như những đêm giao mùa như chưa bao giờ thế để thấy vẫn là chưa
mùa này nắng lấy chồng em ngày cũ buồn không bao giờ thêm gió lạnh chắc thấu tình mùa đông
hôm nay là bây giờ ngày qua như giấc mơ mai sẽ là hiện tại em và ta bao giờ
trên ven đồi dại điên một tình yêu say thiền bên cây đời hoang phế cho nụ cười bình nguyên
xin mãi là
xin nhau cứ mãi thờ ơ dường như ai cũng giả vờ khi yêu nếu như ta nói thật nhiều người nghe chắc cũng chẳng liều tin ngay giữ cho nhau một vòng tay hơn là chiếc nhẫn trong ngày thành hôn khi yêu gán cả linh hồn để mua chỉ một mồ chôn vô hình xin ai cứ mãi làm thinh để cho giọt lệ một mình rơi hoang thế gian đâu phải địa đàng mà sao trái cấm mọc sang bên này
xin ai đừng đến nơi đây để riêng ta một vòng vây ơ hờ nếu như đau khổ là thơ thì ta vẫn hái những hờ hững xanh mấy khi gương vỡ lại lành thì sao nỡ đập tan tành bóng xưa đôi khi ta cũng dối lừa tìm quen trong dáng lạ chưa gian tà xin tình yêu cứ mù lòa để ta sờ soạng đường ra một chiều
xin nhau vẫn mãi người yêu để ta vẫn thấy nhớ nhiều hơn thương sáng nay thành phố mù sương trong ta trắng lạnh một phương sông hồ chia tay rồi có bao giờ nhìn trong trống vắng chiều ngơ ngác chiều.
Kiệt Tấn em về
hạ vàng hạ vàng nắng chiều qua chiều qua mau đường quanh đường quanh vắng ngõ đón ngõ đón chào
tà áo tà áo trắng vờn lao vờn lao xao trời im trời im ắng én vù én vù cao
đường hiu đường hiu gió lá xạc lá xạc xào gót son gót son nhỏ bước về bước về mau
sông tĩnh sông tĩnh lặng dòng nao dòng nao nao chuông chùa chuông chùa vẵng mưa rạt mưa rạt rào
trúc thưa trúc thưa vắng gió thổi gió thổi ào đường không đường không nắng chiều nôn chiều nôn nao mây chìm mây chìm lặng trời mưa trời mưa rào giọt trĩu giọt trĩu nặng em về em về mau
ngày phai ngày phai màu chiều xanh chiều xanh xao trời mưa trời mưa nặng em về em về mau em về em về mau.
nghe đời trống trơn
hoàng hôn đã khuất sau đồi còn đâu đêm nữa em ngồi bên ta còn đâu giọng nói thiệt thà còn đâu mùa cuối nguyệt tà liễu xanh một mùa mưa đã tan tành phai hương dạ lý khuất vành trăng khuya quạnh hiu sương xuống đầm đìa xua hơi buốt giá chia lìa đông tây paris đó đà lạt đây mai kia mốt nọ vẫy tay biệt mù cuối đêm tình đã tạ từ thôi em ở lại riêng tư góc trời ta về lặng tiếng im hơi vai co đầu cúi nghe đời trống trơn.
Trường Thy HUẾ, một quê hương tình tự
Huế, một quê hương miền Trung nước Việt, nằm giữa hai vựa lúa gạo – đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Thuở niên thiếu, khi còn ngồi trên ghế nhà trường chắc chúng ta vẫn thường nghe trong giờ Sử Địa, khi nói về hình thể nước Việt Nam vẫn từng ví giải đất dài và hẹp của miền Trung như chiếc đòn gánh, hai đầu là hai bồ lúa, gạo. Kinh thành Huế, một công trình kiến trúc kéo dài hàng mấy chục năm dưới thời vua Gia Long. Trên bình diện lịch sử mở mang bờ cõi, hình ảnh người công chúa đời Trần, đã vì đại nghĩa gác lại tình riêng cho quê hương có được giải đất thần kinh mà ngày nay mỗi khi nghe khúc hát tâm tình “Nước Non Ngàn Dậm Ra Đi…” ai mà không thấy ngậm ngùi thương mến người con gái Việt Nam da vàng, Huyền Trân Công Chúa. thậm chí cho đến ngày nay, sau bao nhiêu năm trường, chúng ta vẫn nghe và vẫn nói về cuộc tình Việt-Chàm ấy. Có người như Tiêu Vũ Vi, khi viết về “Tình Sử Huyền Trân” cũng đã khơi nguồn cảm mến qua những vần thơ: Đất Vìệt nghìn thu bia sử xanh Hai châu Ô, Lý một Huyền Trân Má hồng thương nước thân nào quản Chiêm quốc Đồ Bàn biệt cố nhân!
Giờ xin tạm gác lại những tích sử của cố đô Huế để mường tượng lại giải đất quê hương với Huế đẹp, Huế tình và Huế thơ. Huế với cái tên thật ngắn nhưng lại thật nhiều ý nghĩa và thật dài nhớ nhung. Tản mạn một chút về chữ HUẾ, một từ gồm 3 mẫu tự: H, U, Ê; theo triết lý Đông Phương thì nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vô cực (vạn vật), như vậy con số 3 có nghĩa là nhiều lắm, nhiều như ý, tình của Huế vậy. Trong truyện Kiều cụ Nguyễn Du nói đến niềm nhớ của Thúy Kiều hướng về Thúc Sinh (Thúc Kỳ Tâm) đã dùng thiên nhiên dể vẽ lên chữ “Tâm” trong đó cũng chỉ nói có 3 sao: Đêm khuya gió lọt song đào nửa vầng trăng khuyết ba sao giữa trời. Ngoài ra chữ H xin là mẫu tự đầu của chữ HƯƠNG, sông Hương, chữ U có thể là u buồn hay u trầm, sau cùng mẫu tự E bắt đầu cho chữ EM, bởi nói đến Huế mà thiếu Em là mất đi một phần của Huế. chẳng thế mà từ xưa, từ lâu lắm rồi thì phải, trong dân gian đã có câu: Học trò trong Quảng ra thi thấy cô gái Huế chân đi không đành. Thiết nghĩ chẳng cứ gì học trò xứ Quảng mà có lẽ học trò hay chẳng là học trò đi nữa và ở bất cứ phương trời nào trên giải đất hình chữ S nói riêng, thậm chí các bậc vương tôn, công tử cũng đã từng mang “trái tim không ngủ yên” một khi mái tóc thề phủ trên vai áo trắng dài thướt tha trên hè phố, qua nhịp cầu Tràng Tiền, hay vành nón che nghiêng nơi cổng trường Đồng Khánh đã nhập vào hồn khách một cách vô tình hay cố ý. Để chứng minh điều ấy, trong dân gian cũng đã có lần ghi nhận: Cô gái Kìm Luông đẹp mỹ miều Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi. Ngoài ba mẫu tự nói trên, dấu mũ trên chữ E tượng trưng cho chiếc nón, nón trên đầu em, và nói đến Huế không thể không nói đến “Nón Bài Thơ”, rối dấu sắc (’) hẳn là ngầm ý Huế Đẹp. Huế không phải chỉ là Hương mà còn là Sắc nữa. Với Huế, cảnh đẹp, cái đẹp của thi ca, của tâm hồn hơn là cảnh sắc bề ngoài. Huế với những địa danh đầy gợi cảm cho các hồn thơ trong sáng tác cũng như cảm xúc, nào là: Hồ Tịnh Tâm, Thôn Vỹ Dạ, Bến Văn Lâu, Lầu Tàng Thơ, Dòng Hương Giang, Cầu Tràng Tiền v.v., nữ sỹ Bích Khê viết về cảnh Huế qua dòng sông Hương đã để lại cho tao nhân mặc khách nhiều ấn tượng sâu xa: Dòng Hương in gái nguyên lành Lá thuyền du khách thanh thanh tiếng đờn Nhà thơ miền Nam, Đông Hồ, vào năm 1939, một lần đến Huế cũng đã để lại những dòng cảm xúc thật trữ tình, vừa đẹp, vừa thơ, vừa rất Huế: Dòng nước sông Hương chẩy lặng lờ Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ Gió cầu vương áo nàng tôn nữ Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ. Thi hào Nguyễn Du khi làm quan ở Huế lại nhìn Hương giang với đôi mắt đầy u uẩn như chứa chan nỗi buồn thương tiếc của người vừa trải qua một cuộc bể dâu, một thời hưng phế: Hương giang nhất phiến nguyệt Kim cổ hứa đa sầu (Hương giang trăng một mảnh Lai láng sầu cổ kim) Huế, cái nôi của bao cuộc tình đằm thắm, ai đã từng ở Huế, đã từng đến Huế, đã từng có những đêm trăng với Huế, và đã từng thao thức với Hương giang, hẳn đã từng bùi ngùi, xao xuyến với những câu hò như rót vào hồn khuya: Bên chợ Đông Ba tiếng gà gáy sáng Bên làng Thọ Lộc tiếng trống sang canh giữa dòng Hương tiếng sóng khuynh thành đêm khuya một chiếc thuyền tình ngửa nghiêng Huế còn là nơi ấp ôm những sử tích nên có những ngòi bút đã ru hồn lịch sử vào kho tàng văn học như nhà thơ đất thần kinh, Ưng Bình Thúc Giạ Thị trong mấy câu hò mang đầy sầu nhớ: Chiều chiều trước Bến Văn Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông thuyền ai thấp thoáng bên sông. Và cho đến hôm nay có những người thơ còn thương cảm, trải lòng mình trên những sóng quê hương trôi dạt vào qúa khứ để khêu gợi lòng ái quốc như một ước mơ tình sử, đốt nén hương trầm nghi ngút dâng lên hồn dân tộc qua những vần thơ “Tưởng Nhớ Vua Duy Tân”: Ước chi tới bến sông Hương đốt nhang mà lạy nắm xương lưu đầy thế là đã trở về đây một con người tận chân mây cuối trời tấm thân phiêu bạt quê người linh hồn vẫn ở lại nơi quê nhà ngai vàng vừa cũ vừa xa ánh vàng vương miện cũng là hư không mặt trời vẫn mọc đàng Đông lăng minh quân vẫn dựng trong lòng người bao triều vua phế đi rồi người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ. Mấy nhà thơ Mới như Hàn Mặc Tử, thế Lữ, Văn Cao, Nguyễn Bính v.v. cũng đều đã cảm Huế, viết về Huế. Huế đẹp và tình tứ, gợi cảm đến độ Hàn Mặc Tử phải thắc mắc như giục giã, như sợ ai đó mất đi dịp may thấy Huế: Sao anh không về thăm thôn Vỹ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên vườn ai mướt qúa xanh như ngọc lá trúc che ngang mặt chữ điền. Huế với Nguyễn Bính, chỉ “Vài Nét Huế” song lại là những nét tiêu biểu mà hầu như ai cũng nhớ, cũng nhắc đến mỗi khi nghĩ tới hay nói về Huế, những sắc mầu, những dáng vẻ đượm tình giai nhân: Ở đây áo tím riêng mầu Bài thơ nón mỏng che đầu mỹ nhân Loanh quanh xóm vắng đường gần ấy ai làm dáng phi tần với ai. Đến Huế rồi lại xa rời Huế, có người thầm yêu và nhớ Huế để rồi những phút “tha hương ngộ cố tri” sao có thể cầm lòng được mà không có Huế trong những câu tâm sự, ôn lại kỷ niệm xưa; có người lại buông trải niềm nhớ nhung ấy trên những trang giấy, trong làn phát tuyến. Đó là điều đã hiển nhiên, song Huế thơ mộng và tình tứ, quyến rũ đến độ có người như nhà thơ quân đội Hoàng Ngọc Liên đã cảm Huế và yêu Huế, viết về Huế ngay lúc còn ở Hà Nội, chưa biết Huế, đã nói về “Mưa xứ Huế” từ năm 1953, hai ngàn năm trăm năm mươi lăm ngày trước khi đến Huế lần đầu (1960): Nghe em nói về xứ Huế Mơ màng biết hẹn tìm đâu Em kể: sông Hương man mác thuyền trôi dòng nước nao nao …………………………………….. Sau nhiều mùa thu xa em Tôi được đến thăm xứ Huế Chân bước trên cầu Tràng Tiền thời gian sao qua mau thế! để rồi: nhìn em khuất sau cửa Thượng mờ mờ xứ Huế mưa rơi! Huế, những gì còn lại của Huế, người đi vẫn thấy nhớ về; những gì không còn nữa, chưa hẳn đã quên ngang, bởi nó vẫn tồn tại trong ký ức người đi cũng như người ở lại. Điển hình như Bến Đò Thừa Phủ mà nhà thơ Vô Tình đã có lần nhắc đến: Bến đò Thừa Phủ sông Hương Ai người xứ Quảng vấn vương bến này. Hình ảnh bến nước ấy một thời đã in sâu trong tâm tưởng mà một người thơ, dường như là Tô Kiều Ngân, đã viết lên nỗi niềm tiếc nuối “cây đa bến cũ con đò xưa”, những tà áo trắng bay bay trong gió chiều v.v., tất cả chỉ còn trong ký ức. Thời gian và nhu cầu của con người đã xóa đi những hình ảnh đầy tình tự như một hài hòa giữa thiên nhiên là (sông nước, bóng cây, mây trời) và những gì là nhân tạo như (con đò qua lại, mái chèo khua nước, tà áo nữ sinh v.v.) Bến đò Thừa Phủ không còn nữa gốc cây đa mất dấu bên bờ những tà áo trắng đi đàng khác vắng tiếng cười sông nước cũng tương tư. Thơ là thế, những vần cho Huế đã nhiều vô kể thì nhạc, những khúc ca mang tình yêu Huế cũng ngập tràn trên sóng tình giai điệu dành cho Huế. Nhớ về Huế, nỗi niềm sầu lắng khi xa Huế. Nói về Huế thì Huế đẹp và thơ, người con gái Huế thì “nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Nhạc sỹ Minh Kỳ “Thương về xứ Huế” đã ca lên: “Huế đẹp ơi…” và “Huế là thơ…”; trong nhạc bản “Thương nhớ cố đô” Võ Tá Hân viết: Người em gái mái trường Đồng Khánh mắt vương buồn trong những chiều mưa nhớ thương biết mấy cho vừa còn đâu những lúc đón đưa hẹn hò rồi một Vũ Thành An với những cánh nhạc bay vào tình yêu, một cõi vừa xa xăm vừa gần gũi, lãng đãng, e ấp như niềm riêng dấu kín, song lại như một “im lặng lớn vang trong trời rộng” nơi khoảng hồn con gái: một tiếng nói lặng thinh một ánh mắt ẩn dấu tình ấp yêu một mình…
Cái đẹp và thơ nói chung thật miên man, thật bao la, bút mực nào, lời nào tả cho cùng. Chỉ riêng với Huế đã vô vàn những ngôn từ cho Huế, cho tình yêu với Huế, và cho những cảm nghĩ về Huế. Không phải chỉ nơi phố thị hay hoa viên mới đẹp, mới nên thơ mà rừng núi cũng ươm đầy thi ảnh, cũng lãng mạn tình đời, cũng vi vu lời gió, ướt át mầu trăng… và cũng lưu lại trong tâm hồn kẻ đến người đi những nhớ nhung sâu lắng. Quê hương Việt Nam không phải chỉ có Huế mà dọc theo chiều dài đất nước, từ đồi nương Sapa, rừng Lạng Sơn với lối giốc, nhà sàn…ta vẫn nghe: “Đường Lạng Sơn âm u…gà bình minh kêu lơ thơ, rừng êm ái thức giấc trong sương mờ, đồi núi vươn vai, vừa mới tan cơn mê say. chợt nghe thấy tiếng chim hót vang trời…” rồi nữa “đồi nương xanh xanh núi xanh lơ, rừng cây xanh xanh lá bên hoa, mầu áo chàm phất phơ trong mây mờ. Nhà sàn cao tuy mái thô sơ, người dừng chân bên suối nên thơ…” và những “Nụ cười Sơn cước” cũng từng chiêu say lòng người trong khúc ca trữ tình sông núi vậy: Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi Mây mờ buông xuống núi đồi Và trong lòng mưa hơn ở ngoài trời cỏ cây hoa lá thương nhớ mãi người đi và dâng sầu lên mi mắt người về… về đến Hà Nội với những mùa thu lá bay, 36 phố phường, năm cửa Ô v.v., Đà Lạt, thành phố cao nguyên như một cô gái mang vẻ đẹp Tây phương pha dáng dấp liêu trai của núi đồi; Nha Trang, miền thùy dương cát trắng, sóng nước xô bờ trong những đêm trăng; Sài Gòn, thành phố đã từng được mệnh danh “Hòn Ngọc Viễn Đông” với những chiều “… em tan trường về…trời mưa nho nhỏ…”, “áo trắng loang sân trường sẽ trắng bao phố phường…” rồi xuôi Nam, ai mà chẳng từng nghe những câu thơ, khúc nhạc hát về Tây Đô, hát cho Hà Tiên v.v. Nói về cái đẹp, cái tình của miền đất quê hương thật không sao kể hết. Mỗi miền có dung nhan, tình tự riêng tư và độc đáo, phải chăng vì giới hạn của ngôn ngữ so với cái bao la không cùng của thiên nhiên, và cái hạn hẹp của tâm trí của con người so với công trình sáng tạo của Hóa Công.
Cái Trọng Ty Đêm uống rượu nghe “Biên cương hành”
(Gửi Phạm Ngọc Lư)
biên cương hành chí ngươi hồ thỉ ngôn ngữ trong thơ di lụy một đời ngươi về một cõi nhà tan nát tâm tư ưu uất tháng năm trôi ngồi đây mời bạn chung rượu đắng kẻ sĩ Biên cương giày cỏ qua sông đã bao năm một ngày thoáng gặp gió phi trường Bình Định cát bay bay vội vàng tay vẫy không hẹn lại thưở ấy bụi đường lấm tai ương tôi theo trận mạc về An Phú thời Xuân Thu sớm biển chiều rừng bước đi lửa tình như muốn cạn nhìn lại bóng mình rách rưới tang thương Bạn tôi chí lớn như gươm bén chảy máu đời Thơ buổi chợ tàn ai hiểu cho ngươi đời thất chí chén rượu này đối ẩm cùng ai đêm xưa gác trọ vài ba đứa vui một phùa sãng khoái tan hàng nay hong bếp cũ lò than lạnh nhìn đăm đăm vách lá chơ vơ chỉ thấy tháng ngày trôi lớp lớp thấy đời mình quạnh quẽ vào ra thấy bóng mình đen đêm không sao mọc nhớ bạn đêm về đau như cắt vết thương xưa dao nhọn cứa vào tim ta qua cầu nhìn lại sông khập khiểng máu theo sông chảy nhịp luân hồi đêm nay ngâm lại giòng Biên trấn ngôn ngữ trong thơ mọc ở phương Đông Thơ tràn trên những đồng hoang hóa hoa quỳ cô đơn nở giữa núi ngàn mây thành kìn kịt từ đất khổ vó ngựa biên cương bốc bụi mù cung đàn xưa ai người tri kỷ trên chiếu bạc đời nỗi đắng cay buồn bã đêm xuân đành rơi bút bạc giông bão đời xoay tâm muốn sụm trang thơ khép vội khúc oan tình hình như gió thổi qua liếp cửa vi vu nghe tiếng gọi trùng khơi gọi ai nơi tận cùng sơn thủy ai người khách lạ gió muôn phương ta về bạn hỏi từ đâu lại thấy khói tàn tro phủ tượng đài thấy rơi giọt lệ sôi trên bếp dấu giày thô đời ở trọ quê nhà.
Trọng Đạt TIÊU SƠN TRÁNG SĨ
(Tiểu thuyết dã sử nổi tiếng của Khái Hưng).
Tiêu Sơn Tráng Sĩ, viết 1940 (có tài liệu nói 1936), là tác phẩm dài nhất của Khái Hưng, trên bốn trăm trang và cũng là tác phẩm công phu nhất của ông, nó đã làm sống lại một giai đoạn lịch sử cách đây hai trăm năm, thời Lê mạt Nguyễn sơ, dưới triều Cảnh Thịnh năm thứ năm (1797), tức Nguyễn quang Toản lên ngôi 1792. Tiểu thuyết dã sử dựa theo sử viết thành truyện đã có cách đây hàng nghìn năm tại Trung hoa như Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc. Mặc dù chịu ảnh hưởng hoàn toàn của văn học Trung Hoa, trong nền văn học Hán Nôm Việt Nam, chúng ta không thấy thể loại này, có chăng trong nền văn học mới gần đây như Nguyễn Quỳnh với Chuông Nhà Hồ, Đội Cấn Khởi Nghĩa. Tiêu Sơn Tráng Sĩ được coi như truyện dã sử nổi tiếng nhất của nền văn học nước nhà. Đây cũng là một trong những tác phẩm thành công nhất của Khái Hưng, nó đã diễn lại bằng những hình ảnh hào hùng về tổ chức và hoạt động của đảng Tiêu Sơn phò Lê, chống lại triều đình Tây Sơn với những tráng sĩ gan dạ, anh hùng như Phạm Thái, Nhị Nương. Tác phẩm ra đời trong lúc tình hình quốc tế đang có biến chuyển, nước Pháp bại trận đầu hàng. Khái Hưng dấn thân vào công cuộc cách mạng dành độc lập, ông gia nhập Đại Việt Dân Chính do Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký, thành lập 1940, lợi dụng các biến chuyển quốc tế để hoạt động chống thực dân, áp bức. Tiêu Sơn Tráng Sĩ với trên bốn trăm trang giấy là nơi mà tác giả gửi gấm tâm tình của ông, Khái Hưng ca ngợi những chiến sĩ gan dạ, sả thân vì đại nghĩa vì sự nghiệp cách mạng để khơi dậy trong tâm hồn giới thanh niên một tinh thần hy sinh, ái quốc.
Sơ lược truyện.
“Bối cảnh lịch sử thời Hậu Lê: Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc đánh đuổi quân Thanh, Lê Chiêu Thống cùng Tôn Sĩ Nghị chạy sang Tầu, Nguyễn Huệ lên ngôi trị vì được năm năm, mất1792 Nguyễn Quang Toản lên thay, hiệu Cảnh Thịnh, truyện diễn ra dưới thời Cảnh Thịnh năm thứ năm, tức 1797. Nhân vật chính gồm: Trần Quang Ngọc con Trần Quang Châu, trung thần nhà Lê. Phạm Thái con quan cựu thần Thạch Trung Hầu, Nhị Nương con gái quan bộ binh thượng thư Nguyễn Đình Giản, cựu thần, Lê Báo… họ đều là giòng giỏi cựu thần nhà Lê, Trần Quang Ngọc, hai mươi lăm tuổi, đảng trưởng, Phạm Thái phó đảng, Nhị Nương, Lê Báo đều ở lứa tuổi đôi mươi. Quang Ngọc, Phạm Thái, Lê Báo khoác áo cà sa, nương nhờ chùa Tiêu Sơn để che mắt quan quân Tây Sơn, ba người kết nghĩa anh em cùng mưu đồ đại sự, lập đảng Tiêu Sơn phò nhà Lê chống triều đình Tây Sơn. Bà Hoàng phi họ Nguyễn trốn tránh bảy tám năm, nay bị bắt, Quang Ngọc và đồng đảng âm mưu giải cứu bà Hoàng phi nhưng Đào Phùng cũng giòng giỏi cựu thần đã giải thoát cho bà. Các tráng sĩ Tiêu Sơn tưởng là bọn cướp bắt bà đem đi bèn vào rừng Đình Bảng đuổi theo chúng, gặp Đào Phùng và bà Hoàng phi mới biết Đào Phùng là giòng giỏi cựu thần nhà Lê, đồng chí hướng. Đào Phùng bị bắt, viên quan chỉ huy cho lính tra tấn dã man, Đào Phùng không chịu hé răng khai. Các tráng sĩ Tiêu Sơn giả làm bọn mãi võ đến múa kiếm ca hát rồi giải thoát cho Đào Phùng. Đào Phùng mới thoát ngục ra đã đi in những tờ hịch, truyền đơn hô hào nổi dậy chống nhà Tây sơn. Chùa Tiêu Sơn làm lễ dâng sao, khách thập phương kéo đến rất đông, các tráng sĩ lấy cớ làm lễ để tụ họp, tan lễ họ đóng cửa chùa, mấy trăm sư giả tụng niệm kinh sám hối, đảng trưởng Quang Ngọc cho biết lực lượng đảng có năm mươi cây súng hỏa mai và đạn dược, mấy nghìn giáo mác, một nghìn quân nhưng đảng chưa muốn hành động chờ Nguyễn Ánh khởi sự ở phía Nam. Nhị Nương cùng Phạm Thái đưa Hoàng phi lên Lạng Sơn ẩn náu, đi đò qua sông lại gặp Đào Phùng làm lái đò. Đến Lạng Sơn tại chùa Tam Thanh, họ được Phổ Mịch cho biết vua Lê Chiêu Thống đã mất mấy năm ở bên Tầu. Thanh Xuyên Hầu Trương Đăng Thụ, con quan Kiến Xuyên Hầu, trấn Sơn Nam. Thời nhà Lê, Đăng Thụ làm Hiệp trấn Lạng Sơn, Tây Sơn để Thụ nhậm chức cũ và còn được cất lên Trấn thủ nhưng không còn binh lực trong tay, viên hiệp trấn mới là tướng thân tín của Tây sơn, Thụ chán nản, vãn cảnh chùa Tam Thanh, tâm sự với nhà sư Phổ Mịch và gia nhập đảng Tiêu Sơn. Lê Báo, Trịnh Trực ra tay giết giặc, Lê Báo còn trẻ nóng nảy cho người nhốt mình vào cũi đem nộp viên phân xuất, giả làm Phạm Thái, quan quân Tây Sơn rượu chè mừng rỡ, quân lính của đảng Tiêu Sơn giả làm phường chèo, ca hát rồi tuốt gươm giết quan quân Tây Sơn, mở cũi cho Lê Báo tháo chạy. Triều đình tức giận đem quân khám chùa Tiêu Sơn. Lê Báo, Quang Ngọc, Trịnh Trực trốn xuống đường hầm. Nhị Nương giả làm ma hiện hồn lẻn qua cửa hầm đem đồ ăn cho các tráng sĩ . Phạm Thái lên chùa Tam Thanh gặp Thanh Xuyên Hầu bàn việc đại sự: đem quân về triều hỏi tội gian thần rồi cùng hơn nghìn quân Tiêu Sơn lật đổ nhà Tây Sơn. Sáng hôm sau Thanh Xuyên Hầu bị quan hiệp trấn đầu độc chết, Phạm Thái vô cùng căm giận. Kiến xuyên phu nhân cùng con gái (Trương Quỳnh Như) đi lễ chùa Non Nước. Trịnh Nhị một công tử giầu có nhất trong vùng, biết phu nhân và Quỳnh Như đến chùa bèn thuê thuyền tới, ăn mặc sang trọng làm thơ để lấy lòng người đẹp, phu nhân muốn kén Trịnh Nhị làm rể nhưng Quỳnh Như chê chàng kém chữ nghĩa. Trên thuyền về nhà, giữa sông gặp thuyền Phạm Thái và Long Cơ (vợ Thanh Xuyên Hầu) Thanh Xuyên Hầu là con Kiến Xuyên Hầu, là anh của Quỳnh Như. Kiến Xuyên Hầu đoán Phạm Thái là giòng hào kiệt, giả tu. Phạm Thái gặp Quỳnh Như mê mẩn trước sắc đẹp của nàng. Long Cơ, vợ lẽ Thanh Xuyên Hầu treo cổ tự vẫn, Phạm Thái trèo lên cây gỡ xuống cứu mạng Long cơ, gia đình Kiến Xuyên Hầu biết ơn Phạm Thái. Quỳnh Như nói với cha (Kiến Xuyên Hầu) Phạm Thái giả sư, cha nàng tin vậy, đãi tiệc Phạm Thái cùng bàn bạc văn thơ, sáng hôm sau, Phạm Thái ra đi, Quỳnh Như ngầm sai người đem ngựa đến cho chàng. Phạm Thái đi bốn hôm tới Bắc Thành (Thăng Long). Tại các phố Bắc Thành nay rất náo nhiệt vì kỳ thi tuyển cống sinh sắp bắt đầu. Quang Ngọc và Nhị Nương bị truy nã trốn lên Bắc thành mở quán Bạch Phượng. Nhị Nương bán trầu nước. Nhị Nương dụ các thầy khóa, thí sinh phản đối kỳ thi và cả viên quản cơ cũng theo Nhị Nương, bại lộ, quản cơ và bốn viên đội bị xử trảm. Nhị Nương trốn thoát ra ngoại thành giả làm thầy bói, gặp Phạm Thái. Phạm Thái đi quyên giáo trấn Xuyên Nam mấy tháng rồi quay về Thanh Nê gặp Kiến Xuyên Hầu và Trương Quỳnh Như. Kiến Xuyên Hầu nhờ Phạm Thái dạy mấy đứa cháu học, chàng bắt đầu thoái chí, muốn nán lại đây nghỉ ngơi ít lâu. Phạm Thái và Quỳnh Như cảm mến nhau, trao đổi thư từ, văn thơ, chàng soạn truyện “Sơ Kính Tân Trang” để mô tả thiên tình sử hai người. Kiến Xuyên Hầu (Trương Công) và phu nhân chưa ngờ vực gì hai người. Gia đình Trịnh Nhị nhờ người mai mối hỏi Trương Quỳnh Như, phu nhân ý muốn gả vì Trịnh Nhị giầu nhất phủ. Kiến Xuyên Hầu đãi tiệc Trịnh Nhị và cả Phạm Thái. Quỳnh Như tái mặt suýt chết giấc vì biết Trịnh Nhị dốt nát lại sắp thành hôn phu, trong tiệc Phạm và Trịnh làm thơ đối đáp, Kiến Xuyên Hầu thấy Trịnh Nhị dốt nát, Phạm Thái học rộng tài cao. Quỳnh Như bị ép duyên tự vẫn, Kiến Xuyên Hầu muốn gả cho Phạm Thái nhưng phu nhân đòi gả cho Trịnh Nhị, Phạm Thái về thăm mộ nàng khóc vật vã. Hai năm sau Quang Ngọc gặp Nhị Nương ở tửu quán bên đường, họ nói chuyện Phạm Thái mê gái. Về việc đảng, chưa gặp vận, các đồng chí tan tác cả. Phạm Thái thất tình say rượu”.
Tiêu Sơn Tráng Sĩ là tác phẩm dài và công phu nhất của Khái Hưng, để viết truyện này ông đã nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử, địa lý, phong tục, thi ca, văn chương nước ta thời Tây sơn, nghiên cứu những danh từ cổ xưa để dựng lại cả một xã hội phong kiến xa xưa y hệt như một nhà làm phim ảnh vậy. Có thể nói nó là một trong những cuốn tiểu thuyết dã sử công phu nhất của văn học Việt Nam cận đại và hiện đại. Chúng ta không thấy tác giả đề cao triều đại nhà Lê, cũng không thấy kết án Tây Sơn mà chỉ diễn tả ca ngợi tinh thần cách mạng, chí khí anh hùng của các tráng sĩ trong đảng Tiêu Sơn, những chiến sĩ gan dạ, mưu lược quả cảm coi cái chết nhẹ tựa lông hồng để mưu đồ đại sự, khôi phục lại triều đình nhà Lê. Các nhân vật Quang Ngọc, Phạm Thái , Nhị Nương gợi lại cho chúng ta hình ảnh những vị anh hùng hào kiệt xa xưa như Kinh Kha, Lưu Bang, Hạng Võ, Tống Giang, Triệu Cái trong Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng và Thủy Hử Truyện “Quang Ngọc đỡ lấy thanh kiếm ném mạnh lên giường, rồi cười nhạt, đi đi lại lại vừa nói dằn từng tiếng: -Chết! hừ! chết! ngày xưa đời Trần, Trần Bình Trọng chết vì nước… bị bắt thì tìm cách tháo thân để đánh nữa, đánh mãi cho đến khi được, hay chết. Mà không có cách gì tháo thân thì chết ngay. Đời làm tướng chỉ có ba cái kết quả: Được trận, thua trận, chết trận… … …Hơn một trăm năm sau… đấng Thái Tổ nhà Lê khởi nghĩa ở Lam Sơn, một lần vua bị khốn ở Chí Linh, khó phá vòng vây mà trốn thoát được. Bấy giờ có ông Lê Lai… liều thân vì nước, xin nhà vua cởi áo ngự bào ra cho mình mặc, rồi cưỡi ngựa ra trận đánh nhau với quân giặc. Quân Minh tưởng đó là Bình Định Vương thật, xúm nhau vây đánh giết đi… Đó là một cái chết anh hùng, mãnh liệt, có suy xét… cái chết không có không xong. Vĩ đại thay những hành vi kín đáo, nhún nhường, xả kỷ dù hành vi ấy là sự bại trận, sự thắng trận hay chỉ là cái chết”
Đảng Tiêu Sơn có một nghìn quân, đầy đủ gươm đao và súng hỏa mai, nhưng còn quá yếu so với hàng vạn tinh binh của triều đình Tây Sơn. Đảng chưa lập được thành tích lớn lao đáng kể ngoài việc cứu được bà Hoàng phi, giải thoát Đào Phùng, Lê Báo và Trịnh Trực nóng tính xuất trận giết một viên tiểu quan và một bọn quân lính địa phương. Nhị Nương âm mưu xúi giục nổi loạn tại Bắc Thành thất bại nhưng đảng đã thể hiện được lòng trung thành, chí khí can trường quả cảm của nhũng tráng sĩ mưu đồ đại sự. Tác giả ca ngợi tinh thần dấn thân của các đảng viên, không chịu khoanh tay phục tùng thiên mệnh. “Phạm Thái thở dài bảo Đào Phùng: -Người anh hùng cứu quốc khi nào lại chịu phục tòng số mệnh? chỉ biết một việc là hành động, hành động cho tới giờ cuối cùng… tránh sự gian nguy mà mình biết chắc chắn đương đợi mình, để được an nhàn ở một nơi dật lạc, không bận trí đến việc đời, việc nước, hạng ấy người ta cho là bậc ẩn sĩ, nhưng tôi, tôi chỉ cho là phường ích kỷ, ham sống có đáng kể chi. … Tài lực của đấng anh hùng phải cố đoạt nổi số mệnh; bằng không thì chết mà chết như thế còn có nghĩa lý hơn cái chết dần mòn của kẻ ẩn sĩ trong só tối… … Nhị Nương yên lặng đứng nghe từ nãy tới giờ. Bỗng nàng mỉm cười bảo Đào Phùng: -Bậc hảo hán không bao giờ chịu đợi thời thế”
Tác giả ca ngợi tinh thần dấn thân, nhập cuộc, cho đó là việc quan trọng. “Nhưng ai nấy ngừng bặt, vì vừa thoáng nhìn thấy hai má Hoàng Phi đẫm lệ. Chưa kịp hỏi duyên cớ thì bà đã lau nước mắt, buồn rầu nói: -Nếu quả thực vận nhà Lê hết rồi thì các em nên thôi đi, đừng hành động nữa mà mất công vô ích. Phạm Thái cúi đầu đáp: -Tâu lệnh bà, đời kẻ tráng sĩ chỉ có một nghĩa là hành động. Còn sự thành bại cùng sự sống chết, không nên để trí nghĩ quá”
Tiêu Sơn Tráng Sĩ cũng là tác phẩm của tình yêu, Khái Hưng đưa vào những tình tiết éo le lãng mạn để thu hút đám đông, rồi diễn đạt tâm tư cách mạng của mình. Cuộc tình của Quang Ngọc, Nhị Nương thật là hào hùng cao đẹp và mối tình Phạm Thái Quỳnh Như yếu hèn uỷ mị. Cũng y như Tolstoi trong Anna Karenine đã đưa ra hai mối tình để diễn đạt quan niệm về hạnh phúc của mình: cặp Anna và Wronsky đắm đuối trong tình yêu tội lỗi, cặp Levine, Kitty êm ấm hạnh phúc bên nhau. Cuộc tình Quang Ngọc Nhị Nương thật lý tưởng, hai người lập đảng Tiêu Sơn, yêu thương nhau nhưng đại sự cách mạng vẫn là trên hết: “Ngừng một lát Ngọc lại nói tiếp: -Chính nàng đã cùng ngu huynh lập nên đảng Tiêu Sơn. Nàng đã giúp đảng được nhiều việc lắm, ấy là không kể cái công cứu sống cho Ngọc đây. Lê Báo cười sằng sặc: -Thế mà hai người không yêu nhau thì cũng lạ! Quang Ngọc buồn rầu đáp: -Nói kính trọng nhau thì đúng hơn. Đương lúc theo đuổi công cuộc lớn lao, còn bụng đâu nghĩ tới ái tình. Vả lại nhị đệ hiểu cho rằng, tuy mình không thực bụng tu hành, song đã nhờ cái áo cà sa để trốn tránh thì cũng không nên làm nhem nhọ nó. Phạm Thái mỉm nụ cười ngờ vực, ngồi im. Quang Ngọc lại nói: Nàng cũng bảo ngu hữu rằng khi nào việc lớn xong xuôi đã, hai người mới cùng nhau đi chu du khắp nước Nam như Phạm Lãi Tây Thi đời xưa chứ nay còn ở thời kỳ nằm gai nếm mật, nghĩ chi tới hạnh phúc êm đềm của tình ái. Lời vàng ấy, ngu hữu đây đã khắc ở bên lòng, thề không bao giờ dám sai. Lê Báo bông đùa một câu: – Nghĩa là hai anh chị còn tạm là đôi bạn cầm kỳ để chờ ngày trở nên đôi bạn cầm sắt chứ gì?” Chính Nhị Nương cũng đã tâm sự với bà Hoàng Phi về tình cảm của nàng với Quang Ngọc: “Rồi một ngày đảng một đông, một ngày em thêm mến phục Quang Ngọc, mến vì nết phục vì tài. Nhưng xin thú thực với chị rằng, ngoài sự mến phục ra không có gì nữa Quang Ngọc coi em như một đảng viên… còn em thì mải mê trong cuộc hành động… em không bao giờ để lòng em… … Em xin tự xử làm sao cho xứng đáng lòng tin cậy, lòng quý mến của Quang Ngọc, của đảng trưởng. Thưa chị em nhất định không bao giờ chịu để cho Quang Ngọc đoán biết tâm sự của em. Biết đâu ngạn ngữ nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản lại không đúng nghĩa với cả những hạng người theo đuổi việc lớn như Quang Ngọc” Khái Hưng gợi cho độc giả sự cảm thương và khâm phục Nhị Nương, Quang Ngọc qua mối tình cách mạng, cả hai đã kềm chế lòng mình khi cùng theo đuổi sự nghiệp của đảng Tiêu Sơn. “Quang Ngọc không dấu nổi sự sung sướng, âu yếm đứng mỉm cười nhìn Nhị Nương… đã hơn hai tháng, ngày ngày chàng vẫn áy náy mong đợi tin tức nhất là tin Nhị Nương, khi ở gần nhau chàng không cảm thấy chàng yêu, nhưng khi xa nhau chàng mới rõ hết nỗi khổ tâm của kẻ thương nhớ, dù có công việc đảng luôn luôn chiếm đoạt ý nghĩ của chàng”
Tại chương cuối cùng “Trên đường thiên lý”, hai năm sau một buổi chiều trời đông, một tráng sĩ cưỡi ngựa rong ruổi về Nam, chàng ghé vào tửu quán nhắm rượu, gặp Nhị Nương… đôi bạn hàn huyên kể lể … đảng Tiêu Sơn đến lúc suy tàn, các bạn đồng chí tan tác, Trịnh Trực bị hành hình, Đào Phùng bị bắt, Lê Báo nay mộ đạo như một nhà chân tu, cho tới lúc chia tay họ vẫn giữ được mối tình cao đẹp. “Sáng hôm sau hai người từ biệt nhau: Nhị Nương ngược Bắc thành, Quang Ngọc xuôi Nam thành, hẹn một ngày kia sẽ hội ngộ. Nhị Nương kìm cương ngựa hỏi với một câu: -Nhỡ không hội ngộ? -Cũng chẳng sao! vì linh hồn chúng ta bao giờ cũng ở bên nhau, một người trong bọn ta làm việc trái với bổn phận, đã tưởng nghe rõ tiếng thống trách của bạn, đã tưởng nhìn thấy cặp mắt nghiêm nghị của bạn . Mà khi ta có việc đáng thi hành ngay, ta đã tưởng trông thấy cái gật biểu đồng tình của bạn rồi. Vậy thì chúng ta có ở xa nhau đâu? tình bằng hữu của chúng ta đã thành một sự thiêng liêng. Nhị Nương chấp tay vái: -Vâng tình bằng hữu của đôi ta!… Rồi nàng rẽ cương quay đi”
Cuộc tình Quang Ngọc, Nhị Nương cao đẹp chừng nào, thiên tình sử Phạm Thái, Quỳnh Như tầm thường yếu hèn chừng nấy: hồi chàng mới đến dinh cơ của họ Trương lần đầu, nàng khuyên chàng nên dấn thân vào sự nghiệp cách mạng, chàng cảm phục Quỳnh Như: “-Thực ta đoán không sai, nàng là bậc cân quắc anh hùng, nàng khuyên ta làm việc lớn, rong ruổi bước đường gió bụi, chờ lúc hát khúc khải hoàn trở về, nàng ước hẹn cùng ta. Âu yếm biết bao! phòng tiêu đầm ấm rạng ngày xanh” Chàng nhớ lại thời kỳ theo Nguyễn Đoàn gian nan nguy hiểm, cưỡi con ngựa hồng, xông pha tên đạn, giáo, gươm, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng và khi giã từ họ Trương, chàng cho là thoát nạn: “chàng coi như vừa thoát được tai nạn ghê gớm hơn cả những tai nạn trong rừng gươm dáo ‘Trời ơi mình mà chìm đắm vào bể tình, thì bao giờ báo đền được ơn vua, trả thù cho nhà cho đảng?” Và rồi được đảng trưởng giao cho đi quyên giáo trong trấn Sơn Nam, chẳng tìm được bậc chí sĩ nào, Phạm Thái lại quay trở về nhà họ Trương làm thầy đồ chờ thời vì nay Tây Sơn còn mạnh, kỳ thực chàng nhớ đến đôi mắt mỹ nhân: “Thực ra đó chỉ là một câu nói, một ý nghĩa của kẻ anh hùng đã bắt đầu thoái chí, đã bắt đầu hơi chán nản thời thế. Thường họ tự an ủi như thế. Rồi dần dần họ quên việc lớn, trong chén rượu nồng hay trong lòng một người thiếu nữ. Trời ơi! cái tuổi ngoài hai mươi, hăng hái thì hăng hái thực. Nhưng đến lúc nguội lạnh thì nguội lạnh hơn tro tàn. Lúc bấy giờ họ sẽ đem chủ nghĩa yếm thế vẩn vơ ra mà che đậy một tâm hồn hèn yếu” Chàng ta và Quỳnh Như lại lén lút gửi thư cho nhau, chàng cho biết tình thế của đảng khó khăn, quỹ ngày một cạn, sự thất bại gần kề. Sự thực chàng nói dối, cái dáng mỹ nhân thấp thoáng trong hoa, giọng nói du dương văng vẳng chốn khuê phòng khiến cho tráng sĩ hóa ra mơ mộng. “Mơ mộng đến nỗi viết nên những bài thơ đầy tình uỷ mị như bài thơ độc vận sau này:
Chơi hoa nay đã biết danh hoa, Nhưng nghĩ tình hoa thẹn với hoa, Rắt réo chiều xuân oanh hót liễu Càng thêm ngao ngán khách tìm hoa
Ý tứ bài thơ trên không tả một chút tâm trạng gì gọi là tâm trạng một nhà sư hay tâm trạng một danh sĩ có chí khí. Đó chỉ hoàn toàn là tâm tình một anh chàng mê gái”
Và rồi Quỳnh Như cũng lộ chân tướng: một tiểu thư dạt dào tình cảm, chẳng bao lâu chàng và nàng yêu nhau, say mê nhau, trao đổi văn thơ xướng họa: “Lúc ấy còn đâu là chí phấn đấu, còn đâu là tình khuyến khích”
Chàng soạn xong một thiên tiểu thuyết bằng thơ “Sơ Kính Tân Trang” để tặng khách má hồng. Khái Hưng lấy truyện xưa tích cũ để nhắc nhở các chiến sĩ cách mạng như sau: “Cho hay ái tình có sức mạnh đến thế. Xưa kia theo đuổi việc lớn, Phạm Thái chưa làm nổi một công trình gì có kết quả mỹ mãn như việc soạn sách này. Truyện Sơ Kính Tân Trang đã làm cho tên Quỳnh Như bất hủ. Nhưng nó se mãi mãi răn bảo những bậc anh hùng ái quốc rằng chớ nên tạm bước vào vòng tình ái để cố quên hay an ủi một sự thất bại ái tình sẽ chiếm lấy cả tâm hồn ta, không nhường cho việc lớn ta đang theo đuổi một chỗ cỏn con”
Một hôm mưa to gió lớn, sấm chớp đầy trời, Phạm Thái nhớ tới thời oanh liệt, nghĩ tới các anh em đồng chí đang dấn thân xông xáo tìm cái chết, cái chết thì xa, tình yêu ngay bên cạnh, nó dỗ dành an ủi dẫn dụ chàng vào cõi mộng. Chàng cũng biết tội bỏ đảng của mình và biết xấu hổ: “Rồi chàng giật mình kinh hãi, nhẩm ôn lại những điều lệ nghiêm khắc của đảng Tiêu Sơn đối với các đảng viên. Phải, bị triều đình Tây Sơn truy nã thì còn có thể trốn tránh được, chứ bị đảng Tiêu Sơn kết án thì chỉ có một việc chờ chết. Hôm nay Phạm Thái càng lo sợ và toan bỏ đi ngay. Chết chàng không quản. Nhưng vì một người con gái mà sao nhãng chí lớn, dù sao nhãng trong một thời kỳ ngắn ngủi, chàng lấy thế làm xấu hổ với lương tâm”
Quỳnh Như treo cổ tự vẩn vì bị ép duyên ngay hôm ăn hỏi, Phạm Thái phi ngựa Đến cạnh mồ, nằm vật ra khóc thảm thiết. Tác giả nhìn Phạm Thái bằng cái nhìn rẻ rúng như sau: “ -Người ấy là Phạm Thái, cựu quân sư của Nguyễn Đoàn, phó đảng trưởng kiêm chức quân sư của đảng Tiêu Sơn. Người ấy đã bao phen xông pha trong rừng gươm dáo, nay chỉ còn là một kẻ tầm thường không còn một chút nghị lực để phấn đấu. Vì người ấy yêu. Nằm khóc một hồi lâu, Phạm Thái ngồi dậy lau nước mắt, mở đẫy lấy hương và sáp ra thắp. Rồi quỳ bên mồ đọc bài điếu văn sau này: Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? oan thác bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẫn trăng rằm………………………………………………. …………………………………………………………………… nay qua nắm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sùi sụt hai hàng tình lệ, giải bày một bức khốc văn; đốt xuống tuyền đài tỏ cùng nương tử”
Lúc cuối truyện, Nhị Nương, Quang Ngọc ra chiều khinh miệt Phạm Thái, Nhị Nương đưa cho Quang Ngọc truyện Sơ kính tân trang và nói : “-Đây tác phẩm của anh chàng mê gái mà ngu hữu đã sưu tầm được, tuy hãy còn khuyết điểm nhiều. Quang Ngọc đọc sơ một lượt, rồi buồn rầu, giận dữ ném tập thơ xuống giường”
Từ đấy Phạm Thái chán đời, say rượu, thất tình lang thang câu cá, có lần chàng thốt lên: “Ha! Ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượu! Nghĩ một lát chàng lại nói: … Ha! Ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ nhân!”
Tiêu Sơn tráng sĩ, một tác phẩm cách mạng được viết năm1940 khi Khái Hưng dấn thân vào đảng Đại Việt tranh đấu giành độc lập, tự do, ông lấy truyện xưa che mắt bọn thám tử thực dân để khơi dậy lòng yêu nước của các thanh niên và cũng đưa ra hình ảnh Phạm Thái sa ngã vào bể tình yêu để họ thấy cái gương xấu mà tránh xa. Câu “Than ôi! Chí lớn trong thiên hạ đong không đầy đôi mắt mỹ nhân” đã được truyền tụng sâu rộng trong dân gian như một danh ngôn bất hủ vì người ta cảm thương cho tâm sự của kẻ thất thời lỡ vận. Nhưng dưới ngọn bút nghiêm khắc của Khái Hưng, một nhà cách mạng đáng kính, Phạm Thái chỉ là kẻ yếu hèn không còn nghị lực, nhân cách. Từ một tráng sĩ anh hùng đã một thời ngang dọc, làm quân sư, phó đảng, đã từng múa gươm trên lưng ngựa vào sinh ra tử giữa chốn ba quân, sông pha rừng gươm, đao, tên, đạn, giữa tiếng chuông trống rầm trời, bụi bay mù mịt… Nay chán đời, thất tình, say rượu, bỏ đảng, giã từ vũ khí, bỏ hết tất cả mọi lý tưởng cao xa, báo đền ơn vua, trả thù cho nhà cho đảng, bỏ hết mọi sự nghiệp lớn lao chỉ vì ĐÔI MẮT MỸ NHÂN.
Túy Hà Tuyết trắng đường Xuân.
Mùa Xuân lạnh ngắt phương này Quê nhà nắng ấm, có đầy bát cơm?!
Ba mươi họp bạn chiều hôm Nâng ly cạn hết lại ôm nhau cười Trong làn nước mắt đang rơi Đắng thêm vị rượu đầy vơi xứ người.
Thì ra Tết đến trong đời Lưu vong xa xứ cuộc chơi ngậm ngùi Làm sao cho trọn niềm vui Khi quê nhà Mẹ thiếu người thân quen.
Nhìn Xuân mưa tuyết buồn thêm Nhớ ngày nắng lụa nhớ đêm quây quần Làng xa cho đến xã gần Râm ran tiếng pháo dòn tan tiếng cười.
Quê nhà không tuyết trắng trời Chỉ là mưa bụi rớt rơi ghẹo người. Lạnh chút thôi, ấm một đời Xuân xa vạn dặm ngàn khơi nhớ hoài. Lại thêm một tuổi lạc loài Mai Lan Cúc Trúc Huệ Lài kém tươi Ở đây thiếu vắng nụ cười Từ trong chân thật của người thiện tâm.
Chỉ là những lỡ với lầm Chỉ là hào nhoáng gói âm thầm buồn Bánh chưng vuông bánh dầy tròn Tàn theo ký ức, không còn như xưa.
Như người từ thôi cày bừa Chia tay ruộng lúa bóng dừa quê ta Sang sông theo bến bờ xa Nhuộm màu tóc mới thay da đổi đời.
Lại còn đổi luôn cuộc chơi Trái tim lạc hướng bỏ rơi phận mình. Tưởng rằng ngày sáng bình minh Đâu ngờ đêm tối rập rình bước chân.
Riêng tôi từ thuở chia phần Nỗi đau mất nước. đón Xuân khóc thầm Trời nước Mỹ dưới độ âm Thương về Quê Mẹ thăng trầm còn nguyên.
Thôi thì lời chúc bình yên Mong người tâm tịnh, Tân Niên bảo hòa Còn đời gian dối điêu ngoa Tôi xin lãnh trọn, hương hoa tặng người.
Mùa Xuân hoa tuyết lại rơi Nỗi buồn đông đá, khóc cười lưu vong.
Song hành
Người về từ núi hoang vu Ta về từ biển ngất ngư rã rời Người-ta, như thiệt như chơi Sắc không vô tướng nói lời gì đây Người mây trôi, ta gió bay Cũng là nghiêng ngả mê say một thời Người mây lạc bốn phương trời Còn ta gió nổi tả tơi lâu rồi Phong vân hội ngộ tiếp hơi Cùng nhau gầy lại cuộc chơi chưa tàn Cho dù đã từng tan đàn Hay là rả nghé cũng cần có nhau. Bên trời gác kiếm phong đao Chung thân biệt xứ ba đào nổi trôi. Còn nguyên dấu ấn một thời Nam chinh bắc chiến cùng bơi ngược dòng Đã là phận nước long đong Ngựa hồ nhớ ngọn bắc phong cảm hoài. Người và ta nợ trần ai Trên đầu nhật nguyệt chung vai gánh đời Nhất bộ tam bái không lời Tụng kinh vô tự tứ thời nhập tâm.
Anh hùng bản sắc phân thân Âm binh ngạ quỷ thắng Thần được sao Gió đưa câu hát đồng dao Mây còn lùa nước đổ vào ruộng ta Sợ gì trời gần đất xa Còn sông còn núi còn người thương nhau Còn tự hào trước như sau Là còn giữ được sắc màu dân ta. Cám ơn ngày tháng phong ba Cho ta hiểu được chính tà là đâu Đã qua bao cuộc bể dâu Quê hương vẫn giữ được câu tự tình.
Người về từ cõi ba sinh Ta về hương lửa thắp tình quê hương. Song hành cho hết đoạn trường Lưu danh góp máu tình vương ý đời.
Phan Các Chiêu Hằng nhắc chi hoài trăm năm
nhìn trăng treo cuối phố nhớ màu trăng năm nào trăng này là mấy nữa héo tàn trên hư hao
nhìn đêm sâu trăn trở nhớ gối chăn ban đầu đêm nay là mấy nữa chìm hẫng xuống lao đao
nhìn tay thon ngón nhỏ nhớ tay trên phím đàn đâu rồi tay một thuở lùa trong tóc em ngoan
nhìn gương soi mắt đỏ vẫn long lanh kiếm tìm gương ơi, còn đâu đó hình hài trong đáy tim
nhìn mưa qua buổi nọ che kín lối trăng vàng trăng ơi, thôi đã lỡ nhắc chi hoài trăm năm.
buổi sáng
sáng rảnh rang, ra chiều mơ mộng ngồi tập tành uống cà phê đen sắt se cong đôi vành môi ấm chợt bàng hoàng nhớ khói hương quen
sáng ngẩng nhìn lá vàng lười lĩnh chưa chịu lìa cành, đứng ngó nghiêng tháng mười bàng hoàng trong trí tưởng xao xuyến về khóc giữa lặng thinh
sáng ra nhìn trời thu man mác bỗng nghe thèm làm thơ Việt Nam mưa tháng mười rơi không ướt mặt sao hồn ta mù mịt sương giăng
sáng lôi gương ra, ngồi soi bóng nghe tim đau một chút giả vờ mai già cỗi, ta xin cầu khẩn tim vẫn còn sót mấy vần thơ…
Đi chùa
Hình như nắng sớm ngủ quên Cho mây len lén về trên vai nàng Em đi giữa lối hoa vàng Tháng hai giũ lụa trên tàn lá cao
Áo em đôi vạt xôn xao Lượn bay trước cổng xuân chào mùa sang Nhắn người phương ấy về ngang Bên sân chùa lắng nghe hàng thông reo
Lời kinh chìm giữa quạnh hiu Ru em từng tháng ngày đều đặn qua Bướm ơi, xin nhớ hồn hoa Hẹn mai chết dưới hiên chùa tịnh tâm
Khi môi thơm khép nghìn năm Tàn hơi thở muộn khóc lần chia phôi Bướm gom mộng chở về trời Làm mưa rơi ấm trên đời người thương
Em đi chùa tóc mây buông Lời kinh cầu gửi người ngàn năm xa Em quỳ, nghiêng xuống hư vô Khói hương che khuất đôi bờ thiên thu…
Nguyễn Thị Thanh Dương Mùa Xuân Trên Cây Sầu Đông
Tôi đã thức giấc nhưng vẫn lười biếng cuộn mình trong chăn ấm, chưa muốn rời khỏi giường. Thời tiết giữa mùa Đông lạnh, dù máy sưởi nóng lúc nào cũng chạy cho đủ ấm trong nhà, mà tôi vẫn cảm thấy hơi lạnh từ ngoài không gian đang len lén thấm vào qua từng khe cửa. Hôm nay là thứ Bảy, và vì tôi đang buồn nên có quyền hư một chút, dậy sớm cũng chẳng biết làm gì, cơm nước thì đã có mẹ tôi lo. Nhưng nằm mãi cũng chán, liếc nhìn đồng hồ trên tường đã 9 giờ sáng, tôi tung mền ngồi dậy, ra kéo màn cửa sổ lên. Ngoài trời, hàng cây mùa Đông không lá trơ cành héo khô đứng im buồn trong màu trời u ám, đã từ lâu tôi vẫn gọi những cây này là “Cây Sầu Đông”, vì nó chỉ vui tươi ra lá khi trời hết lạnh, khi gió Xuân về. Tôi dỗi hờn nghĩ tới những mùa Đông lạnh như thế này trong đời, “Cây Sầu Đông” đã cho tôi những nỗi buồn nên thơ lãng mạn. Hôm nay cũng chính hình ảnh ấy lại cho tôi một nỗi buồn… thê thảm, vợ chồng tôi đang giận nhau, gay go lắm, chồng tôi bỏ về nhà cha mẹ anh ấy, tôi cũng chẳng vừa, cuốn gói về nhà cha mẹ mình sau một cuộc cãi vã to tiếng, và ngôi nhà của hai người bỗng… trở thành vô chủ. Gia đình đôi bên ở cùng thành phố, chúng tôi lấy nhau tưởng rằng sẽ thuận tiện đi về nhà cha mẹ sum họp mỗi cuối tuần hay những ngày lễ nghỉ, nào ngờ, lại là nơi trú ẩn cho mỗi người, trở về mái nhà xưa không hào hứng vui vẻ gì, và cũng chẳng được cha mẹ chờ mong đón tiếp. Khi vừa thấy tôi đứng trước cửa với cái valy quần áo to lù lù, mẹ tôi đã xụ mặt xuống, gay gắt: – Lại cãi nhau, giận nhau với chồng hả? – Vâng, mẹ cho con tạm trú vài ngày cho bớt căng thẳng… Dĩ nhiên mẹ tôi không thể quẳng valy của tôi ra ngoài như người chủ nhà tống khứ kẻ thuê nhà không có tiền trả. Bà cằn nhằn: – Đáng lẽ con không nên bỏ đi, bất cứ giá nào người vợ cũng phải ở nhà, rồi sóng gió sẽ qua đi. Ngôi nhà vẫn là tổ ấm. – Nhưng anh ta là người bỏ đi trước, con chẳng dại gì ôm lấy cái tổ một mình cho lép vế. Mẹ tôi lo lắng hỏi: – Nhưng vợ chồng con đã xảy ra chuyện gì? Tôi kể tội chồng: – Anh ta đã tự ý đóng góp tiền với gia đình để gởi về cho những thân nhân còn lại bên Việt Nam nhân dịp Tết sắp đến này mà chẳng hỏi ý kiến con lấy một câu, con phát hiện ra cằn nhằn thì anh ta nói con ích kỷ, hẹp hòi với nhà chồng, có mấy trăm đồng bạc mà cũng bắt chồng phải khai báo, còn hơn là hải quan Việt Nam hạch họe Việt Kiều khi về nước. Mẹ tôi thở phào: – Mẹ tưởng chuyện gì to tát, chuyện ấy có đáng gì, nó nói thế là đúng rồi, nó làm ra tiền cũng có quyền tiêu xài riêng chút đỉnh, hơn nữa để làm quà cho người thân ở Việt Nam nhân dịp Xuân về. Nhà nào cũng thế con à, cuối năm cũng thu vén tiền bạc gởi về làm quà cho người thân vui Tết, chồng con có lừa tiền dối bạc cho gái hay hoang tàn ăn nhậu đâu mà con nổi nóng lên. – Nhưng đáng lẽ anh ta phải nhẹ nhàng giải thích cho con hiểu, đằng này anh ta to tiếng trước, mắng con trước… Rồi tôi oán trách: – Sao ngày đó chính mẹ đi coi tướng số nói hai đứa con hợp tuổi nhau, trên thuận dưới hòa, và chọn “ngày lành tháng tốt” tổ chức đám cưới. Hai năm sống chung đã cãi nhau mấy lần rồi. Con không tin vào thầy bói, tướng số nữa đâu, bạn con trước ngày cưới cả hai bên gia đình cũng xúm vào coi tuổi, và chọn “Ngày lành tháng tốt” mà bây giờ đang li dị đó. Mẹ tôi khuyên: – Con ạ, vợ chồng trẻ, nên động một tí là tự ái rồi cãi nhau, nếu không biết nhường nhịn thì dễ đổ vỡ một cách oan uổng. Mai này có con cái sẽ ràng buộc nhau, biết nhường nhịn nhau hơn. Mẹ tôi lôi quá khứ ra chứng minh: – Mà con cũng chẳng vừa, tính nết con vừa kiêu vừa hay lấn lướt người khác, hồi còn bé đã lộ ra rồi, chuyên ăn hiếp chị, xí phần cuà chị, cái gì cũng đòi trước, đòi hơn. Người ta đã nói: “ Giang sơn dễ đổi, tính nết khó dời” là thế. Còn cái chuyện “Ngày lành tháng tốt” vẫn đúng với nhiều người chứ con, “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” mà. Tôi lôi hiện tại ra chứng minh: – Chợ búa, hàng quán của người Việt Nam cũng chọn “ngày lành tháng tốt” để khai trương. Nhưng thử bán hàng vừa dở vừa mắc xem có đông khách không? Hay là sập tiệm sớm? Còn chợ Mỹ, khỏi cần chọn ngày giờ khai trương, cứ bán hàng rẻ là đông khách, như chợ Wal-Mart, còn chợ Tom Thumb gần nhà mình đó, trái cây, rau ria, xếp thật đẹp, nhưng giá cả trời ơi, mắc hơn các chợ khác nên chẳng ai sờ tới, chợ vắng như chùa bà Đanh. Đang nghĩ lan man đến đây thì tiếng mẹ tôi gọi vào: – Con ơi, dậy chưa ra ăn bánh cuốn nóng với mẹ … Công nhận mỗi lần giận chồng về nhà mẹ mình được nuông chiều sướng thật, đỡ “vất vả” hơn sống với chồng, phải phục vụ anh ta mà có khi còn chưa vừa lòng, vẫn bị chê canh mặn, cơm khô. Tôi ngồi vào bàn với đĩa bánh cuốn nóng mà mẹ vừa làm. Vừa ăn tôi vừa nghĩ đến chồng, chắc anh ta cũng đang được mẹ cưng chiều như tôi, điều này tôi biết từ trước khi lấy anh, mẹ chồng tôi thương con đặc biệt, lúc nào cũng bày ra các món ăn ngon cho con mình, đến nỗi khi về ở riêng với tôi, chồng tôi còn luyến tiếc ước ao: – Giá mà mẹ ở chung với chúng mình. Tôi đã phải vùng vằng: – Anh muốn ở với mẹ thì đừng lấy em nữa. Mẹ chồng tôi có tài nấu ăn ngon, bất cứ món nhỏ món lớn gì bà đều làm thành món tuyệt vời, chỉ mấy con cá đù tầm thường dưới bàn tay ảo thuật của bà đã trở thành món cá kho ngon lạ miệng, miếng cá se cứng, thấm gia vị đậm đà ăn hoài không thấy ngán, hay đơn giản như món sương sa mùa hè bà hay làm, ăn đến đâu thơm mát đến đó, và mát vào cả tới tim gan phèo phổi. Cho nên mỗi khi vợ chồng cãi vã giận hờn anh ta lại về nhà mình, vừa làm cao với vợ, vừa nhân thể được ăn ngon để … bù đắp lại những thiếu sót, vụng về của vợ. Làm con dâu một bà mẹ chồng giỏi bếp núc, tôi đã vụng về, lại càng trở nên vụng về hơn bao giờ hết. Mẹ tôi nhìn tờ lịch trên tường và khuyên: – Còn một tuần nữa là Tết âm lịch, vợ chồng nên bảo nhau làm huề cho vui nhà vui cửa, và đón Tết theo truyền thống ông bà cho phải phép. Được mẹ chiều, cho ăn ngon vừa ý, chắc là chồng tôi sẽ… quên mất ngày về “đoàn tụ” với vợ, và tôi sẽ “ăn nhờ ở đậu” với mẹ tôi lâu hơn, Tết nhất thì có nhằm nhò gì. Tôi tự ái: – Không cần mẹ ạ, con sẽ ăn Tết với mẹ, còn anh ấy ăn Tết với mẹ anh ấy. Thế là cả hai cùng… vui. – Con nói thế sao được, vợ chồng là phải có nhau chứ. Tôi chạnh lòng vì câu nói của mẹ, bỗng dưng thấy nhớ nhà, nhớ những khung cửa sổ đang khép kín, vắng hơi người, im tiếng nói tiếng cười của đôi vợ chồng trẻ. Đáng lẽ giờ này những cánh cửa sổ nhà đã mở, mùi cà phê buổi sáng anh pha thơm trong gian bếp, và tôi với anh sẽ đứng bên một khung cửa sổ nào đó cùng nhìn “Cây Sầu Đông”, mà mơ mộng, bâng khuâng, tay anh âu yếm quàng qua vai tôi, sẽ ấm cúng biết bao. Tôi vào phòng thay quần áo, mẹ tôi ngạc nhiên: – Con đi đâu sớm thế? Sao không ở nhà đợi chồng con đến đây? mẹ có linh cảm là hôm nay nó sẽ đến tìm con làm huề đấy. – Con về nhà lấy thêm vài món đồ cần dùng mẹ ạ. – Giời ôi, con tính ở đây lâu dài hả? Tôi nói dối mẹ vì lòng tự ái của tôi cao như mây trên trời, làm sao tôi dám nói với mẹ rằng tôi cũng nhớ nhà, nhớ chồng, và đang tha thiết mong gặp lại anh? Đã 2 ngày qua, tôi nguôi giận và thấy mình cũng có lỗi trong chuyện cãi vã này. Tôi lái xe về nhà, ngạc nhiên thấy từ xa những khung cửa sổ đã mở. Thì ra anh đã về nhà trước, khi tôi bước vào là lúc anh đang pha một ly cà phê thơm phức như tôi vừa tưởng tượng lúc nãy. Ôi, khung cảnh quen thuộc, mùi thơm quen thuộc… đây mới chính là nơi chốn của tôi. Hai vợ chồng nhìn nhau, cả hai như cùng được điều khiển bởi một mệnh lệnh vô hình, chạy tới ôm chầm lấy nhau cùng một lúc: – Em tha lỗi cho anh nhé? – Anh cũng đừng trách em nhé? Anh cương quyết nhận lỗi: – Không, anh mới là người có lỗi, đáng lý ra anh bàn bạc với em trước về việc góp tiền cùng gia đình gởi về quà Tết cho thân nhân, họ hàng bên Việt Nam thì hay hơn. Tôi cũng cố tranh dành: – Em mới là người có lỗi, đáng lý ra em nên nhẹ nhàng từ tốn hỏi anh thay vì cằn nhằn sưng xỉa thì tốt hơn. Làm hai vợ chồng mình giận nhau, làm mẹ em và mẹ anh đều buồn và tốn công phục vụ cơm nước cho hai đứa mình. – Tại anh mà! – Tại em mà. Thôi thì tại mỗi người một nửa anh nhé? cuộc sống ngắn lắm, mình giận hờn nhau là đã bỏ phí đi một khoảng thời gian vô giá để yêu thương nhau rồi đấy. – Anh vừa buồn vừa nhớ em vô cùng, nên quay về nhà, tính uống xong ly cà phê sẽ sang nhà mẹ đón em về. – Thì ra mẹ em đoán chẳng sai tí nào… Tôi nồng nàn úp mặt vào vai anh: – Em cũng thế, cả buổi sáng nay cứ thấy lòng bâng khuâng, thấy nhớ nhà và nhớ anh nên em trở về. Nãy đứng bên cửa sổ nhà mẹ nhìn “Cây Sầu Đông” mà em buồn muốn khóc. Rồi tôi trêu chọc: – Thế anh không muốn ở lại nhà mẹ lâu hơn để được nuông chiều với các món ăn ngon lành nữa sao? Anh thì thầm âu yếm: – Thà ăn dở mà được gần em vẫn hơn. Mẹ anh cũng như mẹ em, nói là em đang mong chờ anh về. Anh nhớ em, anh cần em, anh cũng nhìn “Cây Sầu Đông” bên cửa sổ nhà mẹ anh mà nhớ em muốn điên cả người, vì anh biết em thích mơ mộng với hình ảnh ấy, nên chỉ mong sao có em đứng bên cạnh. để anh được mộng mơ cùng. Giọng anh vui hẳn: – Bên mẹ đã mua sắm chuẩn bị cho những món ăn Tết cổ truyền Việt Nam, mẹ nói Tết năm nay mình sang bên mẹ ăn Tết cho vui. – Nhưng em muốn mình vẫn có cái Tết của riêng mình, tại nhà mình. – Vậy chiều nay vợ chồng mình đi mua đồ sắm Tết, tới ngày Tết mình sẽ làm một bữa mời cha mẹ hai bên cùng vài người bạn thân, sau đó sẽ lần lượt đến ăn Tết bên anh, bên em để cho hai bà mẹ yên chí, ăn ngon ngủ yên. – Vâng, anh tâm lý thật, mỗi lần thấy em xách va ly về nhà là mẹ em lo buồn lắm. Làm như em là của nợ đời. – Còn mẹ anh thì bồn chồn, chỉ muốn tiễn anh về nhà sớm. Không phải lúc nào vòng tay mẹ hiền cũng mở rộng đón con thân yêu đâu nhé em. Tôi nũng nịu: – Anh phải chở em đi farm để mua gà tươi sống, em sẽ nấu món miến gà cúng chiều 30 Tết thật ngon cho anh ăn. Cái món mà anh vẫn thích mẹ anh nấu ấy. Hi vọng món miến gà của em sẽ “cạnh tranh” được với miến gà của mẹ anh. Chồng tôi rối rít khen: – Không ngờ em lại giỏi đến thế. – Vì em thấy anh khen mẹ anh hoài nên em “tự ái” phải lo học hỏi bạn bè để biết nấu món như người ta, bảo đảm món miến gà sẽ làm anh vừa lòng, nước lèo thơm ngon, sợi miến trong dai, thịt gà luộc vừa chín tới, xé nhỏ, rắc tí tiêu và hành ngò lên thì không thua gì món nhà hàng cao cấp nhé. – Nhất định anh sẽ để bụng đói để ăn món miến gà chiều 30 Tết của em. Thôi, để anh ra uống ly cà phê kẻo nguội mất… Anh mang ly cà phê đến bên tôi, chúng tôi đứng bên khung cửa sổ. Giọng anh êm đềm như gió Xuân từ nơi đâu thổi về: – Em ơi, mùa Xuân của quê hương mình đang về, nên dù ở đây là mùa Đông mà vẫn ấm lòng em nhỉ? – Anh chỉ nói đúng một nửa thôi, một nửa còn lại là vì chúng mình vừa làm lành với nhau, biết tha thứ cho nhau, nghĩa là vẫn yêu nhau tha thiết. Ngoài kia những “Cây Sầu Đông” vẫn chìa bao nhiêu là cành khô màu nâu nhạt, hiu hắt, khẳng khiu giữa nền trời mây xám giăng giăng và lạnh đầy. Nhưng kỳ diệu thay, tôi không thấy u buồn nữa, mà chỉ thấy một mùa Xuân tươi thắm đang rực rỡ trên những “Cây Sầu Đông” của tôi .
Dương Quân Khúc tình buồn
Đã qua rồi, vàng thu bay lá rụng Hoàng Gia ơi! Công Chúa ngủ trên rừng Ta nhớ mãi, biển hoàng hôn gió lộng Người về đâu? sương khói phủ rưng rưng. Người về đâu? gót son mờ thảm ngọc Nét dung nghi kiều diễm rợp thềm hoa Xiêm áo mỏng, xua hồn ai ngây ngất Tòa thiên nhiên cong vút vóc thân ngà. Ta chợt thấy ta như người chết đuối Hoàng Gia ơi! xá tội kẻ thần dân Xin cung hiến trái tim này chuộc lỗi Và bài thơ thổn thức mộng phai tàn. Sao thê thiết, buồn mênh mông lặng lẽ Công Chúa ơi! có còn ngủ trên rừng? Người về đâu? để nhạt nhòa nhân thế Ta đầm đìa giấc ngủ chiếu chăn đơn. Ta nhớ lắm! ngất ngây, hồn cháy bỏng Thuở vàng thu, mây trắng, biển tương tư Xin hái cho ta cành hoa Tuyệt Vọng Ta sẽ chờ dưới nấm mộ hoang sơ.
Nhớ nắng
Bây giờ chắc đã vào xuân Mà sao vẫn lạnh như gần cuối thu Vẫn mây trũng thấp, sương mù Vẫn thương nhớ lắm, vẫn tương tư nhiều. Vì đâu đình đổ, quán xiêu Thế nhân bỗng chốc tiêu điều xác xơ? Hỡi ơi! biển nhớ vô bờ Xuân thu nhạt nắng, dật dờ khói mây. Hỏi em, đơn giản câu này: “Bây giờ bên ấy bàn tay ai cầm?” Ngọt ngào gọi tiếng tri âm Nắng xuân chắc đã từ tâm trở về. Tiếng ai đang thốt lời thề Nửa hồn tỉnh táo, nửa mê luân hồi Nhặt lên giọt nắng vừa rơi Tìm trong thu cũ có người ngủ quên. Ngổn ngang một gánh ưu phiền Chắc gì xuân đến ngoài hiên nắng mừng Chắc gì đã thật vào xuân Vì sương tuyết nhuộm mấy tầng hoàng hôn. Thì ra: Nhớ nắng mỏi mòn Mà sao xuân vẫn mãi còn phiêu lưu?
Lời ru mùa xuân
Ru em về ngủ bên hoa Màn sương giăng mỏng, trăng tà lung linh Ru em tròn giấc yên bình Cho môi em mọng, cho tình em say Cho nhô triền núi cao đầy Cho rừng ven suối cỏ cây chập chùng Ru em bờ bãi mênh mông Triều dâng sóng vỗ ngợp vòng bình nguyên Xuân nồng dài tiếng ru em Gối đầu tựa cánh tay mềm thon von Mai này xuân dẫu phai mòn Tình em vẫn thắm khi còn cội hoa.
Lan Cao Bóng tình yêu
Đêm thủy tinh rơi Cô gái tóc vàng tĩnh lặng Tương tư người yêu, sa mạc mặt trời Từng phút sống, canh chừng phút chết Hơi thở vào không kịp nuốt buồn vơi.
Ngoài vườn hoa hồng nở Mắt nàng đăm chiêu Dãy phố già ngủ say trong mộ tuyết Heo hắt đèn khuya Tóc xỏa bóng linh hồn yêu khao khát Đuổi giấc mơ, xin chân thật quay về.
Tiếng gió tri trô Cây lá khóc, hạt buồn nhỏ xuống Nàng cũng khóc Góc lòng rớm máu bóng người thương Vòng tay hụt hẫng Tuổi đang yêu, chưa kịp trẻ miên trường.
Tiếng bom tự sát Vở trái hồn đôi trẻ hẹn chờ nhau Mùa chín ngọt, vườn môi ân ái Lạnh lùng như mây trôi Gió lòng nổi loạn Bóng hình nào! Ôi hạnh phúc ngàn sau.
Cảm thấy đời
Đời như khúc gỗ mục Trôi trên biển thiên tai Trong dòng đời bão tố Nấm mộ ôm thi hài.
Đời vàng như đốm lửa Chợt tắt trên thây người Em quỳ lên sám hối Mở trang Kinh nghẹn lời.
Đời như hoàng hôn tím Khiêng nặng một linh hồn Leo lên đồi dốc đá Hụt hơi trong đêm buồn.
Đời bức tranh cát bụi Lõa thể với trăng sao Anh nghe thầm viên mãn Gió hư không gọi vào. Đời sinh ra đã khóc Nằm xuống trắng hai tay Viết tình yêu vào mắt Bài thơ đời chua cay.
Xuân Du Vẫn như xưa
mấy ông chừ bảnh quá chừng còn tôi thì vẫn lừng khừng như xưa một đời đá cá lăn dưa sáu mươi lăm tuổi còn chưa ra hồn cũng may cái xác này còn sáng lên núi ngủ chiều lon ton về…
Nhớ quê
chiều lên buồn nhớ quê hương nhớ con dốc nhỏ em thường thường qua nhớ vầng ráng nắng chiều pha
nhớ đàn cò trắng bay và nhớ em chiều lên con phố im lìm bỗng dưng nhớ tiếng chim bìm bịp kêu bỗng dưng nhớ buổi cơm chiều dưới giàn hoa lý gió dìu dịu đưa chiều lên ngồi ngó vu vơ ngó con dốc nhỏ nằm chờ xe qua bỗng rưng rức nhớ quê nhà nhớ bầy đom đóm lập lòe đêm đông chiều lên ngồi nhớ hương đồng nhớ bờ tre tiếng chim còng cọc kêu nhớ đêm nghe tiếng sáo diều Nhớ hàng so đũa lá đìu hiu rơi.
Nguyễn Thị Thanh Dương CHỢ CHIỀU 30 TẾT.
Tôi đã thấy chợ chiều ba mươi Tết, Buổi chợ cuối cùng trong suốt một năm, Kẻ bán người mua vội vàng hấp tấp, Để kịp về nhà sửa soạn đón Xuân.
Vài con gà nhốt trong lồng trơ trọi, Chắc đang buồn vì xẻ lứa tan bầy? Giá đắt rẻ không như lòng mong đợi, Người cần mua hay cần bán chiều nay.
Bà bán hàng thịt heo đang thu xếp, Những miếng thịt ôi lặng lẽ nằm chờ, Đã bao bàn tay cầm lên đặt xuống, Đến bây giờ vẫn chưa có người mua.
Vẫn kiên nhẫn đợi chờ người khách cuối, Không có tiền nên sắm Tết cận ngày, Miếng thịt ế hay con gà mua vội, Cũng đón Xuân về dù chẳng bằng ai.
Nhà nghèo con đông mua thêm chục trứng, Thịt kho tàu ăn dưa giá cũng ngon, Nải chuối xứ xanh trên bàn thờ cúng, Hộp mứt dừa, trái dưa hấu hai bên.
Những người bán hàng chiều ba mươi Tết, Muốn kiếm thêm tiền nhân dịp cuối năm, Để trang trải món nợ nần vay mượn, Hay có chút tiền tiêu lúc ra giêng.
Những kẻ mua hàng chiều ba mươi Tết, Bằng đồng tiền ít ỏi cực trăm bề, Mong mua rẻ món hàng vào phút chót, Kẻ bán người mua cùng nỗi nhiêu khê.
Chiều dần tàn, chợ cũng dần thưa vắng, Bước chân người mua bán đã về đâu? Những chậu hoa Xuân bây giờ thành rác, Những lá rau tàn vương vãi, hồn đau?
Tôi đã thấy chợ chiều Ba Mươi Tết, Buổi chợ cuối cùng trong suốt một năm, Bỗng như thấy cảnh chợ đời mỏi mệt, Thấy quanh mình buồn hiu hắt gió Xuân.
Tình Hoài Hương Chuyện non nước và chuyện chúng mình
Mộng hải hồ anh vui đời lính chiến. Em tiễn anh tre nghiêng bóng ven đường. Giếng mắt u hoài chợt sáng niềm thương. Con đê uốn khúc gập ghềnh đây đó.
Xin cái hẹn đến người em bé nhỏ. Dẫu tháng ngày cuộc chiến có điêu linh. Nắm tay nhau ta nguyện ước chung tình. Kề vai dạo bước trăng thanh thân ái.
Có nhau rồi đời nên thơ biết mấy! Sóng thuyền yêu gió lướt đẩy mây đưa. Dìu nhau hò hẹn những buổi sớm trưa. Lòng son sắt như người xưa vườn Thúy.
Tình thắm thiết đôi ta hằng chung thủy. Yêu quê hương anh vui mộng công hầu. Đừng để tháng ngày xa cách dài lâu. Chuyện non nước, chuyện cùng nhau nguyện ước.
Đường xa trải khi anh hùng mỏi bước. Dừng gót giang hồ nghỉ phép thăm em. Dưới giàn hoa thiên lý mộng trăng thềm. Anh hồi hộp… nắm tay em hôn nhẹ.
Yên Sơn KHÚC KHUỶU DÒNG ĐỜI
Buổi sáng thứ Tư trong tuần mà điện thoại trong phòng làm việc của hắn reo liên tục, vừa hết cú này sang qua cú khác! Trong lúc hắn đang tìm mọi cách để giải quyết trục trặc hệ thống server của một khách hàng “nặng ký” qua điện thoại thì thằng Quản Đốc tới bảo là lên văn phòng gặp hắn sau khi giải quyết xong vấn đề của khách. Hắn giật mình nhưng đang nói chuyện với khách nên gật đầu ra dấu “nhận hiểu” và tiếp tục cuộc điện đàm.
Gác máy điện thoại xong, hắn ôn lại cuộc điện đàm vừa qua để kiểm soát thử mình có nói điều gì vi phạm “guideline” của hãng hay không. Chuyện “lỡ lời, thiếu kiên nhẫn, mất bình tĩnh” với các ông bà nội khách hàng cứng đầu, ta đây, mất lịch sự vẫn không tránh khỏi mặc dù công ty đã có những biện pháp nghiêm cấm nhân viên làm mất lòng khách hàng ở bất kỳ hoàn cảnh nào, khía cạnh nào hoặc hình thức nào. Tất cả các kỹ sư trong Technical Depatment này đều được cấp trên tặng cho những “sản phẩm” làm bằng mủ nhẹ, để “hả giận” nếu gặp nhằm những khách hàng khó ưa, xấc láo. Dù vậy, chuyện các “ngài kỹ sư” đá thùng rác, dộng bàn, dộng vách, hoặc những tiếng kêu trời sau khi “mute” đầu dây điện thoại, rồi vò đầu bứt tóc, than vãn như bọng vẫn xảy ra trong “khu phố” như cơm bữa… Gọi là “khu phố” vì mỗi giám thị trông coi một khu, có khoảng chừng 20 văn phòng lỡ (partition) nằm sát vách nhau. Công ty có “auditting department” để kiểm soát tất cả các cuộc điện đàm của nhân viên với khách hàng. Rất nhiều khi giám thị hoặc quản đốc cũng theo dõi nhân viên dưới quyền tại văn phòng của họ. Việc Giám thị hoặc Quản đốc bỗng nhiên xuất hiện mời lên văn phòng cũng không phải là điều xa lạ gì đối với nhóm kỹ sư trong department này. Bản thân hắn cũng đã vài lần bị sao quả tạ. Nhất là có một lần thằng khách hàng trời đánh gọi hắn là “stupid Chinaman”! Vốn liếng tiếng Mỹ của hắn đâu có tệ nhưng có lẽ nước mắm đã ướp đầu lưỡi hắn cứng cáp hơn nên dù có sửa đổi cách mấy cũng không thể qua mặt những người sành sõi âm giọng ngoại quốc. Ngoài ra, lâu lâu cũng có đồng nghiệp chửi khách hàng thẳng tay, chửi luôn cấp trên xong tự động ra về nghỉ việc. Ôi! Cái thời buổi thị trường Computer cạnh tranh nhau một cách gắt gao; thời buổi mà các công ty điện toán đua nhau đưa “job” ra nước ngoài để có thể cắt giảm chi phí tối thiểu, để có thể hạ thấp giá thành sản phẩm tối đa mong bảo tồn market share, quả thật vô cùng chua cay cả cho chủ lẫn người làm. Ôi! Quả là thời buổi gạo châu củi quế! Dò đi dò lại không thấy có vấn đề gì rong những cuộc điện đàm từ sáng tới giờ, hắn yên tâm logged out, đứng lên đi về phía văn phòng. Vừa đi vừa suy nghĩ lung tung. Không biết có chuyện gì đây, không lẽ được báo tin nghỉ việc?!? Không thể thế được mặc dù công ty đang dần dần sa thải nhân viên! Không thể có chuyện sa thải hắn trong lúc department còn quá nhiều đồng nghiệp “non tay ấn”, nhiều nhân viên có tiếng lười biếng, hoặc có thành tích “con rùa”! Hắn nghĩ là hắn sẽ phải là nhóm người ra đi cuối cùng của department nếu việc cắt giảm nhất định phải xảy ra. Hắn tự tin lắm vì ngoài tài giải quyết vấn đề cho khách hàng nhanh chóng, giải quyết nhiều vụ khó khăn mà nhóm kỹ sư “tiền tuyến” đầu hàng. Hắn lại có thâm niên công vụ nữa, đã từng được nhiều tưởng thưởng từ cấp trên với thành tích siêng năng – không bao giờ từ chối làm giờ phụ trội, làm cuối tuần; tình nguyện làm ngày lễ hoặc có ai yêu cầu làm thế – Hơn thế nữa, hắn đã từng được tuyên dương là “nhân viên xuất sắc của tuần, của tháng” – mặc dù cũng có vài lần bị giám thị bắt gặp quả tang hắn đang ngồi miệt mài viết email riêng tư mà không bị khiển trách. Trên tất cả những điều như đã kể, hắn còn hơn đồng nghiệp về tính tình vui vẻ lẫn chuyên môn. Luôn sẵn lòng giúp đỡ đồng nghiệp khi họ gặp khó khăn dealing với khách hàng! Hắn đã có trong tay những chứng chỉ đòi hỏi trong ngành nghề; đặc biệt nhất, hắn đã lấy xong bằng MCSE (Microsoft Certified System Engineer) tháng rồi, sau hơn một năm dài miệt mài vừa học vừa ngủ gục sau giờ tan sở. Hắn hãnh diện lắm vì hắn là một trong số bảy người có bằng cấp này trong cả technical support department hơn hai trăm mạng. Trời ơi, thi xong bảy cái test khác nhau của cấp bằng này là cả một cố gắng phi thường cho một người vừa làm toàn thời gian, vừa đi học chứ phải dễ dầu gì đâu. Cả tháng nay hắn vẫn trông chừng bao giờ được tăng lương mặc dù có sự cắt giảm nhân viên đang xảy ra! Chỉ cách năm bảy năm trước, ai có được bằng MCSE cũng được bảo đảm số lương tối thiểu là sáu chục xấp. Dù bây giờ có phổ thông đi nữa, giá trị của nó cũng còn là niềm hãnh diện và phúc lợi cho người sở đắc trong lãnh vực điện toán. Hắn tự trấn an “không thể nào đâu” khi bước vào văn phòng Quản đốc. Trong văn phòng đã có thằng Giám thị khu vực của hắn ngồi đó. Quản đốc lịch sự mời hắn ngồi đối diện với thằng Giám thị, xong tự đứng lên đóng cửa văn phòng. Dù việc đóng cửa văn phòng bao giờ cũng xảy ra để giữ riêng tư cho cuộc thảo luận, nhưng bỗng nhiên làm hắn hồi hộp lạ thường, nhất là không khí nghiêm trọng trong văn phòng lúc này. Hắn ngước mắt nhìn gương mặt của thằng Giám thị rồi hướng về phía người Quản đốc! Trong đầu hắn bỗng nhiên mất cả tự tin “không thể như thế được!” Anh chàng Quản đốc là một người Mỹ trắng khoảng 40 tuổi, bình thường nói năng nhã nhặn, lịch sư, tính tình phóng khoáng và vui vẻ. Từ lúc anh chàng về làm Quản đốc department này đến nay, cũng đã hơn bốn năm rồi, dường như hắn chưa bao giờ thấy anh chàng nghiêm nghị như hôm nay. Lòng hắn xao xuyến khi nghe anh chàng hỏi: – Anh nghĩ là chúng ta sẽ nói chuyện gì hôm nay? – Chắc chắn không phải tôi có vấn đề gì với khách hàng phải không? – Cứ đoán đại thử (take a rough guess)! – Tôi được tăng lương? – Không! – anh chàng Quản Đốc tránh ánh mắt hắn. – Các anh đừng nói với tôi là tôi sắp phải ký giấy nghỉ việc đó nha! – Thật là điều không may mắn, nhưng đó là sự thật! – anh chàng Quản đốc nghiêm nghị. Hắn mở to mắt như không nghe, không tin điều hắn vừa nghe: – Tôi hy vọng các anh không đùa dai với tôi đấy chứ? – Rất tiếc! – anh chàng nói giọng đưa đám – Chúng tôi cũng ngạc nhiên như anh! – Tại sao? – hắn cao giọng như muốn gào lên. – Lệnh của cấp trên và không có giải thích – Là Quản đốc, là Giám thị các anh hẳn phải biết họ cho nhân viên nghỉ việc dựa trên căn bản nào chứ? – Chúng tôi ao ước có được câu trả lời thỏa đáng cho anh! Nhưng tôi biết chắc một điều anh cũng biết là department này sẽ dần dà đóng cửa. Việc chúng ta đang làm sẽ là việc của một công ty bên Ấn Độ mà anh đã giúp huấn luyện cho họ từ mấy tháng qua. – Thì ra là vậy! Nhưng sao tôi lại là người đi sớm? – Anh biết mà! Lương bỗng của mỗi người chúng ta bằng lương của năm, bảy ngườy kỹ sư bên Ấn Độ làm cùng công việc! – Tôi thật sự không tin là tôi bị nghĩ việc vì lương cao. Các anh biết đó, tôi đã hoàn tất văn bằng MCSE mà vẫn chưa được tăng lương tương xứng! – Nếu anh được giữ lại chắc là người ta phải trả lương tương xứng. Tôi chỉ đoán vậy thôi nha, và nên giữ điều đối thoại này tại văn phòng này. – Tôi hiểu rồi!!! Department này trước sau gì cũng đóng cửa và người ta không muốn có thay đổi gì trong ngắn hạn? – Không ý kiến! Vừa nói, chàng Quản đốc vừa đưa ra xấp hồ sơ và chỉ cho hắn ký vào những nơi cần ký. Hắn ngỡ ngàng như người đi trong mộng, e dè cầm bút mà trong đầu vẫn tự hỏi tại sao. Vừa ký giấy vừa hỏi cả hai tên những câu hỏi không ai có câu trả lời. Liệu hắn có bị đối xử bất công, hay bị kỳ thị chủng tộc hay bị phân biệt tuổi tác gì không? Hắn chỉ là một trong hai người kỹ sư Việt Nam trong department này, mà anh bạn kia đã bị cho nghỉ cả tháng rồi. Sau cùng, cả hai ông xếp bắt tay và chúc hắn may mắn. Cho hắn biết là hắn từ từ dọn văn phòng, hắn vẫn được trả lương cho đến thứ Sáu. Chiều thứ Sáu, trước khi ra về, giao chìa khóa văn phòng và công việc cho Giám thị. Và còn nói thòng một câu: – Nếu anh tin rằng anh bị đối xử không công bằng thì cứ liên lạc với sở lao động!Điều phải đến đã đến! Ai cũng biết chuyện gì tới sẽ tới, nhưng thường “những sự tới” hay xuất hiện bất thình lình, rất đột ngột làm người ta hụt hẫng, chới với, bàng hoàng và không biết phản ứng ra sao hết! Bước chân ra khỏi văn phòng, hắn đã thấy có vài cặp mắt nhìn hắn như dò hỏi. Hắn thản nhiên bảo đồng nghiệp là việc gì chúng ta lo sợ xảy ra thường xảy ra rất mau, thế thôi! Về lại văn phòng, hắn gieo mình xuống ghế, đầu óc nặng trĩu những u hoài. Một vài người bạn sát bên qua thăm hỏi và chia buồn với hắn. Hắn trực nhớ lại những tiếng xầm xì, thương hại cũng có, phiền trách chê bai cũng có của một số đồng nghiệp về một đồng nghiệp khác bị nghỉ việc vào đầu tuần (anh ta ký giấy nghỉ việc rồi về văn phòng đập phá sau khi khóc lóc là mới mua nhà, mua xe… bị an ninh của hãng còng tay dẫn đi), hắn quyết định chọn thái độ phớt lờ, nói cười tự nhiên dù trong lòng là những tơ vương trăm mối. Không trăm mối sao được khi kỹ nghệ điện toán càng ngày càng sa thải nhân viên, khi những kỹ sư trẻ ra trường rất khó khăn để tìm được một công việc trong ngành nghề này, nhất là hardware; nếu có được thuê mướn cũng chỉ được đồng lương không tương xứng! Không trăm mối sao được khi ngành hardware điện toán được các hãng xưởng đua nhau đem ra nước ngoài! Dù có MCSE, nhưng bao nhiêu kinh nghiệm của hắn đều thuộc hardware! Không bi quan sao được khi tuổi đời đã quá giới hạn để cạnh tranh công việc với sinh viên mới ra trường với số lương tối thiểu; hoặc can đảm nào để “làm lại từ đầu”! Nghĩ tới bốn chữ này tự nhiên hắn rùng mình! Từ ngày qua Mỹ tới nay, 28 năm có dư, hắn đã phải năm lần bảy lượt “làm lại từ đầu”!? Khi còn trẻ người ta không ngại lắm, nhưng ở Mỹ, qua tuổi bốn mươi rất khó bon chen, huống hồ chi… Dù không một hãng xưởng nào đặt điều kiện tuổi tác khi thuê mướn nhân viên (nghiêm cấm là đằng khác. Ở Mỹ, luật sư nhiều tương đương với kỹ sư, bác sĩ… ở một đất nước mà hở ra một chút là có thưa có kiện, dễ đáo tụng tiền đình), nhưng luật bất thành văn ai ai cũng hiểu, cũng áp dụng. Kinh nghiệm này hắn học được qua các khóa Quản Trị sơ cấp và Trung cấp của hệ thống nhà hàng hamburger Wendy’s International khi làm supervisor rồi manager cho một nhà hàng ở miền Bắc California. Cũng như trong các khóa Quản trị nhân viên, khi làm International Sale and Marketing Assistant Director cho hãng Schwan’s Asian Foods. Hắn muốn gọi điện thoại cho vợ để thông báo tin buồn, nhưng nghĩ đi nghĩ lại là không nên làm nàng phiền muộn trong lòng đang khi làm việc. Hắn ngồi thừ người suy nghĩ hết chuyện nọ đến chuyện kia, đầy những âu lo, và bấp bênh trước mắt! Không âu lo sao được khi cả hai đứa con lớn đang học đại học, đứa nhỏ đang ở cấp trung học! Không âu lo sao được khi hai vợ chồng đều phải đi làm tất bật mỗi ngày để thanh thỏa cuộc sống vật chất với hàng trăm thứ nợ, để con cái khỏi phải vay mượn tiền học, tránh được cho con những số nợ khổng lồ sau khi ra trường. Thế mà bây giờ chỉ còn lại một người! Liệu với số tiền dành dụm lâu nay và số bồi hoàn nghỉ việc sẽ chống đỡ được bao lâu. Đời sống của hắn chắc chắn sẽ vô cùng xáo trộn. Nhưng trên tất cả, câu hỏi vẫn lởn vởn trong đầu “rồi mình sẽ làm gì, đời sống sẽ ra sao”?! Hắn không đủ tự tin là sẽ dễ tìm được việc làm trong ngành nghề này. Càng suy nghĩ càng tức và tiếc. Khổ công chăm chỉ sách đèn cả năm trời, vừa thi đậu đã thành vô dụng! Nếu biết thế, tội gì! Nếu biết thế, tội gì! Hắn bỗng bật cười! Dường như câu này rất ư thân thuộc, nhất là ngày bỏ nước ra đi! Khi bỏ nước ra đi để lại một người nguyện ước trăm năm mà hắn vẫn trân quý, yêu mến, giữ gìn sau bao nhiêu tháng năm thân thiết. Nếu biết là sẽ chạy thục mạng thì đêm trước đó hắn đã bỏ sở chạy ra Saigon đón nàng cùng đi. Khi bỏ nước ra đi, trong nhà băng hắn để dành hơn nửa triệu bạc. Hắn đã phải giới hạn chi tiêu tối đa, dè sẻng từng đồng để dự định với nàng một đám cưới cho rỡ ràng với bạn bè hai bên! Chưa kể “nếu biết thế” đã rất nhiều lần đến với hắn trong những thăng trầm cuộc sống tha hương Hắn bước ra khỏi văn phòng tính đi lấy café. Hắn vẫn uống café cả ngày đó mà, nhất là sau những cú phone hóc búa! Đồng hồ đã chỉ 3giờ chiều, hắn sực nhớ là hắn đã bỏ cơm trưa mà không thấy đói. Hắn tự hỏi “mình ở lại làm gì, mình đã là free man rồi mà, đâu có ai bắt buộc mình phải tiếp tục làm việc khi đã được thông báo cho nghỉ việc!” Hắn thu xếp rời văn phòng sau khi chào thằng giám thị. Con đường dài cả tiếng đồng hồ với tốc độ trung bình 70 dặm một giờ đã đưa hắn đi về mỗi ngày hai bận, ròng rã hơn 5 năm qua, hôm nay xe cộ dường như thưa thớt! Thói quen nghe nhạc trên đường cũng trở thành ồn ào khó chịu. Hắn tắt máy, mở toang các cửa sổ cho gió lộng ào ạt vào xe. Dù là tháng cuối cùng của mùa xuân ở Houston, Texas nhưng khí hậu đã có vẻ oi nồng như đầu hạ, không như ở vùng “Thung Lũng Hoa Vàng” phía bắc, hoặc Orange County phía nam của California – những nơi mà hắn đã từng ở qua. Hắn cố không nghĩ tới chuyện không vui hôm nay, nhưng không thể nào đẩy lui những ưu tư đang dày xéo trong tâm thức được! Không biết gia đình hắn sẽ phản ứng ra sao! Nhất là gương mặt sầu não của “con gái rượu” – nó vẫn gọi nó là daddy’s girl. Nhớ lần thất nghiệp trước, con bé mới có 14 tuổi mà đã cảm nhận được nỗi vui buồn của bố nó. Nó cứ quấn quít một bên, khi nào gặp hắn ở nhà, sau giờ học về mỗi ngày. Nó cứ nói: “bố đừng buồn nghe bố, bố sẽ tìm được việc sớm mà”. Hoặc: “con sẽ không đòi học lái xe khi con 16 tuổi, con sẽ không đòi mua xe mới, con sẽ học giỏi, sẽ rất ngoan, sẽ không đi học đại học xa nhà…” Mới đó mà nó đã học năm thứ ba rồi, vẫn như ngày còn bé, vẫn là con gái rượu, vẫn loanh quanh chuyện trò với bố những vui buồn hàng ngày, đã giữ lời hứa chỉ học lái xe để đi học đại học trong thành phố, đã không vòi mua xe mới khi ra trường “top ten”. Hắn thật sự không sợ vợ hắn buồn mà chỉ lo con gái!!! Hắn lắc đầu thật mạnh, cố xua đuổi hình ảnh không vui làm tay lái chao đảo. Chiếc xe lạng qua bên trái một chút, tiếng bóp kèn cùng với tiếng va chạm đụng xe… Hắn điếng người, tìm cách tấp nhanh vào lề phải cùng lúc với chiếc xe kia. Người tài xế là một anh trung niên da màu, mặt mày giận dữ, dùng tiếng Đức xả láng với hắn khi hắn vừa bước xuống xe. Thấy tài xế không việc gì hắn thật hú vía, ngỏ lời xin lỗi! Hắn nói là hắn có bảo hiểm, đề nghị trao đổi chi tiết không cần chờ cảnh sát nhưng tên tài xế không chịu, nhất định gọi cảnh sát. Trong khi anh chàng gọi cảnh sát, hắn có dịp quan sát cả hai xe. Ở cửa sau bên trái của xe hắn đã như chiếc bánh tráng nhúng nước trong khi đầu bên phải xe anh chàng cũng bể hết đèn và móp thật sâu. Cả hai xe đều là xe Nhật Bản! (người miền nam nước Mỹ rất chuộng xe Nhật Bản trong khi dân miền bắc bao giờ cũng rất bảo thủ, 90% người dân chỉ mua xe Mỹ). Nỗi bực bội càng thêm bực bội khi nắng chiều vẫn còn rọi xuống chang chang. Đứng ngoài nắng chờ cảnh sát tới biên phạt quả là không thể không phiền! Mãi tới gần tiếng đồng hồ sau mới lãnh xong cái giấy phạt về tội bất cẩn (reckless driving). Càng phiền não hơn khi sực nhớ là xe mình chỉ có bảo hiểm một chiều! (khi có tai nạn mà mình là người có lỗi thì hãng bảo hiểm chỉ đền cho người ta). Chao ôi nào là đóng tiền phạt, tiền sửa xe, bảo hiểm sẽ tăng giá… và sự bất an của gia đình trong những ngày tháng tới!!! Đang ngủ ngon giấc thì con bé vào gọi dậy ăn cơm tối. Nhìn đồng hồ thấy đã 8g. Trên bàn ăn có đông đủ mọi người, nhất là thằng con trai lớn rất ít gặp. Rất ít gặp vì nó đi chơi với bạn bè nhiều hơn ở nhà. Học bao nhiêu năm rồi mà vẫn chưa tới đâu, trong khi bạn bè trang lứa của nó đã xong đại học, đứa học thêm, nhiều đứa đã đi làm! Ít gặp vì khi nào gặp cũng bị hắn la rầy nên tránh mặt! Đang muốn hỏi chuyện nó nhưng thấy tia nhìn khác lạ của vợ khiến hắn chợt nghĩ lại thân phận mình! Hắn im lặng ngồi xuống, cảm nhận như có điều bất thường. Xong bữa cơm, đang khi mấy mẹ con dọn bàn, thằng con lớn mời mọi người ngồi lại vì nó có chuyện muốn nói. Hắn ngạc nhiên lắm, không biết chuyện gì mà trông nó nghiêm trang chưa từng thấy. Trực nghĩ tới vẻ mặt nghiêm trang của thằng Quản đốc hôm nay ở sở, hắn nhột nhạt trong lòng, ngồi yên lặng. Hắn đã tính khi mẹ con dọn bàn xong thì hằn sẽ nói về chuyện hôm nay, chưa kịp lên tiếng thì thằng con đã làm hắn lên ruột: – Thưa Ba Mẹ, con xin lỗi đã làm phiền lòng Ba Mẹ từ mấy năm nay, con không thể nào chú tâm vào sách vở được! Những điều con sắp nói ra đây, hy vọng không làm Ba Mẹ và các em thất vọng. Con đã suy nghĩ nhiều về đề nghị của Ba Mẹ năm trước là nếu con không thể học được thì nên đi vào quân ngũ một thời gian! Lúc đầu con rất buồn lòng Ba Mẹ, nhưng càng ngày con càng thấy là con không còn lối thoát nào hơn! Con đã lén Ba Mẹ nộp đơn vào quân đội, muốn làm pilot như Ba hồi xưa nhưng họ nói con cao quá (6 feet 5), vì thế con làm đơn xin gia nhập Bộ Binh từ nhiều tháng nay. Con đã hoàn tất việc khám sức khỏe và xong phần điều tra lý lịch cá nhân. Hôm nay con nhận được giấy báo trình diện nhập ngũ. Con phải đi ngày thứ Bảy tới này. Con sẽ đi về ngành thẩm vấn điều tra Quân đội. Đó là tất cả những gì con muốn nói hôm nay. Một lần nữa con xin lỗi Ba Mẹ đã không học hành thành đạt như Ba Mẹ mong ước! Thằng con nói một hơi, nửa Việt nửa Mỹ, nhưng mạch lạc, rõ ràng. Mẹ nó với nét mặt âu lo và phảng phất buồn, hỏi chương trình huấn luyện ra sao, ở đâu? Nó cho biết là 3 tháng huấn nhục (boot camp) và căn bản quân sự ở Fort Sil, Oklahoma; 4 tháng tiếp học ngành chuyên môn ở Fort Huachuca, Arizona; xong sẽ về trường Sinh Ngữ Quân Đội ở Monterey, California để học tiếng Trung Hoa 2 năm. Sau đó sẽ được bổ nhiệm đi Châu Á! Hắn ngồi yên lặng từ đầu tới cuối, lòng đắm chìm trong những buồn vui lẫn lộn, mắt ngó thằng con chăm chăm. Vui vì cuối cùng nó đã thấy được những lỗi lầm và có thể tự quyết định điều đúng đắn. Nhưng buồn ơi thấy con như chim chưa đủ lông cánh đã bay vội vào giông bão cuộc đời! Mặc dù cả năm qua ít thấy mặt nó ở nhà nhưng dù sao nó cũng còn đi đi về về, chỉ ham chơi hơn sách vở chứ không có rượu chè hút xách gì cả. Hắn thấy như có chút hụt hẫng, mất mát! – Anh nghĩ sao mà không nói với con một lời như vậy? – Mẹ nó hỏi. Không hiểu sao hắn lại trả lời cụt ngủn: – Thì dù gì nó cũng đã tự quyết định rồi mà! – Ba không giận con chứ? – thằng con e dè phân trần – Con chỉ muốn surprise Ba Mẹ và các em thôi chứ không cố tình dấu diếm Ba Mẹ đâu! Mẹ nó vội đỡ lời: – Thì mấy năm trước anh đã không khuyến khích nó đi Quân Đội là gì?! – Ba không có gì để nói, chỉ muốn mọi sự tốt lành cho con! Ba không giận con nhưng thấy không được vui trong lòng, cảm thấy có cái gì mất mát! Nói xong hắn đứng dậy rút vào phòng đọc sách. Không muốn nói gì thêm trong lúc này khi thấy mặt mấy mẹ con buồn dàu dàu và không khí khá buồn tẻ! Một ngày thôi! Một ngày ngắn ngủi mà có bao nhiêu là điều oan trái xảy ra! Dù sự nhập ngũ của con trai lớn không hẳn là sự mất mát nhưng sao cảm giác cứ bùi ngùi! Dù sự mất việc không là một điều mới mẻ trong tình trạng kinh tế chung hiện nay, nhưng kéo theo tai nạn đụng xe quả nhiên là một đại họa trong lúc này! Nếu người ta hay ví “Sông có khúc, người có lúc” thì đây quả là một khúc khuỷu nguy hiểm của dòng sông, là một trong những lúc khó khăn nhất trong đời tỵ nạn của hắn vậy!
Song An Châu Tình anh vẫn mãi đậm đà
Mong em về lại quê nhà Tình anh vẫn mãi đậm đà như xưa Dù rằng sớm nắng chiều mưa Lòng anh tạc dạ, tình xưa vẫn còn. Dù em góc núi đầu non Mong em ngày tháng mõi mòn nhớ nhung Chừng nào trở lại miền Trung Nhớ về quê cũ tương phùng anh mong. Sông Hương nước chảy theo dòng Giờ đây hết lũ, tiết đông không hàn Nhưng anh đau xót vô vàn Thương em xứ lạ có gian nan hề. Bây chừ nặng gánh sơn khê Nặng tình phụ mẫu trăm bề lo toan Mần răng hết nỗi cơ hàn Đổi đời anh sốc, bàng hoàng lâu nay. Dù cho mù mịt đường bay Nhớ về gói trọn tình này nghe em Trăng khuya đã xế bên thềm Hương xưa ngày cũ dáng em xuân thì.
Em về tìm lại những gì Mà em đã mất lúc đi xa nhà Tình anh vẫn mãi đậm đà Mong rằng muôn kiếp đôi ta chung đường.
Vui xuân thái hòa
Hoa Xuân nở rộ bên thềm Sao lòng chẳng thấy ấm êm chút nào Xuân về lòng lại nao nao Nhớ quê, nhớ mẹ dạt dào tình thâm. Bỏ quê, xa mẹ bao năm Nay thân viễn xứ đêm nằm lệ tuôn Giờ đây là khách viễn phương Quê người tạm trú, tạm nương náu nhờ. Chờ cho quê mẹ bao giờ Đêm dài bừng sáng dựng cờ đón Xuân Nước non một mối ăn mừng Toàn dân đoàn kết vui xuân thái hòa.
Xuân này em có vui không
Xuân này em có vui không? Em có mua được pháo hồng mừng Xuân Mua hoa quả bánh để chưng Ngày ba mươi Tết đón mừng tổ tiên Xuân này nếu em có tiền Mua dùm anh chút oan khiên trong đời Cho người dân được thảnh thơi Cho muôn người nở nụ cười ngày Xuân Xuân này anh cũng chúc mừng Em vui đón Tết, mừng Xuân thanh bình Vui Xuân phải nhớ quê mình Mấy Xuân chưa được hồi sinh ngày nào Xuân này mình phải làm sao Chia vui xẻ đắng đồng bào mình thương Bao năm gánh chịu tai ương Sống trong nghèo đói trăm đường khổ đau Vui Xuân em nhớ năm nào Lìa xa Tổ Quốc còn đau đớn lòng Xuân này mẹ đợi em mong Bạn bè dăm đứa cũng trông mình về Mừng Xuân vui Tết nơi quê Cả nhà đoàn tựu trăm bề vui Xuân.
Chiều xuân đất khách
Chiều 30 Tết, con nơi đất khách Đốt nén hương, vọng bái quê nhà Mùa xuân nữa, không về thăm mẹ Bao năm rồi, chưa viếng mộ cha. Nay lòng con buồn không thể tả Nỗi niềm riêng chan chứa sầu thương Ngày ra đi, nuốt hận lên đường Con đâu muốn giã từ Tổ Quốc! Ngày cuối năm, sầu lên chất ngất Nhìn quanh. Ồ! Đất địa người ta Nương thân cho ngày tháng trôi qua Đâu phải thiên đàng hay đất hứa!? Tuy xa cách, lòng con luôn nhớ Quê hương mình là nước Việt Nam Chiều nay cuối năm, nơi đất khách Đốt nén hương, cầu cho đất nước: – Được BÌNH AN!
Lưu Ca Tình buồn
Sương thu che khuất núi đồi, Sao không phủ kín giùm tôi nỗi buồn ! Chiều thu lặng ngắm mưa tuôn, Sóng thu biền biệt xa nguồn thân yêu, Lá thu vàng úa tiêu điều, Bao nhiêu xác lá, bấy nhiêu cơn sầu. Đêm thu tình cũ còn đâu, Hương thu gợi nhớ, ngàn dâu thẫn thờ, Khói thu lơ lửng chơ vơ, Sắc thu vàng võ như chờ đợi ai, Mây thu lạc hướng bay bay, Tiếng thu da diết bi ai não nề, Nhạc thu tình khúc lê thê * Lắng nghe nửa đoạn đã tê tái lòng, Tình thu lỡ tiễn sang sông, Đôi bờ ngăn cách, đôi dòng châu rơi.
(* Les feuilles mortes)
Sáo bay
Tôi không đem sáo sang sông Mà sao sáo vẫn sổ lồng sáo bay!
Sáo vù ra khỏi tầm tay Cho tôi khắc khoải đêm ngày ngóng trông Chiều chiều ra đứng bờ sông Nhìn nam ngó bắc chờ mong sáo về
Cách xa nghìn dậm sơn khê Sáo ơi có nhớ thương về cố hương? Đi tìm, áo nhuốm bụi đường Giày mòn, chân mỏi, phong sương gọi sầu
Đêm nay thức trắng canh thâu Nghe tim nhói buốt, dòng châu sắp tràn Sáo bay, buồn chiếm không gian Bặt tăm tin sáo, ngỡ ngàng phận tôi
Từ khi sáo đã bay rồi Ngày ngày tôi ngắm mây trời cuối thu Mơ màng nỗi nhớ chơi vơi Dường nghe tiếng sáo, bời bời niềm đau
Nửa khuya nhớ lại ngày nào Sáo theo hoàng hạc khuất vào chân mây.
Phan Xuân Sinh THƯ TÌNH,THỜI ÐI HỌC
Trong thời còn là học sinh, ai cũng có những mối tình. Có thể thương thầm nhớ trộm, có thể có một chút tình ý với nhau, có thể tiến xa hơn là hai bên đã phải lòng với nhau. Từ xưa cho đến nay tình yêu bao giờ cũng tiến triển tuần tự theo các giai đoạn đó. Thời trước như thế nào thì tôi không biết, chứ thời học sinh của thế hệ tôi, chỉ chừng hơn ba mươi năm trước thôi, tình yêu lúc ấy sao cũng còn lắm rào cản của định kiến chi phối. .. Nhất là những thành phố nhỏ ở Miền Trung thì lại càng có nhiều điều cấm kị. Trai gái ra phố cầm tay nhau tung tăng, đùa giỡn , đã là điều gai mắt cho nhiều người. Hôn hít nhau thì phải tìm chỗ kín đáo không ai thấy. Hẹn hò nhau thì phải ở nơi vắng vẻ. Chuyện tỏ tình bao giờ cũng dùng cái phương tiện “thư tín”, nên thường gọi là “thư tỏ tình”, để khởi đầu cho một cuộc tình. Nói thế chứ vẫn có những cách khác, tuy nhiên nó không nên thơ, và dễ thương bằng dùng thư để nói lên nỗi lòng của mình. Nó còn đượm tính chất văn hóa hơn, và tránh đi trường hợp khó xử của người nữ hoặc người nam, nếu họ không thuận tình. Ðúng ra trong thời chiến tranh, sống vội vàng, yêu cũng vội vàng. Thế mà lúc ấy chúng tôi lại chậm chạp trong vấn đề nầy. Từ khi quen biết, cho đến khi tỏ tình, yêu nhau. Tiến qua biết bao nhiêu giai đoạn chông gai, gập ghềnh. Ngồi nhớ lại mà thấy tức cười và tội nghiệp cho những thằng con trai mới lớn thuở ấy. Bây giờ nhìn các con tôi tình yêu đến và đi sao mà nó dễ dàng quá. Ôm nhau, hôn nhau tại chỗ đông người chẳng có chi ngượng ngập. Những cử chỉ âu yếm nó cũng mạnh bạo hơn, điêu luyện hơn, tự nhiên hơn. Làm gì có cái chuyện thư từ phiền phức như hồi đó. Mới hay thời đại tân tiến tình yêu cũng bắt kịp theo sự nhanh nhẹn của khoa học. Trường hợp của bọn tôi lúc ấy cũng theo những thông lệ đó. Nghĩa là tuần tự trải qua những giai đoạn liếc mắt đưa tình, hồi hộp đợi chờ, hẹn hò tình tự. Tuổi choai choai cũng biết đi “cua gái”. Phải nhịn ăn để lo mặc cho tươm tất, chưng diện để se sua với gái. Trước khi ra khỏi nhà là phải chải chuốt kỹ lưỡng, áo quần thẳng nếp. Cua gái thì cũng phải có bộ mã coi cho được. Trước hết, bên ngoài phải tỏ mình lịch sự. Sau, mới tới tướng tá đẹp trai. Tôi không thuộc loại điển trai, nên phải cần chú ý thận trọng cách ăn mặc, chứ không thể xuề xòa được. Lớp học của tôi nổi tiếng có nhiều gái đẹp, sau nầy có người thành Á Hậu Việt Nam đó là chị Kim Uyên (vợ của Nhà Thơ Trang Châu sau nầy). Gái đẹp trong lớp chẳng có ai thèm ngó đến thứ ba trợn như tụi tôi, các chị nầy dành cho các anh lớp lớn. Cỡ tuổi tụi tôi thì phải cà rà mấy em ở lớp dưới. Nhưng chỉ thực hiện lúc tan trường ra về, bày đặt dở hơi cua gái trong trường thế nào cũng bị tóm cổ. Vì trường tôi theo học là một trường Công Giáo ở Ðà Nẵng nên các Cha, các Thầy rất khắt khe. Lớp học của tôi thuở ấy có nhiều anh lớn tuổi, có anh đã có vợ con mà vẫn còn đi học. Một hôm đến giờ ra chơi, anh Tính chận tôi ở cửa lớp. Nói là bạn học cùng lớp chứ anh ấy lớn hơn tôi chừng năm tuổi. Anh đề nghị tôi viết giùm một lá thư tỏ tình, nội dung “phịa” thế nào cũng được miễn sao cô bé anh thương phải xiêu lòng là được. Tiền công anh thuê tôi viết giá là một gói thuốc Ruby. Tôi thấy mối nầy có lý nhưng khó nuốt trôi, vì hồi nào tới giờ tôi chưa hề mang tâm trạng nầy, nên có thể sự diễn tả của tôi vụng về sẽ làm mất đi sự thuyết phục. Tôi còn đang suy nghĩ, thì ảnh động viên tinh thần tôi: “Mi giỏi Việt văn thì ăn thua chi thứ ni, xem như làm một bài luận, viết huyên thuyên mà không sợ lạc đề.”. Tôi miễn cưỡng nhận lời. Tối đó về nhà tôi ngồi vào bàn viết, cắn bút mãi chẳng biết mở đầu ra sao. Tôi viết một đoạn xem lại, rồi xé bỏ. Cứ như thế mà giỏ rác phòng tôi đầy ắp giấy pelure, thức trắng đêm mà không viết được chữ nào. Sáng hôm sau đi học người tôi rã rượi, tôi chưa biết yêu mà tưởng chừng như nếm mùi khổ lụy vì tình. Gặp tôi, anh Tính chạy lại hỏi vồn vã: ” Sao, được đoạn nào chưa mi? Cho tau xem thử có hay không? ” . Tôi lắc đầu, mỏi mệt trả lời: “Tôi không viết nữa, anh thuê người khác viết đi”. Mặt anh thộn ra đờ đẫn thật tôi nghiệp. Tôi nhìn anh mà lòng tôi cũng đau điếng. Nếu cô “bồ” anh thấy cái thất vọng nầy của anh, cô ta sẽ yêu anh ngay. Tôi không dám nhìn anh nữa mà lặng lẽ bỏ đi nơi khác. Vào lớp tôi nhìn qua bàn anh, thấy mặt anh buồn thiu và thẫn thờ như người mất trí. Thật tội nghiệp, tôi không cầm lòng nổi nên nguyện trong lòng, đêm nay bằng mọi cách tôi phải cố gắng viết xong lá thư tỏ tình giùm cho anh. Ðến giờ ra chơi anh tìm tới tôi, giọng nói anh ngọt ngào cầu khẩn: “Mi cố gắng viết giúp cho tau đi, vài gói thuốc tau cũng chịu được”. Tôi vỗ vai anh an ủi: “Bây giờ không phải là chuyện mặc cả. Lúc đầu tôi nghĩ thật đơn giản, nhưng khi cầm bút tôi thật sự không biết mình đương viết gì. Tôi còn nhỏ, chưa có chút yêu thương nào, nên không biết thế nào mà diễn tả. Ðể tối nay tôi cố gắng thử lại xem sao”. Anh trả lời với tôi: “Thôi được rồi, tối nay tau với mi ra bờ sông, tau sẽ nói cho mi biết lòng tau. Nhưng tuyệt đối không nói cho ai biết”. Ăn cơm tối xong, tôi vừa ra đầu ngõ, thì thấy anh dựng xe đạp đứng chờ tự hồi nào. Anh chở tôi ra bờ sông, hai đứa tìm chỗ ngồi, rồi anh thong thả rút trong túi gói thuốc Ruby mới mua ra mời tôi, anh cũng lấy một điếu trịnh trọng đặt trên môi, châm lửa rít một hơi dài. Mắt anh đăm chiêu, điếu thuốc trên môi vẫn cháy đều, gần tàn mà anh vẫn chưa mở đầu kể cho tôi nghe câu chuyện rạo rực của lòng anh. Lúc ấy tôi mới mười lăm tuổi mà anh thì trên hai mươi. Tự nhiên tôi thấy tình yêu sao mà nó dễ sợ quá vậy. Nó đày ải, hành hạ con người một cách đau đớn như vậy sao. Nó là cục đường nghẹn ngang cổ họng, nuốt không trôi mà nhả ra cũng không được, thấy ngọt ngào mà lại trả một giá quá đắt. Anh hút đến điếu thuốc thứ ba, mà cũng chưa mở miệng được, để mô tả những gì mà lòng anh chất chứa. Mắt anh nhìn ra sông mà sao thấy diệu vợi như kẻ thất thần. Nói cho tôi biết anh đang nghĩ gì về cô bạn của anh, yêu thương, nhung nhớ như thế nào mà anh còn thô? không ra lời, huống gì tôi là người ngoại cuộc thì làm sao hiểu hết nội tình để giúp anh. Ngồi với tôi cả giờ mà anh chẳng biết nói thế nào với tôi, thì làm sao anh có thể mở miệng để nói chuyện với cô bạn của anh. Tôi đứng dậy và bảo anh chở về với một lời hứa an ủi cho anh yên tâm: “Ngày mai anh sẽ có một lá thư tỏ tình tuyệt vời”. Tôi định tối nay sẽ lấy các tờ báo Tiếng Chuông của ông Ðinh Văn Khai, Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, ra đọc các chuyện tình lâm li của các tác giả Bà Tùng Long, Dương Hà, để lấy cảm hứng và theo đó tán đại ra cho dài, chẳng cần cân nhắc gì cả. Nghĩa là viết cho thật kêu, cho thật ướt át, cho thật mùi mẫn. Chở tôi về anh cho biết người yêu của anh là con bà chủ nhà trọ. Cô ta cũng liếc mắt đưa tình với anh nhiều lần. Như vậy, xem như cô ấy đã chịu đèn với anh rồi, chỉ còn thủ tục “tống tình” nữa là xong ngay. Tôi bảo với anh tại sao anh không lựa lúc nào vắng người, đè đầu hôn đại. Như vậy tránh bớt thủ tục rờm rà nhiêu khê như hiện nay. Cái trực tiếp lại không làm, mà lại làm chuyện lòng vòng. Anh lắc đầu cho tôi là thứ con nít không hiểu chuyện người lớn, chuyện đại sự mà giải quyết đơn giản theo suy nghĩ của trẻ con thì hỏng mất. Tôi thấy trong lời nói của anh, tỏ vẻ rất tôn trọng người mà anh đã yêu. Anh còn cho tôi biết, nếu như cô không chấp nhận lời tỏ tình trong thơ của anh, thì anh phải tức tốc dọn đi nơi khác. Con người của anh có vẻ hiền từ, đến độ khù khờ như vậy mà tình yêu sao nó hừng hực, bốc cháy mãnh liệt như thế. Tôi còn suy nghĩ xa hơn, nếu anh thất bại trong mối tình nầy, có thể anh cùng quẫn và liều lĩnh làm những việc rồ dại khác , nguy hại đến tính mạng. Anh không quên dúi vào tay tôi bao thuốc lá còn lại, để trong đêm nay, tôi mặc sức phì phà khói thuốc cho ra được cảm hứng, viết một lá thư tình quan trọng cho anh. Trước khi thả tôi xuống đầu ngõ anh còn căn dặn, cố gắng giúp anh. Tối hôm đó ngồi vào bàn, hình ảnh thiểu não của anh lại xuất hiện. Tự nhiên tôi thấy thương anh hơn, và tôi phải có bổn phận giúp anh, phải hoàn thành công việc anh đã tin tưởng giao phó. Tôi cũng không hiểu lúc ấy có sự trợ giúp nào mà tôi viết một cách ngon lành, trôi chảy. Dòng mực tím của tôi trên mười trang giấy pelure mỏng ngày hôm sau, đã làm cho anh phải sững sờ thán phục. Những gì trong lòng anh đang mong muốn, tôi đều nói lên vanh vách. Trang giấy hình như có chất chứa toàn những thứ ướt át, chờ mong, khổ lụy v.v… Ðọc tới đâu đôi mắt anh sáng rực tới đó. Ðây cũng là lá thư tình tôi viết đầu tiên trong cuộc đời ô trọc nầy, nhưng không phải là của tôi, mà chính là nỗi lòng thầm kín của anh. Giờ ra chơi, anh rủ tôi ra gốc soài nằm khuất ở góc sân. Anh trịnh trọng mở lá thư ra đọc. Khuôn mặt của anh tươi tắn lạ thường, anh rất thỏa dạ những gì trong lá thư tôi viết. Tâm trạng của tôi lúc ấy rất hãnh diện, rất tự mãn. Tôi đã hoàn thành xuất sắc một công việc quan trọng mà anh đã đặt hết tin tưởng. Hai đứa đang ngồi trao đổi những lời khen tặng một cách hí hửng, hứng thú, thì bất chợt, thằng Tâm núp ở phía sau gốc soài, nghe lén chúng tôi nói chuyện. Nhanh như chớp, nó chụp lá thư trên tay anh Tính chạy mất. Tâm là một đứa nghịch ngợm, phá phách nhất trong lớp tôi hồi đó. Anh Tính đứng dậy chạy đuổi theo nhưng không kịp, nó luồn lách đâu mất. Anh sững sờ, lặng người. Chúng tôi biết lá thư vào tay nó, thì không thể lường được tai họa, cũng như mọi thứ xui xẻo sẽ xẩy ra. Ðến giờ vào lớp chúng tôi cũng không tìm thấy nó. Nó chỉ xuất hiện phía sau lưng Thầy Nguyễn Tàu – giáo sư Việt văn của lớp tôi – khi thầy vào dạy. Nó nhìn tôi và anh Tính cười một cách ngạo mạn. Tôi ghét cay, ghét đắng cái mặt ngổ nghịch của nó, muốn tới đấm một cái cho vỡ mặt nó để hả cơn giận. Tôi biết thế nào rồi sấm sét sẽ ụp trên đầu chúng tôi. Cái thằng cô hồn nầy đùa thì không ai chịu nỗi, nó bất kể chi là danh dự của người khác. Tôi thì không sao, nhưng anh Tính là người lớn tuổi nhất trong lớp, làm sao anh chấp nhận cái đùa của thằng trời đánh nầy. Thầy Tàu giở sách giảng về “Cung oán Ngâm Khúc” của Nguyễn Gia Thiều, đến cái đoạn: Bóng gương lấp loáng trong mành, Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa. Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn, Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa, Thầy nói về sắc đẹp của người đàn bà, cái sắc đó đã làm cho cỏ cây cũng động tình, chim thì sa, cá thì lặn. Thầy đang thao thao bất tuyệt nói về nhân dáng cốt cách, nói về lời ăn tiếng nói, về bước đi thế ngồi v.v… các mỹ nhân Trung Hoa thời xa xưa. Thì thằng trời đánh Tâm giơ tay xin có ý kiến. Tôi như muốn đứng tim, tai họa sắp sửa trút xuống đầu tôi rồi. Tôi không biết nó chuẩn bị giở trò gì ra đây, tôi len lén nhìn qua nó và chắc rằng bộ mặt của tôi méo xệch, xìu như bánh bao chiều, trông thật thảm thương. Cái nhìn của tôi có ý năn nĩ van lơn, nhưng nó chẳng thèm để ý. Nó dõng dạc đứng lên một cách kiêu hảnh, với một khí thế đằng đằng sát khí, quyết quật ngã tôi cho tới cùng: “Thưa Thầy, Em không đồng ý cái lối tả mỹ nhân của Nguyễn Gia Thiều trong “Cung Oán Ngâm Khúc”. Lối mô tả như vậy không xác thực, kiểu cọ và quá tầm thường. Em thích cái lối mô tả mỹ nhân của anh Xuân hơn. Người đẹp mà ảnh trình bày thật lộng lẫy, kiêu sa và hấp dẫn hơn nhiều”. Thầy Tàu ngơ ngác, chẳng biết thằng trời đánh nầy ăn nói huyên thuyên kiểu gì đây. Thầy ngạc nhiên hỏi: ” Ủa, anh Xuân làm gì có tác phẩm mà tả mỹ nhân. Anh có đùa không?”. Nó lễ phép và trịnh trọng: “Thưa Thầy, Em không dám đùa đâu, tác phẩm của anh Xuân đây ạ”. Nó rút trong túi quần ra một xấp giấy pelure nhàu nát. Chết tôi rồi trời ạ. Tôi điếng hồn, không biết thằng dở hơi nầy bày trò chi đây. Nó quyết hạ nhục tôi, nó quyết không cho tôi một lối thoát. Xấp giấy mà tôi trịnh trọng xếp trong tập thẳng tưng, nắn nót từng chữ, không có một vết dơ. Thế mà khi qua tay thằng khốn nạn nầy, nó thành một thứ bùi nhùi, dơ bẩn. Tất cả con mắt của các bạn trai gái lớp tôi đều đổ dồn vào nó. Nó đọc lên, tôi nghe như từng tiếng sét đánh ngang tai mình: ” Liên yêu dấu,” . Một sự trùng hợp lạ lùng, người yêu của anh Tính tên Liên, trùng tên với cô bạn gái học cùng lớp, thường đến nhà rủ tôi đi học, tên là Mai Thị Liên. Tất cả đều cho rằng tôi viết thư tỏ tình với Mai Thị Liên, nên họ đều “ồ” lên một tiếng. Không ai chịu hiểu cho rằng thằng bé con mới 15 tuổi chưa biết yêu là gì, phải gánh chịu một thứ “tình yêu” nặng ngàn cân đè trên vai mình. Mai Thị Liên gục đầu trên bàn xấu hổ, tôi thì mặt cắt không ra một giọt máu. Làm sao tôi giải thích cho mọi người hiểu nỗi oan ức nầy của tôi. Tôi nhìn qua anh Tính, mặt của anh ngơ ngác, thất thần. Tâm trạng của anh lúc ấy cũng chẳng kém gì tôi, anh như đang ngồi trên đống lửa, gan ruột của anh nóng sôi lên. Tội nghiệp cho anh, thằng khốn đó đã làm cho anh mất đi một cơ hội hiếm có. Tôi cũng thầm trách anh sao lại lơ đễnh đến vậy. Anh săm se đọc tới đọc lui nhiều lần làm gì, để bây giờ phải ra nông nổi nầy, làm khổ thân cho anh, cho tôi và cho cái con nhỏ Mai Thị Liên vô tội ấy. Tại sao anh không đem thư về nhà, đóng cửa phòng nằm ngửa mặc sức mà đọc, mặc sức mà nghiền ngẫm. Nôn nóng làm chi để bây giờ phải mắc cỡ, thẹn mặt với mọi người. “… em có biết rằng, sắc đẹp của em đã làm tê tái lòng anh hay không? Em có biết rằng, đôi mắt em là vì sao đã thu hút hồn anh hay không? Ô, làm sao anh mô tả hết những nét lộng lẫy, kiêu sa của em, bóng dáng mỹ miều, thanh lịch của em. Anh chỉ còn biết quỳ dưới chân em, để xin em bố thí cho một chút tình yêu để sưởi ấm và ấp ủ đời anh. Anh nguyện sẽ làm tên nô lệ , thuần phục em suốt đời…” Cứ cái giọng thật là “ma-ri-sến” như thế nầy, “cải lương” như vậy, mà tôi đã tưởng tượng viết ra được mười trang giấy pelure cũng không phải là chuyện dễ dàng. Lúc đầu thằng Tâm mới đọc, cả lớp còn cười chế nhạo. Ðến lúc sau cả lớp im phăng phắc như để từng câu, từng chữ , thấm dần trong huyết mạch. Cái lạ là, càng nghe tôi lại càng không thấy ngượng, mà ngược lại tôi thấy hãnh diện cho văn chương lưu loát của mình. Tôi nghe như có lời thỏ thẻ thật êm tai, chứ không còn chút âm thanh chan chát như trời giáng lúc ban đầu. Mặt tôi không còn đỏ, sắc diện trở lại bình thường. Tôi cũng phải công nhận rằng, giọng đọc ra rả Bắc kỳ của thằng Tâm thật duyên dáng, thật hấp dẫn lạ lùng. Nó đã dẫn dắt mọi người đi vào thế giới yêu đương mùi mẫn lúc nào không hay. Ðến lúc chấm dứt lá thư, cả lớp vỗ tay vang dội. Thằng Hạnh ngồi cạnh tôi, nắm lấy tay tôi đưa lên như thể hiện một sự chiến thắng lẫy lừng. Tôi nhìn nét mặt của thầy Tàu để xem ông có ý phiền trách gì tôi không, ông nhìn lại tôi với đôi mắt thật hiền từ và nói với cả lớp: “Hôm nay tôi đang giảng về “mỹ nhân”, thì lại được nghe anh Xuân đã tả một cách đầy đủ về người đẹp. Từ cổ chí kim, từ đông sang tây quan niệm về cái đẹp của người đàn bà tuy có khác nhau, nhưng chung quy họ cũng chỉ làm cho bọn đàn ông chúng tôi khốn đốn, điên dại. Tôi mong rằng các chị có nhan sắc trong lớp nầy, phải có cái nhìn mã thượng hơn, hãy đối xử với bọn đàn ông bằng trái tim chứ không phải bằng tính toán những con số. Bài học về Mỹ Nhân đến đây chấm dứt” . Cả lớp lại vỗ tay một lần nữa cho ông thầy dạy Việt văn chịu chơi. Thầy Tàu bảo Tâm đưa lá thư đó cho thầy. Rồi thầy gọi tôi lên hoàn trả lại, với lời dặn dò hiền hòa: “Lo học đi, chứ đừng viết bậy bạ nữa”. Tôi cũng nói nhỏ với thầy rằng đây là lá thư tôi viết giùm cho anh Tính. Thầy vò đầu tôi cười. Bắt đầu từ đó, các anh lớn trong lớp tôi có chuyện rắc rối về thư tình đều tìm tới tôi nhờ vả. “Văn ôn, võ luyện” , thư tình viết nhiều càng ngày càng tiến bộ. Viết thư tình cho mấy anh ấy, sau nầy tôi không cần phải đắn đo suy nghĩ. Nắm được sự thể của câu chuyện, là tôi đặt bút viết ngay. Tôi cũng là người biết được thâm cung bí sử, mọi diễn tiến những mối tình gay go của hầu hết các anh lớn trong lớp. Các anh các chị trong lớp thương yêu nhau tha thiết nhưng bề ngoài không thấy gì, làm mặt lạ, tôi đều biết hết trơn. Sau nầy lại kèm thêm cái mục làm chim xanh, đưa thư giùm qua lại cho những người yêu nhau. Tôi lại thấy mình có thêm một chức quan trọng. Tất cả những giận hờn, yêu, ghét, thù hận, ghen tương, trước khi tới tai người yêu của họ, là họ đổ xối xả lên trên đầu tôi trước nhất. Tôi đã chứng kiến bao nhiêu chuyện tình xum họp, cũng như chia ly. Tôi đã vui trong cái vui của họ và cũng buồn trong cái buồn của họ. Năm tôi học đệ nhị, thì anh Tính cưới chị Liên. Bấy giờ anh là một giáo viên tiểu học ở Quảng Nam. Sau khi đổ trung học, anh theo học một khóa sư phạm cấp tốc ở Huế. Anh chị đến nhà mời tôi dự đám cưới. Lúc nầy tôi mới nhìn được dung nhan thật sự của một người, mà trước đó ba năm tôi đã viết thư tỏ tình giùm cho anh Tính. Sự ca ngợi trong trí tưởng tượng của tôi về sắc đẹp của chị, bây giờ nhìn lại quả thật không ngoa chút nào. Hèn gì mà lúc ấy anh Tính không mê mệt đờ đẩn. Anh kể cho chị Liên nghe về lá thư tỏ tình bị thằng Tâm đọc oang oang cho cả lớp thưởng thức. Chị cười hiền hòa và công nhận lá thư đó thiệt hay. Tôi cúi mặt giấu nụ cười, lá thư nghe ra ngô nghê, sáo rỗng, lượm nhặt trong các chuyện tình lâm li đăng tải trên các nhật báo thời đó, thế mà chị lại khen. Tôi nghe chị nói mà lòng tôi ấm lại, vui biết mấy. Tôi đã làm được cái chuyện mở đầu cho những mối tình, và chính nó đưa tới vấn đề hôn nhân cho các anh chị sau nầy. Thời nầy mà nói đến cái chuyện thư tỏ tình kiểu đó, thì cũng giống như ta đang nói về thời kỳ đồ đá. Trai gái bây giờ gặp nhau thấy “bắt mắt” là nhào tới cặp kè ngay. Chuyện phòng the, được công khai giảng dạy trong lớp học, chứ không còn là thế giới riêng tư của hai người. Thế nhưng tôi không bao giờ quên được những chuyện lẩm cẩm như thế nầy. Nó đã bén rễ trong tôi, mỗi lần nhớ lại những hình ảnh xuất hiện như mới đây, thật dễ thương, thế mà đã vài chục năm rồi. Bây giờ các cặp trai gái tiến tới tình yêu, sao thấy đơn giản và nhanh chóng quá chừng. Làm gì có cái chuyện nước mắt ướt đẩm tiển nhau trên sân ga, phóng xe solex đuổi theo đoàn tàu chở người yêu mình đi xa. Những hình ảnh thơ mộng đó làm sao tìm được bây giờ nhất là trên đất nước Hoa Kỳ nầy.
Lưu Nguyễn Từ Thức ĐIỆP KHÚC CHO NHAU
Cho nhau hạnh phúc tình cờ Cho nhau nửa ánh trăng mơ cuối trời Cho nhau giọt lệ buồn rơi Cho nhau giấc ngủ nửa đời chiêm bao Cho nhau ngày tháng xanh xao Những cơn mộng mị rơi vào bờ mê.
Cho nhau ngày tháng não nề Cho nhau sương khói lê thê nhạt nhòa Cho nhau mặn đắng xót xa Cho nhau gió thảm mưa sa trùng trùng Cho nhau duyên kiếp não nùng Một lầm hai lỡ lạc vùng đau thương.
Cho nhau chớp biển mưa nguồn Cho nhau những giọt tình buồn tuôn rơi Cho nhau thương nhớ bồi hồi Cho nhau ghềnh thác một đời miên man Cho nhau nửa ánh trăng tàn Con tim héo úa võ vàng thâu canh.
Cho nhau một kiếp phong trần Cho nhau ngày tháng phù vân ngậm ngùi Cho nhau bao nỗi buồn vui Cho nhau dòng nước trôi xuôi qua cầu Cho nhau tình đã úa nhàu Rưng rưng ánh mắt một màu hoang sơ…
Chu Thụy Nguyên Đến Cali chợt gặp lại mùa Xuân
Nắng tàn, lửa nhạt rừng the Thâm sì môi tái le te những chồi Cỏ đêm sương mặn chìa vôi Nằm ôm mộng cũ lăn trôi xuống đèo Hây hồng chỗ thắt đáy eo Lửa liu riu cháy xì xèo mộng du Trí toan tạp niệm rối mù Đèn khêu bấc lụn bóng phù du tan Xa quê lâu bỗng ngỡ ngàng Nhìn xuân xứ lạ bàng hoàng cúc mai….
Đám cháy
Đám cháy đốt bữa qua Những tàn tro của lá Những tàn tro của đời Về đất bay lả tả
Đám cháy đốt uất hờn Hay tự tình rong ruổi Hay bè bạn ba lơn Chụm đầu nhau cháy rụi
Đám cháy đốt trận cười Ngữa nghiêng bàn tiệc rượu Thở khè những tanh hôi Của tháng ngày phẫn nộ
Đám cháy đốt si mê Rướm máu cơn tuyệt vọng Đi chẳng biết ngày về Đầu bốc cháy khét khê
Đám cháy thiêu hy vọng Chẳng mong thấy bình minh Trời vẫn chưa tận thế Sao phận người điêu linh?
Đám cháy thiêu rụi tình Trong ngăn tim dự trữ Hóa bụi tro ba sinh Chẳng thấy ta đâu cả
Đám cháy thiêu rụi ta Và linh hồn cháy nám Khóc như kẻ mất nhà Bay tứ phương hạt bụi…..
Luân Tâm Cành khô
Buồn đông treo nặng cành khô Lá xanh đi vắng sương chờ bóng chim Mịt mờ trời đất không tim Dấu chân kỷ niệm nổi chìm bể sâu Tuyết chôn bóng lạnh trễ tàu Xác xơ trăng áo bạc màu tha hương Nhà xưa không dấu đoạn trường Nhện già treo xác cuối vườn tuổi thơ Vui hư buồn thực tình cờ Trăm nghìn con nước quay tơ bọt bèo Mồng tơi giậu đổ bìm leo Đội mồ dế khóc cỏ nghèo thương vay Tàn tro bếp lạnh thở dài Rêu phong lối cũ ăn mày bóng ma …
Chẳng còn thơ
Nếu chẳng còn em chẳng còn thơ Hết hoa hết bướm hết mộng mơ Anh như tan rã như khô héo Trả lại đường xưa dấu bụi mờ
Anh sẽ lang thang đến kiếp nào Tìm em tìm lại bóng chiêm bao Lần đầu gặp gỡ như sương khói Tà áo thẹn thùng chân bước mau
Trở lại trường xưa hai đứa mình Nắng chiều thương nhớ nắng bình minh Con đường quen thuộc thèm hương áo Lớp cũ còn đâu giữ bóng hình
Anh không còn xác không còn hồn Không tỉnh không say sao chập chờn Như khói hương xưa còn phảng phất Bên mồ hoang nhuộm bóng hoàng hôn
Anh gọi tên em hết bốn mùa Chỉ nghe ly biệt tự nghìn xưa Dâng đầy trong cỏ khô rêu úa Trên lối ghen hờn bóng đón đưa
Lang thang mòn mỏi bốn phương trời Rừng lạ núi quen chẳng đáp lời Tình si lận đận thuyền không bến Cuối nẻo mịt mờ bong bóng trôi
Đường đến thiên thai đã không còn Mênh mông hư ảo lạ nước non Tiếng buồn hay tiếng mưa ngày cũ Còn chút lòng đau cũng mỏi mòn
Đêm tối quanh co không lối về Thì thôi… mặc kệ người khen chê Gục đầu trên cánh hoa tàn úa Giọt lệ thiên thu lỗi hẹn thề…
Đội mồ dế khóc cỏ nghèo thương vay Tàn tro bếp lạnh thở dài Rêu phong lối cũ ăn mày bóng ma …
Tìnhhoàihương Phiêu lãng tình trần
Đêm Noel! Đêm về thật sâu lắng. Sương muối hạt to to mòng mọng tròn tròn lung linh là đà rơi đầy trên thành phố trầm lặng mà huyễn hoặc, nên thơ thi vị và mơ mộng. Cái lạnh xoáy buốt se se thịt da mà ăn sâu vào lòng người buốt giá vô cùng. Từng bè mây trắng xóa bay bay về cuối đồi. Gió lồng lộng lũ lượt thổi qua vườn thông sau đồi nhà, nghe lao xao, rì rào vi vu bất diệt. Bầu trời tỏa lạnh cùng khắp mạch núi rừng hoang dại. Nhạc thông reo vi vu. Mây phiêu lãng cuộn thành từng lọn trắng, bồng bềnh nhấp nhô lờ lững trôi trên không trung tan loãng sương mù. Phố núi Lâm Viên chìm sâu xuống giấc mộng đào nguyên muộn màng, nhưng đầy thi vị và hữu tình biết bao! Bất giác lòng tôi se lại qua khe rèm hở giữa hai cánh cửa chớp. Mùi thơm muôn hoa trong vườn, quyện lẫn mùi nhựa thông thoang thoảng đưa vào, khiến tôi hồi tưởng không biết bao nhiêu buồn vui xếp lớp lăn tăn, và nhịp tim dập dồn đập mạnh cuồng quay trong những phím loan. Sau khi các bạn đã đi rồi. Tôi tỉnh ngủ nhưng vẫn leo lên giường nằm đắp mền kín cổ. Tôi nhìn mấy con thạch sùng cắn đuôi nhau chạy quanh ánh đèn néon. Lòng cảm thấy trống trải, ưu phiền, bâng khuâng vô ngần. Chen lẫn nỗi buồn chán tiếc nhớ vẩn vơ, nghẹn ngào muốn ứa lệ. Tôi không thể hiểu tôi cần gì, muốn gì!? Bây giờ… Có thể “người ta” đang vui, tưng bừng rộn rã đón mừng đêm Noel, đang hòa mình vào làn sóng người lượn trên phố như trẫy hội. Chứ chả ai ngu dại chi nằm đắp mền lên tận cổ, trầm mình vào nỗi cô quạnh không cùng như tôi. Tôi hiểu rằng: Từng nầy cảm xúc, buồn phiền, tủi hờn, có thể quật ngã một con người khỏe mạnh, vui tươi nhanh chóng như vậy! Ừ nhỉ! Lẽ ra mình không nên “ác” với Phú trước mặt các bạn anh. Không nên diễu cợt tình cảm với Nam đến thế! Để làm gì? Tất cả những thứ đó chỉ là đùa trò trẻ con và lố bịch. Vì những tha thiết mặn nồng yêu thương chân thật, tôi có thể tìm thấy ở Phú (nếu không phải là người xưa, hay là ai khác). Thế nhưng, tại sao tôi lại chối từ Phú? Sao tôi nỡ lòng quay lưng ngoảnh mặt, “tự dày vò làm khổ nhau” đến vậy không biết?! Tại sao? Hay chả còn bao lâu nữa, tôi sẽ lạnh lùng quay mặt về hướng khác, vứt bỏ sau lưng quãng đời dài thân thiết nhất? Dù những chuyện đó sâu thẳm như thung lũng tình yêu. Hấp dẫn đầy ắp như chân trời hứa hẹn một tương lai tươi sáng đang bừng tỉnh? Bỗng chú kiến lửa cắn vào cổ tôi đau nhói. Tôi nhăn mặt xuýt xoa, vụt ngồi dậy. Tung mền ra, tôi quay quắt chà xát vào chỗ đau nhiều lần. Sợi dây chuyền (ngày xưa “chàng” trao tặng) vướng vít vào ngón tay, bị đứt lìa ra hai đoạn. Sợi dây chuyền nầy vào dịp Noel năm xưa, chàng đã ưu ái đeo vào cổ tôi, ân cần nói những lời âu yếm nồng nhiệt yêu thương xiết đỗi. Kỷ vật đó suốt tháng năm tôi mang trong cổ qua bao giông tố thời gian vẫn không rời. Tôi ngẩn người cầm hai đoạn dây chuyền đưa ra ánh đèn xem xét, lòng mình cảm thấy tiếc ngẩn tiếc ngơ. Dường như tôi vừa đánh mất một cái gì quý giá nhất đời: hầu như tôi vừa đánh mất một cánh tay, một bàn chân, một nhịp thở lỗi nhịp, một mãnh tim vỡ hay một chéo mộng quan hoài. Trời! Xin đừng nhắc lại làm gì chuyện cũ, để vết thương lòng thêm héo hắt hơn. Bởi vì chuyện chia xa nầy rất phi lý là: chính tôi đoạn tuyệt mối tình nên thơ êm đẹp rất trong sáng, mặc dù cả hai người đối với nhau thì chẳng hề có lỗi lầm nho nhỏ nào! Do lỗi tại tôi tự ý “từ biệt”… muốn như thế thì đừng khêu to đống tro tàn bên lò sưỡi. Đừng đốt thêm ngọn bạch lạp bên góc phòng xưa. Dư vị quá khứ đắng cay đọng trên lệ nến nầy. Và, khung ảnh gỗ xinh xinh lồng tấm ảnh bán thân của chàng ngày ấy, nay còn trống chỗ vẫn ở trên mặt bàn lạnh từ bao năm. Bản tính muôn thuở của tôi vốn dĩ không thích thay đổi, tôi rất mến yêu kỷ niệm, thủy chung. Kỷ vật đã yên ổn an vui trong vị trí tôi đặt để: Lọ hoa mầu huyết dụ còn cánh nhung hồng héo úa gục đầu đơn lẽ. Bàn viết. Ghế dựa. Sách vở, bút viết, tạp chí, giấy trắng với bình mực tím vơi cạn. Những phong thư bạn bốn phương nằm im trong hộp đựng. Tủ quần áo, giường nệm độc thân y chỗ cũ. Chúng lẵng lặng nhìn chân dung bột màu do Kim Oscar vẽ hình tôi rất đạt, đang ủ dột thẩn thờ treo trên bức tường vàng lạnh lẽo. Tôi tin rằng mình không sai lầm khi con búp bê đã đặt trên giá sách, búp bê Mỹ do anh Vinh gửi từ Mỹ về biết cười nói khi tôi vui. Cạnh ô cửa là chú mèo lông xù của Thắng. Bên đàn gà mẹ gà con lít chít của Đan. Phía dưới là chú nai tơ xinh xắn của Phú ngơ ngác nhìn khi tôi buồn rầu đau đớn. Cạnh đó là chú gấu đen của Nam bừng giận lúc tôi chán chê cuộc đời. Trên tường là ống sáo đồng của Sanh. Mấy cành hoa giấy đỏ đỏ của Yến Nga. Lọ thủy tinh của Trúc. Hộp kính đựng cô gái Phù Tang của cô bạn tên Nghi cúi đầu rơi lệ khi tôi khóc. Những món quà vô tri vô giác nhưng thiết tha trìu mến vô ngần: Chúng đã từng theo gót chân tôi phong trần đi đó đây suốt quãng đời dài. Chúng có thể lẵng lặng “đồng cảm” vui buồn thương giận, đã yêu và đau khổ không thốt nên lời chăng!? Sáng, trưa, khuya, chiều, sớm, tối; “chúng” đã lặng câm chia sẻ nỗi niềm cùng tôi. Chúng nhìn trân trân nhưng tôi vẫn say đắm trong cơn mê. Chúng muốn nhắn nhủ tôi điều gì!? Gợi lên lòng mình những bài học đã bị vùi quên vào dĩ vãng xót xa. Chúng nhìn tôi như thầm trách bao điều không thể nói được. Vì thế, chúng lạnh lùng câm nín giận dỗi giương đôi mắt nai tơ chối từ thân thiện. Tôi yêu chúng vì chúng đã tận hiến cho tôi bao kỷ niệm đắm say, yêu kiều dịu ngọt lẫn vò xé nỗi đớn đau tận cùng. Chúng trọn vẹn tận hiến cho tôi một lần duy nhất trong cuộc đời vô tri, rồi lặng lẽ xếp đời vào niềm vui kỷ vật lăn lăn sóng gợn. Còn đây, bên gần khung cửa sổ là những kỷ vật của “người xưa”: sợi dây chuyền vàng có hai chữ H là quà tặng đính ước của hôn phu đêm giáng sinh, đã nói với tôi điều gì!? Tôi thấy trước mắt là những đợt sóng ngầm lạnh lùng xô bờ, vùi dập tan biến hình ảnh người yêu đã mất hút tầm nhìn vào vùng kỷ niệm những ngày qua. Dù nay đã xa rồi, nhưng bừng sống lại trong đêm nầy, khiến tim tôi đau thắt và sợ hãi kinh khủng. Cùng với sự giận dữ vô cớ bừng bừng dâng cao, phản ứng vô tình chớp nhoáng, nhanh hơn nhịp đập tim co giật trong lồng ngực cuồng quay. Tôi nhảy phóc xuống giường, chạy đến mở cửa sổ, mạnh tay quăng hai khúc dây chuyền vào đêm tối, xa thật xa khu vườn thông rợp bóng đêm. Gió lạnh ùa vào phòng tê buốt khiến toàn thân tôi co ro, cúm rúm, mặt mày dúm dó, tái méc, tay chân mình nổi ốc trâu sần sùi, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Tôi bàng hoàng, xúc động, run rẩy ngẩn ngơ tựa lưng vào tường, đăm đăm nhìn giá sách mập mờ đong đưa kỷ niệm vàng son một thuở. Tại sao thế nhỉ?! Nhất cử nhất động hôm nay, là để bước lại những bước chân quá thuộc lối trên nẻo đường mòn hôm qua. Ở mỗi lối ngoặt trong cơn lốc đều hiện rõ từng nét mặt thân thiết, ân cần mời gọi, nhớ nhung, mơ hồ, hay tuyệt vọng. Cho dù sóng thần có cuốn phăng đi chân dung người tình, và gió bão ùa về xua mây mù che khuất nẻo. Thì cái thế trong tôi vẫn không nao núng cơ mà! Tất cả kỷ niệm xa xưa về cuốn phim đó ẩn hiện chập chùng trên sóng nhấp nhô, bừng sống trong khoảnh khắc, nhưng rõ đến nỗi tôi nhìn trân trân vào bóng tối, mà hình dung có bước tình ai rón rén bên hiên nhà, có tiếng ai thì thầm rất khẽ lời tỏ tình mùa đông!
—o0o—
Bầy dế reo hoan ca hát trong đêm muôn trùng, chúng quay cuồng bay lượn, bu quanh trên những ngọn đèn đường vàng vọt trước cổng nhà. Vòng bay mỗi lúc một nhanh. Khi chúng bay tỏa rộng ra, khi thì thu nhỏ lại, rồi bất thần rơi phịch xuống đất. Ngay chỗ tôi đứng, con cánh cam từ đâu bay vù vù vào khung cửa kính, nó đập đầu vào ô cửa kêu cái cộp. Nó có lớp vỏ cứng, bóng láng, ánh lên màu biếc xanh, trông rất đẹp, nó xòe đôi cánh, bên trong lộ ra hai cánh nâu mỏng te có nhiều sợi gân nổi trên lớp cánh mềm mại, xinh xinh khéo léo uyển chuyển khép dần coi thật gọn ơ. Tôi mở cửa sổ ra, len lén thò tay bắt con cánh cam, và cúi xuống nâng niu trong hai bàn tay khẽ khàng bụm lại. – Hương Thụy! Làm gì mà ngẩn ngơ ra vậy? Em? Giật bắn người khi ngờ ngợ nghe Cảnh gọi, tôi bàng hoàng nhìn ra đường ngơ ngác tìm kiếm anh trong bóng đêm mà run run. Cứ tưởng người đứng dưới cánh cổng cao dày kia là kẻ trộm. Con cánh cam thừa lúc tôi sơ hở không bụm chặt tay, nên vuột ra khỏi lòng bàn tay tôi, nó bay đi mất dạng. Những giọt sao đêm Noel qua ô cửa lấp lánh nghiêng mình vẫy gọi tôi bước xuống lầu. Tôi đi trên lớp sỏi trắng nghiến lạo xạo dưới đôi dép da dọc theo khu vườn hoa đã thắm đẵm sương đêm, dẫn ra cánh cổng sắt rất to và cao lút đầu người. Tôi ngỡ ngàng giây lát, do dự chào Cảnh, và tới gần cổng ngoài lách cách mở ổ khoá cho chàng vào. Anh nhìn tôi mỉm cười, rồi e dè hỏi: – Trong nhà đi lễ hết rồi sao? Em! – Dạ vâng. Chẳng còn ai. – Anh đến bất ngờ. Xin lỗi em. – Ư hừ… – Em dám ở nhà một mình? – Sao lại không. – Ghê ha. – Lẽ là… người thì xa lạ. Còn ma quỷ cũng sợ em chẳng dám tới đây quậy phá. – “Yên hùng” hơn anh rồi. Cười tít mắt, cùng anh bước vào phòng khách, tôi trêu ghẹo Cảnh: – Anh thì không sợ gì bằng… sợ bị ký củ ngày thứ Bảy, Chủ Nhật. Nên anh thấy em “yên hùng” hơn anh. Ha. – Em nhảy vô trong tim đen của anh rồi còn gì… Tôi cười, nụ cười ngọt hơn mía lùi. Cảnh ngồi vào chiếc ghế bành da. Tôi loay hoay chút xíu dưới bếp, để pha cho anh ly cà phê sữa bốc hơi nóng thơm phức. Bưng ly cà phê ra đặt trên bàn, tôi mỉm cười mời anh. Cảnh mồi diêm hút thuốc, anh nhả khói thuốc thành từng vòng chữ O uốn khúc bay lượn lên trần nhà. Dường như anh gắn chúng với dòng suy nghĩ, đắn đo nào đấy. Tôi lại trở vào bếp làm cho anh hai miếng bánh mì kẹp thịt nguội quết ba tê. Tôi khệ nệ bưng dĩa bánh ra, vui vẻ ngồi xuống ghế đối diện Cảnh. Chúng tôi cùng nhìn nhau mỉm nụ cười vu vơ. Tôi cũng ăn lát bánh lạt phết chút đường và bơ. Bất ngờ tôi nghe anh nói: – Ngày lễ trọng đại, vui vẻ vậy, mà em không đi chơi đâu sao? – Biết đi đâu bi giờ! Anh! – … Anh được trường cho phép đi ra ngoài phố. Nên cố ý đến thăm em, mà anh cứ do dự và lo lo, thắc mắc riết. Anh đi qua đi lại ngoài đại lộ nầy, mấy vòng rồi. Anh thấy nhà tối đen, ngỡ là không có ai ở nhà. Nào ngờ có em. Vui quá và may mắn thật. Bây giờ tôi mới để ý thấy trên góc kệ, cạnh cái bàn tròn có gói quà nho nhỏ thắt nơ hồng. Cảnh để xuống đó từ lúc nào. – Anh có món quà mọn nầy gửi tặng em. – Anh đến thăm em, dù bất ngờ… nhưng vui rồi, quà bánh làm gì anh. – Em vui là anh mừng húm. Tôi mỉm cười nhìn Cảnh giả vờ trợn mắt lên, rồi nheo nheo lại. Cảnh cũng không vừa, anh đá lông nheo kịch kịch. Chúng tôi cười to. – Hương Thụy nghĩ sao về việc chúng mình được quen biết nhau? – “Được” quen biết nhau?! – Chính vậy. – Nếu anh nói “được”, thì em phải trả lời “rất hân hạnh”. Còn anh nói “bị”, thì em thành thật trả lời “không có chi”. – Một câu đáp lễ sâu sắc. – Còn anh, anh nghĩ sao khi hỏi em câu đó? – Sau bóng mây đen cùng cơn gió lộng, sẽ có trận mưa dầm mà ấm áp mát mẻ như trời Đà Lạt luôn trong lành thoáng mát ấy em à. – Chưa hẳn thích. – Bởi vì chưa quen. À… Ngày mừng Tết Dương Lịch, anh xin có nhã ý mời em vào trường Võ Bị dự buổi dạ tiệc. Hen! – Sao anh lại mời em? Em thiết nghĩ chị Dung, bạn ấy thân anh hơn em nhiều. – Thân không có nghĩa là thương. Thương lại chưa hẳn là yêu. Nhất là Dung kia không phải là Hương Thụy nầy. – Em chịu thua. – Như vậy, có nghĩa là em từ chối khéo ha? Tôi cười cười, vui vui nhìn Cảnh giả lả: – Anh nghĩ sao về việc em vừa nói? – Dễ thương đến thế là cùng. “Dễ thương” theo nghĩa của Cảnh nói, khi vang lên nghe hay hay thế nào ấy! Nó ẩn chứa cái gì đó vừa hờn mát trách yêu, lẫn dịu ngọt ân cần vẫy gọi nhau thân thiết. Như tiếng nước suối giao hòa rì rào, se sẻ chảy qua bờ bụi lau lách. Như vết điêu khắc thần tiên sống động của nghệ nhân tài ba tạt trên đá. Không có nét “dễ thương” thì bức vẽ sẽ vô cảm, vô hồn. Tuy thế tôi không thể dễ dàng, tự do, nhanh chóng đường đột nhận lời Cảnh đi vào trường Võ Bị ngay. Vì; đây là lần đầu tiên tôi trực diện Cảnh, cùng trao đổi chuyện trò với người thanh niên mới quen biết vài tháng trước, trong căn nhà vắng lặng đến rợn người và… khuya khoắt hoang sơ thế nầy, cũng là điều quá đáng lắm rồi. Chúng tôi ngồi nói chuyện về gia đình cha mẹ, các em của anh, Cảnh là anh Hai, trai trưởng mà! Tôi cũng nói về gia đình cha mẹ, anh chị, các cháu của tôi. Chúng tôi vui cười về vài sự kiện nào đó. Tếu tếu với nhau những câu vớ vẩn, không thân mà chẳng nhạt, đôi khi đắt ý về vài vấn đề nào đó lại nhìn nhau khúc khích cười. Chuông giáo đường rộn ràng ngân vang báo hiệu giờ tan lễ nửa đêm Noel. Từ giã tôi, Cảnh ra về và anh tạm nghỉ ở nhà của anh chị bạn ngoài đường Phan Đình Phùng.
Chúc Anh CHIỀU NHỚ NHUNG
Một giọt nắng ngóng trông ai tàn nhạt phai . Mòn ánh mắt
Ngày mai hỡi gieo nắng vàng chuỗi lạc quan . Sưởi góc hẹn
Người phương ấy thấu nơi này gió bụi bay. Nhớ vô tận
Mây Ngàn Bể sầu
Phảỉ chi đời không bể sầu Đêm đêm đứng đợi bên cầu nước trong Từ ngày em bỏ theo chồng Vườn hoa trước ngõ cánh hồng héo khô Bao năm hò hẹn cơ hồ Như dòng nước chảy biết mô mà tìm Người đi để lại con tim Hằng trăm mảnh vụn máu bầm tím đen Hơi sương dấu kín mùi hương Bàn chân bước vội con đường em qua Cỏ cây chứng tích xóa nhòa Đò qua bến lạ xót xa tình sầu Đi đâu em đã về đâu Phấn hương mùi tóc chìm sâu đáy lòng.
Nguyễn Khoa Lộc Đố em
Em hốt hoảng nhìn ta trong bở ngở Hiệp sĩ say quay mặt bước tinh cầu Nhìn vũ trụ nổ tung ngàn tinh tú Có quá nhiều ôm trọn một mình ta. Ta lặng lẽ nhìn em trong pháo nổ Tiếng cười vang chúc tụng bước vu quy. Viết tên em Thiên sứ giặc trời uy Thiên sứ ấy cười- say, em có biết!
Thầm lặng
Thảnh thơi đón gió đầu Xuân Mai cằn- trúc lạnh- quây quần vợ con Khói nhang quyện lấy bóng hình Con say giấc ngủ – vợ sâu giấc tình Có chăng phép lạ riêng mình Thoát cao nhìn xuống u-minh-cười khà Tái sinh ơn mãi xin chờ Hùng anh hẹn gặp thiên cơ dựng cờ. Chờ Xuân trăng lặn sao mờ Hừng đông rực lửa đợi chờ tới đâu.
Song thy Mưa Buồn
Rồi một ngày mưa làm ta rơi lệ Cơn mưa ngày dai dẳng đến mưa đêm Khóc cho ai hay chỉ khóc riêng mình Thương thương quá! Giọt mưa buồn lệ thắm!
Chiều qua đi gọi mời mưa nán lại Tí tách rơi giọt nhớ chảy về đâu? Lệ tuôn rơi qua ngấn mắt âu sầu Ta sũng ướt vì mưa hay vì lệ . . .
Rain or Tear!
Oh! A rainy day makes me cry It drags on till night And I cry for someone or for myself Love it, love so much! A rain drop as my sad tear
An evening invites rain to stay Rain dripping carrying my memory to elsewhere Keep crying, tear filling my sad eyes I’m soaking wet because of rain or of tears . . .
Phạm Tương Như (họa vần)
MƯA BUỒN
Mưa rơi hay trời gửi ta sợi lệ Nỗi nhớ lòng anh kể lể thâu đêm Nước mắt ai hay anh khóc một mình Dòng tâm sự lăn lung linh hạt thắm
Em bỏ đi rồi ! Cơn mưa ở lại Tóc ướt thuở nào, áo ướt về đâu Ta lắng nghe ta tí tách giọt sầu Để thương nhớ thành mưa ngâu thay lệ
RAIN OF TEARS
Oh! Raining or the sad nature cry Flowing my sorrow into the night Who else sob and shed tears but myself My soul weeps and rolls as crystal tear
Oh! Lover has gone; left the rain to stay Your wet long hair and soaking silk dress gone elsewhere You left yourself in my soul and eyes All our memories have fallen to become the rain of tears
Written by Pham Tuong Như
Nguyễn Thế Giác Nghĩ gì về Thi Tập Thắp Đời Của Nhà Thơ Lan Cao
Đọc thơ Lan Cao vào một ngày Đông đến muộn, những bông tuyết lay bay, trên cành cây trụi lá, dưới khung trời Houston buốt giá, mờ mờ ẩm đục, lòng người co ro bỗng dưng ấm lại, như một sự mầu nhiệm nào đó, thì ra cái thể thơ Lục Bát quái ác, làm tôi ngơ ngác trước sự cấu trúc quá ư tài tình, của anh chàng Kiến Trúc Sư chữ nghĩa có tầm vóc.
Thể thơ dễ thực hiện, nhưng nghe khó xuôi tai này, đã làm tôi ít khi dám đặt bút, nay có kẻ nghiễm nhiên đứng trên đầu gió chiến thắng, tha hồ bày biện, khéo léo sắp xếp những con chữ vô tư, rồi truyền thần hết sức mạch lạc, khác nào phả vào một lời trần tình ngoạn mục, ưu ái cũng như san sẻ niềm suy tư, cho kẻ cùng tâm cảm, dìu nhau bước lên diễn đàn văn học. Nghĩ lại, tôi đắn đo mãi, chỉ vì Lục Bát dễ làm như cho tay vào túi lấy tiền, nay đã được người bạn vong niên, chẵng chút gì ngần ngại phóng tác, ngòi bút cứng cáp như cây tùng cây bách, cho tôi khiêm nhường tuyên dương, với danh xưng: Lan Cao là nhà thơ Lục Bát Lục Chi Bảo! Thật vậy, càng đọc thơ sáu, tám của ông, làm nhớ đến Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên vô cùng! Chịu khó lục lại chuỗi thời gian dài dằng dặc, ngày… tháng… lênh đênh nỗi nhớ, trong bầy ký ức mông lung, chập chùng thương tiếc. Thế là nỗi thống thiết, lẫn niềm vui chồng chất lên nhau, không biết bao nhiêu mảnh vụn cuộc đởi, từ hăm hở của một thuở thiếu thời, đến âm thầm nghe chiều chầm chậm rơi, trên mái tóc vội vã ngã mầu. Mới đây, dòng thời gian chảy xiết, làm sao quên được cơn đại hồng thủy trái mùa, đổ dập lên nửa phần đất nước thương đau, nền văn học bất hạnh có thừa nhân bản của quốc gia cả đời tự vệ, bị vùi sâu dưới mấy tầng địa ngục đa đoan, do kẻ chiến thắng mưu toan dùng mọi ưu thế điêu ngoa trù dập, anh em văn nghệ sĩ của bên này vĩ tuyến mười bảy, sống âm thầm như hòn cuội lăn lóc giữa bầy trớ trêu nghiệt ngã. Tuy nhiên, vẫn có kẻ cố gắng nuôi mãi lý tưởng sống còn, vực dậy một nền văn học dưới đống gạch vụn ngổn ngang hận thù, nhưng biết chắc lần lữa cũng sẽ bị xoi mòn, khi thời gian bặt thiệp, nhìn lưu lượng của con sóng vô tình dồn dập, mà đau lòng không ít. Trước xu thế thời đại, ngậm ngùi soi lại bóng bóng mình, chú học trò năm xưa đã giã từ mớ tuổi trinh nguyên, ngót mấy thập niên rồi đó, cố ngoái nhìn cái dáng hồn nhiên vương lên, như lộc non cành biếc của Mùa Xuân năm nào, qua chiếc áo thiên thần, nhưng than ơi, tất cả cũng đã âm thầm chắp cánh bay cao, trả lại một vùng trời ăm ắp kỷ niệm. Đăm chiêu thả mắt vào dòng thơ lúc mềm mại lúc óng ả, đưa hồn mơ màng lên khoảng không gian vô tận, miệt mài nhìn đến thân phận của người cầm bút, thứ xao xuyến luyến lưu trong im lặng, có khác gì một kẻ bất lực, đã lẫm đẫm đi vào vùng miên viễn xót xa nào đó, mà người xưa thường bộc bạch, như lời tự thán dễ thương trước sự xâm thực của thời khắc không ngừng vuốt ve: Lão giả an chi! Thế là mọi chuyện thế gian ngổn ngang cũng xin gác lại, cho tâm tư lắng động đôi chút, giữa cảnh phồn hoa đô hội không ngừng thôi thúc. Nhưng, chẳng thể nào làm ngơ trước một hiện tượng, tâm hồn vốn dĩ ưu tư văn chương chữ nghĩa khá sâu đậm, nên cũng khó lòng làm ngơ cho được, khi bạn mình ưu ái trình làng đứa con tinh thần, vẫn biết trong lúc chợ chiều văn học hải ngoại, làm rục rữa ánh tà dương rót muộn, trên bước đường lưu vong. Tôi thiết nghĩ, nhà thơ Lan Cao nếu không là nghiệp dĩ quấn quít lấy đời ông, thì cũng khó lòng can đảm đến thế, chỉ vì thời buổi gạo châu củi quế, đã làm tiêu tán cả nghị lực còn lại. Dễ hiểu thôi, sách vở bây giờ chẳng còn mấy ai thiết tha, giữa lúc con người đang ở vào thời kỳ thong dong trên siêu xa lộ tin học, điện toán thu ngắn địa cầu và khoa học thực tiễn xé nát biết bao huyền thoại dễ thương, nên văn chương đã không trừu tượng ra nổi những gì, mà mình muốn ký thác. Bạn tôi bất chấp mọi nghiệt ngã, vô tư lự đứng trước sự dửng dưng vây hãm, như chấp nhận thách thức người cầm bút bản lĩnh. Dĩ nhiên, nhà thơ của chúng ta chả cẩn đo lường đến nỗi thiệt thòi, e làm tiêu tán nghị lực chăng? Có điều thử hỏi, dù thế hệ trẻ có quan tâm đến quốc gia dân tộc cách mấy đi nữa, nhưng tiếng Việt đã không là nhu yếu phẩm thực tiễn, dẫu cố tâm vùng vẫy, nhưng cuối cùng gần như đi vào vùng quên lãng, sớm muộn gì cũng trở thành một ngoại ngữ hiếm hoi, không ảnh hưởng nhiều đến xã hội của người dân bản xứ, thì làm sao con cháu mình được cơ hội nuốt trôi một tác phẩm văn học có tầm vóc giữa chợ đời bôn ba hải ngoại. Dĩ nhiên, đối với tôi không ngần ngại chia xẻ ngọt bùi, khi tiếng mẹ đẻ còn có kẻ vun quén, vùng vẫy muốn thoát ra khỏi cái kén bất lực. Nếu ý nghĩ nhắm mắt trước cảnh đời văn chương chữ nghĩa mạt vận, là phụ lòng một người có tâm hồn chất ngất niềm tự hào, ưu tư không ít đến thế hệ mai hậu. Cuối cùng, phải chăng là vô tình thiêu rụi nguồn sống của một nền văn học vừa hồi sinh, được chắt chiu sau cuộc đổi đời bi đát. Tôi đọc ngấu nghiến, nuốt trôi thi tập Thắp Đời của nhà thơ Lan Cao. Nhất là nghiền ngẫm lối vào cửa ngõ Lục Bát. Phải thành thật mà nói, ông đã thành công mỹ mãn về thể thơ này. Có lẽ, chỉ vì người thơ của chúng ta đam mê chữ nghĩa không ít, còn cố tâm trừu tượng hóa hiện vật, thành những hình dung tự dễ thương, mới nghe qua từng cung bậc của âm thanh, tưởng chừng ông đã phong phú hóa trường phái, tinh anh như loại văn chương bác học. Càng đi sâu vào vào vườn hoa chữ nghĩa, khi người thơ cố tâm thổi vào một luồng sinh khí, thế mới biết Lan Cao của chúng ta bất chấp mọi thua thiệt về vật chất đe dọa, ngang nhiên đứng lên trên mọi gièm pha nếu có, cho dù của những kẻ khó tính, chỉ biết phê bình mà chẳng cần đi sâu vào vườn hoa văn học có tầm vóc kích thước. Đọc đi đọc lại, cho thơ ông nhè nhẹ đi vào hồn mình, để nghe ít nhiều trăn trở của người cầm bút. Lan Cao vẫn ung dung trên con đường nghệ thuật, không một chút gì ngần ngại, cũng như nao núng đến lời phẩm bình cho dù của nhiều bậc uyên thâm, lão luyện về thể thơ Lục Bát trước kia, lúc nào cũng dè dặt nói với thế hệ cầm bút tương lai: Thơ Lục Bát dễ làm nhưng khó hay, không khéo rơi vào Ca Dao hoặc vè chẳng hạn. Nhà thơ của chúng ta với tinh thần khai phóng, tôi tin rằng một kẻ bản lãnh có thừa. Thế là ông đã thành công với ngón nghề này. Tôi vẫn đinh ninh khẳng định, dường như ai đam mê những gì mà mình mong muốn, sẽ gặt hái trọn vẹn như một sự tất nhiên. Lan Cao, lão luyện thể loại Lục Bát, là một đắn đo tuyệt vời, cứ nghe bốn câu thơ dưới đây, mới thấy một sự thành công đáng kể: Ngày mai biển gọi người về. Ngày mai nào được cận kề hôm nay. Hát lên rượu rót cho đầy. Hát lên tình khúc, môi say tình đời. Thì ra mới biết thứ vô vi Lão Trang đã âm thầm diễn đạt qua cuộc sống đầy an nhiên và tự tại, làm mình cũng dửng dưng, tưởng chừng, để cho linh hồn được bình thản, trước sự xâm thực của thời gian vô tư mặc nhiên đến với con người. Hẳn biết, đất tạm dung đã cho ông vẫy vùng triết lý sống còn của kẻ lưu vong, dù ánh sáng cuối ngày cũng điểm diện trên vuông chiếu văn học. Thế nhưng, trong lòng hải ngoại thứ phù vân thi ca chẳng thiếu, đã làm mai một ý chí người làm văn học chân chính với chữ nghĩa thênh thang! Tôi đọc thấy nhà thơ Lan Cao cũng thao thức không ít đến lâu đài văn học bị vùi sâu dưới mấy tầng ký ức đa đoan, đau trong niềm đau mất mát, tuy biết còn chút tư duy vụn vặt, cố Thắp Đời mong sao giọt nắng cuối cùng, đi vào từng nhiễm thể văn chương chữ nghĩa, không ngoài những ước ao gói ghém tâm sự mình qua cung bậc của dòng Lục Bát phá thể, để nghe tiết tấu của thơ vang lên trong tâm hồn bình dị, làm nhẹ nhỏm tinh thần của người cầm bút ưu tư không ít đến tiền đồ. Con người ưu tư đến nền văn học lưu vong, Lan Cao tưởng chừng vẫn long đong không ngớt với vận mệnh, tôi đọc thấy trong thơ ông như có cả một trời hoài vọng, đang quấn quít bên người. Lý nào nhà thơ của chúng ta không nhận chân đến sự thật hẫm hiu của nền văn chương hải ngoại? Dĩ nhiên, dù muốn dù không, trước sau gì cũng bị đào thải, khi bánh xe thời gian miệt mài lăn trong tâm hồn bỏ ngỏ. Bởi thế, thơ ông nhiều khi yếm thế không kém, có lúc nghiễm nhiên trên dòng văn chương bác học, làm người đọc chưa ra khỏi cái bình dân mộc mạt, lại leo lên ghềnh thác đầy suy tư, cho nên không kịp diễn đạt sự thẫm thấu trong hồn. Cố lội ngược con sông đời, của một thời hồn nhiên, nghe lưu lượng còn chút âm ba bên bờ ký ức, bất động soi cả hình hài của chính mình, trong xao xác của nghĩ suy, cũng muốn rửa tay gác kiếm, ngỏ hầu vui thú điền viên, thứ vô vi Lão Trang như an bài cho một đời người, trước dỏng cuồng lưu miệt mài xâm thực cuộc sống. Nhưng, luyến tiếc không ít những gì đã vụt khỏi tầm tay, còn thơm mùi mực, cho dù vụng về bằng hành động, vùng vẫy nhảy qua vũng lầy định mệnh khắc khe. Có lẽ, mình thấy chưa đủ niềm vui cho tuổi già định nghĩa sống còn chăng? Ngoảnh lại vẫn còn quan ngại, vừa hối tiếc cho dĩ vãng, rộn ràng chút hy vọng, quyến luyến không ít đến tương lai, cho tay vội vã chụp lấy thi tập Thắp Đời của nhà thơ Lan Cao, lại đọc tiếp một lần nữa, cứ thế làm nhiều lần, nhai bầm dập những mẫu tự mềm mại, lắng tai đón nghe từng tiếng thì thầm của thơ, rón rén đi qua đời thường, để sống lại một thời trai trẻ, không dám dối lòng mình, trước sự xâm thực khó hiểu của thơ, mới biết mình cũng đã từng da diết yêu bộ môn văn học nghệ thuật này, nhất là thơ của Lan Cao, chỉ vì nàng thơ quyến rũ tâm hồn mình tự hồi nào, còn bắt tôi tìm chỗ đứng trọng vọng trong trái tim đoan hậu, chưa hết thế mà ra sức hành hạ kẻ đam mê, suốt cả một chiều dài thời tiết bất thường đổ về tới tấp. Đành vật lộn với chữ nghĩa chứ biết sao hơn, nhưng rồi tin chắc đến lúc nào đó cũng no nê, trước ngọn sóng thi ca âm thầm phả lên miền suy tư, mầu mực tím ngày nào, tưởng chừng cũng nhạt phai theo thời gian, bụi phấn không còn đong đưa trước mặt. Thế nhưng, hình ảnh ông Thầy Giáo già trường Giòng phụ trách môn văn chương, dõng dạc nói với lũ học trò chúng tôi, vẫn cỏn sừng sững trong trái tim kính mến một thời, qua lăng kính bỗng dưng hội tụ. Ngày ấy, Thầy tôi bước lên… bước xuống… bục giảng, vẻ mặt hưng phấn thấy rõ, Thầy thao thao bất tuyệt, như đã chuẩn bị sẵn tư duy, biết chắc Thầy cả quyết một điều gì, khi đã hội đủ tư tưởng. Cuối cùng rồi cũng khẻ giọng với lũ học trò yêu văn chương, thi phú. Cứ nhìn qua đôi mắt đăm chiêu của Thầy, biết nhà mô phạm muốn nhồi nhét thêm kiến thức vào môn đệ người, hẳn nhiên Thầy đoán được lũ học trò cũng đam mê tha thiết những tinh túy của hồn nước, Thầy dõng dạc: -Các con nên nhớ rằng ai nói đến thơ, thể nào cũng phải nhớ đến quân bình và nhạc luật. Muốn có một bài thơ hay và truyền cảm, tác giả lại không thể nào bỏ quên những yếu tố đó, dầu thơ mơi hay thơ cũ chăng nữa. Nhớ lời Thầy, tôi chợt nghĩ ngay đến Lan Cao, ông là chưởng môn thượng thừa về đủ cả loại thơ. Duy Lục Bát tôi phải cúi đầu ngưỡng mộ trước sự chẻ thơ tài tình, làm người đọc tưởng thể thơ phá thể nào đây, mà ông đã có công sáng tạo một trường phái mới.
Thái Bạch Vân Một thoáng tương phùng
Một thoáng anh về một thoáng thôi Bỗng dưng ngọt lịm cả vành môi. Ngày xưa áo tím em chung lối Ước hẹn bên anh suốt một đời
Một thoáng anh về một thoáng thôi Bỗng dưng nồng đượm chén khai bôi Những mùa thu cũ vòng tay ấm Tình vẫn đong đầy mộng chẳng vơi
Một thoáng anh về một thoáng thôi Bỗng dưng rào rạt nhạc lòng ơi! Nhớ nhung thoáng mất bên song cửa Chất ngất tình ta phút tuyệt vời.
Anh có về dù một thoáng thôi Để lầu hoang vắng hết đơn côi. Cho hoa thắm sắc, rừng thay lá Cho mộng đong đầy tựa biển khơi.
Một thoáng… anh ơi! tận cõi trời Nhìn nhau phút chốc dạ khuây nguôi. Tương phùng mộng mị… như sương khói Tỉnh giấc lệ tràn đọng khóe môi!
Đèn khuya hiu hắc bóng Trăn trở bao nỗi niềm Âm thầm hàng lệ chảy Ai lưu dấu ngõ về
Sau lưng từng hạt sõi Dấu chân buồn lê thê Đường mòn in rõ lối Ngõ nào tìm ước mơ
Đom đóm chiếu lập lờ Sa mù buông trước mặt Lối nào cho tình Thơ Lời nào lên men đắng
Chợt mộng tình bơ vơ Chao nghiêng bờ hạnh phúc
Xuân hoài niệm
Xa cách muôn trùng… dệt ước mơ Mùa xuân hoài niệm chẳng lu mờ Mai vàng hé nụ khoe duyên thắm Nắng óng vờn sương cảnh như thơ. Thuở ấy nghe lòng sao ấm áp Giờ đây thấy dạ chợt bơ vơ Xuân về xứ lạ… thêm khao khát Vườn cũ… quê xưa… mõi đợi chờ!
Xuân nơi xứ lanh Thái Bạch Vân
Tuấn Đình Hoài niệm
Lang thang hạt bụi bên đường Lênh đênh tàn tạ nỗi buồn truân chuyên Âm thầm giọt nhớ ưu phiền Xôn xao lá rụng bên triền cỏ may Ngậm ngùi khói nhạt mây bay Bên trời trăng gió hàng cây lặng lờ Trái sầu rơi rớt hồn thơ Bên bồi bên lở vật vờ dòng sông Hắt hiu gió lượn ngoài sân Nhớ cây xưa, đã mấy lần tàn hoa Thoáng nhẹ nhàng thêm thiết tha Bờ rêu nắng mỏng la đà hương đưa Bên vườn hoa thắm giậu thưa Bềnh bồng tình mộng ngày xưa êm đềm Chút liêu trai, bờ môi em Nụ hôn hò hẹn, tay tìm vòng tay Chìm đáy mắt, hồn đắm say Chùm hoa hoài niệm trời mây cũng tình U hoài non nước điêu linh Quê xa dặm nhớ nợ tình mù khơi Tấc lòng theo gió mây trôi…
Thi Văn Đàn TRẦM HƯƠNG Chân thành cảm tạ Quý Văn Thi Hữu Quý Bạn Đọc và Quý Mạnh Thường Quân đã góp bài vở, Động viên khuyến khích và nhất là Quý vị ủng hộ tài chánh.
NĂM THỨ 6 . BỘ MỚI . SỐ 3 Chủ nhiệm: Nguyễn Đức Nhơn Chủ bút: Túy Hà Thông Tin Liên Lạc Tuyha81@yahoo.com doanthachngoc@yahoo.com Website: http://hoiquantramhuong.net Trình bày và layout: Túy Hà In tại Mr.Print Ần Quán
THI VĂN ĐÀN TRẦM HƯƠNG THỰC HIỆN
MỤC LỤC Lối vào (3) Nguyễn Minh Triết Tản mạn văn học (6) * Hải Phương thơ (12) * Trần vấn Lệ thơ (12) *Ngô Nguyên Nghiễm thơ (17) * Đàm Ttrung Pháp tham luận (19) * Trần Yên Thảo thơ (23) * Cái Trọng Ty thơ (26) * Lưu Nguyễn Từ Thức thơ (29) * Trần Trung Tá thơ (31) * Trọng Đạt khảo luận (32) * Lan Đàm thơ (53) * Hoàng Xuân Sơn thơ (55) * Phan Bá Thụy Dương thơ (58) * Vũ Linh Điểm thơ (59) * Lan Cao thơ (66) * Phan Các Chiêu Hằng thơ (69) * Kiệt Tấn thơ (72) * Trần Bang Thạch truyện ngắn (74) * Xuân Bích thơ (79) * Kim Oanh thơ (82) * Trường Thy tạp ghi (85) * Như Phong thơ (92) * Phạm Văn Nhàn điểm sách (94) * Vũ tiến Lập thơ (103) * Ái Ưu Du truyện ngắn (105) * Lãm Thúy thơ (115) * Lê Nhiên Hạo thơ (118) * Phan Xuân Sinh truyện ngắn (119) * Phạm Tương Như thơ (127) * Dương Quân thơ (130) * Nguyện Tôn Nhan thơ (131) * Yên Sơn truyện ngắn (132) * Dương Thượng Trúc thơ (140)* Nguyễn Thị Thanh Dương thơ – truyện (142) * Thái Bạch Vân thơ (150) * Tuấn Đình thơ (152) * Uyên Sơn ký (155) * Song An Châu thơ – tùy bút (167) * Lê Hữu Minh Toán thơ (171) * Túy Hà thơ (173) * Luân Tâm thơ (175) * Song Quang thơ (178) * Nguyễn Đức Nhơn văn – thơ (180) * Tam Quỳnh thơ (186) * Miên Du Đà Lạt thơ (187) * Trần Văn Lương thơ (189) * Đoàn Thạch Ngọc đốt lò hương cũ (192) * Lã Mộng Thưởng- Song An Châu thơ nhạc (203).
Lối vào Nắng lửa gió Hè rát thịt da vẫn là sức cản vô hình làm chậm đi những sinh hoạt đời thường. Ngược lại đây là cơ hội tốt để cho người cầm bút ngồi vào bàn viết. Có thể là trong căn phòng mát dịu với máy điều hòa không khí, cũng có thể viết trên laptop trong những quán cà phê Starbuck vắng người. Riêng ban biên tập chúng tôi ngồi soạn bài lay out trong một trailer cũ kỹ, chút hơi mát thoát ra từ một máy lạnh window đã có tuổi thọ trên 10 năm với sức chứa 6000UB khiêm tốn.Mồ hôi muối mặn lại có dịp thoát ra nhơm nhớp trên da thịt mỗi người. Thời sự chiến tranh vẫn đưa tin máu đổ, thì trên chiếu văn làm sao không có mồ hôi. Chấp nhận cuộc chơi có nghĩa là bằng lòng thua thiệt. Nỗi đam mê nào mà không phải trả giá riêng của nó. Mở lại Trầm Hương số cũ để tìm khuyết điểm hầu kịp thời điều chỉnh cho số mới, thì vẫn còn nguyên lời mời gọi: Thi văn hữu gần xa sống vui sáng tác mạnh để lui tới với Trầm Hương và đọc giả thân thương góp thêm chút lửa cho lò Trầm tiếp tục tỏa hương. Vui thay lối vào rộng mở, gió lạ hương đời đã vãng lai liên tục vực Trầm Hương đứng dậy từ những lo âu. Sáng tác gởi về càng ngày càng phong phú. Đọc giả lại thường xuyên thăm hỏi đến TH. Điều ấy quả là một khích lệ không nhỏ cho những người “Ăn cơm nhà đi vác ngà voi”. Viết lách là một nghiệp dĩ đã vướng vào thì khó thoát ra, vì thế giới ngôn ngữ là mênh mông không giới hạn. Thậm chí các khoa học gia đang miệt mài truy tìm để giải mã ngôn ngữ ý tình của những nền văn mình ngoài trái đất. Như vậy chữ nghĩa khác nào thảo mộc nó có hơi thở riêng của nó và sức sống tiềm tàng khó lòng hủy diệt. Từ đó văn hóa thế giới tồn tại và ý thức hệ của con người vẫn được tô bồi mỗi ngày mỗi thêm sung mãn, giúp cho nền văn minh càng ngày càng thêm tiên tiến.Người cầm bút với những sáng tác tim óc của mình cũng đã góp phần không nhỏ cho văn hóa nhân loại. Ban Biên tập Trầm Hương không dám đao to búa lớn vì tự biết sức mình, nhưng chúng tôi vẫn mạnh dạn lên đường tiếp tục cuộc hành trình bất chấp chướng ngại. Ai cũng biết, ai cũng hiểu bây giờ và tương lai là thời đại của internet toàn cầu, với vô số những trang báo điện tử phong phú, sáng tác không giới hạn, hình ảnh tuyệt vời là thế giới tự do cho người thưởng ngoạn. Thế nhưng chúng tôi tin chắc rằng người cầm bút không thể nào quên màu giấy trắng mực thơm.Và người đọc cũng không thể thiếu một tờ Tạp chí khi cần thư giản hoặc giết thời gian trên những phương tiện di chuyển công cộng. Nhất là những người đã đi quá nửa đời này, thường dị ứng với những gã máy tính mặt vuông. Đọc không phải xướng lên mà còn đọc bằng đôi mắt của chính mình. Khó ai có thể suốt ngày đối diện với màn hình muôn sắc để đọc hết một trang báo điện tử. Thông thường chỉ lướt qua tìm xem tin tức trong một khoảng thời gian nhất định. Mà thị lực của con người luôn có giới hạn, nếu phung phí quá độ e rằng sẽ không còn thưởng thức trọn vẹn một dáng hoa vừa nở ngát hương, một buổi sáng trong lành bình minh rực rỡ, một ánh trăng ngà trải lụa sông mơ. Nếu thế chắc chắn sinh thú của đời người giảm đi không ít. Vì một vài lẽ nhỏ nêu trên trong muôn ngàn lý lẽ, chúng tôi vẫn quyết tâm mời gọi Quý Văn Thi hữu trong ngoài, Quý đọc giả còn yêu chữ nghĩa tiếp chúng tôi thêm chút lửa đừng để tro tàn. Nghĩa cử này chính là Quý vị đang góp phần tô bồi Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại. Mà văn hóa là điều kiện ắt có và đủ cho dân tộc sinh tồn. Ngoài kia thời tiết đã dịu lại, những cơn mưa rào rơi rớt đã làm giảm đi cái nóng thiêu người của mùa Hè nghiệt ngã. Những vạt cỏ vàng khô lại vươn mình trổi dậy mang theo nguồn diệp lục cho đời thêm xanh mát. Bốn mùa vẫn mãi giao hòa thì mong thay từ những hổ trợ âm thầm của Quý đọc giả giúp Trầm Hương thách đố với thời gian. Và vẫn mong thay Quý văn thi hữu không vì những dị biệt đời thường mà buông tay không góp gió cho Trầm Hương. Ngoài quyết tâm đẩy mạnh Tạp chi Trầm Hương đi tới và mỗi ngày mỗi cải tiến, chúng tôi cũng không thể lơ là với sự phát triển kỷ thuật thông tin đại chúng. Vì vậy với một ít kinh nghiệm khiêm tốn Trầm Hương cũng đã cố gắng để thực hiện một trang WEB trên diễn đàn Internet ngỏ hầu giới thiệu đầy đủ đến Quý đọc giả những sáng tác phẩm của các tác giả đang cộng tác với Trầm Hương. Kính mới Quý vị ghé thăm qua địa chỉ: www.hoiquantramhuong.net Thân kính chúc Quý vị những ngày tới mát lành, an bình hạnh lợi.
Trân trọng Ban Biên Tập.
Nguyễn Minh Triết TẢN MẠN VỀ VĂN HOÁ VÀ VĂN HỌC
Văn học luôn chiếm một địa vị quan trong đời sống của người Việt Nam. Qua bao ngàn năm kẻ sĩ bao giờ cũng được trọng vọng và văn chương thi phú được coi là phương tiện để bước lên bậc thang xã hội vì tài năng văn chương được đồng nhứt với tài kinh bang tế thế. Tuy ngày nay vai trò của văn học có đổi thay nhưng tình yêu đối với văn chương của quảng đại quần chúng vẫn vậy vì nếp sống này đã in sâu vào văn hóa dân tộc. Nhưng khi đề cập đến văn hóa, văn học, văn chương, …rồi văn minh, văn hiến, văn vật nhiều người thường hay lẫn lộn ý nghĩa của các cụm từ này.
A. Trước hết, văn minh và văn hoá là gì và khác nhau ra sao? Thông thường nhiều người cho hai cụm từ này đồng nghĩa với nhau, nhưng thực ra là hai khái niệm khác biệt. Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa nhưng tựu trung văn hoá được dùng để chỉ trình độ học thức và sinh hoạt chung của một dân tộc, một lối sống hay đẹp của một cộng đồng, một xã hội. Theo Đào Duy Anh văn hoá có một ý nghĩa rộng lớn hơn và chỉ chung tất cả các sinh hoạt của loài người từ những phong tục tập quán tầm thường, đến những sinh hoạt kinh tế, chánh trị, xã hội, tín ngưỡng và ngay cả các học thuật tư tưởng của loài người. Hay nói một cách khác, văn hóa bao gồm ba lảnh vực là văn hóa vật chất được biểu hiện qua khía cạnh kinh tế, khía cạnh vật thể như phương tiện sống, phương tiện sản xuất…, văn hóa tinh thần được biểu hiện qua khía cạnh tôn giáo, khoa học, khía cạnh văn học nghệ thuật… và lối sống là những thói quen, tập tục sống được hình thành theo thời gian. Vì bao gồm rộng lớn như vậy nên có thể nói văn hoá là một khuôn mẫu toàn vẹn của nhân phẩm và những sản phẩm của nó thể hiện trong tư tưởng, lời nói, và hành động.
Dân tộc nào cũng có văn hoá riêng, chỉ khác nhau ở trình độ cao thấp mà thôi. Trong khi văn hoá luôn hàm chứa bề dầy của lịch sử, là một sản phẩm của một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ thì cụm từ văn minh chỉ đề cập đến trình độ phát triển của xã hội ở từng giai đoạn. Văn minh là một sản phẩm của văn hóa mà đặc điểm là một tình trạng không còn những hoạt động bán khai, man rợ nữa. Con người đã xử dụng tài tình những phương tiện vật chất, tinh thần để phục vụ đời sống và con người đã thích ứng hóa với khuôn mẫu sinh hoạt xã hội. Nói đến văn minh, người ta thường nghĩ đến những tiện nghi vật chất trong khi văn hoá bao gồm cả những giá trị vật chất lẫn tinh thần. Khi nói đến văn hoá là nói đến tánh cục bộ, văn hoá mang tánh dân tộc như trong cách nói văn hoá Việt Nam, văn hoá Khmer…, trong khi văn minh lại có tánh quốc tế mang đặc trưng cho một vùng rộng lớn vì vật chất dễ phổ biến và dễ lây lan như nói văn minh tây phương, văn minh vùng Lưỡng hà…
Ngoài văn minh, hai từ khác cũng dễ bị lầm lẫn với từ văn hoá là văn hiến và văn vật. Theo định nghĩa văn hiến là truyền thống văn hoá lâu đời, là tổ chức đời sống theo những tiêu chuẩn văn hóa nhứt định, còn văn vật là truyền thống văn hoá biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử. Như vậy, văn hiến và văn vật cũng là những khái niệm bộ phận của văn hoá nhưng khác với văn hoá ở độ bao quát của các giá trị. Văn hiến là văn hoá thiên về các giá trị tinh thần (truyền thống lâu đời), còn văn vật thiên về các giá trị vật chất (nhân tài, di tích, hiện vật). Do sự phân biệt này mà ta thường nói nước Việt Nam có 4000 năm văn hiến, nhưng lại nói đất Thăng long ngàn năm văn vật.
Nói chung, văn hoá là cái gốc, cái hồn của một con người, một xã hội, một dân tộc. Trong cuộc sống con người hành động theo những tập quán đạo đức và văn hoá, Những tập quán này chi phối hoạt động của con người bằng vô vàn những hành vi cụ thể, nhỏ nhặt mà chánh con người có hành động cũng không ý thức được. Văn hoá cũng liên quan mật thiết đến tình cảm và tâm hồn của con người là những cái rất khó nhận biết và không thể một lúc mà có được. Văn hoá là một quá trình hình thành bền bỉ và kiên trì. Văn hoá không những thể hiện ở các giá trị vật chất mà còn là những giá trị tinh thần được thể hiện qua những truyền thống tồn tại trong nghệ thuật, trong phong tục, và trong lối sống được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Nói cách khác, văn hoá là chỗ dựa cho một cá nhân hay một dân tộc trụ bám vào mà vượt lên trong những tình huống khủng hoảng, những hoàn cảnh gian nguy để không những tự đánh mất mình, không bị mất gốc mà còn vững vàng phát triển và tồn tại. Chánh nhờ những giá trị tinh thần tốt đẹp từ ngàn xưa thấm nhuần trong truyền thống văn hoá Việt tộc đã giúp cho dân tộc ta vượt qua được vô vàn thử thách của một ngàn năm Bắc thuộc và hơn một trăm năm Pháp thuộc để tồn tại cho đến ngày nay.
Ngoài ra, văn hoá còn là diện mạo, là bản sắc của một dân tộc. Mỗi nền văn hoá đều có những sức hấp dẫn riêng, những nét đẹp riêng khiến văn hoá của dân tộc này không thể lẫn lộn được với văn hoá của dân tộc khác. Mỗi nền văn hoá đều có những nét hay đẹp độc đáo và do đó không có vấn đề nền văn hoá này cao hơn nền văn hoá khác. Điều quan trọng là mỗi dân tộc phải biết bảo tồn bản sắc văn hoá của mình. Riêng đối với người làm văn hoá, công việc bảo tồn văn hoá dân tộc phải là công tác chánh. Trước hết là phải biết giữ gìn truyền thống dân tộc, vun xới cho cái đã có và đang sinh sôi, đồng thời phải biết ngăn chặn, hạn chế các tác động của các yếu tố ngoại lai, để đảm bảo được cho bản sắc văn hoá của dân tộc không bị nhạt phai hay bị đồng hoá. Khi nói giữ gìn truyền thống dân tộc, người làm văn hoá cũng nên nhìn rộng để không những chấp nhận những cái đã thành truyền thống mà còn phải chấp nhận cả những cái đang và sẽ trở thành truyền thống vì dân tộc không chỉ tồn tại ở quá khứ mà dân tộc cũng tồn tại ở hiện tại và trong tương lai nữa.
Nói đến truyền thống, thiết tưởng cũng nên phân biệt giữa hai thuật ngữ truyền thống văn hoá và văn hoá truyền thống. Truyền thống văn hoá là những giá trị văn hoá đã trở thành truyền thống, đã được thời gian trui luyện để trở thành những giá trị trong toàn bộ những hoạt động sản xuất và tinh thần của dân tộc cũng như những giá trị trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, và lối sống. Trong khi đó văn hoá truyền thống lại có nghĩa hẹp hơn và thường ám chỉ các loại hình sinh hoạt văn học, nghệ thuật cổ truyền đã được bảo tồn qua nhiều thế hệ.
Môn học chuyên nghiên cứu về văn hoá của các dân tộc được gọi là môn Văn hoá học. Tuy văn hoá đã có từ lâu đời nhưng môn văn hoá học chỉ thực sự được thừa nhận từ sau khi quyển cách The Science of Culture của L White ra đời vào năm 1949. Riêng tại Việt Nam ngay từ năm 1938 tác giả Đào Duy Anh đã viết một quyển sách về văn hoá rất có giá trị là Việt Nam Văn Hoá Sử Cương. Sau đó, vào thập niên 1950 nhà văn Lê Văn Siêu đã tiếp nối với một quyển sách nói về nền văn minh Việt Nam có nhan đề là Việt Nam Văn Minh Sử Cương. Hai quyển sách không thể thiếu cho những ai muốn tìm hiểu hay học hỏi về nền văn hoá và văn minh của Việt Nam.
B. Một trong các bộ phận quan trọng khác của văn hoá là văn học. Văn học có vai trò góp phần giữ gìn bản sắc của dân tộc, giữ gìn những sản phẩm tinh thần của dân tộc. Một dân tộc chỉ thực sự định hình khi có được một nền văn hoá và văn học riêng biệt. Một cách chung, văn học là tổng thể những văn bản được sáng tạo bằng thứ ngôn ngữ của một cộng đồng văn hoá. Hai cụm từ văn học và văn chương đôi khi cũng có ý nghĩa lẫn lộn. Thực ra, văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng nên Phan kế Bính đã cho văn chương là lời nói rực rở, bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp, vẻ sáng. Văn chương cũng còn được hiểu như một kỹ thuật dùng ngôn từ để tạo nên các tác phẩm văn chương. Trong khi đó, văn học được hiểu như là một khoa học nghiên cứu về văn chương như trong cụm từ văn học sử chẳng hạn. Kết quả của kỹ thuật dùng ngôn từ là văn bản. Hay nói một cách khác, văn bản là tất cả những sáng tác dùng ngôn từ để diễn đạt, biểu hiện tư tưởng của người viết. Nhưng tất cả những văn bản đó lại rất khác biệt về phương diện giá trị nghệ thuật, giá trị về cách vận dụng những kỹ năng, những phương tiện một cách có ý thức và sáng tạo để biểu tỏ ý tình trong liên quan đến cái đẹp, đến tính thẩm mỹ.
Trước tiên, văn bản có thể là những tài liệu ghi lại những diễn biến thực dụng hay để chuyển đạt những thông tin cần thiết như các thông cáo, công văn, những biên bản, những sách chỉ dẫn, những tuyên ngôn..v.v… Tất cả những văn bản này không mang tính thẩm mỹ và nghệ thuật nào, do đó không phải là những tác phẩm văn chương đích thực.
Văn bản muốn được gọi là một tác phẩm văn chương như truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ phú… phải là một tác phẩm nghệ thuật tức phải là một công trình sáng tạo bằng ngôn từ của nhà văn theo những quy luật thẩm mỹ cao. Tác phẩm văn chương phải biểu hiện được tánh cách đẹp đẻ của ngôn từ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, và bố cục. Tác phẩm văn chương phải là một thế giới nghệ thuật được nhà văn tạo dựng lên để chuyên chở những nhận thức, những khám phá, đồng thời cũng là tiếng nói tình cảm, là thái độ của nhà văn đối với cuộc sống.
Tác phẩm văn chương còn là những sản phẩm của trí tưởng tượng, của hư cấu. Trong một tiểu thuyết từ kết cấu của câu chuyên đến nhân vật và tất cả tình tiết đều là bịa đặt, cho dù một vài chi tiết có dựa vào hiện thực đi nữa. Nếu không phải là hoàn toàn hư cấu thì tiểu thuyết sẽ trở thành một bài phóng sư. Về phía người đọc cũng có một thái độ khác nhau khi đọc một bài phóng sự và một tiểu thuyết. Người đọc thích đọc tiểu thuyết hư cấu vì chánh họ yêu thích sự bịa đặt. Bịa đặt làm cho con người khoái cảm hơn sự thực, nó kích thích cảm giác và đưa con người bay bổng vào vòm trời mơ ước mà hiện thực của cuộc đời không đem lại cho họ được. Chánh vì nhu cầu này mà các chuyện chưởng hư cấu của Kim Dung đã làm say mê không biết bao nhiêu triệu người đọc khắp các quốc gia miền đông và đông nam châu Á.
Ngoài văn bản, một nền văn học còn bao gồm các tác phẩm thuộc các loại hình văn học khác như âm nhạc, hội họa, điêu khắc, ca kịch, điện ảnh.v.v…và được gọi chung là nền văn học nghệ thuật của một dân tộc. Nền văn học nghệ thuật nói chung phải là tấm gương phản chiếu hình ảnh sống động của cuộc đời và giúp cho cuộc đời bớt khô cằn, buồn tẻ. Văn học nghệ thuật phải mang đến cho con người niềm vui và tiếng cười để quên đi đau buồn và nước mắt trong cuộc sống. Văn học nghệ thuật giúp con người biết nghi ngờ, biết tin tưởng cũng như biết nhìn đời sâu sắc hơn, lọc lõi, từng trải hơn nhờ vào những kinh nghiệm sống của các tác giả ghi lại trong những tác phẩm văn chương. Văn học nghệ thuật cũng làm cho mỗi sự kiện trong cuộc sống như có ý nghĩa hơn, những vật vô tri giác bỗng nhiên như có hồn: “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Không những thế, văn học nghệ thuật còn là niềm vui lớn có tác dụng mở rộng tâm hồn, tạo nên muôn ngàn nối kết ta với người và ngưòi với thế giới chung quanh. Văn học nghệ thuật giúp con người vượt qua những hạn chế của không gian, thời gian để bước qua ngưỡng cửa của bao nhiêu cuộc đời khác, cùng vui buồn, cùng ước mơ, hoặc cùng khổ đau với niềm đau chung của tập thể hay cùng vững tin vào niềm tự hào của dân tộc. Qua tác phẩm nghệ thuật, con người như được giải thoát khỏi mọi ràng buộc của cuộc sống giới hạn để
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu tán Phá vòng vây bạn với kim ô…
Tóm lại, văn học nghệ thuật giúp con người đi được giữa ước mơ và hiện thực, nâng hiện thực lên ngang tầm với mơ ước, kéo mơ ước trở về với hiện thực. Nhờ phối hợp ước mơ với hiện thực, văn học nghệ thuật giúp đẩy lùi mãi những giới hạn trong cuộc sống, và giúp mở rộng đến vô cùng những ước vọng và khả năng vươn tới của con người. Và đó chánh là sự đóng góp của văn học vào việc bảo tồn và phát triển nền văn hoá dân tộc.
Hải Phương Guốc con gái bước vui hè phố xưa Rũ em chiều xuống phố chơi ly cà phê đợi giọt rơi đêm dài. Rũ em xuống phố sớm mai áo con gái mỏng nắng cài gió thưa. Rũ em chiều xuống phố xưa mái hiên chờ tạnh cơn mưa thì về. Rũ em ngày xuống phố nghe guốc con gái bước vui hè phố xưa.
Liềm trăng đôi guốc gỗ qua cầu Bữa hôm trước trăng khuya về trú ngụ phiêu bồng đêm nhú nụ mái hiên em miếng môi đắng phủ phê cơn mê thiếp thềm đá xanh rung nhẹ ngũ âm mềm bờ vai mỏng lênh đênh treo chiếc võng ta đong đưa trí nhớ sớm mai thèm bữa hôm trước bữa hôm qua và buổi đó bữa hôm nay là bữa nọ theo về mấy bữa nữa là bữa kia xếp lại sớm hôm em là nếp gấp rộng rinh lề. Buổi đó là bữa hôm nay ghép lại mép tồn sinh mấy bận mở ra nhìn phần đời lạ tro than thời thạch động nét son ngời ngói gạch mắt môi em Bữa hôm nay trăng treo trên đỉnh núi thôi non ơi non ở với cây cùng tầng đá biết bước chân tìm bữa nọ em khuya lơ rây nhẹ lớp sương rừng mây trầm tích dòng phù vân ẩn dụ cho dẫu sau xưa đá nổi nhánh rong chìm con sông ấy xa nguồn ngơ ngẩn nhớ. Bữa hôm mai là bữa hôm nay chưa tới mưa lưu vong cuồng lũ nhánh quê nhà trăng cổ tích xói mòn thềm ký ức ta lang thang du mục một đời em đôi guốc gỗ qua cầu khua bước nhẹ thế kỷ sau chan chứa cõi đi về. Buổi bắt đầu là buổi sau cùng bữa trước chiều xuống phố qua cầu đôi guốc gỗ gõ nhịp vang rền thế kỷ em cũng đủ thơ ta rịn mùi vô thức cũng đủ liềm trăng lơ lửng mái hiên thềm.
Nhánh sông bữa trước trôi buồn dòng xưa Rũ em chiều xuống phố chơi rốn phơi thế sự ngực cời càn khôn chân đi hiu quạnh ngữ ngôn dấu hưng phế mở cửa hồn rụng rơi. Rũ rê em hát trên đồi bỏ quên dưới biển chỗ ngồi tiền thân rũ ra rũ rã trời gần đất se dấu bụi phong trần dặm tuôn. Rũ ra rũ rã cội nguồn nhánh sông buổi trước trôi buồn dòng xưa.
Trần Vấn Lẹ Thư riêng Bác đi trong lúc tuổi già (*) Cũng vui Bác nhỉ! Coi là cũng vui! Nói chao ôi! Khóc hay cười? Còn chung trà cũ, mất người ngày xưa…
Ngày xưa..Đà Lạt, trời mưa Bác mời tôi đọc bài thơ mới làm Tôi khen, Bác mặt rỡ ràng Tay nâng quản bút ký ngang một đường:
“Tôi làm thơ tặng người thương Anh trong tiếng gọi từ hồn tôi vang Ngày xưa Giả Đảo lỡ làng Nay tôi có bạn một bàn ngồi chung!”
Ba mươi năm trước, mịt mùng Ba mươi năm, nhớ, tôi rùng mình, đau Bác đi rồi? Bác đi sao? Tôi không tin, lệ cứ trào, tự nhiên!
Bác Triếp à, Bác hãy quên Tôi đi xa lắm, còn trên xứ người Bác đi, nhang đốt cho Trời Tôi tay bụm mặt, nhớ rồi… có quên?
“Viết cho người bức thư riêng Gửi đi, ai nhận, tôi bèn xé thôi! Còn nhau, cuối biển đầu trời Mất nhau trong cái tuyệt vời Âm Dương!”
——————— (*) Việt Trang là bút hiệu của ông Phạm Gia Triếp, nguyên Ty Trưởng Thông Tin Đà Lạt suốt thời Đệ Nhất Cộng Hòa, sau cuộc đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ được làm Phó cho tới 3-1975. Ông rất thanh liêm, đi bộ hay xe đạp đi làm công chức. Ông có nhiều Thơ viết về Đà Lạt và bè bạn, Thơ Ông có đăng trên báo Thế Kỷ 21 và Người Việt tại Mỹ. Thỉnh thoảng thấy thơ Ông có treo ở quánthơ.net. Ông mất tại Đà Lạt ngày 24-7-2010. Trong số hơn mười người con của Ông, có ba đứa từng là học trò của tôi
Ngô Nguyên Nghiễm Sơn Khê Trắng mắt nhìn ra trời viễn xứ Màn đêm lồng lộng kín chân mây Ráng xa có cố mong manh thở Cũng đỏ mơ hồ một khóm cây
Như bếp mùa đông nhen nhúm khói Tro than tàn lụn thật vô tình Nếu không đứng dưới trời giông bão Đâu nghĩ ra mình ngọn cỏ hoang
Dửng dưng xuôi ngược đường nhân thế Chiếc lá nào bay quá ngẩn ngơ Mấy đợt sơn ca rung rúc gáy Gọi người nghiêng ngửa kiếp xơ rơ
Ai muốn im lìm trong định số Mặc tình con nước đuổi xô về Cầm bằng một cánh phù dung nở Hốc đá hoang tàn không khách qua
Mấy phen cố dựng trên sơn đỉnh Thạch bản lung linh dưới nắng chiều Soi mỗi đời người một bản vỗ Bản nào phong thổ giống ta đâu?
Bởi suốt tháng năm đầy tiếng trống Giục vào tiềm thức chút hư không Đáy lòng nhè nhẹ xoay con trốt Bay thẳng ra ngoài giấc mộng trung
Thế giới trong ta không cửa đóng Khói mây mù mịt góc vườn xưa Những đêm thức giấc như trong mộng Thản thốt canh tàn rụng gió mưa
Tai vẫn lắng nghe từng điệu nhạc Mơ hồ ngọn cỏ lớn theo trăng Lần theo gậy trúc lùa sương gió Sương gió lùa ta không nói năng
Thản nhiên rũ áo giang hồ bạc Cát bụi ra hoa lạnh bốn bề Ai sống âm thầm trong xó tối Mà không heo hút bóng sơn khê?
Ngơ ngác bước trên bờ núi nhỏ Nhìn quanh rờn rợn nét phong ba Ai xô ta xuống giòng sông lạnh Lãnh khí soi vào giữa giấc mơ
Hôm nay sóng nước về tăm tắp Cổ thụ nằm ven con bến trưa Lặng đứng chờ qua năm bảy kiếp Vẫn chưa thấy được bóng chim xưa
Ngàn sau sử chép rằng cô khách Đập nát cây đàn dưới miễu hoang Ôm đá lạnh lùng lên chót núi Hú dài theo tiếng đá lăn nhanh.
Đàm Trung Pháp “CHÂN DUNG” CỦA MỘT HỌC VIÊN NGOẠI NGỮ HỮU HIỆU
Sau nhiều năm quan sát, ghi nhận và chia xẻ, giới nhà giáo ngôn ngữ chúng tôi đã có thể phác họa ra “chân dung” của một học viên ngoại ngữ hữu hiệu qua một số đặc trưng. Tôi xin giải thích về những đặc trưng đó để quý bạn đọc nào đang học ngoại ngữ tự lượng giá, và nếu thấy mình thiếu hụt thì có thể làm thêm được những gì để có thể thành công hơn trong nỗ lực ấy. Vì chúng ta đang sống tại Hoa Kỳ, tôi xin đưa ra những thí dụ bằng tiếng Anh trong bài viết này. Dưới đây là “chân dung” của một học viên ngoại ngữ hữu hiệu, qua các đặc trưng được mô tả vắn tắt cùng với các thí dụ liên hệ làm sáng tỏ vấn đề. Người học viên ấy: Sẵn sàng đoán ý nghĩa của một chữ mới gặp lần đầu, căn cứ vào ngữ cảnh (context) của chữ mới ấy. Điều này rất hữu lý, vì đâu có phải lúc nào học viên cũng có tự điển trong tay? Khi nghe hoặc đọc một đoạn đề cập đến một “obese man” nặng trên 300 pounds đang thở hổn hển leo cầu thang, thì học viên đoán được ngay ý nghĩa của chữ “obese” phải là “mập phì” rồi. Sau đó khi có thì giờ, người học viên sẽ tra tự điển để phối kiểm ý nghĩa, cách phát âm, cũng như chính tả của chữ “obese”cho chắc ăn. Luôn luôn tìm kiếm cơ hội đàm thoại với người bản xứ và “coi như pha” những lỗi lầm về phát âm hoặc văn phạm của mình. Đành rằng lối phát âm tiếng Anh lôi thôi lắm, văn phạm cũng phiền hà nữa, nhưng nếu cứ e ngại sợ người Mỹ cười thì chẳng bao giờ dám phát ngôn, chẳng bao giờ nói được tiếng Anh! Không ai có thể chinh phục được một ngoại ngữ mà không phạm lỗi phát âm cũng như lỗi văn phạm nhiều lần trong khi học tập. Sự nhút nhát này rất tai hại, vì nó sẽ cho phép các lỗi ấy ngủ yên và cuối cùng biến chúng thành chai đá (fossilized) vô phương sửa chữa sau này. Người học ngoại ngữ hữu hiệu thường là những cá nhân có tính tình cởi mở, thân thiện, thích nói chuyện, và có cảm tình với ngoại văn, ngoại ngữ nói chung. Họ cũng không bao giờ bị trằn trọc, áy náy suốt đêm vì ban ngày họ đã phạm các lỗi phát âm hoặc văn phạm tiếng Anh! Tận dụng mọi cơ hội để thực tập các chức năng ngôn ngữ (language functions) đã học được nhưng dùng chưa nhuyễn, trong cả hai lãnh vực nói và viết. Mỗi chức năng ngôn ngữ là một phương tiện để truyền thông và có một cấu trúc và từ vựng đặc thù. Thí dụ như chức năng “tạ lỗi” thường dùng động từ “apologize for” cho cái hành động mà nay mình hối hận, được diễn tả bằng mô thức [having + past participle của động từ đã gây ra hành động đáng tiếc ấy] như trong câu “I apologize for having ignored you at the party last week.” Quả thực, mức thông thạo (proficiency level) về một ngoại ngữ của một cá nhân có thể được đánh giá qua tổng số các chức năng mà người ấy đã thủ đắc được trong ngoại ngữ ấy. Thực tập cách phát âm những chữ khó sau khi đã nghe người bản xứ, nhất là các chữ chứa đựng những âm vị (phonemes) không có trong tiếng mẹ đẻ của mình (như “think”, “judge”, “church”), hoặc các chữ mà âm tiết nhấn mạnh (stressed syllable) nằm trong vị trí bất thường (như “melancholy” và “industry” đều được nhấn mạnh ở âm tiết đầu tiên). Sự thực tập phát âm này có thể âm thầm, có thể lớn tiếng. Nỗ lực này thực tế lắm, vì người Mỹ thường không hiểu chúng ta khi chúng ta phát âm trật một âm vị trong chữ hoặc nhấn mạnh trật âm tiết trong một chữ. Lắng nghe lối nói người bản xứ để học hỏi cách phát âm, cách dùng chức năng ngôn ngữ, và nhất là cách dùng những đặc ngữ (idioms) như trong các câu “Mary went through the roof when she heard she had been fired” hoặc “We only see them once in a blue moon.” Vì ý nghĩa của các đặc ngữ “go through the roof” (nổi cơn tam bành) và “once in a blue moon” (năm thì mười họa) rất khó đoán trúng, học viên phải hiểu cho rõ bằng cách lưu ý chúng rồi tra cứu ý nghĩa qua tự điển hoặc nhờ người bản xứ giúp đỡ. Để ý đến những sắc thái tế nhị của ý nghĩa trong từ vựng và cú pháp. Thí dụ, người Mỹ thường không muốn dùng động từ “die” nghe quá phũ phàng, cho nên họ dùng những chữ thanh lịch hơn như “pass away” hoặc “depart.” Cú pháp cũng cho thấy thái độ của người sử dụng là lịch lãm hay cọc cằn, chẳng hạn như sự khác biệt giữa câu “Would you mind closing the window?” và “Close the window!” Chú trọng đến hình thức của ngoại ngữ đang học hỏi, nào là viết chữ cho đúng chính tả (spelling), nào là chấm câu (punctuation) cho chỉnh, nào là chia động từ (conjugation) cho phân minh, vân vân. Nỗ lực này đòi hỏi sự chú tâm quan sát, ghi nhận, và thực tập đều đặn, vì tiếng Anh không phải là thứ tiếng dễ viết dựa vào lối “đánh vần” (hai chữ “key” và “quay” cùng phát âm như nhau), vì quy luật chấm câu trong tiếng Anh rất chặt chẽ (nếu không cẩn thận với dấu phết, người viết sẽ phạm vào các “trọng tội” như “comma splices” hoặc “run-on sentences”), và vì tiếng Anh có hàng trăm động từ bất quy tắc (sắp xếp theo mẫu tự từ “arise/arose/arisen” đến “wind/wound/wound”). Đây là lối tiếp thu văn phạm nghiêm chỉnh của một cá nhân học ngoại ngữ hữu hiệu để dẫn đến mức thông thạo hàn lâm (academic proficiency). Không bứt rứt vì chưa hiểu rõ một cấu trúc nào đó của ngoại ngữ mình đang học hỏi, mà kiên nhẫn chờ đợi trong khi tìm hiểu thêm và chấp nhận đó là một phần tự nhiên của tiến trình học hỏi. Câu “Had John studied harder, he might have passed that tough exam” chắc chắn từng làm nhiều học viên tiếng Anh thắc mắc vì cấu trúc khác thường của nó. Hiển nhiên, cấu trúc này rất cần được tìm hiểu và thủ đắc vì nó diễn tả một sự giả dụ trái với sự thực trong quá khứ, đồng nghĩa với “If John had studied harder, he might have passed that tough exam.” Sự thực là John đã chẳng học chăm hơn tí nào và chàng đã rớt kỳ thi khó khăn đó rồi. Dùng kiến thức tiếng mẹ đẻ để hiểu thêm về ngoại ngữ đang học. Người Việt chúng ta không may mắn bằng những người nói tiếng Tây Ban Nha khi học tiếng Anh, vì giữa tiếng Việt và tiếng Anh không hề có những chữ cùng gốc (cognates), nhưng cả chục ngàn những chữ cùng gốc đó tồn tại giữa tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Vì vậy người Mễ Tây Cơ sẽ hiểu ngay câu tiếng Anh sau đây chứa đựng vài chữ lạ lùng, khó đoán nghĩa cho người Việt chúng ta: “A coward osculated a taciturn damsel.” Trong khi người Việt thấy các chữ “coward, osculated, taciturn, damsel” lạ hoắc thì người Mễ hiểu chúng ngay rồi, vì “coward” cùng gốc với “cobarde” (kẻ hèn nhát), “osculated” cùng gốc với danh từ “ósculo” (nụ hôn), “taciturn” cùng gốc với “taciturna” (lầm lỳ), và “damsel” cùng gốc với “damisela” (thiếu nữ). Về cú pháp, người học viên hữu hiệu sẽ lưu ý tới những nét khác biệt đáng kể giữa ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ đang học hỏi, qua tiến trình “nâng cao ý thức” (consciousness-raising) để không phạm vào các lỗi lầm do sự “nhiễu nhương” (interference) – tức là không để cú pháp ngôn ngữ mẹ đẻ ảnh hưởng tiêu cực đến cú pháp ngôn ngữ đang học. Chẳng hạn, khi một câu phức tạp tiếng Việt bắt đầu bằng mệnh đề phụ sử dụng một trong các liên từ “vì/tuy/nếu” thì mệnh đề chính thường bắt đầu bằng một trong các “từ quân bình” (balance words) “nên/nhưng/thì” như trong các thí dụ sau đây: (1a) Vì nó kiêu ngạo, nên nó không có bạn. (2a) Tuy họ nghèo, nhưng họ rất hạnh phúc. (3a) Nếu anh yêu tôi, thì anh phải cưới tôi ngay! Nếu vô tình để khía cạnh cú pháp này của tiếng Việt ảnh hưởng lối viết tiếng Anh, chúng ta sẽ viết ra các câu bất cập sau đây: (1b) Because he is arrogant, so he has no friends. (2b) Although they are poor, but they are very happy. (3b) If you love me, then you must marry me at once! Người học viên hữu hiệu sẽ tinh ý dẹp bỏ ngay các “từ quân bình” không cần thiết “so/but/then” trong các câu (1b), (2b), và (3b).
Trần Yên Thảo Lỗi nhịp Sông đi hụt hẫng giang đầu buổi hồng hoang lỡ bắc cầu vô chung ta từ mộng mị lung tung nhịp Nam Kha rớt vào cung Nghê Thường.
Soi gương thấy giặc Sơn khê phá vỡ mạch nguồn từ khi khói bếp rẫy ruồng nồi niêu vỏ sò chứa chấp ruột nghêu đường tơ kẽ tóc đã phiêu dạt rồi.
Chiếu trăng Tiếng cười xé lụa đầu non tan trong vô lượng hãy còn vọng âm mảnh trăng tơ rọi chiếu nằm chưa nghe đá nói ngàn năm còn chờ.
Hành tinh không Thái dương Sãi tay nằm giữa hai bờ con giun độn đất qua gò Kim Sa một ngày trên xác thân ta dường như trái đất quay ba bốn vòng.
Bên đường Ghé qua trái đất tìm em hay ra phần số đã lem luốc rồi bên đường ghé tạm chiều ngồi ngắm son phấn cũng đã đời mắt xanh.
Mộng Trang Sinh Cựa mình, hạt bụi chơi rong hóa thân con bướm vờ trông nhau cười mang râu đội mũ về đời nằm mơ chung giấc với người đang mơ.
Cuộc chơi chiến quốc Người Chiến Quốc đã già nua đơn thân múa gậy trong mưa chờ thời gầy sòng tái diễn cuộc chơi mặc cho sông núi qua đời đã lâu.
Lặng thinh cát đá Chớp đôi cánh mỏng vàng hoe giữa rừng thu, một tiếng ve lạc đề lời phàm ý thánh vụng về lâu nay cát đá chưa hề bận tâm.
Hạt bụi Cá nằm trên cạn chờ mưa Vũ môn đã quá còn chưa thành rồng ngờ thương em bậu khóc ròng hóa ra hạt bụi giữa tròng con ngươi.
Canh bạc dương gian Trận cười lem lấm bi hài vui chơi cốt chỉ một vài canh thua rùng mình, cắn phải khế chua tôi khoanh tay lại, kính thưa loài người.
Cát sông và dấu rùa Sông trôi lắp kín Hà đồ gió vi vút cuốn mịt mờ Thái hư Rùa bò, xóa dấu Lạc thư trong mong quạnh ấy dường như có người.
Nụ cười đắc đạo Chuồn chuồn lượn bến sông đầy bung thùa kẽ tóc bỏ ngoài chân tơ sóng khoan nhặt, chèo bâng quơ nhà sư đắc đạo lẳng lơ cười tình.
Cái Trọng Ty Em về Phan Lý Chàm một ngày qua sông Lũy đền xưa vương quốc Chàm dấu mờ bụi thời gian những mùa khô úa tàn xa nhau cùng khổ nạn gặp lại em ngậm ngùi đường về quê thăm thẳm trong mắt Hời xa xăm em về Phan Lý Chàm mắt một trời tháp cỗ chút lửa tình hiu hắt cùng lạc mất quê nhà anh qua đây gặp em nghe tiếng rừng tuyệt vọng nghe hồn xưa Cổ Lũy bạc đời bóng tà huy đồng chiều mùa nước dậy đi suốt cõi lưu đày những phận người thê thảm nhìn mưa giọt lệ rơi mây tầng bay lờ lững chiều đã khuất sau rừng một thời nơi quan ải gọi nắng buồn qua sông Theo gió mùa phai tôi ngồi bên sông quán chiều ẩm ướt cầu lênh đênh mờ khuất một ngày mưa em về muộn xe lăn tròn bọt nước gió thổi áo em bay mưa dài lụa bạch em co ro ướt sũng môi mềm mưa chiều ấm ngọt phượng bên đường theo nước về đâu em là gió tà tà bay quấn quýt là ngất ngây từ đôi mắt kiêu kỳ là cháy ngầm sóng về trên mắt biếc ở trong mơ xa anh phạm tội trước dung nhan chiều qua đây tình cờ gặp lại chợt bàng hoàng dáng lụa chiều xưa hạ xuân lan cung đình một thuở màu kiêu sa nhan sắc từ trời
chút sắc hòa hoàng bay nhẹ về tháp nắng nghe ngậm ngùi mất mát bóng trăng trôi nghe gợn chút tình bâng khuâng sóng vỗ mà áo lụa mùa phai đã thu qua hàng mù u vẫn một đời lăn mãi những trái buồn rớt lại đêm mưa nắng nhuộm cho vừa màu chiều trong mắt giữa tàn xanh màu nắng rớt lạnh lùng chiều xa lắm em về mang nắng xoáy mà say mềm môi thiếu phụ hôn mê.
Lưu Nguyễn Từ Thức Cổ lai hy Thoắt đó mà đã cổ lai hi Nhìn đời thêm thẹn tiếng tu mi Trăm năm hư ảo vầng mây trắng Sẽ để lại gì lúc ra đi?
Mỗi độ Đông về cây trụi lá Tuổi đời thêm nặng gánh quan hà Giấc mộng trị bình thời trai trẻ Còn đây tóc bạc đượm sương pha.
Bao năm ấp ủ lo mài kiếm Nào hay xã tắc đến đường cùng Đêm đêm xứ lạ nhìn trăng khuyết Mơ những đường gươm giữa muôn trùng.
Ngày tháng qua lá úa trôi sông Trầm luân chìm nổi kiếp bềnh bồng Đường về quê cũ xa thăm thẳm Bút mực cùn, hận nước mênh mông.
Ôm hận ngàn thu đời lang bạt Ngược thời gian ảo ảnh mù khơi Tìm lảng quên trăng chìm đáy cốc Thương cho thân phận lạc bước đời.
Đường trần quạnh quẻ trời ký ức Ai người chia sớt nỗi lòng nầy Bao nhiêu công sức rồi tay trắng Bỗng dưng thấy đời như bóng mây.
Bốn mươi năm cuộc đời tha hương Bảy mươi năm lạc chốn đoạn trường Ôm trọn niềm riêng sầu lắng đọng Ôi! đời người một kiếp vô thường!
Trần Trung Tá Bài thơ hai nửa Đã tháng Tám rồi. Hơn nửa năm. Thời gian không thấy chạy bằng chân, hình như giờ khắc đang bay lượn bứt lá vàng Thu rải xuống sân?
Đã tháng Tám rồi… nước ngập sông. Những cơn mưa lũ kéo ra đồng ngắm nhìn ai vậy quần trên gối. Một Việt Nam tôi khổ quá chừng!
Mộ Mẹ mồ Cha không khéo mất. Mưa tầm mưa tã, mưa mưa mưa… Áo tơi không phủ qua đầu được. Dông gió xé lòng đã đủ chưa?
Tháng Tám, giục tôi buồn nhắc nhớ quê nhà em vuốt mặt chiều hôm. Than cời, tro nguội, xanh um khói. Hai mắt cay sè. Em nấu cơm!
Tháng Tám ở đây, trời rất đẹp. Lá vàng báo hiệu đã mùa Thu. Có mưa phơ phất vài ba trộ không lạnh như xưa tôi ở tù…
Tháng Tám, mở ra tờ giấy mới, bài thơ tôi chứa nửa quê nhà, nửa còn lại chứa lòng xa xứ, nghe trái tim mình ai xẻ ba:
Một góc mồ Cha và mộ Mẹ, một phần em đó áo tơi mưa. Còn phần còn lại đang co thắt: tôi tuổi tàn rồi, em biết chưa?
Tháng Tám Ai xui mà lảm nhảm! Thơ nào hạt bụi, ý nào mây? Chùa xa chuông vọng nghe hồi sớm, đâu nụ bình minh hương phấn bay…
Trọng Đạt KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRONG VĂN NGHIỆP THẠCH LAM
Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Vinh sinh năm 1910 tại Hà Nội, là người con thứ sáu trong gia đình Nguyễn Tường. Ông bị bệnh lao mất tháng 6 năm 1942 tại một ngôi nhà tranh làng Yên Phụ cạnh Hồ Tây. Các tác phẩm gồm. 1-Ngày Mới, tiểu thuyết 1937 2-Gió Đầu Mùa, tập truyện ngắn 1937. 3-Nắng Trong Vườn, tập truyện ngắn 1938. 4-Theo Giòng, nghị luận văn chương, 1941. 5-Sợi Tóc, tập truyện ngắn, 1942. 6-Hà Nội 36 Phố Phường, tùy bút, 1943 Ở đây chúng tôi xin đề cập đại cương về những đặc điểm, những khuynh hướng chính trong văn nghiệp của Thạch Lam qua các truyện ngắn, truyện dài, tùy bút. . Chúng tôi thu về những điểm chính sau đây: Khuynh hướng Xã hội, Nhân bản, Hiện thực, Tâm lý, Bi kịch và một số khuynh hướng phụ khác. Tìm hiểu về những khuynh hướng này cho ta thấy một cái nhìn tổng quát về văn nghiệp của Thạch Lam. Trước hết xin nói về:
XÃ HỘI
Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, Thạch Lam cũng không nằm ngoài tôn chỉ chung của văn đoàn là soạn những cuốn sách có tư tưởng xã hội để làm cho con người và xã hội ngày một hay hơn lên, đa số các đề tài trong truyện ngắn, truyện dài của ông thuộc về khuynh hướng xã hội. Nhưng khác với Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo chủ trương cách mạng triệt để theo mới, đả phá đến tận gốc rễ nền tảng văn hoá phong tục cổ hủ, Thạch Lam với lối trình bầy thầm lặng tế nhị hơn khiến người ta có cảm tưởng như ông chỉ nhìn xã hội bằng cặp mắt khách quan không liên hệ gì với cuộc cách mạng xã hội mà những bậc đàn anh của ông đã đề xướng lên. Tôi đồng ý với ông Phạm Thế Ngũ về nhận xét Thạch Lam như một nhà văn có khuynh hướng xã hội song tôi không thể đồng ý với ông trong đoạn dưới đây. “Ông lấy làm nhân vật những người tầm thường trong xã hội. . . Ông thường để ý vạch vẽ cuộc đời của họ, những tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền trực tiếp hay gián tiếp tư tưởng cách mạng xã hội”. Trong truyện ngắn cũng như truyện dài, Thạch Lam hay mô tả kỹ lưỡng tâm lý và hoàn cảnh của những người nghèo nàn, địa vị thấp kém, mạt hạng trong xã hội hoặc những người cùng khổ, diễn tả những thảm cảnh của một giai cấp là đã gián tiếp cho người đọc chú ý đến thực trạng hoàn cảnh của họ cũng như để mong có một lối thoát nào đưa họ ra khỏi hoàn cảnh đó, chẳng lẽ chỉ tả tâm lý, xã hội để người đọc giải trí chơi cho vui thôi? Trong một số truyện ngắn của ông ta cũng thấy phảng phất cái không khí luận đề xã hội của Khái Hưng, Nhất Linh mặc dù không mạnh dạn nói ra như trong Một Đời Người (Gió Đầu Mùa) nói về hậu quả tai hại của hôn nhân gả ép, hoặc trong Hai Lần Chết (Gió Đầu Mùa) về sự gả bán con gái. Một Đời Người là truyện một cô gái (Liên) không lấy được người yêu (Tâm), vâng lời cha mẹ theo đúng cái hủ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy để lấy một người mà nàng không yêu (Tích) để rồi phải cắn răng cam chịu sống trong một địa ngục, người chồng vũ phu đánh đập nàng tơi tả, mẹ chồng cay nghiệt chửi rủa hành hạ nàng đủ điều. Bẩy năm sau gặp lại người yêu, chàng đổi vào Sài Gòn và rủ nàng trốn theo, bị chồng đánh đập tàn nhẫn nàng nhất quyết theo người yêu ra đi tìm tự do để rồi hôm sau lại đổi ý, nàng ẵm con ra sân ga tiễn người yêu lên xe hỏa vô Nam đem theo cái hy vọng cuối cùng của đời nàng, Liên nhìn hạnh phúc chạy ngang qua trước mắt mình trên chuyến xe lửa vô Nam, đạo đức luân lý đã không cho phép nàng bỏ chồng theo trai, nó chẳng khác nào như một sợi dây xiềng định mệnh buộc chặt lấy nàng để tiếp tục sống cuộc đời nô lệ. Hai Lần Chết là truyện một người con gái tên Dung, không được cha mẹ yêu thương, gia đình trước thuộc gốc quan lại nay nghèo nàn sa sút, Dung không được đi học, gầy gò ăn mặc lôi thôi đi đánh đáo với bọn trẻ nhà nghèo. Bà cụ buôn bán, Tết nhất anh chị có áo đẹp, Dung chỉ mặc quần áo cũ, lên mười sáu bà mẹ gả bán Dung cho một bà nhà giầu, tiền thách cưới rất lớn. Nhà chồng giầu có nhưng keo kiệt, bắt con dâu phải làm việc đồng áng, nhổ cỏ tát nước, đầu tắt mặt tối, chồng Dung loắt choắt cả ngày chỉ đi thả diều… Dung trốn về quê với mẹ nhưng bà mẹ chồng đến tận nơi bắt nàng phải trở về, Dung nhẩy xuống sông cho rảnh nợ đời, được cứu sống cô lại theo mẹ chồng về nhà tiếp tục cuộc đời lam lũ, lần này mới đích thực là chết, chết không ai cứu gỡ được. Cũng như trong Một Đời Người, tác giả cũng cho ta thấy cái xấu xa tàn nhẫn của tục gả bán và thân phận cay đắng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến mẹ chồng nàng dâu, thật chẳng khác nào như truyện Đoạn Tuyệt thu gọn lại. Trong Cô Hàng Xén, một cô gái xinh đẹp nổi tiếng cả một vùng một mình gánh hàng ra chợ bán, nàng vừa è cổ gánh vác giang sơn nhà chồng lại phải giúp cho các em ăn học, cuộc đời của nàng chỉ toàn là hy sinh gánh vác. Phải chăng ý nghĩa hy sinh cao đẹp của xã hội nho phong xa xưa lại đưa đến tấn bi kịch thân phận con người, một sự tương phản mâu thuẫn giữa ý nghĩa hy sinh cao đẹp của nền luân lý cổ và chủ nghĩa cá nhân về hạnh phúc con người. Trong các truyện ngắn, cũng như Nhất Linh, Thạch Lam hay đề cập đến thân phận người phụ nữ, có khác chăng nhân vật của Nhất Linh là những người trong các gia đình trưởng giả như bà thông, bà phán. Ở Thạch Lam là những người bình dân, hoặc nghèo khổ khốn cùng như Nhà Mẹ Lê, chị Sen. Trong Nhà Mẹ Lê, Đứa Con ta thấy tác giả đưa ra cái biên giới phân chia giai cấp: bọn cường hào và những người cùng khổ bị áp bức bóc lột. Bất công xã hội dưới ngòi bút Thạch Lam được diễn tả linh động tự nhiên nhưng cũng mang tính xây dựng như ở Nhất Linh, Hoàng Đạo: Trong Nhà Mẹ Lê cho thấy sự tàn bạo của bọn cường hào, và trong Đứa Con, tội ác bóc lột xương tủy người nghèo của bọn bất nhân như ông đã nói trong phần Lời Nói Đầu của truyện Gió Đầu Mùa. “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Trong phần đề tựa Gió Đầu Mùa Khái Hưng viết. “Rồi ta sẽ thấy trong những tác phẩm của Thạch Lam, rất nhiều nhân vật có cặp má phính và cái bụng xệ. Thạch Lam sẽ trút lên đầu họ hết cả sự căm tức, oán trách một xã hội trưởng giả, bất công, tàn ác đối với những người khốn khó đáng thương, mà Thạch Lam tha thiết bênh vực và an ủi”.
NHÂN BẢN
Văn chương Thạch Lam thể hiện tình thương bao la như tính công bằng bác ái Thiên Chúa Giáo, như lòng từ bi hỉ xả của Thích Ca Mâu Ni, hoặc dạt dào và rộng rãi bao la như tình yêu nhân loại, chẳng thế mà trong Lời nói đầu của Gió Đầu Mùa ông viết. “Trước ngọn gió đầu mùa, tôi cũng không khỏi ngăn được những cảm giác sâu xa và mới lạ. Tôi đem tâm nghĩ ngợi đến những cơn gió đột khởi ở lòng người. Tôi lại nghĩ đến những người nghèo khổ đang lầm than trong cái đói rét cả một đời, gió heo may sẽ làm cho họ buồn rầu lo sợ, vì mùa đông sắp tới, mùa đông giá lạnh và lầy lội phủ trên lưng họ cái màn lặng lẽ của sương mù và lòng tôi se lại, khi nghĩ rằng chỉ một chút âu yếm, một chút tình thương cũng đủ nâng đỡ an ủi những người khốn cùng ấy”. Vũ Bằng, một nhà văn tiền chiến sống cùng thời với Thạch Lam đã nhận xét như sau trong bài Thạch Lam, Một Nhà Văn Yêu Người Như Yêu Mình (Giao Điểm, Sài Gòn 1972) “Trong nhóm Phong Hóa, Ngày Nay, Hoàng Đạo là người lý thuyết, Nhất Linh là người thực hành, Khái Hưng là người đả phá nếp sống cũ để tiến tới một đời sống mới, tựu chung đều là thương người, yêu người cả, nhưng muốn nói đến một người tôn thờ nhân bản thực sự, một người thương yêu xót xa đồng bào từ tâm, can, tì, phế thương ra thì người ấy chính là Thạch Lam. . . . . . . . . . . . . . . Gió Đầu Mùa là bằng chứng cụ thể chứng tỏ điều tôi vừa nói.” Thực vậy tác phẩm đã được viết ra như một chút tình thương yêu để an ủi những kẻ lầm than đói rét trong cơn gió lạnh: Truyện Nhà Mẹ Lê như một chút tình thương cho thân phận những kẻ ngụ cư khốn cùng, truyện Đói thể hiện tấn bi kịch trong một gia đình nghèo nơi thành thị và thân phận người đàn bà bất hạnh vì thương chồng phải sa xuống hố sâu tội lỗi, truyện Người Lính Cũ khiến ta không khỏi bùi ngùi cảm thương cho những kẻ thất thời lỡ vận lâm vào bước đường cùng: Một người trước đây đi lính cho Tây từ lúc mới hai mươi, bốn năm làm bếp, có tiền, có cô đầm, cuộc đời huy hoàng, uống rượu, nhẩy đầm, sau mãn lính về nước, có ruộng nương nhưng bị mất mùa mấy năm, gia tài khánh kiệt, nay ho ra máu, thân tàn ma dại, vô gia cư, sống vất vưởng ở một cái quán bên đường. Một Cơn Giận, truyện một thầy ký chỉ vì trong một phút nóng giận sai lầm đã khiến cho anh phu xe tan nhà nát cửa, nhưng khi hồi tỉnh vô cùng hân hận anh đã đến nhà nạn nhân đền một số tiền lớn như để chuộc lại tội lỗi của mình, truyện như để diễn tả và ca ngợi tính bản thiện của con người. Trong Ngày Mới, cuốn tiểu thuyết duy nhất của ông và Bóng Người Xưa (Nắùng Trong Vườn) Thạch Lam dùng lối kết thúc happy-ending thể hiện ý nghĩa nhân bản của tác phẩm, hai truyện cùng môt đề tài người chồng tàn nhẫn phũ phàng với vợ, sau ân hận, khi tính bản thiện của con người sống lại, họ đã trở về với hạnh phúc gia đình, một thứ hạnh phúc tràn đầy tình nghĩa vợ chồng. Trong Tiếng Chim Kêu, một cậu chuyện nhẹ nhàng ngây ngô tưởng như vô nghĩa nhưng cũng là một tác phẩm của tình người, của kẻ ở trong căn phòng ấm cúng đối với những người lạnh lùng ngoài sương gió và ngay cả với loài chim muông nhỏ bé. Nhất là trong Gió Lạnh Đầu Mùa, tình người ấm áp như chiếc áo mùa đông đã này nở trong lòng hai đưa trẻ: Hai chị em Lan, Sơn mặc áo ấm ra chợ chơi với bọn trẻ nhà nghèo thấy Hiên con bé hàng xóm co ro bên cột quán mặc manh áo rách tả tơi bèn chạy về nhà lấy áo bông cũ đem cho nó mặc. Mẹ Lan thấy nhà Hiên nghèo khổ bèn cho mẹ nó mượn năm hào may áo. . . Tấm lòng chia sẻ ân cần của Thạch Lam đã vượt khỏi biên giới quốc gia và thể hiện một tình yêu nhân loại rộng rãi bao la trong Người Đầm (Nắng Trong Vườn): Tác giả gặp một bà đầm dễ thương nhã nhặn trong một rạp hát rồi đem lòng thương mến một người ngoại quốc có lòng nhân từ rộng rãi và tình cảm dạt dào, ông ao ước mọi người Pháp đều tốt như bà để hai giống người sẽ hiểu biết, thân nhau như anh em trong một nhà, một câu chuyện giản dị , sáng sủa tràn đầy tình yêu nhân loại rộng rãi bao la giữa các giống người trên trái đất này. Nhà phê bình Văn Giá đã nhận xét về nhân bản của Thạch Lam như sau. “Nhưng tạng Thạch lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, không có cái sức mạnh của những cú đánh, mà là tiếng lòng của sự chia sẻ ân cần mang vẻ đẹp của lòng bác ái, Cơ Đốc Giáo, trầm ẩn sâu xa vào từng kiếp phận nhỏ bé, thầm lặng là lòng say sưa cái Tuyêt Thiện, Tuyệt Mỹ”. Thạch Lam, Văn Chương Và Cái Đẹp, nhà xuất bản Hội Văn Hà Nội 1999.
HIỆN THỰC
Văn chương là phản ảnh của xã hội, con người cũng như tư tưởng tâm tình của họ, tự nó đã có giá trị hiện thực. Từ những truyện tiểu thuyết dã sử xa xưa hằng nghìn năm như Thủy Hử đã thể hiện cho ta thấy những sinh hoạt của xã hội như đình chùa, chợ búa, tâmtình, mưu mẹo của con người thời ấy. Thạch Lam luôn ca ngợi cái thực trong văn chương, ông cho rằng tiểu thuyết của Anh, Nga linh động như cuộc đời nhưng không thấy ông dẫn chứng những tác giả nào, những truyện nào gần với cuộc đời, với sự thực. Văn chương Nga hay Anh thế kỷ 19 chưa hẳn đã đi vào hiện thực nhưng đã gần với cuộc đời hơn các khuynh hướng luân lý hoặc lãng mạn như trong Chiến Tranh Và Hòa Bình (1869), Annna Karenine (1877) của Léon Tolstoi, tác giả đã làm sống lại thế giới quí tộc ông hoàng bà chúa đôi khi cả những cái giả dối của nó, để rồi hơn 20 năm sau với Ressurection (1899) ông đã chuyển dần sang địa hạt hiện thực để diễn tả những cảnh khốn cùng thê thảm của người dân Nga, những người bị trị dưới sự áp bức bóc lột của giai cấp quí tộc ăn trên ngồi chốc, chỉ trích nặng nề nền tư pháp, Giáo Hội, chế độ Nga Hoàng. . .nhưng cũng phải đợi gần nửa thế kỷ sau văn chương mới thực sự đi vào tả chân để diễn tả đầy đủ những khía cạnh của cuộc đời, của con người. Với Sông Don Thanh Bình một tác phẩm vĩ đại viết xong 1940, Sholokhov đã làm sống lại cuộc chiến đẫm máu giữa Hồng Quân và người Cosaques sông Don nổi dậy giành quyền tự chủ một cách tàn bạo. The Grapes of Wrathes của John Steibeck viết 1939 đã nói lên số phận cay đắng của những người nông dân bị truất hữu đất đai phải tha phương cầu thực dở sống dở chết tại miền đất hứa Cali và Giờ Thứ Hai Mươi Lăm của Gheorghiu viết 1950 đã phơi bầy cho ta thấy sự tàn phá khủng khiếp của nền văn minh cơ giới, nó đã hạ giá trị con người xuống hàng số không. Tả chân hiện thực của tiểu thuyết cận đại và hiện đại đã trở thành một tiêu chuẩn nghệ thuật quan trọng của văn chương trước sự thay đổi quan niệm của người thưởng thức, độc giả muốn được thấy cuộc đời, tâm tình con người gần gũi sống thực hơn, quan niệm của người làm nghệ thuật cũng từ đó mà thay đổi theo. Cảnh chiến trận được mô tả bằng những vẻ tuyệt đẹp như trong Chiến Tranh và Hòa Bình với những cụm khói xanh như khói lam chiều trên bãi cỏ non xanh rợn chân trời dưới bầu trời xanh thẳm nhưng với Sông Don Thanh Bình nó đã được Sholokhov tả chân bằng những nét sống thực qua hình ảnh những đường gươm của kỵ binh Cosaques hay của Hồng quân giáng từ trên xuống đầu kẻ địch vỡ làm đôi đánh “cóc” một tiếng , hoặc qua những cảnh chém giết tù binh man rợ. Chiến tranh phải được diễn tả tàn bạo phũ phàng mới đúng ý nghĩa của tả chân hiện thực. Không riêng văn chương các nghệ thuật khác như điện ảnh cũng đã chuyển dần sang tả chân hiện thực nhất là trong những thập niên 50, 60 trở lại đây, người Ý có khuynh hướng coi hiện thực là tiêu chuẩn quan trọng nhất của điện ảnh và bây giờ nhà đạo diễn Trung Hoa lục địa Trương Nghệ Mưu đã thành công rực rỡ với hai giải thưởng sư tử vàng Đại Hội điện ảnh Venice qua hai cuốn phim xã hội tả chân hiện thực: Thu Cúc Đi Kiện (1993) và Không Thiếu Đứa Nào (1999) . Trở lại Thạch Lam, qua các truyện ngắn truyện dài và cuốn nghị luận văn chương Theo Giòng của ông người đọc thấy tác giả chú trọng vào sự thật như tiêu chuẩn hàng đầu của văn chương nghệ thuật của ông vì thế ông đã có những nét khác biệt với Khái Hưng, Nhất Linh, các bậc đàn anh này thiên về luận đề và khuynh hướng lãng mạn, trong bài Nhìn Lại Những Quan Niệm Về Văn Học Của Thạch Lam Nguyễn Thành viết. “Mặc dù là người của Tự Lực Văn Đoàn mà khuynh hướng chung của nhóm là theo trào lưu lãng mạn, nhưng Thạch Lam lại rất gần với các nhà văn hiện thực tiêu biểu cùng thời, không chỉ thể hiện đậm nét trên nhiều tác phẩm mà còn trong quan niệm về văn chương”. Thạch Lam- Văn Chương Và Cái Đẹp, nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội 1994 Khái Hưng trong phần đề tựa cuốn Gió Đầu Mùa đã viết. “Thành thực, đó là đức tính không có không được của nhà văn. Ở Thạch Lam, sự thành thực lại trở nên sự can đảm. Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự thành thực (những đoạn tả trong truyện Ngày Mới)”. Ngày Mới là cuốn truyện dài duy nhất của Thạch Lam, cốt truyện lặng lẽ âm thầm và tẻ nhạt coi như không thành công so với Khái Hưng và Nhất Linh nhưng nó kéo lại được nhờ giá trị hiện thực, Thạch Lam có những nhận xét tế nhị sâu sắc. Những đoạn tả trong Ngày Mới mà Khái Hưng ca ngợi nếu tôi không lầm là những cảnh cùng túng của bọn dân nghèo thành thị, lối sống và tâm tình của họ trong thế giới tiểu thuyết của ông như những cảnh dười đây. -“Đằng chú thím Trường hình như dạo này cũng túng. Vừa hôm nọ, thím ấy có đến hỏi vay con” Nàng nói thêm “Nhưng con làm gì có tiền mà cho vay” Bà Phán cuời. -Vợ chồng nó thì kêu túng cả đời. Đi làm được ba chục bạc lương thì sao đủ. Hoặc Nghe mẹ nói đến tiền, Trường sực nhớ đến cái mục đích của mình khi về thăm nhà. Chờ lúc mọi người không ai để ý, chàng ra hiệu cho chị rồi đứng dậy bước ra cửa. Dung theo ra, Trường hỏi nhỏ: -Thế nào chị? Chị đã nói với mẹ hộ em chưa? Dung lắc đầu đáp: -Chưa, vì tôi biết hôm nọ mẹ cũng chả có. Tôi đã có hỏi vay riêng mấy người chị em bạn cho chú, nhưng không được”. Và những đoạn tả chân dưới đây cho ta thấy nhận xét của Thạch lam rất tinh tế có vẻ trội hơn các cây viết khác trong văn đoàn. “-Anh đưa tiền cho tôi, còn cho em nó mượn bây giờ. Xuân lẳng lặng thò tay vào túi áo lấy tập giấy bạc. Chàng đếm riêng ra một tập, bỏ chỗ còn lại vào túi, rồi để tập bạc trên bàn, trước mắt Trường. Bà Phán với tay cầm lấy, ngửng nhìn hỏi Xuân: -Chỗ này là bao nhiêu đây? -Hơn ba chục. Bà Phán để tập giấy bạc xuống bàn dịu dàng nói: -Anh đưa thế này sao đủ tiêu. Tiền nhà, tiền ăn, trăm thứ đều trông vào anh cả, mà chừng này thì sao đu”û. Và những đoạn còn độc đáo hơn nữa như. “-Anh chỉ biết nghĩ đến anh thôi. Vợ con anh ở nhà không nhìn gì đến, con anh nó ốm anh cũng mặc, chỉ đi chơi bời suốt ngày đêm, rồi đem tiền cung phụng cho người khác. Anh không biết mấy tháng nay tôi đâm công mắc nợ bao nhiêu. Nhưng anh cần gì. Xuân vung tay giận dữ, bước tới cửa, quay lại đáp. -Ồ, bà nói tôi khó chịu lắm. Không để cho người ta yên một chút nữa! Chàng sập cửa đánh sầm một cái, bước vội ra ngoài.” Trong cuốn Theo Giòng, Thạch Lam nói sự thành thật là then chốt của người nghệ sĩ, nó là yếu tố quan trọng cho sự thành công của tác phẩm, quan sát tỉ mỉ chân thật đóng vai trò then chốt trong sự sáng tác của Thạch Lam mà các cây bút khác ít ai có được như trong Cô Hang Xén, một nhân vật điển hình của xã hội nho phong đang lúc suy tàn, cái xã hội đã đặt hết cả mọi hy sinh gánh vác trên đôi vai nhỏ bé của Tâm, nàng vừa è cổ gánh vác giang sơn nhà
chồng lại phải giúp đỡ các em ăn học, lén lút gửi tiền về cho cha mẹ. Nhưng cái nền nếp nho phong cao đẹp ấy dưới cái nhìn của chủ nghĩa cá nhân ngày nay chỉ là sự ngược đời vì nó vi phạm quyền sống của con người. Tả một đôi vợ chồng cường hào gian ác chuyên nghề cho vay lãi nặng, những nhân vật quái đản của xã hội dưới ngòi bút của Thạch Lam có những nét độc đáo khác thường, thành quả của những nhận xét tinh vi tế nhị mà ít ai có. “Hai vợ chồng ông Cả trước kia cũng nghèo hèn, sau nhờ cho vay lãi, lãi rất nặng, mà trở nên giầu có. Nhưng bà kiệt ác lắm. Một tay bà Cả đã tịch ký không biết bao nhiêu ruộng nương của người ở trong vùng. Những người vay nợ, bà bắt phải biếu xén, nên trong nhà bà lúc nào cũng có gà vịt, gạo hay chân giò. Nhưng hai ông bà hà tiện không dám ăn, gà vịt đem bán ở chợ, còn chân giò phơi khô để dành. Bữa cơm chỉ có một ít vừng rang thật mặn, một ít thịt kho dim và một đĩa rau”. Ông bà không có co người ta thường bảo “không biết kiệt như thế rồi giữ của để cho ai” Những mẫu người gian ác keo kiệt độc đáo nhất của xã hội mà chúng ta có cảm tưởng như chỉ có một mình Thạch Lam khám phá ra được. Trong sáng tác cũng như những bài tiểu luận văn chương (Theo Giòng) Thạch Lam thường nhấn mạnh đến tiêu chuẩn hiện thực như một yếu tố quan trọng hàng đầu của giá trị văn chương tác phẩm. “Một nhà văn không thành thực, không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị.” Hoặc “Sự thành thật mới là cái then chốt của nhà nghệ sĩ: muốn viết một tác phẩm bất hủ mà giá trị không theo thời, ta phải để hết nỗi rung động trong tác phẩm đó.” Trong bài Nhìn Lại Những Quan Niệm Về Văn Học Của Thạch Lam (Văn Chương Và cái Đẹp), Nguyễn Thành viết. “Như vậy, có thể khẳng định rằng, tính chân thật của nghệ sĩ và cá tính chân thật của văn học được Thạch Lam coi như một vai trò quan trọng, quyết định giá trị của tác phẩm.”
TÂM LÝ
Dostoievsky (1821-1881), nhà văn hào Nga thế kỷ 19 đã đưa lối tả tâm trạng nhân vật tới tận cùng trong toàn bộ văn nghiệp của ông nhưi Tội Ác Và Hình Phạt (Crime et Châtiment 1866), Thằng Ngốc (1868), Anh Em Nhà Karamazov (1880). . . Mới đầu ông bị dư luận các nhà phê bình đương thời chỉ trích dữ dội, Léon Tolstoi cho tác phẩm của ông không thực chút nào, George Moore nói đó chỉ là những vở cải lương rẻ tiền pha chút mắm muối tâm lý (a cheap melodramatic novelist with psychological sauce) nhưng sau này và cho tới bây giờ, các thế hệ kế tiếp đã nghiên cứu văn chương Dostoievsky và đã ca ngợi ông không tiếc lời, nhiều người đánh giá ông là nhà văn hào vĩ đại nhất thế giới từ trước tới nay, nhưng trên thực tế tác phẩm của ông ít người đọc và cũng ít người hiểu được ông. Ở đây tôi không luận bàn về giá trị văn chương Dostoievsky mà chỉ đề cập đến ông như một trong những nhà tiểu thuyết gia đi tiên phong trong lãnh vực hướng nội, mô tả tỉ mỉ những trạng thái tâm lý của con người, ông đã ảnh hưởng rất nhiều trên văn đàn thế giới trên địa hạt tâm lý này. Tự Lực văn đoàn đã chịu ảnh hưởng Dostoievsky trong đó Thạch lam chịu nhiều nhất, trong cuốn Theo Giòng ông đã từng ca ngợi Dostoievsky, nhà văn hào cổ điển Nga này là tiểu thuyết gia hay nhất của thế kỷvà trên hoàn cầu. Qua các tác phẩm cũng như các bài nghị luận văn chương, ông đặt tả tâm trạng vào tiêu chuẩn hàng đầu cùng với hiện thực như đã trình bầy ở phần trên. Ông quan niệm nhà văn phải nhìn sâu vào tâm hồn mình để tìm những tính tình cảm giác thành thực, nhà văn phải suy xét tâm hồn mình rồi mới hiểu tâm trạng những người khác, trở về với chính tâm trạng của nhà văn mới chính là phản ảnh trung thực của tâm hồn, của cuộc đời. Ngay cả khi đứng trước cành hoa đào nở rực rỡ, một cành tre trước gió người nghệ sĩ cũng phải thấy được cả những tâm hồn của cỏ cây, hoa lá. “Khi thấy các lá tre gió thổi vút một chiều, tôi cảm thấy một vang động âm thầm và kín đáo trong tâm hồn. Hình như một cảm giác gì thanh thoát và lạnh lẽo, một cái gì vừa cứng cỏi lại vừa chua sót, vừa tha thiết lại vừa lãnh đạm”
THEO GIÒNG
Nhiều nhà phê bình về Thạch lam đã đồng ý trên quan điểm ông có những nét độc đáo riêng so với Khái Hưng, Nhất Linh, tôi cho là ở kỹ thuật tả tâm trạng mà ông xếp vào sự quan trọng hàng đầu, thật vậy Khái Hưng cũng chịu ảnh hưởng của Dostoievsky như trong Hồn Bướm Mơ Tiên đã diễn tả sự phấn đấu bên trong nội tâm một cô gái trẻ đẹp xuất gia thoát tục hay đúng hơn một cơn bão lòng , sự tranh đấu giữa tình yêu và lòng mộ đạo, Nhất Linh trong Đôi Bạn cũng chú trọng về hướng nội và sau này trong Xóm Cầu Mới. Nhưng khuynh hướng lãnh mạn của Khái Hưng và Nhất Linh bao giờ cũng nổi bật lên và ngược lại Thạch Lam có con đường đi riêng của mình, đối với ông hướng nội là tiêu chuẩn quyết định cho tác phẩm nghệ thuật vì vậy màvăn chương của ông, truyện ngắn truyện dài đều được sáng tác trong vòng ảnh hưởng nặng nề của kỹ thuật tả tâm trạng con người. Trong Sợi Tóc, truyện một anh chàng bị một cái ví tiền cám dỗ chỉ trong tích tắc là anh phạm tội ăn cắp, Thạch Lam đã dẫn dắt ta đi sâu vào tâm hồn con người để nhận rõ sự dằng co vừa gay go, vừa quyết liệt giữa nhân tính và lòng tham, giữa thiện và ác. Sự cám dỗ của số tiền lớn làThành mờ cả mắt nhưng lý trí của anh đã đàn áp được cám dỗ. Cách thuật sự của Thạch lam thật là tuyệt diệu nó đưa người đọc vào chỗ chơi vơi bềnh bồng giữa thực và mộng để ta chứng kiến được cái biên giới mong manh giữa thiện và ác, giữa ăn cắp hay không ăn cắp cái biên giới chỉ mong manh như sợi tơ sợi tóc. Truyện Một Cơn Giận (Gió Đầu Mùa) là sự phân tích tỉ mỉ tâm trạng của một người phạm tội đối với lương tâm, nhận xét vô cùng tế nhị của tác giả cũng đi sâu vào tận tâm hồn nhân vật (Thanh) từng giây từng phút để cân đo lòng hối hận của anh khi cơn giận đã qua. “Lòng hối hận không để tôi yên. Hình như có một cái gì nặng nề đè nén trên ngực làm cho tôi khó thở, và lúc nào hình ảnh người phu xe cũng hiện ra trước mắt”. Ở Thạch Lam hướng nội và tả chân cũng có thể đồng hóa làm một, ông đã nói trong Theo Giòng, người nghệ sĩ phải quay về tìm tòi trong tâm hồn mình rồi mới thấu nhập được những ý nghĩ, tâm trạng của người khác, ta không thể chối cãi được nghệ thuật tả hướng nội của Thạch Lam luôn luôn sâu sắc và hiện thực hơn các cây bút khác của Tự Lực văn đoàn. Trong Cuốn Sách Bỏ Quên (Nắng Trong Vườn) Thạch Lam diễn tả chân thực tâm trạng một người cầm bút, cũng có thể chính là ông, nó cho thấy cái biên giới vô cùng tàn nhẫn giữa thực và mộng, mộng vàng tan vỡ làm trăm mảnh khi đụng phải thực tế phũ phàng: Đó là truyện một anh nhà văn mang đầy mộng đẹp, mơ tưởng đến sự thành công huy hoàng của cuốn sách của anh mới vừa phát hành. Nhà xuất bản cho biết tác phẩm không được ai hoan nghênh cả, thất vọng ê chề nhưng rồi niềm hy vọng lại dâng lên, nó chẳng khác nào một dòng suối chảy không bao giờ cạn. Truyện Đứa Con (Nắng Trong Vườn) cho thấy nhận xét và quan sát của Thạch Lam vô cùng tế nhị về tâm trạng một mụ cường hào gian ác, giầu có nhưng lại hiếm hoi, thèm thuồng một đứa con, có lẽ chỉ ông mới nhận xét tinh vi, hiện thực như dưới đây. “Bác Nhiêu chép miệng nói khéo. -Nhà thì túng, một đồng một chữ không có, mà cứ phải lo thuốc cho con thật là đến khổ. Nhưng bà Cả hình như không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra như đang theo đuổi một ước vọng xa xôi; bà đang nghĩ rằng không bao giờ bà được biết những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà được bồng đứa con trên tay, được nâng niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ. . . Giá bà được đánh đổi tất cả của cải để lấy một đứa con”. Người Bạn Cũ, có lẽ do người khác kể lại, truyện một anh viên chức tỉnh nhỏ xưa đã từng tham gia cách mạng, bỗng một hôm có cô đồng chí hướng cũ trước đây nay sa cơ thất thế bơ vơ giữ chợ đời, đến nhờ chàng giúp đỡ. Anh chàng chẳng giúp được gì và tự bào chữa cho mình thật khéo léo nào là sợ bà xã ghen vì hiểu lầm, nào tiền đâu mà giúp cô ấy và cuối cùng chàng tự hỏi: “Rồi tôi băn khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh người thiếu niên hăng hái và hình ảnh người trưởng giả an nhàn, cái hình ảnh nào thật là của tôi?” Thạch Lam diễn tả nội tâm một anh chàng cách mạng hèn nhát, bằng cách đặt câu hỏi cho người đọc nhưng thực ra ông cũng ngầm biết câu trả lời, một người cầu an nay mất hết cả nhuệ khí phủ nhận cái quá khứ anh hùng của mình mà không dám tự nhận mình là kẻ hèn nhát. Hơn ai hết Thạch Lam đã lột tả được hết cả tâm trạng ê chề của một con người tiêu cực mất hết cả phí khách anh hùng. Truyện Một Đời Người, một bi kịch, đúng hơn là một thảm kịch về người đàn bà bất hạnh bị chồng vũ phu đánh đập tả tơi, nhất quyết trốn theo người yêu để rồi sáng hôm sau lại đổi ý định, nàng ôm con ra sân ga tiễn chàng lên xe lửa vô Nam, chỉ có một buổi tối thôi, sáng hôm sau mọi điều dự định tiêu tan như mây khói, cái biên giới tâm lý của con người ở đây cũng mỏng manh như một sợi tóc và có lẽ chỉ Thạch Lam mới nhìn ra được. Truyện Cô Hàng Xén là sự dằng co, day dứt nội tâm của một thiếu phụ quá nhiều trách nhiệm, một cổ hai chòng vùa è cổ gánh vác giang sơn nhà chồng lại vừa phải lo giúp đỡ các em ăn học, tâm trạng của nàng là sự triền miên lo âu khắc khoải, phần sợ gia đình chồng dằn vặt, phần sợ các em giận dỗi. Ngày Mới, cuốn tiểu thuyết duy nhất của Thạch Lam được dư luận coi là không thành công nhưng ít ra nghệ thuật hướng nội của ông ở đây luôn luôn hiện thực và sâu sắc cho thấy cái biên giới phũ phàng tàn nhẫn giữa thực và mộng y như trong Hạnh, một tác phẩm bất hủ của Khái Hưng. Ngày Mới cho thấy nghệ thuật tả tâm trạng của Thạch Lam công phu, tỉ mỉ nhưng có lẽ vì quá công phu mà người đọc đã có cảm tưởng nhàm chán vì quá ít động tác, đó là truyện một anh chàng bỏ lỡ cơ hội, đã từ chối một đám giầu để lấy một cô gái nghèo, người yêu lý tưởng của anh để rồi khi yên bề gia thất, đụng phải thực tế phũ phàng, lâm vào cảnh cùng túng anh lại đâm hối tiếc đã không chịu lấy cô giầu để nay phải chịu nghèo sơ nghèo sác, anh chàng cáu kỉnh với vợ luôn sau hối hận thương vợ và tìm lại được hạnh phúc gia đình. Mặc dù cốt truyện nhạt nhẽo song Ngày Mới cho thấy kỹ thuật hướng nội của Thạch lam vững vàng ý nhị hơn trong các truyện ngắn của chính ông, nó cho người ta thấy sự day dứt, dằn vặt, đau khổ luôn luôn ngự trị trong tâm trạng của con người. Nhà phê bình Bích Thu trong bài Thạch LamVà Kiểu Nhân Vật “Tự Thức Tỉnh” đã nhận xét như sau: “Cách đây hơn nửa thế kỷ, trong cảm quan nghệ thuật của mình, Thạch Lam đã có ý thức đi sâu vào thế giới nội tâm của con người. . . . . . . . . . . . ..Đi theo khuynh hướng này, sáng tác của Thạch Lam không bị lỗi thời bởi những thị hiếu và xu thế chính trị thời thượng. . . . . . . Sáng tác của Thạch Lam có sức thu hút người đọc ở mọi thời điểm, chính vì cái nhìn từ bên trong, với nghệ thuật phân tích một cách tinh tế, sâu lắng những diễn biến tâm lý phức tạp, những ăn năn day dứt về tinh cảm, về đạo đức một cách bản năng hay ý thức để tự “thức tỉnh”phẩm chất người trong mỗi con người”. Thạch Lam-Văn Chương Và Cái Đẹp, nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội 1994. Thạch Lam chỉ trích lối sáng tác dừng lại ở quan sát bề ngoài mà không chịu đi sâu vào thế giới nội tâm, người nghệ sĩ phải khám phá ra những bí ẩn của đời sống bên trong để diễn tả cho người đọc thấy những diễn biến thầm kín của tâm tư con người. Khái Hưng, Nhất Linh cũng đi sâu vào thế giới bên trong qua Hồn Bướm Mơ Tiên, Đôi Bạn nhưng Thạch Lam có những nét độc đáo và tỉ mỉ hơn,ông đã dẫn dắt chung ta đi sâu vào tận đáy tâm hồn nhân vật để được chứng kiến những ưu tư khắc khoải của họ trước cuộc đời, về nhân sinh hay tội lỗi để cuối cùng lại quay trở về với tính bản thiện cố hữu của con người.
BI KỊCH
Theo tôi biết đây là một khuynh hướng riêng đã khiến cho văn nghiệp Thạch Lam có những cá tính độc đáo khác biệt hẳn so với Khái Hưng, Nhất Linh. Khái Hưng ít trước tác bi kịch, Anh Phải Sống là một đoản thiên bi thảm hiếm hoi của ông, Nhất Linh ở một số truyện dài như Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng và truyện ngắn như Đầu Đường Xó Chợ, Bóng Người Trên Sương Mù cũng cho thấy ông có khuynh hướng bi kịch nhưng phần lớn sự nghiệp văn chương của Khái Hưng, Nhất Linh có những nét giống nhau ở chỗ cùng khai thác triệt để khuynh hướng yêu đương lãng mạn ngõ hầu làm phương tiện thu hút người đọc để lồng vào đó những luận đề xã hội. Các nhà phê bình trong nước đa số chú trọng vào đề tài bi kịch xã hội của ông, họ cho rằng Thạch Lam thường hướng ngòi bút của ông về phía những người cùng khổ và cái thế giới bần hàn mà họ phải đeo hết kiếp này sang kiếp khác. Bi kịch chiếm gần hết truyện Gió Đầu Mùa, chủ đề nổi bật nhất qua Nhà Mẹ Lê, Một Cơn Giận, Đói, Hai Lần Chết, Một Đời Người, Người Lính Cũ, Người Bạn Trẻ, Người Bạn Cũ, Gió Lạnh Đầu Mùa. Ta có cảm tưởng như Thạch Lam chịu ảnh hưởng sâu xa của những tư tưởng yếm thế của Thích Ca Mâu Ni về những nỗi khổ không cùng của đời người, nhân vật của ông đã thể hiện thân phận của những kẻ cùng mạt xã hội nhưng cái nhìn của Thạch Lam còn vượt xa hơn bình diện trần thế của xã hội, con người, nó là cái nhìn cao hơn về thân phận con người theo một ý nghĩa nhân sinh, một thứ triết lý bi quan nhuốm màu yếm thế. Trong Nhà Mẹ Lê tác giả kết luận. “Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ đeo đuổi mãi không biết bao giờ hết”. Và như vậy cái chết thảm thương của bác Lê – một ngườøi cùng đường sông vào chỗ chết để hy vọng kiếm chút gạo nuôi con – lại là một sự giải thoát và những người còn ở lại vẫn ngụp lặn trong bể khổ mênh mông. Trong Một Cơn Giận, tác giả phân tâm lý một người hướng thiện nhưng điểm then chốt vẫn là cảnh lầm than đọa đầy dơ bẩn của con người. “Lần ấy là lần đầu tôi bước vào một chỗ nghèo nàn, khổ sở như thế , các anh thử tưởng tượng một dẫy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn vào cả đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn, những người gầy gò, rách rưới, như những người trong một cơn mê”. Truyện Đói diễn tả tâm lý một người đói, Thạch Lam đưa ra vấn đề sức mạnh của vật chất đối với tinh thần nhưng tác giả chú trọng vào tấn thảm kịch gia đình nhiều hơn, một anh chồng thất nghiệp bị cái đói dầy vò thể xác và một nỗi khổ tâm khác sâu sé tâm hồn anh khi được biết người vợ phải bán thân để cứu đói cho mình. Cái tên truyện Một Đời Người (Gió Đầu Mùa) đã mang đầy ý nghĩa về kiếp nhân sinh ở đây cũng là tấn thảm kịch không bao giờ dứt như trong Nhà Mẹ Lê. Định mệnh cay nghiệt khiến cho Liên lấy phải người chồng vũ phu, mẹ chồng cay nghiệt, họ đánh đập, chửi rủa nàng tàn nhẫn, gia đình nàng là một địa ngục, người yêu cũ (Tâm) sắp đổi vào Sài Gòn đem lại cho nàng một lối thoát khỏi cuộc đời thê thảm ấy, chàng rủ Liên trốn theo. Liên bị chồng đánh đập tả tơi nhất định hôm sau trốn theo Tâm nhưng hôm sau mọi dự định tiêu tan hết cả, nàng đổi ý ẵm con ra ga tiễn người yêu lên xe lửa vô Nam mang theo cái hy vọng cuối cùng của đời nàng. “Khi đoàn xe đã khuất, Liên thấy bao nhiêu nỗi đau khổ trỗi dậy ngập lòng, nàng quay đầu vào chiếc cột sắt rồi òa lên khóc”. Và rồi Liên lại tiếp tục cam chịu cuộc đời cay đắng đau khổ như mọi ngày, tác giả kết luận. “Cái mộng cuộc đời sung sướng với Tâm, Liên buồn rầu như là những vật tốt đẹp mà nàng thấy bầy trong tủ kính các cửa hàng, những vật quí giá mà tưởng không bao giờ có thể thuộc về nàng được”. Thạch Lam ở đây có quan niệm bi quan về hạnh phúc, một cái nhìn mới mẻ trái với quan niệm lạc quan của Léon Tolstoi về hạnh phúc trong Chiến Tranh Và Hòa Bình, hạnh phúc bao giờ cũng ở trong tầm tay, bao giờ cũng có, nhưng dưới con mắt Thạch Lam hạnh phúc chỉ là mơ tưởng xa vời, Liên đứng nhìn hạnh phúc chạy ngang trước mắt nàng trên chuyến xe lửa vô Nam mà không sao bắt lại được, hạnh phúc đối với nàng y như những món hàng bên kia tủ kính. Có thể là luân lý không cho phép Liên bỏ chồng theo trai hoặc nàng không đủ can đảm để lao đầu vào một cuộc phiêu lưu nên đành cam chịu với số phận đắng cay. Nhưng có điều là cái nhìn bi quan về hạnh phúc của ông ở đây lại trái ngược với ý nghĩa của hạnh phúc lạc quan trong Ngày Mới viết cùng năm 1937 với Một Đời Người (Gió Đầu Mùa), một anh chàng vì yêu đương mơ mộng bỏ một đám giầu, lấy một cô gái nghèo để rồi lâm vào cảnh bần hàn túng thiếu cáu kỉnh với vợ con, thèm thuồng sự giầu sang, uất ức và đau khổ để rồi sau những ưu tư dằnvặt cuối cùng lại thấy cái xấu xa của sự giầu sang và yên phận với cái nghèo, tìm ra được hạnh phúc, hạnh phúc luôn ở quanh ta chỗ nào cũng có. Vấn đề đáng nói ở đây là trong cùng một năm 1937 hai tác phẩm, một truyện ngắn, một truyện dài đã thể hiện hai quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau về hạnh phúc, một bi quan, một lạc quan, ta có thể nói đây là sự nhầm lẫn đáng kể của Thạch Lam khi trong cùng một khoảng thời gian ông có thể đổi quan niệm nhanh đến thế, người ta có cảm tưởng tác giả không có lập trường về hạnh phúc con người. Truyện Người Lính Cũ, cốt truyện giản dị, đơn sơ quá cho thấy lối thuật truyện của ông có phần thua kém Nhất Linh vì nó quá sơ sài nhưng lại diễn tả được một cách phong phú tấn bi kịch của đời người, cuộc đời y như cơn ác mộng. Người Bạn Trẻ, một thanh niên bị xã hội dồn đến bước đường cùng phải tự kết liễu cuộc đời bằng sợi dây oan nghiệt. Trong Tối Ba Mươi (Sợi Tóc), Thạch Lam dành nhiều cảm thương cho những kẻ bất hạnh phải sống bên lề của xã hội đã ý thức đượïc thảm cảnh của mình, những nỗi cay đắng, cô đơn của họ giữa lúc tiếng pháo giao thừa nổ vang. Mặc dù Thạch Lam không đề cập trong Theo Giòng, bi kịch cũng là một tiêu chuẩn hiện thực để diễn tả một khía cạnh cay đắng thấm thía, của xã hội, của con người.
NHỮNG KHUYNH HƯỚNG KHÁC
1. Lãng Mạn
Thạch lam có vị trí đứng riêng trong Tự Lực văn đoàn so vói Khái Hưng và Nhất Linh ở nhiều phương diện ngay cả yêu đương bay bướm. Ông không theo cái khuôn sáo tình yêu lý tưởng, yêu nhau trong tâm hồn, những mối tình câm lặng kín đáo, yêu không nói ra, yêu cao thượng, yêu nhau không bao giờ đụng tới nhau. Khuynh hướng hiện thực bao trùm toàn bộ văn chương Thạch Lam: xã hội cũng như tâm lý và cả ở đây, lãng mạn. Cái lãng mạn bay bướm của Thạch Lam ở Nắng Trong Vườn, Bên Kia Sông, Bắt Đầu, Đêm sáng Trăng, Tình Xưa, Ngày Mới… đã được diễn tả chân thực nhẹ nhàng thi vị, những mối tình trong văn chương Thạch Lam ngây thơ chân thực của những chàng trai mới lớn, những cô gái trong trắng ngây thơ, nó hiện thực hơn văn chương lãng mạn Khái Hưng Nhất linh ở những cái ôm hôn thắm thiết. Dư luận các nhà phê bình và dư luận độc giả hầu như không ai chú ý đến văn chương lãng mạn Thạch Lam, người ta nghĩ rằng truyện tình của ông đơn giản và thực quá không diễn tả được không khí lãng mạn bay bướm khả dĩ rung động được người thưởng thức như Hồn Bướm Mơ Tiên, Đôi Bạn, Hai Buổi Chiều Vàng của Khái Hưng, Nhất Linh hay nói khác đi không khí lãng mạn của ông không có gì đáng nói so với các bậc đàn anh trong Tự Lực văn đoàn. Dư luận có thể đúng song tôi nghĩ ta không thể phủ nhận hoàn toàn văn chương yêu đương bay bướm của Thạch Lam. Ông luôn tỏ ra có một phong thái, bút pháp khác biệt so với văn đoàn: truyện Dưới Bóng Hoàng Lan tẻ nhạt nhưng phải công nhận không khí lãng mạn thi vị, nhẹ nhàng của nó đáng được xếp vào hàng đầu trong chủ đề lãng mạn của văn đoàn. Chúng ta không thể nào bỏ quên truyện Bên Kia Sông, một truyện tình tuyệt vời nhất của Thạch Lam của Tự Lực văn đoàn , ta tưởng như lạc vào không khí bay bướm của Ivan Tourgueniev trong truyện Mối tình Đầu. Truyện một cậu học trò lớp ba mười mấy tuổi yêu một thiếu nữ hơn mình năm, sáu tuổi, chị của cậu bạn cùng lớp. Thiếu nữ quí mến vuốt ve cậu như một đứa em bé bỏng nhưng có ngờ đâu một tình yêu ngây thơ non nớt trong lòng cậu nổi dậy dạt dào thay thế cái tình chị em cao quí ấy. Cậu theo gia đình dọn lên Hà Nội, thế mà mười năm sau cậu còn tìm về cái huyện nhỏ bé để tìm người đẹp nhưng than ôi! Mối tình ngây thơ chân thật của chàng nay chỉ còn là một kỷ niệm đẹp trong lòng.
2. Thi Vị
Nhiều nhà phê bình ca ngợi những trang văn tả tình tả cảnh của Thạch Lam tao nhã, thi vị. Đây cũng là một trong những nét đặc sắc của văn chương Thạch Lam mà Khái Hưng, Nhất Linh không thấy có, trong Dưới Bóng Hoàng Lan, ta thấy những con đường lát gạch Bát tràng rêu phủ , những mùi lá non phảng phất trong không khí, những giàn hoa thiên lý thơm dịu, những búp hoa lý non thơm phảng phất, cây hoàng lan cao vút với những cành lá rủ. Ta có cảm tưởng như cảnh trí trong một bức tranh thủy mạc của Tầu, một bài thơ tuyệt diệu. Truyện Ngày Mới, một truyện dài được coi như không thành công nhưng ta không phủ nhận được những trang văn tả cảnh tả tình tuyệt diệu của ông khi nói đến cậu học sinh về thăm quê cũ ở huyện An Lâm với những tấm thảm lúa xanh thẫm dưới làn gió nhẹ nổi lên những làn sóng bạc, những dẫy nhà thấp thoáng sau lũy tre xanh, những cơn gió nhẹ đem lại hương vị dễ chịu của mùa đất ải, hơi mát lạnh của sông Tiên bốc lên thấm thía vào cảnh vật, mùi thơm của lúa cỏ. “Tất cả giác quan như chờ đợi những cái thú và hương vị của cánh đồng quê mà chàng sợ không được hưởng hết”. Độc giả cũng như nhà phê bình không ai có thể quên được những trang văn tao nhã tuyệt diệu nhất của Thạch Lam diễn tả cái thanh cao thi vị của cốm trong Hà Nội Băm Sáu Phố Phường, món ăn dưới ngòi bút đầy chất thơ của Thạch Lam đã được diễn tả thật là thanh cao thi vị. Văn chương Thạch Lam độc đáo ở chỗ tìm ra được những cái đẹp trong những sự vật tầm thường nhất như món ăn chẳng hạn. “Cơn gió mùa thu hạ lướt qua vùng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết”. Một bài tùy bút về món ăn tự nhiên đã trở thành một áng thơ tuyệt vời với những mầu sắc, ý vị vô cùng tao nhã: mầu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non cái mùi thơm ngát của lá sen già ướp lấy từng hạt cốm.
“Chúng ta có thể nói rằng trời sinh lá sen để bao bọc cốm, cũng như trời sinh cốm nằm ủ trong lá sen” Những vẻ đẹp đầy chất thơ ấy nay đã trở thành vang bóng một thời như nhận xét của Dương Nghiễm Mậu dưới đây. “Thời của Thạch Lam đã trôi qua, và bây giờ tìm đâu bóng dáng một Thanh, bình thản sung sướng với lúc trở về và lúc ra đi, tìm đâu một giàn hoa lý, tìm đâu cho ra một cây hoàng lan, và nữa đâu cho thấy một cô Nga với mối tình nhẹ nhàng chung thủy. Như viên ngọc quí cho thời đại chúng ta để thấy một người nào còn được sống trong sáng như thiên thần, còn biết hương hoàng lan, còn thấy được vẻ đẹp của một bông hoa dại gài trên mái tóc. . . Bây giờ là thời của những ra đi vội vàng, trở lại chua xót, là những hoa nhựa cắm trong chậu, thời của đời sống tất tưởi. . . Trong cảnh huống đó, người đọc Thạch Lam hôm nay còn ai thấy mình được sống trong hạnh phúc”. Giao Điểm số 1, SàiGòn 1972. 3. Tàn Bạo
Các nhà phê bình thường chú trọng đến những áng văn nhẹ nhàng thanh thoát, tao nhã, những trang văn tả cảnh thi vị của Thạch Lam mà quên một cá tính khác của ông khi phải tả những cảnh hiện thực phũ phàng. Đây cũng là điểm khiến ông có một chỗ đứng riêng trong Tự Lực văn đoàn. Ở một vài đoạn ông đã xử dụng đến lối văn diễn tả tàn bạo theo kiểu Sholokhov để tả chân cái thú tính gớm ghiếc của con người mà ta ít thấy trong văn Khái Hưng, Nhất Linh, người nghệ sĩ như Thạch Lam nói, phải can đảm nhìn vào sự thực. “Bàn tay như sắt bóp chặt cổ nàng lại. Liên thấy giáp mặt mình, cái mặt ghê sợ của Tích, hai con mắt đỏ ngầu. Cái giận dữ làm tiếng hắn run lên. -Con đĩ Rồi nàng ngã gục xuống dưới những cái đấm đá nặng nề. Lòng ghen ghét làm sức khoẻ thêm lên. Hắn nghiến răng lại đánh túi bụi. Hắn thấy ghét nàng đến cực điểm. Không phải vì nàng không yêu mà hắn căm tức. Nhưng nàng lại đi yêu một người khác, như đâm vào lòng tự ái của hắn. Sự ấy không bao giờ hắn tha thứ được.” Một Đời Người (Gió Đầu Mùa) Các nhà phê bình hay chú trọng đến những cái đẹp trong văn chương Thạch Lam, ca ngợi những trang văn xanh mầu cốm non, những áng văn hướng nội mô tả những ưu tư khắc khoải… mà quên không nói tới tính chất tàn nhẫn phũ phàng khi ông muốn diễn tả chân thực thân phận đọa đây khốn khổ của giới bình dân, bần cùng trong xã hội như truyện Nhà Mẹ Lê. “Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác của cậu Phúc, con chó Tây nhe nanh chồm đến.” Trong phần lời nói đầu truyện Gió Đầu Mùa, Thạch Lam đã nói văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, đó là loại văn chương tranh đấu chống lại sự tàn bạo của con người, lối viết phũ phàng tàn nhẫn của ông để chống lại thế giới tàn ác như đoạn trích trong truyện Đứa Con dưới đây. “ Chị Sen ở với bà Cả được ngót một năm. Bữa hôm ấy, thấy tiếng bà Cả quát tháo đã lâu, tôi chạy sang. Chị Sen đang cúi đầu vào đống rơm khóc. Tôi hỏi tại sao, chị nức nở đáp. – Tôi lỡ tay đánh vỡ một cái chén, ông ấy đánh tôi đau quá. Chị Sen thâm tím cả mình mẩy, một vết roi ấy qua môi làm rướm máu. Chị vừa xoa bóp vừa than thở: -Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế này” (Nắng Trong Vườn)
Lan Đàm Tiểu truyện Tiêu Sơn Bài Trương Quỳnh Như
Ta còn rượu chỉ vắng người, Bài thơ họa dở, tình ơi sao buồn. Kinh kỳ lạnh những hoàng hôn, Lối quen, lầu cũ bước dồn – sợ đau! Tiêu Sơn cách mấy giang đầu, Xa thêm – người đã thay màu áo xưa. Khuê phòng trằn trọc tiểu thư, Rừng hoang cổ tự thiền sư ngậm ngùi. Nến hồng lửa ngọn chẳng vui, Vườn khuya trăng cũng ngủ vùi trong mây. Sương đêm mờ mịt sông đầy, Vạc kêu, ta nhớ vừa say một mình.
Bài Phạm Thái
Từ muợn nâu sồng che kiếm bạc, Mười năm gió núi lộng thư phòng. Rượu cạn, bình khô, chiều nắng tắt, Nhớ người, tê buốt ngọn thu phong.
Thao thức nghìn khuya Tiêu Sơn lạnh, Nửa đời mộng lỡ, nhạt chờ mong. Cổ tự mưa sương chìm cô quạnh, Kệ buồn, tráng sĩ để sầu đong.
Gươm báu vẫn nằm yên trong vỏ, Ngựa chồn soi bóng lặng suối trong. Những sớm rừng hoang vang tiếng mõ, Trông vời, xa cách mấy Thăng Long.
Thôi trả dọc ngang cho thiên hạ, Tình ơi chuyện cũ xót xa lòng. Khóe mắt giai nhân tàn chí cả, Chùa nghèo, trà đắng, nhện đầy song.
Đoạn cuối Tiêu Sơn Trương Quỳnh Như
Nhớ người chợt tỉnh cơn say, Thành đô đêm lạnh, trăng gầy mông lung. Gọi tên âm nghẹn thanh chùng, Tiêu Sơn xa đã vô cùng tình ơi.
Phạm Thái
Dọc ngang thôi trả cho đời, Tương tư xin gửi lại người, Quỳnh Như. Câu kinh, thay tiếng tạ từ, Chiều sương chùa vắng, thiền sư nghẹn ngào.
Bạt
Giai nhân, hề, vẫn chiêm bao, Giang sơn, hề, biết chốn nào dung thân?
Hoàng Xuân Sơn Ba lá Bao la em đồng cỏ tôi xuồng trăng ba lá sụt trồi tâm thanh rằm yên mặt nước khuynh thành ở ba vạn kiếp hùng anh một giờ tôi chào em “say hello!” vẽ chi tiếng lạ đuôi cờ vẫn nheo con mắt xưa cháy rực đèo phải chi núi lở còn theo sông về thâm xuyên em thọ tư bề quyển tôi mạt rệp còn che nỗi gì?
Dựa cột Một lần dựa cột nằm nghe chim trời cá nước gọi về hư không trăng sao tưởng để trong lòng ai ngờ vãn lục phai hồng thế kia buộc vào một nhánh sương khuya chờ mai nắng lửa tan lìa nguyệt hư. Áo xuân xưa Vịn hờ vạc áo em xưa ngỡ chòm mây trắng bay qua vực hồng có đôi chim vợ chim chồng hót tràn khe lãnh rừng thông nắng trào ửng mùa xuân tới non cao du hồn tiểu lụy hóa vào đại ân chín rồi quả mận trầm luân áo em trắng giữa muôn phần cỏ cây.
Tím chiều Mây hoe trời tím giải chiều lượng tâm ở ngón phù điêu huyền cầm tiếng hồ vỡ đại tòng lâm hiu hiu trầm tử vết chàm dung nhan ngồi nhây sợ nước lan tràn suối khô cốc đã lầm than mấy mùa mấm mồng thua được được thua ngoài thiên nan đã cuộc cờ khổn vây ngồi nhây không chóng thì chầy đỏ hoe mắt tượng khíu ngày thanh thiên tím chiều trơ trất bình yên thèm nghe một chút mưa hiền thở than.
Phan Bá Thụy Dương Nói với thiên khách Cánh hạc nào bay trong triền nắng sớm tiếng hót xa xăm như tận cõi trời sao u trầm chất ngất khách thiền ơi xin nhẹ bước trên lối mòn tỉnh lặng Rừng cô tịch có gì đâu tra vấn lửa Chân Như có đủ ấm linh hồn đất bùn nào còn in lại dấu chân tâm vô niệm đường xa gần đi mãi Có phải người đang quay về bến đợi gom lá vàng gỗ mục dưới trăng trong về đi thôi đêm lạnh giá mênh mông áo nâu mỏng sao che mưa đỡ gió Chim thức giấc cất lời ru thật lạ ngươi phong trần qua mấy độ truân chuyên thấy gì chưa tự ngã với uyên nguyên hay ngần ngại chia xa lòng thung lũng Từ tiềm thức đã lạc quên long trượng đâu đây chừng thấp thoáng ánh vô ưu thiền khách này thiền khách đã về chưa xin trả lại cho ta quê, tình cũ.
Vũ Linh Lời tòa soạn: Để tưởng niệm cố Nhà văn Vũ Linh, Tạp chí Trầm Hương đăng lại bài này như một nén hương lòng cầu nguyện anh sớm về cõi vĩnh hằng.
Đọc lục bát Hoàng Xuân Sơn Họa sĩ Đinh Cường từ Virginia đến Houston triển lãm tranh lần thứ ba, lần này ngoài anh còn có Họa sĩ Nguyễn đình Thuận đến từ Nam Cali. Cả hai đã để lại cho giới thưởng lãm địa phương những ấn tượng sâu sắc về nghệ thuật sáng tạo và sử dụng màu sắc trong mỗi tác phẩm. Một già một trẻ cùng một trường phái nhưng mỗi tác giả có cách suy nghĩ và màu sắc riêng qua những bức tranh sơn dầu đã trưng bày tại Houston. Tại đây tôi cũng được hân hạnh gặp Hoàng Xuân Sơn và không ngờ anh và tôi có chung một người bạn Đinh Cường. Cái đáng quý ở anh, từ Quebec Canada bay sang để gặp gỡ và hổ trợ bạn bè trong cuộc triểm lãm vì rằng ngoài tài làm thơ, anh còn là một ca sĩ, một nhạc sĩ đã chơi đàn và hát chung với Khánh Ly trong đêm khai mạc phòng tranh tại Viet Art Gallery Houston ngày 19/01/2008.
Buổi đầu gặp gở, trong cái bắt tay tự giới thiệu về mình, tôi cứ mãi ngờ ngợ về cái tên Hoàng Xuân Sơn của anh, hóa ra anh chẳng xa lạ gì, là một trong số “mấy con ngựa” ở Thư Quán Bản thảo mà tôi quen biết và cũng mấy lần đọc thơ anh trên Tạp chí này. Mãi đến lúc cầm tập thơ “Lục bát Hoàng Xuân Sơn” do anh tặng, tôi có hơi ngạc nhiên và nhìn anh thêm một lần nữa. Sau mấy cái chớp mắt, tôi lật vội mấy trang, ngoài động thái lịch sự khi tiếp nhận một tăng phẩm, hơn thế nữa lại là một tặng phẩm chữ nghĩa. Một lẽ khác hay đúng hơn hai chữ “Lục bát” to đùng đứng trước tên Hoàng Xuân Sơn, nó đã làm cho tôi lúng túng và thầm khâm phục sự can đảm của tác giả mà tôi vừa quen biết. Vì rằng hơn năm mươi năm trước, tôi cũng tập tành làm thơ và thể loại tôi cho là khó làm được một bài thơ hay đó là Lục bát. Cho đến thời điểm này, ngoại trừ Nguyễn Du tiên sinh, một số thi sĩ tiền chiến cũng như về sau vẫn có những bài thơ lục bát hay xuất hiện nhưng vượt trội hơn cả, tôi nghĩ chỉ có Nguyễn Bính. Điều này rất có thể chỉ là cảm nhận của riêng tôi và với Hoàng Xuân Sơn tôi cũng chỉ ghi lại cảm nhận của mình sau khi đọc tập thơ do anh tặng chứ không hề làm công việc phê bình.
Nhìn một cách chung chung, văn học nghệ thuật nước ta kể từ sau 1954 cả hai miền đất nước có nhiều biến đổi. Ngoài Bắc xóa bỏ gần như hầu hết giá trị văn học nghệ thuật theo lề lối cổ xưa. Họ chủ truơng văn học theo chiều hướng mới, văn học nghệ thuật nhằm phục vụ cho chế độ, cho con người mà đảng của họ đang nặn ra và hướng tới. Trong khi Miềm Nam cởi mở và tự do hơn, chấp nhận giá trị truyền thống cổ xưa đồng thời cũng sẵn sàng tiếp nhận những nhóm chủ trương đổi mới, sáng tạo trong lảnh vực văn học nghệ thuật, trong đó hội họa và thơ là rõ nét nhất. Cho đến sau 1975 những Văn nghệ sĩ Miền Nam lưu vong tiếp tục làm công việc đó và dường như những năm gần đây trong nước cũng có những biến chuyển đáng kể trong lãnh vực này. Tuy nhiên cho dù trong nước hay hải ngoại đã và đang làm cái công việc đổi mới trong lãnh vực văn hoc nghệ thuật nhưng đa số chủ trương một bài thơ, một bản nhạc và đặc biệt trong lãnh vực hội họa, tác giả sáng tác với cảm xúc, bằng suy nghĩ của riêng mình trong mỗi tác phẩm. Nhà phê bình cũng như những bậc thầy các trường phái, chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của nó nếu không được sự diễn giải của chính tác giả, cho dù mỗi trường phái đều có những qui ước chung để đi vào thế giới của họ. Bởi thế, người thưởng ngoạn tác phẩm nghệ thuật bây giờ, không đơn thuần chỉ nhìn hay sờ mó mà cần vận dụng đến sự suy nghĩ nhiều hơn, óc tưởng tượng phong phú hơn, may ra mới bắt gặp những điều tác giả muốn nói trong tác phẩm.Trở lại với tập thơ Lục bát Hoàng Xuân Sơn, phần mở đầu tác giả ngỏ: Ừ! xem sáu tám ngược đời/ chữ ngất ngư chữ câu đòi đoạn câu/ gọi rằng lục bát nằm lâu/ ể mình đứng dậy thành câu thơ rời Lời ngỏ này chẳng khác gì qui ước để đọc những bài thơ của anh và được tác giả minh họa ngay ở lời ngỏ bằng những “câu thơ rời” hay cũng có thể nói chữ ngất ngư chữ câu đoài đoạn câu:
Ừ! Xem sáu tám ngược đời
chữ ngất ngư chữ câu đòi đoạn câu gọi rằng lục bát nằm lâu ể mình đứng dậy thành câu thơ rời
Chúng ta được Hoàng Xuân Sơn trao cho chìa khóa để mở cửa đi vào thơ của anh. Bên cạnh đó, chúng ta còn bắt gặp những cái dấu chấm nữa đời nữa đoạn như:
Cám ơn em, chiếc cổ tròng vô thân áo. ấm. chút nồng nàn. Xưa cám ơn em vạt trời mưa nước hắt lưng. trộm. vai đùa cợt. hương
– – – – – – (Cám ơn, trang 67)
Hay như là:
Nghiêm. đi qua đó. mặt buồn mà trăng sáng rở đêm. khuôn hạ vàng óng mềm hệ lụy đa đoan thương vương mấy cõi xanh. toàn vẹn. im thơ khúc mắc. dấu chấm. ghìm cơn rung hối hả nghe lìm lịm. trôi đừng nói. đừng. thêm nặng lời mặt nghiên qua đó buồn khơi lạc dòng
– – – – – – – – (Hạ tuyền, trang 108)
Những dấu chấm như thế rải rác trong khắp thơ anh và 141 bài thơ lục bát, không có một dấu chấm nào đuợc sử dụng một cách bình thường cũng như không bài thơ nào có dấu chấm câu. Bên cạnh đó, anh còn dùng ký hiệu thay cho chữ (trang 40, 55 …) và còn trình bày một bài thơ theo một hình thể nào đó (trang 10, 31, 49, 67…) mà chỉ có anh mới giải thích được. Tại sao ư? Tất cả những dòng thơ vặn vẹo, rơi rớt, bất thường này của Hoàng Xuân Sơn đã được một người “chữ nghĩa bề bề” Cao Vị Khanh, tác giả “Lệ từ nét ngang” giải mã trong lời bạt cuối tập thơ. Chúng ta cứ tạm thời chấp nhận lời giải của Cao Vị Khanh trong nhóm Thư quán Bản thảo, vì anh là người gần gũi nhất với tác giả và có thể hiểu được Hoàng Xuân Sơn (Cùng ở Canada và làm việc chung sở) Tuy nhiên 141 bài thơ trong Lục bát Hoàng Xuân Sơn, ít ra anh cũng còn giữ được 15 bài “y như hồi nào tới giờ”, thế là thế nào đây Hoàng Xuân Sơn và Cao Vị Khanh? Mọi việc xin hãy tạm để đó. Chúng ta đi xa thêm một chút về Hoàng Xuân Sơn, ngoài việc làm thơ anh còn sử dụng đàn, chơi nhạc cổ điển và hát những bài tình ca của Pháp, Anh…. Từ đó, tại sao chúng ta không nghĩ “những câu thơ rời” là một lối “viết hoà âm” của những anh sành nhạc? Ở đây có thể dành cho nghệ sĩ ngâm, biết đâu mai này nó còn dành cho những bản nhạc được phổ từ thơ của anh!
Thật ra, nếu ta sắp xếp lại những câu thơ rời của 126 bài thơ viết theo lối “Soạn hòa âm” và 15 bài có sẵn thì Lục bát Hoàng Xuân Sơn vẫn “y như hồi nào tới giờ”! Hình thức Lục bát Hoàng Xuân Sơn là như vậy đó, còn nội dung thì sao? Như phần nhận định trên, đọc- xem- nghe- nhìn một tác phẩm bây giờ không thể không động não, nếu đơn thuần là “thơ Hoàng Xuân Sơn” thì không có gì để nói. Đằng này chọn “Lục bát” tức là Hoàng Xuân Sơn chọn một thể thơ có nguồn gốc của nó, có những luật lệ riêng của nó. Ngôn ngữ, vần điệu làm cho những câu thơ dễ nhớ, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người nhưng nếu chỉ đơn thuần chỉ có thế nó sẽ không hẳn là một bài thơ lục bát. Cái hay của lục bát là ở chỗ đó, cái hay của Truyện Kiều cũng ở chỗ đó, cái tài tình của Nguyễn Du cũng ở đó. Và nếu ngày xưa, điển tích có một vị trí nào đó để làm nên thể thơ lục bát trong Truyện Kiều thì nay “lập thể, trừu tượng, siêu thực” là những thứ không thể thiếu trong một bài thơ hay một bức tranh của những tác giả hiện đại. Nhưng nếu vận dụng quá đáng hình thức trên, nhiều người cho đó là thơ văn thuộc loại “cõi trên”, chỉ có tác giả và thượng đế may ra mới hiểu được. Truyện Kiều trước đây đã đưa vào chương trình giáo dục ở Miền Nam, điển tích trong truyện đã làm cho người học nó mất ăn mất ngũ trong lúc thi cử. Cái khó của Lục bát là chỗ đó và Lục bát mãi mãi là Lục bát cũng ở đó, cho dù Hitler có lập thêm mấy ngàn lò thiêu thì người Do thái vẫn còn, nước Nhật có phải gánh chịu thêm mấy trái bom nguyên tử thì nước Nhật vẫn của người Nhật. Và cho dù có trải qua bao thế kỷ nữa thì thể thơ lục bát, Truyện Kiều Nguyễn Du vẫn “y như hồi nào tới giờ”!
Hoàng Xuân Sơn có lẽ cũng đã nhận ra lý lẽ này nên dù “thơ khúc mắc, dấu chấm ghìm” nhưng nếu sắp xếp lại nguyên thể, chúng ta vẫn thấy những câu 6-8 mượt mà thân quen dể hiểu và dể nhớ:
Sáng nghe chim nhạn kêu bầy mới hay biển động mùa cây lá tàn không chừng mây bão lần sang níu chân người ở lang thang dặm về
– – – – – (gọi bầy, trang 11)
Lòng anh muốn nói đôi khi nhìn con nắng hẹn nhớ gì mây bay đêm trăng đồi hú gọi bầy sói hoang đồng nội nhớ ngày đi rong lòng anh cũng muốn khóc ròng sông xanh quê ngoại nắng hồng ngõ mai sợi giăng tơ nhện u hoài con chim sẻ nhỏ cùng thời lớn khôn.
– – – – – – ( tin thơ, trang 46 )
Và bây giờ chúng ta thử lấy một bài thơ viết theo lối “hòa âm” của tác giả, sắp xếp lại theo trật tự của nó: Buồn buồn cõng chị đi chơi
bế em ra ngõ nhà người nói thơ hát cho đỡ tủi cơ đồ trăm câu thân ái ru bờ bụi hoang đầy thơ cho đựng bát vàng nghiên trăng nhân loại bình an rót về vịn em thơ đứng giữa hè thắp tình chị sang mù mê bụi hồng
(Chị em thơ, trang 52) Bài thơ chỉ có tám câu nhưng được sắp xếp lại, có ai nói đây không là bài Lục bát hoàn chỉnh với đầy đủ ý nghĩa của nó?
Thơ Hoàng Xuân Sơn chuyên chở tình người, tình bạn, sự rung động trước thiên nhiên và lay quay trong kiếp trầm luân. Tuy có thổn thức, có dâng trào, có nức nở qua những cái dấu chấm đứt đoạn chia lìa, những con chữ rơi rớt nhưng cũng chỉ là những bước fantasy của một điệu nhảy, vừa cổ điển vừa hiện đại của một nghệ sĩ chơi đàn và hiểu biết về âm nhạc.
Trong bất cứ lãnh vực nào sự sáng tạo và đổi mới cũng là điều cần thiết. Riêng lãnh vực Văn học nghệ thuật nước ta cũng đã làm những công việc này từ thế kỷ trước, rõ nét nhất là trong 2 lãnh vực thơ văn và hội họa. Tùy theo quan niệm về nghệ thuật để trả lời cho câu hỏi sự sáng tạo và đổi mới đó đã thuyết phục hay được chấp nhận đến mức độ nào. Nói gì thì nói, một thế kỷ cũng đã qua vẫn chưa có tác phẩm nào thay thế cho Truyện Kiều của Nguyễn Du và thế giới cũng chưa có họa phẩm nào khả dĩ hấp dẫn nhiều người như Mona Lisa của Vinci. Chính vì thế những người làm Văn học nghệ thuật vẫn phải tiếp tục tìm tòi, sáng tạo và đổi mới.
Tóm lại Lục bát Hoàng Xuân Sơn tuy hình thức mới lạ, mang tính sáng tạo và hẳn anh cũng đã hiểu bên cạnh sự sáng tạo bao giờ cũng có sự đào thải, sẵn sàng ngồi chờ. Có lẽ vì thế, không ít thì nhiều anh vẫn giử lại cái truyền thống của Lục bát, một loại Lục bát Hoàng Xuân Sơn với những âm điệu dễ nhớ, lời thơ dễ hiểu hay nói cách khác “vẫn như hồi nào tới giờ”!
Lan Cao Vùng tưởng hàng mi ngủ say bất động da thịt mùa đông hơi thở đứng trên môi khô khát bút rơi bài thơ tình dang dở tôi nhặt lên viết tiếp vần sau trong tiếng nấc chạy vòng hốt hoảng để lại cho đời “quê hương ngàn dặm” thơ truyện Anh Vân từng trang tĩnh lặng xếp gầy thời gian một thời áo lính điếu thuốc xẻ mười ru nhau giấc nhỏ trong chiến trường địa ngục thơ học trò vừa chạy vừa xem chừ trong lòng đất tiếng dế khóc cầu hôn tôi đứng lặng tiễn nụ cười vô tận người bạn thơ văn
cúi đầu ngôi sao xa lấp lánh đón: Anh Vân
Chiều mơ chiều mùa hạ nắng Houston vàng dịu nỗi lòng mình thêm nhớ trải tình mong cây đổ bóng về Đông Phương gởi gắm Sài Gòn ơi! ta tâm sự chất chồng chừ vạn dặm buồn vươn cao hơn núi núi nằm yên, sông cuộn xoáy sân lòng chiều sẽ tắt nắng trườn qua đỉnh thác mắt vương theo, vách đá đuổi quay về em chờ đợi sân ga chiều nắng nhớ nắng như tàu, đi đến thế mà thôi anh quay quắt hoàng hôn về vội vã mong làm sao cho kịp chuyến em chờ mình gặp lại tóc em vui chẻ nắng ôm tuổi đời, ta vẫn trẻ như thơ.
KHÔNG CÓ EM không có em anh chỉ là một tên say khờ dại sống lang thang trong vô nghĩa cuộc đời lửa mặt trời, hồn đốt cháy tả tơi thàng đá cuội, phơi sương buồn rã rượi không có em mùa xuân ai chờ đợi trái đất này cát bụi phủ màu tang cả gối chăn, băng giá cũng dâng tràn anh như một A Đam thời đất hứa không có em nhân loại đâu còn nữa sách viết gì? ngôn ngữ nói điều chi? cả thơ anh, thơ cũng chẳng biết gì tim rả nát trôi hoang vào núi lửa không có em mắt anh đâu cần nữa mắt làm gì khi chẳng được nhìn nhau kẻ đui mù còn bớt được niềm đau hơn ánh sáng mà tìm em chẳng thấy.
Phan Các Chiêu Hằng Chiều trên đồi suối bạc ta nằm giữa đất trời trên đỉnh đồi suối bạc chiều nhạt bóng thu phơi lệ sương đau nhánh tóc ta nằm nơi phố lạ nghe năm tháng mịt mùng bới tìm bao thương nhớ niềm đau soi mắt trong ta chờ mãi mùa thu về qua chân gõ nhẹ trên phiến đời hư vô phơi ngày xanh hoang phế ta nằm đây nhớ lại những bờ bến vô tình chiều nay trên dốc núi đời mệt nhoài lênh đênh ta trú trong động khô ôm trái tim sủng ướt ngoài kia trời đổ mưa mùa thu âm thầm chết chiều lên đồi suối bạc nghiềm ngẫm đời hôm qua biết còn hay đã mất áo lộng dưới trăng tà … hóa là thiên thu mùa xuân như mới về ngang để rơi lại cánh hoa vàng làm tin ngõ về dốc đứng chông chênh trái tim bình thản bỗng hình như đau nhớ xưa nắng trãi lụa đào vườn ai hoa cúc tỏa ngào ngạt hương đường lên chùa hai bên đường có con bướm ngẩn ngơ vờn cánh bay em từng bước nhỏ trang đài dáng nghiêng thềm nắng hình hài bỗng xa bàn tay vẫy chào hôm qua tưởng trong giây phút hóa là thiên thu. mai về phương ấy không hư không là mấy cõi mà hồn chia trăm đường mắt cười công chúa nhỏ còn gợn bóng mây buông xa xôi là mấy thuở hương còn thắm giữa hồn môi mềm công chúa nhỏ vẫn ấm một lần hôn biển xa là mấy dặm còn âm vang sóng cuồng quanh tim công chúa nhỏ trói mấy vòng tơ vương? núi cao là mấy ngọn nghiêng bóng xuống nghìn trùng bước chân công chúa nhỏ mai về phương ấy không? ở một buổi tình cờ gặp nhau cười nhắc chuyện xưa nghe man mác lạnh hơi mưa ngõ về hỏi nhau còn nhớ những gì chút êm đềm thuở hẹn thề vu vơ chút bâng khuâng, chút dại khờ chút xôn xao buổi đợi chờ đón đưa hỏi tình thơ nhẹ bay chưa về theo mây trắng cuối mùa hoa niên.
đời sau (gửi C.)
xin tay còn nuối vòng ôm xin môi còn ấm nụ hôn ban đầu xin yêu lần nữa, đời sau ta về dỗ giấc chiêm bao đợi người
Kiêt Tấn áo đỏ cầu tàu chiều chiều ra đứng cầu tàu ngó mong lụa áo rực màu đỏ tươi nụ đâu chẳng nở môi cười sao em nỡ để bùi ngùi dạ anh bờ sông anh đứng một mình chờ xe em đạp thình lình hiện ra nối xe anh đạp tà tà xe em quẹo trái anh rà rà theo một cơn gió lốc bay vèo thuyền hương em thả anh chèo mải mê “dù em lạc sở sang tề thì em nhớ gởi thơ về anh hay” biết không em anh ngóng hoài an thành làm chứng miệt mài cù lao lục bình dù có ra vào lòng anh thề chẳng phai màu đợi em.
cầu lộ cầu lầu an thành vườn tược tốt tươi bắc qua đò lại rộn người chợ đông cổ chiên ồ ạt tuôn dòng cù lao trồi ngó vĩnh long đất liền bốn bề sông nước tràn biên cầu gần cầu lộ cầu thiềng đức xa cầu lầu cái cá bắt qua chờ cho đêm xuống để ta thăm nàng sân em có cội mai vàng đường anh xanh mát hai hàng me tươi tan trường vang guốc rộn vui anh ra cửa sổ lui cui đánh đờn sáu dây phiếm cũ đã sờn tình si em rạng nguồn cơn chăng nào.
Trần Bang Thạch NGƯỜI MỸ CHUNG TÌNH
Gặp một người Mỹ chung tình trong cái xã hội văn minh, tiến bộ, giàu vật chất này thì khó quá phải không? Vậy mà tôi đã gặp một người. Có thể nói là tôi đã “sống” với ông hơn mười năm nay, thời gian chắc đã đủ để xác nhận ông là người Mỹ chung tình. Tôi đã muốn viết về ông từ lâu, nhưng tôi muốn chờ thêm, vừa để có thêm thời gian thử thách cái chung tình của ông, vừa để chờ một kết cục có hậu cho câu chuyện. Đến nay thì tôi không thể chờ thêm được nữa. Bài viết phải hoàn tất để đọc cho ông nghe trước khi ông hoàn toàn mất trí.
Khi tôi sang tiệm rượu tại khu thương mại này thì ông là khách hàng đầu tiên của tôi. Hôm đó ông tự động đi đến góc trái, phía trong cùng của tiệm, mở nắp thùng bia ướp lạnh, lấy lon bia đầu bò 18 oz. đem đến quày tính tiền, không cần hỏi giá, ông đưa ngay cho tôi 1 đồng tám mươi chín xu, đa số là các đồng 25 xu; và với một cử chỉ rất thành thạo, không cần nhìn, ông vói tay lấy bịch giấy để nơi hộc tủ phía dưới quày tính tiền; bịch giấy lớn vừa đủ cho ông gói kín lon bia, bỏ vào túi áo bành tô mang ra khỏi tiệm. Hôm đó tôi nhớ ông cúi đầu chào tôi và nhà tôi rất là lịch sự, hình như có một chút mỉm cười. Còn tôi thì trong lúc ngỡ ngàng trước các hành động có vẻ quen thuộc của ông đối với cửa tiệm này nên không có với ông một lời nào, không có cả cái gật đầu đáp lễ. Tôi không biết khu thương mại Á đông mọc lên tại vùng cực bắc Atlanta này từ bao giờ. Người ta nói ông Mỹ này có mặt từ những ngày đầu. Người ta chú ý đến ông vì ông là người Mỹ lạc loài trong số khách Á Đông tới lui khu thương mại không mấy sầm uất này. Ông là người không nhà, một homeless, sống bằng các đồng tiền lẻ của người qua đường. Tôi thì chú ý đến ông không phải vì ông là khách hàng quen thuộc, mà trước hết là vì hai tấm giấy cứng luôn luôn có mặt với ông nơi ngả tư xa lộ I-45 và Cordell. Một tấm kê tựa vào cây trụ đèn, lớn vừa đủ cho ông viết ngoằn ngoèo mấy chữ: Want a beer. Why lie. Đại khái có nghĩa là: Chã cần phải giấu diếm gì cả, tớ đang thèm bia đây, cho tí tiền lẻ nhậu chơi! Xin tiền mà nói huỵch toẹt như vậy thì thật là hết chỗ nói! Kỳ thật hắn đang cần bia, thuốc cho đã cơn ghiền. Có ai dám nói thật những điều này để mà đói meo? Người bảo thủ hay đạo đức thì chẳng muốn nhìn tới cái mặt của ông: không lo ăn mà chỉ có say với sưa, chè với chén! Tấm bảng này có những thuận lợi và bất lợi. Người qua đường thích nói thật, những ai gọi là cấp tiến, thì biết tỏng là tiền ông có được chỉ đi vào cái mục rượu, thuốc; thấy ông chịu chơi vì đã nói thật nên cho ông nhiều tiền; không như những homeless khác cứ than nào là vợ đau con yếu, nào là mới vừa thất nghiệp, v.v…Hay có anh sòng phẳng hơn, cầm tấm bảnh ghi: Work for food. Nhìn bộ dạng ốm tong, mặt mày hì hợm, môi mắt thâm sì đố ai dám rước về nhà để cho ảnh work! Thôi thì cho chút ít đặng yên ổn cái lương tâm.… Tấm bảng kia nhỏ hơn, máng trên cổ, thòng trước ngực, trên có vẽ lá cờ thoạt nhìn có dáng vẻ lá cờ VNCH, cũng 3 sọc đỏ, nhưng 3 sọc đỏ được viền bằng màu xanh lục và chạy dọc theo nền cờ hình chữ nhật không phải màu vàng mà là màu cam sậm. Thấy lá cờ trên ngực ông lần đầu tiên, tôi đâm ra khó chịu, một phần vì mình đã quen thuộc với màu sắc và hình ảnh lá cờ của mình, nay thấy những cái khác thường này tôi chỉnh ông ngay: “Ông có muốn mang cờ của chúng tôi thì tôi xin biếu ông 1 cái, chứ đừng mang lá cờ lầm lẫn lôi thôi như vậy”. Thoạt nghe chắc ông không hiểu tôi muốn nói gì; sau một phút, ông nghiệm ra: “Cảm ơn ông đã chú ý. Nhưng đây là cờ của tổ chức Vietnam Veterans Association. Tôi là thành viên mà”. Tôi chữa thẹn: “Ồ, vậy thì xin lỗi nghe. Tôi cứ tưởng ông mang quốc kỳ của tôi”. “Lúc tôi mới vào nghề đứng đường này, tôi có mang trước ngực lá cờ VN nền vàng 3 sọc đỏ hẳn hoi. Sau có mấy người VN không bằng lòng, họ nói làm vậy không được. Tôi nghĩ cũng đúng thôi: lá cờ linh thiêng của cả một đất nước, một dân tộc mà nằm trên bộ áo hôi thúi của kẻ ăn xin này thì vô cùng phạm thượng. Nên tôi thay bằng cờ hiệu của hội chúng tôi, hội của những cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh VN”. “À thì ra ông có tham chiến ở Việt Nam. Tại sao ông muốn mang lá cờ của chúng tôi?”. “Bàn tay trái của tôi đã để lại trên quê hương đó. Cho đến giờ này, tôi không thấy một chút tiếc nuối nào, trái lại tôi còn có nhiều lý do khác để thấy yêu mến đất nước này hơn”. “Tôi cảm ơn và trân trọng sự hy sinh của ông và các đồng đội của ông. Nhưng chính các ông đã bỏ chúng tôi mà!” “Điều này thì không sai. Cho nên khi biết Miền Nam hoàn toàn sụp đỗ và rất nhiều đồng bào ông sang được các quốc gia Tự Do, ngay từ đầu năm 76, tôi cùng một số chiến binh cũ vận động với chánh quyền Mỹ cho treo các lá cờ vàng 3 sọc đỏ tại các trung tâm thương mại có nhiều người Việt. Tiếc là cuộc vận động bị bỏ dở”. Tôi bất ngờ về điều ông tiết lộ. Thì ra đã có những người Mỹ từ hai chục năm trước đã vận động việc treo cờ quốc gia VN. “Lý do nào mà các ông không được thành công?” “Có lẽ lúc ấy tình hình bang giao còn quá mới, và khối các ông có lẽ cũng chưa sẵn sàng để tham gia cùng nhóm nhỏ của chúng tôi.” Càng nói chuyện với ông Mỹ già vô gia cư này tôi càng thấy thú vị, tiếc là hôm ấy tôi không có thì giờ để nói chuyện thêm với ông, nhưng tôi biết qua câu chuyện vừa rồi, ông đã gợi tánh tò mò của tôi, nên chắc chắn tôi sẽ có thêm nhiều lần chuyện trò với ông hơn nữa. Quả thật như vậy, sau đó chúng tôi có biết bao nhiêu câu chuyện trao đổi trong suốt hơn mười năm quen biết nhau. Nói là mười năm là nói cho gọn, chớ thật sự trong khoảng thời gian đó có khi tôi vắng ông đôi ngày hay cả tháng. Có nhiều lý do để ông vắng mặt nơi khu thương mại này. Chẳng hạn như thay đổi địa bàn làm ăn: ông buồn chân ngứa cẳng đi đến ngả ba, ngả tư nào quanh đó rồi lười biếng đi về chỗ cũ. Thật ra thì đối với kẻ không nhà thì đâu chả là nhà! Hay có khi gom đủ ít tiền hoặc có người tốt bụng cho quá giang, ông đến tiểu bang khác tìm người tình cũ. Đến đây thì câu chuyện của ông lính già này có chiều hướng rắc rối rồi đây vì nó đụng chạm đến chuyện tình, lại là chuyện tình cũ. Người lính già vô gia cư, bữa no bữa đói, sớm say chiều xỉn mà đèo bồng chuyện mười năm tình cũ thì đáng cho tôi viết về ông lắm chớ, phải không? Thú thật cho tới giờ này tôi cũng không biết đích xác ông tên gì. Từ những ngày đầu, ông bảo tôi gọi ông là Triệu Lý, cái tên trăm phần trăm Việt Nam. Sợ tôi nghe nhầm, ông còn viết hẳn ra giấy cái tên Việt Nam này. Ông cũng phát âm tên này rất là Việt Nam, đúng hơn là rất Huế, đúng giọng người Huế. Những tiếng Việt mà ông biết ông cũng nói giọng Huế chính cống. Điều này thì không lạ vì ông có quá nhiều ràng buộc với Huế. Ông nói ông đến Huế khoảng giữa năm 1966, làm tài xế trong toán Dân sự vụ. Lúc đó ông đã ba mươi tuổi. Toán của ông đi qua nhiều làng mạc ở Huế; trạm cuối cùng hồi đầu năm 1968 là làng Triệu Lý. Ông nói định mệnh của ông đã được đặt để ở đó khi điều may và điều không may đến với ông cùng lúc. Nếu không có trận Mậu Thân 68 thì ông không gặp được người yêu của ông ở làng Triệu Lý. Ông nhớ như in buổi sáng mùng một, toán Dân sự vụ gồm hơn hai mươi người của ông bị đánh tan tác, mạnh ai nấy chạy. Lúc ông sắp kiệt sức trong một khu vườn rậm vì nhiều ngày đói khát thì ông được một người dân trong làng đưa vào nhà cấp cứu. Đó là nhà của HL. HL cùng ba má cô đã cất giấu ông trong hầm phía sau nhà và đã tận tình săn sóc ông. Hai ông bà quê mùa chất phác mà có tình thương người vô cùng to lớn, không sợ hiểm nguy. HL là một cô gái phi thường, đã nhiều lần can đảm, khi thì che chở, lúc thì nói dối để đánh lạc hướng những kẻ đi lùng sục từng lùm cây bụi cỏ tìm những kẻ trốn tránh. Thời gian này Thừa Thiên đã có chủ mới. Nỗi kinh hoàng có mặt từng giờ từng phút tại cố đô Huế. Bao nhiêu người vô tội đã bị chôn sống. Sự can đảm của HL không hề suy giảm. HL chăm lo cho ông từng miếng ăn thức uống. Hơn một tháng bên nhau, một tình yêu đã nảy nở, và một đêm trong hầm tối người chiến binh Mỹ và cô thôn nữ làng Triệu Lý đã thệ nguyện thành vợ chồng. Ông nói ông không bao giờ quên được những giọt nước mắt của HL rơi trên vai ông sau đó. Ông biết đó là những giọt nước mắt tuyệt vọng, đau khổ và âu lo. Những giọt lệ của người con gái lần đầu thất tiết và lần đầu đối diện với bức tường thành lễ giáo, nhất là nền lễ giáo ở đất Thần kinh. HL nói ba má nàng sẽ không bao giờ tha thứ cho hành động của nàng. Tình yêu này trước mắt xã hội ở đây là tội lỗi, là điếm nhục gia phong. Nàng nói nàng rất thương yêu ông, nhưng với mối tình không được ai chấp nhận này nàng muốn lấy cái chết để tránh phiền lụy cho mọi người. Ông còn nhớ ông đã khuyên lơn nàng rất nhiều, đã hứa hẹn bao nhiêu điều với HL. Trong bóng đêm, HL cứ tựa vai ông mà khóc. Cơn binh biến rồi cũng đi qua. Ông trở về đơn vị cũ và phải theo đoàn đi ngay ra Quảng Trị. Trận phục kích giữa đường đã làm ông mất một cánh tay. Ngay sau khi rời bịnh viện ở Sài Gòn, ông bay ra Huế thì HL đã bỏ nhà đi đâu mất. Ba má nàng nói họ không chấp nhận đứa con xấu xa như vậy. Ông đã dò tìm khắp nơi, cuối cùng thì ông phải về nước. Từ xa xôi, ông vẫn không ngừng tìm kiếm. Người ta cho ông hay căn nhà cũ vẫn còn đó nhưng người ở thì không. Sau biến cố 75, với nhiều đợt người VN đến Mỹ, ông nuôi nhiều hy vọng. Ông bỏ cả công ăn việc làm, tích cực đi đến các trại tị nạn, rồi đến các nơi có nhiều người VN cư ngụ. Đăng báo và dán các mẫu giấy tìm người nơi các siêu thị Á đông. Càng lang thang, đời sống của ông càng thêm cùng cực. No, đói bất thường. Buồn vui bất chợt. Lắm khi buồn nhớ người yêu, ông mượn rượu để tiêu sầu. Nhiều lúc thoáng thấy người đàn bà VN đi qua, ông vội vàng chạy theo chận trước mặt, thấy không phải, ông khóc rống lên như người điên. Gặp ai ông cũng hỏi han về làng Triệu Lý, về người yêu của ông; người ta không biết, ông tỏ vẻ vô cùng buồn khổ. Người ta càng tránh thì ông càng đói. Càng thấy ít người đàn bà VN đi vào khu thương mại ông càng buồn, càng chán nản. Ông trông đầu này, ngóng đầu nọ. Người yêu vẫn bặt hơi tăm cá mà ông thì vẫn cứ lang thang kiếm tìm.
Hơn ba mươi năm đi tìm người yêu dấu, há chẳng phải là chung tình lắm sao?! Tôi biết với tinh thần và sức khỏe càng ngày càng sa sút như thế này, không bao lâu nữa ông sẽ quị. Người Mỹ già chung tình tên là Triệu Lý này sẽ mang hình ảnh thương yêu của một người con gái VN về nơi chín suối, chắc chắn là như vậy.
Xuân Bích Chiều mưa sooner* chiều rơi theo mưa trên thành phố ướt lá cây xanh ướt mảnh đời những vạt nắng cuối mầu cỏ úa lịm dần như chết dưới chân trời
chiều treo trên không gian mờ xám chợt thoáng mơ hồ giọt nhớ xa nhớ những cơn mưa nhòa góc phố tay che niềm ướt dáng em qua
đêm nay có thể trời mưa nhỏ em có nghe trong tình khúc xưa cánh cửa lâu đài xanh kỷ niệm khép hờ như ngại vướng đong đưa
tay nương giọt nước nhìn tan vỡ ướt cả mầu da ướt cả hồn cơn gió vô tình hong mắt lạnh làm khô hoài vọng đã hao mòn
khi xưa ta phủ đời sương gió bằng lá thư em viết nửa chừng những nụ hôn tay bay vào nắng sao giờ còn lạnh những “không nhưng…”
* Sooner: Biệt danh của Tiểu bang Oklahoma.
tiếng khuya gió khuya về cuối đêm sao ta nghiêng giấc ngủ cho trào mộng xanh tiếng khuya sùng sượng âm thanh dòn như môi nắng đành hanh dở mùa bóng chim hờn dỗi song thưa hồn đơn ướt cánh nên vừa ngủ quên tiếng khuya leo lét bên đèn tiếng chim uyên rót say miền trở trăn bốn mươi năm ước đêm gần cây vàng rụng nhớ trong màn sương thơ quê hương lãng đãng sông hồ tình yêu ở giá bây giờ dại ngây em nghe tản mạn vòng tay sao không dẫn độ một ngày tình tang.
vu vơ người tình không dung nhan từ một thoáng xoay vần vào hồn ta hoang đảo gặp nhau đêm phân trần
người tình hai chân dung nên cứ thế lưng chừng một ngửa vui thai nghén một nghiêng buồn tượng trưng
người tình xưa quen mau rồi như mãi về sau xa hay gần vẫn nhớ ừ nhỉ…chuyện đâu đâu
người tình yêu vu vơ gần nhau nơi bến bờ và vẫn nhiều mâu thuẫn giận nhau như học trò người tình không tương tư không hò hẹn thư từ nhưng quê hương hình bóng vẫn cùng nhau riêng tư
chuyện tình giờ như men chưa bao giờ có tên vì hàng đêm nhân chứng vẫn chỉ là ngọn đèn
người tình vui như mưa nhưng thường hay biếng đùa và không chiều nỗi nhớ như ngày y-a-ua (yaourt)
người tình se môi hờn hay tựa bóng hoàng hôn nhìn trang đời viễn xứ mắt cay chuyện mất còn
Kim Oanh Cô Phụ Thạch sùng chắc lưỡi đêm thâu Hay lòng cô phụ gối đầu thở than Lung linh dưới ngọn đèn vàng Giọt sầu nhoè nhoẹt mờ trang sách đời
Bóng ai xa tình vời vợi Gom mây ngàn phiêu bạt gợi hình xưa Âm vang lắc rắc giọt mưa Gục đầu trên sách đời chưa cạn tình
Nghẹn ngào cung oán biệt ly Sờn vai áo mỏng người đi nghìn trùng Rừng sâu đồi núi chập chùng Bóng ai ẩn khuất trong khung cửa lòng
Nỗi lòng cô phụ dõi trông Hương yêu ấp ủ chờ mong bóng người Người từ đầu non diệu vợi Có thấu lòng cô phụ đợi chờ ai
Thời gian dù có tàn phai Bên song cô phụ đợi hoài bóng xưa.
Hương cỏ may Mộng mơ về tình trần thơm ngát Gió ân tình dào dạt tiếng yêu Đôi mắt huyền tợ ánh lửa khiêu Đốt cháy bỏng rực tim khao khát
Dời bước nhé vào vườn thơ nhạc Dưới trăng thề nhấp chén đam mê Hôn môi khô rượu ướt tràn trề Thơm hơi thở men say hồn lạc
Sương tan rơi vết đời dịu mát Ôm vai gầy hương tóc cỏ may Tình bên nhau quên hết lưu đài Khép hờ mắt hồn ngây ngất dại
Đêm qua chưa khoảnh trời mờ nhạt Đất với trời xoáy lạc thiên nhiên Xiết vòng tay bôi xóa vết phiền Đan nhịp thở thiêng liêng màu nhiệm
Bóng người đi Chờ đợi mãi sao ai chẳng đến Hạ nồng đốt cháy đóa hoa xinh Người đi xa theo bước đăng trình Ai không đến tim mình vụn vỡ
Chờ đợi mãi đường dài xa hút Bóng người đi từ lúc tiển nhau Bao mùa đông tuyết trắng một màu Phủ nhân ảnh mờ theo ngấn lệ
Mưa giăng giăng đất trời hoang phế Thấu cho lòng bao nỗi ủ ê Hình bóng xưa khuấy lòng xao động Từ mịt mù ngàn dặm sơn khê
Bên song đợi bóng gầy lặng lẽ Bên rèm the mờ khuất sương mù Nửa gối chiếc trăng buồn chia sẻ Nửa đến người tình nhớ ngàn thu
Tím không gian Em đến bên tôi một buổi chiều Lá thu rơi nhẹ gió hiu hiu Diễm kiều áo tím ươm mơ mộng Trời lộng tóc dài kết hương yêu
Dìu bước thu đi gót đông sang Lá khô vỡ nát phút ngỡ ngàng Đôi vai đẫm ướt làn sương mỏng Che dấu tim nồng… đếm thời gian
Tôi vẫn chờ em cuối dốc ngàn Vai mang đông xám bám hồn côi Dòng đời trôi…giá mùa chẳng đổi Mơ hoài áo tím… tím tình tôi.
trường thy NÓN LÁ QUÊ HƯƠNG
Nói đến quê hương là nói đến niềm nhớ, nhất là những ngày xa xứ, lưu vong trên đất lạ miền xa. Trong những nhớ ấy, mỗi quê hương mang một mầu nhớ, và ngay trên đất mẹ mỗi miền lại xanh um những hoài niệm tình quê riêng rẽ. Ai mà không từng chép miệng tiếc nuối những hương vị ngọt ngào đã thấm đượm hồn người đến đậm đà mỗi khi nghe nhắc tới: dưa La cà Láng nem Báng tương Bần nước mắm Vạn Vân cá rô Đầm Sét hoặc nhớ đến những nông phẩm, đặc sản của vùng Ninh Bình chẳng hạn qua câu ca: lúa Đồng Vông bông Đồng Gàng khoai lang Đồng Bội. Những nhớ ấy thật vô vàn, thật miên man, có khi rạo rực, có khi âm thầm. Trong trái tim con người nếu đã nồng nàn yêu thương thì cũng không tránh khỏi nhớ nhung ngập lòng. Một khi đã nẩy sinh nguồn tình yêu thì cũng đã cấy trong đó những mầm luyến nhớ, và khó, thật khó, vạn lần khó khi phủ nhận những kỷ niệm trong đời. Tình yêu thì bao la, vượt không gian, vượt cả thời gian, và niềm nhớ cũng vô bờ bến, hầu như không có mức độ để đo lường bởi nó lây lan từ tình yêu.
Nói đến những nhớ nhung ấy là đi vào thế giới đầy phức tạp và không cùng. Nơi quê hương từ cánh chim, tiếng sáo diều, hương hoa, mầu lá, đường xưa, lối cũ, mưa bụi bay trong mùa xuân Hà Nội, câu hò mái đẩy trên Hương Giang, nắng vàng Đà Lạt, mưa Sài Gòn v.v. và v.v. , nói sao cho cùng, bao giờ cho hết. thôi thì trong phạm vi hạn hẹp này thiết tưởng chỉ xin tản mạn đôi chút về “NÓN LÁ QUÊ HƯƠNG”.
Từ những ngày xa xưa, nón lá đã là một trong những trang phục cần thiết của người dân, đặc biệt là phái nữ. Nón lá dù đã rất quen thuộc và gần gũi với chúng ta, song ngày nay nơi hải ngoại hầu như đã mất đi hay là hiếm thấy những hình ảnh duyên dáng với nét đẹp độc đáo của sắc thái dân tộc trên dung nhan mềm mại, kín đáo nhưng đầy quyến rũ của cô gái Việt trong tà áo dài và chiếc nón lá. Ta thử mường tượng xem hình ảnh ấy đẹp biết bao qua câu hát:
– Em là cô gái Bắc Ninh – Em nghiêng vành nón mái đình nghiêng theo!
và ngày nay, một Trầm Vân cũng không quên được nét mỹ miều nên thơ ấy đến độ phải thốt lên qua mấy câu “Trong Tình Thầm Lặng Chập Chờn Vần Thơ”
– Ai qua mấy nhịp Tràng Tiền – gót hồng nhẹ thả nón nghiêng nghiêng chiều!
Quả thật vành nón mỏng manh mà làm chao nghiêng cả vũ trụ người đến độ sóng tình quê hương xô dạt cả một trùng khơi ý nghĩ, gom về hai nửa:
Nón cũng nhiều loại như ta có: Nón Dấu (dành cho lính thú ngày xưa) – Ngang lưng thì thắt bao vàng – đầu đội nón dấu vai mang súng dài. (Ca Dao) Nón Rơm (làm bằng rơm ép cứng) Nón Gõ (làm bằng tre ghép, dành cho lính ngày xưa) Nón Lá Sen, còn gọi là Nón Liên Diệp Nón Thúng (làm bằng lá, hình tròn và bầu, giống cái thúng) Nón Gò Găng, còn gọi là Nón Ngựa (làm bằng lá dứa, sản xuất ở Bình Định. Nón Bài Thơ (làm bằng lá trắng và mỏng có ghép hình và mấy câu thơ, xuất xứ từ Huế)
Cũng như chiếc quạt giấy, nón lá là vật không xa lạ gì với chúng ta; tuy nhiên có lẽ ít ai để ý đến để thấy nón có 16 vành từ nhỏ đến lớn, tượng trưng cho tuổi trẻ, tuổi “trăng tròn lẻ”, trăng 16 vậy. Lá làm nón, theo tác giả Nguyễn Qúy Đại, có tên là Bồ Quy Diệp, lá mỏng và mềm mại.
Ở Huế có nhiều nơi làm nón có tiếng như Nam Phổ, Kim Long, Tân Mỹ, làng Chuồn, cạnh dòng sông Như Ý, thuộc Phú Vang, Thừa Thiên, sản xuất nón bài thơ trông rất thanh nhã với tranh chùa Linh Mụ, cầu Tràng Tiền v.v., và những câu thơ được ghép vô nón thường mang tình tự xứ Huế như:
– Sông Hương lắm chuyến đò ngang – chờ anh em nhé, đừng sang một mình! (Ca Dao)
Nón không những dùng để che nắng che mưa mà còn là yếu tố đưa đẩy đến duyên tình lứa đôi: Nón này che nắng che mưa Nón này để đội cho vừa đôi ta (Ca Dao) Suốt chiều dài đất nước, người con gái Việt Nam đội nón, che nón, hay cầm nón, cũng đều đã gieo đầy tình tự mang dấu ấn văn hóa nhân bản của truyền thống dân tộc, vừa tình tứ, vừa duyên dáng, vừa lãng mạn, nên thơ. Trích đoạn trong thi phẩm “Bài Thơ Hà Nội”, nói về 36 phố phường của Hoàng Anh Tuấn, ta nghe: ………………………………………… Hàng guốc trưa hè gõ nhịp bình an Khi hàng nón quay nghiêng che mắt thỏ Anh lúng túng cả Đồng Xuân xấu hổ Gió mơn man hàng quạt áo đong đưa.
Trong cử chỉ khéo léo, khép nép, có phần vờ vĩnh ấy, phải chăng đây là bản tính của người con gái nói chung, nên đã mượn vành nón để ngụy trang cho cái nhìn “chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay”, và nhà thơ Vô Tình đã ‘bật mí’ các cô – kín đáo – liếc nhìn nghiêng vành nón lá – ai mình biết ai?
Đến với miền Trung, xứ Huế, xứ của nón bài thơ, Lang Liêu chắc cũng đã có lấn bắt gặp đâu đó bên bờ sông Hương chiếc nón nghiêng vành; không hiểu, mà ai hiểu được tại sao nón lá lại cứ hay nghiêng vành. chắc chắn ở đây không phải là nón không quai như trong Ca Dao có câu:
tròng trành như nón không quai như thuyền không lái như ai không ch…!
Và Lang Liêu đã viết:
bài thơ chiếc nón bài thơ bài thơ ngày ấy bây giờ chưa quên bởi : – mỗi lần vành nón em nghiêng – bài thơ lại hiện trên nền nón thơ
rồi nữa, thêm một lần nữa, miền sông Hương núi Ngự lại gợi cho ta cái thời hoàng kim qua tà áo với gió và chiếc nón quai lơi:
gió cầu vương áo nàng tôn nữ quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ.
À! thì ra lần này do quai lỏng, song cũng có thể là do người ấy thả lỏng quai chăng. Hẳn là chúng ta cũng đồng ý chiếc nón nghiêng vành nói lên nhiều ý nghĩa và dường như cũng để làm tăng thêm cái duyên dáng của người phụ nữ. Chẳng thế mà cho đến bây giờ một Trầm Vân của hôm nay vẫn thấy ‘’Vành Nón Nghiêng Duyên’’ và viết lên lời tri ân chiếc nón:
nón kia em lỡ bỏ quên cho anh nhặt được cầm lên đem về hương thơm ngan ngát tóc thề bay quanh nhà thả bùa mê vào lòng sáng mai trả chiếc nón cong bỗng tương tư cặp má hồng lúm duyên ——————————————- trăm năm giờ đã nên duyên cám ơn chiếc nón chiều nghiêng ngày nào.
Qua những vần thơ trên ta thấy nón đã âm thầm mang những lời tình đến cho người yêu như TBT&Nguyệt Xưa đã cảm nhận qua câu hỏi:
có gì trong lá trong nan mà em để lại cho chàng hở em?
Trở lại với vùng đất Quy Nhơn, nón vừa là sứ giả của tình duyên vừa là sính lễ của duyên tình. Cũng trong Ca Dao, kho tàng văn chương truyền khẩu nói về cưới hỏi, chàng trai nào đó hứa hẹn:
– giúp em quan tám tiền cheo – quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Riêng chàng trai An Thái đất Bình Định rất đơn sơ nhưng đầy tình ý, bởi nón là để đội trên đầu như trong bài thơ cổ “Thơ Cái Nón” đã có câu: – vòi vọi ngồi trên ngôi thượng đỉnh nên sính lễ của chàng chỉ là đặc sản địa phương:
– cưới nàng đôi nón Gò Găng – xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn.
Qua hình ảnh nón lá nghiêng che dường như đã cho ta ý nghĩa của nghiêng lòng, của mung lung hoài tưởng, của viễn tượng chờ mong, của một ước mơ vời vợi, và Trầm Vân một lần nữa trong “Mưa Khuya” đã mường tượng:
– áo dài mỏng mảnh trắng trong – nghiêng vành nón lá qua lòng chiêm bao.
Vành nón lá quê hương một khi mai mối đưa duyên thì cũng có lúc nghiêng che như để tránh né điều gì. Dầu vậy nghiêng che hay che nghiêng cũng không che dấu được bối rối, bồi hồi, bâng khuâng và lúng túng như Thu Nhất Phương đã có lần gạn hỏi: – sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón? Và giả như: – nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước – thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau – nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào – đôi chân bước… anh nghe chừng sai nhịp.
rồi ở một khía cạnh nào đó, người con gái xưa có thể là e lệ, nhún nhường, song cũng có thể là khéo léo từ chối một cách êm đềm, tế nhị, đều nhờ đến chiếc nón trên tay:
– nón em nón bạc quai vàng – thì em mới dám trao chàng cầm tay – tiếc rằng vì nón quai mây – nên em chẳng dám trao tay chàng cầm!
Nón lá quê hương đã âm thầm mang theo tình tự dân tộc đi vào văn học dân gian như dấu ấn tuyệt vời của văn hóa Việt. Ngày nay nét đẹp duyên dáng ấy không còn hay ít thấy xuất hiện trên đường phố thênh thang hoặc trong những ngày lễ hội mà chỉ còn may mắn bắt gặp trong một chương trình văn nghệ nào đó có lồng vô những màn dân ca như Quan Họ Bắc Ninh chẳng hạn hay những mục trình diễn y phục truyền thống dân tộc mà thôi. Dầu vậy hình ảnh người con gái Việt Nam trong tà áo dài với chiếc nón lá xuất hiện nơi đâu, bất cứ lúc nào – trên đường phố, bên giáo đường, trong sân chùa, hay trên sân khấu đại nhạc hội v.v., vẫn là những hình ảnh độc đáo, mang đậm mầu sắc quê hương, tuyệt vời bản sắc dân tộc và còn là biểu tượng của Văn Hóa Rồng Tiên vậy.
Như Phong LỜI THƠ THEO LÁ VÀNG BAY
Đả qua bao mùa thu rồi nhỉ Trong mắt em vàng uá bao lần Hàng phượng vĩ bao mùa thay lá Mấy thu buồn chất ngất trong tâm
Mùa thu nào bỏ phố đi xa Giọt sương buồn đọng trên mái tóc Trăng cũng buồn cho buổi chia ly Đêm tiển nhau hai ta cùng khóc
Phố cũ em vẫn còn trằn trọc Xứ người ta trải nặng thương đau Mỗi độ thu về lòng thổn thức Ta thèm nghe tiếng gọi tên nhau
Gió ơi, gió ơi!! Nhờ ngươi mang về giùm ta nhé Lời buồn trong chiếc lá đang bay Ta gởi tặng em bên vườn cũ Lời tự tình theo gió heo may
Mấy thu rồi ta vẫn còn say Hương môi em thơm nồng ngất ngây Dù đả bao mùa thu thay đổi Trong ta, em chất ngất men say
THU VỀ
Đêm qua heo may cơn gió lạ Sáng nay sương đọng biết Thu về Bàng bạc mây trời trôi lãng đãng Mong manh giọt nắng rớt sau hè
Theo cánh nhạn gởi hồn xa xứ Sầu đong đất khách buồn quạnh hiu Nhặt chiếc lá vàng ghi tủi phận Thả hồn trôi dạt chốn cô liêu
Dằng dặc ly sầu ta nốc cạn Ngẫn nhìn tóc bạc rụng đã nhiều Ngơ ngác nhìn lá Thu lác đác Xót xa thân lạc xứ tiêu điều
Lãng đãng mây trời tan rồi tụ Mòn mỏi chân lữ khách lỡ đường Đã bao Thu rồi lòng khắc khoải Hẹn thầm mai trở lại cố hương.
Phạm Văn Nhàn Đọc thơ Nguyễn Đức Nhơn 1. Vào giữa tháng tám, năm 2006, nhà thơ Nguyễn Đức Nhơn gởi đến tôi tập bản thảo thơ văn hợp tuyển Mùa Gió Bấc nhờ tôi viết bạt. Có lẽ, anh nghĩ, giữa tôi với anh có sự quen biết từ lâu khi còn ở quê nhà, nhất là sau tháng 4 năm 1975, khởi đầu cho một cuôc đời “nghiệt ngã” mà tôi đã gặp anh trong trại Cà Tót:
“đêm về lạnh lẽo đêm Cà Tót hiu hắt mưa khuya tạt chiếu nằm núi rừng vây hãm người thua cuộc hì hục quanh tôi tiếng hổ gầm”
Địa danh Cà Tót là một khu rừng già nguyên sinh chưa bao giờ có dấu chân người đến. Núi rừng bao phủ, với những cây to bóng lớn nằm sâu trong tỉnh lộ 8 đường lên Lâm Đồng. Với 4 câu thơ trên trong bài: Sau Mùa Chinh Chiến tôi trích ra từ tập thơ văn hợp tuyển Mùa Gió Bấc của anh như để nhắc đến ngày đầu tiên chúng tôi bị đưa lên mật khu Cà Tót: núi rừng vây hãm người thua cuộc. Để rồi bao nhiêu lần chuyển trại trong những năm nghiệt ngã của tôi và anh. Đi đâu rồi cũng: cái gô và chiếc quần bao cát. Nó lại theo tôi đứng giữa trời…!! (anh nhắc giùm cho chúng tôi) Nhiều khi tôi muốn quên đi những năm tháng ấy. Nhưng tập thơ văn anh gởi đến như gợi lại trong tôi những hình ảnh như mới ngày hôm qua. Nhớ lại những năm tháng ấy, anh sống thật lặng lẽ, ít nói. Cứ lầm lũi mà đi trong lao động. Thỉnh thoảng tôi thấy anh “lảm nhảm” như nói cho chính anh nghe. Ừ, phải rồi, tôi nghĩ, có lẽ anh đang lập lại những câu thơ mới thoáng hiện trong đầu… Cũng có thể lắm; vì giấy chẳng có. Mực cũng không. Mà nào ai dám viết! Chỉ còn viết trong tư tưởng phải không Nguyễn Đức Nhơn? Nhiều bạn bè “cùng khổ” trong đội sản xuất cứ gọi anh là “ông đạo”. Có lẽ vì cuộc sống “thanh bần, lạc đạo” của anh. Gọi như thế, anh vẫn cười.
Vâng, có như thế, sau những năm tháng thăng trầm ấy, bạn bè gặp lại, ngồi nhắc chuyện xưa thấy vui và cũng thấy tủi buồn cho cái thân phận “người tù” sau tháng 4 năm 1975 ấy. Với anh, tôi biết đã lâu. Vẫn một đời nặng nợ với thơ văn… thì trong cái bối cảnh nghiệt ngã đó anh “lảm nhảm” đọc lại những câu thơ mới làm trong tư tưởng để quên đi:
“những bước chân đi thật não nề mây mù giăng kín nẻo sơn khê bao nhiêu chiếc bóng vô hồn ấy sáng sớm ra đi chiều lại về” (Sau Mùa Chinh Chiến)
Thời gian: sáng sớm ra đi chiều lại về làm tôi nhớ những bạn bè, đồng đội đi âm thầm như bóng ma, gầy gò trong bộ áo quần rách nát mà anh đã viết rất đúng, rất thật: “cái gô và chiếc quần bao cát/ nó lại cùng tôi đứng giữa trời”. Muốn quên mà không quên được phải không Nguyễn Đức Nhơn? … Nhiều khi nhắc lại càng thêm tủi. Nhưng khổ nỗi, khi đọc lại những dòng thơ mang theo những hình ảnh “ảm đạm” ấy, kỷ niệm lại hiện về.
Thế rồi những năm tháng lận đận cũng qua đi. Và anh và tôi rồi cũng chia tay nhau trở về quê nhà như người khách lạ. Trong bài thơ “Khách Lạ” đọc đoạn thơ nào cũng thấy hay. Anh viết thay cho tôi và, có lẽ thay cho những bạn bè cùng “bên trời lận đận” chữ của nhà văn Trần Hoài Thư. Lận đận không phải còn ở trong trại mà lận đận ngay cả ngoài đời. Khi mà:
“khách về đây sông nước ngại ngùng con thuyền nhỏ chở đầy sóng gió trở về neo trên bờ bến lạ thuyền bập bềnh giữa bến chiều hoang” hay:
“khách băn khoăn chân bước ngập ngừng từng nhịp thở gõ đều trên nỗi nhớ kìa ai lạ? khách sửng sờ hỏi nhỏ ai ngồi kia xỏa tóc im lìm?
khách bàng hoàng nghe máu ứa về tim hàng dương liễu cũng gục đầu thổn thức khách lặng lẽ quay về sông nước bến chiều xa khói cũng mơ hồ!”
Trích vài đoạn trong bài “khách Lạ” của anh, đọc mà thấy thấm đẫm trong lòng. Khách lạ, vâng, đúng vậy. Con phố cũ, ngã tư đường, xóm làng xưa, con đê đó… lạ lẫm đối với người tù cải tạo trở về. “Lạ và sợ” tất cả. Bởi vì: “con thuyền nhỏ chở đầy sóng gió” cho một cuộc sống mới đầy âu lo.
2. Sau bao nhiêu năm trôi dạt trên xứ người, tôi gặp lại anh. Và mời anh đến với chúng tôi qua tạp chí văn học Thư Quán Bản Thảo. Mà tôi nghĩ trong bài: Cảm Ơn anh đã nói lên cái gần gũi, bao dung của người cầm bút, bạn bè như những năm trước 1975. Dù có cầm súng ngoài mặt trận, hay trở về phố với bao nỗi buồn cô đơn như bài thơ anh viết:
“có những buổi hoàng hôn êm ả ta thẫn thờ trên bến Vân Lâu…”
Tôi nghĩ chỉ có bạn bè khi đến với nhau – thật tình – vẫn còn cái tình, cái mến:
“cảm ơn đời đã cho tôi cuộc chơi chữ nghĩa niềm vui bạn bè cảm ơn tôi biết đam mê cảm ơn tôi biết hả hê khóc cười”
Vâng! Chỉ có bạn bè mới hiểu được nhau đến thế.
Tháng 8, chỗ tôi ở nóng, có ngày lên đến cả 100 độ F. Tập thơ: Mùa Gió Bấc của Nhơn đến làm dung hòa được giữa cái nóng thực bên ngoài, và cái lạnh của mùa đông qua tựa của tập thơ văn hợp tuyển của anh. Cho nên khi đọc xong, tôi thấy ấm lòng với những con chữ thật giản dị và rất gần gũi với tôi qua 95 bài thơ và 10 truyện ngắn trong Mùa Gió Bấc. 95 bài thơ vừa ngắn có, vừa dài có. Nhưng không quá dài để cho người đọc “ngán ngẩm” mà còn ngược lại thích thú khi đọc thơ của Nhơn. Quả như vậy; vì những con chữ trong thơ anh không cầu kì, giản dị nữa là khác. Những ngôn ngữ trong thơ anh không cần phải đi tìm kiếm, hay mang một ẩn dụ nào khó hiểu, nó hiện thực trong đời sống bình thường như chính cuộc đời của anh: trầm lặng và giản dị. Sự giản dị của anh đến nỗi có bạn bè cho anh là “lập dị” nhưng tôi thì không nghĩ như thế. Khi còn trong trại, anh ví anh như con ngựa già:
“con ngựa già đuối sức Ta thấy lòng quặn đau”
Con ngựa già ấy đã một lần và vĩnh viễn:
“ta lột giầy vất kiếm ném mũ cởi chiến bào”
Rồi cũng có lúc tâm trí thảnh thơi, anh lại nghĩ con đường đã đi qua. Mười năm trong nghiệp binh đâu phải ít ỏi. Thế mà, mới đó đã thoáng qua mau:
“chiều nghe loáng thoáng màu thu lá xanh níu lá vàng đu trên cành ta ngồi tiếc lá màu xanh nhớ xưa trót lỡ tành hanh với người”
Lúc ấy anh đã trở về lại quê cũ. Ở đâu? Một miền quê: “đồng khô một dải mù sương khói” ấy để anh cứ nghĩ: ừ thì dầu gì cũng đã mười năm. Nay cứ ôm ấp cái mộng thanh bình để an ủi cho thân phận. Cứ vui bên mái tranh. Cứ nhìn ngọn Xã Thô đứng chơ vơ
bao nhiêu lần mây trắng phủ. Trong khung cảnh buồn ấy, người lính già – anh cứ cho như thế – để an vui với đàn gà:
“mười năm ôm ấp mộng thanh bình trả súng đạn về bên mái tranh gọi đàn gà nhỏ về mở hội dưới bóng me tàn ươm lá xanh”
Và:
“mười năm rồi lại mười năm nữa mái tóc phai dần theo tháng năm trả súng đạn về nương xóm cũ người lính già buồn nhớ xa xăm”
Với nỗi buồn “cô đơn” ấy. Ta lại nghe anh tâm sự:
“chiều buồn ra hiên ngồi khọn mắt mờ chẳng thấy được xa chỉ thấy con ruồi con muỗi đánh mùi bu lại quanh ta”
Bốn câu thơ trên nghe thân phận người lính già NĐN buồn quá đỗi. “Ngồi khọn” ngôn ngữ trong thơ anh rất “đặc trưng” nơi miền quê của tôi. Nó không biến dạng qua ngôn ngữ thơ mà nó vẫn hiện diện một cách rõ nét ngoài đời, “ngồi khọn” là ngồi một mình, buồn vu vơ. Có thể nói ngồi trong cái cảnh rất là “cô đơn”. Ngoài ra những hình ảnh trong thơ của anh cũng thật gần gũi với tôi, như: cười ngất ngư/ đàn gà con/ đàn vịt rỉa lông/ giàn bầu giàn mướp… mà chắc rằng nơi phố thị khó mà tìm thấy được những hình ảnh đó: lặng lẽ quay về sông nước/ bến chiều xa khói cũng mơ hồ đó mà.
3. Phải nói là những con chữ trong thơ của anh không mang một ẩn dụ nào khó hiểu. Nhưng nó (con chữ) vẫn nhẹ nhàng như khói như sương như những giòng lục bát anh làm trước 1975. Như:
“mưa còn rơi buốt giòng sông lênh đênh một chiếc đò không mái chèo đò em tôi lén gieo neo giữa khoang một chiếc đèn leo lét buồn”
hay:
“trăng tàn, bến Ngự mù sương nửa đêm nghe tiếng dòng Hương trở mình bao nhiêu nước bao nhiêu tình đàn ai trổi khúc Nam Bình nỉ non”
Trước 1975 tôi biết anh đang công tác ở vùng 1 chiến thuật. Chỉ thấy núi với rừng. Như trong bài thơ: Mây ngàn. Có lẽ qua bài thơ này để tôi biết được người lính trẻ NĐN chân ướt chân ráo mới đổi ra miền Trung. Anh thấy gì nơi ấy: Mây và núi chập chùng. Đời lính của anh cũng bắt đầu từ trong những dãy núi chập chùng ấy:
“bóng chiều vương cánh sắt lạc lõng giữa trời Trung mây ngàn mây lãng bạc núi gợn núi chập chùng”
Để rồi, hơn mười năm trong đời binh nghiệp, anh được gì? Cuối cùng người lính già NĐN rồi cũng trở về quê cũ, nhìn ngọn Xã Thô mây đùn quanh năm ấy để mở hội chơi với đàn gà, đàn vịt. Để rồi người lính già NĐN ngẫm nghĩ mà ngộ ra:
“cũng bày trò chiến quốc cũng hợp tung liên hoành bủa vây trùm trời đất trò chơi còn mới toanh”
Cái đáng nói ở đây: “ trò chơi còn mới toanh” đó, chỉ còn kết quả là:
“con ngựa già đuối sức ta thấy lòng quặn đau con ngựa già ngã gục ta nát cả tâm bào
ta lột giầy vứt kiếm ném mũ cởi chiến bào một mình trên đường vắng ta và ta dìu nhau”
Dìu nhau đi đâu hả Nguyễn Đức Nhơn? Những con chữ trong câu thơ trên thật bình thường. Nhưng sao nghe lòng đau quá đỗi. Anh, tôi và còn nhiều người nữa làm sao quên được khi chiều xuống trong khu rừng rậm nguyên sinh Cà Tót? Âm khí bốc lên làm hao mòn từng thân xát của mỗi con người. Mới thấy hôm nay, sáng hôm sao đã thấy: bao nhiêu chiếc bóng vô hồn ấy. Đọc bài: Sau Mùa Chinh Chiến của anh mà ngậm ngùi
“chiều hun hút giữa rừng thiên nước độc đêm uy linh nhờn nhợn tiếng ma Hời từng giọt máu căng phồng bầy muỗi đói tôi bỗng sờn da, bỗng rợn người”
Phải nói, với anh, thơ không là “một phương tiện” để anh hận thù trong những năm gian khổ trong trại cải tạo; mà anh làm thơ viết văn như để trang trải tấm lòng cùng với bạn bè, trong lúc mà những bạn bè anh như: “những đám mây chiều trôi lãng đãng” thì tại sao lại không:
“cái thú điền viên hai thằng đầu bạc bê rượu ra sân chén tạc, chén thù ngửa mặt lên trời cười đến ngất ngư”
“Cười ngất ngư” để quên đi cái cảnh hợp tung của thời xuân thu chiến quốc ( chữ thường)… để rồi khi trở về làng cũ với mảnh đời rách nát, đi đâu cũng thấy mình là khách lạ, may còn một ít bạn bè hiểu anh để “ngất ngưởng bên nhau nói chuyện bao đồng/ khi trở về có lội suối, qua sông/ nhớ chống gậy mà dò sâu, cạn…” (đọc và hiểu ý của anh qua câu thơ trên)
Viết về NĐN qua tập “thơ văn hợp tuyển Mùa Gió Bấc”, chưa đủ để nói hết về con người của anh qua 95 bài thơ và 10 truyện ngắn. Sống trên xứ người ở cái tuổi xắp xỉ bước qua 70 mươi (chỉ còn vài năm nữa thôi) mà anh lúc nào cũng nhớ đến “chốn xưa làng cũ” dưới chân núi Ông. Có ai định vị đươc núi Ông ở quê tôi? Chắc là không, chỉ nghe nơi đó:
“đêm nằm nghe tiếng ếch kêu râm ran giữa chốn đìu hiu núi rừng đôi bờ mắt chợt rưng rưng lời thơ buồn cũng ngập ngừng trên môi chập chờn trong cõi đầy vơi như con nước lững lờ trôi giữa dòng trong cơn chìm nổi phiêu bồng tôi mơ về lại cõi hồng hoang xưa”
Và hiện tại nơi anh đang ở. Cõi hồng hoang xưa đó dù gì cũng đủ để anh “chập chờn” trong giấc ngủ để mơ về một cõi xa. Còn hơn, hôm nay:
“Lọm khọm bước lần theo lối nhỏ Ra ngồi trước cửa nớt sinh hôm Ông lão nhớ một thời trai trẻ Mộng đời ươm kín bờ môi thơm”
Có lẽ không lâu đâu, tôi hay anh rồi cũng thế.
Vũ Tiến Lập Ảo hóa chỉ còn lời thầm thì của lá luồng nước vỗ ngập bờ cảm xúc đê mê rồi khép chặt cánh cửa mở trong an bình ngày xanh đang phai mầu tuyệt đỉnh con chim ngậm hoa về phố thị xóa những bước chân cuồng hoàng hôn thong dong điệu nhạc rời Jazz ở bao la như kẻ say giữa gió xuân sắp chín trên khuy kèn thắm thiết uốn âm vang rụng thắm cả rừng chiều đợi cánh nhung đen về ôm tuyệt tích ảo hóa là thời gian chuyển động bấm sâu vào hạnh phúc mù lòa gió chẳng bao giờ một định hướng mây nào tìm được chốn ẩn thân tiều phu cũng lìa rừng.
Lời huyễn em lộng lẫy như loài chim xanh bay suốt vào ký ức tôi kỳ bí mạch sống ngan ngát nỗi cô đơn mùa giông trù phú thêm viễn mộng chẳng còn lời huyễn nào thay thế ngoài âm thanh mật độc đăng thức giữa ngày tráng lệ thời gian không thực có khoảng cách mãi mãi là bây giờ trí nhớ nguyên vẹn chân tình vỡ vụn hư hao đồ tễ bày mộng thực thách thức bên lề gánh xiếc những bước thầm theo nỗi chết chuyện đời là giòng sông em dẫn sông về biển cả hạnh phúc của kẻ ra khơi lượn trên vùng đá ngầm cánh buồm cuộc gió mãi xa
Dạ khúc xuân ừ thì xuân với mộng ta với người đổi bóng đuổi theo trăng đổi cho ra bao ngàn xuân năm trước một duyên thề một mái tóc bôn ba
Chiều cuối năm gởi Yến chiều cuối năm đơm nồng mùi gió mới lạnh nẩy mầm xanh mộng cũ đong đưa thiết tha tôi nhớ em thêm vội vã chuyến xe về mong cho kịp tối nay
Hoài Hương Chuyện áo quân của phụ nữ Việt Nam Mẹ của Hoài từ Huế ngồi xe đò vào Đà Nẵng thăm các con. Ngay lúc nầy, Hoài gặp lại bầy chim nhỏ ở chốn cũ, tiếng đàn chim hót líu lo vang vọng lại từ tận quê nhà tít tắp xa mù xa, nghe sao mà thương lạ thương lùng! Mẹ lấy hột sen, khoai lang, sắn mì, chuối già hương, tiêu, ớt bột, bánh bột lọc nhưn tôm thịt, vân vân… đem đặt trên bàn. Nay, có bao nhiêu quà bánh nhặt nhạnh tom góp ở trong vườn, chắc chắn là cha mẹ không dám ăn, mà bòn mót tha đi hết làm quà cho con cháu, cho lối xóm rồi đa. Tấm lòng mẹ rộng mở, chất phác giản dị đầy khoan thứ. Nhất là tính mẹ nhân hậu, thương người, không riêng gì mẹ thương gia đình, mà mẹ thương hầu hết bà con, xóm làng cơ cực. Hễ ai kêu than, xin xỏ cái gì, nếu có khả năng là cha mẹ cho đi không ngần ngại, chả hối tiếc. Mẹ cho hậu hỉ, xứng đáng, tốt lành. Chứ không bao giờ mẹ cho của thừa mứa. Ui chao! Cha và mẹ sao xứng đôi về lòng nhân ái đến vậy không biết! Đó là kết quả tốt đẹp do sức cần lao nhẫn nhục của cha mẹ sớm chiều vất vả ngược xuôi bên vồng sắn nương khoai, mà có. Thắng đến nhà. Ô! Bất ngờ ghê. Thắng vào chào mẹ nàng, rồi chàng lên phòng khách. Mẹ mỉm cười đôn hậu, nhìn chàng chăm chú, như thể… mẹ muốn cân nhắc. Đôi má Hoài hây hây, nàng chột dạ quýnh quáng rù rì bên tai mẹ: – Không có chi. Mạ đừng ngó rứa, con mắc cỡ nì. – Chi lạ hì. Ai nói chi mà lo xa, rào đón rứa con. Mẹ cười, nguýt yêu con gái. Mẹ lúc nào cũng vui, khuôn mặt mẹ thật thà, hiền lành đôn hậu. Thắng đá lông nheo với Hoài, anh ta cứ chớp chớp mắt cười cười: – Các anh kia tính rủ mấy em đi loanh quanh. – Loanh quanh? Anh không muốn em bị đòn chứ. – Ơ. Anh em đi phố, mà bị đòn gì! Em đi với anh Đan mới sợ ăn đòn, à em. – Ấy. Anh Đan thì thật là đồng hương, đồng hội, đồng thuyền à nha. – Coi chừng đấy. Có ngày nổi máu xung thiên lên, anh canh cả giàn trọng pháo, bắn vào nhà Tổ, thì tan nát hết họ hàng nhà mình bây giờ! – Trời ơi! Anh học đâu cái cảnh… nồi da xáo thịt vậy không biết. Anh em chúng ta bồ tèo nhau cả. Khó dễ nhau gì vậy? Điên rồi. Em ớn anh quá. Hai xe jeep đang chờ ngoài cổng, Trúc chạy vào năn nỉ mẹ cho phép Hoài đi chơi tí. Hoài dúi mái tóc thơm mùi bồ kết vào lòng mẹ, một tay nàng mò tìm vú mẹ. Mẹ cảm thấy nhột khi nào con xin phép mẹ cái kiễu ấy. Mẹ hất tay Hoài ra, nguýt yêu con gái, liếc nhìn Thắng, mẹ nhỏ nhẹ nói: – Ừ. Cho con đi xí thôi nà. – Dạ, con cám ơn mẹ. Hoài cùng các bạn đi ra cửa. Xe chạy mấy vòng quanh đường Độc Lập, rồi quẹo qua Phan Chu Trinh. Các anh đổi ý muốn đi câu cá trên sông Hàn. Tám người thuê hai chiếc thuyền nhỏ, nhẹ khua mái chèo, neo cặp sát thuyền bên nhau, họ thả lỏng tay câu. Thuyền lững lờ trôi trên sóng lăn tăn. Chiến ngồi chung với Thu, Hoài. Anh nói: – Đi câu, mà Hoài và em mặc áo dài lướt thướt, coi bất tiện làm sao à! – Anh nói đi phố, đi xem ca nhạc. Bây giờ anh còn kêu la nỗi gì hử?! Hoài giận hờn, cầm hai tà áo dài cột vào giữa háng, coi y như đóng khố. Nàng tinh nghịch ghê. Thế là các anh chị nhao nhao lên về chuyện áo mí quần: – Ối giời. Áo mí khố. Nè, coi thằng Quang ngồi trong lu nước quen rồi, cứ đánh bố nó cái quần sọt, thì có chết con cá nào đâu nà. Hồng lên tiếng: – Giá biết trước là đi câu, em sẽ mặc áo quần tây, là xong. Hay… húi luôn đầu trọc với cái váy cụt, cho anh Chiến vui lòng hỉ! Chiến cười khoái chí: – Các cô nào có biết, việc cắt tóc ngắn, mặc quần áo ngắn, được đồng bào ta hưởng ứng nhiệt liệt ấy nhe: Thời kỳ bọn thực dân Pháp đối đãi ác nghiệt với dân tộc mình, bon họ hà khắt ghê gớm. Pháp dùng chính sách trực trị kềm chế, khủng bố, đàn áp gắt gao. Các cô biết không? Ngày 19 tháng 9 năm 1903, lính chiến đấu của ta, mà Pháp gọi là Khố Xanh, Khố Đỏ ấy. Tức là lính mặc quần xanh quần đỏ, mà họ kêu là “khố”, để tỏ vẻ khinh bỉ miệt thị dân An Nam mình đó. Pháp bắt dân mình ở trần, mặc xà lõn, đóng “khố” hầu chạy cho nhanh, vì sợ mặc quần dài có hai ống vướng víu. Khiến sự bất mãn về cuộc sống, gian khổ, và mối thù giai cấp tăng cao, làm thức tỉnh người dân hồi ấy đã vùng lên mạnh mẽ. Tuy vậy, tôi rất thích đàn bà thời ấy ăn mặc rất kín đáo, nhất là cái yếm thắm nửa kín nữa hở, mà tính tình họ đoan trang. Anh Tùng móc mồi xong thả xuống nước, tủm tỉm cười: – Để tôi nói cho các bạn nghe chuyện ăn mặc ở Việt Nam hồi đó như thế nào nhé: Tự ngày xưa, dân An Nam có truyền thống ăn mặc gọn gàng, kín đáo, và đẹp mắt. Điệu ăn mặc nầy trước tiên phát xuất ở ngoài Bắc: đàn bà con gái khi trời nóng và ở trong nhà, thì họ đeo yếm thắm (đủ màu) cột bốn dải thắt ra sau gáy và lưng. Nếu ra ngoài hoặc đi đâu xa, họ mặc thêm cái áo dài the tứ thân. Váy đen dài khiêm tốn chấm tới mắt cá, mang guốc mộc, đội nón lá hay nón quai thao, khooát tay nải. Phụ nữ Việt Nam hay lam hay làm, vì mặc “khố” dài lướt thướt, rộng thùng thình, đi đứng có phần vướng vít, trở ngại, khó khăn. Nên họ cắt bớt “khố” cho ngắn bớt lên mắt cá chừng gang tay. Rồi thì… phụ nữ mặc chiếc váy mới, thấy dài không ra dài, ngắn không ra ngắn, họ cảm thấy dị dị kỳ kỳ, khó coi, khó chịu sao ấy. Nên các bà các cô tân thời bèn làm một cuộc cách mạng nữa: Họ mặc “khố” ngắn tới đầu gối cho nó… gọn. Các bạn nhìn nhau cười cười. Tay nầy trầm ngâm, thâm trầm ngầm ngầm mà đấm chết voi, chắc là có vấn đề gì đây. Anh Tùng thủng thẳng nói tiếp: – Tưởng như vậy là yên thân chiếc “khố đầm”. Nào ngờ, đời Vua Lê, Càn Vương hay Chiêu Thống gì đó. Tôi quên mất. Đại khái là đời vua Lê. Mỗi lần Ngài ngự giá, hay thân chinh đi đó đây thăm dân cho biết sự tình, thì vua thấy “liềng bà con cấy” ở ngoài đường, ngoài chợ, không mấy kín đáo, người nào người nấy cũng đưa hai ống quyển (“lem dem” mốc mốc ít gợi cảm, đen sì không ra đen, trăng trắng không ra trắng). Hai ống quyển cứ mông mốc màu tro xám. Đôi khi vua thấy họ ngồi chò hỏ ngoài ruộng, ngoài rẫy, họ vô tình bỏ quên “cái sự đời em ra” phơi nắng phơi mưa. Mà thật tình họ lo lam lo làm, không hay biết, để gió lùa vào. Vua lo cho sức khỏe của bá tánh, thấy họ không giữ ấm thân thể, mà vua thương… đứt ruột! Tiến tiếp lời: – Khà khà! Anh Tùng nói đúng. Hồi đó có ai biết mặc “xì níp” đâu. Hê hê! – Tôi nói đến đâu rồi nhỉ? À, à… Phụ nữ nước ta xưa nay đa số vốn nổi tiếng là đoan trang, nết na thuỳ mị, ăn mặc kín đáo. Bỗng dưng cái “khố” nay “hớt” lên đầu gối, thì họ ngượng ngùng, coi cũng khó chịu ha. Nhất là khi vua ngự giá đó đây, thì họ càng lo lắng sợ sệt, bẽn lẽn, run lập cập; vì sợ, vì đói, vì rét, hay vì e thẹn? Tôi chả biết. Họ cứ té lăn chiên đổ đèn, giơ hai cẳng chân khẳng khiu quơ quơ lên trời. Rồi thì ngọn gió vô tình lại tốc ngược chiếc “khố đụp” lên quá… bẹn. Tô hô tơ hơ “cái sự đời em” ra rõ mồn chẳng có xì líp xì lơ gì Mặc các bạn cười chảy nước mắt, họ nghiêng ngã người trên thuyền. Vương Gia Tùng bác sĩ “đẹp giai” nhà ta thì tỉnh queo không cười. Nhìn ảnh không cười, họ càng mắc cười kinh khủng. Tùng ung dung và duyên dáng kể tiếp: – Vua Lê là người khá hào hoa, thanh lịch, văn nhã và đầy nghệ thuật vị nhân sinh, ngài nhìn cảnh trái tai gai mắt đó nhiều lần, coi cũng dị hợm nhột nhạt chướng quá đi, nên vua đã xuống chiếu nghiêm cấm “liềng bà con cấy” không được mặc “khố đụp”. Không mặc váy! Á à… tôi quên. Ngài không dùng tiếng “khố” miệt thị, càng không nói tiếng “váy” văn chương tân thời, mà Ngài nói: – Phải “mặc quần không có hai ống”, (nghe văn nhã hơn). – Thế là phụ nữ bắt đầu mặc quần không có hai ống dài xuống mắc cá chân. Ngừng một lúc, anh Tùng liếc nhìn các bạn: – Có yên đâu. Phải rồi! Chưa yên. Tôi nhớ có lẽ không lầm, đúng một trăm sáu mươi ba năm sau. Vua Minh Mạng thứ 9 đã ban một chiếu dụ khác, trái ngược lại là cấm chỉ “liềng bà con cấy” không được mặc “váy đụp” tổn hổn tển hển như thế. Mà phải mặc quần phải có hai ống hẳn hoi. Thế là “quần có hai ống” ra đời từ đó. Nào, bi chừ các cô thích mặc thứ gì? Mặc “khố”, “quần có hai ống”, hay là mặc “váy đụp”… Hỉ? Hoài liếc liếc nhìn các anh chị, vui vẻ thảo luận: – Về “Chuyện Áo Quần” đúng như thế đấy ạ! Dạ vâng! Ngày xưa phụ nữ trang phục như vậy, âu cũng là đài các quý phái lắm rồi. Thế mà sau nầy họa sĩ Cát Tường (Lemur) còn đề xướng ra một “mốt tân thời” khá hấp dẫn khác: (chiếc áo tứ thân, khăn mỏ quạ, váy xồi guốc mộc…) đã được thay vào những chiếc áo dài của phụ nữ, cho thêm phần duyên dáng hấp dẫn và xuất sắc hơn. Áo dài có đủ kiểu: áo dài cổ truyền có hai vạt, có nếp ôm vào thân, áo dài khi ngắn lên qua nửa ống quyển, khi dài chấm gót chân, lâu lâu có thay đổi xí. Áo dài hồi xưa may có bâu lót viền quanh cổ áo (nhưng bây giờ phụ nữ ít thấy ai mặc, còn áo dài dành cho ông già vẫn có bâu). Tà áo khi hẹp khi rông, khi thấp khi cao theo thời trang. Thường là thay đổi cổ áo: kiểu tròn, cổ áo kiểu áo bà Nhu, cổ áo kiểu trái tim, cổ áo kiểu hở vai hơi xệ trước đầu ngực, hai vai phồng. Như bây giờ Hoài đang mặc đây là áo dài cổ cao đến nỗi quay qua quay về bị cấn. Thợ may còn luồng một sợi dây nhỏ ở ngay eo, thắt rất chặt, để siết tà áo vô hông theo vòng eo, cho nhỏ xíu lại. Trên tà áo gắn kim tuyến, hay thêu đủ hình hoa hình phượng tuyệt đẹp. Kèm vào áo dài là chiếc quần dài màu trắng rộng loe dưới ống (hoặc màu đen, có hai ống hẳn hoi) loại vải quần mong mỏng, mịn màng. Anh Đức (quân y) tủm tỉm cười: – Chuyện nầy hỏi Hoài thì rõ nha. – Dạ thưa… Chuyện Áo Quần 1 nè (thời trang theo từng thập niên) thì: Trước tiên đã được du nhập vào Việt Nam từ thời Trung Hoa {(mà thuở ấy dân ta gọi là Tàu) đô hộ nước ta 1.000 năm}. Thưa, như quý vị đã thấy là: Chiếc áo Thượng Hải của Tàu dựa trên hình thức kiểu mẫu đã có từ lâu, thẳng thắng trung thực mà nhìn, thì chúng ta thấy nó không khác gì tà áo dài Việt Nam là mấy ạ. Cũng kiểu cổ áo, kiểu nút gài từ giữa cổ, có vạt hò bên trong, có hàng nút thắt từ cổ chéo qua ngực và nách, rồi hàng nút ấy buông xuống một bên hông phải. Còn một bên hông trái không có hàng nút, thì họ may bít xuống tới dưới bắp đùi, quá đầu gối, hoặc xuống tận gót chân; phía dưới từ đầu gối trở xuống là áo xẻ cao một bên tà áo. Khác một vài điều là: áo Thượng Hải không có hai tà áo rời hẳn ra từ hông; (như hai tà áo dài của phụ nữ Việt Nam); mà họ may bít một bên hông, may bít từ bên hông trái xuống tận gót chân, na ná như áo đầm bó thân bên trời Tây. Nôm na gọi là “bên kín bên hở” hay là “nửa kín nửa hở”… Họ thường may các loại áo vải hơi dày như nhung, gấm, nĩ, nên kiểu áo Thượng Hải phụ nữ Tàu coi cứng đơ. – Áo Thượng Hải có loại áo dài tay. Có loại áo sát nách (không có tay). 2.- Trong khi đó thì phụ nữ Việt Nam mặc áo dài có hai tà rời từ hai bên hông trở xuống. Thế nên mỗi cử động của phụ nữ Việt Nam đều nhịp nhàng uyển chuyển, tha thướt, duyên dáng, hấp dẫn theo từng bước chân; hai tà áo dài e ấp nép vào đôi ống quần mong mỏng nhè nhẹ bay bay trong gió. Trông ai mặc áo dài cũng tha thướt, uyển chuyển, khả ái, xinh lịch và quyến rũ. Hình ảnh ấy tuyệt đẹp, phải không xin thưa quý vị? 3.- Vào thập niên 30 ở thế kỷ 20 – Người “An Nam” ông cha chúng ta còn hãi hùng chìm đắm trong chế độ cai trị của Tàu. Sau đó họ sợ hãi bởi ách đô hộ của thực dân Pháp, do toàn quyền Đông Dương tên Pierre Pasquier cai trị. Trong bối cảnh lịch sử nói chung, đầu tiên nhờ có nhóm Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có tư tưởng cải cách tiến bộ, ông đã mạnh dạn đứng lên làm một cuộc cách mạng, bao gồm: Xã hội, giáo dục, nghệ thuật &… Le Romantisme Révolutionnnaire (lãng mạn cách mạng, truyện của nhóm TLVĐ). Sau đó, nhóm TLVĐ xin giấy phép lập Hội Ánh Sáng, để thực hiện ước mơ “tân trang” một xã hội lành mạnh (nhưng vẫn lưu giữ những hình ảnh đẹp trong tinh hoa cổ truyền). Thế là họ thành công… & có họa sĩ Cát Tường: là họa sĩ đầu tiên vẽ đủ thứ kiểu: từ nhà cửa, bàn ghế, cho đến bóp đầm, giày dép…v.v… Trong đó có kiểu áo dài Việt Nam. Anh Tâm đã hất hàm hỏi anh Đức bên Quân-y: – Dựa trên cái gì để vẻ mẫu, hoạ kiểu cho các mùa thời trang, anh Đức hỉ? – Câu hỏi nầy thật là hóc búa xin thưa quý vị?! Theo thiển ý của tôi thì thế nầy: vẫn dựa theo sự chuyển mình tất yếu của lịch sử, sự tiến hóa không ngừng “cải cách”, và sự giao mùa của từng dân tộc. (Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung). Theo đà tiến hóa không ngừng trên vũ trụ nầy, thì con người ở mỗi quốc gia ngày càng trở nên thông thái, phát huy, có óc sáng tạo tinh vi. Họ không ngừng tự nghĩ ra những “kiểu mẫu” để minh họa cho các mùa, thời trang tuyệt hảo phải phù hợp theo mỗi chu kỳ của quả đất, thích hợp cho dân tộc họ, có thể cho cả thế giới đấy ạ. Tôi tài hèn sức mọn, biết chút chút đến đâu thì xin chia sẻ cùng quý vị đến đó; ngỏ hầu học hỏi thêm. Ngoài ra không dám gì hơn ạ. Dẫu sao thì tôi cũng có chút kinh nghiệm về chuyện nầy. Khách hàng may đồ bảnh nhất là mấy bà sồn sồn hoặc có tuổi, họ dư dả tiền bạc, thích se sua chưng diện, mỗi lần họ may cả chục áo đủ kiểu, đủ màu. Hơn nữa thân hình của họ lại hơi “phì nhiêu”, nên áo dài mau chật, họ cũng hiếm khi may áo ôm sát (lòi mỡ còn gì!!) nên thợ dễ cắt may, mà ăn tiền ngon lắm. Nhưng mấy cô nhí đâu có tiền dư, lâu lâu mới may được một vài cái áo dài. Vả lại trẻ tuổi eo co, thích mặc ôm sát thân, ngực nở, lại độn thêm cái bra gọng thép chần dần. Nếu thợ may cắt không khéo, là nhăn áo. Đức tôi kể thêm một chuyện vui nghề này, hầu quý cụ nghe nhé: Có một khách hàng trẻ, dân Bắc đến may aó tiệm má tôi, cô đòi: – Anh làm thế nào mà “ôm”, nhưng không “nhấn” cho em nhé? (nghĩa là áo ôm sát vào thân, nhưng không nhấn ben eo…). Đức tôi ỡm ờ trả lời: – “Ôm” mà không cho “nhấn”, thì làm sao làm ăn khớp được! Vậy ôm làm chi. Các bạn trai khoái chí cười ha ha ha… – Theo tôi nghĩ: thời trang là những gì thể hiện cái đẹp theo cách nhìn và cảm nhận của thời đại, vì thế có rất nhiều dòng thời trang khác nhau trên thế giới, tùy theo mỗi dân tộc, nhóm người, giống phái nam nữ, già trẻ… Tuy nhiên có khi sự cảm nhận, suy nghĩ lệch ra, khác đi, thì thời trang của họ thể hiện cũng khác đi. Ví như bây giờ đòi hỏi nam nữ bình đẵng, nên có thể do đó mà thời trang nam nữ gần giống nhau. Quan trọng khi chọn lựa thời trang là kiểu dáng, màu sắc, hoa văn… phù hợp lứa tuổi, vóc dáng của mình, và quan trọng là để mình mặc vào dịp nào? Ăn diện thì hợp nhất với ăn chơi, tiệc tùng, party, dancing, kéo theo các đồ phụ tùng khác cho thích hợp, rồi phấn son nước hoa… Về đề tài thời trang, quần áo thì mênh mông, có chiều dài bằng lịch sử con người, cho nên Đức tôi chỉ xin nói về một ít mà tôi đã trải qua, cũng như sự suy nghĩ riêng. Theo tôi điểm chính yếu để tạo ra thời trang nói chung là để tăng thêm sự hấp dẫn, nét đẹp của trang phục thì người phụ nữ là nhiều nhất, cũng từ ý tưởng đó và tùy theo thời đại, xã hội… nếu ý thích của đa số là vẻ đẹp mong manh, liêu trai, mềm mại, thì thời trang áo quần, tóc tai, trang sức cũng theo chiều hướng đó. Nhưng vào lúc khác, cái đẹp là mạnh khỏe, sexy, nóng bỏng, thì thời trang ở trong thời gian đó cũng thay đổi như thế. Nói chung là quan điểm bây giờ về sự hấp dẫn, có thể là thiên về sex nhiều hơn, như bây giờ là các kiểu quần xệ, áo hở vai, lưng, ngực… Nếu nhà tạo mẫu nào nắm bắt được xu hướng sắp tới, thì họ đi trước một bước, đưa ra kiểu, dáng, màu sắc, hoa văn… rồi tung ra quảng cáo là ăn chắc. Trong thời gian trước, hầu như thiết kế thời trang của Việt Nam đa số bị gò bó, cổ hủ, cứng ngắc, bắt chước, lệ thuộc, hiếm có những nét đặc thù riêng cho người Việt mình. Lan vui vui bắt chuyện hỏi anh Đức: – Anh là quân y đã đành, bộ anh có học nghề may, hay sao, mà rành sáu câu quá vậy!? – Hà hà… vì má tôi là chủ tiệm may. Đúng… Hồi ấy tôi cũng thích ngắm người đẹp, rảnh rỗi có theo học nghề với một ông thầy may đồ đầm từ thời Pháp là ông Ba Cao, ông có một câu nói cho đệ tử nhập môn là: – “Muốn giỏi và tiến trong nghề đồ đầm phụ nữ, là phải có máu dê trong người, ai không dê, là không theo nghề được”! Lúc đầu tôi cho là ông nói giởn chơi. Nhưng sau này nghĩ lại đúng như vậy, có máu dê, thì mới ưa thích nhìn ngắm, tìm hiểu về thân hình phụ nữ, thấy được cái xấu, đẹp, mới làm ra cái skirt, long dress, áo dài… phô trương cái đẹp và che bớt cái xấu của khách hàng. Nói chung là yêu nghề, nghề may và nghề Y giống nhau điểm này: hạ một mũi kéo, hay rạch một vết dao mổ bệnh nhân, thì phải biết dưới tay mình là gì, lơ mơ cắt trúng động mạch, nerve… là toi mạng. Cái giống thứ hai cắt may khác ngành y là: dùng cái kéo lớn, kéo nhỏ, phục vụ khách hàng khác nhau. Tôi làm nghề Y là thấy thương bệnh binh mặt mày đau đớn nhăn nhó, lem luốt máu me, họ hy vọng tin tưởng và năn nỉ mình. Còn nghề may thì “khách” đẹp đẽ, thơm phức khiến mình ưa “dòm”, nhưng mình cầm kéo là chìu theo ý thích của họ! Một điều quan trọng nữa là môn cơ thể học cũng áp dụng được trong ngành may, nhờ đó mà tôi biết rõ “đối phương” là già, trẻ, người ấy là dân miền Nam hay miền Bắc. Từ đó tôi gia giảm rộng hẹp, vân vân… ăn tiền là ở chỗ đó, (cũng có khi tổ trác, ổng lo đi rờ mó chi chi, nhưng ít khi bị lầm). Hoài gật đầu tán thành: – Anh nói rất chí lý. Bây giờ em thấy họ mặc áo dài mốt mới raglan anh à. Đức gật gù: – Áo dài raglan may cho đẹp, ôm sát thẳng thớm đã khó, mà kiểu cổ thuyền (cổ áo bà Nhu) còn khó hơn, nhìn áo chưng bày trên tượng đẹp vậy, mà mặc vào thì chưa chắc. Về áo dài Raglan: Theo tôi được biết thì người sáng chế ra kiểu áo dài này là do ông chủ tiệm may Dung ở vùng Dakao, Tân định, gần chỗ rạp Casino-Dakao). Thời thập niên 60, tiệm Dung nổi tiếng về cắt may y phục phụ nữ̃ nổi tiếng cho tới bây giờ. Tôi thọ giáo nhiều nơi dành cho các chủ tiệm theo học, để up-grade nghề nghiệp. Có cô khách nhí may áo dài cổ thuyền, cô ta bảo làm giống như áo mẫu chưng ở tủ. Tôi cắt cho thợ may đâu đó xong xuôi, cô nhí đem về nhà, không biết ở nhà cô ta có ý kiến ý cò sao đó. Hôm sau cô nhí ôm áo lại, chê sao khoét cổ rộng quá, mặc hở ngực ra coi kỳ. Tôi bảo mặc thử xem sao, thì đúng là hở hang, đưa ngực ra coi hấp dẫn lắm. Nhưng cổ áo đã khoét rồi, làm sao thu nhỏ hẹp lại, giống như đã hớt tóc ngắn, cao, thì làm sao cho tóc dài ra liền được! Năn nỉ hoài mà “cô nhí” cứ làm khó dễ. Tôi đánh liều nói: – Cổ áo khoét rồi giờ đưa lên cao không được. Nhưng tôi có thể làm… cho ngực em xệ xuống được… ”Con gà mái ghẹ” của tôi nó trợn mắt xù lông lên liền… Ha ha ha… Nhưng thưa các bạn, trong ngành may cũng giống như nhiều ngành khác, người Việt mình giống như người Á Châu dấu nghề ghê lắm, tệ trạng này kéo dài tới bây giờ, cho nên các quảng cáo ghi là: (bí truyền, gia truyền!) đó là sự ích kỷ, không thể tiến bộ được. Nói về kinh nghiệm thì đa số có thể do kiến thức không cao, không phong phú, chỉ biết do làm lâu năm, thấy gia giảm như thế… là tốt đẹp, thì từ đó họ coi đó là kinh nghiệm gia truyền. Khác với sự suy luận, kinh nghiệm có thể 10-15 năm tạo thành. Nhưng suy luận có thể trong 15 phút, là biết tại sao và phải làm thế nào. Công thức cắt áo của bà già (má tôi) tôi sửa lại gần hết, vì má tôi dùng công thức xưa quá, theo lối cũ, rườm rà, khó hiểu, không thực dụng. Bây giờ nhìn những áo dài thời trang hiện nay tôi mê lắm, giới trẻ học trường lớp đầy đủ kiến thức, không như mình là “học đại”! Khi nào người mình không còn tính ích kỷ, gia truyền, bí truyền… thì người Việt mới tiến bộ như đám Tây, đám Mẽo được. -* Khi nhìn vào một người đẹp mặc áo dài, đầu tiên là phần ngực, chân cổ ôm sát, không nhăn, tới phần nách tay, phần eo và bên hông, hai tà áo úp vào, khoảng hở eo cao thấp, nhìn hấp dẫn, rồi tới phần hoạ tiết, hoa thêu… Quan trọng nhất vẫn là điểm hai đầu ngực cao thấp, khoảng cách, và xuôi vai… Người thợ chịu khó và chú ý, cẩn thận, thì làm cho khách hàng đẹp thêm, che dấu bớt những khuyết điểm, họ thoải mái tự tin khi mặc chiếc áo dài, là thợ may thành công. -* Về áo dài nhung, bạn may nên chú ý: chọn tuyết nhung (lông) ngược, khi ra nắng sáng óng ánh đẹp. Nhưng mau cũ và phai màu. Tuyết nhung xuôi thì giữ màu lâu, rờ tay vào thấy mịn màng mềm mại. “Nghề chơi” cũng lắm công phu, mà bàn thêm nữa… tôi bù trất, chỉ muốn xông vô mà “ôm nàng cho đã…” Các cô quê xệ che mặt cười khúc khích. Còn các cậu thì khoái chí lêu lêu các cô và cười ha ha ha thả thuyền câu theo dòng nước. Các bạn chuyện trò vui vẻ, họ kể nào là chuyện Đại Đế Napoléon Bonaparte. Chuyện Ludwigvan Beethoven nhà soạn nhạc lừng danh; họ lại chuyển qua chuyện Michael Faraday, nhà bác học lỗi lạc. Kể cả những chuyện tiếu lâm khôi hài vui hết biết. Hoài mỉm cười xin thầm hỏi: – Chuyện áo quần “tiế́u lâm” có thật, và chuyện đại đế Napoleon Bonaparte lừng danh như thế. Quý vị thích nghe chuyện nào. Thưa quý vị? Còn Hoài thì … ỏn ẻn thỉ thủ tự thú nhận: Em chả… “thíc” đại đế đại điếc chi cả; mà em chỉ thích mặc “quần không có hai ống” thôi đấy ạ!!!
Lãm Thúy Mưa chiều nhớ mẹ Mẹ ơi! Chiều nay sóng vỗ Con sông có trắng mưa dài…? Biết ai chở giùm nỗi nhớ Mang về cho Mẹ, chiều nay….
Mấy ngày mưa như bão rớt Trời buồn, tựa buổi đưa tang Mưa ướt trong hồn ủ dột Nhớ nhà. Sầu cũng mênh mang
Ở đây, lạc loài viễn xứ Mưa chiều, sầu mấy ngả chia Con đứng bên trời, ủ rũ Nghe thèm khói ấm chiều quê
Nhớ bữa cơm nghèo đạm bạc Thuở còn đông đủ – quây quần Nhớ hiên nhà xưa, gió tạt Đói no, ấm lạnh, chung cùng.
Bây giờ: người xa, người khuất Đau lòng Mẹ. Nghĩ mà thương Con biết: Chiều quê tịch mịch Mẹ ơi! Mưa, nắng cũng buồn
Tạ ơn đời gìn giữ Biết Mẹ vẫn chờ nơi quê cũ Lòng con bất chợt rộn niềm vui Ngước mắt. Tạ ơn đời gìn giữ Hạnh phúc chờ con ở cuối trời Nhưng rồi nghĩ lại tim đau xót Một góc trời xa Mẹ vẫn mong, Mà con nhớ Mẹ, sầu như nước Sóng dồn lên sóng, lệ mênh mông… Làm thân lữ thứ , đời lưu lạc Cách nửa vòng quay cố quận xa Nắng sớm cũng xui lòng tan nát Đâu chỉ hoàng hôn mới nhớ nhà! Thương Mẹ quê xa mòn mắt đợi Đếm ngày , đếm tháng , ngóng tin về Không dám cất lên lời kêu gọi Sợ bận lòng con chốn cách chia! Con tạ ơn đời: còn có Mẹ Nhưng mà hạnh phúc quá mong manh Lá vẫn cứ rơi, dù gió khẽ Chỉ đành ơn nguyện: Mẹ trường sinh.
Dấu ấn trên vai Nàng có hai con còn rất nhỏ Đứa vừa hơn tuổi, đứa lên ba Lũ trẻ như thiên thần: Hớn hở Đâu biết gì sinh tử, chia xa Những lúc nàng ôm hai đứa trẻ Nước mắt dường như nuốt tận lòng Nàng gục đầu vào vai nhỏ bé Niềm đau – Tôi nghĩ – Chắc vô cùng! Nàng rất yêu chồng – Tình thắm đượm Quyết sống cùng nhau đến bạc đầu Mà lại phải tìm người rộng lượng Thay mình, đi hết đoạn đời sau! Cơn bệnh nan y như tiếng sét Tử thần nung dấu ấn trên vai Quá trẻ để nói về cái chết Đời nàng còn cả một tương lai Vô cùng rực rỡ và duyên dáng Nàng như hoa mới nở, xinh tươi Nào ai nghĩ thời xuân quá ngắn Cuộc đời chưa quá tuổi ba mươi! Nàng đau. Tôi biết. Nhưng không hỏi Không biết làm sao để sớt chia Tuyệt vọng lời cầu xin cứu rỗi Chúa. Phật. Xin đưa tay độ trì! Nàng can đảm sống, không than thở Chuẩn bị âm thầm một chuyến đi Tôi biết: Trong tim nàng, máu nhỏ Từng giờ, từng phút sợ phân ly. Cái câu tử biệt đau thương ấy Nàng không muốn nói, chẳng cam lòng Nhưng có một điều tôi cảm thấy Nàng sẵn sàng cho phút mệnh chung! Và tôi là Mẹ. Trời ơi! Mẹ Cứ mỗi ngày trông con mỗi xa Lời nguyện cầu chìm trong suối lệ Ruột thắt từng cơn – Không nói ra!
Lê Nhiên Hạo Tờ giấy nhăn Đôi khi tôi gục trên trang giấy. Đó, một câu đầu, viết, đã lem! Em nói em đi vài tiếng gọi. Trưa rồi. Rồi xế. Chuông không reng…
Đôi khi tôi biết thơ-như-vậy, đâu phải thơ, mà, tại xót xa! Nhưng nếu ngồi im tôi cũng gục. Tàn đời người Lính cuộc can qua!
Tàn đời, mà ngộ, sao tôi lại thả chút hồn thơ ấu rất xưa? Thả chút hồn thơ sương khói quyện, cái duyên còn sót chắc duyên thừa?
Em ơi bất chợt em mà đọc được nhỉ bài thơ rất vụng về, em sẽ làm sao? Cười khúc khích? Hay là nheo mắt, nói: Em chê!
Em chê, đâu phải đây lần trước, cũng chẳng lần sau, chẳng một lần! Chữ nghĩa của anh toàn đá sỏi để vào sàng sảy rớt ra sân!
Tôi chỉ làm thơ lúc một mình. Lúc không ai cả hiện chung quanh. Một em-duy-nhất còn xa vắng. Tôi thả hồn bay khắp biển xanh…
Ôi biển! Biển, em chìm mất xác. Biển, con trăng lặn cuối cù lao. Câu em hứa hẹn tôi hồi nãy để tối khuya này nhấp nháy sao…
Đôi khi tôi gục trên trang giấy, ngủ thiếp, nhàu, nhăn, nát trái tim. Non nước và Em: từng mảnh vỡ, thức tôi ngồi nhặt sợ mai quên…
Bài thơ này cũng là trang ký, giữ mãi như lòng tôi nhớ ai…
Phan Xuân Sinh Tình đã ngủ say Khi người đụng trái tim ta là bao nhiêu mộng vỡ òa theo nhau khi tình ta mãi lún sâu là lòng người nhạt sắc màu yêu thương PXS
Từ khi chúng tôi chia tay nhau cho đến bây giờ đã gần 40 năm rồi, hơn một nửa đời người. Nhưng mỗi lần nghĩ tới Sách tôi đều cảm thấy đau nhói, không phải vì tôi còn “yêu” Sách, mọi chuyện đối với tôi nó đã chết theo thời gian. Không ai còn chung tình vớ vẩn như vậy, tất cả chúng tôi mỗi người đếu có một cuộc sống riêng, con cháu đầy đàn, hồn ai nấy giữ. Thế nhưng mỗi lần gặp lại tự nhiên tôi cảm thấy ray rứt, nhìn Sách thật tội nghiệp với một cuộc sống kham khổ, hạnh phúc bị tước đoạt, con người héo hon trong u uất. Tôi tự hỏi Sách chịu đựng một hoàn cảnh sống như thế nầy cho đến bao giờ? Chúng tôi đã từng đến với nhau, đã từng gặp gỡ sau những ngày dài khi chia tay. Chúng tôi vẫn giữ với nhau ở một vị thế mà không bị xé rào hay sự đòi hỏi làm chúng tôi mờ mắt. Chúng tôi quý mến nhân cách của nhau mặc dù không cần thiết như vậy. Thế nhưng cái đó đã thể hiện ý thức tôn trọng, một rào cản chắc chắn chúng tôi không nên vượt qua để vi phạm. Cuộc đời của đứa nào cũng te tua bầm giập, còn gì đâu để còn phải giữ gìn. Tôi nhớ năm 1976, sau khi tôi lấy vợ được vài tháng thì Sách từ Đà Nẵng vào Sài Gòn thăm tôi. Lúc nầy người chồng đầu tiên của Sách vừa mới mất (tại mặt trận Pleiku 1975) trước ngày hòa bình chừng hai tháng. Tôi ngạc nhiên là Sách cùng đi với Ngọc Bích, người bạn gái của tôi sau nầy. Ngọc Bích có một người anh trai là bạn cùng khóa Không Quân với chồng của Sách. Vì thế Ngọc Bích và Sách quen nhau bởi dây mơ rễ má như vậy, chứ một người ở Đà Nẵng và một người ở Sài Gòn làm sao quen nhau. Tôi mời hai người ra ngoài quán café để dễ dàng nói chuyện, vì trong sở làm việc của tôi ồn ào, người ra kẻ vào nhiều gây trở ngại trò chuyện của chúng tôi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp lại Sách kể từ ngày Sách đến thăm tôi tại Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng mùa hè 1972, khi tôi bi thương từ mặt trận được trực thăng chở về. Trong suốt câu chuyện tôi không hỏi gì về cái chết chồng của Sách, vì tôi không muốn cho Sách hiểu lầm rằng tôi quan tâm vì để thỏa mãn lòng tự ái. Tôi chỉ ngồi nghe hết chuyện nầy tới chuyện khác mà trong những câu chuyện, Sách tin tưởng rằng người chồng vẫn còn sống, có thể bị bắt học tập cải tạo đâu đó, hoặc đang sống tại nước ngoài chưa tiện liên lạc được với vợ con. Tôi cũng mừng thầm mong rằng sự tin tưởng của Sách là sự thật, một ngày nào đó gia đình Sách được đoàn tụ dù ở bên nầy hay bên kia đất nước. Ngồi nói chuyện, tôi chú ý từng hành động, từng cử chỉ của Sách. Sách không còn như xưa. Cái liến thoắng lanh lẹ, cái trì chiết đanh đá mà sau khi có chồng, va chạm với cuộc sống thật ngoài đời, đã dạy cho Sách những kinh nghiệm chống chọi. Tôi không ngạc nhiên điều đó, cái ngạc nhiên nhất của tôi là được Sách dài dòng kể lể về cái hạnh phúc trước đây đã sống với chồng con, cái hạnh phúc ngắn ngủi nhưng rất tuyệt vời nầy đã làm vết thương cũ của tôi dậy lên và cảm thấy nhức nhối. Cũng bắt đầu từ đó tôi khinh Sách, nhìn Sách với con mắt không mấy thiện cảm. Đúng ra khi gặp lại tôi, một người tình đầu đời của Sách, Sách phải tỏ ra có một chút hối tiếc, một chút đau đớn, vì khi chia tay nhau, tôi không có một lầm lỗi nào với Sách, thì không lẽ gì Sách kể những chuyện hạnh phúc để trả thù tôi. Cái ấn tượng gặp gỡ lúc ban đầu, đã làm cho tôi có thái độ phủi tay lánh mặt. Không cần phải nhớ đến trước đây mình có một con “bồ” đang sống trong kham khổ hiện thời, Có ai đó bên quê nhà nhắc tới Sách, tôi tìm cách tảng lờ như không biết. Bởi vì tôi không thể chấp nhận một người tình trước đây đi lấy chồng, và khi gặp lại nhau không có một câu hỏi han nào về cuộc sống của tôi, chỉ ba hoa kể về cái hạnh phúc đã trôi qua của mình. Đó là một loại người vong tình, không có đầu óc và tôi không cần phải nhớ tới làm gì cho uổng công. Có một năm vợ chồng tôi về Đà Nẵng ăn Tết, khi tôi đến thăm cậu mợ bà con bên ngoại thì mợ Tâm khuyên tôi cố gắng đến thăm Sách. Mồng ba Tết để vợ ở nhà, tôi một mình đến thăm Sách theo sự yêu cầu của bà mợ. Trong câu chuyện trao đổi tôi có nói với Sách là nếu có tái giá hãy tìm một người đàn ông rộng lượng, vững vàng trong cuộc sống có thể cưu mang thêm hai đứa con, để chúng nó có cơ hội học hành. Tôi bảo với Sách là bây giờ phải hy sinh cuộc đời mình cho con, hãy gạt ra ngoài tai những lời tán tỉnh bóng bẩy, phải tìm một người đàn ông biết thương yêu con của vợ như con ruột của mình. Còn nếu không thì nên sống độc thân buôn bán nuôi con. Thế nhưng vài năm sau tôi nghe Sách tái giá, lấy một người chồng nghèo. Mang hai đứa con về quê ở Túy Loan giao cho bên nôi. Tự nhiên trong lòng tôi thấy xót xa, một việc làm điên rồ, mờ mắt thiếu suy xét. Cái ấn tượng không tốt về con người nông nổi của Sách lại càng làm cho tôi thất vọng. Tội nghiệp cho hai đứa bé đã mất cha, bây giờ coi như thêm một lần mất mẹ. Từ câu chuyện nầy tôi suy luận viễn vông, một con người như vậy thì làm sao đòi hỏi họ chung tình với ai. Mang đầu óc không thiện cảm, tôi nhìn Sách cay nghiệt hơn và thú thật trong lòng tôi càng khinh Sách hơn. Tôi nhớ một lần ở Huế, Sách từ Đà Nẵng ra thăm tôi. Chúng tôi ở với nhau trong một căn phòng nhỏ hơn một tuần lễ. Tôi có hỏi Sách lý do tại sao ra thăm tôi mà không báo trước, Sách làm thinh không nói dù tôi đã gặn hỏi nhiều lần. Sau đó thì Thê (vợ của Đức, bạn tôi) là bà con với Sách ra Huế tìm, tôi mới biết Sách giận gia đình nên bỏ nhà ra đi. Giận về chuyện gì thì tôi cũng chưa hề nghe Sách nói. Tôi bảo là Sách nên ra về với Thê, vì tôi không muốn mang tiếng dụ dỗ con gái gây ra sự hiểu lầm cho gia đình Sách, mặc dù chúng tôi chưa hề vi phạm, giữ sự trong trắng, tôi tôn trọng đời con gái của Sách. Nhưng có ai biết điều đó, khi mà đôi tình nhân sống chung với nhau ngày nầy qua ngày khác, mà không xẩy ra điều đáng tiếc? Cái khắt khe giáo dục của gia đình, cái ý thức trách nhiệm nặng nề về tinh thần, đã thắng sự đòi hỏi nhục dục của tôi. Tôi trở thành một người thánh thiện. Sách về Đà Nẵng chừng vài tháng thì tôi nghe tin Sách sắp lấy chồng. Thú thật nghe tin nầy tôi rất bàng hoàng, tôi muốn gặp Sách để hỏi cho ra lẽ. Và khi đó tôi tiếc là không phá đời con gái của Sách cho thỏa mãn lòng tự ái của tôi. Lạy trời, cũng may mà tôi không làm điều đó, chứ nếu đã xẩy ra thì chắc tôi ân hận suốt đời. Cho đến bây giờ Sách vẫn còn kính trong tôi về chuyện nầy, hơn ai hết Sách biết tôi không muốn phá hoại đời con gái của Sách. Khi về Đà Nẵng tôi gặp Sách vài lần, tôi không thèm hỏi về chuyện lấy chồng của Sách. Tôi xem như đó là một chuyện không đáng cho tôi quan tâm, và từ đó tôi tránh gặp mặt dù tôi đã nhiều lần về lại Đà Nẵng thăm nhà. Tối một mình đi uống café thiếu Sách bên cạnh, tôi cũng cảm thấy buồn và cô đơn, nhưng tôi không thể làm gì hơn khi người ta muốn quên đi dĩ vãng, muốn quên sự hiện diện của tôi. Trong lúc nầy ở Huế tôi cũng có một người bạn gái cao ráo và đẹp hơn Sách, học trường Bồ Đề Thành Nội. Lúc đó tôi nghĩ có một ngày nào đó tôi phải đứng trước một sự chọn lựa giữa Sách và Nguyện, thế nhưng không ngờ rằng chính tôi là người bị gạt ra trước cuộc sống tình cảm của Sách. Tôi rất bực bội nhưng nghĩ cho cùng, cũng giúp cho tôi một lối thoát mà không mang tiếng phụ tình với Sách. Sau nầy, tôi cũng quyết định chia tay với Nguyện. Ngày tôi bị thương nằm điều trị ở Tổng Y Viện Duy Tân thì Sách có đến thăm. Lúc đó Sách vừa mới sinh đứa con đầu lòng. Tôi thấy Sách khóc mà ngược lại tôi rất dửng dưng. Tôi cho rằng giọt nước mắt của Sách là vui mừng đã tránh được một tai họa. Nhiều đêm nằm nghĩ về Sách, tôi tự hỏi tại sao tôi nặng nợ với Sách nhiều vậy. Về phương diện thẩm mỹ thì nhan sắc của Sách không so bằng những cô bạn gái của tôi trước hoặc sau Sách, về phương diện tình cảm thì Sách là người hời hợt, không thâm trầm và phụ tình một cách trắng trợn, thế nhưng để lại trong đời tôi nhiều vết chém nhất mà vết sẹo nào cũng sâu và đau. Mỗi khi nghĩ lại thấy nó nhức nhối khó chịu nhất. Có lẽ Sách và tôi đến với nhau lâu dài, có nhiều kỷ niệm khó quên. Chính vì lẽ nầy nên gây ra chấn động ầm ỹ trong lòng tôi mỗi khi nghĩ tới. Tôi chuẩn bị đi Sài Gòn, thì Đức đến nhà cho tôi biết là chồng của Sách bị tử thương trên mặt trận Pleiku, và Sách chuẩn bị mang hai đứa con nhỏ về Đà Nẵng. Nghe tin nầy, thú thật lòng tôi không có chút xúc động vì từ bao nhiêu năm nay tôi gạt Sách ra hẳn mọi suy nghĩ của tôi. Tôi cho đây là chuyện thị phi không cần phải quan tâm tới. Thế nhưng khi ngồi trên máy bay tự nhiên hình ảnh Sách hiện lên trong đầu: Một người đàn bà góa bụa còn rất trẻ với hai đứa con thơ, nhào ra cuộc đời đầy sóng gió, đầy nhiễu nhương như vậy, thì làm sao chen lấn trong cuộc sống nầy cho nổi. Tôi quên đi sự phản bôi của Sách, quên đi sự lọc lừa và trí trá thuở nào. Tự nhiên những thứ nầy xóa mất trong tiềm thức của tôi. Đọng lại trong lòng tôi là sự thương hại, tôi thầm cầu nguyện cho Sách vượt qua tất cả để sống trong bình yên, ổn định tâm hồn để nuôi con khôn lớn. Tôi không còn trách móc ai cả, tôi cho đây là một sự nhầm lẫn của tuổi trẻ mà không ai biết trước được. Tôi và Sách cũng chỉ là nạn nhân của chiến tranh, tôi bị thương trong cuộc chiến và vẫn còn hiện diện trên đời, mặc dù mất một phần thân thể. Còn chồng của Sách xem như xóa sổ vĩnh viễn trong cuộc sống. Hơn ai hết tôi hoàn toàn thông cảm cho cái đau rưng rức trong người của Sách phải gánh chịu. Cho đến bây giờ, khi tôi ngồi viết lại dòng hồi ký nầy, tôi xem Sách vẫn là người tình thuở nào, một người bạn thân thiết và là một người em gái đáng thương nhất của tôi. Vài năm sau đó, tôi có dịp về Đà Nẵng thăm nhà. Tôi nhờ Đức, một người bạn cùng xóm thân thiết nhau từ nhỏ, chở tôi bằng xe honda lên Nam Ô thăm gia đình Sách. Chúng tôi đến bất thần vào bữa cơm trưa, bữa cơm thật đạm bạc. Cơm ghế khoai, một tô canh rau và vài con cá mặn. Vợ chồng con cái ngồi quanh mâm cơm hì hụp thật tôi nghiệp. Tôi nhìn Châu, người chồng của Sách sau nầy, thua tôi chừng vài tuổi, một thanh niên dễ coi và hiền hậu. Tôi yên tâm là Sách có thêm một gia đình cũng tạm ổn, mặc dù sự hối tiếc và trách móc của tôi về Sách vẫn còn mang trong đầu, chưa xóa được. Vài ngày sau, tôi có mời vợ chồng Sách ra nhà hàng dùng cơm, tôi thấy họ xứng đôi và tôi nghĩ chắc họ được hạnh phúc. Nhưng khi dùng cơm ngồi đối diện với Châu, tôi nhận ra một điều là Châu mang một mặc cảm vì nghèo, vì thua thiệt. Chính vì cái nghèo, cái thua thiệt đó mà phải lấy một người đàn bà có con, vợ mình là gái “nạ dòng”. Những điều nầy thì làm sao Sách biết được, Sách là một loại người chỉ biết hình thức, suy nghĩ hời hợt, không biết sâu thẩm trong lòng của chồng mình. Trong đầu óc của Châu khi sống với vợ có tôn trọng vợ không? Mà vợ chồng sống với nhau lâu dài, chỉ giây phút nào đó nhá lên ý nghĩ thua thiệt của mình, tại sao mình là thằng con trai lớn lên lại lấy một người đàn bà có con. Ngồi nói chuyện nhưng tôi nghĩ miên man, tôi nghiệp cho hai người sống trong một hoàn cảnh u uất, không ai chịu bày tỏ sự thật của lòng mình. Tôi là đàn ông nên tôi hiểu tâm trạng của Châu, cái u uẩn trong lòng mà không ai biết được. Đến một lúc nào đó không còn chịu đựng được, sợi dây tình lận đận kia sẽ bung ra. Khi còn ở Sài Gòn, tôi có gặp Thanh (em gái của Sách), có kể cho tôi nghe về chuyện gia đình Thanh không thích người chồng trước của Sách, chính Sách chọn lựa chứ không có gia đình xía vào chuyện nầy. Hình như trong ngày cưới có một chuyện gì đó xẩy ra đáng tiếc cho Sách, (tôi chỉ nghe Thanh kể mà không chú ý lắm, một phần cũng lâu ngày quá rồi nên chi loáng thoáng nhớ lại). Và người chồng sau nầy cũng không được gia đình đồng ý, nhưng không có cách nào ngăn cản lại được. Hơn nữa con gái mình cũng lỡ thời, nên không còn con đường nào khác chọn lựa. Thanh có nói thêm (hình như là để an ủi tôi chăng?) gia đình em thích anh hơn. Tôi qua California thăm người chị bà con mới từ Úc qua. Chị cho tôi biết là vừa rồi có về Việt Nam thăm nhà, chị mới nghe tin Sách đã ly dị với người chồng sau, chị hỏi tôi có biết tin nầy chưa? Tôi lắc đầu. Không biết tại sao tôi không ngạc nhiên về chuyện nầy. Từ lâu tôi nghĩ rằng Sách sẽ không được hạnh phúc với người chồng sau nầy. Tôi có cảm giác như vậy, còn lý do vì sao tôi mang ý nghĩ nầy thì quả thật khó giải thích. Tôi nghĩ trong đầu Sách sẽ khổ hơn, sẽ gặp rắc rối hơn khi tiếp tục sống với nhau. Thà như vậy, đường ai nấy đi để giải thoát những bế tắc cho nhau mà không nói ra được. Sách đúng là người đàn bà cao số. Sau khi nghe tin tức không may của Sách về chuyện gia đình, tự nhiên tôi thấy thương Sách hơn. Suốt một cuộc đời lao đao với chuyện chồng con, chỉ có nước mắt âm thầm trong đêm, khóc cho người chồng nầy rồi khóc cho người chồng khác. Gần cuối cuộc đời sống trong lẻ loi cô quạnh. Đời một người đàn bà chỉ có một lần có quyền được chọn lựa, sơ sẩy xem như đi đong không thể trở lại. Sách nằm trong trường hợp nầy. Nói thế không phải vì Sách không chọn tôi nên mới gặp những trường hợp đáng tiếc xẩy ra. Biết đâu khi chọn tôi trường hợp xẩy ra còn thê thảm hơn thì sao? Cuộc đời dài lắm và cũng ngắn ngủi lắm, làm sao biết được chuyện gì sẽ xẩy ra. Tôi đi Mỹ (1990) không có cơ hội gặp được Sách. Hình như tôi có gửi cho Sách một vài lần tiền nhờ người quen mang về. Nhưng sau đó thì bặt tin, tôi không liên lạc được do mất địa chỉ vì tôi dọn nhà đi nhiều lần. Gần hai mươi năm sau tôi mới có dịp gặp lại Sách khi tôi trở về Việt Nam thăm nhà vào dịp tết 2008. Không biết ai báo tin cho Sách tôi mới về. Một buổi tối sau khi dùng cơm với gia đình xong, tôi ngồi ở phòng khách xem tivi, thì đứa em vào báo có một chị bạn tìm tôi. Tôi nhìn ra ngoài hiên, ánh đèn mờ quá tôi không nhận ra Sách, mà thú thật Sách đổi khác nhiều quá. Bao nhiêu tai ương ụp xuống đời một người đàn bà, cộng với sự nghèo khổ, chăm lo cho gia đình và các con, đã làm cho Sách héo hon, tiều tụy. Sách khép nép nhìn tôi, trong một giây phút bất thần tôi không nhận ra được. Sau đó thì Sách cười tôi mới nhận ra. Nụ cười của Sách rạng rỡ tôi không bao giờ quên được. Vì mới gặp nhau chúng tôi chỉ trao đổi những thăm hỏi, khi đụng tới chuyện gia đình thì Sách bảo là buồn lắm để khi khác sẽ kể cho tôi nghe. Quả thật Sách không biết ở Mỹ, tôi đã biết về chuyện ly dị của Sách trước đây mấy năm. Trong thời gian vào dịp Tết, tôi cũng bận rộn nhiều chuyện. Lâu ngày mới về nên phải đi thăm bà con chỗ nầy chỗ kia, đi thăm bạn bè. Thì giờ đi thăm thì không tốn mấy, nhưng sau khi gặp nhau thì uống với nhau vài ly rượu, sa đà vào chuyện nầy không còn thì giờ đâu để làm chuyện khác. Tôi có gặp Sách vài lần ngắn ngủi, những lần gặp nhau tôi chú ý tới một điều là Sách đã thay đổi tính tình rất nhiều. Đăm chiêu và nói chuyện cay đắng hơn. Có lẽ những đau đớn về chuyện đổ vỡ gia đình, đã cho Sách những bài học muộn màng về tình người, sâu sắc trong cuộc sống, thận trong trong giao tiếp. Đúng ra bài học nầy Sách phải biết trước đây vài chục năm, thì chắc rằng đã cứu vớt cuộc đời của Sách sau nầy. Không bị lún sâu trong những quyết định bồng bột, non nớt, để phải trượt chân trên đường đời một cách thê thảm như vậy. Mà cũng chính sự đau khổ nầy cho Sách nếm qua cái mùi “bội bạc” của người khác dán lên đầu mình, nặng hơn ngàn cân mà mình phải gánh chịu. Cái gì của Sách đối đãi với tôi ngày trước, bây giờ Sách nhận lấy cái hậu quả đau đớn gấp trăm lần mà tôi đã chịu. Những lọc lừa, dối trá, mà trước đây Sách đã dùng để đối xử với tôi, bây giờ người ta cũng dùng “chiêu” nầy để đối xử với Sách mà tàn nhẩn hơn, khốc liệt hơn. Ngày đó tôi yêu Sách thật, nhưng song song với Sách tôi cũng có người yêu khác. Mất Sách tôi cũng buồn nhưng tôi có Nguyện. Tuổi trẻ chuyện bồ bịch đến hay đi cũng bình thường, buồn một thời gian rồi quên ngay. Một buổi tối tôi mời vợ chồng Đức và Sách đi ăn cơm và sau đó đi uống cà phê. Tôi ngồi nghe Sách kể về lý do ly dị với người chồng sau. Một lý do đơn giản là Châu đi chơi đâu đó, gặp một người đàn bà khác. Sau một thời gian ngắn thì Châu tuyên bố chia tay với Sách, về sống với người đàn bà kia. Sách nói với tôi là rất ngạc nhiên về chuyện nầy vì vội vàng và nhanh chóng quá. Thế nhưng khi nghe xong chuyện, tôi không ngạc nhiên. Chuyện Châu quyết định bỏ Sách cho đến thời điểm đó thì đã quá muộn, đúng ra chuyện nầy đã xẩy ra sớm hơn. Sách không nhìn rõ để thấy chuyện nầy. Lấy Sách nhưng lòng của Châu bao giờ cũng nhìn đi nơi khác, trông chờ có cơ hội sẽ buông tay với Sách ngay. Từ lâu nhìn Châu tôi đã thấy được chuyện nầy. Nhưng thôi đây chỉ là dự đoán của tôi, tôi mong rằng không đúng. Tuy nhiên Sách phải hiểu rõ một điều thực tế. Một người con trai khi lớn lên lấy vợ, ai cũng mong rằng người vợ của mình còn trong trắng. Nếu người vợ không dành cho chồng cánh hoa tươi rói đó thì người chồng có cảm giác mình bị cắm sừng. Huống gì đây người vợ đã có vài mặt con thì trong lòng họ cảm thấy bị thiệt thòi biết mấy. Châu ở vùng quê mùa, đầu óc không thoáng lắm, còn quan niệm lỗi thời và còn bị ràng buộc bởi gia đình cổ hủ. Tôi nghĩ khi Sách về làm dâu nhà nầy đã nghe tiếng chì tiếng bấc về chuyện nầy. Sở dĩ hai người có con với nhau nên nhẹ bớt đi cái chuyện xỉa xói của gia đình. Đúng ra Châu nên có tấm lòng bao dung, hiểu được hoàn cảnh đau thương của vợ, mình lấy họ tức là mình đã cứu vớt cuộc đời của họ, phải sống với nhau bằng tình thương yêu. Nếu thấy rằng lòng mình không rộng lượng như vậy, thì từ đầu mình nên rút lui, để đừng gây thêm đau khổ cho mình và cho người khác. Sách thì không chịu hiểu cái điều thâm sâu bí hiểm đó, nên đau khổ và trách móc đủ thứ. Trước khi tôi rời Đà Nẵng, Sách đến thăm tôi lần cuối. Có lẽ là lần đầu tiên tôi mới nghe Sách nhận xét về tôi. Sách nói trong nghẹn ngào: “Cuối cùng rồi em mới thấy được, không có ai yêu thương em bằng anh”. Tôi nhìn Sách và thầm nghĩ rằng: “Anh cũng không được như vậy, chỉ có chính em mới thương em”. Đến một cái tuổi nhìn cuộc đời trải qua những bon chen, danh lợi. Những tranh giành, hơn thua. Rồi đến một lúc nào đó ta thấy tất cả chỉ là trò hề. Chỉ còn đọng lại chút tình còn sống lại trong lòng. Hãy sống với nhau bằng thủy chung, chân thật. Tôi biết Sách cay đắng với đoạn đường đã trải qua, những nghiệt ngã giáng xuống đời một cách cay nghiệt, cũng bởi vì khi còn trẻ không trân trọng sự chân thật, chạy đua để nắm bắt được danh lợi, nên phải trả một giá rất đắt bằng chính cuộc đời của mình. Không ai có đủ quyền năng can thiệp được những chuyện nầy, nên khi nhận thức được thì đã muộn màng. Trước khi lên taxi ra về, Sách chạy đến ôm tôi, tôi cúi xuống hôn lên trán Sách rồi Sách lầm lũi lên xe. Đức và Thê đứng nhìn cảnh nầy cũng ngậm ngùi, rưng nước mắt. Tôi biết Sách khi lên xe sẽ khóc, nhưng biết làm sao hơn khi chính mình định đoạt cuộc sống của mình, thì mình phải lãnh hậu quả của sự quyết định đó.
Phạm Tương Như Biển đêm Có mối giao tình giữa biển êm Da em trắng ngọc ánh trăng mềm Thoảng mùi hương tóc thơm trong gió Bàng bạc mù sương rớt nửa đêm Ai nhốt sao trời trong mắt xinh Cho anh lạc hướng ngõ tim mình Em như triền sóng theo cơn gió Anh thả thuyền trôi giữa lặng thinh Em thủy triều lên giữa biển khơi Có hay bèo giạt cánh hoa trôi Bóng mây tan nát chìm theo sóng Bọt sóng trùng dương tận bến trời Có phải tình em, hải đảo hoang Tim em thiên sứ giữa mây ngàn Anh mãi thì thầm bao sóng vỗ Vách đá vô tình bọt nước tan Biển lặng hồn anh đêm sáng trăng Tình yêu lai láng khắp mây giăng Em như biển vắng xa xôi quá Có giữ hồn anh bóng nguyệt tan? Anh sẽ là sao lặng lẽ rơi. Hồng dương tỉnh mộng ở chân trời Đêm mãi luân hồi muôn vạn kiếp Tình tự dạt dào tựa biển khơi
Quán rượu tương phùng Chiều buồn tàn úa đóa phù dung. Chén giao bôi mừng phút tương phùng. Ta và em, một trời luân lạc. Em lạc đời, ta lạc tình chung. Đêm chưa tàn sao nhạt phấn hương. Rượu chưa say sao nát y thường. Ly thứ nhất chào em nhan sắc. Rượu đời em đắng những tan thương. Cụng ly đầy hay cụng chân không. Em mời ta uống cạn biển lòng. Rượu em rót có pha nước mắt. Và nụ cười đục bến nước trong. Phà khói thuốc thả vòng mây trắng. Làm sao em cột chặt đời mình Lời em hát, chuyện tình cay đắng. Bài ca buồn giọt lệ lung linh. Đêm tương kiến cũng là tương biệt. Rót đầy ly cụng chén hồng nhan. Uống cho cạn mảnh đời hơn thiệt. Rượu quên sầu hay nát tim gan. Tay em lạnh ngả màu trăng lạnh. Lời hát buồn khóc cuộc tình xa. Ta hôn em trốn đời hiu quạnh. Hay trốn chính mình một đêm qua
Diễm tình Anh gởi thương qua tầng mây nhung nhớ. Khi mây về anh thương nhớ em thêm. Gió cứ miên man, mộng mị êm đềm. Đời rất đẹp, nhưng hồn thơ bỡ ngỡ. Anh nhớ em qua khung trời phiêu lãng. Biển mây trôi như lượn sóng vỗ bờ. Vùng tóc em, mây tóc thoáng bơ vơ. Trong sâu thẳm mắt em trời xanh biếc. Tâm thương nhớ không có đời sinh diệt. Nên nhớ thương tuổi lớn cả ngàn năm. Nhớ khôn nguôi vì cách trở xa xăm. Ngoài nỗi nhớ chắc là anh sẽ khóc. Muốn trả em phần hồn thơ côi cút. Những diễm tình, duyên dáng giữ bao lâu. Sợ hồn thơ không kham nổi niềm đau. Sợ tim vỡ những bờ trăng tan tác. Anh yêu em bỗng thấy đời thơm ngát. Dù trái ngang là chuyện của đời thường. Dung nhan tình là diễm lệ yêu thương. Diễm tình ấy là hồn thơ sinh diệt. Anh nhớ em với tấm lòng tha thiết. Ngày sắp tàn đưa tiễn bóng chiều phai. Dòng thời gian anh ôm giữa đôi tay. Đời giao động những nhịp tim rất lạ.
Dương Quân Thư viết trong mưa Trời làm mưa gió sụt sùi Nhớ em mấy bữa ngủ vùi trong chăn Mưa buồn từng giọt miên man Vẳng nghe tiếng gọi tiền căn vọng về Hỏi lòng đang tỉnh hay mê? Sao nghe đau nhức bốn bề không gian Lối nào lên được thiên đàng Mà chân rối mãi muôn ngàn tơ vương Trầm luân hết cõi vô thường Rã rời tim óc, bi thương xác phàm Bao giờ huệ nhãn, huệ tâm Hẹn nhau về chốn cao thâm cõi Thiền Xét mình nghiệp chướng còn nguyên Câu kinh nào giải nhân duyên luân hồi Mưa chan tội, phúc đầy vơi Giọt vào tiềm thức, giọt rơi vũng sầu Giọt nào rửa sạch cơn đau Giọt nào hóa đá ngàn sau vĩnh hằng? Cuộn tròn nỗi nhớ trong chăn Gởi em thơ viết mấy hàng trong mưa Ví dầu mưa tạnh hay chưa Cội tình cũng đã xác xơ nhánh buồn.
Nguyễn Tôn Nhan Chiều chiều Sáng hôm nay mặt trời xanh Nàng giữ trên môi bông tuyết nhỏ Lá trong vườn từng lưỡi dao găm Nàng giữ trên tay bông tuyết đỏ Chim không bay đến mái hồn tôi Nơi cô đơn rêu ngàn năm đã phủ Nơi vinh diệu của nhửng kẻ u buồn Nơi sáng hôm nay của tôi của nàng Của hai kẻ đem phơi hồn ủ rủ Chiều tôi trở về trên đồi cây Dưới cành khô có bóng nàng treo cổ.
Một chùm bông Nắng nằm trên nóc nhà ga Chim có kinh rơi giọt máu nhỏ Bay về đâu bay về đâu tôi chiều nay Chim có kinh suốt mùa thu ngủ Tôi nằm trên nóc nhà ga Tôi chụp bông nắng khô vỡ Con chuồn chuồn Tôi ngạt thở Tôi nằm thu hiện nóc nhà ga Chim bơi trong chùm bông nắng khô Chiều đẻ tôi ngạt thở.
Yên Sơn Những khởi đầu của một gã tha hương Hắn cứ sống với sức sống vươn lên trong cái ảo tưởng, mơ hồ như một người khách lại. Hắn luyến tiếc quá tuổi thanh xuân cho nên rất ít khi hắn công nhận là hắn đã đứng bên kia một nửa cuộc đời! Hắn không sợ già nhưng hắn không muốn chấp nhận. Chưa làm được việc gì nên trò nên trống mà đã già rồi nghe thê thảm lắm! Hắn vẫn thường nói đùa với bạn bè, người quen là hắn sẽ không bao giờ quá 50 tuổi! Ai nghe qua cũng ngơ ngác trước khi hắn cười hiền giải thích: “kế tiếp 50 sẽ là 49 đến 48, 47… 40 rồi quành lại 41, 42… và cứ thế! Có thể trong chiến tranh khốc liệt xưa kia, hắn đã không thể sống hết mình, sống buông thả như bao nhiêu người khác. Hắn đã sống một cuộc sống mà người đời thường cho là mẫu mực, nề nếp vì hắn tự nguyện đánh ván bài “được ăn cả, ngã về không”, có nghĩa là nếu số phận an bài cho hắn sẽ làm được gì trong đời thì nhất định không thể chết bất tử được. Hắn lo xây dựng tương lai trước sự ra đi vội vã của bạn bè hàng ngày; hắn cố bồi đắp cho tương lai trong những hoang tàn, đỗ nát, khốc liệt của chiến tranh… Hắn đã nghĩ “nếu có chết cũng nên chọn cái chết oai hùng trong sự thanh bạch bản thân để trả ơn tác tạo của mẹ cha, và để lại cho những người thân yêu niềm thương mến và hãnh diện”. Thế nên ở đơn vị nào, bay loại máy bay nào hắn cũng xông pha, cũng tình nguyện. Hắn không bao giờ từ chối khi có bạn bè nhờ đi bay thế khi bận chuyện riêng tư, chuyện gia đình… dù ở đâu, lúc nào hắn cũng nghe kháo là “đi bay thế rất dễ lên bàn thờ”. Rất điển hình, có thằng bạn cùng tên khác họ với hắn, ngày xưa cùng chung đơn vị, đang ở gần đây. Bạn bè lâu lâu tụ tập lại với nhau để biết là còn có nhau. Bao giờ cũng thế, chuyện mới chỉ là chuyện áo cơm, rất ít; chuyện cũ ai cũng thuộc lòng, nói hoài vẫn như mới! Người bạn bao giờ cũng tìm dịp nhắc lại cho người chung quanh biết là ngày xửa, ngày xưa, khi nó mê đắm vợ nó bây giờ thường hay nhờ vã hắn bay thế… Và cứ thế, tuổi thanh xuân của hắn cứ ngày một ngày hai phiêu bồng với mây, với gió, với nắng, với mưa trên khắp vùng trời miền Nam nước Việt… Ôi những toan tính rốt cuộc cũng bất chợt chạy bạt mạng theo đoàn người di tản buồn, không một lời từ giã; không biết mình đi đâu, về đâu vào buổi trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975 giữa tiếng bom đạn vang rền, giữa những hổn loạn cùng cực! Bất chợt đến nỗi không kịp mang theo người yêu dấu chỉ ở cách phi trường 45 phút chạy Honda! Cũng may là “ngã nhưng chưa về không” mà “ngã” cho hắn thêm nhiều cay đắng, đau thương hơn khi nhận ra mình phải sống đời tha hương, viễn xứ, để lại sau lưng một quê hương nghiệt ngã, rách nát; để lại sau lưng bao tình thâm, nghĩa trọng, bao ơn nợ bạn bè! Những chặng đường hắn đã đi qua từ khi tan đàn sẫy nghé thật lắm gian truân. Hắn may mắn một cách nhiệm mầu bốc theo được hai đứa em trai đang theo học ở Saigon – hai đứa rủ nhau chạy tìm anh ở khu cư xá độc thân, trong phi trường, từ chiều hôm trước – mà tiếng Anh của cả hai khi giao thiệp lại rất mỏi tay! Sau vài tuần lễ trong trại tỵ nạn Eglin AFB ở Florida, anh em hắn được bà già nuôi người Mỹ, ở San Antonio, bảo lãnh ra khỏi trại tỵ nạn vào một trưa thứ Bảy cuối tháng 5/1975. Bà già nuôi là vợ của một cố Trung Tá Không Quân Mỹ thời đệ nhị thế chiến. Bà chia sẻ tuổi già với đứa con trai trung niên, ly dị vợ con, trong một căn nhà gạch cũ. Lợi tức của hai mẹ con là tiền cho thuê mấy mẫu nông trại cộng với tiền hưu bỗng ít ỏi! Ở bà, hắn thấy bà giàu nhất ở tấm lòng quý hiếm. Hắn đã gặp và thân quen với bà từ những ngày vỗ cánh tập bay trên đất nước này vào mùa Thu năm 1969, giữa những háo hức tuổi trẻ và bầu nhiệt huyết tràn đầy mà tương lai và mộng ước ngập tầm tay, với niềm tự hào là một trong những đứa con tuyển chọn của đất nước Việt Nam. Tình cảnh bây giờ hoàn toàn trái ngược! Gặp lại bà trong thân phận một gã tỵ nạn, một thằng chiến bại với những ước mơ cùn lụt, lụi tàn! Hắn đã cúi đầu rơi nước mắt với những dòng suy tư hụt hẫng đó. Hắn là người cứng cỏi, hay ít nhất cũng làm ra vẽ, rất ít khi rơi nước mắt vô nghĩa; thế mà từ dạo cuối tháng tư đến nay, nước mắt ở đâu cứ chực tuôn trào! Hắn nhìn bà đầy mặc cảm pha trộn quý mến, cùng lúc thoáng trong tâm tư muộn phiền của hắn có chút cay đắng nghĩ về những người bạn đồng minh đã đành lòng ngoảnh mặt, quay lưng với dân tộc hắn! Trên đường từ phi trường về, hắn nhận ra những lối cũ thân quen, cũng những xa lộ tròng tréo lên nhau, với I.10 chạy mịt mù về miền viễn tây nước Mỹ xa xăm như cuộc đời vô định của anh em hắn mở ra trước mắt! Chốc chốc hắn lại thở dài, vũng buồn trào dâng mênh mang như những đại dương bao la dưới cánh phi cơ trên những chặng đường tỵ nạn! Hắn ao ước có cái cớ gì để hắn có thể bật khóc cho vơi bớt những u uất trĩu nặng trong tâm hồn! Sáng Chủ Nhật, anh em hắn theo chân bà già đi lễ nhà thờ! Bà bảo sẽ giới thiệu với người trong họ đạo có thể sẽ được mướn đi làm! Mặc dù hắn đã chuẩn bị tinh thần để bắt đầu cho cuộc sống mới từ trong trại, nhưng vẫn ngỡ ngàng khi nghe bà nói ba chữ “mướn đi làm”. Từ hồi nào tới giờ hắn chỉ quen với các cụm chữ “đi chơi, đi học, đi lính, đi bay”. Bây giờ cũng là chữ “đi” quen thuộc nhưng chữ “mướn” ở trước và chữ “làm” theo sau! “Mướn đi làm”! Cụm chữ đối với hắn như là một xác nhận đau đớn! Trong thâm tâm hắn có cái gì lạ lẫm lẫn bàng hoàng! Hắn than thầm: “thế là hết thiệt rồi một đời ngang dọc!” Nước mắt hắn lại chực rơi! Ôi quê hương tổ quốc! Ôi những người thân thương! Suốt buổi lễ hắn ngồi nghiền ngẫm trận chiến nội tâm, thỉnh thoảng lẩm bẩm ba chữ “mướn đi làm” như một gã điên! Hai đứa em, bốn mắt nhìn lạc lõng! Lễ đã xong mà sao anh em hắn vẫn ngồi yên một chỗ, dường như có nhiều cặp mắt bám chặt anh em hắn. Hắn triền miên chao đảo và không biết hai đứa em nghĩ gì! Cả ba lúng túng, vụng về chưa biết xoay trở làm sao thì bà già tiến đến với một trung niên da trắng, tóc vàng. Bà giới thiệu hai bên ngập ngừng bắt tay tay bắt để cuối cùng biết rằng, kể từ sáng mai, Mike sẽ tới nhà bà đón hắn đi phụ việc bảo trì nhà cửa. Mike bảo hắn yên tâm, chỉ làm thợ vịn và học được chút gì hay chút đó; hắn chỉ làm part time và được trả $2/giờ! Bà già mừng rối rít, còn hắn thì lí nhí cám ơn, bộ điệu ngập ngừng không ra thể thống nào cả! Số là trong đầu óc máy móc của hắn những con số đang chạy rì rào: “$2/giờ vị chi $16/ngày, hay ít nhất cũng $320/tháng nhân cho khoảng 1.000 tiền Việt Nam cho mỗi đô la… whoa! Con số hắn chưa từng có suốt đời học trò cũng như lương sĩ quan phi công Việt Nam một trời ngang dọc!” Hắn thấy chát đắng trong miệng, mắt chợt mờ câm! Nhìn lại các em và chính bản thân hắn với bộ áo quần duy nhất của mỗi người đã mặc theo trong lúc chạy loạn, dường như chỉ một thoáng thôi niềm vui chợt đến rồi vội đi! Ở trại tỵ nạn người ta cũng phát đồ cũ, anh em hắn cũng lựa được vài ba bộ khả dĩ nhưng vẫn thùng thình; thế nên khi nào có dịp cho bảnh bao thì vẫn phải mặc bồ đồ Việt Nam duy nhất, dù đã cũ nhưng vô cùng thân thiết! Bà già thấy hắn lúng túng vội đỡ lời, nói với Mike chắc là hắn “shy” (mắc cỡ) và vốn dĩ ít nói! 7 giờ sáng hôm sau là một ngày mới, một cuộc đời mới của hắn. Hắn ngoan ngoãn làm tất cả những gì thằng Mike biểu làm; hắn làm ngon lành, mau lẹ dù có lúc hắn thật sự rơi nước mắt – Chỉ một tháng thôi mà đã nghìn trùng xa cách, mà đã voi chó đổi đời! – Từ quét rác, lau cầu tiêu, cắt ráp kính cửa sổ đến sơn quét… đủ cả! Cái gì nó chỉ là hắn làm được ngay, nó có vẻ hài lòng lắm! Buổi chiều trên đường về, thằng Mike đưa ngón tay cái lên trước mặt hắn rồi nói: “you are good, you are number one!” (mày hay quá, mày số một!) Hắn gượng cười cám ơn trả lễ nhưng trong thâm tâm hắn, hắn sôi nổi nghĩ rằng: “máy bay mà tao còn lái đủ loại sá chi công việc không cần đầu óc này!” Hắn xoay người ra cửa sổ như mải mê với cảnh vật chung quanh nhưng cốt để dấu đôi mắt đỏ mọng nước! Hắn bắt đầu thấy giận hắn sao mau nước mắt, sao trở nên ủy mị quá chừng! Để tránh buồn phiền, hắn bắt đầu tập võ ở vườn sau mỗi chiều đi làm về. Một hôm, John đề nghị đưa hắn đi thăm trường dạy võ gần nhà. Hắn hăng hái đi liền. Không biết John nói gì với ông thầy trong văn phòng mà hắn được ông ta tiếp đãi niềm nỡ. Ông ta là một huyền đai tam đẳng, Mỹ trắng, tên Guidry, khoảng hơn 30 tuổi, tính tình có vẻ hiền hòa. Trước khi ra về, ông ta ngỏ ý welcome hắn tới tập bất cứ lúùc nào, ông sẽ tặng võ phục và không phải trả tiền gì cả. Được lời như cởi tấm lòng! Thế là ngày đi làm vất vưởng, tối về đi bộ đến trường tập võ cho quên đời. Sau một tuần lễ siêng năng tập luyện, ông thầy đề nghị hắn giúp ông dạy hai lớp tối, cách ngày và mỗi lớp 1 tiếng 15 phút; mỗi tuần ông trả $10 tiền mặt. Còn gì mừng hơn, vừa có cơ hội tập luyện, vừa được tiền! Dạy được một tuần thì xảy ra chuyện! Số là có hai huấn luyện viên dạy ở đó đã lâu – một Mỹ đen 2 đẳng, Mễ bự con 1 đẳng – có lẽ thấy hắn là ma mới nên tính dằn mặt, rủ hắn đấu giao hữu! Hắn đã thấy những ánh mắt không chút thiện cảm của hai đứa này từ lúc nhập trường. Hắn nói nhỏ với hai đứa là hắn không thích các huấn luyện viên đấu nhau trước mặt võ sinh. Hai thằng cùng nói đâu có sao, ở đây thầy trò còn đấu nhau nữa huống chi chúng ta là huấn luyện viên; hơn nữa đây cũng là cách hướng dẫn cho võ sinh! Hắn tỏ ý không muốn nhưng hai thằng kia cứ ép buộc. Thiệt tình hắn đâu có sợ đấu bao giờ vì xưa kia đã là một trong bốn cột trụ của võ đường Thiếu Lâm Bắc phái Phú Nhuận, và đã một thời mưa gió trên các võ đài tự do từ Saigon ra Đà Nẵng, chưa kể hắn còn là một tuyển thủ Thái Cực Đạo có hạng của Không Quân Tân Sơn Nhất! Hắn giao hẹn chỉ đấu giao hữu thôi sau khi được sự khuyến khích của ông chủ. (Hắn nghĩ chắc ông chủ cũng muốn thử tài hắn!) Đấu giao hữu là không cố tình gây thương tích nhau. Nhưng thằng Mễ mất dạy vừa ra tay đã muốn hạ độc thủ, cứ xông vào như con trâu cui, không có đòn thế gì cả, lại còn cứ mặt hắn mà đấm! Hắn mà không nhanh tay lẹ mắt thì lỗ mũi ăn trầu như chơi. Hắn chỉ dùng đôi chân nhanh lẹ né tránh dễ dàng. Cứ như mèo bỡn chuột khiến thằng Mễ tức giận sau một hồi đánh không khí. Hắn dừng lại hỏi “mày đấu Thái Cực Đạo hay đấu Quyền Anh? Đấu Thái Cực Đạo không được đấm vô mặt!”… nhưng có lẽ thằng Mễ không hiểu tiếng Mỹ của hắn hay sao nên cứ cái mửng cũ tấn công hoài. Hắn đã nhường vì thấy khả năng của thằng giặc này không bằng võ sinh đai xanh đậm của Việt Nam, phần nữa nó lại thấp đẳng hơn; nhưng hoàn cảnh trước mắt hắn không thể kéo dài hơn được… tự nhủ nếu không nặng tay sợ nó không phục. Hắn dừng lại cảnh cáo thêm lần nữa như thể… phân bua với cả trường trước khi dạy cho nó bài học lễ độ! Chờ thằng con xông tới, hắn không né nữa mà co chân trái lên dùng đầu gối cản sức tới của nó, tay trái đánh nhứ vô mặt địch thủ cùng lúc chân trái đặt xuống, chân phải nhanh như cắt quạt gót 360 độ… nếu hắn không lưu tình co bớt chân, dùng mũi bàn chân thay gót, chắc thằng con đã đo ván. Dù vậy, lỗ mũi nó cũng đã ăn trầu! Cả lớp vỗ ta! Thằng Mễ chưa kịp lên tiếng thì thằng Mỹ đen đã la lên: – Tại sao mầy vừa nói đấu Thái Cực Đạo không được đấm vô mặt mà mày làm? – Nó bị đòn chân của tao rõ ràng mà sao mày lại nói tao đấm! – Tao thấy mày đấm trúng mặt nó trước khi mày quay gót! Hắn quay hỏi ông chủ: – Guidry, ông nghĩ sao? – Có lẽ mày đánh lẹ quá nên tao cũng không chắc thấy! – Mày đấm vô mũi tao! Thằng Mễ nói. – Mày muốn xem lại đòn chân vừa rồi không? Hắn cười hỏi. Thằng Mễ chưa kịp trả lời thì thằng đen lên tiếng: – Tao muốn thử đòn chân của mày! Thấy tình hình căng thẳng, hắn có chút e ngại nhìn ông chủ, thấy ông ta gật đầu và nói: – Đấu giao hữu với nhau đừng để mất hòa khí! – Mày nghe không Larry! Hắn nói với thằng đen như cố tình chọc giận nó. Thằng đen không nói thêm một lời, thủ bộ đợi chờ, hai con mắt tròng trắng nhiều hơn tròng đen ngó hắn không chớp. Hắn thủ bộ với tiếng hét “ki-ai” để thị oai làm mọi người giật mình. Thằng đen tức tốc ra đòn mạnh bạo. Đôi chân nó di chuyển khá nhuần nhuyễn. Hắn nhủ lòng phải cẩn thận hơn rồi lại dùng tài tránh né để thăm dò lối đánh của đối thủ. Quái lạ, lũ này học Thái Cực Đạo mà dùng tay như quyền Anh, chân đá không cao hơn ngực! Dù vậy cú đá ngược chân phải của nó cũng khá thần tốc, còn chân trái rất giới hạn, chỉ đá phang ống yếu xìu! Nó hay xông vô đấm liên hoàn xong là đá ngược; còn mỗi lần phang ống thì lui lại thủ thế! Lúc thằng đen phang lần thứ ba, hắn đưa ống chân trái lên chịu, thằng con đau quá nhăn mặt, chưa kịp lùi thì đã lãnh trọn cú đá ngược thẳng vô ngực, ngã ngồi ra đằng sau. Mọi người cùng ồ lên rồi vỗ tay tán thưởng. Cũng may là hắn đã giảm lực và thằng đen có mang áo giáp chứ không thì đã chết giấc! Hắn đưa tay đỡ đối thủ dậy nhưng thằng đen đã làm lơ tay hắn, tự đứng lên. Hắn xin lỗi đã lỡ chân! Giudry đứng dậy biểu cả ba người bắt tay và chấm dứt buổi tập. Thằng đen bắt tay lấy lệ mà mắt thì lườm dữ dằn! Tan lớp, Guidry giữ hắn lại. Hắn nghĩ là có chuyện rồi đây. Nhưng không, Guidry chỉ nói là ông ta rất thích lối đánh, nhất là thái độ của hắn. Dù vậy cũng nên cẩn thận. Guidry hỏi hắn dự thi đấu ở Houston vào cuối tuần tới. Ông ta nói sẽ cùng đi với võ đường và ông sẽ đóng tiền dự thi cho hắn, $20 cho cả thi quyền và đấu. Lúc đó số tiền $20 rất lớn đối với hắn (xăng 40 xu/gallon; thuốc lá 15 xu/gói). Hắn ngần ngại nhưng Guidry ép hắn nhận lời rồi cười nói sẽ không trừ tiền hàng tuần đâu mà lo. Hắn cám ơn Guidry rồi ra về. 5:30 giờ sáng sớm thứ Bảy mọi người lục tục lên xe 15 chỗ ngồi, khởi hành ngay cho kịp 10 giờ sáng khai mạc! Từ San Antonio tới Houston với hơn chục võ sinh các cấp, có cả hai thằng ông nội. Suốt chặng đường ba người không trao đổi với nhau một lời! Lần đầu tiên tham dự đấu võ bên Mỹ, hắn không sợ nhưng cảm thấy hồi hộp! Trên xe, Guidry giảng giải cho hắn và mọi người biết thể lệ thi cử. Xe chỉ dừng lại đổ xăng và cho mọi người đi xả bầu tâm sự, vậy mà đến nơi cũng hơn 9 giờ! Guidry bảo mọi người tự túc mua đồ ăn tại chỗ, hắn thấy giá đắt quá không ăn và đi ra một góc ôn quyền. Thi quyền buổi sáng. Vận động trường là một sân đấu bóng rổ của trường Đại học Houston, vậy mà đầy nghẹt người thi đấu. Rất đông người về từ các thành phố và tiểu bang lân cận. Nhóm huyền đai của hắn có cả thằng Mỹ đen cùng trường! Chờ đến khi hắn thi quyền đã gần 1 giờ trưa. Giám khảo là hai ông thầy Đại Hàn và một Mỹ đen. Kết quả, Đại Hàn nhất, Mỹ trắng nhì, thằng đen hạng Ba, còn hắn… lọt sổ! Hắn vẫn thù tụi Đại Hàn bao giờ cũng ăn gian nên dù tức lắm cũng đành. Chú Mỹ đen nghiêng đầu, rùn vai, mắt nhướng lên mỉm cười nhìn hắn tuồng như hả hê nhưng hắn tới bắt tay nói lời chúc mừng khi nó ôm trophy đi xuống! Gần 5 giờ chiều mới tới lượt hắn thi đấu. Nhóm hắn có 12 người, hạng cân 130 lbs-150 lbs, từ 1-3 đẳng. Thằng Mễ ở hạng cân khác nhưng thằng bạn Mỹ đen ở chung nhóm. Nhờ Guidry mua thức ăn đầy đủ nên hắn thắng vòng loại dễ dàng, hạ đối thủ 3-0; Ở vòng hai gặp một chú Mỹ đen khác. Thằng phải gió này cũng chỉ có tay. Chạy vòng vòng, lâu lâu lại xông vô chọc cú vô ngực xong thụt lùi, hắn chưa kịp phản ứng thì trọng tài đã dừng đấu và cho điểm thằng phải gió! Hắn thấy buồn cười quá, chưa biết xoay trở ra sao thì lại bị cú liên tiếp! Trời ơi! Đánh với đấm không ra sao cả! Chỉ cần một điểm nữa là … tàn cuộc chiến! Không khéo thì cũng sẽ thua như đã chạy cuộc chiến vừa tàn, cũng oan uổng, cũng bất ngờ! Hắn nghĩ phải cấp tốc hành động! Để thua vớ vẩn như vầy sẽ mang nhục! Thằng khỉ gió tính ăn quen nhưng… nó vừa nhảy vô, hắn bước ngang chân trái qua, thằng con lỡ đà chưa kịp rút lui đã lãnh đủ một cú quay gót vô đầu với tất cả sức mạnh, thằng khỉ ngã ra bất tĩnh! Hắn bị loại vì cố tình đánh trọng thương (uncontrolled contact). Guidry phản đối dữ dội nhưng không được! Trong khi chú đen phe ta vào được chung kết, đánh tam giác và lãnh hạng ba! Hắn cười buồn tới bắt tay chúc mừng chú đen (hắn thấy chú đen siết tay hắn chặt lắm), cùng lúc chú Mễ lãnh hạng nhì ở nhóm nặng cân. Tổng cộng võ đường mang về hơn 15 cúp lớn nhỏ trong khi hắn chỉ cười trừ! Chú Mễ và chú đen chịu nói chuyện làm thân với hắn trên suốt đường về. Hắn chỉ đơn giản nghĩ chắc chúng nó đang vui trên sự kém may mắn của mình! Cả xe vui vẻ, cười nói huyên thuyên. Guidry và mọi người cho hắn trúng lô an ủi! Sau chuyến đi Houston trở về, cả hai chú Mễ và chú đen đều tỏ ra thân thiện với hắn. Chú đen nói với hắn rất chân thành rằng chú rất cảm ơn hắn đã không cho chú đo ván vào tuần trước như chú Mỹ đen ở tournament. Chú Mễ không nói gì nhưng hay hỏi han hắn về kỹ thuật. Lớp hắn dạy đông hơn, thu hút thêm một số học trò con gái Mễ. Hắn tự nhủ “tuy thua trận nhưng thắng tình bạn bè cũng đáng”! Và ngày tháng vô tình, vô định vẫn tiếp tục dù trường võ đã cho hắn chút niềm vui tạm thời!
Dương Thượng Trúc Sao mùa đông đến vội mùa đông chưa hẹn đến, thu vội vã ra đi, như cuộc tình rẽ bến, không một lời biệt ly .
con đường xưa còn đó, in dấu chân ta về, tiếng cười vang trong gió, khúc nhạc tình đê mê .
nụ hôn đầu vụng dại, còn ấm nồng bờ môi, trinh nguyên ngàn hoa trái, quấn quýt ta một đời .
gió thu buồn hiu hắt, lá thu vàng rơi rơi, mùa thu chưa trở gót, sao đông đến đây rồi?
Nỗi nhớ còn vương (Tặng người ngày cũ Pleiku)
Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ. Ôi! Quê hương, một thuở đã mờ xa. Có những đêm, lệ buồn đoanh mắt đỏ. Nhớ làm sao những kỷ niệm ngọc ngà.
Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ. Con đường xưa, xào xạc lá me bay, Lá tung tăng, lá cợt đùa với gió, Rồi nhẹ nhàng, lá hôn trộm tóc mây.
Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ. Những chiều vàng, ta dìu bước nhau đi. Đôi mắt nai ngại ngùng như mắc cỡ. Áo học trò, quấn quýt áo “trây di”.
Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ. Nhớ để buồn, để thương tiếc… khôn nguôi. Thật xa xăm mà hồn sao cứ ngỡ… Nghe đâu đây, văng vẳng tiếng em cười…
Nguyễn Thị Thanh Dương Chồng già vợ trẻ Tôi vừa bước chân vào nhà, chồng tôi đã gọi: – Em ơi, cạo gío cho anh… – Lại cảm rồi hả? Gớm, gió đầu Đông cảm, gío cuối Đông cũng cảm. Mà lại cảm ngay vào ngày Valentine, ngày mùa tình yêu, người ta tưng bừng hẹn hò hay đi chơi, còn anh thì ngồi đây ăn vạ. – Đầu hay cuối gì cũng là gío lạnh cả. Tôi ngao ngán: – Anh thì dị ứng với cả bốn mùa, giữa mùa hè trời bỗng dưng đổ cơn mưa anh cũng ngây ngây người khó chịu, mùa Xuân anh không chịu nổi phấn hoa tha hồ sổ mũi hắt hơi, còn mùa Thu gío chuyển mùa hiu hiu, trong khi em muốn được đi theo gío đến tận chân mây cuối trời thì anh đã cảm vì lạnh, phải uống vài viên thuốc Tylenol và nằm nhà đắp chăn để ngủ, mặc cho mùa Thu mơ màng ngoài khung cửa. – Thì anh khác, em khác. Anh đã 60 tuổi rồi còn gì! mà em thì mới 40, cái tuổi nồng nàn và rực rỡ. – Em muốn lấy chồng lớn tuổi để nép bóng tùng quân, để mãi mãi là người tình bé bỏng được nuông chiều, hóa ra em lại là người phải chiều anh và hầu anh đủ thứ. Tôi nhìn anh đang ngồi trong ghế như đã chờ đợi tôi từ nãy giờ, mặc áo len dày, chân đi vớ, đầu còn đội cả mũ len nữa. Càng thêm ngao ngán: – Trông anh lù đù như ông gìa trong nursing home ấy, trong nhà chứ có phải ngoài sân hay ngoài cánh đồng lộng gío đâu mà anh trang bị quần áo, mũ và vớ kỹ thế? – Biết thế, nhưng thà thừa hơi ấm còn hơn là một chút lạnh vào người. Tôi ra lệnh: – Thôi đủ rồi, anh chuẩn bị cởi đống quần áo len, áo khóac tổng cộng mười mấy pound của anh ra để em cạo gío. Từ ngày lấy anh em bỗng trở thành người đàn bà cạo gío thành thạo, tay nghề cao dần theo năm tháng. Ông chồng tôi lê dép đứng lên đi lấy chai dầu gío xanh và dụng cụ cạo gío. Kể cũng lạ, mỗi lần cảm lạnh hay nhức mỏi hai vai và lưng, chỉ cần cạo gío cho người nóng ran lên anh thấy đỡ ngay. Vừa ngửi mùi dầu xanh vừa cạo gío trên tấm lưng gầy của chồng, trong căn phòng này dường như chỉ là tuổi gìa và đau ốm. Trong khi cuộc sống bên ngoài luôn sống động xôn xao, lúc nãy tôi có ghé vào chợ đã thấy cửa hàng bán hoa tấp nập khách mua. Tôi đã dừng chân ngắm nhìn cái điều có lẽ chẳng còn đến với tôi nữa trong ngày Valentine, những bó hoa, những bình hoa đủ loại, đủ màu, bên cạnh những qủa bóng hình trái tim cột dây bay lơ lửng đang chờ được mua và trao tặng. Ngày tôi 20 tuổi, đời tôi là cả một rừng hoa mênh mông chứ chẳng phải một chợ hoa hạn hẹp. Tâm hồn tôi là cả triệu qủa bóng bay lơ lửng giữa trời xanh, chứ chẳng phải chỉ vài qủa bóng kia. Còn anh, là một người đàn ông từng trải vừa đúng 40, khỏe mạnh, đẹp trai, và tình tứ, anh làm con bé tôi chết mê chết mệt, yêu anh chớp nhoáng và lấy anh vội vàng. Mỗi mùa Valentine anh đều âu yếm mua hoa về tặng vợ, mối tình nồng ấm kéo dài được vài năm thì dấu hiệu tuổi gìa của anh xuất hiện, 45 tuổi tóc anh đã bạc khá nhiều, anh phải nhuộm cho khỏi chênh lệch với cô vợ trẻ, đến nay thì đầu anh đã hói, chỉ còn một nhúm tóc lưa thưa như rừng chưa thay lá. Không biết có phải vì tuổi gìa làm anh mệt mỏi hết hứng thú yêu đời hay vì cuộc sống vợ chồng lâu ngày thành cũ, nên anh “cúp” luôn chuyện mua hoa tặng vợ ngày lễ Tình Yêu, mà tôi cũng chẳng náo nức chờ mong như ngày xưa nữa. Tôi đang say sưa cạo gío, bỗng anh rướn người lên và kêu thống thiết: – Trời ơi, em cạo kiểu gì mà đau qúa vậy? – Hình như…em quên chưa bôi dầu xanh chỗ này… Anh hỏi tội tôi: – Em chưa gìa mà lơ đãng và xớn xác thế! Chưa bôi dầu mà cạo thì ai chịu nổi! Tôi chanh chua: – Em gìa trước tuổi để bằng anh, tuổi gìa của anh như một loại vi khuẩn lây lan sang cả đời em. Anh biết chưa? Anh nhăn mặt: – Sao em lắm lời thế? Ngày xưa em ngây thơ hiền dịu bao nhiêu bây giờ em chanh chua đỏng đảnh bấy nhiêu. Nếu như được làm lại từ đầu thì… Tôi gắt gỏng: – Thì anh sẽ làm gì? Anh chê tôi chanh chua, anh sẽ không cưới tôi chứ gì? – Thì… anh vẫn yêu em và cưới em, xưa yêu em hiền dịu, nay yêu em cả những chanh chua, cả khi đỏng đảnh. – Thôi đừng có nịnh nọt. Còn anh, chàng hào hoa ngày xưa của em đã thay thế bằng một ông gìa dở hơi rồi đấy. Không dám than đau nữa, anh hỏi sang chuyện khác: – Nãy em đi đâu mà lâu thế? – Đi đủ thứ, nhà băng này, ghé chợ này, và…nhân thể em ghé vào văn phòng bác sĩ thẩm mỹ hỏi thăm để cắt mí mắt, vì mắt em hơi bị sụp mí rồi. Tấm lưng anh lại rướn lên, lần này để phản kháng: – Thôi em ạ, vốn dĩ em đã trẻ hơn anh nhiều, mà lại sửa sắc đẹp thì càng trẻ hơn nữa, coi sao được? – Biết làm sao bây giờ? chuyện em sửa sắc đẹp chẳng vì anh bao nhiêu tuổi cả, mà vì em thích. Tôi than thở: – Nếu anh không qúa gìa, hay nói một cách khác nếu anh còn trẻ độ tuổi như em, thì giờ này anh không thể nằm đây bắt em cạo gío, mà đã ra tiệm chọn hoa tặng em và chiều nay sẽ mời em đi nhà hàng để làm ấm lại tình vợ chồng đã nhạt phai vì thời gian, vì bận rộn của cuộc đời. Em có bao nhiêu quần aó, giày dép thời trang để diện, có son phấn để điểm trang mà mấy khi dùng đến? – Tình yêu là ở trong lòng, cái màn tặng hoa, tặng qùa Valentine chỉ là hình thức phù phiếm, làm lợi cho giới kinh doanh. Năm nay kinh tế khó khăn, thất nghiệp lan tràn, càng giản tiện, tiết kiệm càng tốt, ở California có ông bị thất nghiệp đã giết chết vợ con và tự tử theo.Tình yêu đã cũ, hâm đi hâm lại như nồi nước phở cũng chẳng làm ngon thêm tí nào. – Còn hơn là không hâm sẽ bị…thiu, sẽ tệ hại hơn nữa. Anh vừa nói vừa thở vì vẫn còn đau mỗi khi tôi mạnh tay: – Anh có muốn thế này đâu. Thật dại khờ khi người ta lấy nhau bất kể tuổi tác. Mà tại sao ngày ấy em cứ xông vào đời anh, đòi lấy anh trước khi anh ngỏ lời cưới em? – Đấy là lãng mạn một cách bốc đồng. Tại cuốn truyện “Tình Nghĩa Vợ Chồng” của Leon Tolstoi do Bảo Sơn dịch, cô Mai tuổi mới lớn đã yêu chú Sách , người đàn ông hơn cô rất nhiều tuổi và là bạn của cha cô, tình yêu nồng nàn thiết tha và chú Sách thì tử tế bao dung tuyệt vời làm ảnh hưởng đến em. Lại thêm bản nhạc nào đó của ông Y Vân với những câu “Năm anh 20 em mới sinh ra đời, năm anh 40 em mới vừa 20…” thật sống động và lãng mạn. Cả hai thứ cộng lại làm hồi đó em chỉ mơ lấy một anh chồng gìa, đến nỗi mấy thằng cùng trang lứa tán em, em coi chúng như hàng ranh con không hề đếm xỉa đến. – Còn anh háo thắng một cách bốc đồng! Vì anh không mãi mãi là thằng đàn ông 40 sung sức để yêu em, để mỗi lần em giận dỗi anh làm huề bế xốc em lên và ôm gọn trong vòng tay mình, ngược lại bây giờ một cú vung tay vùng vằng của em cũng làm anh loạng quạng suýt ngã. Thà anh lấy một người vợ ngang vai phải lứa, cả hai cùng gìa, cùng nay ốm mai đau, cuộc sống thoải mái biết bao! Bà ấy cạo gío cho anh, anh cạo gío cho bà ấy, chẳng có gì để phàn nàn cả. – Nhưng sao anh gìa nhanh thế? người ta 70 còn cưới vợ, mà anh thì mới 60 đã ốm yếu ho hen thế này? – Thì sức khỏe mỗi người mỗi khác. Mẹ anh kể ngày còn bé anh đau ốm quặt quẹo, vừa chữa bệnh bằng Tây y lẫn Đông y vừa cúng bái chùa chiền tứ phương anh mới lớn nổi. Tôi lên giọng kể lể: – Tuy nhỏ tuổi hơn anh mà đôi lúc em như bà chị hai của anh, hay như một người mẹ chăm sóc đứa con thơ ấy. – Phải nói rõ ra là như một bà chị hắc ám hay người mẹ…ghẻ em nhé, vì em hay gắt gỏng, mắng mỏ va hà hiếp anh lắm đấy. – Vì anh lẩm cẩm qúa ai mà chịu nổi? Lúc nào cũng than đau mình nhức mẩy và đòi cạo gío. Thôi xong rồi, anh nằm nghỉ đi cho khỏe để em đi nấu cơm. Tôi kê gối, đắp chăn cho anh nằm êm ấm xong thì có tiếng chuông cửa reo. Người ta đến giao phát một bình hoa tươi làm tôi ngỡ ngàng cứ tưởng có sự lầm lẫn gì chăng? Nhưng đúng địa chỉ nhà này và tên người nhận là… con gái tôi, chứ không phải tôi. Con gái đã 19 tuổi rồi, vậy mà dưới mắt tôi nó vẫn chỉ là một đứa trẻ con. Thì ra đã có anh chàng nào để ý đến nó rồi. Tôi thận trọng mang bình hoa để lên bàn và ngắm nghía, bình hoa bằng thủy tinh trong suốt, thắt nơ bằng sợi dây màu hồng, trong cắm đầy hoa Hồng, điểm tô bằng những cánh hoa cúc trắng nhỏ lấm tấm với những cành lá dương xỉ xanh tươi.. Lòng tôi bỗng rộn ràng ấm áp, sống lại những phút giây xa xưa . Chồng tôi cũng tò mò từ trong phòng bước ra: – Hoa của ai đấy em? Tôi ra khỏi giấc mơ: – Còn ai vào đâu nữa, ngoài con gái mình? không lẽ ai đó tặng hoa cho em, một mụ đàn bà 40 có chồng lù lù bên cạnh? – Nhưng sao mặt em bâng khuâng thế kia? – Em chạnh lòng nhớ thuở mới yêu anh, nhưng phút giây ngắn ngủi ấy qua rồi. Thực tế, em đang bực mình đây, con gái mình không thể quan hệ tình cảm yêu đương làm ảnh hưởng đến việc học hành của nó trong lúc này. Chồng tôi bênh con gái: – Em chỉ hơn nó 1 tuổi mà ngày xưa đã yêu anh thế nào? Lãng mạn đến thế nào? Em đã nói rằng nếu không lấy được anh thì tất cả đàn ông trên cõi đời này đều vô duyên, đều là những tượng đá không linh hồn. – Thì đã nói ngày ấy em bốc đồng mà, nên phải rút kinh nghiệm cho con mình. – Trái lại, em kh ông b ốc đ ồng m à còn tỉnh táo và thông minh để chép những bài thơ tình rất hay trên báo tặng cho anh. Em đã từng bỏ học để đi chơi với anh. Còn con mình vẫn đi học nghiêm chỉnh và tử tế hơn em nhiều. Tôi vùng vằng: – Anh đánh gía tình yêu của em xuống cấp như thời buổi kinh tế khó khăn mọi thứ đều hạ gía hả? Con gái chúng tôi về đến, chấm dứt sự cãi cọ thường ngày như cơm bữa của cha mẹ: – Bình hoa này là quà tặng Valentine của con, một người bạn trai yêu con và con cũng yêu anh ấy. Chiều nay chúng con có hẹn . Tôi lo xa: – Chúng con yêu nhau thì được, nhưng chớ có đòi cưới nhau sớm nhé? phải lo học hành thành tài đã. – Chuyện cưới nhau còn lâu mẹ ạ, phải tìm hiểu tính tình nhau nữa chứ. Ngày xưa bố mẹ có tìm hiểu nhau trước khi cưới không? – Không! Chồng tôi đáp. Tôi khẳng định thêm: – Mẹ cũng không! Trăm lần không, ngàn lần không ! – Hèn gì bố mẹ xung khắc nhau, hay cãi cọ qúa, vậy mà bố mẹ nói lấy nhau vì tình yêu – Đúng là vì tình yêu con ạ, một tình yêu chớp nhoáng như một tia sấm sét lóe lên ngắn ngủi trong một đêm mưa gío u mê. Con tôi an ủi: – Nhưng tình yêu nào chẳng phai nhạt theo thời gian, lâu hay mau mà thôi, có lẽ chúng ta phải biết chấp nhận điều đó. Chuyện tình Romeo và Juliet cũng thế, cả hai đều chết sớm, nếu lấy nhau thì chắc gì có thiên tình sử cho chúng ta đọc. Con gái chúng tôi ở lứa tuổi đôi mươi là hình ảnh tôi ngày xưa, nhưng suy luận chín chắn hơn tôi nhiều. Tôi nói với chồng trước khi lăn vào bếp để nấu nướng: – Anh nằm yên đừng kêu réo gì em để em yên trí làm món thịt bò steak nhé. Thay vì mình đi nhà hàng như người ta trong ngày lễ Tình Yêu thì ăn tại nhà vậy. Chồng tôi kêu lên: – Thôi, thôi, anh mệt lắm, sức đâu mà nuốt món bò steak của em, chắc sẽ dai dẳng như những lần em cãi nhau với anh và không chịu ngừng nghỉ. – Anh đừng bi quan hóa vấn đề sẽ làm anh nhanh suy sụp và gìa thêm đấy. Em sẽ nấu theo sách vở, sẽ ngon lành… – Hai mươi năm qua không lẽ em mới giỏi nấu nướng đột xuất? – Cứ coi như thế đi, cũng phải cho em cơ hội chứ. Hai chúng mình sẽ ăn bữa chiều nay với món bò steak và uống chút rượu cho ấm lòng và ấm tình anh nhé. Anh vẫn cương quyết chối từ: – Thú thật anh chỉ thèm…một tô cháo trắng nóng hổi ăn với thịt chà bông, có lẽ sẽ nhẹ nhàng và khỏe người hơn, và cũng dễ nấu cho em hơn là món bò steak. Tôi thất vọng thở dài: – Muốn ăn với anh một bữa chiều ấm cúng cũng không được, con gái thì hẹn hò đi ăn ngoài, chỉ còn hai vợ chồng mà hai khung trời khác biệt, chẳng lẽ anh ngồi húp cháo mà em ăn steak thì vui với ai? – Thì em cùng ăn cháo với anh cho vui, nhân thể diet luôn. Tôi chán nản dẹp bỏ bịch thịt bò trở vào ngăn tủ lạnh Vừa lúc đó con gái tôi đã trang điểm xong đi ra ngoài, con tôi thật đẹp với đôi mắt long lanh, nụ cười rạng rỡ và mái tóc mượt mà đong đưa. – Mẹ ơi, con đi đây …Chúc bố mẹ ở nhà bình thường, đừng cãi nhau nữa nhé.. Ngày lễ Tình yêu, mùa của những tình yêu đã cũ, đã phai nhạt, trong đó có vợ chồng tôi Nhưng vẫn là mùa tình yêu bắt đầu, mới tinh khôi cho bao nhiêu người khác, ở mọi lứa tuổi, đến với nhau bằng nhịp đập của con tim, trong đó có con gái tôi. Tôi thẫn thờ nhìn con gái đi ra cửa, chợt tôi vội gọi lại, hoảng hốt lo âu: – Con ơi, con sẽ đi hẹn với người yêu của con, mối tình đầu của con, phải không? – Vâng, con đã vừa nói với mẹ rồi, chúng con sẽ hòan toàn trong sáng và nghiêm chỉnh. – Mẹ biết điều ấy rồi, vấn đề mẹ chưa biết và muốn hỏi con bây giờ là người yêu của con bao nhiêu tuổi?? bao nhiêu tuổi? bao nhiêu tuổi?? – Sao mẹ hỏi dồn dập và kinh hòang thế? Anh ấy hơn con 3 tuổi . Tôi thở phào nhẹ nhỏm: – May qúa, mẹ chỉ sợ con cũng lãng mạn như mẹ ngày xưa mà yêu và lấy chồng gìa thì khổ vào thân,. Thôi con đi chơi vui vẻ nhé, còn mẹ đi nấu nồi cháo trắng và ăn với bố con cho hết buổi chiều nay.
Hương vị tình yêu NTTD
Em đến với anh hương vị ngọt ngào, Trong ly cà phê đen buổi sáng, Em tinh khôi như những thìa đường trắng, Để cà phê không làm đắng môi anh.
Em sẽ là những giọt mật ong, Nũng nịu màu vàng trong óng ả, Nếm em đi, vị ngọt ngào rất lạ, Để quên đời có lắm lúc chua cay.
Em đến với anh hương vị nồng say, Có thể làm anh quay cuồng chóng mặt, Em sẽ là ly rượu đầy sóng sánh, Uống em đi, cho hết cuộc vui này.
Em đến với anh như lòai cỏ cây, Rất hồn nhiên chờ bàn tay ấp ủ, Vườn nhà anh chiều nay em mới nở, Đóa hoa tình thơm ngát mãi trong anh.
Em sẽ là rạt rào biển xanh, Những ngọn sóng không bao giờ ngừng lại, Sóng vỗ bờ anh, tình em vụng dại, Nhưng tình em biển mặn chẳng nhạt phai.
Hương vị tình yêu dành chỉ anh thôi, Quấn quýt bên anh từng giây từng phút, Nếu một mai anh lìa đời nhắm mắt, Tình theo anh về một cõi thiên thu.
Thái Bạch Vân Trên đường thiên thu Một chiều xe rong ruổi Trời lất phất mưa mù Êm đềm trong cửa ấm Trên con đường thiên thu…
Cho ta quên phiền não U buồn thoát ngục tù Tình vương nào muôn kiếp Hạnh phúc nào ta ru
Tim ai dường thổn thức Bước chân về mộng du Lời thì thầm dấu ái Tình Thơ dài thiên thu
Đèn đương ngời tinh tú Reo cười giữa màn đêm Long lanh bóng hạnh phúc Nguồn vui thật êm đềm
Trên con dường thiên thu Tình thơ dài muôn thuở…
Bên nụ cươi buồn Lệ buồn ơi hãy cứ rơi mau Tuôn trào đi trút bớt mạch sầu Trong sâu lắng, trôi về cổ mộ Để đàn ai vuốt dịu cơn đau
Đêm giá lạnh, đèn hiu hắt bóng Tiếng gió ru nhạc khúc tiêu dao Bên nụ cười buồn, Anh ,muôn thuở Lời thì thầm ấm áp gữi trao
Anh ở đây chờ em suốt kiếp Cứ về như thuở mới quen nhau Dù dòng đời lắm điều nghiệt ngã Gió quay chiều xoáy lốc lên cao
Nín đi em, cơn sầu bão nổi Cho tình em trân quý ngọt ngào Và thời gian tròn xoay miên viễn Hạnh phúc tràn cổ mộ xưa sau.
Dạ vấn vương “Nhớ nhớ thương thương, thương nhớ thương” * Thương thương nhớ nhớ ,nhớ thương thuơng Bước đi… một bước nhìn non nước Ngoảnh lại từng giây ngắm cố hương Bến mới cho dù tươi sắc mới Bờ xưa sao mãi tím can trường Gió ơi hãy níu hồn ta lại Ôm lấy sơn hà dạ vấn vương
(*) Ta Đếm Sao Trời – Thơ Uyên Hạnh
Tuấn Đình Như vừa chiêm bao Ðêm qua nỗi nhớ còn đầy Sáng nay se lạnh trời mây chút buồn Chớm thu cây cỏ mờ sương Ðưa nhè nhẹ ngọn gió mơn tiễn hè
Bước chân đi, buổi thu về Nghe nằng nặng mối tình quê mơ màng Như lục bát ghép trọn vần Thơ thôi dang dở mấy hàng về tim
Chùm ký ức, sợi tơ tình Ngày xanh dạo nọ dịu hiền nhớ mong Dáng em vóc ngọc má hồng Cây si sầu đợi mỏi mòn sớm trưa
Nghe như trời đã sang mùa Có con bướm trắng cợt đùa hoa xinh Cúc vàng khoe sắc hữu tình Hình bóng cũ, chợt lung linh theo về
Gió đưa gió thổi sau hè Thôi sắc biếc lá trở về cội xưa Hồ trường đã cạn hay chưa Ta hồn chợt tỉnh như vừa chiêm bao
Gót chân tình cờ Trời thu mờ ảo không gian Khai trường sách vở đường làng mây bay Hoa phượng đỏ nở trên cây Nhớ thương vụng dại đong đầy tình thơ
Ngày xưa khốn khổ dại khờ Bướm hoa len lén ngẩn ngơ phượng gầy Ngoài cửa lớp gió heo may Bài thơ tình ái còn hoài trong mơ
Thương em chỉ biết làm thơ Gã khờ được mộng ước mơ bên người Sân trường mấy lối hoa tươi Dáng em hiền dịu nụ cười vấn vương
Suối tóc huyền, khói trầm hương Bay lên từ ánh yêu thương ngút ngàn Trầm tư mờ cả không gian Cõi si trần tục mơ màng tình xuân
Xa rồi cái thuở cài trâm Cố nhân đất khách gót chân tình cờ Trời xanh mây trắng lững lờ Tưởng rằng lắng đọng nào ngờ sóng xao
Viễn xứ mưa chiều Cơn rét muộn, gió heo may Rạt rào cành lá mưa bay giọt buồn Ðêm nằm nỗi nhớ niềm thương Quê hương tù ngục vấn vương dạ sầu
Xót chi kỷ niệm hồn đau Quanh vườn rả rích dãi dầu cô liêu Lối về quê mẹ hắt hiu Nơi viển xứ chợt mưa chiều lệ tuôn
Có hay hoang lạnh cội nguồn Bên trời núi Ngự mây vương đỉnh sầu Dòng Hương lờ lững nước sâu Hai nguồn Tả Hữu (1) dạt dào mùi hương
Xuôi về phố thị ruộng vườn Thạch xương bồ (2) nhẹ vương vương hương thầm Huế đô đại nội cõi trần Một thời rạng rỡ trăm năm hoàng triều
Ruột đau quê mẹ chín chìu Bên tai vẳng tiếng ru chiều giọng ngâm Cho ta thương nhớ nào cầm Trăng lồng bóng nước mênh mông Hương Bình
Trời quê non nước hữu tình Người ơi! réo rắt Nam Bình mà chi Giọng hò xứ Huế lâm ly Cho lòng đòi đoạn từ quy thêm buồn
GHI CHÚ: 1. Tả Trạch và Hữu Trạch, hai đầu nguồn của sông Hương 2. Loại cỏ thơm mọc khắp vùng trên đầu nguồn phát xuất từ sâu thẳm Trường sơn
Uyên Sơn Mái Trường xưa (Ký sự)
Thành phố Mỹ Tho, một trong những tỉnh lỵ lâu đời của Nam Kỳ Lục Tỉnh, nổi tiếng với trường trung học Lycée Le Myre de Villers xây cất vào năm 1889, lâu đời đứng hàng thứ hai sau trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký tại Sài Gòn.Ấy vậy mà ngôi trường tiểu học chính thức và lớn nhất của tỉnh lỵ vào các thập niên 1940 và 1950, École d’Étude Primaire Provincial de My Tho ville, dù to lớn và rộng rãi với gần cả trăm lớp học, lại hoàn toàn được xây dựng bằng cây gỗ và lợp lá, nằm ngay đường ÔB Nguyễn Trung Long, kỷ niệm Ông Bà Quận Trưởng Châu Thành Mỹ Tho bị Việt cộng pháo kích chết vào năm 1960, cạnh cầu Bắc qua Rạch Miễu nên trường được gọi ngắn gọn là trường Tiểu Học Cầu Bắc. Theo Ba tôi kể lại, ngôi trường được xây dựng bởi ông Hiệu Trưởng người Pháp tên là Toussin, chính ông là người đã phác họa và chọn vật liệu cây lá cho ngôi trường của mình, một ngôi trường độc đáo của Nam Kỳ Lục Tỉnh, dù ngân sách tỉnh thừa tiền để xây gạch ngói. Dù là cây lá nhưng được xây dựng theo lối tân kỳ vững chắc với cột, khung bằng cây dầu vuông, kể cả cửa sổ cửa cái của mỗi lớp, nên trông có vẻ kiểu cách riêng biệt, dù thoáng mát nhưng vẫn giữ được dáng vẻ uy nghi. Không biết trường chắc chắn có bao nhiêu lớp học, chỉ biết trường có đủ các lớp, bắt đầu từ lớp Đồng Ấu (Cour Enfantaire) cho đến lớp Tiếp Liên (Cour Certifier). Có cả một dãy nhà dành cho “căng tin” để cho các học sinh ở xa ăn cơm trưa khi học sinh còn học ngày hai buổi. Riêng văn phòng trường và phòng việc ông Hiệu Trưởng cũng cất bằng cây lá nhưng cao lớn đồ sộ hơn, rộng bằng hai lần lớp học bình thường, nền được lót gạch tàu đỏ hồng. Trường được xây dựng gồm các dãy nhà tọa lạc thành một khuôn viên hình chữ nhật. Từ cổng trường nhìn thẳng vào là văn phòng Hiệu Trưởng nằm chính giữa một dãy dài của các lớp học, phía sau là một dãy khác nằm song song sát bờ giếng nước ngọt của tỉnh. Bên trái và bên phải nằm thẳng góc với hai dãy này là hai dãy lớp học ngắn hơn. Khu bên trái được dùng làm phạn xá “căng tin” và nhà bếp một dãy và dãy còn lại là các lớp Nhất và Tiếp Liên, khu bên phải nguyên hai dãy dành cho nữ sinh. Ngoài ra cặp sát hàng rào cổng chính đường Trần Quốc Tuấn, còn có hai dãy lớp học nằm ngang che khuất sân trường bên trong. Chính giữa sân trường bằng đất sét láng bóng là cột cờ bằng ciment cao vút, phần sân bên trái và bên phải là hai cây me tây thân lớn bằng cả người ôm, phủ tàn cây bóng mát hai khu vực rộng lớn (me tây còn gọi là cây còng, có hoa màu tím nhạt nở ra như những sợi tơ màu lóng lánh, trái hơi giống trái me chua nhưng nhỏ và dài hơn, màu đen, khi chín bên trong có nhựa ngọt gắt như đường thắng kẹo lại). Đặc biệt có ba lớp học sát phía tay phải của văn phòng Hiệu Trưởng được phá bỏ vách ăn thông ba lớp liền nhau, vách lá chung quanh được phủ vải đen. Ba lớp học này được dùng như một hội trường cho các giáo viên, hoặc sẽ được dùng như một rạp chiếu ciné cho học sinh mua vé vô cửa, hồi đó thường chiếu phim Tarzan hoặc Zoro, học trò tụi tôi mê chết bỏ. Mùa tựu trường năm 1948, sau khi học hết nguyên một năm trường Mẫu Giáo của cô Bảy Kỳ có tên Việt là Ấu Xuân Học Đường và tên Tây là “École Maternel de Printemps” ở đường D’Arries, sau này là đường Lê Lợi gần chợ Mỹ Tho, tôi được Má tôi gửi tôi cho thầy Viễn – Lúc này Ba tôi đi kháng chiến chưa về – chở tôi bằng chiếc xe đạp “Alcyon” của thầy lên trường Tiểu Học Cầu Bắc giao cho thầy Huỳnh Văn Lai để trở thành học sinh lớp Đồng Ấu. Ngồi lớp Đồng Ấu này thật sự tôi chẳng học được gì, vì sau nguyên một năm học trường cô Bảy Kỳ, dưới cọng roi mây của cô từ lớp “dưới”, học đánh vần a, b, c, đếm số “un – một”, “deux – hai”, tôi đã lên lớp “trên”, biết đọc chữ Việt-Pháp, viết “Dictée”, làm toán cho nên ngồi cùng với đám bạn học lớp Đồng Ấu mới bắt đầu học a, á, â… tôi ngủ gật hoài. Chưa được tròn một tháng thì một hôm có một cô giáo vào lớp gọi tên tôi và dẫn lên lớp Dự Bị của cô (Cour Préparatoir), tên cô là cô Hưởng, từ đó tôi trở thành học trò của cô cho đến hết năm học. Năm kế lên lớp Sơ Đẳng hay lớp Ba (Cour Élémentaire) của thầy Tân. Thầy Tân da ngâm ngâm đen, hiền, ít đánh học trò nên học thoải mái, lúc đó anh tôi đang ngồi lớp Nhất của thầy Truyền, cuối năm đó tôi được lãnh phần thưởng. Ở đây, phải nói đến thành phần học trò của trường Tiểu Học Cầu Bắc này, phân nửa là học sinh cư ngụ tại tỉnh lỵ, phân nửa còn lại là học sinh cư ngụ tại ngoại ô hoặc ở dưới các quận như Chợ Gạo, Tân Hiệp hoặc bên Tân Thạch, An Hóa thuộc tỉnh Bến Tre. Học sinh cư ngụ tại tỉnh lỵ, lúc còn học ngày hai buổi, sáng đi học trưa về nhà ăn cơm ngủ trưa, hai giờ trở lại trường học tiếp đến chiều. Số học sinh ở ngoại ô, nếu có đơn xin và đóng tiền sẽ được ở lại trường ăn cơm “căng tin”, nghỉ trưa tại trường để học tiếp buổi chiều. Ngoài ra có một số học sinh con của đám lính trong thành lính tập – Garde Auxiliaire – đối diện phía bên trái của trường. Chung quanh thành lính này có hàng rào cao trồng dọc theo các cây bả đậu. Loại cây này có trái tròn có gai chung quanh, học trò kể cả thầy giáo đi bộ ngang qua bị tụi con lính đứng bên trong hàng rào lấy trái bả đậu chọi ra, nhiều người bị đổ máu đầu hoài. Đám học sinh con lính này, một số lai Miên, quậy phá không ngán sợ ai hết mà học lại dở, hễ bị thầy cô đánh đòn thì về mét ba nó, hôm sau mặc đồ lính vô trường hăm he, riết rồi thầy cô mặc kệ không dám động tới bọn chúng. Cuối năm đó, sau khi lãnh thưởng, tôi ôm phần thưởng tức tốc chạy như bay lên lớp Nhất của anh tôi để gởi, nếu không sẽ bị tụi con lính giựt mất. Và năm đó tôi đậu bằng Sơ Đẳng Tiểu Học với Mention Francais, để rồi tựu trường tôi lên lớp Nhì (Cour Moyen).Ở lớp Nhì này, đầu tiên tôi học thầy Lai cao lêu nghêu chuyên môn mặc nguyên bộ đồ tây trắng, thường dùng ngón cái và ngón trỏ bấm vào trái tai (chỗ đàn bà con gái đeo bông tai) mấy đứa không thuộc bài. Vừa bấm móng tay cái vừa rề rà khuyên nhủ chầm chậm: – Bữa nay sao hỏng thuộc bài vậy con! Ba má con cho con vô đây học hay vô đây chơi vậy con? – Dạ vô đây học! – Học mà sao không thuộc bài vậy con? – Dạ con quên! – Lần sau đừng quên nữa nghe con! – Dạ con hỏng dám quên nữa! Dần lân một hồi buông hai ngón tay ra khỏi lỗ tai thì trái tai thằng học trò đã bầm tím sưng lên bằng trái chanh.
—o0o—
Thời gian này Pháp và Việt Minh đều mở những mặt trận đánh lớn khắp nơi, báo chí hằng ngày ba tôi mua về đều đăng những tin tức nóng sốt về chiến trận. Ngoài Bắc, quân Pháp rầm rộ mở các chiến dịch Navarre, Hòa Bình để cố gắng bình định vùng châu thổ sông Hồng Hà; trong Nam, liên quân Việt Pháp tấn công vào vùng Đồng Tháp Mười. Nguyên nhà gia đình tôi lúc đó ở bên kia cầu Quây gần bót số 2 (sau này là rạp hát Viễn Trường). Một đêm nọ Việt Minh núp trong xóm nhà khu tôi bắn súng phóng lựu và súng trường “cắc bùm-cắc bùm” vào trong bót, lính trong bót bắn trả ra xối xả, kể cả đạn “tromblon” làm mấy căn nhà lá phía sau nhà ba má tôi suýt cháy nếu lối xóm không liều mạng chạy ra dưới lằn đạn để tưới nước dập tắt ngọn lửa. Sáng sớm thức dậy, lính Marocain, Sénégalais trong bót túa ra lục soát các xóm nhà chung quanh bót từ chợ Cũ lên tới cầu Quây, nhà nào cũng bị đập phá đồ đạc bên trong tan nát. Riêng nhà ba má tôi dù có mặt đủ mọi người trong nhà chúng cũng vào lục lạo đập bể nát đĩa hát, máy hát Pathé Pono hiệu Con chó thổi kèn, chén bát ly tách, lấy lưỡi lê rạch nát bộ da cọp treo trên tường. Cũng may lúc đó có một ông Trung úy Tây dẫn toán lính khác đi ngang qua, ba tôi chạy ra nhờ ông can thiệp nên toán lính Lê dương này mới ngừng tay. Ngay ngày hôm đó, ba tôi dẫn toàn bộ gia đình qua tá túc tại phòng ngủ Định Tường đối diện nhà ga xe lửa Mỹ Tho, đồng thời cho dân thợ tức tốc dựng một căn nhà trên lô đất đã mua từ lâu tại đường Delfosse (sau này là đường Lý Thường Kiệt), độ hai tuần sau thì cả gia đình tôi dọn tới căn nhà mới này, còn căn nhà bên cầu Quây gần bót số 2 thì Bà Ngoại và Cậu Mợ tôi tiếp tục ở. Để hỗ trợ ngoài mặt trận, lúc này Việt Minh gia tăng khủng bố phá hoại trong thành phố. Từ bên kia cầu Quây chạy dài xuống chợ Cũ coi như là vùng bất an ninh, lính Tây trong thành bót số 2 đêm đêm rút vào bót, ngoại trừ các toán “Patrouille” đi tuần tiễu bên ngoài.
Chợ Mỹ Tho hai lần bị quăng lựu đạn, kẻ chết người bị thương đổ ruột nằm la liệt, riêng lần thảy lựu đạn tại khu chợ cá, Má tôi suýt chết, sau lần đó, Ba Má tôi không cho anh em chúng tôi léo hánh đến bất kỳ chỗ nào đông đúc như chợ búa, rạp hát.
Một lần khác, Việt Minh đặt chất nổ bên trong rạp hát Trung Quốc, tức rạp hát Thầy Năm Tú khi trước, sau này mang tên mới là rạp Vĩnh Lợi. Vì là xuất hát buổi chiều – ban đêm giới nghiêm – do đoàn Hoa Sen trình diễn vở tuồng “Đêm Lạnh Trong Tù”, nên có mời một số người tai mắt trong tỉnh. Riêng đoàn ca kịch Hoa Sen có lẽ là đoàn hát cải lương duy nhất tại Việt Nam phối hợp sự ca diễn trên sân khấu với kỹ thuật điện ảnh để chiếu ngoại cảnh nên được khán giả rất ngưỡng mộ. Lần đặt chất nổ này làm hàng trăm người chết và bị thương, trong số đó có gia đình Luật sư Nguyễn Văn Huyền – Sau này là chủ tịch Thượng viện Việt Nam Cộng Hòa – nhà bên dãy phố nóc bằng. Sau vụ đặt chất nổ tàn bạo khủng khiếp này, dân chúng trong tỉnh lỵ căm thù những người Việt Minh, kể cả những người từng có thời tham gia kháng chiến như Ba tôi và các bạn của ông. Riêng trong đầu bọn trẻ chúng tôi cứ hình dung Việt Minh như những bóng ma bóng quỷ chập chờn, lúc nào cũng rình rập đe dọa mạng sống của mọi người, nhất là sau những lần ám sát các sĩ quan Tây hoặc các nhân viên công an cảnh sát, thành phố Mỹ Tho vắng tanh kể cả ban ngày không còn giờ giới nghiêm. Căn nhà mới của gia đình chúng tôi ở đường Delfosse gần phòng mạch của các ông bác sĩ Tây, đầu tiên là ông Bourlais, sau khi ông này bị bệnh mất, ông Bertrand Capmas từ Sài Gòn về thay thế. Đối diện khu nhà tôi bên kia đường, là một biệt thự to lớn có hàng rào song sắt chung quanh của dược sĩ Trần Văn Khánh, bị quân đội Pháp trưng dụng và làm nơi đặt Bộ Chỉ huy Tiểu khu Mỹ Tho (Secteur du Mytho), phía sau biệt thự này là mấy dãy nhà ngang bằng tôn, hậu cứ của một Tiểu Đoàn Khinh Quân Việt Nam. Cứ mỗi Chủ nhật đầu tháng là có lễ chào cờ Việt Pháp và gắn huy chương trọng thể cho các quân nhân Việt Pháp. Những lúc đó, lũ trẻ chúng tôi đeo cứng hàng rào song sắt nhìn vào cảnh cờ xí rợp trời, lính tráng súng ống rầm rập đi bên trong mà mê mệt. Nhưng cũng có khi chứng kiến cảnh lính tráng đi hành quân về, vợ con túa ra kẻ mừng rỡ người còn sống, kẻ bị chồng con chết thì kêu la khóc lóc thảm thiết, dù tuổi còn nhỏ nhưng lũ nhóc chúng tôi cũng xúc động trước những cảnh bi thương đó lắm. Dù cảm nhận được không khí chiến tranh và bất ổn của cuộc sống, lũ trẻ chúng tôi vẫn dễ dàng trở lại trạng thái vô tư hồn nhiên. Tôi vẫn thường trốn ngủ trưa cùng với một thằng bạn học cùng lớp tên là Khánh, ba nó là Thượng sĩ chỉ huy hậu cứ của Tiểu đoàn Khinh Quân Việt Nam trong thành lính ở bên kia đường. Thằng bạn này mấy năm sau đậu vô trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và trở thành họa sĩ Phan Khánh, tôi với nó cùng đi bắn chim bằng ná thung trên những cây đa rễ chằng chịt, có trái nhỏ chín đỏ giống như trái trứng cá, vì rất ngọt nên chim thích ăn. Thằng Khánh bắn rất giỏi, sau mỗi buổi trưa đi bắn hai đứa xách về cả chục con chim sẻ. Vì năm học lớp Nhì không có thi cử gì nên Ba Má tôi không kiểm soát gắt gao cho lắm, anh tôi thì vô Trung học rồi, đứa em trai kế thì mới học lớp Dự Bị, một mình tôi ở giữa mặc sức tung hoành. Ngoài việc mỗi chiều ra công viên “Cầu Tàu Ông Chánh” trước dinh Tỉnh trưởng tắm sông, Chủ nhật cuối tuần còn cùng với mấy người bạn của anh tôi tổ chức lội băng sông qua Cồn Rồng nhét tiền vô ống thuốc Aspirin bỏ vô quần sì líp, qua cồn mua mía, mua trái cây ăn đã đời, chiều lội về. Có lần bị vọp bẻ vì bị nước chảy ngược suýt chết, nếu không có anh tôi lội cặp theo kéo vô bờ. Còn một chuyện phá phách nữa là đêm Giáng Sinh chở thằng bạn học tên Paul, cùng mấy cặp khác nữa dùng ná thung đi bắn lồng đèn. Nhà bị bắn lồng đèn tan nát là nhà của thầy Phùng Nhơn, ông vừa làm văn phòng vừa lo tập thể dục cho toàn trường Tiểu Học Cầu Bắc cùng với thầy Mân. Thỉnh thoảng ông cũng đi dạy thế các lớp có các cô thầy bị bịnh nghỉ. Tôi “thù”ø ông vì một lần cả trường Tiểu Học tụi tôi tập trung trước khán đài đại lộ Bourdais để đón thủ tướng Nguyễn Văn Tâm. Xếp hàng từ sáng sớm đến gần mười một giờ trưa giữa trời nắng chang chang, tôi với một thằng bạn lén tẻ hàng ra mua nước uống, bị thầy Nhơn bắt được túm cổ áo bạt tai mấy cái nháng lửa cho nên cái lồng đèn hình ngôi sao chổi lớn bằng chiếc xe hơi đặt trên “balcon” lầu nhà thầy Nhơn đẹp rực rỡ với hàng trăm bóng đèn màu chớp tắt là mục tiêu chọn lựa số một của tụi tôi. Mấy chiếc xe đạp chạy tà tà ngang nhà thầy Nhơn trong khu chợ Mỹ Tho lúc chạng vạng tối, mấy đứa ngồi sau cứ đưa giàn ná thung lên nhắm sao chổi bắn nhẹ vài phát “bụp, bụp, bụp” rách vài lỗ! Cứ qua lại bốn năm lần cái lồng đèn sao chổi của thầy Nhơn rách tơi tả. Vì những viên đạn làm bằng giấy nhựt báo quấn bên trong là cát to bằng ngón chân cái. Khi viên đạn chạm ngôi sao vừa xuyên thủng giấy màu thì giấy báo quấn viên đạn cũng bể, chỉ có cát văng tung tóe nên không gây nên tiếng động. Sáng hôm sau đạp xe đi quan sát chiến trường, thấy cái sao chổi của thầy Nhơn lủng lỗ rách te tua phất phơ trước gió, đứa nào đứa nấy khoái chí quá chừng!
—o0o—
Thầy Lai dạy được vài tháng thì đổi lên dạy lớp Nhất, lớp được thầy Hợi thay thế. Thầy Hợi dáng dấp lớn con, ăn nói rổn rảng, học trò tụi tôi ớn lắm nên đứa nào đứa nấy chăm chỉ học sợ bị đòn. Năm sau tôi lên lớp Nhất (Cour Supérieur) với thầy Nguyễn Văn Quạ, thầy Quạ là bạn thân với ba tôi hồi mấy năm vô bưng theo kháng chiến. Tướng người thấp, mặt ông lúc nào cũng tỏ vẻ tiếu lâm, chuyên môn mặc áo bành tô bốn túi ngắn tay bỏ ngoài. Ông có hai người con trai, người lớn tên Nguyễn Tự Do học chung lớp với anh tôi đã vô trường Nguyễn Đình Chiểu, đứa em tên Nguyễn Tự Hùng học chung lớp Nhất với tôi, Hùng trắng trẻo, ngoan ngoãn, hiền lành. Là bạn với Ba tôi, nên thầy Quạ thường đùa với cả lớp: – Tụi bay không được xài chữ học trò nữa nghe, phải gọi là hượt trò, không thằng Sơn nó kiện tụi bay đó! (vì Ba tôi tên là Học). Lúc đó lớp Nhất của tôi nằm đầu dãy sát hàng rào đường Trần Quốc Tuấn, nên giờ ra chơi muốn đi mua đồ ăn khỏi cần ra cổng chánh, chỉ cần vạch hàng rào kẽm gai là tha hồ mua đồ ăn được bày bán la liệt như cái chợ chồm hổm bên ngoài. Thầy Quạ của lớp tôi có nhiều cái đặc biệt lắm, thứ nhất là ông hút thuốc vấn gọi là thuốc rê ông Tề, vấn điếu nào điếu nấy bự bằng ngón tay cái như điếu xì gà, bập bập hút chừng hơn nửa điếu thì điếu thuốc tắt ngấm nhựa ra thấm vàng khè điếu thuốc, thay vì quăng bỏ, ông dán mí điếu thuốc còn lại đó vào cây cột vuông phía sau ghế ngồi của ông như các con ve sầu trên các cành cây, lâu lâu ông bắt học trò tụi tôi gỡ những điếu thuốc cháy dở đó xuống xé bỏ giấy vấn bên ngoài, lấy phần thuốc rê nặng mùi khét lẹt bên trong bỏ vào hộp cho ông. Cái đặc biệt thứ hai của thầy Quạ là ông ăn sáng rất trễ và ăn tại lớp học, thường thì khoảng chín giờ trong lúc học trò tụi tôi làm toán hoặc bài tập, thì ông ngoắc thằng đệ tử ruột – là tôi – lên bàn ông rồi nói gọn tên món ăn mà ông muốn ăn ngày hôm đó để tôi chui rào ra ngoài mua cho ông. Khi thì cháo lòng, khi thì xôi bắp, cũng có khi ông đổi món như cơm tấm hay cháo đậu. Nhưng món mà ông thích nhất là chuối nướng chan nước cốt dừa. Sau khi nhận được lệnh, tôi ra khỏi lớp vòng ra phía hàng rào dở giây kẽm gai móc lên sợi nằm trên rồi nghiêng mình lách nhẹ ra ngoài. Mấy người bán hàng quen mặt tôi quá rồi, đi ngang qua mỗi gánh bán hàng ai cũng hỏi: – Bữa nay thầy ăn gì vậy con? Vui vui tôi còn trả lời, buồn tôi đi thẳng đến gánh hàng thầy dặn mua. Mua xong đem vô thầy tôi ngồi ăn tại bàn, học trò tụi tôi ngồi dưới nhìn lên thằng nào cũng thèm chảy nước miếng, nhất là mấy món bốc hơi thơm ngát như cháo lòng hay hủ tiếu. Tất cả các đồ ăn đó thầy tôi đều mua… ghi sổ, cuối tháng tính tiền, mấy bà bán hàng không biết vì khoái ông thầy Quạ của tôi hay vì cuối tháng được trả tiền hậu hĩ sòng phẳng, mà đua nhau mời mọc bán đồ ăn cho thầy tôi. Ông ít khi đánh học trò, đứa nào không thuộc bài bị ông mắng: – Nhỏ mà không chịu học, lớn lên đi làm “Service de Sethung” nghen con! Lần đầu tiên nghe chữ Tây đó, học trò tụi tôi không biết là cái nghề gì vậy, sau đó được ông cười giải thích: – Service de Sethung là Sở thùng đó, tụi bay không biết hả? Đầu năm học của lớp Nhất, Hiệu trưởng trường Cầu Bắc là thầy Diều gọi là ông Đốc Diều, Ba tôi thường true chọc anh em tụi tôi: – Trường Cầu Bắc của tụi bay ngộ quá, Hiệu trưởng thì tên Diều, còn thầy giáo thì tên Quạ, chỉ thiếu có ai tên kên kên nữa thì đủ bộ. Dạy được nửa năm thì thầy Đạt dạy lớp Tiếp Liên được lên làm Hiệu Trưởng, còn thầy Diều lên chức Thanh Tra Tiểu Học. Trường lá Cầu Bắc đến thời kỳ này thì có nhiều thay đổi. Cổng trường đựợc xây lại bằng gạch, với tấm bảng hoàn toàn bằng tiếng Việt “Trường Tiểu Học Châu Thành Mỹ Tho”, không còn tiếng Tây nữa. Học sinh phải mang phù hiệu ở ngực hoặc túi áo, phía trên có hình Quốc kỳ Quốc gia Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, phần dưới đóng dấu mộc tròn của trường. Riêng mỗi lớp phải có một lá cờ hình chữ nhật màu xanh lá cây đậm với chữ màu vàng đề tên lớp học phía trên, khẩu hiệu lớp học phía dưới. Cờ được cắm xéo trước mỗi lớp đồng góc độ với nhau. Lớp tôi, không biết vì ảnh hưởng của phong trào kháng chiến hay Thanh Niên Tiền Phong gì đó, mà thầy Quạ của tụi tôi đặt tên lớp là Cần Lao, với khẩu hiệu là Cố Gắng, trong khi các lớp khác đa số đều lấy tên của các danh nhân lịch sử. Mỗi lần thầy cô hay khách bước vào lớp, học sinh trưởng lớp hô lớn tên lớp, học sinh cả lớp đồng loạt đứng dậy hô to khẩu hiệu. Một hôm tôi đi rỉ tai cả lớp – trừ anh trưởng lớp, vì chắc chắn anh sẽ không chịu nghe lời mà có thể còn đi méc thầy nữa – tôi bảo: – Ê tụi bây, bữa nay sau khi hết giờ chơi thầy trở vô lớp, khi anh trưởng lớp hô to “Cần Lao”, lúc đứng dậy tụi bây la to “chuối nướng” nghe! Mấy thằng bạn khoái chí quá, thằng nào cũng gật đầu hưởng ứng. Trống đánh “thùng thùng” chấm dứt giờ ra chơi, cả lớp vô học lại. Thầy Quạ của tụi tôi từ từ bước vô lớp. Y chang như dự tính, khi trưởng lớp hô to: – Cần Lao! Tụi tôi đồng thanh đứng dậy la lớn hơn mọi khi: – Chuối nướng! Thầy Quạ khựng lại muốn bật ngửa, rồi cố nhịn cười: – Tiên tổ cha tụi bây! thằng nào bày đặt vậy? Cả lớp tụi tôi cùng nín khe không đứa nào dám cười. Rồi ông từ từ đi lại bàn viết với lấy cái thước bảng dài cả thước tây nhịp nhịp xuống bàn: – Bữa nay tụi bây lộng hành quá rồi! Cả lớp quỳ gối lên bàn cho tao! Dám đổi khẩu hiệu cố gắng thành chuối nướng hén! Tuân lệnh thầy, cả lớp tụi tôi gom bài vở tập sách trên bàn đút vô ngăn dưới để dọn chỗ… quỳ gối. Khổ nỗi, mặt bàn học trò nghiêng xéo xuống chớ không phẳng ngang như băng ngồi. Quỳ gối trên băng ngồi dễ ẹt vì phẳng và bắp đùi tựa vô cạnh bàn, chưa kể còn lén để vài cuốn tập dưới đầu gối nên quỳ êm re. Còn quỳ trên mặt bàn nghiêng không có chỗ tựa mà còn phải khoanh tay nên tụi tôi đứa nào đứa nấy té lên té xuống lụp cụp. Đã vậy thầy Quạ tụi tôi còn đứng trên bục chúm chím cười cầm thước nhịp nhịp: – Quỳ thẳng lên! Cho tụi bây bày đặt chuối nướng nghen! Có lẽ tối đó thằng Nguyễn Tự Hùng về nhà khai ra hết, nên sáng hôm sau vô lớp, thầy kêu tôi lên bảng: – Hôm qua mày bày đầu phải không? Tôi gãi đầu: – Thưa thầy con nói giỡn chơi, ai dè tụi nó làm thiệt. – Tao méc thằng Học quánh thấy cha mầy nghen con! Khoảng hơn chín giờ, thầy ngoắc tôi lên biểu đi mua đồ ăn, bữa nay thầy đổi món cháo lòng!
—o0o—
Cuối năm đó tôi thi đậu bằng Tiểu Học, tháng sau thì thi tiếp vào trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu. Thường thì học trò lớp Nhất ít có đứa nào đậu thẳng vào lớp Đệ Thất lắm, tôi cũng vậy, dù bài vở làm cũng khá nhưng vì thi “concourt” xếp hạng nên khó lọt vô được. Rớt Đệ Thất, mà còn tới gần hai tháng nữa mới có cuộc thi tuyển vào lớp Tiếp Liên nên Ba tôi cho vào học lớp Đệ Thất trường Trung Học Tư Thục Vĩnh Tường do thầy Nguyễn Văn Tiếu làm Hiệu Trưởng, còn gọi là ông Bảy Tiếu. Trường Vĩnh Tường năm trước nằm trong khuôn viên chùa Phật Ân ở đường Ngô Quyền, năm nay được dời ra phía sau một villa rộng lớn nằm gần cuối đường Hùng Vương. Học phí cho mỗi tháng lớp Đệ Thất là 120 đồng. Tôi còn nhớ học trò lớp Đệ Thất trường Vĩnh Tường thường có hai câu vè nhái theo bài thơ khóc ông Phủ Vĩnh Tường: – Thôi thôi ông Bảy Vĩnh Tường ôi, Cái nợ trăm hai đã trả rồi!
Hai tháng sau trường Tiểu Học Cầu Bắc mở cuộc thi tuyển vào các lớp Tiếp Liên, tôi nạp đơn và thi đậu. Lớp Tiếp Liên của tôi do cô Lý Ảnh dạy, chị cô là cô Lý Hoa cũng dạy lớp Tiếp Liên kế bên, giữa năm cô Lý Hoa thi đậu vào nhóm I Quốc Gia Hành Chánh, nghe nói sau này cô Lý Hoa làm Đổng Lý Văn Phòng của một Bộ nào đó. Cả hai chị em cô Lý Hoa và cô Lý Ảnh lúc đó còn độc thân, mà học trò thì đứa nào đứa nấy lớn sộn. Một hôm, anh học trò trưởng lớp tôi đứng dậy: – Thưa cô ngày mai cho em nghỉ luôn ở nhà! – Em nghỉ chi vậy? – Thưa cô, ngày mai em… cưới vợ! Cô Lý Ảnh mắc cở mặt đỏ rần. Cô Lý Ảnh của tụi tôi hiền, chăm chỉ dạy tụi tôi, nhưng thỉnh thoảng cũng bắt vài đứa xòe tay cho cô khẻ đau điếng vì tội không thuộc bài hay phá phách. Riêng tôi, được Ba tôi – hay bị – ra hai điều kiện: – Nếu tôi đậu vào Đệ Thất Nguyễn Đình Chiểu năm nay, tôi sẽ được thưởng một chiếc xe đạp nhôm mới tinh. – Ngược lại, nếu tôi rớt, sẽ bị gởi vô trường Thiếu Sinh Quân (lúc đó trường Thiếu Sinh Quân Quân Đội Quốc Gia Việt Nam nằm tại mấy dãy nhà lầu xưa đối diện trường Nguyễn Đình Chiểu trên đường Boulevard Bourdais, sau này là Hùng Vương; mấy năm sau khi trường Thiếu Sinh Quân dời đi Vũng Tàu, khu này trở thành trường Tiểu Học Trương Công Định). Thật ra, cả hai điều kiện đó tôi đều… khoái cả. Dĩ nhiên thi đậu vào trường Nguyễn Đình Chiểu thì khỏe rồi, nhưng nếu thi rớt, tôi cũng đâu có ngán… trường Thiếu Sinh Quân, vì cứ mỗi Chúa Nhựt, nhìn đám học sinh Thiếu Sinh Quân mặc đồ đồng phục sọt trắng, mang vớ ống đi giầy da cùng với bê rê đỏ đi dạo phố Mỹ Tho trông cũng… “ngầu” lắm. Nhưng tội nghiệp Má tôi, cứ cằn nhằn Ba tôi: – Ông làm gì dữ vậy! Để con nó từ từ học chớ hăm he hoài làm sao thằng nhỏ học được! Cũng may, cuối năm đó tôi đậu vào trường Nguyễn Đình Chiểu, mà lại đâu cao suýt được học bổng, và dĩ nhiên là tôi nhận được phần thưởng chiếc xe nhôm bóng loáng hiệu “Mercier” mới cắt chỉ ráp tại tiệm xe đạp Lê Hương của bác Sáu Bê dưới dốc cầu Quây kế bên nhà thuốc tây Trần Văn Khánh. Tôi chính thức từ giã ngôi trường Lá Cầu Bắc thân yêu sau năm năm “dồi mài kinh sử” để trở thành học sinh trường “Cô Le” Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho. Từ giã những buổi tiệc tất niên đãi thầy đãi cô bằng bánh kẹo với nước xá xị con cọp BGI, con nai Phương Toàn, với lớp học được trang trí bằng lá cây dừa lá cây đủnh đỉnh kết hoa kết tụi như ngày đám cưới. Từ giã những ngày mưa gió, guốc dép xỏ sâu máng cần cổ đi chân không, mấy ngón chân bấm mạnh xuống sân trường bằng đất sét trơn láng như có thoa mỡ bò, chỉ sợ té xuống “bắt ếch” để đám học sinh con gái cười rần thì có nước độn thổ. Từ giã những lần đeo theo đầu xe lửa đang lăn bánh chầm chậm trên đường rầy cạnh trường, khi xe lửa chạy lên tận Đồng Xanh rồi trở đầu lùi về nhà ga Mỹ Tho, mỗi lần như vậy về nhà bị đòn mà vẫn khoái, lén lén đi hoài. Hơn nửa thế kỷ trôi qua với biết bao vật đổi sao dời, riêng ngôi trường Lá Cầu Bắc vẫn còn in đậm nét trong ký ức đã bắt đầu nhòe nhoẹt của tôi. (Trích tuyển tập Cái Chết Của Một Dòng Sông – Xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2009)
Song An Châu Khung trời kỷ niệm Em có nhớ, khung trời kỷ niệm Của chúng mình lúc mới yêu nhau Bên hiên trường mưa gió dạt dào Mình trú chân sau giờ tan học.
Mưa không dứt từng cơn gió lốc Đứng bên em anh thấy ấm lòng Dù bên ngoài gió bảo mưa dông Anh vẫn thấy trong lòng ấm áp.
Ngày hôm đó tiết trời tháng chạp Anh chỉ quàng chiếc áo mong manh Tay trong tay anh không thấy lạnh Truyền cho nhau hơi ấm từ lòng.
Lâu lắm rồi em có nhớ không ? Kỷ niệm xưa khi mới yêu nhau Giờ nhớ lại tưởng như hôm nào Đôi tay nắm vẫn còn hơi ấm.
Nay xa cách biển trời xa thẳm Nơi xứ người anh vẫn nhớ em Và nhớ mãi kỷ niệm êm đềm Dù thời gian nhuộm màu tóc bạc.
Em như ngọn gió vô tình Heo may gió thoảng thu sang ai đem màu nhuộm lá vàng đầu thu. Để tôi buồn cả đêm thâu gói tròn trong mộng tình đầu người ơi! Bao năm phiêu bạc phương trời nhưng hình bóng cũ chưa vơi trong lòng.
Xuân qua rồi lại Đông sang thu tàn lá rụng vẫn mang bóng hình. Ngày xưa em nói… chung tình sao nay như gió vô tình bay xa…
Cát bụi tình xa Giờ đây em xa rồi Nghe sầu lên chơi vơi Ngõ hồn sao hoang vắng Bơ vơ bên góc đời.
Nay em xa anh rồi Anh buồn như biển khơi Hoàng hôn chiều dần xuống Đời anh như mây trôi.
Em tiếc chi những lời Hay chỉ đôi lời thôi Chia tay em không nói Em buồn chi em ơi ?
Nay đã xa nhau rồi Anh gởi em đôi lời Tình chỉ là ảo mộng Đời, mộng ảo em ơi !
Chúng mình là cát bụi Tình đời cũng thế thôi. Mai này không còn nữa Cát-bụi-tình-xa rồi !
Dư hương ngày cũ Chỉ vì một chút hương thừa Mà sao tôi lại say sưa cuối đời Say tình say nghĩa mà thôi Tôi đâu say rượu cho đời lênh đênh.
Rượu say không thấy buồn tênh Say tình tôi lại … buồn mênh mông buồn Khi tình phai lạt mùi hương Chút gì để lại còn vương vấn hoài.
Nơi tôi ở nắng vàng tràn khắp lối. Thương quê hương tôi nắng đã úa màu. Tôi bỏ nước ra đi với vạn niềm đau. Nỗi âu lo xoáy vào lòng như lửa đỏ. Nào mẹ già, con nhỏ buộc cẳng, níu chân. Mắt rưng rưng nhìn lên bàn thờ cha ngày đó. Hương khói quyện tròn như nhắn nhủ người đi. Buổi từ ly không đem theo một chút gì, khi tâm hồn chứa quá nhiều đau khổ.
Quê hương ơi! Lăng miếu đền xưa còn đó, u buồn bóng dáng tiêu điều. Ngôi từ đường dòng họ tường móc xanh rêu. Cánh đồng lúa xanh đã vàng bông vào mùa gặt. Lòng càng quặn thắt khi đi qua ngõ trường xưa. Bước qua cầu dừa nhớ người yêu cũ. Bè bạn đâu rồi, đứa còn đứa mất. Đứa đi vào lòng đất, đứa vất vưỡng trại tù, đứa bỏ nước vượt biên tìm đường để sống. Bà mẹ già trông ngóng tin con, mắt mờ tóc bạc, lòng đau dạ xót, khi hay tin người quen nhắn về, con đã chết ở biển khơi.
Tàu ra khơi, nhìn lại đất trời, tiếc thương quê hương, thươmg từng tấc đất. Huống chi là dải giang sơn từ Nam chí Bắc, sông núi đã liền, nhưng lòng người chưa thắt chặt, hận thù còn đông đặc chưa tan. Hàng triệu người ra đi bỏ nước xa làng, tìm tự do nơi xứ lạ. Thây vùi biển cả. Hải tặc hiếp dâm. Nhục nhã. Bà cụ già đâm đầu xuống biển.
Trên con tàu ọp ẹp, cũ xì, chất đầy người bỏ nước ra đi. Không mai, bỏ thây ngoài biển cả làm mồi cho cá. Kẻ băng rừng người lội suối bất chấp rừng thiêng nước độc, cướp đường, đỉa vắt, đối mặt với tử thần. Nhưng bất cần, miễn sao rời được quê hương cờ máu, ngăn rào từ tấc đất, ngọn rau.
Nỗi đau, oan khiêng này ai tạo, ai gây hại cho dân tôi? Dân tôi ngàn năm đau khổ rồi cũng vì kẻ thù phương Bắc. Đồng bào ơi! Hãy vùng lên chống giặc. Kẻ thù ngàn năm phương Bắc.
Lê Hữu Minh Toán Chấm hết Năm sáu nỗi buồn Xâu xé nhau loạn xạ Tranh ngôi thứ Tiềm thức ung thư Rỉ máu Giọt Đen ngòm
Gã trung niên Tàng tàng cù lủ Ngồi phạch trên lưng trời Cười hăng hắc Ngịch ngợm Xé toạc tim mình vọc chơi Lục lọi tìm kiếm Chiếc bóng đời mình trong gương Rờn rợn hắt hiu Chập chờn ảo ảnh Trắng đen Xanh đỏ Vàng tím
Thơ điên Chữ nào là chữ người ta Cõi nào là cõi ta bà nữa đây Thôi đừng hí lộng múa may Buông câu lục bát như say như cuồng.
Houston mưa nắng thất thường Có ta điên tỉnh vui buồn từng cơn Khi điên làm Tôn Ngộ Không Tỉnh ra mới biết mình còn dương gian.
Điên mà tỉnh, tỉnh mà điên Điên điên tỉnh tỉnh có phiền ai đâu Tỉnh điên gió tạt qua cầu Có điên có tỉnh có rầu mới vui.
Thưa Ông Thi sĩ Giáng Bùi Ông điên rất tỉnh ngậm ngùi thế nhân Rượu thơ một túi lâng lâng Bảy mươi năm cuộc tẩy trần hiếm hoi.
Chuồn chuồn phận mỏng thân tôi Bay ngang bay dọc lôi thôi vài lời Rằng trăm năm mấy cuộc chơi Vòng vây hệ lụy khóc cười nhân gian.
Chui vô động chui vô hang Lặng nghe tiếng thở tối quàng vào đêm Sáng thành diều quạ kên kên Chơi trò sấp ngửa ai điên ai khùng.
Túy Hà Thủ hành thiền. Ngữa tay hứng lấy chữ đời Viết thêm chữ đất thành lời dễ thương Treo cao tặng khách thập phương Đất trời muôn thuở ngát hương tuyệt vời.
Buông tay thả chữ giỡn chơi Giật mình níu lại, kịp thời ăn năn Cho tâm sáng như trăng rằm Cho sương xuống thấp ăn nằm cùng hoa.
Nắm tay giữ ngọn kim thoa Kẻo phai màu tóc, nhạt nhòa sắc em Tâm không tịnh lòng sao êm Hắt hiu ngọn gió đèn đêm mờ dần.
Vổ tay vang khắp hồng trần Gọi hồn thơ lại gieo vần trầm hương Thơm đời tâm sáng như gương Soi lòng nhân thế, ghét thương cũng đành.
Chắp tay xin chút an lành Vái thêm một vái tâm thành liên hoa Như Phật xưa bước thật thà Trên bông sen trắng nở ra đạo đường.
Vung tay xòe cánh hướng dương Vai trần nhật nguyệt mười phương gánh dùm Ơn chuông cổ tự còn rung Cho ta ngộ được chữ trung dung đời.
Mê chấp Từ bi ngã Phật chính ta Ba ngàn thế giới cũng là sắc không Đời có đẹp như hoa hồng Sắc màu sẽ nhạt, gai chông thêm nhiều.
Đừng say hoa thắm mỹ miều Đừng lo tính toán ít nhiều, thiệt hơn Hãy nhìn từng hạt mưa vờn Tự vô căn thủy hết vơi lại đầy.
Hãy nhìn từng áng mây bay Xem tranh vân cẩu xưa nay vẫn là Tranh danh đoạt lợi tâm tà Thủy triều lên xuống cũng tà dương thôi.
Thiện tâm ngã Phật bồi hồi Nhìn hình lại thấy bóng tôi tồi tàn Hỡi em lập dùm trai đàn Để tôi nhất bộ bái tam kinh cầu.
Liên hoa kinh có nhiệm mầu Khai tâm mở lối đổi sầu thành vui Tiếc thay ngã Phật ngủ vùi Nên tôi vẫn mãi ngậm ngùi nhớ em.
Luân Tâm Một chú thơ ngây Bỗng dưng đau chuyện nghìn sau Câu thơ ngây tặng ngọt ngào còn không Đường thương trắng ngõ nhớ hồng Dáng nằm áo ngủ tiên bồng về đâu… Ca dao lục bát qua cầu Để cho chú rể ví dầu ầu ơ Nhện buồn sao hết giăng tơ Ve sầu sao hết khóc thơ phượng tình… Chiều tàn hôn bóng bình minh Hay là không bóng không hình không hương Còn mưa ruộng gọi nắng vườn Hay là chớp bể mưa nguồn tương tư… Còn hàn sĩ mộng tiểu thư Hay là cát bụi không dư hương cười Còn nhón gót còn cong môi Hay là bèo giạt hoa trôi ngược dòng… Còn đưa chim sáo sang sông Đa đa tức tưởi lấy chồng quá xa Chim quyên cu đất thuơng ca Hay là không tổ không nhà không quê… Lia thia quen chậu đi về Rau răm đắng đất chịu bề khổ qua Cải trời gần điên điển xa Bầu non rụng rún trăng già còn răng… Còn chú Cuội yêu chị Hằng Vì sao cô Tấm không bằng nàng Hương Canh rau muống cà dầm tương Thương Cha nhớ Mẹ đoạn trường dấu yêu… Hay không không biết bao nhiêu Không hoa không bướm không tiêu không trầu Không đèn không lửa không dầu Không thơ không nhạc không đào không mai… Bây giờ may gặp nhau đây Xin em thơ chút thơ ngây gọi là Hoa hồng ân hương phù sa Dù trong dù đục ao nhà vẫn thơm… Một mai biết có gì hơn… Biết hôn… Em ơi…
Hờn tủi Thương nhớ mỏi mòn thân xác xơ Tha hương hờn tủi lạnh hồn thơ Bao đêm mộng viếng làng quê cũ Nhà trống vườn hoang bướm dật dờ! Ngày nắng ngày mưa ngày tuyết rơi Đường xa xứ lạ quá lạ đời Ngựa xe áo mão thành mây khói Buồn đến buồn đi đứng lại ngồi! Muốn vẽ dáng đi vẽ tiếng cười Cho lòng xao xuyến thuở đôi mươi Cho hồn thơ chút tình mê đắm Chỉ thấy màu hoa áo không người… Gậy trúc gậy mây gậy thép gang Gậy nào giữ được chút bình an Đường trơn giông bão không chừa lối Cuối nẻo chùn chân lạnh suối vàng! Gửi lại cháu con bút mực nào Hay là một thoáng đẹp chiêm bao Con đường hy vọng như sương tuyết Rồi cũng mờ tan cũng… nghẹn ngào! Nói mãi mây xanh với nắng vàng Đất trời vẫn đẹp sao khóc than Hay niềm đau nhuộm hồn cây cỏ Từ thuở tình yêu bỏ thiên đàng? Nếp nhớ ăn năn nếp trán nhăn Răng không còn nữa để thèm ăn Trầu xưa cau cũ duyên ngang trái Ai nợ ai mà phải trối trăn? Đất lạnh vô tình đá vô tri Mưa buồn không giữ bóng người đi Tan dần theo khói nhang hư ảo Chiếc lá khô rơi có nghĩa gì…
Song Quang Trả lại Trả em món nợ trần ai , Anh vay từ thuở hình hài mẹ cho Trả em lối nhỏ quanh co Anh vay từ lúc hẹn hò yêu em.
Trả em suối tóc vương mềm Anh e ấp vuốt bên thềm năm xưa Trả em những buổi chiều mưa Ta chung nhau bước, đong đưa sóng tình
Trả em những nụ hôn xinh Mâm trầu cánh phượng chúng mình nên đôi Trả em ánh mắt, vành môi Nụ cười tươi thắm trao lời yêu thương
Trả em phấn bảng, sân trường Một thời ngã nón trên đường về quen Trả em cánh thiệp chung tên Trả em tất cả để quên chuyện lòng.
Em về có viết thiệp hồng Cho tôi nhắn gửi đôi dòng thơ yêụ.
Ngăn tình trong ký ức Tôi về gom hết yêu thương, Để vào ký ức, vấn vương cỏi lòng. Ngày mai người có theo chồng, Thì tôi còn chút môi hồng buâng khuâng.
Thời gian huyền ảo mông lung, Vắng người như thấy trống không tình buồn. Thôi quên những lúc giận hờn Những ngày cúi mặt, bồn chồn nhớ nhau.
Để rồi chôn kín niềm đau, Nổi riêng mình dễ lạc nhau nghìn trùng. Làm sao nói chuyện tương phùng? Chia tay là hết, ngại ngùng mà chi
Thà rằng: cũng một lần đi, Để người đừng lở xuân thì trôi qua Tim mình có chút xót xa, Nhớ người năm củ mặn mà vì đâu
Hình như ngày tháng trôi mau, Còn đâu mộc mạc buổi đầu hở em?
Xuân Du Lá Thu Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô Lưu Trọng Lư
Trời ui ui. Gió nhẹ. Một vài chiếc lá màu vàng nhạt theo gió là đà rơi xuống nằm chơ vơ trên thảm cỏ xanh. Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu, tôi ngâm nho nhỏ hai câu thơ cổ với một nỗi buồn mông lung vời vợi. “Này em, mùa Thu lại trở về phải không em?” “Thì tất nhiên, hết Hạ rồi tới Thu. Cái vòng lẩn quẩn này đã có từ thời khai thiên lập địa rồi cơ mà, có gì lạ đâu!” Tôi cụt hứng. Thì ra trong cái ngõ ngách sâu thẳm của tâm hồn một thi nhân nó chứa đựng một cái gì đó mà đôi khi người thường không thể nào cảm nhận được. “Đồng ý, nhưng khi nhìn lá Thu rơi sao anh cảm thấy nó vừa dễ thương vừa buồn buồn làm sao ấy!” “Lại nữa. Không biết tại sao mấy ông Thi sĩ lại có cái nhìn kỳ cục như vậy. Xuân thì cỏ cây đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái. Động vật thì cảm thấy hứng thú muốn làm cái… chuyện đó để sinh sôi nẩy nở bảo tồn nòi giống mà người ta thường gọi là nhịp mùa”. “Đơn giản vậy sao?” “Thì chứ còn gì nữa. À quên, còn nữa, mỗi lần tới mùa Xuân thì anh rủ ông Sáu Ngởi đi câu, bỏ em ở nhà một mình buồn thấy mồ” “Còn mùa Hạ thì sao?” “Thì nóng chớ sao. Ôi chao! Nói đến Mùa Hạ, em thấy ghét cái tiểu bang Tết Xịt này quá chừng. Nóng ơi là nóng! Mỗi lần đến mùa Hạ là em muốn điên người lên. À này, anh còn nhớ cái bài hát gì mà có câu mùa hè năm nay anh sẽ đưa em vòng khắp cả… Thấy hôn? Mùa hè người ta đưa bà xã đi du lịch tùm lum, còn anh, nhiều lắm là dẫn em đi hồ câu cá, còn bày đặt nói đây là cái thú tao nhã, có lợi cho sức khỏe. Nào là… nào là… Báo hại làm người ta bị kiến cắn cái đít sưng chù vù (!). Còn mùa Đông thì…” “Thôi được rồi! không cần nói, cái mùa Đông của em anh biết quá rồi, nào là nó lạnh! nó đông đá, nó… nó…” “Chứ em nói vậy không đúng à?” “Ừ! Thì đúng… mà này em! Em có biết ông Lưu Trọng Lư không vậy?” “Ủa, sao tự nhiên anh lại hỏi sang đâu vậy? Ông Lưu Trọng Lư nào? Ổng có ở gần đây không? Trong số bạn câu của anh, em đâu có nghe cái tên Lưu Trọng Lư? Chắc ổng câu nghề lắm hả anh?” “Em ơi là em ơi! Ông Lưu Trọng Lư là một Thi sĩ tiền chiến. Ông ta làm bài thơ “Tiếng Thu” rất nổi tiếng, ai mà không biết. Này anh hỏi thiệt nghe, hồi đó em có học Việt Văn không vậy?” “Có chứ. Thầy em là Giáo sư Trần Văn, ông ấy dạy tụi em cả một đống nhà thơ, nhà văn nhưng… hề… hề… bây giờ em quên hết rồi. “Trời đất! Nói chuyện với em một hồi chắc anh điên mất”. Tôi nổi cáo nguây nguẩy bỏ vào nhà giống như một cô gái nhõng nhẽo, giận hờn người yêu!
Một hôm, đang cặm cụi ngồi “gõ”cho xong cái truyện ngắn chợt nghe có tiếng rào rào ở vườn sau. Tôi mở cửa bước ra thì thấy vợ tôi đang cào… lá Thu! Bà nhìn tôi ra vẻ ân cần: “Này anh, nghe nói Thi sĩ chỉ cần một lá Thu thôi cũng làm được một bài thơ. Em nhường cái sân lá này để anh làm… thơ nhé! Chắc nó đủ cho anh cảm hứng làm hàng ngàn, hàng vạn bài thơ đó” “Em à! Lá Thu thường gợi cảm hứng cho người làm thơ thật. Nhưng Thi sĩ chỉ cần một lá cũng đủ… gây cảm hứng rồi. Một chiếc lá vàng óng-a-óng-ánh-nhẹ-nhàng-lả-lướt-lượn-qua-lượn-lại như hồi em mới gặp anh thì mới có đủ sức gợi hứng cho người ta làm thơ chứ. Còn cái đống rác… úi quên, cái đống lá Thu này, ối chao!… Thôi thì em giúp anh tạo nên một hình ảnh thật thơ mộng để anh làm một bài thơ “tuyệt tác” hay gắp trăm ngàn lần bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư để mấy ông Thi sĩ nhà ta lóe mắt chơi, em chịu hôn? “Mà làm cảnh thế nào?” “Này nhé, Lưu Trọng Lư tả cảnh trong rừng Thu là con nai vàng ngơ ngác. Đạp trên lá vàng khô. Nói thiệt nghe, hai câu thơ này dở ẹc (!), con nai đạp trên lá vàng khô thì làm sao đẹp và thơ mộng bằng một người đàn bà đẹp cào rác, úi quên, cào lá Thu. Cái dáng dấp của một người đàn bà, tay cầm cào cỏ, thân hình uốn qua, ẹo lại bước tới bước lui; Nếu là một người bình thường thì hình ảnh này không có gì lạ đâu, nhưng đối với anh nó gợi lên một hình tượng thơ mộng vô cùng. Anh sẽ ngồi đây nhâm nhi cà phê rồi tưởng tượng em đang cùng anh bước đi từng bước nhịp nhàng theo điệu nhạc tăng gô trên lá… Ôi chao, anh bảo đảm sẽ làm một bài thơ tuyệt vời để… tặng em!” “Này ông bạn già của tôi ơi! Chịu khó cầm cây cào lên dùm đi. Cào cho hết cái sân lá Thu này rồi tha hồ mà nói dóc. Tha hồ mà tán hưu tán vượn” “Này này, em bỏ đi đâu vậy? Còn cái sân lá?… Cái sân lá?…” “Cái sân lá… Thu đầy thơ mộng… em nhường lại cho anh thưởng thức đấy. À này, sao trông anh nó giống cái con khỉ già ngơ ngác đạp trên lá vàng khô dữ vậy hè?!”
lục bát 4 câu mái tóc
thôi đừng soi nữa lược gương thôi đừng rẽ nữa con đường phù du đẹp như con nước mùa thu trăm năm rồi cũng rối bù em ơi!
gặp đàn bà…xui!
sáng nay vô chợ đông người gặp em ta chỉ…cười…cười…vậy thôi! nào ngờ nhớ mãi khôn nguôi chết cha! ta lại gặp… “xui” nữa rồi!
cầm nhầm
em về phố xá reo cười tưởng đâu em đã thành người phương xa nhớ mùa mận mới đơm hoa em quên cài cổng bị ta cầm nhầm!
hình như
sáu mươi ừ cũng hơi già cho nên ta cứ nhìn ta – lắc đầu sáng nay tỉa lại bộ râu hình như ta vẫn còn ngầu như xưa !
tắm sông
bọn tôi hai đứa già nua ngược xuôi đời đã te tua lắm rồi lên bờ phủi đít ngồi chơi mặc cho lũ nhỏ còn bơi giữa dòng!
tiếng đàn trên sông hương
trăng tàn, bến Ngự mù sương nửa đêm nghe tiếng dòng Hương trở mình bao nhiêu nước, bao nhiêu tình đàn ai, trổi khúc Nam Bình nỉ non!
lục bát 3 câu 1. hình như quả đất này tròn cho nên ta với em còn gặp nhau thì mình làm lại chớ sao!
2. hay là có tật giật mình hay là có kẻ đang rình đâu đây ôi chao chết chắc trận này!
3. nghĩ ra cũng thật nhiệm mầu hôm nay ta lại giấu đầu lòi đuôi thôi đành kiếm chỗ nào chui!
5. ta là hạt bụi cù bơ một đời cù bấc, làm thơ cù nhầy vậy mà nhỏ cũng khen hay!
6. long môn lỡ đút đầu vào quậy cho nổi trận ba đào mới cam Quá nhi, cô tưởng em làm! (2)
7. dã tràng xe cát biển đông đụng con sóng dữ thành Công Dã Tràng vậy mà cũng khoái bò ngang!
8. hành tăng một buổi độ đường còng lưng cõng cái vô thường sang sông chắc gì sắc tất thị không!
9. chân trời nào có bao xa mà lão Tề lộn đến ba bốn vòng mới hay mình lọt vào tròng!
1. Thương xá 2. Tiểu Long Nữ gọi Dương Quá là Quá nhi.
Tam Quỳnh Gửi người viễn xứ Thuở ấu thơ cuộn tròn trong tay mẹ Thương làm sao, chú mèo nhỏ dễ thương Thao thức cùng con, những lúc đêm trường Tim lặng lẽ, lắng nghe từng nhịp thở
Rồi một ngày, con tung tăng chân thỏ Sách cầm tay, con hớn hở đến trường Dõi mắt nhìn theo, lòng mẹ thêm thương Thương biết mấy, mẹ mừng vui khôn tả
Thời gian trôi, bao khó khăn vất vả Tuổi lớn khôn, con càng lúc càng xa Còn lại đây, cha yếu với mẹ già Con dấn bước, tha hương đời viễn xứ
Rồi một phút chạnh lòng, con có nhớ Cha mẹ già trông đợi, chốn quê xưa Yêu bao nhiêu, thương biết mấy cho vừa Con có nhớ, tình cha cùng nghĩa mẹ…
Miên Du Đà Lạt Rồi mai đây! Rồi mai đây, lạnh về trên bờ đá Biển dập vùi, vách núi phủ rêu phong Lá rời cành, lìa đời không tiếng gọi Ta vùi chôn tình lỡ chẳng nhớ nhung!
Rồi mai đây, ta đi vào quên lãng Có ai còn tìm lại dấu chân xưa!? Những nhánh sầu chia buồn trên lối cỏ Những cuộc đời lặng lẽ chẳng ai đưa
Rồi mai đây, ta đi về cát bụi! Đời bâng khuâng chỉ một thoáng ngậm ngùi Vàng trăng sầu kể chuyện tình cổ tích Trong sương đêm, ta yên giấc ngủ vùi!
Rồi mai đây, ai tìm về dĩ vãng!? Thắp nến buồn soi lại chuyện trăm năm Mở trang sách, dòng tình thơ vàng úa Sầu dâng lên rơi những giọt âm thầm!
Thầm lặng Thầm lặng suy tư giữa cuộc đời, Nghĩa là cung Thánh của hồn tôi Nghĩa là hạnh phúc tôi suy gẫm Là bước khôn ngoan của một đời
Đá quí vòng vàng tôi chẳng đếm Chẳng tìm danh phận, bởi vô thường Chẳng tham một bước hơn thiên hạ Chẳng muốn tình tôi vướng bụi đường.
Tôi tìm chân lý trong im lặng Tìm khối ân tình đã vỡ đôi Tư tưởng mỗi ngày tôi thắp sáng Trái tim sầu khổ lạnh băng rồi!
Chậm Ta chậm lại, nên đời không bước vội Tháng năm tàn thời gian chuyển qua nhanh Bao gút thắt ta gở hoài không thoát Bao muộn phiền mờ ánh mắt tinh anh
Ta dừng lại, bởi không còn bước kịp Gối mỏi rồi, chân cũng chẳng khoan thai Tay chới với chụp bắt đời vô vọng Gánh một đời sầu nặng cả hai vai
bán thơ! làm thơ! ừ nhỉ! đem rao bán!? biết có ai mua giữa chợ đời? biết có ai cùng chung nhịp điệu? mua dùm ta dăm chữ thơ rơi!
làm thơ! buồn nhỉ! sao đem bán!? có phải trần gian hết chữ rồi!? có phải người đời thôi đọc sách!? ta về treo vách ngắm thơ chơi!
Trần Văn Lương Giọt buồn cuối nẻo Mây héo quắt như mặt người luống tuổi, Lọn khói chiều vờn đuổi muỗi vườn sau, Lớp rêu xưa đã mấy độ thay màu, Chim mất tổ mổ sầu trong nắng muộn.
Sương hôm cuồn cuộn, Cỏ băng đường, luống cuống chạy quanh. Cơn gió bấc lạnh tanh, Mưa lá vỡ tan tành trên mộ chí.
Đường thiên lý người miệt mài quên nghỉ, Có dừng chân thì cũng chỉ phút giây, Nhưng rồi khi bóng tối át màu mây, Lại lê lết chốn đọa đày quen thuộc.
Đời giong ruổi dẫu trăm ngàn trói buộc, Chẳng còn chi khi hết cuộc chơi này. Phút quay về, cay đắng vốc tràn tay, Đôi mắt trũng ứa đầy men tiếc nuối.
Lối vô định, chỉ riêng mình lặn lội, Gói hành trang là một chuỗi nhớ thương. Máu oan khiên rơi rớt đỏ bụi đường, Trên sỏi đá, đóa đoạn trường rộ nở.
Những khuôn mặt giữa hành trình gặp gỡ, Cũng chỉ là ảo ảnh ở trong tim, Những nỗi vui lòng háo hức kiếm tìm, Thành bọt sóng nổi chìm trong trí nhớ.
Mênh mang chiều phố chợ, Giày thủng vớ lang thang. Tròng mắt đục hoang mang, Lỡ làng kinh cứu độ.
Cổng Thiên đàng xiêu đổ, Người hết chỗ quay về. Bóng đêm dài dai dẳng lê thê, Nghe thương nhớ tái tê ngày tháng cũ.
Nhớ tiếng hát mẹ ru từng giấc ngủ, Nhớ giọng cười của lũ trẻ trong thôn, Nhớ những chiều lặng ngắm nắng hoàng hôn, Rồi chợt thấy lòng buồn không duyên cớ.
Nhớ sân trường phượng nở, Chân ngại ngùng, ôm sách vở theo nhau, Nắng hè trưa như rót lửa trên đầu, Môi lắp bắp mãi nửa câu hò hẹn.
Nào ngờ mây đen sực đến, Cánh bèo mất bến ra khơi. Gió đông về, lá rách tả tơi, Trôi trôi mãi trên dốc đời trơn tuột.
Đất lạ ấm sao lòng nghe giá buốt, Một kiếp người đà mấy cuộc ra đi. Gập ghềnh nẻo chia ly, Chân lữ thứ biết khi nào quay lại.
Trăm năm nữa, ánh mặt trời vẫn mãi Về đùa chơi cùng cỏ dại nơi đây, Nhớ hay chăng có một kẻ lưu đày, Đã vĩnh viễn vùi thây trong bóng tối.
Gót lữ hành mệt mỏi, Đường đời một lối loanh quanh. Khi nắng chiều bỏ ngỏ trời xanh, Hương lá thắm cũng đành phai dưới cội.
Hành trang cũ vơi dần theo bước vội, Chốn quê nhà vẫn vời vợi quan san. Đàn chim xưa nay rã cánh tan đàn, Vườn vĩnh cửu ngút ngàn bia mộ mới.
Trời cao thẳm, tiếng kêu cầu chẳng tới, Người cuối đường chới với khóc vu vơ, Đáy mắt sâu tắt ngúm lửa mong chờ, Ve áo bẩn, mờ mờ dăm dấu lệ.
tạp chí văn học nghệ thuật Chủ nhiệm: Nguyễn Đức Nhơn Chủ bút: Túy Hà Thông tin liên lạc Tuyha81@yahoo.com doanthachngoc@yahoo.com Trình bày và layout: Túy Hà In tại: Mr Print Ần Quán
THI VĂN ĐÀN TRẦM HƯƠNG THỰC HIỆN
MỤC LỤC
Lối vào (3) Đàm Trung Pháp Khảo luận – Thăng hoa khả năng ngoại ngữ qua thi ca trữ tinh (17) – Nguyễn Đức Nhơn Thơ(26) – Trọng ĐạtKhảo luận – Khái luận về nghệ thuật tùy bút Nguyễn Tuân (27) – Phan Xuân Sinh Truyện – Thuở đất tình lên ngôi (46) – Dư Thị Diễm Buồn Thơ (48) – Lãm Thúy Thơ (50) –Yên Sơn Truyện – Những nhánh rong trên dòng sông tuổi nhỏ (53) – Hải PhươngThơ (61) – Diễm Nghi Thơ (66) – Trần Yên Thảo Truyện – Sợi khói ngang mặt (68) – Uyên Giang Thơ (83) – Thy Lan ThảoThơ (85) – Luân Tâm Thơ (87) – Hoàng Đình Hiếu Truyện – Những ngày xưa thân ái (90) – Phạm Tương Như Thơ (95) – th. Đoàn Thy Vân Đọc sách – Lời thơ song vỗ bờ xa (98) – Phan Bá Thụy Dương Thơ (103) – Như Phong Thơ (106) – Vũ Tiến Lập Thơ (109) – Nguyễn Văn Đường Thơ (111) – Phan Các Chiêu Hằng Truyện – Thuyền xưa (112) – Phan Các Chiêu HằngThơ (123) – Kim Oanh Thơ (125) – Song An Châu Thơ (127) – Vĩnh Tuấn Thơ (130) – Nguyễn Lập Đông Thơ (131) – Ái Ưu Du Truyện – Niềm luyến lưu ngọt ngào (133) – Trần Yên Thảo Thơ – (145) – Nguyễn Tôn Nhan Thơ (148) – Ngô Nguyên Nghiễm Thơ (150) – Lê Quang Đông Thơ (154) – Phan Xuân Sinh Thơ (156) – Nguyễn Đắc Nguyên Khoa Thơ (167) – Lê Hữu Minh Toán Thơ (169) – Thái Bạch Vân Thơ (171) – Mây Ngàn Thơ (173) – Cù Hòa PhongPhỏng vấn Nguyễn Hữu Nhật về tác phẩm Hoa Đào Năm Ngoái (174) – Hoàng Xuân Sơn Thơ (197). Nguyễn Tâm Hàn Thơ (200) Mây Ngàn-Anh Tú Nhạc (202)
Khác gì ngậm ngải tìm trầm Lời tòa soạn: Khác với lời dẫn thường lệ. Kỳ này BBT cho đăng “Bài Nói Chuyện” của Văn hữu Chủ nhiệm Nguyễn Đức Nhơn thực hiện trên Đài Tiếng Nước Tôi Dallas. Tựa bài do BBT đặt.
Thấm thoát mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã đóng góp cho nền Văn Học Hải Ngoại 14 tác phẩm với hơn 50 tác giả của Thi Văn Đàn Trầm Hương. Lúc đầu Thi Văn Đàn Trầm Hương có tên là Tao Đàn Trầm Hương và tác phẩm mang tên là Giai Phẩm Trầm Hương với số đầu tiên ra mắt Độc giả vào Mùa Xuân năm 2005. Sách dày 204 trang do Thư Ấn Quán in ấn và Trầm Hương xuất bản với sự góp mặt của các tác giả: Đỗ Quân, Giang Bắc, Hoàng Nguyên, Kiều Mộng Hà, Lê Khánh Duệ, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyên Khoa, Nguyên Thao, Nguyễn Hồng Liên, Như Hoa Lê Quang Sinh, Như Phong, Phạm Cây Trâm, Phan Văn Thuận, Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Thuận Xuyên, Tuấn Đình, Trầm Khanh và Vi Thể. Đây là những tác giả có công rất lớn với Thi Văn Đàn Trầm Hương trong những ngày đầu. Đến tháng 3 năm 2007 thì danh xưng Tao Đàn Trầm Hương được đổi thành Thi Văn Đàn Trầm Hương và tác phẩm mang tên là Giai Phẩm Trầm Hương vẫn tiếp tục phát hành cho đến số 13. Đến Mùa Thu năm 2009, vì nhu cầu bài vở và cơ sở ấn loát nên Giai phẩm Trầm Hương đổi thành Tạp chí Trầm Hương (bộ mới) và số đầu tiên phát hành vào tháng 4 năm 2009. Sách dày 196 trang in tại Mr. Print với nhiều thay đổi từ hình thức đến nội dung.
Phải nói Thi Văn Đàn Trầm Hương lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn, có lúc tưởng chừng như phải bó tay, nhưng với quyết tâm của mọi người, Thi Văn Đàn Trầm Hương vẫn sinh hoạt đều đặn và mỗi ngày một thêm lớn mạnh. Trên đoạn đường dài mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã vượt qua tất nhiên cũng có những trục trặc thường tình mà bất cứ một tập thể nào cũng phải chấp nhận. Vì vậy độc giả không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy có sự thay đổi hoặc thêm bớt thành phần nhân sự trong suốt 5 năm sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương.
Như nói trên, từ Trầm Hương số 2 và những số kế tiếp đều có sự thêm bớt ít nhiều các tác giả góp mặt trong từng tác phẩm. Trầm Hương số 2 phát hành vào tháng 12 năm 2005. Sách dày 167 trang, với 22 tác giả góp mặt gồm có: ĐCCB, Đức Hồ, Giang Bắc, Hoàng Nguyên, Kiều Mộng Hà, Lưu Ca, Lê Khánh Duệ, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyên Khoa, Nguyễn Hồng Liên, Nguyên Thao, Như Hoa, Như Phong, Phạm Cây Trâm, Phan Văn Thuận, Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Thiện Hỷ, Thuận Xuyên, Tuấn Đình, Trầm Khanh và Vi Thể. Để minh thị thêm cho giai đoạn mở đầu trong sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương, xin mời quý thính giả nghe bài phát biểu của tôi trong buổi ra mắt Giai Phẩm Trầm Hương 1 ngày 4-9-2005 tại nhà hàng Thiên Kim như sau:
“Đầu năm 2005, chúng tôi gồm có Nguyễn Đức Nhơn, Nguyễn Đắc Khoa, Lê Quang Sinh và Phạm Cây Trâm đã gặp nhau tại Dallas để thảo luận một số vấn đề có liên quan đến những sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật tại địa phương cũng như những nơi có nhiều người Việt cư ngụ. Chúng tôi nhận thấy việc phát huy và bảo tồn các giá trị Văn Chương của nền Văn Hóa Việt nơi xứ người là một việc làm hoàn toàn chính đáng và rất cần thiết, đồng thời chúng tôi cũng muốn tạo điều kiện cho những người thích hoạt động Văn Nghệ có cơ hội ngồi lại với nhau đàm đạo, viết lách hầu làm vơi đi phần nào cái trống vắng cô đơn nơi xứ người. Từ những động cơ này, chúng tôi không ngần ngại đứng ra vận động một số Văn Thi hữu tại địa phương để thành lập một Nhóm Thơ Văn mệnh danh là Tao Đàn Trầm Hương. Và, để dễ dàng trong sinh hoạt, chúng tôi đã triệu tập một cuộc họp mặt đầu tiên,tổ chức tại trụ sở Cộng Đồng Fort Worth vào ngày 2 tháng 4 năm 2005 với khoảng 50 người tham dự, để hình thành cơ cấu tổ chức, đề ra tôn chỉ mục đích và nêu lên một số quy định để làm kim chỉ nam cho mọi sinh hoạt của Nhóm sau này. Sau những ý kiến và thảo luận sôi nổi trong tinh thần cởi mở và xây dựng, hội nghị đã biểu quyết thông qua các vấn đề sau đây: 1. Danh Xưng: Tao Đàn Trầm Hương. 2. Tôn Chỉ: Phục vụ Văn Học Nghệ Thuật. 3. Ban Điều Hành: Ông Nguyễn Đức Nhơn: Trưởng Ban Điều Hành Ông Nguyễn Đắc Khoa: Ủy Viên Điều Hành Đặc Trách Vùng Dallas Ông Phạm Cây Trâm: Ủy Viên Điều Hành Đặc Trách Vùng Fort Worth Ông Lê Quang Sinh: Cố Vấn
Sau khi hình thành, Tao Đàn Trầm Hương đã nỗ lực hoạt động và đạt những thành quả khiêm nhường sau đây: 1. Đã và đang thực hiện VƯỜN THƠ TAO ĐÀN TRẦM HƯƠNG trên một số tờ báo phát hành tại địa phương. 2. Đã và đang cùng Hội Cao Niên Dallas phát thanh chương trình TAO ĐÀN TRẦM HƯƠNG trên hai đài phát thanh VRN và TNT. 3. Đã và đang thực hiện GIAI PHẨM TRẦM HƯƠNG.
Và cũng nhằm mục đích đẩy mạnh sinh hoạt để tiếp tay cùng các Tổ Chức Văn Học tiền lập trong sứ mạng cao cả là phát huy và bảo tồn nền Văn Hóa Việt nơi xứ người. Ngày 5 tháng 6 năm 2005, chúng tôi thực hiện cuộc họp mặt lần 2 tai Hội quán Thiên Kim, thành phố Richardson với số lượng thân hữu tham dự gần 100 người. Trong dịp này, chúng tôi có gởi đến quý vị một tập Thơ Văn nhỏ, quy tụ 18 cây viết của Tao Đàn Trầm Hương, nhưng tính đến ngày 5 tháng 6 năm 2005 thì số Hội Viên đã lên đến 26 người, gồm các Nhà Văn, Nhà Thơ định cư tại vùng Dallas- Fort Worth. Tuy địa bàn hoạt động chỉ thu hẹp trong vùng Dallas-Fort Worth, nhưng chúng tôi đã quy tụ được một số khá đông Văn Nghệ Sĩ tham gia vào Tao Đàn Trầm Hương. Điều này cũng nói lên được phần nào sự cố gắng của chúng tôi. Tuy nhiên, dù cố gắng đến đâu, chúng tôi cũng không thể nào liên lạc và tiếp xúc được với tất cả Quý Văn Thi Hữu hiện đang định cư tại địa phương nhà. Vì vậy, nhân cơ hội này, chúng tôi xin ngỏ lời trân trọng và hân hoan được tiếp tục đón nhận Quý Vị tham gia vào gia đình Trầm Hương để chúng ta cùng nhau xây dựng một Tổ Chức Văn Nghệ lành mạnh, có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu trong tiến trình hoạt động của chúng ta sau này.
Mặc dù với thời gian hoạt động không lâu và những khó khăn tất yếu của buổi ban đầu, chúng tôi đã cố gắng vượt qua và đã tạo được một vài thành quả khiêm nhường mà tôi vừa trình bày ở trên. Tuy nhiên, với sự quyết tâm của Tao Đàn Trầm Hương và sự ủng hộ nhiệt tình của Quý Vị, chúng tôi hy vọng sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp hơn, nhất là ở Giai Phẩm Trầm Hương 2, nơi mà chúng tôi sẽ dồn hết mọi cố gắng để hình thành một tác phẩm có nội dung lẫn hình thức không làm phụ lòng Quý Vi. Mong Quý Vị đón xem Giai Phẩm Trầm Hương 2, sẽ phát hành trong một ngày không xa.
Trước khi dứt lời, tôi xin thay mặt Tao Đàn Trầm Hương và Ban Tổ Chức chân thành cám ơn Quý Vị đã bỏ nhiều thì giờ quý báo đến tham gia buổi họp mặt của Tao Đàn Trầm Hương ngày hôm nay”. Kính thưa quý thính giả nghe Đài, Đến Trầm Hương 3, ngoài những tác giả góp mặt trong Trầm Hương 2, Tao Đàn Trầm Hương đã thu hút được một số tác giả tên tuổi như Lê Phương Nguyên, Trần Yên Thảo, Nguyễn Tôn Nhan, Trần Tuấn Kiệt, Ngô Nguyên Nghiễm, Phạm Thiên Thư, Đặng Tấn Tới v.v… Trầm Hương 3 dày 166 trang, phát hành vào tháng 4 năm 2006. Có thể nói bắt đầu từ Trầm Hương 3, Tao Đàn Trầm Hương thực sự đã trưởng thành. Với số lượng tham gia càng ngày càng nhiều các tác giả tên tuổi đã làm cho Giai phẩm Trầm Hương mỗi ngày một thêm khởi sắc từ hình thức đến nội dung. Ở Trầm Hương 4, chúng ta thấy sự xuất hiện của một số những tên tuổi mới như Mùi Quý Bồng, Lan Cao, Song An Châu, Huỳnh Chiếu Đẳng, Nguyễn Cát Đông, Túy Hà, Trần Minh Hải, Đức Hồ, Vũ Hối, Nguyễn Phú Long, Vĩnh Tuấn, Thy Lan Thảo v.v… Trầm Hương 4 dày 204 trang, phát hành vào tháng 9 năm 2006. Với Trầm Hương 5, Chúng tôi xin mượn lời mở đầu của tập này để giới thiệu cùng quý thính giả nghe đài sự lớn mạnh từng bước của Thi Văn Đàn Trầm Hương. “Sau 2 năm hoạt động, chúng tôi đã cố gắng không ngừng trong việc nâng cao chất lượng và số lượng trong mọi sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương. Riêng với Giai Phẩm Trầm Hương, chúng tôi đã bỏ khá nhiều công sức, và, hôm nay chúng tôi cảm thấy an ủi rất nhiều, khi cầm trên tay Giai Phẩm Trầm Hương 5, một tác phẩm đã đánh dấu sự lớn mạnh của Thi Văn Đàn Trầm Hương về mọi mặt. Với 25 cây viết ở rải rác khắp mọi nơi, từ Canada đến Hoa Kỳ, chúng tôi đã tạo được một lực lượng khá hùng hậu để hoàn thành tác phẩm này, và đó cũng chính là lý do mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã dành được một chỗ đứng tương đối khá vững vàng trong khu vườn Văn Học VN hải ngoại . Cho đến nay, Thi Văn Đàn Trầm Hương đã được các Văn Thi hữu khắp nơi nhiệt tình tham gia, mà đa số là các Văn Thi hữu đã thành danh, tác giả nhiều tác phẩm, chẳng hạn như Đàm Trung Pháp, Mùi Quý Bồng, Vũ Hối, Xuân Bích, Song An Châu, Trần Minh Hải, Nguyễn Phú Long, Vĩnh Tuấn, Nguyên Nhung, Trần Bang Thạch, Lan Cao, Yên Sơn, Túy Hà, v.v… cộng với các thành viên cũ như Nguyên Khoa, Lưu Ca, Bùi Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Tuấn Đình, Như Phong, Độc Cô Cầu Bại, Giang Bắc, Lê Khánh Duệ, Đức Hồ, Trầm Khanh, Phan Văn Thuận, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyễn Tôn Nhan, Đoàn Thuận, Trần Yên Thảo v.v… cùng một số nghệ sĩ như Nhạc sĩ Nguyễn Hải, Nhạc sĩ Phan Đình Minh, Ca sĩ Hà Lan Phương đã nâng số thành viên của Thi Văn Đàn Trầm Hương lên đến 40 người. Với số thành viên hùng hậu nêu trên, Giai Phẩm Trầm Hương hy vọng sẽ đóng góp được phần nào trong công việc phát huy và duy trì khu vườn Văn Hóa Việt nơi xứ người mỗi ngày một tươi tốt hơn”. Trầm Hương 5 dày 200 trang, phát hành vào tháng 12 năm 2006 với 35 Văn Thi hữu góp mặt. Trầm Hương 6 dày 196 trang, phát hành vào tháng 3 năm 2007 với sự góp mặt của 36 tác giả, trong đó có thêm những tên tuổi mới như Trần Hoài Thư, Nguyễn Mạnh Cẩm, Mịch La Fong v.v… Với Trầm Hương 7, chúng tôi muốn đề cặp đến một khía cạnh khác, đó là vấn đề chi phí in ấn. Vấn đề này được tôi trình bày một phần trong bài thay lời mở của tập này như sau: “Trong những lần họp mặt Ban Cố Vấn và Ban Điều Hành Thi Văn Đàn Trầm Hương, hầu hết các Văn Thi hữu có trách nhiệm đều quan tâm về nguồn tài trợ cho Giai Phẩm Trầm Hương. Nhìn chung, đa số hội viên Thi Văn Đàn Trầm Hương là những người đến định cư ở Hoa Kỳ theo diện tị nạn HO; Tôi muốn nói đến những người mà, trước đây họ đã từng gánh chịu những mất mát lớn lao trong suốt hai cuộc chiến kéo dài trên đất nước chúng ta. Và, hiện nay họ cũng chính là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất trên mảnh đất tạm dung này, vì họ là những người đến sau, họ là những người đến với những hậu quả mang theo từ những năm tù cải tạo, họ đến với mớ tuổi đời chồng chất; Nói một cách khác, đa số họ là những người đang sống nhờ vào tiền trợ cấp của nhà nước hay sự giúp đỡ của con cháu. Vì vậy có thể nói Thi Văn Đàn Trầm Hương là nơi quy tụ những người có lòng nhưng không có sức. Sự đóng góp của họ dù cố gắng đến đâu cũng khó lòng trang trải nổi những chi phí in ấn cho những tác phẩm mà mỗi cuốn dày đến 200 trang. Một tạp chí không quảng cáo, không đăng tin chia vui, chia buồn, không một nguồn tài trợ nào ngoài sự đóng góp của anh em, nhưng Giai Phẩm Trầm Hương vẫn sống đến ngày hôm nay một phần nhờ vào sự ủng hộ của một số Độc giả xa gần.. Vào một chiều đầu thu đẹp trời, tình cờ tôi nhận được tấm check 200 đô của một vị ân nhân từ thành phố Baton Rouge, Louisiana gởi tặng cho Giai Phẩm Trầm Hương. Cầm tấm check trên tay, tôi cảm thấy lòng mình vui hẳn lên, thực ra nguồn vui này không hoàn toàn do số tiền ủng hộ mà là do sự cảm nhận được tấm lòng hào hiệp và yêu chuộng văn chương chữ nghĩa của một độc giả xa xôi hướng về Dallas với lòng mến mộ Thi Văn Đàn Trầm Hương. Chúng tôi vui vì thấy công việc của chúng tôi đã thực sự làm nên một điều gì đó, khả dĩ đánh động được tấm lòng thương yêu của độc giả xa gần và chính điều này đã làm cho chúng tôi mạnh dạn hơn và tin tưởng hơn trên con đường phục vụ nghệ thuật. Trầm Hương 7 dày 196 trang, phát hành vào Mùa Hè 2007. Từ Trầm Hương số 8 trở đi, phần trình bày có đôi chút thay đổi, nhưng tựu trung cũng không có thay đổi gì lớn kể cả thành phần nhân sự và hình thức. Trầm Hương 8 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Thu năm 2007. Trầm Hương 9 dày 196 trang, phát hành vào Mùa Đông năm 2007 với sự tham gia của những khuôn mặt mới như Nguyễn Thị Thanh Dương, Trần Ngọc Minh, Tiểu Thu, Phan Chính, Đoàn Thuận, Trần Khánh Liễm, Châm Hồ, Linh Du, Phương Triều v.v…. Trầm Hương 10 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Xuân 2008. Để quý thính giả nghe đài rõ hơn về tác phẩm này, chúng tôi xin gởi đến quý thính giả bài viết của Giáo Sư Đàm Trung Pháp nhận định vê Trầm Hương 10 trong ngày ra mắt tác phẩm này như sau: Kính thưa quý văn hữu, Để trả lời câu hỏi “Tại sao bạn viết văn?” thì nếu có người đưa ra vài lý do thực tế như “để có chút tiếng tăm, để kiếm tiền, để giải trí”, thì lại cũng có người đưa ra vài lý do thanh cao hơn, như “để thăng hoa mức tưởng tượng, để tự tạo cho mình một thế giới riêng tư, để trốn sang một thế giới khác”. Lý do nào cũng vững cả, nhưng có lẽ cái lý do có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất để nữ sĩ Sei Shonagon (966-1013) tiếp tục viết văn đã được bà nói huỵch toẹt ra là “nếu việc viết lách mà không có trên đời này thì chúng ta sẽ sầu khổ biết bao nhiêu!” Nữ sĩ Shonagon là một nhật ký gia, chuyên ghi chép những chuyện xảy ra trong triều đình Nhật Bản thuộc thế kỷ 11, và bà được hoàng hậu Teishi ái mộ. Bà ghi lại quốc sự, cũng như những lời đàm tiếu, những câu chuyện nho nhỏ (như con chó của hoàng đế đã cắn chết con mèo của hoàng hậu, để rồi bị trừng phạt ra sao, chuyện tình ái lăng nhăng của các công chúa và các hoàng tử, vân vân). Bà viết rất duyên dáng, thông minh, và trung thực, được thế giới tây phương biết qua cuốn sách mang tên “Makura No Soshi” (được dịch sang tiếng Anh thành “The Pillow Book”). Sở dĩ tôi nhắc đến câu nói để đời của nữ sĩ Shonagon vì tôi thấy nó cũng đồng thanh tương ứng với lời tâm sự của văn hữu Nguyễn Đức Nhơn, chủ nhiệm giai phẩm TRẦM HƯƠNG số 10, như đã ghi trong lời mở đầu (trang 6): “Cái nghiệp viết lách đã đeo đuổi theo tôi gần hết một đời. Đôi khi tôi cũng thấy chán, nhưng nếu không ngồi vào bàn viết thì lại càng chán hơn!!!” Vì con số người đọc bao giờ cũng lớn hơn con số người viết văn chương bội phần, một câu hỏi nữa cần phải đặt ra là “Tại sao chúng ta đọc văn chương?” Theo thiển ý, có ba lý do chính. Lý do thứ nhất là để chạy trốn nỗi buồn tẻ, phiền lụy của chính mình bằng cách đi tìm những kinh nghiệm mới lạ qua sự mô tả của người khác. Văn chương, qua những đoạn văn thơ kỳ thú có thể làm chúng ta lên tinh thần. Đó là những chuyện trinh thám ly kỳ, những chuyện tình rực rỡ, những bài thơ làm ấm lòng người đọc. Lý do thứ hai là để mở rộng kiến thức, vì văn chương có thể được coi là một văn kiện xã hội, cho người đọc sự hiểu biết về luật pháp, phong tục, thái độ, giá trị của một thời đại, của một văn hóa, nhất là trong tiến trình “hoàn cầu hóa” của nhân loại ngày nay. Và lý do thứ ba là để trực diện với kinh nghiệm sống. Đọc là một sự tham dự, một sự nhập cuộc. Những nhân vật trong văn chương (tiểu thuyết, truyện ngắn, thi ca) giúp chúng ta tìm hiểu trực tiếp sự muôn hình vạn dạng của nhân sinh. Qua văn chương, chúng ta có thể tự tìm thấy chính chúng ta, qua kinh nghiệm và sự diễn tả của người khác. Một chỉ dấu quan trọng của văn chương đích thực là nó để lại một dấu ấn, một hiệu lực (effect) trong lòng người đọc. Kính thưa quý văn hữu, Chính vì ba lý do nêu trên mà tôi đã đọc trọn 199 trang của giai phẩm TRẦM HƯƠNG số 10 do Thi Văn Đàn Trầm Hương thực hiện, và tôi đã mãn nguyện. Trầm Hương số 10, cũng như các số trước, rất đáng được đọc một cách nghiêm chỉnh. Cả mấy tháng nay tôi vô cùng bận rộn và mệt mỏi với chuyện dọn nhà và công việc ở trường, chẳng mấy lúc được ngồi đọc văn chương viết bằng tiếng mẹ đẻ. Quả thực Trầm Hương số 10 đã đến với tôi như một luồng gió mát. Tôi đã chung vui một vài kinh nghiệm kỳ thú trong giai phẩm này. Trước hết là câu chuyện tình rất đẹp, rất chung thủy, có kết cục hạnh phúc giữa cô giáo Thủy Tú và trung úy Sơn trong truyện TÌM EM TỪ BUỔI LẠC NHAU ĐẾN GIỜ của văn hữu Lê Thị Hoài Niệm. Đặc sắc nhất là cách ăn nói duyên dáng của nhân vật Thủy Tú. Một kinh nghiệm kỳ thú nữa là qua truyện BÀ MẸ VỢ của văn hữu Nguyễn Thị Thanh Dương. Câu chuyện hồn nhiên này đánh tan được quan niệm xấu xa về mẹ vợ (“mother-in-law”) của người Mỹ, như chúng ta thường nghe họ coi “thông gia” (in-laws) như những kẻ “ngoài vòng pháp luật” (outlaws), trong một lối chơi chữ tàn bạo. Nhưng trong BÀ MẸ VỢ thì anh con rể người Mỹ tên Steve quý mến bà mẹ vợ Việt Nam vô cùng. Vì vậy, sau khi bà mẹ vợ về Việt Nam, Steve “buồn ra mặt, anh nhớ bà mẹ vợ, người đã thương con, chiều cháu bằng cả một tấm lòng, anh đã hiểu một bà mẹ Việt Nam cần cù, chịu khó và hy sinh vì con cháu thế nào!”. Bạn nào thích chơi câu đối thì không thể bỏ qua bài viết cực kỳ lý thú của văn hữu Nguyễn Phú Long, mang tên CHƠI CÂU ĐỐI, một lối chơi chữ đặc thù của dân Việt. Lối chơi chữ này đòi hỏi mức độ “thông minh ngôn ngữ” (linguistic intelligence) rất cao, chẳng hạn như trong đôi câu đối sau đây của hai người chơi chữ khá giỏi: “Dê sồm mùi mẫn, dương khoe cẳng dài” (Nguyễn Phú Long) đối với “Cọp cái dần dà, hổ thẹn ân sâu” (Người Đà Lạt). Tôi cũng đã học hỏi thêm được về cuộc đời dân Việt cận đại qua Trầm Hương số 10. Như cuộc sống bất ổn của người dân miền Nam trong thời Việt Minh bắt đầu làm rối ren ở miền quê đã được văn hữu Tiểu Thu phơi bầy trong truyện THƯƠNG HẬN. Đây là câu chuyện đau buồn của một phụ nữ đẹp và đoan trang đã bị người tình sau khi thành tài ở Paris về phản bội, chỉ vì thế lực kim tiền. Như nếp sống thảm khốc của dân quê miền Nam thời chinh chiến, những năm 1969 – 1970, thời đại mà nhiều người trong chúng ta còn ở trong hàng ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, được lột tả trong truyện VỢ CHỒNG ÔNG HỘ của văn hữu Nguyễn Đức Nhơn. Ông Hộ đã góa vợ, già nua, và mất mạng trong căn nhà cũ bị dội bom. NGỌN RAU LÁ CỎ của Nguyên Nhung là một câu chuyện vui tươi, nằm trong thời điểm dân Bắc Kỳ di cư vào Nam. Kinh nghiệm của cô bé Bắc Kỳ với dân Nam Kỳ bản xứ thực dễ mến. Tôi may mắn được thoát ra khỏi Việt Nam từ đầu tháng 4 năm 1975. Nếu kẹt lại thì chắc chắn cũng đã đi cải tạo, vì lúc ấy tuy là giảng sư đại học chính ngạch, tôi vẫn là một sĩ quan biệt phái về Đại Học Sư Phạm Saigon với cấp bậc trung úy. Vì vậy tôi rất thương cảm những ai bị Việt Cộng đầy đọa trong những trại cải tạo dã man của chúng. Truyện ngắn DĨ VÃNG VÀ HIỆN TẠI của văn hữu Đoàn Thạch Ngọc đã làm tôi xúc động mãnh liệt. Đây là nỗi thống khổ của những chiến sĩ VNCH nằm trong tay của Cộng sản: “Sau một ngày lao động, về trại liếm láp qua loa chút ít thực phẩm do trại cấp phát rồi lên sạp nằm ngó trần nhà, thả hồn về quê hương, nơi có những người thân thương đang mỏi mòn chờ đợi. Tôi nhớ lắm. Nhớ tất cả. Nhớ cha mẹ già hẩm hiu cô quạnh trong những ngày gần đất xa trời. Nhớ người vợ hiền đang từng ngày bươn chải nuôi con, nhớ những đứa con nhỏ dại ngây thơ không biết có đủ no, đủ ấm trong những ngày đông tháng giá.” Đấy, nếu tôi kẹt lại, thì số phận tôi cũng như vậy! Tôi đã tìm thấy tôi một phần nào, qua cái đau khổ của nhà văn Đoàn Thạch Ngọc và biết bao những chiến sĩ anh hùng khác nữa của VNCH đã sa cơ thất thế. Kính thưa quý văn hữu, Còn nhiều điều đáng nói lắm trong giai phẩm Trầm Hương 10, nhưng tôi đã nói nhiều, và xin để quý bạn khám phá thêm những lời hay ý đẹp trong giai phẩm. Trân trọng kính chào tạm biệt và cảm tạ quý văn hữu đã lắng nghe”. Kính thưa quý thính giả nghe Đài, Trầm Hương số 10 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Xuân năm 2008 đặc biệt có tăng cường thêm một cây bút mới, đó là Nhà văn Lê Thị Hoài Niệm. Trầm Hương 11 dày 208 trang, phát hành vào Mùa Thu năm 2008 có tăng cường các cây bút tên tuổi như Vũ Tiến Lập, Nguyễn Lập Đông, Vũ Linh, Hồ Công Tâm, Hải Bằng v.v… Sang Trầm Hương 12 có sự hiện diện của Nhà thơ Hải Phương và Nhà văn Trần Bang Thạch càng làm cho Giai phẩm Trầm Hương đứng vững hơn trong làng Văn học Hải ngoại mà đỉnh cao có lẽ là Trầm Hương 13 với sự xuất hiện của Quan Dương, Phạm Ngũ Yên cùng nhiều tác giả khác làm nên một tác phẩm hoàn chỉnh về hình thức lẫn nội dung. Trầm Hương 13 là tác phẩm cuối cùng kết thúc một chặng đường dài gần 5 năm để bước vào một giai đoạn mới là Trầm Hương 14 mà chúng tôi chuyển thành Trầm Hương số 1 Bộ mới. Có thể nói Trầm Hương số 1 bộ mới này là một cố gắng vượt trội của chúng tôi để hình thành một tác phẩm với sự đổi mới hoàn toàn về hình thức lẫn nội dung. Trầm Hương 1 bộ mới dày 196 trang với sự góp mặt của Yên Sơn, Trần Yên Thảo, Nguyễn Thị Thanh Dương, Phan Bá Thụy Dương, Hải Phương, Nguyễn Bạch Dương, Ngô Nguyên nghiễm, Nguyễn Đức Nhơn, Phạm Ngũ Yên, Tuấn Đình, Nguyên Đắc Nguyên Khoa, Đàm Trung Pháp, Trần Nguyên Đán, Phạm Tương Như, Huỳnh Quang Thế, Túy Hà, Nguyễn Thế Giác, Nguyễn Hữu Nhật, Nguyễn Lập Đông, Nguyễn Tôn Nhan, Như Phong, Phan Xuân Sinh, Thái Bạch Vân, Vũ Linh, Lê Hữu Minh Toán, Lưu Thái Dzo, Xuân Bích, Song An Châu, Tiểu Thu, Lan Cao, Vũ Tiến Lập, Tuấn Trường, Diễm Nghi, Vĩnh Tuấn, Trọng Đạt, Lã Mộng Thường, Phiêu Bồng và Hà Lan Phương. Trầm Hương 1 bộ mới phát hành vào Mùa Thu năm 2009. Sự ra đời của tập 1 bộ mới là khởi đầu cho một cuộc hành trình với những thách thức trùng trùng trước mắt. Quý thính giả có thể thấy rõ điều này qua lời tâm sự của Văn hữu Chủ bút Túy Hà trong phần mở đầu sau đây: “Viết đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu cho những đời lấy chữ nghĩa làm vui, và dĩ nhiên bốn mùa luôn xoay chuyển thì ý tình người cũng mộng ảo biến thiên. Nhưng thực tế muôn đời vẫn là phàm tục, nợ áo cơm thôi thúc từng giây. Người viết muốn trọn tình ngôn ngữ, muốn trải lòng tình tự quê hương thì luôn phải mượn hồn nhập xác như hằng đêm trên sân khấu, người diễn viên luôn phải thay vai… Lúc là vua quyền uy một cõi, lúc lính hầu khiên võng nặng vai. Kịch là đời và chính đời là kịch, mỗi một người là một diễn viên. Khi sinh ra, biết khóc trước cười là dấu chỉ cho một đời nhập cuộc, để thích nghi với toàn cảnh thiên nhiên nhất là lúc giao mùa chưa rõ nét mà ngoài kia lá đã chớm vàng. Thu u uẩn như vầng trăng thiếu phụ, Thu cũng là mùa cúc nở râm ran Trăng nghiêng xuống nhuộm vàng lên xác lá đời lưu vong nhớ quá mảnh sân nhà.
Trầm hương đã là một vuông sân có thật cho những đời lưu vong còn nhớ mảnh sân nhà, đã năm năm qua khởi đi từ vài người bạn già sinh tình tức cảnh lúc trà dư tửu hậu, tự hỏi còn gì sau những bôn ba mỏi mệt ở xứ người. Như ngẫu hứng lý qua cầu lỡ độ, thì thôi đành đem chữ nghĩa luận bàn, từ lý luận suông bàn thành thực tế và Trầm Hương thành một sân chơi. Tin lại thư đi, bằng hữu tụ về không thiếu, thì ra: ngựa hồ luôn nhớ ngọn bắc phong. Mỗi thân hữu góp một bàn tay với nhiệt tình rực lửa, không so đo tính toán, không phân biệt chuyên nghiệp hay tài tử mỗi một sáng tác thi văn đều chung dòng sinh mệnh, đem tâm tình làm phong phú chữ nghĩa nước ta. Ngôn ngữ Việt Nam tự nó đã là thơ là nhạc, là tiếng chim hót đầu hè, là tiếng đỗ quyên gọi hồn Thục đế, là tiếng gió ru trên bạt ngàn ruộng lúa, là tiếng gào thê thiết của hổ nhớ rừng. Tất cả là tâm tư tình cảm của những đời dân Việt lưu vong. Tất cả đã đến với Trầm Hương suốt năm năm dài không ngừng nghỉ, góp thêm hương sắc cho vườn hoa văn học Hải ngoại. Tự hào nhưng không tự tôn, tự ti nhưng không mặc cảm. Trầm Hương đã là một thực thể hiện hữu trong trái tim của những người còn yêu chữ nghĩa. Thế nhưng, trên đường thiên lý làm sao không mỏi mệt, mộng ảo có biến thiên, mà sức người thì luôn luôn hữu hạn trước những đổi thay bất chợt của mưa lạnh nắng hè. Nắng không ưa, mưa không chịu, thôi thì nối lại vòng tay đón ngọn thu phong, bước vào mùa trăng diễm ảo. Bằng chút tình chữ nghĩa vẫn có nhau. Với chút tâm tư mơ hồ bảng lảng ấy, chúng tôi và những bằng hữu còn lưu luyến với Trầm Hương, quyết định tiếp bước dù khó khăn hạn chế mọi nẻo đường. Không bằng lòng với chính mình có nghĩa là luôn cầu tiến, biết quên đi những lời khen hoa mỹ có nghĩa là tự trọng. Người cầm bút chân chính là người không mang tính tự kiêu. Bởi vì tự kiêu chính là sát thủ luôn chực chờ để giết chết mọi tài năng. Bạn đang đọc những dòng chữ này có nghĩa là bạn đang hà hơi tiếp sức cho chúng tôi tăng thêm nhiệt tình để sống, để viết, làm vơi đi nỗi buồn lưu vong. Với tình hình phát triển không ngừng nghỉ của hệ thống điện báo toàn cầu thì việc in sách báo, tạp chí, tưởng chừng như lạc hậu và đang đến hồi giẫy chết. Thế nhưng thử hỏi bạn nghĩ gì khi cầm một ấn phẩm mới còn thơm mùi mực, và thử hỏi bạn sẽ ngồi bao nhiêu lâu trước máy tính cá nhân để đọc hết những trang điện báo nhất là đối với thế hệ lưu vong thứ nhất. Nhiều, còn nhiều câu hỏi lắm, vì thế không thể khen chê hay so sánh. Vì vậy Trầm Hương sẽ tiếp tục ấn hành như chút kỷ niệm lưu lại trong lòng những người Việt chân chính và hữu tình hằng quan tâm đến việc phát huy văn hóa Việt Nam nơi xứ người. Tuy nhiên bên cạnh đó để việc giới thiệu sáng tác mới đến đọc giả được hữu hiệu hơn và cũng có thể xem như một hồ sơ lưu trử tài liệu, chúng tôi cũng đã cố gắng thực hiện và mời Quý vị ghé thăm trang nhà: www.hoiquantramhuong.net Vì không chủ trương thương mại nên mọi yểm trợ tinh thần cũng như vật chất của quý thân hữu và độc giả sẽ là niềm khích lệ to lớn cho nhóm chủ trương. Xin nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của chúng tôi”. Kính thưa quý thính giả nghe Đài, Song song với các sinh hoạt mà tôi vừa trình bày ở trên, Thi Văn Đàn Trầm Hương cũng đã tổ chức những buổi họp mặt giới thiệu các tác phẩm của Trầm Hương cũng như những tác phẩm riêng của một số thành viên trong Thi Văn Đàn. Tổng cộng có 8 lần tổ chức: 2 lần ở Trụ sở Hội Cao Niên Fort Worth, 1 lần tại trụ sở Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Dallas, 2 lần tại Hội quán Thiên Kim ở Richardson, 2 lần tại nhà hàng Tự Do ở Arlington và 1 lần tại nhà hàng Kim Hồng ở Arlington, Texas. Hiện tại Thi Văn Đàn Trầm Hương đang thực hiện các chương trình sau đây: 1. Tạp chí Trầm Hương 2. Trang thơ trên Tuần báo Kiến Thức 3. Phát thanh vào ngày Chúa Nhật hàng tuần trên Đài TNT 4. Thực hiện website: hoiquantramhuong.net Kính thưa quý thính giả, Bài nói chuyện của tôi hôm nay có mục đích gởi đến Độc giả, Thính giả Đài TNT và quý Văn Thi hữu một số thành quả khiêm nhường mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đạt được để kỷ niệm ngày Thi Văn Đàn Trầm Hương tròn 5 tuổi và mừng Tết Nguyên Đán Canh Dần năm 2010. Trước thềm năm mới, thay mặt Ban Điều Hành Thi Văn Đàn Trầm Hương, tôi xin kính chúc quý Độc giả, quý Thính giả Đài TNT và quý Văn Thi hữu cùng Gia đình một năm mới hạnh phúc, an khang và thịnh vượng.
Đàm Trung Pháp THĂNG HOA KHẢ NĂNG NGOẠI NGỮ QUA THI CA TRỮ TÌNH
Hồi còn là sinh viên ban cử nhân chuyên về Anh ngữ tại Miami University thuộc tiểu bang Ohio trong đầu thập niên 1960, tôi có cơ hội học thêm một số ngoại ngữ trong phần học trình nhiệm ý. Tiến sĩ Glen Barr là vị giáo sư tiếng Tây ban nha tôi ngưỡng mộ nhất. Ông uyên bác, hiền lành, tận tụy, và rất quý mến học trò. Sau một thời gian học với ông, tôi được ông mướn làm người chấm (grader) bài tập của sinh viên theo học các lớp Tây ban nha ngữ nhập môn của ông. Mỗi cuối tuần, với nụ cười hiền hậu, ông trao tôi một món tiền căn cứ vào số bài tôi đã chấm dùm ông. Món tiền thường chỉ đủ để đưa cô bạn gái người Mỹ đi xi-nê một hai chầu là cạn, nhưng tôi rất cảm động và hãnh diện được ông thầy học tin cậy khả năng. Một hôm tôi hỏi ông: “Thầy ơi, có cách nào hấp dẫn hơn để trau giồi tiếng Tây ban nha, ngoài việc học thuộc lòng các quy luật văn phạm và từ vựng buồn tẻ không?” Ông gật gù, có vẻ thích thú câu hỏi của tôi, rồi ông hỏi lại tôi: “Anh có thích thơ và nhạc không?” Thấy tôi gật đầu lia lịa, ông nói tiếp: “Vậy thì hãy thử tìm đọc thơ của Gustavo Adolfo Bécker, và nghe những bài hát do Trio los Panchos trình diễn đi!” Ông thầy chí tình của tôi còn quả quyết là qua thơ và nhạc, tôi sẽ thích tiếng Tây ban nha hơn, biết thêm từ vựng văn học, hiểu thêm nếp sống tình cảm của người dân Tây ban nha và Mỹ châu la-tinh, và nhất là sẽ thăng hoa khả năng phát âm và khả năng nghe hiểu thứ tiếng này. Ông vỗ vai tôi, nói tiếp trước khi tôi rời văn phòng ông: “Tin tôi đi, vì đó là kinh nghiệm bản thân của tôi mà!” Tôi không thể ngờ là giáo sư Barr đã cho tôi một lời khuyên vô giá. Ông quả là một nhà giáo ngoại ngữ tinh đời mà tôi có diễm phúc được làm học trò. Rời văn phòng ông, tôi vội ghé thư viện của trường để mượn một cuốn hợp tuyển dầy cộm về văn học Tây ban nha trong đó có thơ của đại danh Gustavo Adolfo Bécker và các thi nhân lẫy lừng khác. Tôi cũng vào một tiệm âm nhạc ở ngoài phố để mua một đĩa hát của ban tam ca Trio los Panchos rất được ưa chuộng thời ấy, bìa in hình ba chàng ca sĩ để râu mép như Clark Gable, đội mũ rộng vành, tay ôm đàn điệu nghệ. Chỉ tiếc là cái album đĩa hát thuộc loại “long-playing” ấy của nhà sản xuất Columbia không có đính kèm bản văn (lyrics) của các bài hát, nhưng đây lại là một điều tốt cho tôi, như sẽ giải thích dưới đây. Gustavo Adolfo Bécker (1836-1870), một nhà thơ tài hoa nhưng mệnh yểu thuộc trào lưu hậu lãng mạn, đã chinh phục ngay được lòng mến mộ của tôi qua một số bài thơ trữ tình trong tuyển tập RIMAS của ông. Thi tuyển này gồm 98 bài –có bài rất ngắn nhưng cũng có bài khá dài, tổng cộng thành vài ngàn câu thơ trác tuyệt– đóng vai trò quan trọng trong văn học Tây ban nha và nằm trong học trình trung học của các quốc gia nói thứ tiếng này. Sau tuyệt tác này, Bécker được coi như người đã sáng lập ra trường phái “trữ tình mới” của văn học Tây ban nha, ảnh hưởng trực tiếp đến các đại danh thi ca như Octavio Paz và Rubén Darío. Nét trữ tình ngọt ngào và chân thành của nhà thơ nổi bật trước sự bộc phát của tình yêu và nỗi cô quạnh của thiên nhiên, khiến người đọc mủi lòng và thấm thía đến nỗi phải đọc đi đọc lại đoạn thơ hay cả bài thơ liên hệ ấy cho đến khi nhập tâm mới thôi. Nhưng Nàng Thơ của thi tập RIMAS là ai ? Thưa, đó là nàng Elisa Guillén, một kiều n