Hoàng Thị Thanh Nga

Hoàng Thị Thanh Nga
Mùa Thu Mưa Bay

Từ ngày anh tôi đậu đại học, khoác danh hiệu sinh viên, tôi trổ mã thành thiếu nữ 16 tuổi, căn nhà vốn êm ả trầm lặng của gia đình bỗng tấp nập khách khứa. Tất cả “khách” đều là bạn chung lớp với anh hai. Những anh mới bước vào ngưỡng cửa đại học, mang bao ước mơ hoài bão to tát, đang tập tành làm… người lớn. Các anh thích đến nhà tôi chơi vì giống như đi “dã ngoại”. Nhà tôi cách thành phố Saìgon 20km, không có vườn tược ao hồ cây trái gì cả, nhưng ai cũng thích đến. Cả lớp kháo nhau “thằng Thái có nhỏ em đẹp lắm”.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Tôi chỉ là cô bé lọ lem con nhà nghèo, còn nguyên nét quê mùa ngơ ngáo. Gia đình tôi sống trong một xóm đạo toàn người Bắc di cư, nên tôi nói rặt giọng “Bắc kỳ dốn” kéo dài thượt.
Có lần, má đi buôn về, mua cho quả mít, dặn tôi xẻ ra mang biếu bà cụ nhà đối diện một miếng. Quả mít thì quá nhỏ, anh em tôi lâu lắm mới được má “hào phóng “mua cho chút trái cây. Tiếc rẻ, tôi đem biếu bà miếng nhỏ sát cuống. Lúc sau, bà cầm cái vỏ mít sang tìm tôi “mắng vốn”.
-Sao mày cho “chị” miếng mít… nguyên… thơ là… thơ ế. (miếng mít toàn xơ là xơ thế)
Từ đó chúng tôi hay dùng câu: nguyên thơ là… thơ để nói đến món gì quá hẻo. Giọng Bắc của tôi cũng vậy, lúc nào cũng có chữ “ế” kéo dài đằng sau, nghe đúng “giai điệu” Bắc kỳ.
Tuy mang tiếng là “đẹp lắm” nhưng quần áo tôi cũ mèm, xốc xếch, tóc cột đuôi gà bằng sợi thun, thay cho chiếc kẹp nhiều màu lóng lánh mà tôi hằng mơ ước. Trên người tôi không có món “trang sức” nào qúi giá, tai đeo đôi bông bằng hột… nhựa, chờ mãi một đôi bông vàng 18k bà nội hứa cho từ hồi còn nhỏ xíu chưa xỏ lỗ tai đến giờ chưa thấy. Tính tôi cũng còn con nít ham chơi, rảnh một chút là chạy biến ra sân nhà thờ tụ tập chơi đùa, chẳng quan tâm đến “thời sự” sôi động trong nhà.
Trong số bạn anh Thái đến chơi, có ba anh rất thân với anh tôi là anh Quế Anh, Trường Giang và Thiên Phú. Bốn anh được bạn trong lớp phong cho danh hiệu… tứ đại công tử. “Đaị công tử” là ba anh kia thôi, chứ anh Thái tôi con nhà nghèo làm sao là “công tử” được, nhưng anh tôi lại cao ráo, đẹp trai, trắng trẻo nên có vẻ cũng xứng với danh hiệu.
Các anh siêng năng tặng quà cho em gái… út, dù chẳng có dịp gì, còn nếu là sinh nhật em thì các món qùa càng đặc biệt “nặng ký” hơn. Anh tôi hay hỏi đùa em út:-Sao sinh nhật út mà toàn là bạn anh tặng quà vậy? (bạn út nhỏ xiú làm sao có quà)
Cuối cùng chỉ còn anh Quế Anh giữ lại truyền thống… tốt đẹp này. Sau mới biết, thì ra hai anh kia đứng lại “nhường đường” cho Quế Anh.
Một hôm, ngồi chơi chán, Quế Anh rủ anh Thái đi uống cafê, thằng em ở đâu chạy về, mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, nó cuống quýt lắp bắp:-Anh Què… Ành chò èm đì vời.
Quế Anh ngạc nhiên sửng sốt hỏi anh Thái.-Nó nói cái gì vậy? Sao nó bảo tao…què???
Chúng tôi lăn ra cười sặc sụa, thằng em mắc cở chạy mất, anh Thái cố nín cười giải thích.
-Nó nói mày cho nó đi với, nó nói Quế Anh chứ không phải… què.
Quế Anh vẫn thắc mắc.
-Sao nhà mày kỳ vậy? Mày người Nam, em gái mày người Bắc, em trai mày người… Trung.
Má tôi người Bắc, ba người Nam. Sau ngày “giải phóng” ba đi “học tập”, má quá khó khăn chật vật nuôi anh em tôi, nên gởi anh hai và thằng em về bên nội ở nhờ một thời gian, vì thế anh nói tiếng Nam. Còn lại, tôi và em gái ở với má và bà ngoại trong xóm rặt người Bắc nên nói tiếng Bắc là đương nhiên, nhưng không hiểu sao thằng em kế tôi lại “đột phá” thanh âm, biến thành giọng …Trung. Nhà tôi qui tụ cả ba miền đất nước.
Ba được “nhà nuớc khoan hồng” cho về “đoàn tụ” với gia đình từ năm tôi 12 tuổi, nhưng vì ba má không hợp nhau, nên ba về sống với bên nội. Bà ngoại mất đã lâu. Má con tôi dọn ra Thủ Đức ở cho gần trường anh hai đi học, vì má rất lo lắng hồi hộp mỗi ngày anh đạp xe mười mấy cây số đi về, trên con đường tỉnh lộ xe ben chở đất đá chạy bạt mạng, cán người như ngóe.
Dù còn rất nghèo, không biết bằng cách nào má xoay sở mua được căn nhà xuống cấp trong cư xá Kiến Thiết và sang lại một quán cafê nhỏ trong sân nhà người ta cho tôi bán. Ngày ấy, có trào lưu cafê sân vuờn và nghe nhạc nước ngoài, người ta không còn thích ngồi uống cafê trong nhà với bốn bức tường bí bức, quạt quay vù vù, nghe nhạc “sến” rên rỉ.
Quán tôi gọi là “sân vuờn” cho… sang, chứ thật ra chỉ là mảnh sân nhỏ, để vài chậu dừa kiểng, vài chậu thiết mộc lan rải rác. “ Dàn âm thanh” là cái mini cat sét giấu trong quầy, phát ra loa nghe rồ rồ rẹt rẹt, vì thế tôi không cho ai đứng gần quầy, sợ họ phát giác ra “dàn máy hiện đại” của tôi thì xấu hổ chết người.
Người ta bỏ tiền ra đi uống cafê sân vuờn là để hưởng không khí trong lành, gió mát thiên nhiên, thưởng thức âm nhạc với dàn hifi tuyệt hảo, nhạc của những boyband, girlband nổi tiếng thế giới. Quán tôi chỉ có vài ba cuốn băng, (vì anh em tôi không ai rành nhạc nước ngoài), cộng với âm thanh máy phát ra… rẹt rẹt, khách đổi tên quán Thiên Lý của tôi thành quán… Bi Di, vì chỉ có băng BGs là hay nhất và tôi mở cả ngày đến nhão nhoẹt.
Khi mùa mưa tới, những tấm bạt che ở trên mái tạm lủng lỗ, dột. Nước mưa rơi lõm bõm xuống ly. Mưa gió hắt tứ tung. Khách phải mặc… áo mưa ngồi uống Cafe. Tôi thủ mấy cái áo để trong quầy, khách nào quên mang, tôi phát cho một cái, mặc vào ngồi… “nước lụt” trên ghế, uống cafê, nghe nhạc rột rẹt cùng với tiếng giọt mưa rơi lộp bộp trên tấm bạt, lạnh run. Khách vẫn vui vẻ, dù đôi khi có phàn nàn ca cẩm đôi chút.
Có một người khách đặc biệt, anh ngồi lặng lẽ ở một góc khuất, uống ly cafê đen đặc quánh, mỗi ngày…
Anh đẹp trai như diễn viên điện ảnh, khuôn mặt hiền lành trầm lặng, nụ cười sẵn sàng nở trên môi khi nói chuyện. Nhưng anh rất it nói, không phàn nàn khi nghe nhạc dở, không mặc áo mưa khi trời mưa, khiến lòng tôi phải áy náy. Tôi động tâm thỉnh thoảng kín đáo nhìn trộm anh, thì bắt gặp đôi mắt ấy cũng đang nhìn lại, lần nào cũng vậy!…
Tôi thấy lòng mình rộn lên một cảm giác là lạ, không biết gọi tên, nhưng vô tư không nghĩ đến nhiều. Vả lại, tôi còn đang “ bận rộn” sàng lọc, phân tích, đối phó với bao nhiêu lờì bóng gió xa xôi của nhiều người, vừa là bạn anh hai, vừa là khách quen trong quán
Thì ra người “khách đặc biệt” kia cũng là ban chung lớp với anh hai, từ lâu anh có nghe lời đồn “em thằng Thái đẹp lắm”, nhưng vì tính hiền lành nhút nhát, anh không muốn bon chen. Cho đến một lần, anh Thái rủ anh ra quán uống cafê. Từ đó anh trở thành “khách đặc biệt”, mỗi ngày đến quán… ngồi đồng.
Anh tiến lại gần quầy, chỗ tôi ngồi, nói nhỏ:
-Anh muốn nói chuyện với Châu một chút.
Phản ứng tự nhiên như mọi khi, tôi “xua đuổi”.
-Anh đừng đứng đây, má Châu la.
Anh nài nỉ.
-Vậy thì chỗ khác, Châu cho anh một cái hẹn đi, lúc nào Châu rảnh?
-Châu chỉ rảnh buổi trưa, khi vắng khách, có thể nhờ anh Thái coi quán giùm.
Anh vui mừng hấp tấp nói:
-Vậy thì trưa mai, lúc 1 giờ, anh chờ Châu ở…
Tôi ừ đại cho anh khỏi đứng lại nói thêm, sợ má ra bất chợt trông thấy lại bị rầy.
Trưa hôm sau, tôi… quên béng mất cuộc hẹn “tình đầu”, vô tư ngồi nhiều chuyện với nhỏ bạn. Khoảng 3 giờ, bạn thân của anh là anh Tánh hớt hơ hớt hải chạy đến báo tin:
-Châu, sao em hẹn với thằng Chương mà không đến? Nó đứng chờ em say nắng… xiủ rồi, mới tỉnh lại. Em đi gặp nó chút.
Tôi áy náy quá, vội vàng theo anh Tánh đến gặp anh. Mặt mày anh xanh mét như vừa trải qua một cơn bịnh nặng. Anh hẹn tôi ở một quán cafê khác, nhưng đứng ngoài đường chờ vì sợ trong quán toàn thanh niên, tôi ngại. Nắng giữa trưa tháng hạ thiêu đốt cơ thể, nhưng anh kiên nhẫn đứng chờ cho đến khi đổ gục. Sau chuyện này, chúng tôi thân nhau hơn.
Sắp đến 2/9 là ngày lễ “độc lập” của nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN”, anh muốn rủ tôi đi chơi nên đến nhà xin phép má. Nhà tôi không có sofa cho khách ngồi, chỉ có mấy chiếc ghế đẩu, anh không dám ngồi ngang hàng với má nên xếp bằng ngồi dưới đất. Má tôi cao giọng nói mát mẻ, kiểu chua chát cuả người Bắc.
-Nhà tôi nghèo, con tôi còn phải buôn bán phụ với gia đình, đâu có sung sướng nhàn rỗi như các anh các chị nhà giàu, đi chơi lễ chơi lạt, thôi anh để nó yên, đừng rủ rê nó chơi bời nữa (người bắc nói “chơi bời” là đi chơi).
Má nói nhiều lắm, toàn giọng mỉa mai chua chát. Anh ngồi im bất động, thỉnh thoảng “dạ” nhỏ. Má thôi nói đã lâu, anh mới dám đứng dậy, nhưng lại ngã khụy xuống, vì ngồi xếp bằng quá lâu nên đôi chân bị tê cứng.
Tôi bất nhẫn cho anh và thầm trách má quá khắt khe với tôi. Là con nhà nghèo, từ nhỏ đến giờ tôi chẳng được đi đâu chơi. Nơi xa nhất và vui thú nhất là nhà nội, không phải vì bên nội thương yêu qúi hóa chúng tôi mà vì nhà nội là nơi duy nhất để đến và có nhiều bánh trái mà ở nhà không có, nhưng bây giờ chúng tôi không thích về nội nữa, vì nhận biết được sự ghẻ lạnh nơi đó.
Tôi đã làm lụng miệt mài, phụ giúp má kiếm tiền từ khi còn rất nhỏ, chưa bao giờ được thụ hưởng niềm vui từ bên ngoài. Chưa bao giờ được rong ruổi nơi những khung trời lạ, ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp, hồn nhiên vui đùa một ngày, không cần lo lắng chuyện bán buôn đắt ế…
Má thật bất công!!!… Cái đầu nông nổi khờ dại của tôi đã nghĩ như thế và đưa đến quyết định – Má khó quá, thôi về ở với ba – Nghĩ là làm, tôi giấu vài bộ quần áo, trốn má đón xe về thẳng nhà nội ở Bà Rịa. Tôi sẽ về ở với ba. Ba dễ hơn má!
Đó là sự an bài của thượng đế, khi để xảy ra xung đột giữa hai má con tôi, nhờ vậy chúng tôi mới được gặp ba lần cuối, vì từ khi dọn ra chỗ ở mới, bên nội không biết địa chỉ nhà tôi. Khi về đến, mới hay ba đã nhập viện và vừa ở phòng mổ ra. Ba có vẻ tỉnh táo, thấy tôi, ba mừng rỡ rưng rưng nước mắt, nắm chặt lấy tay tôi dặn dò, nghe như lời trăn trối!
– Cả đời ba có lỗi với má con, các con hãy hiếu thảo với má, bù đắp thay cho ba!
Tôi cuống quýt nhắn tin về. Khi má đến nơi thì ba đang hấp hối, không nói được gì nữa, chỉ khẽ nhúc nhích mấy ngón tay. Ba biết có má hiện diện bên cạnh, nhưng thân xác đã đóng băng, khô lạnh, từ từ chìm sâu vào giấc hôn mê cuối cùng.
Hỡi ôi!!! Tay nghề cuả các bác sĩ “giải phóng” quá tệ, vết mổ bị nhiễm trùng dẫn đến tử vong. Ba tôi mất đúng vào ngày rằm tháng 8, tết Trung Thu.
Ngày đưa ba đến nơi an nghỉ cuối cùng, mưa sụt sùi buồn thảm. Tôi thuơng ba quặn lòng. Tuy ba không gần gũi, không hy sinh lao nhọc để nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng tôi, không thắm thiết tình phụ tử. Nhưng dòng máu đang chảy trong huyết quản chúng tôi là của ba, anh em tôi có mặt trên chốn nhân gian này cũng là nhờ ba. Xảy ra việc tôi giận má về đây mới kịp nghe được một lời trăn trối và má con tôi có thể làm tang lễ tiễn ba chặng cuối cùng, nếu không thì chắc ba cô đơn lạnh lẽo lắm. Dù ba đã có người vợ sau và đứa em cùng cha. Nhưng họ đâu có thể khỏa lấp được khoảng trống của chúng tôi.
Trong lúc tôi đớn đau suy sụp, bước thấp bước cao trên đường ruộng dẫn ra huyệt mộ, khóc ngất từng cơn, Chương vẫn ở sát một bên, nắm chặt tay tôi chia xẻ, diù đỡ mỗi khi tôi sắp ngã, lo âu cuống quýt khi tôi ngất xiủ, tha thiết vỗ về an ủi cho tôi nguôi. Tình anh trao cho tôi sâu vời vợi, mêng mang êm ả như mặt hồ lộng bóng trăng thu. Anh trầm lặng ít nói, không biết dùng từ ngữ để biểu đạt tâm tư, nếu không xảy ra biến cố trọng đại này, làm sao tôi hiểu được tình anh.
Khi biết chúng tôi yêu nhau, Quế Anh buồn thiu, tâm sự với anh Thái.
-Tao …thương Châu từ dạo mới chơi với mày mà không dám nói, bây giờ muộn màng rồi, hai thằng kia (Giang và Phú) chửi quá trời, tụi nó thấy tao… nhát nên nhường đường cho, nếu không đâu tới phiên thằng Chương, rốt cuộc tao… hỏng bét.
Anh Thái an ủi.
-Tại duyên số thôi, mà cũng tại …mày, không dám nói với nó sao không kêu tao nói giùm, thằng Chương lù đù mà vác cái lu chạy, tao cũng không dè.
Quế Anh ngập ngừng.
-Không phải tao… cầu cho họ… tan vỡ, nhưng ngày nào Châu chưa đám cưới, tao …vẫn chờ.
Bạn anh Thái ai cũng dễ mến. Người dí dỏm hài hước, người lanh lợi hoạt bát, riêng Quế Anh rất hiền, gần gũi thân thiết với chúng tôi nhất, tôi mến anh, coi anh như anh Thái, nên rất hồn nhiên vô tư. Nếu anh bày tỏ tình cảm, tôi không biết cảm giác của mình ra sao nữa!
Mấy mùa thu trôi qua. Nói cho lãng mạn, chứ ở miền nam chỉ có hai mùa mưa nắng. Mùa thu là mùa mưa. Không có lá vàng rơi. Không có con nai vàng nào ngơ ngác đạp trên lá khô xào xạc cả. Mùa chỉ có mưa sụt sùi, lê thê, chèm bẹp. Chương trở nên thân thiết trong gia đình tôi. Má thấy Chương hiền lành lễ phép nên cũng chấp nhận. Người thích thú nhất là thằng em miền… Trung, mỗì lần anh đến nó rất mừng, vì được mượn chiếc môtô phân khối lớn chạy rong trong xóm, nó mê xe như người ta mê… thuốc lào… Chương cũng muốn nó đi càng lâu càng tốt, cả hai đều có lợi.
Gần tết năm đó, Chương đưa tôi về giới thiệu với gia đình. Nhà Chương giàu vì ba Chương là dược sĩ, có nhiều tiệm thuốc tây. Má Chương dù ở trong nhà vẫn trang điểm cầu kỳ, đôi mắt xếch tô đậm, nhìn rất dữ. Ban đầu bà vồn vã tiếp đón tôi niềm nở. Sau khi hỏi về gia cảnh, tôi thật tình kể. Biết tôi là con nhà nghèo, chỉ mới học hết cấp ba, bà liền thay đổi hẳn thái độ, lạnh nhạt như muốn tiễn tôi về ngay.
Ra về với nỗi buồn tủi ngập lòng. Sao mẹ Chương lại coi trong sự giàu nghèo đến thế. Có bao nhiêu chàng trai giàu có đang theo đuổi tôi, nhưng tôi yêu Chương vì mối chân tình tha thiết của anh. Ở bên anh, tôi cảm nhận được sự êm ả bình yên. Tình yêu là cảm xúc bất chợt, nhưng dằng dặc nỗi chắt chiu mơ ước.
Tuy tôi chỉ học đến cấp ba, nhưng đó là sự cố gắng phi thường của má, sự nỗ lực không mệt mỏi của bản thân và có những điều tôi học được ở trường đời, không hề có trong giáo trình trường học, vậy không tốt sao!?
Tôi ngậm ngùi nói lời chia tay với Chương, anh buồn rũ như tàu lá héo, nắm chặt tay tôi rưng rưng.
-Em ráng chờ thêm một thời gian, để anh thuyết phục mẹ.
Không biết Chương thuyết phục mẹ bằng cách nào? Riêng tôi, tôi không đủ tự tin để làm dâu một bà “mẹ chồng” kỳ thị giai cấp như thế.

Anh vẫn ngồi lặng lẽ ở góc quán. Giọt mưa rơi lộp bộp xuống bàn, vào ly cafê, tan loãng, tung tóe như những hướng đời phân chia muôn ngả.
Anh tiến về phía tôi, đưa một tờ giấy gấp tư, nói nhỏ.
-Anh về!
Tôi ái ngại.
-Còn mưa mà, anh có đem áo mưa không?
-Anh quên rồi! Không sao đâu.
Nhìn bóng anh khuất sau làn mưa trắng, tôi nghe lòng dâng lên nỗi xót xa bùi ngùi. Có làn khói nào vương vào khóe mắt, cay. Mở tờ giấy anh đưa ra coi, chỉ ngắn ngủi mấy câu …thơ:
Đếm bước trở về theo lối chân quen / Giọt mưa ngâu điệu buồn rơi lặng lẽ / Ánh đèn vàng bên đường soi bóng lẻ / Đêm ngủ rồi anh vẫn thức vì em / Em hỡi em, xin đừng nói gì thêm / lời ly biệt cho tình đầu tan vỡ….
Tôi ngẩn ngơ mất vài giây: – Trời!… cái “ông” này, bình thường “nói không ra răng” mà trở thành thi sĩ từ bao giờ? “Ổng” đi môtô mà làm như đi bộ vậy.
Dù có… tưởng tượng trong thơ một chút, thì vẫn là lời phát ra từ trái tim. Đi xe, nhưng chiếc bóng anh lầm lũi cô đơn. Tôi buồn đến nao lòng.
***
Anh đến nhà, dựng vội chiếc xe rồi lao vào tôi như cơn lốc, vui mừng rối rít.
-Em, má chiụ rồi. Chủ nhật này anh đưa em qua nhà cho má nói chuyện.
Chủ nhật. Tôi hồi hộp đi theo anh, không hình dung được thái độ của mẹ anh ra sao. Bằng cách nào anh đã thuyết phục được mẹ??? Một người rất quan trong chuyện môn đăng hộ đối và không thích tôi ra mặt. Sau khi đợi tôi khép nép ngồi xuống ghế, bà vô đề ngay:
-Tôi nói thế này, cháu suy nghĩ rồi về bàn với mẹ xong trả lời tôi. Cháu nói nhà cháu đơn chiếc, không có bà con thân thuộc, vậy thì kiếm vài người hàng xóm nào đó cho đủ chục người, bên này hai mẹ con tôi qua. Tôi sẽ đưa cháu mấy trăm ngàn để làm mâm cơm cho xong lễ hỏi, vậy nhé.
Chương tái mặt nhìn mẹ. Tôi lặng người chết điếng, sao bà có thể thốt ra được những lời khinh man quá đáng như vậy. Đây là một cách sỉ nhục cho tôi nản, không phải bà thật lòng muốn tổ chức một đám hỏi theo nghi thức thông thường. Sau mấy giây trấn tĩnh, tôi ngồi thẳng người, nhìn bà, dõng dạc nói:
-Thưa bác, con trả lời ngay, không để bác chờ lâu. Nói về đám hỏi, nhà con là đàng gái, cho dù một bàn hay mười bàn, cho dù nghèo, má con cũng xoay xở lo được, không phải dùng tiền của bác. Phía đàng trai, con thấy gia đình bác rất đông, chưa kể họ hàng gần xa, sao lại chỉ có bác và anh Chương qua nhà con, không giống đám hỏi….
Tôi chưa nói hết câu, bà ngắt ngang:
-Nhà tôi đông, nhưng mọi người bận buôn bán làm ăn, không đi được.
-Nếu việc làm ăn nhà bác quan trọng hơn nghi thức cưới hỏi, thì con cũng không cần đám cưới đám hỏi với anh Chương nữa. Con không phải gái hư, con chỉ nghèo, nhưng nghèo không là cái tội, con hãnh diện khi sống trong mái gia đình nghèo của con, bác không cần sỉ nhục gia đình con bằng cách đó.
Để mặc bà há hốc miệng tức giận, tôi quay sang Chương.
-Anh đưa em về.
Ra đến sân, tôi còn nghe tiếng bà tru tréo trong nhà.
-Mày thấy chưa Chương? Chưa làm dâu mà nó đã trả treo như thế, mai mốt về đây làm sao tao chiụ được?
Trên đường về, anh khẽ trách:
-Sao em không nhịn má một chút, để từ từ anh tính.
Tôi chua chát:
-Anh tính được gì, má anh chiụ cưới hỏi em đàng hoàng sao? Hay cứ dùng cách kẻ cả khinh mạn đó đối xử với gia đình em. Em có thể vì anh nhịn nhục, nhưng má em không đáng phải chiụ nhục như vậy. Má em phải ngẩng cao đầu hãnh diện với mọi người, cho bõ công lao nhọc cực khổ nuôi dạy tụi em. Mình không có duyên vợ chồng, em không thể làm dâu má anh được đâu!.
Anh im lặng, tôi chỉ nghe tiếng thở dài đắng lòng.
Đã bao năm trôi qua. Giòng đời đưa tôi dạt đến phương này. Ở đây, mùa thu lá vàng rực rỡ rơi đầy trên thảm cỏ, xào xạc dưới chân. Tôi vẫn nhớ mùa thu chốn cũ, nơi có những cơn mưa dai dẳng sụt sùi. Giọt mưa rơi vào ly cafê đắng, tan loãng, phôi pha…
Về sau, vợ Chương cũng có tên Châu giống tôi. Nhưng không biết có thay thế được tôi trong lòng anh? Và hình bóng anh tôi còn cất giữ trong một góc trái tim. Tình đầu đâu dễ phai phôi.
Quế Anh mới lấy vợ sau ngày tôi rời VN. Bạn bè thân thiết cũ của anh Thái tản mác mỗi người một phương, xa xôi. Những ngày tháng cũ vui vẻ hồn nhiên lùi sâu vào dĩ vãng, làm sao tìm lại được…

[/read]

Ngày Xưa Thân Ái

Chuyến này đi Ba mê Thuột tôi mang thằng con lớn cùng đi. Mùa hè, mỗi lần đi buôn tôi mang theo một đứa, để má bớt nhọc nhằn chăn dắt lũ trẻ đang tuổi nghịch phá, cũng để bớt một miệng ăn ở nhà. Vả lại đem theo con nít vừa dễ mua vé, vừa có thêm hai bắp chân và cái bụng mặc áo giáp cột Café.
Từ ngày gặp Lan, mỗi chuyến lên tôi được Lan đưa về nhà trong thôn Kim Châu. Chuyến nào không đi cùng bạn, tôi vẫn có chỗ để ung dung đến, không phải vạ vật bến xe. Sau hai ngày đường mệt mỏi, ngồi bó gối như con heo bị trói, về được đến nhà thật hạnh phúc. Bữa cơm nóng dọn ra, cả gia đình mười mấy người thêm hai mẹ con tôi, chỉ có một diã rau muống luộc. Con tôi còn nhỏ không ý tứ, nó không biết phải ăn dè, mỗi lần nên gắp một cọng mà thôi, cứ thế “pháo kích” vào diã rau tận tình. Tôi ngại chín người.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Hôm qua vừa đến chân đèo Phượng Hoàng thì xe “ban”. Những chiếc xe già nua cũ kỹ từ mấy chục năm trước, đến “trào” sau này không được tu bổ, thay thế, nên việc nằm đường chẳng có gì lạ. Mấy nắm cơm tôi gói từ nhà đem theo ăn đường đã hết, không có hàng quán dưới chân đèo hẻo lánh. Hành khách túa vào những nhà trong xóm ngồi nhờ nghỉ chân. Người có tiền mua gà vườn, nhờ chủ nhà luộc lên chấm muối tiêu ăn không cũng đủ no. Tôi không dám ăn kiểu “quí tộc” vậy! Hai mẹ con ngồi nhờ ngoài đầu hè, thỉnh thoảng liếc nhìn vào trong, gia đình người ta đang ăn, bữa cơm chỉ với điã rau muống luộc chấm nước mắm giã ớt tỏi đặc sệt. Trong cơn đói thắt ruột, bụng kêu rồn rột, tôi không kìm được ánh mắt nhìn theo tay họ nhịp nhàng gắp cọng rau xanh mướt, chấm vào chén nước mắm đỏ thắm màu ớt. Nước miếng ứa trong miệng…Thèm chén cơm với cọng rau kia như Tôn Ngộ Không thèm trái đào tiên! Đối với tôi bây giờ, miếng ngon không phải là nem là chả, là thịt kho tàu mềm rục bóng mượt. Cũng không phải là phở gà Hiền Vương hay bún bò giò heo Huế chợ Đông Ba, dù những thứ này tôi chưa được “gặp” chúng từ sau ngày “giải phóng”. Cao lương mỹ vị giờ đây chỉ là chén cơm với rau muống luộc! Thằng con tôi cũng nuốt nước miếng ừng ực. Giờ về đây có diã rau đến từ giấc mơ hôm qua, nó hưởng ứng nhiệt tình.
Ngày còn nhỏ tôi thường bị bạn bè trêu chọc, gọi là Bắc kỳ rau muống. Cái “danh hiệu” này nghe thật khó chịu, nhiều lúc tôi nổi giận sung thiên đánh nhau cả với con trai. Con nít sĩ diện hão, cho rằng “Bắc kỳ” của mình bị chê là nghèo đói, suốt đời chỉ ăn rau muống! Sau này rau muống có mặt thường xuyên trong mỗi bữa cơm gia đình Nam kỳ, thậm chí cứu đói vào những tháng năm Việt Nam “tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghiã xã hội”. Và thực tế nhất là lúc này đây.
Cơm nước no nê xong, còn nồi bắp mới luộc nóng hổi. Tới mùa bắp non, mỗi khi muốn ăn, người trong nhà “gợi ý” thì Cúc lặn lội ra rẫy xa gần chục cây số, chặt một bao đem về. Trái bắp nếp to tròn hột đều bóng loáng, ngọt lừ dẻo quẹo, dù no đến đâu hoặc mắt đã dính híp, cũng không thể từ chối. No dồn đói ép. Rồi vừa ăn vừa…ngủ.
Trong nhà Cúc là người xốc vác, chịu khó làm rẫy nhất. Nàng lại cao ráo thanh mảnh, khác với Lan, Phượng, Thuỷ, Trang, hết thảy ngắn như tai nấm, tròn vo tròn ủng. Lan có nghề may, nhưng thời buổi cơm không đủ no lấy đâu ra mặc mà may? Lan thất nghiệp đi buôn.
Nghề “buôn lậu” phải nhanh nhẹn xốc vác tinh khôn thì mới “được ăn cả”, chậm thì “ngã về không”. Lan cầm tinh Tề Thiên nhưng chẳng giống cốt khỉ nhanh nhẹn. Nàng chậm chạp rị mọ như con ốc sên, bởi vậy thường “ngã” dúi dụi, kéo cả tôi cùng chỏng gọng. Buôn bán kiểu gì!? Hai đứa chỉ còn mỗi bộ đồ mặc ra đường. Tiếng là đồ “ăn nói”, nhưng áo vá nhìn hệt bà Cả đọi, quần đen bạc màu như model của dân Hip-Hop. Có lần hai đứa bàn may một cái áo, thay phiên nhau mặc chung, thay đổi với chiếc áo cũ mòn tơi từng sớ vải. Tôi cao, Lan thấp. Khổ thay! Lan quên mất nhiệm vụ cái áo có bổn phận phục vụ hai người thước tấc khác nhau. Lan may theo số đo của nàng. Khi tôi hân hoan xỏ thử áo mới thì… Hỡi ôi! áo ngắn hở rốn, khoe ra cái bụng tròn vo rất là …gợi cảm. Áo này mặc với chiếc quần đen đổi màu như lá bàng mùa thu cũ, thì mấy anh thuế vụ chết đứ, bởi…choáng!
Đã vậy, mợ còn giao Lan nhiệm vụ tha lôi con út Trang đi buôn cùng, để mợ ở nhà rảnh tay làm công việc. Con nhỏ này phải gọi là út nhè mới đúng! Nó như đứa con thơ của Lan, sểnh tí là mặt nhão ra, mỏ dài thượt, lè nhè sốt ruột, chị Lan ơi…ờ…i, chị Lan đâu rồi…ồ…i? mỗi lần Lan đi giải quyết chuyện riêng bí mật.
Phượng tháo vát lanh lợi nhưng phải tội lười làm rẫy, sợ đen da cháy tóc. Nàng chỉ thích đội thúng đi bán thịt heo chui. Lâu lâu ba Lan mổ “chui” một con heo đem “phân phối”. Từ ngày xhcn tràn vào miền Nam, dân chúng buộc phải ăn chay trường, tránh tội sát sinh. Khổ chung cả nước chứ khổ riêng ai? Nhất là mang thân kinh tế mới ở miền rừng núi cao nguyên này! Nên có “sát” thì để nhà nước sát. Thỉnh thoảng hợp tác xã mổ một con heo bán tiêu chuẩn, chả bõ dính kẽ răng dân chúng. Bởi vậy nghề bán thịt heo “chui” nhà Lan cũng khấm khá, chỉ là hơi hồi hộp con tim. Khi ba dọn sạch chỗ mổ heo, mợ và Phượng cắp thúng không trở về thì “con tim đã vui trở lại” như bài hát của nhạc sĩ Đức Huy. Ba mợ lo vì tính hay lo vậy thôi! Trong thôn toàn người Bắc “ri cư” phe ta, không ai có hứng thú hở chút “báo cáo” hay bị ép phải đi tố “địa chủ” …mổ heo lậu với xã, như thời cải cách ruộng đất ngoài Bắc ngày xưa. Hơn nữa có người dám mổ heo bán thì bà con mới có chút thịt thà dinh dưỡng, bù đắp cho sức lực tiêu hao bởi những ngày “lao động vinh quang” vất vả. Hôm nào tôi lên trúng ngày nhà Lan mổ heo, được ăn bát cháo lòng có miếng dồi, miếng gan, miếng phèo phổi…Ôi sao mà ngon thế! Tô cháo có tí mùi thịt động vật sau nhiều ngày bóp bụng ăn chay toàn là rau cỏ, gây phấn chấn tinh thần thanh bạch của tôi, khiến đôi mắt lờ đờ mỏi mệt đường xa phút giây sáng rỡ, như yêu tinh được ăn thịt Tam Tạng! Dù đây mới chỉ là nếm chút thịt họ Trư.
Đi làm rẫy Cúc khoác thêm áo lính lụng thụng, đầu choàng cái khăn rằn vắt chéo ngang cổ trước khi đội nón, nhìn như …bà đẻ, dù nàng hơ hớ xuân thì. Phượng cũng vậy, mỗi khi ra đường đội thúng bán thịt heo, nàng “phục sức” theo mô đen thời thượng miền …Kim Châu, bởi nắng cao nguyên đốt cháy da con gái. Chị em nhà hoa…Lan, Phượng, Cúc vì thời thế buộc ở rừng ở rẫy, nhưng các nàng rất ư là nghệ sĩ, đàn giỏi hát hay. Vừa đi rẫy về, các nàng “tranh thủ” tắm trước để giành nhau cây đàn. Đêm sáng trăng. Chị Hằng to tròn lộng lẫy mỉm cười với núi rừng u tịch, bỗng nghe thanh âm réo rắt trước hiên nhà. Tiếng đàn Guitar thánh thót của Cúc, Phượng, đệm theo tiếng hát trong trẻo của Lan, có vài khán gỉa ngồi hóng cũng đủ khiến đêm “văn nghệ hội diễn” thêm phần rôm rả.
***
Thoắt qua hai mươi năm. Tôi từ giã BMT đã lâu. Xứ đó đúng là buồn … muôn thuở! Buồn vì ngủ màn trời chiếu đất ngoài bến xe, đêm mùa đông lạnh buốt không có manh áo ấm. Buồn vì trường kỳ buôn lậu, mỗi lần qua trạm lo lắng teo tóp trái tim mà túi ngày càng rỗng, nghèo xơ ruột muớp!…
Tôi vẫn giữ liên lạc với Lan, nên biết Phượng theo chồng về Saigon. Cúc cũng đi Saigon, nhưng không phải theo chồng mà…tránh chồng. Nhà Lan nhiều con gái như một vườn hoa đẹp nhiều màu sắc, nhưng mợ không cho đó là điều hãnh diện. Mợ lo con gái…ế! Có người dạm hỏi mợ gả ngay. Lần đó đám cưới một ngày hai đứa. Phượng may mắn có chồng hiền lành, chịu khó làm lụng cho vợ hưởng nhàn. Ngược lại chồng Cúc giành phần nhàn hạ, đùn đẩy công việc trụ cột gia đình cho vợ, bởi chàng là con trai một được cưng chiều, ỷ lại vào cha mẹ và mấy chị đã quen, nay có thêm vợ giỏi chàng ung dung hưởng thụ.
Nếu chỉ lười làm việc cũng không đáng nói. Chồng Cúc còn bái sư xin làm đệ tử “bác thằng bần”. Cúc đầu tắt mặt tối sớm hôm, nuôi bốn con với một chồng. Hàng ngày Cúc thồ hàng bằng xe đạp chất cao ngang tầm mắt, đạp mấy chục cây số về đến nhà khuya khoắt. Gần đến nhà phải qua một con dốc cao, Cúc xuống xe chổng mông đẩy. Xe hàng vừa nặng vừa cồng kềnh, sức phụ nữ dù khỏe đến đâu cũng không giữ được xe khỏi chao đảo, nhìn từ sau không thấy người chỉ thấy chiếc xe với khối hàng cao nghệu, uốn lượn như Dương Qúi Phi múa khúc nghê thường! Bỗng một hôm xe nhẹ hẳn, cũng không “múa” nữa. Thì ra có chàng hàng xóm giàu lòng nghĩa hiệp, tối đứng dưới chân dốc chờ Cúc về qua, đẩy giúp và đỡ phụ hàng xuống xe. Chồng nằm khểnh trong nhà xem Tivi đợi kết qủa dò số đề, thậm chí không chạy ra sân giúp vợ. Chàng hàng xóm một hôm ngân nga.
Đưa người ta không đưa qua sông, sao nghe tiếng sóng ở trong lòng…(*)
Cúc không chịu được cảnh chồng thì vô tình, hàng xóm thì đa tình. Và để lánh nạn …tình, Cúc bèn dắt bốn đứa con vào Saigòn sinh sống, sau khi nhắn nhủ với chồng một mai thiếp có xa chàng, đôi bông thiếp trả, đôi vàng…í quên, con chàng thiếp xin.
Thằng con trai lớn tôi có bằng kỹ sư. Nhưng “nhờ” lý lịch là con “nguỵ” nên chẳng thể tiến thân mà chỉ …hiến thân cho ma men! Bởi sau mỗi công trình cha con lão làng gốc “cách mạng” chia chác với nhau hết tiền, chỉ đưa nó đi nhậu an ủi. Ăn nhậu riết, huyết áp cao hơn mấy em chân dài. Vả lại có học vị nhưng không có chức tước, phải dưới quyền mấy kẻ dốt nó không chiụ được, bỏ làm về lấy vợ. Hai vợ chồng hai bằng đại học cất kỹ trong rương như cất cuốn gia phả nhiều đời. Mở quán Cafê sống qua ngày. Ở VN bây giờ, có bằng đại học mà không có tiền …tệ hay quan hệ (gốc cách mạng) thì lấy bằng cử nhân xong an nhiên về nhà làm nghề cha truyền con nối. Chẳng hạn ở xóm nhang thì chẻ tăm nhang. Ở ngoại ô thì chặt lồ ô “thiết kế” thang tre. Ở biển thì đi ghe làm ngư phủ. Ở chợ Cũ thì chạy xe ôm, vá xe đạp!…Con tôi may mắn hơn, làm chủ quán Café … tạp nhạp.
Từ Ba mê Thuột vào Cúc ở nhờ nhà em trai, mỗi sáng nấu xôi bán rong. Lời lãi không bao nhiêu nên mỗi ngày Cúc chỉ dùng riêng cho nhu cầu “ẩm thực” của mình hai ngàn, chia đều cho hai bữa là gói bún chan nước tương ăn với dưa leo. Xem ra tình hình kinh doanh…xôi có vẻ không khấm khá. Tôi bàn Cúc nấu một nồi hủ tiú ngồi trước quán Cafê của con, bán buổi sáng. Lỡ ế, ăn hủ tíu trừ cơm cũng đỡ hơn ăn xôi nóng ruột.
Cúc bằng lòng ngay, không phải vì tương lai sáng lạn “ăn hủ tiú ế đỡ nóng ruột hơn xôi ế” mà bởi ở kế nhà em trai có gã hàng xóm, gã “mết” Cúc, thường sang quấy rối tình…yêu. Nói cho ngay gã không phải người xấu, chỉ là có tí máu “sư phụ” bẩm sinh. Năm giờ sáng thấy bên nhà Cúc nổi lửa nấu xôi, gã lo trời đang còn tối Cúc sợ ma bèn gõ cửa xin sang ngồi chung bếp, hát bài “tâm sự đời tôi” cho đỡ buồn. Thấy Cúc nói chuyện vui vẻ gã tưởng bở giở trò giỡn mặt, liền bị hai cái tát xiếc nổ đom đóm mắt, nhưng xem chừng chưa tởn thần ôn! Nên Cúc nghe lời tôi bàn, đổi mặt hàng “kinh doanh”. Vả lại thằng con trai lớn, ngày xưa tôi từng đem theo đi Ba mê thuột, “chia xẻ” dĩa rau muống nhà Cúc, hai cô cháu có “nhịp cầu tri âm” từ xưa, cũng thân gần với nhau.
Mỗi sáng Cúc nấu nồi hủ tíu bán điểm tâm. Nồi nước lèo của Cúc rất đa năng, cho ra “thực đơn” nhiều món, nào là hủ tiú mì, bún mọc, bánh canh… Chỉ khác chất liệu tên món, nước lèo dùng chung. Mấy ngày đầu có hai mẹ con Lan ra giúp. Mẹ con nhà ốc sên không quen dậy sớm, mắt mũi kèm nhèm tay chân lóng ngóng, chẳng đỡ đần được bao nhiêu mà vướng lối! Lan càng ngày càng chậm. Mười mấy năm trước sống chung với chồng dưới quê Châu Pha. Ngoài công việc thợ may, sáng Lan “tranh thủ” dậy sớm bán phở. “Cửa hàng ăn uống” của Lan ngoài nồi nước lèo nhỏ hơn nồi canh của gia đình ngoài Ban Mê Thuột, còn có dĩa thịt bò tái khoảng…hai lạng, bởi người quê chỉ quen ăn cơm nguội chắc bụng đi rẫy, dùng điểm tâm phở sợ …đau ruột. Gã chồng Lan thuộc loại tham ăn lười làm, ngủ đến sáng bảnh mắt, ra hàng tự phục vụ một tô đặc biệt với lạng rưỡi thịt. Gã “nhân đạo” chừa lại vài lát mỏng để Lan ngồi bán cho… vui, bõ công thức khuya dậy sớm!…
Cúc được bốn đứa con ngoan. Con gái lớn đi tu. Ba đứa em ngoài giờ đi học thay phiên nhau giúp mẹ bưng bê, rửa tô lau chén. Tôi cũng có việc. Trong “thực đơn” có món bún mọc. Tôi dành phần bào rau muống, không cho Cúc mua rau bào sẵn ở chợ, bởi tận mắt thấy họ để bệt rau dưới sàn đất dơ bẩn, bào soèn soẹt rồi nhúng vào thau nước vớt ra bán, đem về có rửa lại cũng không thể sạch được. Tôi cầu kỳ nhặt rau non, bào nhiễn, rửa thật kỹ kẻo khách ăn đau bụng, tội. Thế là tôi ôm việc vào người. Nhưng vui!
Mỗi sáng tôi lật đật dậy sớm, hoàn thành “trách nhiệm”…rau, đem ra hàng. Về đi chợ, nấu nướng thật nhanh để đó cho con, rồi chạy ra ngồi tán gẫu. Giờ đó Cúc bán đã vãn khách. Chị em nói chuyện thơ văn âm nhạc, tương đắc, cười đùa vui vẻ…
Do công việc phải tiếp xúc nhiều với nước, mười đầu ngón tay Cúc bị lở loét, đau nhức tới từng đốt xương. Bác sĩ phán, nếu không kiêng cữ nước có ngày phải …tháo khớp. Ôi!…Dù chưa bị dao kéo động vào, Cúc đau khổ hệt như mấy ngón tay đã rụng.
Rồi lại tới ngày tôi lên đường xuất cảnh. Thế là chia ly. Trước khi tôi đi, Cúc “chỉ thị” con trai tự tay kẻ nốt mấy bản nhạc xưa cũ để tôi ôm qua xứ xa tập đờn từng tưng đỡ buồn…
***
Những lúc rảnh rỗi tôi gọi về Việt Nam. Mỗi khi nghe tiếng tôi Cúc reo mừng rỡ. Tiếng reo giòn như tiếng pháo ngày tết, rồi líu riú huyên thuyên. Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm xưa. Chuyện qua đã lâu rồi mà vẫn như mới trong tâm tư hoài niệm. Người ta nói -Tuổi trẻ nghĩ về tương lai. Người gìa nhớ về quá khứ – Tuy Cúc và tôi chưa…già, nhưng quá khứ đầy ắp kỷ niệm không thể quên. Cúc hồi tưởng:
– Em nhớ, cứ đến khoảng hơn 9 giờ là em bắt đầu ngóng. Em căng mắt nhìn về phía cuối đường mong thấy bóng chị đi đến. Rồi những ngày chị bận rộn qua đất mới lo làm nhà trồng cây, bán xong ngồi một mình, lủi thủi dọn hàng em buồn quá…Mấy đứa nhỏ cũng buồn! Chị đi rồi em về Ban Mê Thuột ở với ba mợ, ngày ấy tưởng phải giống …Hàn Mặc Tử, sợ quá!
Tôi trêu:
-Giống đã sao? Thường thì có tật có tài, nếu ngày đó Cúc bị vậy biết đâu ngày nay tai tiếng….í quên nổi tiếng, con chị này chẳng có cơ hội tiếp chuyện đâu…
Cúc phụ họa:
-Ơ, đúng rồi, biết đâu em nổi tiếng trở thành …Hàn Mặc Nữ…hì hì.
Nhớ đến đám trẻ, tôi hỏi thăm:
-Con bé đi tu của Cúc khấn trọn đời chưa?
Nghe nhắc đến con, cô em phấn khích:
-Rồi chị…Cháu khấn được mấy năm rồi.
Tôi lại trêu:
-Á à…vậy thì chị phải gọi Cúc là gì cho đúng nhỉ? Mẹ của linh mục thì giáo dân gọi bà Cố. Mẹ dì phước thì ta gọi bà…Cụ vậy nhé…haha.
“Cụ” cười sằng sặc, rên:
-Giời ạ!…Em lậy chị, chị gọi vậy thì em … già sắp chết rồi hở…hic!
-Còn bé Bi, nó có chí hướng đi tu với chị nó không?
-Chúa tôi!…Nó mà đi tu thì vãi tội trong nhà dòng à? Chị ta mô đen lắm, điệu mát trời ông địa, làm sao tu được…
-Vậy còn ba mợ khỏe không? Các ngài vẫn ở BMT hở? Sao không vào đây ở với mấy chị em cho vui? Xa xôi cách trở, đi lại thăm nhau cũng khó khăn…
-Vào đây thì làm gì có cây cho cụ ông…trèo? Hằng ngày cụ vẫn lùng sục ngoài vườn làm hết việc nọ đến việc kia. Hôm trước ngã cái oạch từ trên cây xuống, bò vào nhà đau mấy tháng. Hết đau cụ lại ra cây trèo! Vả lại bây giờ từ BMT vào Sài gon đi xe máy lạnh có tám tiếng, nhanh và tiện lợi lắm. Không phải như ngày trước chị đi hai ngày đâu…
-Còn cụ bà thì sao?
Cúc cười giòn, nói như sắp nhai vào lưỡi:
-Há…há…mợ em bây giờ là fan …cuồng của chị đấy! Rảnh rỗi chút là, Cúc ơi đọc truyện chị Nga … Truyện đọc em còn diễn cảm, bởi vậy đọc đi đọc lại mợ vẫn thích mê…ha ha…
Tiếng cười lây nhanh.
-Vậy thì đâu phải truyện của chị hay! Hấp dẫn là nhờ em gái có tài diễn xuất, thuyết minh đó chớ.
Nhớ đến Lan, tôi băn khoăn:
-Còn Lan bây giờ ra sao? Làm ăn khá không?
Tiếng cười chợt ngưng, như cái “đài” đang mở bị nhấn nút tắt:
-Chị Lan…Chị Lan vẫn vậy. “Sự nghiệp” vẫn bò theo vận tốc của con rùa, chẳng khá gì hơn!
Tôi nhắn lời an ủi:
-Thôi…Nói Lan đừng buồn, rồi cũng phải có lúc sau cơn mưa, trời lại sáng chớ. Có điều mưa hơi…dai!
Mỗi người một số mệnh. Lan là chị lớn trong gia đình. Từ nhỏ đã vất vả chăm sóc các em giúp mợ, ẵm em trẹo ba sườn. Lan ẵm Cúc ra sân nhà thờ chơi, chị chơi đàng chị em chơi đàng em, em chơi chán thì bốc cứt gà …ăn!
Lan tuổi thân, cái tuổi “thầu” hết mọi gian truân trắc trở cuộc đời…
Cúc lại nói:
-Mấy chiếc áo chị để lại, giờ em vẫn còn đang mặc. Cái gì của chị em cũng quí. Em thích cả kiểu tóc của chị nữa. Hồi em còn đau tay mỗi lần gội đầu phải nhờ chị Lan giúp. Chị Lan bàn em cắt tóc ngắn giống chị, vừa dễ gội đầu vừa đẹp, vì “sọ khỉ” của em cũng tròn đầy sau ót như chị. Em đắn đo suy nghĩ mãi, xưa giờ để tóc dài cột lên nhìn đã quen mắt, nhưng chị Lan “thuốc”, cắt tóc nhìn sẽ giống chị Nga. Nghe thế em hăm hở đi cắt… Giời ôi! Cắt xong nhìn mặt như con ngố, em phải trùm khăn suốt mấy tháng. Lại sui là vào ngày tết…
Tôi đùa:
-Thì kiểu tóc của chị là vậy. Cúc nhìn mặt chị cũng …ngố nghệt ra đó thôi.
Lại rúc rích tiếng cười. Cúc khoe hôm trước mới nghĩ được mấy câu thơ ứng khẩu, nhưng tôi phải gặng hỏi khuyến khích mãi nàng mới ngượng ngùng tằng hắng mấy cái, lấy “khí thế” đọc:
Ngồi buồn lại nhớ chị Nga
Tuy rằng cách mặt không xa cách lòng
Bên kia trái đất nửa vòng
Bên này em nhớ em mong từng ngày
Em mong chị sớm về đây
Về thăm người cũ cảnh này năm xưa…
Tới đó Cúc ngập ngừng. Tôi cố nén cười giục:
-Rồi sao nữa, đọc tiếp đi.
-Ơ…ơ em…quên rồi. Nhưng mà, chị thấy em làm thơ có…được không?
Tôi sốt sắng “động viên”:
-Được… được lắm, có họ hàng với ….con cóc …hihi.
-Vậy mai mốt chị về chỉ thêm cho em với.
-Ha…ha…chị làm thơ có hơn Cúc một chút, nhưng sao giám chỉ? Vì ta cũng có họ hàng với con ễnh ương.
Ha…ha…a!
Chợt nhớ dì Ngọ… Cúc thông tin:
-Chú Ngọ đã mất! Dì vẫn khỏe, nhìn bà chẳng thấy già…còn đẹp lắm.
Tôi nhớ, có lần đi xe đạp đang thả dốc, cái nón lá bị gió thổi úp vào mặt. Xe đạp thồ miền núi không bóp thắng bằng tay, muốn ngừng phải thò chân vào bánh xe chận lại. Tôi luống cuống không kịp “phanh”, xe lao xuống dốc “rơi tự do” vào hàng rào nhà dì Ngọ! Kẽm gai cào rách bàn tay, vào bụng xoạc mấy đường. Hai thằng em con dì vội chạy ra đỡ tôi đem vào bôi thuốc, rịt vết sước đang tứa máu. Tình người thân thương…
Có dịp về Việt Nam, nhất định tôi sẽ đi BMT một chuyến, thăm lại người xưa cảnh cũ. Người còn người mất! Cảnh có đổi thay? Cảnh với người gắn bó cùng tôi thời cơ hàn khốn khó. Và cưu mang tôi lây lất một quãng đời.

(*) Hai câu trong bài
Tống Biệt Hành của tác giả Thâm Tâm.

[/read]

Giã Từ

Giã từ,
thành phố có anh,
một sớm mai chan hòa bóng nắng.
Trời lấp lánh mây bay.
Trên muôn trùng diụ vợi,
biển dưới kia xanh thẳm mêng mang.
Ôi!…biển sao biết khóc?
Sóng xô bờ từng vạt trắng rưng rưng.
Em đi rồi,
ai có nhớ nhung?
Gởi lại anh con đường,
mới diù nhau qua mà như thân quen lắm.
Thu vừa sang,
lá vội đổi màu.
Gởi lại anh biển lộng gió chiều sâu,
nắm nhẹ tay nhau run run như thuở đầu đời khờ khạo.
Gió bay tà áo,
gió cuốn trôi những hờn giận vu vơ.
Đi bên anh, em tìm lại tuổi mộng mơ,
thời con gái ngại ngần e ấp.
Gởi cho anh,
chút tình rất thật, như hải âu lưu luyến biển xanh.
Nhớ không anh?
Buổi tạ từ tưởng chừng êm ả,
không âu sầu buồn bã giọt mi phai.
Nụ hôn gió lốc,
run rẩy bờ vai,
đợt sóng ngầm dạt xô đáy biển.
Gởi lại anh khung trời âm vang kỷ niệm,
gởi lại con đường tình tự hôm qua.
Em đi rồi đôi ngã chia xa.
Hai nẻo đời mỗi người một hướng….

Mùa Thu Mưa Bay

Từ ngày anh tôi đậu đại học, khoác danh hiệu sinh viên, tôi trổ mã thành thiếu nữ 16 tuổi, căn nhà vốn êm ả trầm lặng của gia đình bỗng tấp nập khách khứa. Tất cả “khách” đều là bạn chung lớp với anh hai. Những anh mới bước vào ngưỡng cửa đại học, mang bao ước mơ hoài bão to tát, đang tập tành làm… người lớn. Các anh thích đến nhà tôi chơi vì giống như đi “dã ngoại”. Nhà tôi cách thành phố Saìgon 20km, không có vườn tược ao hồ cây trái gì cả, nhưng ai cũng thích đến. Cả lớp kháo nhau “thằng Thái có nhỏ em đẹp lắm”.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 
Tôi chỉ là cô bé lọ lem con nhà nghèo, còn nguyên nét quê mùa ngơ ngáo. Gia đình tôi sống trong một xóm đạo toàn người Bắc di cư, nên tôi nói rặt giọng “Bắc kỳ dốn” kéo dài thượt.
Có lần, má đi buôn về, mua cho quả mít, dặn tôi xẻ ra mang biếu bà cụ nhà đối diện một miếng. Quả mít thì quá nhỏ, anh em tôi lâu lắm mới được má “hào phóng “mua cho chút trái cây. Tiếc rẻ, tôi đem biếu bà miếng nhỏ sát cuống. Lúc sau, bà cầm cái vỏ mít sang tìm tôi “mắng vốn”.
-Sao mày cho “chị” miếng mít… nguyên… thơ là… thơ ế. (miếng mít toàn xơ là xơ thế)
Từ đó chúng tôi hay dùng câu: nguyên thơ là… thơ để nói đến món gì quá hẻo. Giọng Bắc của tôi cũng vậy, lúc nào cũng có chữ “ế” kéo dài đằng sau, nghe đúng “giai điệu” Bắc kỳ.
Tuy mang tiếng là “đẹp lắm” nhưng quần áo tôi cũ mèm, xốc xếch, tóc cột đuôi gà bằng sợi thun, thay cho chiếc kẹp nhiều màu lóng lánh mà tôi hằng mơ ước. Trên người tôi không có món “trang sức” nào qúi giá, tai đeo đôi bông bằng hột… nhựa, chờ mãi một đôi bông vàng 18k bà nội hứa cho từ hồi còn nhỏ xíu chưa xỏ lỗ tai đến giờ chưa thấy. Tính tôi cũng còn con nít ham chơi, rảnh một chút là chạy biến ra sân nhà thờ tụ tập chơi đùa, chẳng quan tâm đến “thời sự” sôi động trong nhà.
Trong số bạn anh Thái đến chơi, có ba anh rất thân với anh tôi là anh Quế Anh, Trường Giang và Thiên Phú. Bốn anh được bạn trong lớp phong cho danh hiệu… tứ đại công tử. “Đaị công tử” là ba anh kia thôi, chứ anh Thái tôi con nhà nghèo làm sao là “công tử” được, nhưng anh tôi lại cao ráo, đẹp trai, trắng trẻo nên có vẻ cũng xứng với danh hiệu.
Các anh siêng năng tặng quà cho em gái… út, dù chẳng có dịp gì, còn nếu là sinh nhật em thì các món qùa càng đặc biệt “nặng ký” hơn. Anh tôi hay hỏi đùa em út:
-Sao sinh nhật út mà toàn là bạn anh tặng quà vậy? (bạn út nhỏ xiú làm sao có quà)
Cuối cùng chỉ còn anh Quế Anh giữ lại truyền thống… tốt đẹp này. Sau mới biết, thì ra hai anh kia đứng lại “nhường đường” cho Quế Anh.
Một hôm, ngồi chơi chán, Quế Anh rủ anh Thái đi uống cafê, thằng em ở đâu chạy về, mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, nó cuống quýt lắp bắp:
-Anh Què… Ành chò èm đì vời.
Quế Anh ngạc nhiên sửng sốt hỏi anh Thái.
-Nó nói cái gì vậy? Sao nó bảo tao…què???
Chúng tôi lăn ra cười sặc sụa, thằng em mắc cở chạy mất, anh Thái cố nín cười giải thích.
-Nó nói mày cho nó đi với, nó nói Quế Anh chứ không phải… què.
Quế Anh vẫn thắc mắc.
-Sao nhà mày kỳ vậy? Mày người Nam, em gái mày người Bắc, em trai mày người… Trung.
Má tôi người Bắc, ba người Nam. Sau ngày “giải phóng” ba đi “học tập”, má quá khó khăn chật vật nuôi anh em tôi, nên gởi anh hai và thằng em về bên nội ở nhờ một thời gian, vì thế anh nói tiếng Nam. Còn lại, tôi và em gái ở với má và bà ngoại trong xóm rặt người Bắc nên nói tiếng Bắc là đương nhiên, nhưng không hiểu sao thằng em kế tôi lại “đột phá” thanh âm, biến thành giọng …Trung. Nhà tôi qui tụ cả ba miền đất nước.
Ba được “nhà nuớc khoan hồng” cho về “đoàn tụ” với gia đình từ năm tôi 12 tuổi, nhưng vì ba má không hợp nhau, nên ba về sống với bên nội. Bà ngoại mất đã lâu. Má con tôi dọn ra Thủ Đức ở cho gần trường anh hai đi học, vì má rất lo lắng hồi hộp mỗi ngày anh đạp xe mười mấy cây số đi về, trên con đường tỉnh lộ xe ben chở đất đá chạy bạt mạng, cán người như ngóe.
Dù còn rất nghèo, không biết bằng cách nào má xoay sở mua được căn nhà xuống cấp trong cư xá Kiến Thiết và sang lại một quán cafê nhỏ trong sân nhà người ta cho tôi bán. Ngày ấy, có trào lưu cafê sân vuờn và nghe nhạc nước ngoài, người ta không còn thích ngồi uống cafê trong nhà với bốn bức tường bí bức, quạt quay vù vù, nghe nhạc “sến” rên rỉ.
Quán tôi gọi là “sân vuờn” cho… sang, chứ thật ra chỉ là mảnh sân nhỏ, để vài chậu dừa kiểng, vài chậu thiết mộc lan rải rác. “ Dàn âm thanh” là cái mini cat sét giấu trong quầy, phát ra loa nghe rồ rồ rẹt rẹt, vì thế tôi không cho ai đứng gần quầy, sợ họ phát giác ra “dàn máy hiện đại” của tôi thì xấu hổ chết người.
Người ta bỏ tiền ra đi uống cafê sân vuờn là để hưởng không khí trong lành, gió mát thiên nhiên, thưởng thức âm nhạc với dàn hifi tuyệt hảo, nhạc của những boyband, girlband nổi tiếng thế giới. Quán tôi chỉ có vài ba cuốn băng, (vì anh em tôi không ai rành nhạc nước ngoài), cộng với âm thanh máy phát ra… rẹt rẹt, khách đổi tên quán Thiên Lý của tôi thành quán… Bi Di, vì chỉ có băng BGs là hay nhất và tôi mở cả ngày đến nhão nhoẹt.
Khi mùa mưa tới, những tấm bạt che ở trên mái tạm lủng lỗ, dột. Nước mưa rơi lõm bõm xuống ly. Mưa gió hắt tứ tung. Khách phải mặc… áo mưa ngồi uống Cafe. Tôi thủ mấy cái áo để trong quầy, khách nào quên mang, tôi phát cho một cái, mặc vào ngồi… “nước lụt” trên ghế, uống cafê, nghe nhạc rột rẹt cùng với tiếng giọt mưa rơi lộp bộp trên tấm bạt, lạnh run. Khách vẫn vui vẻ, dù đôi khi có phàn nàn ca cẩm đôi chút.

Có một người khách đặc biệt, anh ngồi lặng lẽ ở một góc khuất, uống ly cafê đen đặc quánh, mỗi ngày…
Anh đẹp trai như diễn viên điện ảnh, khuôn mặt hiền lành trầm lặng, nụ cười sẵn sàng nở trên môi khi nói chuyện. Nhưng anh rất it nói, không phàn nàn khi nghe nhạc dở, không mặc áo mưa khi trời mưa, khiến lòng tôi phải áy náy. Tôi động tâm thỉnh thoảng kín đáo nhìn trộm anh, thì bắt gặp đôi mắt ấy cũng đang nhìn lại, lần nào cũng vậy!…
Tôi thấy lòng mình rộn lên một cảm giác là lạ, không biết gọi tên, nhưng vô tư không nghĩ đến nhiều. Vả lại, tôi còn đang “ bận rộn” sàng lọc, phân tích, đối phó với bao nhiêu lờì bóng gió xa xôi của nhiều người, vừa là bạn anh hai, vừa là khách quen trong quán
Thì ra người “khách đặc biệt” kia cũng là ban chung lớp với anh hai, từ lâu anh có nghe lời đồn “em thằng Thái đẹp lắm”, nhưng vì tính hiền lành nhút nhát, anh không muốn bon chen. Cho đến một lần, anh Thái rủ anh ra quán uống cafê. Từ đó anh trở thành “khách đặc biệt”, mỗi ngày đến quán… ngồi đồng.
Anh tiến lại gần quầy, chỗ tôi ngồi, nói nhỏ:
-Anh muốn nói chuyện với Châu một chút.
Phản ứng tự nhiên như mọi khi, tôi “xua đuổi”.
-Anh đừng đứng đây, má Châu la.
Anh nài nỉ.
-Vậy thì chỗ khác, Châu cho anh một cái hẹn đi, lúc nào Châu rảnh?
-Châu chỉ rảnh buổi trưa, khi vắng khách, có thể nhờ anh Thái coi quán giùm.
Anh vui mừng hấp tấp nói:
-Vậy thì trưa mai, lúc 1 giờ, anh chờ Châu ở…
Tôi ừ đại cho anh khỏi đứng lại nói thêm, sợ má ra bất chợt trông thấy lại bị rầy.
Trưa hôm sau, tôi… quên béng mất cuộc hẹn “tình đầu”, vô tư ngồi nhiều chuyện với nhỏ bạn. Khoảng 3 giờ, bạn thân của anh là anh Tánh hớt hơ hớt hải chạy đến báo tin:
-Châu, sao em hẹn với thằng Chương mà không đến? Nó đứng chờ em say nắng… xiủ rồi, mới tỉnh lại. Em đi gặp nó chút.
Tôi áy náy quá, vội vàng theo anh Tánh đến gặp anh. Mặt mày anh xanh mét như vừa trải qua một cơn bịnh nặng. Anh hẹn tôi ở một quán cafê khác, nhưng đứng ngoài đường chờ vì sợ trong quán toàn thanh niên, tôi ngại. Nắng giữa trưa tháng hạ thiêu đốt cơ thể, nhưng anh kiên nhẫn đứng chờ cho đến khi đổ gục. Sau chuyện này, chúng tôi thân nhau hơn.

Sắp đến 2/9 là ngày lễ “độc lập” của nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN”, anh muốn rủ tôi đi chơi nên đến nhà xin phép má. Nhà tôi không có sofa cho khách ngồi, chỉ có mấy chiếc ghế đẩu, anh không dám ngồi ngang hàng với má nên xếp bằng ngồi dưới đất. Má tôi cao giọng nói mát mẻ, kiểu chua chát cuả người Bắc.
-Nhà tôi nghèo, con tôi còn phải buôn bán phụ với gia đình, đâu có sung sướng nhàn rỗi như các anh các chị nhà giàu, đi chơi lễ chơi lạt, thôi anh để nó yên, đừng rủ rê nó chơi bời nữa (người bắc nói “chơi bời” là đi chơi).
Má nói nhiều lắm, toàn giọng mỉa mai chua chát. Anh ngồi im bất động, thỉnh thoảng “dạ” nhỏ. Má thôi nói đã lâu, anh mới dám đứng dậy, nhưng lại ngã khụy xuống, vì ngồi xếp bằng quá lâu nên đôi chân bị tê cứng.
Tôi bất nhẫn cho anh và thầm trách má quá khắt khe với tôi. Là con nhà nghèo, từ nhỏ đến giờ tôi chẳng được đi đâu chơi. Nơi xa nhất và vui thú nhất là nhà nội, không phải vì bên nội thương yêu qúi hóa chúng tôi mà vì nhà nội là nơi duy nhất để đến và có nhiều bánh trái mà ở nhà không có, nhưng bây giờ chúng tôi không thích về nội nữa, vì nhận biết được sự ghẻ lạnh nơi đó.
Tôi đã làm lụng miệt mài, phụ giúp má kiếm tiền từ khi còn rất nhỏ, chưa bao giờ được thụ hưởng niềm vui từ bên ngoài. Chưa bao giờ được rong ruổi nơi những khung trời lạ, ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp, hồn nhiên vui đùa một ngày, không cần lo lắng chuyện bán buôn đắt ế…
Má thật bất công!!!… Cái đầu nông nổi khờ dại của tôi đã nghĩ như thế và đưa đến quyết định – Má khó quá, thôi về ở với ba – Nghĩ là làm, tôi giấu vài bộ quần áo, trốn má đón xe về thẳng nhà nội ở Bà Rịa. Tôi sẽ về ở với ba. Ba dễ hơn má!
Đó là sự an bài của thượng đế, khi để xảy ra xung đột giữa hai má con tôi, nhờ vậy chúng tôi mới được gặp ba lần cuối, vì từ khi dọn ra chỗ ở mới, bên nội không biết địa chỉ nhà tôi. Khi về đến, mới hay ba đã nhập viện và vừa ở phòng mổ ra. Ba có vẻ tỉnh táo, thấy tôi, ba mừng rỡ rưng rưng nước mắt, nắm chặt lấy tay tôi dặn dò, nghe như lời trăn trối!
– Cả đời ba có lỗi với má con, các con hãy hiếu thảo với má, bù đắp thay cho ba!
Tôi cuống quýt nhắn tin về. Khi má đến nơi thì ba đang hấp hối, không nói được gì nữa, chỉ khẽ nhúc nhích mấy ngón tay. Ba biết có má hiện diện bên cạnh, nhưng thân xác đã đóng băng, khô lạnh, từ từ chìm sâu vào giấc hôn mê cuối cùng.
Hỡi ôi!!! Tay nghề cuả các bác sĩ “giải phóng” quá tệ, vết mổ bị nhiễm trùng dẫn đến tử vong. Ba tôi mất đúng vào ngày rằm tháng 8, tết Trung Thu.
Ngày đưa ba đến nơi an nghỉ cuối cùng, mưa sụt sùi buồn thảm. Tôi thuơng ba quặn lòng. Tuy ba không gần gũi, không hy sinh lao nhọc để nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng tôi, không thắm thiết tình phụ tử. Nhưng dòng máu đang chảy trong huyết quản chúng tôi là của ba, anh em tôi có mặt trên chốn nhân gian này cũng là nhờ ba. Xảy ra việc tôi giận má về đây mới kịp nghe được một lời trăn trối và má con tôi có thể làm tang lễ tiễn ba chặng cuối cùng, nếu không thì chắc ba cô đơn lạnh lẽo lắm. Dù ba đã có người vợ sau và đứa em cùng cha. Nhưng họ đâu có thể khỏa lấp được khoảng trống của chúng tôi.
Trong lúc tôi đớn đau suy sụp, bước thấp bước cao trên đường ruộng dẫn ra huyệt mộ, khóc ngất từng cơn, Chương vẫn ở sát một bên, nắm chặt tay tôi chia xẻ, diù đỡ mỗi khi tôi sắp ngã, lo âu cuống quýt khi tôi ngất xiủ, tha thiết vỗ về an ủi cho tôi nguôi. Tình anh trao cho tôi sâu vời vợi, mêng mang êm ả như mặt hồ lộng bóng trăng thu. Anh trầm lặng ít nói, không biết dùng từ ngữ để biểu đạt tâm tư, nếu không xảy ra biến cố trọng đại này, làm sao tôi hiểu được tình anh.
Khi biết chúng tôi yêu nhau, Quế Anh buồn thiu, tâm sự với anh Thái.
-Tao …thương Châu từ dạo mới chơi với mày mà không dám nói, bây giờ muộn màng rồi, hai thằng kia (Giang và Phú) chửi quá trời, tụi nó thấy tao… nhát nên nhường đường cho, nếu không đâu tới phiên thằng Chương, rốt cuộc tao… hỏng bét.
Anh Thái an ủi.
-Tại duyên số thôi, mà cũng tại …mày, không dám nói với nó sao không kêu tao nói giùm, thằng Chương lù đù mà vác cái lu chạy, tao cũng không dè.
Quế Anh ngập ngừng.
-Không phải tao… cầu cho họ… tan vỡ, nhưng ngày nào Châu chưa đám cưới, tao …vẫn chờ.
Bạn anh Thái ai cũng dễ mến. Người dí dỏm hài hước, người lanh lợi hoạt bát, riêng Quế Anh rất hiền, gần gũi thân thiết với chúng tôi nhất, tôi mến anh, coi anh như anh Thái, nên rất hồn nhiên vô tư. Nếu anh bày tỏ tình cảm, tôi không biết cảm giác của mình ra sao nữa!
Mấy mùa thu trôi qua. Nói cho lãng mạn, chứ ở miền nam chỉ có hai mùa mưa nắng. Mùa thu là mùa mưa. Không có lá vàng rơi. Không có con nai vàng nào ngơ ngác đạp trên lá khô xào xạc cả. Mùa chỉ có mưa sụt sùi, lê thê, chèm bẹp. Chương trở nên thân thiết trong gia đình tôi. Má thấy Chương hiền lành lễ phép nên cũng chấp nhận. Người thích thú nhất là thằng em miền… Trung, mỗì lần anh đến nó rất mừng, vì được mượn chiếc môtô phân khối lớn chạy rong trong xóm, nó mê xe như người ta mê… thuốc lào… Chương cũng muốn nó đi càng lâu càng tốt, cả hai đều có lợi.
Gần tết năm đó, Chương đưa tôi về giới thiệu với gia đình. Nhà Chương giàu vì ba Chương là dược sĩ, có nhiều tiệm thuốc tây. Má Chương dù ở trong nhà vẫn trang điểm cầu kỳ, đôi mắt xếch tô đậm, nhìn rất dữ. Ban đầu bà vồn vã tiếp đón tôi niềm nở. Sau khi hỏi về gia cảnh, tôi thật tình kể. Biết tôi là con nhà nghèo, chỉ mới học hết cấp ba, bà liền thay đổi hẳn thái độ, lạnh nhạt như muốn tiễn tôi về ngay.
Ra về với nỗi buồn tủi ngập lòng. Sao mẹ Chương lại coi trong sự giàu nghèo đến thế. Có bao nhiêu chàng trai giàu có đang theo đuổi tôi, nhưng tôi yêu Chương vì mối chân tình tha thiết của anh. Ở bên anh, tôi cảm nhận được sự êm ả bình yên. Tình yêu là cảm xúc bất chợt, nhưng dằng dặc nỗi chắt chiu mơ ước.
Tuy tôi chỉ học đến cấp ba, nhưng đó là sự cố gắng phi thường của má, sự nỗ lực không mệt mỏi của bản thân và có những điều tôi học được ở trường đời, không hề có trong giáo trình trường học, vậy không tốt sao!?
Tôi ngậm ngùi nói lời chia tay với Chương, anh buồn rũ như tàu lá héo, nắm chặt tay tôi rưng rưng.
-Em ráng chờ thêm một thời gian, để anh thuyết phục mẹ.
Không biết Chương thuyết phục mẹ bằng cách nào? Riêng tôi, tôi không đủ tự tin để làm dâu một bà “mẹ chồng” kỳ thị giai cấp như thế.

Anh vẫn ngồi lặng lẽ ở góc quán. Giọt mưa rơi lộp bộp xuống bàn, vào ly cafê, tan loãng, tung tóe như những hướng đời phân chia muôn ngả.
Anh tiến về phía tôi, đưa một tờ giấy gấp tư, nói nhỏ.
-Anh về!
Tôi ái ngại.
-Còn mưa mà, anh có đem áo mưa không?
-Anh quên rồi! Không sao đâu.
Nhìn bóng anh khuất sau làn mưa trắng, tôi nghe lòng dâng lên nỗi xót xa bùi ngùi. Có làn khói nào vương vào khóe mắt, cay. Mở tờ giấy anh đưa ra coi, chỉ ngắn ngủi mấy câu …thơ:
Đếm bước trở về theo lối chân quen / Giọt mưa ngâu điệu buồn rơi lặng lẽ / Ánh đèn vàng bên đường soi bóng lẻ / Đêm ngủ rồi anh vẫn thức vì em / Em hỡi em, xin đừng nói gì thêm / lời ly biệt cho tình đầu tan vỡ….
Tôi ngẩn ngơ mất vài giây: – Trời!… cái “ông” này, bình thường “nói không ra răng” mà trở thành thi sĩ từ bao giờ? “Ổng” đi môtô mà làm như đi bộ vậy.
Dù có… tưởng tượng trong thơ một chút, thì vẫn là lời phát ra từ trái tim. Đi xe, nhưng chiếc bóng anh lầm lũi cô đơn. Tôi buồn đến nao lòng.
***
Anh đến nhà, dựng vội chiếc xe rồi lao vào tôi như cơn lốc, vui mừng rối rít.
-Em, má chiụ rồi. Chủ nhật này anh đưa em qua nhà cho má nói chuyện.
Chủ nhật. Tôi hồi hộp đi theo anh, không hình dung được thái độ của mẹ anh ra sao. Bằng cách nào anh đã thuyết phục được mẹ??? Một người rất quan trong chuyện môn đăng hộ đối và không thích tôi ra mặt. Sau khi đợi tôi khép nép ngồi xuống ghế, bà vô đề ngay:
-Tôi nói thế này, cháu suy nghĩ rồi về bàn với mẹ xong trả lời tôi. Cháu nói nhà cháu đơn chiếc, không có bà con thân thuộc, vậy thì kiếm vài người hàng xóm nào đó cho đủ chục người, bên này hai mẹ con tôi qua. Tôi sẽ đưa cháu mấy trăm ngàn để làm mâm cơm cho xong lễ hỏi, vậy nhé.
Chương tái mặt nhìn mẹ. Tôi lặng người chết điếng, sao bà có thể thốt ra được những lời khinh man quá đáng như vậy. Đây là một cách sỉ nhục cho tôi nản, không phải bà thật lòng muốn tổ chức một đám hỏi theo nghi thức thông thường. Sau mấy giây trấn tĩnh, tôi ngồi thẳng người, nhìn bà, dõng dạc nói:
-Thưa bác, con trả lời ngay, không để bác chờ lâu. Nói về đám hỏi, nhà con là đàng gái, cho dù một bàn hay mười bàn, cho dù nghèo, má con cũng xoay xở lo được, không phải dùng tiền của bác. Phía đàng trai, con thấy gia đình bác rất đông, chưa kể họ hàng gần xa, sao lại chỉ có bác và anh Chương qua nhà con, không giống đám hỏi….
Tôi chưa nói hết câu, bà ngắt ngang:
-Nhà tôi đông, nhưng mọi người bận buôn bán làm ăn, không đi được.
-Nếu việc làm ăn nhà bác quan trọng hơn nghi thức cưới hỏi, thì con cũng không cần đám cưới đám hỏi với anh Chương nữa. Con không phải gái hư, con chỉ nghèo, nhưng nghèo không là cái tội, con hãnh diện khi sống trong mái gia đình nghèo của con, bác không cần sỉ nhục gia đình con bằng cách đó.
Để mặc bà há hốc miệng tức giận, tôi quay sang Chương.
-Anh đưa em về.
Ra đến sân, tôi còn nghe tiếng bà tru tréo trong nhà.
-Mày thấy chưa Chương? Chưa làm dâu mà nó đã trả treo như thế, mai mốt về đây làm sao tao chiụ được?
Trên đường về, anh khẽ trách:
-Sao em không nhịn má một chút, để từ từ anh tính.
Tôi chua chát:
-Anh tính được gì, má anh chiụ cưới hỏi em đàng hoàng sao? Hay cứ dùng cách kẻ cả khinh mạn đó đối xử với gia đình em. Em có thể vì anh nhịn nhục, nhưng má em không đáng phải chiụ nhục như vậy. Má em phải ngẩng cao đầu hãnh diện với mọi người, cho bõ công lao nhọc cực khổ nuôi dạy tụi em. Mình không có duyên vợ chồng, em không thể làm dâu má anh được đâu!.
Anh im lặng, tôi chỉ nghe tiếng thở dài đắng lòng.

Đã bao năm trôi qua. Giòng đời đưa tôi dạt đến phương này. Ở đây, mùa thu lá vàng rực rỡ rơi đầy trên thảm cỏ, xào xạc dưới chân. Tôi vẫn nhớ mùa thu chốn cũ, nơi có những cơn mưa dai dẳng sụt sùi. Giọt mưa rơi vào ly cafê đắng, tan loãng, phôi pha…
Về sau, vợ Chương cũng có tên Châu giống tôi. Nhưng không biết có thay thế được tôi trong lòng anh? Và hình bóng anh tôi còn cất giữ trong một góc trái tim. Tình đầu đâu dễ phai phôi.
Quế Anh mới lấy vợ sau ngày tôi rời VN. Bạn bè thân thiết cũ của anh Thái tản mác mỗi người một phương, xa xôi. Những ngày tháng cũ vui vẻ hồn nhiên lùi sâu vào dĩ vãng, làm sao tìm lại được…

[/read]

Chuyến Tàu Vắng

Đám cưới Hoàng gia Anh được mệnh danh là đám cưới cổ tích giữa thế kỷ 21. Đôi tân hôn ngồi trên xe tứ mã tiến vào Hoàng cung sau Thánh lễ Hôn Phối. Chàng là Bạch mã Hoàng Tử thứ thiệt, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cô dâu mặt rạng ngời hạnh phúc, chiếc áo cuới trắng tinh khiết, ẩn hoa trên nền vải, phủ tràn lên thảm như vạt hoa cúc trắng ngát, lãng mạn thanh tao. Mấy cô bé gái theo sau, áo đầm trắng xinh, đầu đội vòng hoa như những thiên thần nhỏ. Hình ảnh đám cưới tuyệt mỹ làm tôi vô cùng ngưỡng mộ.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 
Thuở còn là một cô bé, tôi theo mẹ đi dự tất cả những đám cưới được mời. Lúc nào cũng vậy, mẹ con tôi chỉ là những người khách bình thường, chẳng có chút thân thích gì với gia chủ, nên không bao giờ được tham gia vào việc tổ chức đám tiệc. Thuở ấy, niềm khao khát thèm thuồng nhất của tôi là được cùng với mấy đứa trẻ khác đi sau cô dâu nâng tà áo cưới dài lê thê. Đó là nghi thức trang trọng thời bấy gìờ và cũng để tà áo không… quét đất.
Cô bé nào cũng thích được đi sau cô dâu nâng áo. Những đứa được chọn sung sướng hoan hỉ không thua gì … chú rể. Chúng nó được mẹ trang điểm cầu kỳ: má hồng như cái bánh cam, môi đỏ chót, mắt lấp lánh kim tuyến, tóc uốn quăn tít. Được “cấp” một chiếc áo đầm trắng mới tinh, đầu đội vòng hoa. Được theo sau cô dâu ra giữa nhà thờ, trang trọng. Vì thế, đứa nào mặt mũi cũng hỉnh lên, căng thẳng nghiêm nghị như đang thi hành một sứ vụ vô cùng trọng đại mà chỉ có chúng nó mới làm được, làm tôi rất khát khao thèm muốn.
Một lần, gia chủ đám cưới là bạn thân của mẹ, thấy tôi vừa tầm với mấy đứa kia nên đề nghị cho tôi cầm đuôi áo. Biết được tin này, cô bé Ngân mừng rỡ sung sướng, nôn nao mong chờ đến ngày cưới hơn cả đôi tân hôn. Nhưng cuối cùng, họ gạt tôi ra để thay vào đứa khác. Con bé này ngay từ đầu không được chọn vì quá cao lớn, không đều một lứa. Nó về nhà ăn vạ, gia đình nó là bà con ruột với nhà đám cưới nên cuối cùng nó được thay chỗ tôi. Lần đó, tôi từ chối đi đám cưới với mẹ, ở nhà khóc cho đã, để không ai nhìn thấy.
Đó là số mệnh. Chữ “cưới” không có duyên với tôi. Lúc nhỏ không được cầm đuôi áo cưới. Lúc lấy chồng không được mặc áo cưới cô dâu.
Tuổi mới lớn, tôi bồng bột nông nổi cãi lời mẹ lấy một người, vì mẹ không chấp nhận nên cuộc hôn nhân không có đám cưới, không có nghi lễ hôn phối ở Thánh Đường và … không có niềm vui, hạnh phúc, chỉ có nỗi buồn đong đầy nước mắt.
Năm tháng cuồn cuộn trôi. Khi chồng qua đời, tôi mới vừa bốn mươi, tuổi như bông hoa mãn khai, mặn mòi nhất của đời người phụ nữ. Lúc còn trẻ, tôi đuối trong cả núi công việc nhà với đám con, không còn thời gian soi gương chải tóc. Tôi để mình trở thành người đàn bà luộm thuộm già cỗi, dù thỉnh thoảng vẫn bắt gặp một vài ánh mắt nhìn theo vương vấn.
Khi bóng hoàng hôn thời gian buông xuống, con cái đã trưởng thành, yên ổn, tôi mới thấm thía nỗi cô đơn của mình. Hình như tôi chưa biết yêu và chưa được yêu đúng nghĩa. Dù không ít mối tình “chạy” ngang qua đời, cũng chỉ như những chuyến tàu vắng, ngừng lại sân ga, không người bước xuống. Người đứng chờ vô vọng, lầm lũi trở về chốn riêng, trăm năm cô đơn ….Mỗi lần đi ngang tiệm áo cưới, tôi kín đáo ngắm nhìn, so sánh kiểu này đẹp hơn kiểu kia và…chiếc nào vừa cho mình?
Mùa Thu, lá run rẩy lìa cành, cuốn bay theo cơn gíó, xa lìa cội cây. Vầng trăng sáng vằng vặc, lẻ loi riêng một góc trời. Mùa Thu mang gió heo may về. Khi Thu tàn, Đông đem đến giá lạnh, mưa bão. Trời lúc nào cũng rưng rưng muốn khóc, thân cây khô đứng trân mình thảm hại trong băng tuyết, buồn …
Mùa đông chà xát, nghiến sâu vào thân thể người, bằng những cơn đau đớn trong xương khớp, làm khó thêm giấc ngủ. Bệnh khó ngủ thì suốt bốn mùa, tôi phải uống nước hoa Cúc hằng ngày để đêm có giấc ngủ ngon. Nhưng hoa Cúc đôi khi không tác dụng. Những đêm thức trắng, miên man tự hỏi mình những câu không lời giải đáp. Có khi tôi thấy mình “muốn” cũng hơi quá. Chẳng phải tôi đã sung sướng hạnh phúc hơn nhiều người rồi sao?
Không có những khát khao của bản năng. Tôi chỉ ước mong một người tâm đầu ý hợp, để cùng nhau đi đến cùng trời cuối đất và cuối…đời, thưởng ngoạn thiên nhiên tươi đẹp. Một bàn tay xoa diụ những cơn đau nhức khi đông về. Một cử chỉ ân cần chăm sóc. Một bờ vai để dựa khi nỗi buồn ập đến, một nụ cười để chia xẻ niềm vui. Một vòng tay ấm áp khi thu tàn. ( Ước nhiều quá làm sao có ?)
Có lẽ ông trời cảm thấy áy náy khi lỡ tay “đưa” cái số phận quá hẩm hiu lận đận cho tôi, bèn bù đắp bằng cách ban cho chút duyên … dzùng, có sức lôi cuốn đối với người khác, để đời tôi bớt tẻ lạnh đìu hiu. Nên tôi có nhiều bạn trai (bạn là “con trai”). Nhưng tình bạn thường không lâu bền giữa hai người khác phái.
Người đến với tôi chỉ là thêm chút thi vị cho cuộc sống đơn điệu hằng ngày, bên những bà vợ quá khô khan, chỉ còn biết chăm lo cho con, cháu, không thèm “đếm xỉa” đến ông chồng … quá cũ, quá nhàm và yên tâm gối cao đầu “ngủ khỏe”, vì đã được cấp giấy “sở hữu” chồng trọn đời. “Bạn trai” coi tôi như “hồng nhan tri kỷ”, nên khó giữ được tình bạn thuần túy. Khi họ có dấu hiệu bất ổn, là tôi … hô biến, vì họ đều có vợ, những người đàn ông tốt hay được lãnh “án” chung thân, phụ nữ sẽ không buông ra người chồng còn….sai được của mình. Đàn ông cũng chẳng ai muốn rời bỏ mái nhà quen thuộc, dù nơi đó còn là mái ấm hay mái đã lạnh.
Tôi không muốn làm người tình bên lề cuộc sống của họ, chia sẻ tranh giành chút tình cảm vốn đã rất ít ỏi trong trái tim đàn ông, lấy về phần mình không được bao nhiêu mà vương mang nhiều hệ lụy.
Khi nghe ai đó ca bài Lý con cua: Bắt con cua mà bỏ vô trong giỏ, nó kêu chàng hỡi, nó kêu chàng ơi. Chàng đà yên phận đủ đôi, thương thân thiếp lẻ loi một mình….Buồn đứt ruột, thảm sầu gấp trăm lần nỗi cô đơn hiện tại. Vì thế, tôi tự đặt ra ”luật” cho mình: không yêu người đang có vợ.

Tôi có hai người bạn, tuy họ chưa “mãn hạn”, nhưng ở hai nơi rất xa (an toàn).
Một người ở phía tây bắc, chỉ liên lạc bằng email. Những giòng email ngắn ngủi, cụt ngủn trên máy mà đem lại cho tôi niềm vui thật. Bao giờ anh cũng mở đầu : Hôm nay vui hay buồn? ”siêng” hơn thì thêm hai chữ: Ngân ơi, hôm nay vui hay buồn? và kết thúc bằng câu : Chúc Ngân có thêm một ngày vui.
Những câu chuyện không đầu không đuôi, vu vơ lãng đãng, khi vui vẻ sôi nổi, khi rời rạc hững hờ. Lúc đùa nhây nham nhở, lúc dí dỏm pha trò. Chúng tôi chọc ghẹo nhau hồn nhiên như bạn bè thân thiết hồi còn đi học. Tôi bướng bỉnh, tinh nghịch gọi anh bằng “bạn” hoặc bằng “bác”. Đáp lại, anh kính cẩn “thưa” tôi bằng “cụ”, cuối cùng anh đành xuống nước kèo nài : Ngân gọi bằng anh đi, gọi bác nghe …gìà lắm.
Lúc buồn, tôi mail cho anh chỉ mấy chữ: Hôm nay quá buồn, lập tức anh gởi file mp3 nhiều những bản nhạc tôi yêu thích và cả chính giọng anh hát. Lúc ấy tôi chưa nói chuyện bằng điện thoại với anh, nên chưa nghe được giọng nói, nhưng tiếng hát của anh thật tuyệt vời; truyền cảm, ấm áp : Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng/ em chở mùa hè của tôi đi đâu/ cành phượng vỹ em cầm là tuổi tôi 18/ thuở chẳng ai hay thầm lặng mối tình đầu…
Giọng hát đưa tâm hồn tôi chơi vơi bay bổng tìm về ngày tháng cũ. Thuở áo trắng sân trường riú rít hồn nhiên, chuyên môn xúi dại mấy gã…khờ trèo lên cây bẻ cành hoa phượng, bị thầy giám thị điểm mặt chỉ tên, hôm nào may mắn, thoát được “sổ vàng đề tên” thì quần áo cũng bị lếch thếch te tua,vậy mà không chừa, thích được mấy “cô nương” nhờ vả…Tôi lại rất yêu hoa phượng, hoa của tuổi học trò thơ mộng nhất đời người, màu hoa đỏ thắm đẹp rực rỡ, vả lại, thấy cành phượng lác đác nở hoa là biết sắp …được nghỉ hè. Tôi bỗng ghiền bài hát, hay là ghiền …tiếng hát của anh… không biết.
Mỗi đêm trước khi ngủ, tôi nghe anh hát như lời thầm thì ru giấc mộng :Mối tình đầu cuả tôi, là mưa giăng ngoài cửa lớp, là áo ai bay trắng cả giấc mơ, là bài thơ còn hoài trong vở, giữa giờ chơi mang đến lại mang về…………
Ngày tháng nhân lên sự gần gũi thân thiết, khi tôi chậm trả lời thư, anh réo gọi : Ngân ơi, Ngân đâu rồi ? Ngược lại, khi check mail không thấy thư anh, tôi bâng khuâng…buồn, dù ”lá thư” chỉ ngắn ngủi vài chữ, dù tôi không phải người tình, cũng chẳng là ”Hồng nhan tri kỷ” của anh.
Lúc buồn, coi lại thư cũ, những lời tếu táo dí dỏm làm tôi bật cười, vui. Chút vô tư trong trẻo như thời học sinh, cách biệt bởi hai phương trời, thật mà ảo….

Một người ở phía tây nam.
Mỗi ngày vào giờ cố định, anh phone cho tôi. Giọng anh dịu dàng nhỏ nhẹ, anh hay cười, cho tôi cảm giác anh rất hiền. Chúng tôi nói chuyện mưa nắng thời tiết, chuyện xã hội xưa nay, chuyện trên trời dưới đất, cũng là những mẩu chuyện vu vơ, không đầu không cuối, cũng là hai phương cách biệt.
Anh chiụ khó lắng nghe tôi kể lể nỗi buồn. Tôi đọc cho anh nghe bài thơ của Trần huy Phương : Nếu có một ngày em cảm thấy cô đơn/ Hãy về đây dựa vai anh mà khóc/ Kể cho anh nghe chuyện đời gai góc/ Chia bớt cho anh cảm giác xót xa/Vì anh suốt đời là một sân ga,/ đón nhận vui buồn con tàu em chở đến./ Dù có một ngày con tàu em thay bến/ thì sân ga sẽ vẫn còn đây/ rồi hôm nao sầu nặng dáng em gầy/ hãy trở lại dựa vai anh mà khóc….

Tiếng anh thở nhẹ.
– Nghe sao buồn quá! Lúc nào cần, mình cho …mượn vai.
Anh luôn tìm cách làm tôi vui. Anh gởi những tấm hình mấy con thú hoang dã đẹp ngộ nghĩnh. Những đoàn tàu đi trong băng tuyết, hoang vu lãng mạn. Những bức tranh vẽ sinh động như hình chụp, đẹp tuyệt vời và cả một group nhạc xưa nay, với lời nhắn: Enjoy it em nhé.
Tôi có ”người yêu” xa nửa vòng trái đất, “yêu” nhau khá lâu nhưng chưa gặp mặt. Một lần, tôi quyết định đi gặp “chàng”. Khi trở về anh hỏi thăm:
– Sao rồi, gặp người ấy có vui không, hạnh phúc không?
Tôi nhăn nhó.
– Chán …phèo. Đến không vui, đi không buồn, lạt lẽo vô vị.
Anh ngạc nhiên sửng sốt:
– Sao kỳ vậy, dân pilot ngày xưa lãng mạn ga lăng lắm đó, vậy mà Ngân không vui sao?
– Ai biết, chắc tại…già nên ổng quên hết bài bản rồi, lãng nhách.
Anh băn khoăn:
– Vậy Ngân có …buồn không?
Tôi đáp gọn:
– Không buồn,
– Có cần mượn…vai anh khóc cho chuyện tình lãng … nhách đó không?
Anh lúng túng trong cách xưng hô với tôi, nên khi xưng ”mình”, khi xưng ”anh” ngại ngùng. Sự ngại ngùng dễ thương.
Anh quan tâm hỏi han khi tôi buồn, chọc ghẹo pha trò cho tôi vui. Càng ngày anh càng rót mật vào giọng nói, ngọt ngào trìu mến. Lần này, chính tôi là người chao đảo chứ không phải “đối tượng phía bên kia” như truớc.
Anh phone cho tôi thường xuyên gần như mỗi ngày, nhưng cuối tuần thì không. Đàn ông có vợ là thế. Cuối tuần và những ngày lễ phải lui về “cố thủ” gia đình…. Vậy thôi, niềm vui vay mượn chỉ có thế, được bao nhiêu hay bấy nhiêu!…

Một hôm anh bất ngờ xuất hiện, tôi kinh ngạc xen lẫn mừng vui, hỏi một câu rất…thừa:
– Sao anh lại đến đây ?
Vẫn giọng nói đùa.
– Đem …vai đến cho Ngân mượn.
Tôi vui vẻ:
– Không đúng lúc rồi, em đang vui nên không cần.
Anh nắm tay tôi kéo ra xe.
– Để anh đưa Ngân đến chỗ này.
Nơi đến là cánh rừng nhỏ. Ven rừng có vạt hoa Cúc trắng lóa bát ngát dưới nền trời xanh. Vài cơn gió nhẹ mơn man, làm dợn sóng trên những khóm hoa, hương Cúc hăng hăng thoảng trong gió. Tôi kinh ngạc trầm trồ:
– Đẹp quá, sao anh biết chỗ này?
– Anh trồng đó, để Ngân ra đây hái hoa về nấu uống cho dễ ngủ, thích không?
Tôi cảm động reo lên:
– Thích…, thích chứ, từ nay khỏi ….tốn tiền mua hoa khô của China
Anh nhẹ vuốt ve mái tóc cụt ngủn, xơ xác, phai màu của tôi, giọng chùng xuống:
-Vậy… em ráng chăm sóc cho nó mãi ra hoa mà dùng, anh chỉ làm được cho em bấy nhiêu thôi.
Nói xong anh quay lưng lầm lũi bước. Tôi thảng thốt chạy theo với gọi. Anh cứ đi, đi mãi, không quay lại….

Giật mình chợt tỉnh, thì ra tôi đang mơ mộng vớ vẩn. Tôi nhớ anh!? Tôi thấy lòng bất ổn!!! Tôi đang phạm “luật”của mình!?
Hai anh là bạn của nhau. Chúng tôi là “mối tình tay ba” thuần khiết, vui nhộn, chia cho nhau những tràng cười dòn dã.
Rồi sẽ đến lúc tôi phải chia tay hai người bạn thân thiết dễ thương này. Tình bạn giữa hai (ba) người khác phái thường không bền.
Chuyến tàu dừng ở sân ga, không người bước xuống. Tôi lại trở về chốn riêng cô độc….
….Ta khác chi bến bờ hoang vắng. Từng thu sang đợi mãi cánh buồm. Ánh chiều tà chút nắng còn vương. Và mây trắng lững lờ bay mãi.

Hoàng Thị Thanh Nga

[/read]

Hoàng Anh 79

 

Hoàng Anh 79
Thánh Ca Buồn Trong Gió

Mỏi mòn đợi dưới lầu chuông
Em đi biền biệt dặm đường chim bay
Mùa đông có chút heo may
Cơn mưa ngày cũ đến nay đã già

Chuông nhà thờ vọng nhẩn nha
Nhớ em tóc xoã mượt mà câu kinh
Thôi thì ta cứ nín thinh
Khoác lên chiếc áo làm linh mục buồn

Đứng trên sườn dốc mù sương
Dường như phía trước cuối đường lá phai
Ngậm ngùi sông núi thở dài
Nghe trong tiếng gió có bài Thánh ca

Sầu riêng chỉ một mình ta
Chắc rồi Chúa chẳng đi qua nơi nầy
Biết tình chết tận chân mây
Mà sao lòng vẫn đắng cay muôn phần

Nửa đêm mừng Chúa xuống trần
Lạy ngài ban chút hồng ân kiếp nàn
U mê cứ ngỡ thiên đàng
Tỉnh ra mới biết hỗn mang đất trời!

Còn Thương Mái Tóc
Biên Hòa Chiều Nay

Mình là gì của nhau đâu
Chỉ trong thoáng mộng bên cầu chiêm bao
Cho từng nỗi nhớ ngọt ngào
Bay bay theo gió tan vào hư không

Buồn như lá rụng chiều đông
Bèo mây tan hợp giữa dòng đời trôi
Trăng tàn gác núi lẻ loi
Về đâu cánh hạc bên trời quạnh hiu

Có yêu tình cũng bấy nhiêu
Ta bàn tay trắng chịu nhiều xót xa
Em đi về với người ta
Còn thương mái tóc Biên Hoà chiều bay

Ướp hồn trong chén rượu cay
Cạn cho quên hết những ngày của nhau
Mai kia tình nhỏ quên mau
Nỗi sầu vạn cổ nào sầu hơn ta

Nhìn lên trời rộng bao la
Đêm trên Sông Phố mưa nhoà nhạt rơi
Ta còn nửa mảnh hồn côi
Cố nhân xa lắt tiếng còi tàu qua !

Thương Đôi Mắt
Khóc Người Từ Trăm Năm

Đêm tàn trăng rụng Ban Mê
Mình ta với phố bốn bề sương bay
Thời gian mòn mỏi qua tay
Đường quen chưa xoá dấu đài trang xưa

Cao nguyên gió lạnh đầu mùa
Tình xa ngút mắt ta vừa đủ đau
Nói gì thì cũng mất nhau
Chia tay là đã qua cầu áo phai

Ta đi đếm tuổi ngày dài
Chim hun hút cánh miệt mài tà huy
Em đi với nửa xuân thì
Sang ngang còn giữ chút gì không em

Hay lòng thầm bảo cố quên
Bước chân chánh niệm với miền hư vô
Mưa rơi rơi phía Buôn Hồ
Phải đâu lệ rớt trên bờ mi cong

Cạn đi hết chén rượu nồng
Ai chờ đợi nữa bến sông bụi mù
Mai về rừng núi Pleiku
Thương đôi mắt khóc người từ trăm năm!

Thánh Ca Buồn Trong Gió

Mỏi mòn đợi dưới lầu chuông
Em đi biền biệt dặm đường chim bay
Mùa đông có chút heo may
Cơn mưa ngày cũ đến nay đã già

Chuông nhà thờ vọng nhẩn nha
Nhớ em tóc xoã mượt mà câu kinh
Thôi thì ta cứ nín thinh
Khoác lên chiếc áo làm linh mục buồn

Đứng trên sườn dốc mù sương
Dường như phía trước cuối đường lá phai
Ngậm ngùi sông núi thở dài
Nghe trong tiếng gió có bài Thánh ca

Sầu riêng chỉ một mình ta
Chắc rồi Chúa chẳng đi qua nơi nầy
Biết tình chết tận chân mây
Mà sao lòng vẫn đắng cay muôn phần

Nửa đêm mừng Chúa xuống trần
Lạy ngài ban chút hồng ân kiếp nàn
U mê cứ ngỡ thiên đàng
Tỉnh ra mới biết hỗn mang đất trời!

Hoàng Anh 79

Mang Viên Long … (Còn Tiếp)

 

Mang Viên Long
Tuyệt Huyết Ca Của Đặng Tấn Tới 

Tại sao tôi chọn đọc thi phẩm “Tuyệt huyết ca” mà không là “Thi Thiên” (tác phẩm thứ tư, phát hành mùa Thu Quí Sửu), hay thi phẩm mới nhất vừa phát hành trong mùa Xuân 1974 là “Trúc Biếc” của Đặng Tấn Tới ? Tại sao là một tập thơ mỏng manh, được in ra vội vàng trong một năm đầy biến cố (mùa hè 1972), kỹ thuật trình bày cũng xoàng xỉnh, mà không là một tập nào trong 04 tập thơ xem như được độc giả lưu ý nhiều nhất ?Chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca” tôi cần nói tới hai điều :

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

1-Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của kẻ sĩ Việt Nam (hay nói cách khác: Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của người nghệ sĩ Việt Nam) hai mươi năm “lạnh nghe hồn réo mười phương, Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn”.

2-Minh chứng, lần chót nhưng không phải là thừa thãi, không có sự phân chia (không phải sự tìm hiểu, nghiên cứu) nào trong Thi ca là thích hợp ; hay nói cách khác, không thể uốn nắn, xếp loại một cách gượng ép, cứng nhắc, với nhiều ác ý để từ đó đưa ra những luận cứ nhất thời rất hàm hồ, về những thi phẩm đã được giới thiệu.

Phần một (xin tóm tắt) : Thi phẩm “Tuyệt Huyết Ca” gồm 27 đoạn thơ song thất lục bát, tất cả 108 câu thơ, chung quanh một nhan đề chính đã được chọn. Sử dụng lối thơ cổ truyền Việt Nam để diễn tả những khúc ca máu hồng tuyệt vời của dân tộc, Đặng Tấn Tới đã dồn hết rung cảm tích tụ kỳ diệu bao năm giữa “Trăng cổ độ ố mầu tăng hải, Trải thu phần quan tái vài bông”, trong cảnh tượng đời sống ghê khiếp như ma quái “Người vất vưởng tận hang cùng cốc. Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương” vào thời gian được ghi nhận là biến loạn nhất trong hai mươi năm chinh chiến.

Tôi tạm chia “Tuyệt Huyết Ca” thành một bố cục như sau : Đoạn một : (08 câu đầu) Tình cảm mang mang thúc đẩy lần viết (hay lần mở) từng trang tuyệt huyết của Dân tộc. Đoạn hai : (72 câu tiếp) có thể chia làm 04 tiểu đoạn. Tiểu đoạn a: (08 câu) Viết (hay mở) với tư thái thong dong, trang trọng, chua xót và có chút gì như là chán nản. Tiểu đoạn b : (16 câu) . Những trang đầu tiên – là một cuộc tao ngộ kỳ bí, đưa đẩy tác giả túy lúy trong cảnh “Sông nước chảy chiêm bao máu rạng. Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương”. Tiểu đoạn c: (16 câu) . từ cuộc hội ngộ “chung tuyệt huyết” tri kỷ trên, thảm cảnh ma quái trần gian tỏ lộ sáng ngời như đời sống ngày đêm của Dân tộc đã hai mươi năm “Người vất vưởng tận hang cùng cốc/ Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương/ Máu khô thịt nát bên đường, Rợp mầu tinh huyết đò dương đắm chìm”. Tiểu đoạn d : (32 câu) . Thái độ tìm thấy khi đã kinh qua cảnh đoạn trường (ở đây cũng là tâm sự, thái độ của kẻ sĩ – hay nghệ sĩ, đối với mọi biến động) : Giải quyết những nỗi ưu tư bi thiết bằng sự an ủi của chính mình, bằng sự xoa dịu của đôi mắt nhân ái trầm buồn của Phật Lão, và sau rốt, bằng vào sự hy vọng (vẫn còn hy vọng) : “Non nước cũ rạng ngời sông núi / Trời trong xanh muôn tuổi thơ ngây / Nước trôi mây cuốn chưa đầy / Ngày sương nắng biếc hồng rây ánh vàng”. Đoạn 3 (28 câu cuối): Con người đau khổ thống thiết từ đầu (cuộc tao ngộ) đã đổi khác : Ở đây là một cõi mới, một đời sống tiên cảnh lạ thường, hay là một cõi chiêm bao mộng mị của đa số nghệ sĩ Việt Nam. Nhờ đâu con người (em Nguyên Thủy) đã chết với máu me, với hình hài tiều tụy, với xương trắng cát lạnh, đã được sống lại vào đoạn kết ? Nhờ đâu? Xin thưa : Nhờ niềm hy vọng. Nhờ ước mơ. Nhờ mơ tưởng. Nhưng phải chăng mọi hy vọng ở tương lai cũng chỉ là chiêm bao ? Đoạn kết : “Mây gió nổi trôi ngàn bước mộng/ Bàn chân không lùa sóng vô biên/ Ta đi dạo khắp cõi miền/ Này là phố thảo kia triền xóm hoa”.

Đặng Tấn Tới trong “Tuyệt Huyết Ca” không phải u mặc như Tâm Thu Kinh, cũng không gảy những đoản khúc du dương (hân hoan hay bi lụy) liếc ngó đời sống với đôi mắt nhuốm đượm màu sắc Lão Trang – một thái độ ẩn dấu, e dè, nản chán – đó là thái độ hay tâm sự của kẻ sĩ hiện thời. Trong 108 câu thơ ở “Tuyệt Huyết Ca” đã kéo được tấm màn cho ngần ngại cho thấy rõ ràng một hình ảnh của nhà thơ : Đây là những hình ảnh trung thực, gần gũi, linh hoạt, chứa chất nhiều tâm sự bi đát (không giấu diếm – qua những cái nhìn, đến tư tưởng) có thể đại diện cho đa số kẻ sĩ (hay nghệ sĩ) hiện thời : Thương nhớ quê hương, xót xa vì vận nước, nhưng chỉ thể hiện bằng những thái độ tiêu cực (Than thân trách phận, buồn nản, tuyệt vọng, hy vọng, mơ ước, mộng mị, chiêm bao, và thoát tục : Một tính chất biểu hiện hiển nhiên trong vài năm gần đây tâm sự, quan niệm, đời sống của người nghệ sĩ (hay kẻ sĩ) rất phù hợp với vận nước, cùng những cố gắng khai phá cho Thi ca một lối thoát). Sự chuyển biến tâm tư trên có thể giải thích tóm tắt : Quá Đau Khổ Ngao Ngán -> Thất Vọng -> Quá Thất Vọng -> Hy Vọng – > Trở Về Với Mình = Mộng / Ước / Chiêm Bao / Thoát Tục, v.v…. Tất cả những trạng thái tình cảm quanh co nầy đã được ghi dấu trong “Tuyệt Huyết Ca” bằng một giọng trầm tĩnh, trang trọng nhưng lại quá lâm li bi đát.

Tình cảm đó là :
Mang mang cát bụi lên đường
Những xương máu cũ phai hường là đâu?
Trăng cổ độ ố mầu tang hải
Trải thu phần quan tái vài bông
Nao nao gió giục sang hồng
Rụng bao nhiêu cánh giữa lồng nhân sinh
Ngậm ngùi thương cảm :
Ghé trong mây trắng môi cười
Một xe cát bụi xô người ra đi

Và :

Vin sắc máu trong tòa hồng sử
Tay run mầu lữ thứ cô hương
Lạnh nghe hồn réo mười phương
Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn
Nồng nhiệt, tha thiết :
Ta uống cạn giòng trong bích ngạn
Cuộn tâm bào ức vạn sinh linh
Quá giang ca ngộ cô tình
Lấp mầm sinh tử như mình như ai
Người thoáng hiện di hài cuối nguyệt

Đoạn trường:

Hồn đau nhỏ máu tơ đồng
Mấy cung hồ rợn mênh mông gió gào
Sông nước chảy chiêm bao máu rạng
Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương

Chán nản :
Mây trôi lớp lớp vô thường
Trời xanh còn lại con đường chim bay
Nhìn thấy:
Người vất vưởng tận hang cùng cốc
Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương
Máu khô thịt nát bên đường
Rợn mầu tinh huyết đò dương đắm chìm

Và :

Phơi xương trắng ngoài đêm cát lạnh
Vùi đó đây từng mảnh thân non
Đất bay đá chạy chi còn
Bi thương cổ lục héo mòn tân thanh !

Vì thế, tâm sự :
Trường thu hận tan tành sông núi
Bao mạng người làm củi nung tim
Mây ơi nở nụ im lìm
Chở hồn hoa trắng bay tìm tình tang
Tiếng kêu thương trầm thống còn vọng mãi muôn đời:
Nghìn thu trước ai tình xanh mắt
Nghìn thu sau hiu hắt hồn hương
Cùng nhau về tụ đầu sương
Long lanh chút mộng cuối đường tài hoa.
***
Không kể đến những tâm sự được giải bày mạch lạc trong một bố cục chặt chẽ (điều nầy cố ý hay vô tình ? Tác giả đã : “Ta cũng sầu mở quá độ chơi”) phô diễn và liên kết từng dòng xúc cảm, từng chặng thăng trầm, như một lan tràn tươi mát của suối nguồn. Ngoài một lối sử dụng thể thơ song thất lục bát độc đáo, mới lạ, tuyệt vời nhất trong những áng thơ song thất lục bát đã có tự cổ chí kim (Tôi chịu trách nhiệm về những phát biểu đã nói hôm nay cho tới ngàn sau), không có một câu thơ nào trong 108 câu của “Tuyệt Huyết Ca” tì vết, suy suyễn (mà bạn có biết là tại sao có 108 câu?). Tôi có thể ví như một xâu chuỗi hạt, 108 hạt ngọc đều ngời sáng và quí giá như nhau. Không chú trọng tới những ưu điểm hình thức, điều quan trọng tôi muốn nói lên khi chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca”, phân đoạn và dẫn chứng, rằng không có sự phân chia nào trong Thi ca là thích hợp cho mỗi tác giả, không cố định và bắt buộc phải chịu dán cái nhãn hiệu kỳ quặt xa lạ đối với họ (Thi sĩ) Rằng Thơ phải đọc bằng tâm hồn, rung cảm tự nhiên, đọc và mê man tàng tịch trong mỗi dòng mỗi chữ. Rằng thơ phải như thế – xúc cảm ; nồng nhiệt, phẫn nộ, hay đau xót, hân hoan cũng phải chảy vào lòng người bằng ngõ ngách sâu khuất nhất của tâm hồn. Chứ không phải là một kỹ thuật dụng chữ. Dụng ngôn. Đao to búa lớn. Tôi có thể vắn tắt : Sự rung cảm truyền đạt bền bỉ và sâu sắc là phần quyết định chân giá trị của một thi phẩm chứ không phải : Viễn mơ, Dấn thân, Thiền hay một cái gì ngộ nghĩnh khác.

[/read]

Mang Viên Long
Sen Hồng Nở Giữa Mùa Trăng…

Ngày Đức Phật Thế Tôn thị hiện đản sanh – PL 2555 lại đến với tất cả chúng ta – những nguời con Phật trên khắp hành tinh này . Mùa Sen Hồng lại nở giữa ngàn trăng đang ngát hương mầu nhiệm và không ngừng xoa dịu bao nỗi ưu phiền thương đau ; mãi mãi hiến dâng bao niềm hy vọng an hòa cho cõi nhân gian đầy biến động với lẽ sinh diệt vô thường của kiếp người nổi trôi mê lầm ; đã và đang ngời ngời rực sáng trên khắp hành tinh…Hơn 25 thế kỷ đã đi qua – ngày ánh Đạo Vàng đầu tiên tỏa chiếu ở Ca Tỳ La Vệ vẫn mãi trường tồn trong muôn triệu trái tim của người con Phật của cả nhân loại và của muôn loài chúng sinh . Hôm nay và mai sau. Sen Hồng sẽ mãi mãi nở giữa mủaTrăng bất diệt trong tâm hồn mỗi người con nguyện đi theo con đường an lành giải thoát của Đấng Cha Lành…

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Cảm nhận được sự thiêng liêng thiện lành của ngày Đức Phật ra đời – Ni sư Thích nữ Diệu Quả đã thành tâm ghi lại xúc cảm qua mấy vần thơ giản dị mà đầy xúc cảm :
“ Ngày Phật Đản hiện lên vầng trăng sáng
Giữa bầu trời tỏ rạng ánh quang minh!
Quét bóng đen – sạch hết cõi vô minh…
Dạy nhân loại thực hành theo Bỉ Trí.
Ngày Đán sanh đấng Từ Bi vô nhị…
Cứu muôn loài thỏat khỏi mọi đau thương (…)”

(Kính Mừng Ngày Phật Đản)

Triệu Nguyên Phong trong bài “Một Khúc Sông Quê “ đã chỉa sẻ niềm hân hoan trong mùa trăng tháng Tư lịch sử:
“ Tháng Tư
lễ hội hoa đăng
Bồ giang ơi! Một khúc sông quê nhà
Tam giang ôm nước nguồn xa
Mây giăng đầu núi- mặn mà tình trăng (… )”

Nhà thơ Nguyễn Khôi cảm tác từ “ Vọng Tiếng Chuông Chùa “ vào một đêm Ban Mê khó quên trong đời thắm đượm đạo vị:
“ Đêm Ban Mê nằm nghe tiếng gió
Vọng tiếng chuông khuya giữa núi rừng
Một thoáng ngày xưa – ngàn dặm biếc
Trăng vàng sáng mãi cõi lòng tôi (..)”

Hình ảnh khó quên trong đời có lẽ cũng là đêm Rằm tháng Tư ở ngôi chùa quê thanh vắng nên thơ – cùng nhau vào chùa lễ Phật nguyện cầu an lành cho tất cả – Trần Minh Nguyệt đã ghi lại một kỷ niệm về “ Chùa Quê “ như thế rất sâu sắc :
“ Rằm tháng Tư em đi chùa – lễ Phật…
Quy y thiện quả kính dâng hương!
Chùa quê soi bóng trăng trong sáng
Pháp nhũ trùm giăng rộng đất trời !”

Cùng có chung cảm nhận về hình ảnh “ lễ Phật “ của những nữ Phật tử son trẻ chân phác nhân hậu – Tâm Không – Vĩnh Hữu đã xúc cảm ghi lại trong bài “Em Quỳ Lễ Phật “ dài 25 câu thơ- VHT xin trích giới thiệu bốn câu mở đầu:
“ Em quỳ rạng rỡ nét vui
Như sen một đóa vừa ngoi khỏi bùn
Chắp tay tâm sáng diệu thường
Như trăng lồng lộng ngát đường quê xưa (..)”

Nhà thơ Nguyễn Miên Thượng với “ Trăng Sáng Nghìn Xưa “ gồm 5 khổ thơ mới dã ghi lại ngày lịch sử Phật Đản Sanh bằng tấm lòng ngưỡng vọng tri ân – VHTxin chỉa sẻ cùng Bạn đọc 1 đoạn :
“ Trăng rực rớ khắp Ca Tỳ La Vệ
Trời tháng Tư ngào ngạt sắc hương hoa
Cả trần gian như bừng sáng- chan hòa
Cung nghinh đón Đấng Thế Tôn thị hiện (..)”

Trần Ba nhìn ánh trăng Rằm tháng Tư cũng cảm thấy có gì khang khác? Trong màu trăng dường như cũng tỏa hương…
“ Trăng Rằm vằng vặc muôn nơi
Dưới trăng – ta dạo nhớ lời Cha xưa…
Ánh vàng bàng bạc xa đưa
Màu trăng Phật đản như vừa ngát hương?”

Hoa Sen đã được ghi nhận như một biểu tượng thiêng liêng mầu nhiệm từ ngàn xưa để hướng tâm về điều thiện lành tinh khiết. Hướng tâm về Phật. Hoa Sen Hồng cũng vừa được Việt Nam chọn làm “ Quốc Hoa “.Trong bài “ Cảm Tác Mùa Sen “ – Trịnh Thị Vui đã bày tỏ :
“ Tháng Tư sen nở
Bừng dậy sắc hương
Không gian reo hát
Đón mừng Thế Tôn (…)”

Với bài thất ngôn bát cú – Sơn Bình chân thành ghi lại xúc cảm về “ Rạng Ánh Hào Quang” mà chính mình đã cảm nhận được nhân ngày Phật đản sinh :
“ Lành thay! Phật hiện cõi trần gian
Nhân loại nương theo ánh đạo vàng
Cứu thế – kim ngôn xua khổ lụy
Độ nhân – diệu pháp thoát nguy nàn
Đạo mầu dẫn lối qua bờ giác
Tà kiến dần xa cõi lụy phiền
Đuốc tuệ Như Lai soi khắp nẻo
Muôn đời còn rạng ánh hào quang”
Hoàng Hà với “ Tháng Tư Hoa Nở”:
“ Hoa Tâm nở ngát vườn hồng
Tiếng kinh sưởi ấm bao lòng tháng Tư
Cành thương đơm trái nhân từ
Long lanh mắt Phật ngọt lừ giọng con”

Nhà thơ Ngô Cang có được phút giây “Hành Thiền Dưới Bóng Chùa Quê” trong ngày Đức Phật đản sinh thật đáng ghi nhớ :
“ Trước cổng tam quan hoa sen nở
Thoảng thơm giữa nắng tháng Tư xanh
Hành thiền theo từng nhịp thở
Phút giât lắng dọng mãi trong anh
(…) Ta bước đi “tâm Phật rộng vô bờ”
Khi nhìn giọt sương trên đóa sen nở trắng
Hương thơm sắc thắm
Giữa ngày Khánh Đản nắng quê hương (..)”

Từ niềm vui vô biên của ngày Đức Phật thị hiện bao tâm hồn đã nhận được vô lượng pháp nhũ nhiệm mầu để tìm thấy niềm an lạc chứng ngộ tri kiến giải thoát cho cuộc đời khổ đau huyễn mộng của mình. Cấn Sách ( Thích Trung Viện ) đã bày tỏ niềm vui lớn ấy trong bài “ Thong Dong”:
(..) “Lỡ chân
nghỉ lại Ta bà
Tỉnh mơ thức giâc
lỡ làng chiêm bao
Trời cao
vững bước tiêu dao
Hướng về quê Phật
rạt rào niềm vui (…)”
Trần Đới với “ Gậy Thiền “ rất ấn tượng :
“Gậy thiền
trên đỉnh
thong dong
Bên vành nón
rạng nắng Xuân
mới về
Hoàng y
từng bước
đề huề
Đường mây trắng dựng
bốn bề hư không (..)”

Nhà thơ Kiều Trung Phương với “ Rửa “ thật vi tế sâu sắc:
“Quay về
gội rửa
thân tâm
Trong bến đục
rửa
mê lầm
phù hoa
Soi gương
ta hỏi chính ta
Bao mê hoặc
có thoát ra
rửa mình?”

Nhà thơ Nguyễn Nguyên An với 2 bài tứ tuyệt “Lành” & “Tát” ngan ngát hương đạo :
“Gắng trồng cây xanh
Tròn trịa lòng thành
Chung quy hữu báo
Dù chỉ mầm xanh”

V à
“Thời gian sắp cạn
Nhoảnh lại hư không
Chắp tay ta tát
Cạn sạch biển lòng”

Hòa cùng niềm vui chung ngày Đức Phật đản sanh – Nguyễn Thị Hiệp đã ghi lại cảm nhận về” những ngày Thầy Thích Tâm Mẫn “ nhất bộ nhất bái” ( tại Quảng ngãi tháng 7 năm Mậu Dần ) với lòng thành kính tri ân :
“Bước một bước dần về cõi tịnh
Lễ một lạy độ tận hằng sa
Tâm Từ một cõi ta bà
Nhân gian mát rượi Cà Sa Ánh Vàng (…)”
(Kính Dâng Thầy)

Vườn Hoa Tâm mùa Phật Đản có được nhiều hương sắc tươi thắm để cúng dường lên Đức Phật Thế Tôn là nhờ vào nhiều bàn tay trí tuệ của nhiều nhà thơ đạo hữu chung góp. Đây là một mảnh vườn nhỏ xinh xắn . gom góp bao cánh hoa thơ – như những nén tâm hương từ bốn phương kính dâng mừng ngày Khánh Đản. Người giữ vườn trân trọng cám ơn quý nhà thơ thân hữu đã luôn gắn bó với Vô Ưu – dành cho trang thơ những tác phẩm tâm đắc để Vô Ưu ngày càng xứng đáng với lòng tin yêu của Bạn Đọc…

Nhân mùa Phật Đản Sinh PL 2555 – chân thành gởi đến quý Đạo hữu quý anh chị em văn nghệ sĩ và gia đình lời cầu chúc: “Mãi mãi an lảnh trong Tình Yêu Thương Vô Bờ của Chư Phật!”

[/read]

Một Ngày Cô Độc 

Có đôi lúc tự dưng Thạc bỗng thấy ghét giận lão Thỉ quá!. Buổi sáng lão ta trở về chạm mặt Thạc nhận thấy nỗi ghét giận xuất hiện nơi ý nghĩ mình đành nén lại quay đi không đáp lại cái cười cười cố hữu của lão. Tuy bỏ vào phòng Thạc cũng gắng nhếch mép mơ hồ gượng gạo để tỏ ý thân mật với những cái ngớ ngẩn vô lý kỳ khôi của lão. Có đôi khi không giằn được cơn giận Thạc im lặng trở vào đóng cửa hoặc hỏi một câu vu vơ như cái cười khó thương nọ: Dạo này trên đồn tình hình đánh bài có gì khả quan không ông Thỉ ?

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Những lúc nghe vậy lão cũng cười cười nói lí nhí một câu gì đó hoặc làm thinh. Lão thường cười hơn nói. Cười ngớ ngẩn. Cười vô lý. Cười chỉ nhếch môi lộ hai hàm răng vàng bệch cáu bẩn. Lão làm y như cái cười của lão là đẹp quyến rủ lắm vậy. Nhưng lão đâu có ngờ cái cười cười của lão chỉ khiến cho những người đàn bà góa chồng như bà Sen mê thôi. Vậy mà Thạc đã phải trông thấy những cái cười đó thường ngày. Anh tự nhủ gắng mà chịu đựng. Và sự chịu đựng của Thạc đã tới lúc chỉ còn biết im lặng giữ gìn gượng gạo. Có lẽ cái cười với cặp môi lát lướt mỏng dính với hàm răng vàng bệch cáu bẩn đã làm Thạc thấy không chịu được ngay lần gặp lão đầu tiên. Một người ưa cười dễ cười lại là người thường làm cho kẻ khác khóc. Bà Sen càu nhàu khóc lóc với lão những bận từ đồn trở về lấy thêm tiền bạc bòn chắt nữ trang; nhưng lão vẫn lui tới tỉnh bơ lai rai và cười cười như thường. Dễ chừng lão không biết buồn bã tủi nhục là gì ? Thấy vậy Thạc lại ghét ghét lão sao đó mặc dù bà Sen với anh không có chút tình thần mật nào hơn một người cho thuê phòng với giá cắt cổ. Nhiều lần chui vào phòng rồi anh vẫn còn cảm giác hậm hực. Thạc nghĩ mình không nên cư xử với một người đã luống tuổi như vậy tuy lão là người đàng điếm dị kỳ. Đã bao lần vì kính mến tin mình- lão đã kể cho mình nghe vài cuộc tình rày đây mai đó thời chiến- lâu lâu lại được nghe vài chuyện lục đục giữa lão với bà Sen với bà này bà nọ- thấy lão vẫn cười cười như chẳng hề có gì xảy ra-Thạc lại thấy nỗi ghét giận lão thoáng tới khiến anh khó chịu. Ở đời lại có những chuyện kỳ cục như vậy: Có người thương kính mình mà ngược lại mình không thể đáp lại . Giá mình dửng dưng lạnh nhạt bỏ qua được thì khỏe biết chừng nào ? Cái khổ của Thạc còn ở chỗ đó nữa. Giá lão Thỉ cứ lầm lì im lặng thì đỡ cho anh biết bao. Sau bao lần cố gắng Thạc quyết định: Đừng bao giờ giận ghét người nào khi họ không là kẻ thân tình gắn bó với mình. Làm được vậy anh cảm thấy yên ổn tỉnh trí hơn giữa những người bạn xấu bụng và những người chung quanh kỳ khôi như lão Thỉ.
Thạc nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Đúng là tiếng gõ cửa của lão Thỉ Thạc ngồi im. Lão Thỉ lại quấy rầy mình về những bức thư gởi về cho vợ con rồi đây? Nhớ lại lúc lão đọc cho anh viết những giòng thư nhắn nhủ dặn dò mà Thạc muốn nỗi lên cười: “Thân gửi vợ con bà ở nhà làm ăn ra sao có mạnh giỏi không cho tui biết tin tức nhớ coi sóc tụi nhỏ lỡ đau ốm thì khổ lắm. Phần tui vẫn mạnh khỏe nhờ Trời không hề hấn gì cả làm chỗ cũ một ngày gác ít giờ hay không gác chỉ phân công thôi đi đốc canh rồi về lô cốt nằm uống rượu nhớ bà và lũ nhỏ quá bà à chắc cuối tháng tui xin phép được sẽ về thăm. Thôi chúc bà mạnh khỏe tui mừng”. Tiếng gõ cửa lại vang lên nhẹ nhàng e dè. Đúng là tiếng gõ sợ sệt khẽ khàng của lão Thỉ rồi. Chắc lão dư biết mình làm phiền người khác khi bắt họ viết thư hộ cho vợ con nên thường tỏ ra lúng túng rụt rè . Lần thứ ba tiếng gõ cửa tuy nhỏ nhưng âm vang như xáo động tận trong đầu Thạc. Từng tiếng một rõ ràng thôi thúc. Thạc đứng dậy mở cửa thật mạnh . Ồ Kim Trâm. Trâm từ bên kia cây cầu dài hai mươi mốt nhịp nơi cái quận lỵ ngơ ngác miền đất chộn rộn những đêm ồn ào đạn pháo kích rơi rải rác dọc đường- quận lỵ có cái tên nghe cũng khiếp: Hiếu Xương. Tại sao là Hiếu Xương mà không Phú Lâm như trước ? Phú Lâm nghe vẫn hiền và hay hơn đó chứ ? Trâm trong tấm áo man-teau màu xanh lá cây tấm áo thấm vài giọt nước mưa-Trâm trông có vẻ co ro rét mướt tội nghiệp. Thạc hỏi:
-Sao em qua sớm dữ vậy – Trâm ?
Trâm cười bước vào phòng cởi áo manteau treo lên móc. Nàng làm những động tác đó rất tự nhiên và khoan thai. Thạc nhìn đắm đuối vào đôi mắt Trâm tự dưng anh thấy thương thương nàng quá đi. Một nỗi chân tình và tội nghiệp như toát ra từ thân thể gầy hư của nàng bên mối tình đầu với anh mà nàng đã nguyện gắn bó tha thiết. Chợt Trâm nhìn chậm lên mắt Thạc cười khẽ:
-Qua sớm không thì anh đi mất…
Thạc hỏi – trong tiếng cười :
-Anh đi đâu mà mất ?
– Ai biết được chuyện đó ?
Ai biết được chuyện đó. Phải làm sao em biết được hết những lo lắng lận đận của anh ? Ngay cả khoảng thời giờ cuối tuần dành riêng cho em nhiều lúc anh cũng không thể giữ được. anh bận bịu quá xuôi ngược quá. Làm sao anh nói hết cho em những gì anh phải lo lắng thực hiện cho đời sống anh lúc nầy ? Ai biết được chuyện đó con gái khi đã quá yêu dễ sinh những ngờ vực kỳ cục như vậy. ai biết được chuyện đó vâng em cứ nghĩ như vậy đi cho vui. Thạc nghĩ tiếp cứ để cho Trâm có những giận dỗi nghi ngờ ghen tuông bóng gió như thế cũng tốt. Trong tình yêu không có những thứ đó cũng hơi buồn phải không Trâm ? Và Thạc không dè cô bé cũng thành thạo trong việc ghen tuông quá sức. Có ai dạy cho nàng những điều này đâu ?
Trâm ở lại suốt buổi sáng chủ nhật hôm đó bên Thạc. Bà chủ nhà trọ đã quen lệ mang sẵn hai phần cơm để ở bàn chờ. Những sáng chủ nhật Thạc coi như đã dành hẳn cho nàng. Thạc nghĩ trong suốt một tuần lễ khó khổ buồn bã nhất cũng phải có một ngày cho mình cho người yêu chứ ? Giá không có ngày chủ nhật – ngày dành cho tình yêu trong tuần thì đời sống sẽ buồn nản cô độc biết bao ? Nghĩ vậy nên anh rất mãn nguyện với việc thu xếp hết mọi bận rộn dành cả ngày chủ nhật cho Trâm.

Thạc nôn nao nhìn bầu trời xám hẳn mây lòng thầm buồn lo. Những đám mây đen vần vũ dập dềnh kia sẽ là những cơn mưa dữ dằn sắp tới chắc Trâm sẽ ướt hết và anh cũng sẽ khổ cùng với bọn học trò cả ngày nay rồi. Những cơn mưa dai dẳng kia cũng sẽ làm kết qủa của ngày quyên góp cứu trợ giảm sút hẳn đi. Thạc đứng ở hiên. nhìn bầu trời nhìn đồng hồ càu nhàu trách giận ông Trời. Đã gần 8 giờ rồi sao Trâm chưa thấy qua cà ? Thế nào nàng cũng phải tới trước những cơn mưa. Thạc cau có: Mưa gió bão lụt cả tháng không ưng bụng sao giờ còn mù mịt ướt át thế này ? Hãy để cho thiên hạ thấy chút nắng mặt trời mà lo dựng lại nhà cửa sửa san vườn tược đã gãy sập đã chớ ? Mưa mưa mưa lèm nhèm tối ngày. Quá nóng lòng Thạc trở vào lấy mảnh giấy ghi vội mấy hàng cho Trâm : “Kim Trâm anh lên trường lo chút công việc có lẽ chỉ trở về buổi trưa rồi một giờ lại đi ngay. Nếu thích em cứ nằm đây đọc sách chờ anh. Chìa khóa vẫn để chỗ cũ đó nhớ chưa? Xin lỗi không kịp thông báo cho em vì nhà trường quyết định quá gấp. Mong em ở lại”. Ghim mảnh giấy lên cửa Thạc vội vã lên trường. Nghĩ tới cái tính ưa dỗi hờn ghen tuông bóng gió của Trâm tự dưng Thạc mỉm cười. Cái ý định sẽ mang Trâm cùng tham gia công tác quyên góp ở trường Thạc không thể thực hiện được nữa. như vậy cũng đỡ bị bọn học trò chọc ghẹo.
Học sinh đứng nhốn nháo lộn xộn ồn ào trong sân trường. Thấy Thạc nhiều đứa reo lên. Anh cười dễ dãi với bọn học trò. Phần đông những đứa học trò anh đều ở tận các vùng quê lên tỉnh học rồi lại hối hả quay về đỡ đần cho cha mẹ. vì thế ngoài dáng dấp trẻ thơ đáng mến anh còn nhìn thấy nhiều nét tội nghiệp chân tình. Chúng thường hiền -chịu khó và chăm chỉ. Bước vào văn phòng anh thấy ông thầy già cựu giám thị đang thẫn thờ chờ đợi. Thạch người vừa được ông giám đốc đưa lên làm giám thị thay cho ông thầy già lăng xăng ghi ghi chép chép gì ở bàn. Và cô thư ký thu ngân đang ngồi ở góc phòng chải lại mớ tóc. Tất cả những gì cho cuộc lạc quyên chưa được chuẩn bị chút nào Thạc trở ra mượn vài đứa học trò đi mua kẹp đinh ghim. Niêm phong các thùng lạc quyên. Phát kim và huy hiệu. Chia toán . Phân công. Lập danh sách. Dặn dò. Tất cả những điều đó đều chưa thực hiện. Cái lối thực hiện “chỉ trong vòng 5 phút” của gã giám đốc chủ trường đã nhiều bận làm Thạc nản quá. Tổ chức Trung thu : Trong vòng 5 phút. Tổ chức Giáng sinh: Trong vòng 5 phút. Những khoản 5 phút kia thực là hợp với tính lười biếng lừng khừng và tài lợi của lão giám đốc giàu sụ mà dốt đặt.
Thầy Chuyên (ông thầy già cựu giám thị) dáng điệu buồn bã chán nản sau nhiều lần đi ra đi vào thất vọng .Ông liền gọi một đứa học trò bảo :
-Mày tới coi thử ông giám đốc đang làm cái gì ở nhà ? Hỏi thử sáng nay có đi lạc quyên không còn cho học trò chúng về ?
Tiếng một học sinh trong đám đông nói lớn :
-Ổng ở nhà thu băng chạy áp phe kiếm tiền chứ làm gì nữa thầy ?
Nghe lời nói đó Thạc bỗng nhớ tời lời nói của gã giám đốc mê thu băng hơn dạy học: Ở nhà thu băng khỏe. Dạy học làm gì cho mệt ? Thì giờ tôi ở nhà thu băng kiếm tiền gấp mấy lần đi dạy nữa. Tôi bây giờ không cần dạy học. Và gã tự chia cho mình một tuần với những giờ phụ phất phơ đi trễ về sớm cho khỏe.
Lúc mới vào nhận dạy thêm giờ ở trường này Thạc nghĩ là anh sẽ gắng giúp cho học sinh bằng những hướng dẫn và hoạt động trong phạm vi học tập cũng như sinh hoạt nhưng sau bao lần thử thách những cố gắng bị ngăn cản và phá hoại anh nản định chờ ngày xin thôi việc. Không thể nào sống chung hoặc làm việc bên cạnh những kẻ tự phụ lười biếng tài lợi và bất tài như vậy. Và Thạc nghĩ những hy sinh phục vụ của mình rồi đây cũng sẽ bị hiểu lầm và nghi kỵ xoi bói. Từ đó dù có tha thiết bao nhiêu với những dự định tuổi trẻ bên những đứa học trò quê mùa nghèo khổ Thạc cũng khó một mình mà chống chỏi với bao khó khăn hiềm tị nhỏ nhen chung quanh. Ở đời không làm được gì thì bị chê mà có làm được gì thì lại bị ghét. Sự có mặt của Thạc trong ngôi trường này vì vậy là một sự nhẫn nại cố gắng vì bọn học trò của anh hơn là số tiền được lãnh thêm vào cuối tháng.
Khi phân chia các thùng đựng tiền đinh ghim huy hiệu và những địa điểm cần phải có mặt vừa xong thì trời đổ mưa. Gió thổi rạt rào lạnh buốt. Tuy vậy qua dáng điệu co ro chịu đựng của bọn học trò Thạc còn tìm thấy thực nhiều niềm hân hoan phấn khởi. Sự khổ nhọc của đời sống đã dạy chúng coi thường mọi khó khăn. Gió và mưa cũng chẳng làm sờn được tấm lòng hăng say nồng nhiệt nơi tuổi trẻ. Những ánh mắt hực sáng những đôi môi luôn nở nụ cười những xoắn xít mừng rỡ của đám học trò trước mặt làm Thạc xúc động. Anh thấy niềm tin yêu của mình không đến nỗi lẻ loi cô độc như anh đã tưởng. Lúc đi ngang qua toán nữ sinh bọn Tú Ngọc Hồng Lan nhao nhao lên hỏi: Thưa thầy thưa thầy làm sao nói xin tiền được thầy ? Thạc bỗng cười: Đã nói rồi các cô cứ hỏi mãi ? Thạc dặn lần chót: Muốn người ta cho tiền mà không thấy áy náy ngờ vực buồn lòng các cô phải ăn nói dịu dàng lễ phép về lý do của việc quyên góp và sau khi đã nhận được tiền bỏ vào thùng phải thay mặt người đói rét bất hạnh cảm ơn lòng tốt của họ cho đàng hoàng… Thạc chịu trách nhiệm các toán lớp 9 do anh làm giáo sư hướng dẫn và trông coi tổng quát các địa điểm khác. Đó là phần trách nhiệm mà anh tự đặt ra bắt mình phải hoàn tất. Gã giám đốc chủ trường tứ thời đeo ống nghe vào hai tai thấy bọn học trò quá nhiệt thành và quí thầy cô lên nhận công tác xã hội cũng không nỡ bỏ đi về nhà dù lòng rất tiếc những cuộn băng đang thu dở.
Toán Thạc được phân công dẫn tới ngã Năm trung tâm thị xã. Trời mưa nhẹ nhưng cũng đủ ướt đẫm mớ tóc của bọn Ngọc Hường Nguyệt Thúy ; cũng đủ ướt áo quần của bọn Nông Quà Mạnh Quảng Ngung Thanh…; cũng đủ làm ướt rũ mái tóc bềnh bồng của Thạc lòa xòa xuống trán. Thạc chia làm hai toán ở mỗi góc đường phố. Người đi dạo phố chủ nhật thưa thớt hơn mọi khi. Từng đoàn xe nhận còi chạy lướt qua lạnh lùng. Sau một lúc làm việc không có kết quả thường bị người đi đường từ chối bị những ông quan lớn nhà giàu cự nự khi xe hơi bị chặn bọn học trò buồn tiu nghỉu bu quanh Thạc:
-Thưa thầy mấy ông kia la quá thầy ? Thưa thầy họ cằn nhằn cau có làm tụi em sợ. Buồn quá thầy ơi …
Thạc im lặng thấy thực khó xử. Anh biết nói sao đây với lũ học trò mình – ôi những đứa học trò tâm hồn còn trinh trắng tấc lòng đang bừng nóng nhiệt thành về những gì chúng đã thấy đã hỏi ? Chính mắt anh cũng đã trông thấy một ông lái xe hơi nọ cự nự xài xể học trò mình chính tai anh nghe những người nhàn tản đùa ghẹo dửng dưng trước những lời lẽ tha thiết kêu gọi của đám học trò áo quần tóc tai ướt rũ đang run lên vì lạnh vì nỗi lạc lõng cô độc ? Cuối cùng để giúp chúng nhẫn nại làm việc Thạc nói giọng tự nhiên;
-Các em đừng ngại cứ làm việc cho hết lòng là được. Ai nói gì mặc họ. Nào toán của Ngọc chia làm hai xuống ngã dưới toán của Cúc của Trương của Quà của Nông mỗi người một góc đường đi.
Trời bỗng đổ mưa ào ào. Mưa lớn rồi. Thạc nói cho các em vào nghỉ một lát đi. Tiếng của Nông của Quà đáp lại giọng quả quyết: Thưa thầy không. Cứ việc làm thầy. Tiếng cười của bọn nữ sinh phụ họa theo. Thạc phải nói : Nghỉ một lát đi tạnh mưa rồi hãy làm.
Dù anh nói vậy lũ học trò vẫn đứng im ngoài trời dưới làn mưa dày đón từng chiếc xe hỏi xin từng đồng bạc lẻ. Hình ảnh này làm Thạc thấy thương yêu lũ học trò mình dù trong bọn có đứa ở lớp cũng thường nghịch ngợm như Thiên như Siêu. Thạc cũng có mặt bên cạnh chúng nhắc nhở an ủi khuyến khích chúng. Anh nghĩ nếu không có nỗi an ủi cần thiết cho tuổi trẻ chúng dễ bị thất vọng chán nản lắm. Hễ gặp một trường hợp buồn lòng Thạc luôn miệng nói : Các em đừng ngại cứ làm việc đi. Họ nói gì mặc họ. Cố gắng đi được bấy nhiêu hay bấy nhiêu.
Khi trời vừa tạnh mưa có đứa đề nghị với Thạc :
-Xin thế này ít quá thầy ơi. Hay thầy cho một toán đi vào tận các nhà buôn coi thử sao …
Từ trước Thạc cũng đã nhìn thấy sự quyên góp thực là ít ỏi khó khăn. Kẻ nghèo thì giàu tình thương nhưng ít tiền bạc còn người giàu thì nhiều tiền bạc nhưng ít lòng thương do vậy những đồng bạc lẻ chắt mót quyên góp được dù đã thể hiện được tấm lòng từ bi bác ái đối với đồng bào mình đang bị nạn bão lụt làm phải khốn đốn đói khổ nhưng chưa thể đem lại cho họ những an ủi cấp thiết bằng bát cơm tấm chiếu. Do đó khi nghe lời đề nghị Thạc chấp thuận liền: đúng rồi toán nào lĩnh phần trách nhiệm này ? Nhiều học sinh giơ tay Thạc chọn những đứa hơi lớn một chút và có khả năng ăn nói để “cạy tủ được” những nhà buôn những nhà giàu có trong thị xã. Thế là một toán nữa bắt đầu mang thùng vào các dãy nhà dọc phố.
Sau khi đôn đốc nhắc nhở các toán còn lại Thạc lấy xe chạy một vòng các địa điểm khác trong thị xã. Lên tới đầu cầu Thạc gặp ngay một bọn học trò lắt chắt của lớp 6 và 7 chúng thấy Thạc mừng rỡ reo lên :
-Thưa thầy xin được nhiều tiền lắm thầy! Ở đây mấy người nhà quê đi chợ nhiều lắm thầy ơi…
Thạc nhìn quanh địa điểm: Đó là một bến xe Lam; và cửa ngõ của vùng quê Đông Phước Hòa Thắng Hòa Trị đổ xuống phố. Ở đây xin được nhiều tiền cũng phải. Nghĩ tới câu nói: “Ở đây mấy người nhà quê đi chợ nhiều lắm thầy ơi”. Thạc thấy thực là tội nghiệp cho những người nghèo khổ quê mùa. Lúc này chỉ có những người khổ nhọc mới cứu giúp nhau thực lòng mà thôi. Ôi những đồng bạc quí báu và thiêng liêng đã chia sớt từ một bữa chợ của những gia đình nghèo khổ tản cư. Thạc thăm hỏi và an ủi nhắn nhủ với những học sinh – những đứa học sinh nhỏ bé đứng dầm dưới cơn nưa tháng mười hai – rồi chạy rẽ xuống các ngã đường số 4 tới chợ. Nhóm học sinh lớp 9 và 10 đang đi rong trong các dãy chợ thấp lầy lội. Gặp Thạc chúng liền tỏ rõ nỗi thất vọng buồn bã : Sao người ta lơ là; dửng dưng; lạnh lùng với lũ em quá thầy à? Cũng có người nạt nộ gắt gỏng nữa lũ em buồn quá. Thạc lại phải lập lại những câu an ủi cũ mong giữ được lòng tin yêu nơi đám học trò. Đôi lúc anh thấy thực là khó khăn để xoa dịu nỗi thất vọng nơi những gương mặt ngơ ngác; buồn thiu của chúng: Chính anh cũng đang cô độc lạc lõng làm sao có thể mang lại niềm vui cho kẻ khác ? Tại ngã tư Bùi Nguyên Ngãi – Trần Hưng đạo một toán nữ sinh lớp 10 chặn xe Thạc lại than :
-Kỳ quá thầy ơi người ta cứ chạy xe như gió không ai chịu dừng lại cả?
Thạc cười:
-Gì mà kỳ ? Đâu có phải mình quyên góp cho riêng mình tiêu xài đâu ? Cứ gắng lên là được. Điều quan trọng là phải nhẫn nhục cố gắng …
Nói xong Thạc đi thẳng lên những toán của anh ở ngã Năm. Các toán vẫn làm việc hăng hái chăm chỉ. Dừng xe lại Thạc đưa tay xách thử chiếc thùng chứa bạc đã quyên góp anh nói lớn:
-Vậy là được rồi nặng lắm gằng nữa đi…
Nói xong anh thấy bọn học trò đều cười theo anh trong dáng điệu rét run tội nghiệp
***
Ở trường về -Thạc thấy nỗi buồn ngút lên lan rộng xâm chiếm mọi tưởng nghĩ trong đầu. Hình ảnh những đứa học trò ướt đẫm run rẩy những nhẫn nhục bỏ từng đồng bạc cắc vào thùng những cử chỉ nhạt nhẽo với nhiều khinh bạc của những gã lái xe hơi những lới nói gắt gỏng dửng dưng của khách nhàn tản giàu có; tất cả những thứ đó in đậm trong trong trí óc Thạc và làm anh khó chịu buồn nản. Anh nghĩ tới Trâm- Kim Trâm. Nghĩ tới Trâm lúc này như một nỗi an ủi gần gũi và nồng nàn có thể giúp anh quên hết mọi trắc trở phiền muộn: Tình yêu quả là một điều màu nhiệm vô biên cho kẻ cô độc muộn phiền. Có lẽ nàng còn chờ đợi mình ở nhà? Kim Trâm anh mong em ở lại. Anh cần có em ngay lúc này. Phải -chỉ có em là nàng tiên với phép màu mới có thể xoa dịu nỗi cô độc của anh mà thôi. Kim Trâm ơi chỉ gọi tên em anh cũng đủ ấm lòng.
Thạc đầy của bước vào phòng: Căn phòng trống trơn vắng vẻ quá. Kim Trâm .Kim Trâm. Nàng đã về. Đã trở qua bên kia chiếc cầu đen dài 21 nhịp. Đã âm thầm bên cái quận lỵ ngơ ngác nghèo khó đó rồi. Hiếu Xương hay Phú Lâm cũng vẫn là nơi người yêu ta đang sống. Thạc cúi xuống nhặt tấm giấy lên đọc: “Anh Thạc ơi em về! Em không thể chịu được nỗi cô độc khi vắng anh trong căn phòng trống trải này.” Thạc lấy bút ở túi áo viết bên cạnh dòng chữ yếu ớt của Trâm :” Anh cũng vậy! “

[/read]

Chiều Vơi Bớt Khổ 

Tôi rất tâm đắc khi đọc câu Pháp Cú sau đây trong Phẩm Ngàn (Sahassavaggo): “Tụng đến ngàn câu vô nghĩa, chẳng bằng một câu có nghĩa lý, nghe xong tâm liền an vui, tịch tịnh”. Từ lời giáo huấn trên của Đức Phật, tôi nghĩ – chỉ cần nhớ và làm theo một câu trong muôn ngàn lời dạy của Đức Phật thôi, trong suốt cuộc đời mình, cũng sẽ mang lại cho ta, cho người nhiều niềm an lạc, lợi ích – ở đời nầy và đời sau rồi! Đâu cần đọc tụng, thuộc lòng, muôn ngàn câu, mà chẳng thực hành miên mật, tinh tấn?

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Đạo Phật là triết lý sống, là đạo để thực hành, để tự tìm thấy sự an lạc giải thoát chứ không phải để chiêm bái, lễ lạy! Mọi hình thức, chỉ để “trợ duyên”, giúp ta có thêm niềm tin, thêm “duyên lành” để đến gần với Đạo; không phải là cứu cánh! Đức Phật há chẳng đã khuyên ta:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai”
Một trong vài câu kệ đơn giản tôi vẫn ghi nhớ, và gắng làm mỗi sáng từ nhiều chục năm nay khi thức dậy đón ngày mới là: “Sáng cho người niềm vui, chiều giúp người bớt khổ!” (Nhật tụng thiền môn).
“Cho người thêm niềm vui” tức là đem lại cho mình niềm vui chân chính. “Niềm vui” ấy không đòi hỏi gì lớn lao, tốn kém, mà chỉ là lòng từ ái. khoan hòa, chia sẻ, trong những mối quan hệ thường nhật với người quanh ta thôi! Một lời thăm hỏi chân tình, một nụ cười cởi mở gần gũi, một cái bắt tay ấm áp tình nghĩa, một ánh nhìn thiện cảm chan hòa… Đó là những “niềm vui” mà ai ai cũng có thể làm được cho nhau, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn.
Sự lắng nghe, cảm thông và chia sẻ, sẽ là những “niềm vui” ta có thể “cho người” mà chẳng tốn kém gì. Người được an vui, chính ta cũng là người được niềm an vui lớn hơn! Cuộc sống mà những người quanh ta đều được an vui, há chẳng phải là một đời sống hạnh phúc tuyệt vời hay sao?

Sáng dậy sớm, đưa chiếc xe đạp cà tàng ra sân, chuẩn bị ghé công viên để đi vài vòng thư giãn cho trái tim ổn định; gặp mấy chị từ các vùng quê lân cận lên chợ mua đủ loại cây trái, quả củ, chất đầy chiếc xe honda cũ kỹ tội nghiệp, loay hoay với bao đồ kềnh càng không thể chất lên xe; tôi vội chạy lại tiếp tay một chút – chị cười vui : “Cám ơn chú!” Lên đến công viên, nhìn thấy người phụ nữ trạc trên 40, đang nhích dần từng bước trên con đừog quanh công viên mỗi sáng để tập đi sau cơn đột quỵ, tôi cũng có “lộ trình” đi theo con đường ấy, mỗi vòng qua mặt cô, tôi bước chậm lại – nhìn cô, tươi cười hỏi thăm vài câu: “Sáng nay cháu có khỏe không? Gắng lên nhé!” hay “Cháu thường lên công viên lúc mấy giờ?” Những câu hỏi bâng quơ, thân tình như vậy, đã khiến cô cười rất tươi. Tôi chợt thấy gương mặt cô sáng lên một niềm tin cho dầu phía trước còn nhiều gian khó!
Sau hơn 30 phút đi bộ ở công viên, tôi đạp xe về nhà. Con hẻm dẫn vào nhà hẹp, có dốc hơi cao, gồ ghề, người ba gác già đang ì ạch đẩy xe chở đầy hàng vào căn nhà trong cùng, nhưng xe không lăn bánh khỏi đoạn đốc. Tôi dựng xe, vội đẩy phụ bác một đoạn đường hẻm ngắn thôi, không nghe bác nói gì; nhưng trên gương mặt đen sạm của bác rạng rỡ một niềm vui!
Tôi vẫn có giấc nghỉ trưa khoảng một giờ, 1 giờ 30 đã thức dậy. Theo “thói quen” hằng ngày, lúc rảnh việc, tôi thu nhặt các thứ “gọi là phế thải” (thùng giấy, chai nhựa, lon bia – nước ngọt, bao ny lông, giấy báo v.v…) từ bao rác con cháu để ở hiên, chờ xe thu rác buổi chiều đến đem đi, để dành một bao riêng, Vài ba ngày, chọn lựa được một bao đầy. Những người đàn bà vẫn thường dắt xe đạp vào hẻm hỏi mua đồ phế thải, tôi lôi ra “tặng” cho họ. Cả bao to, có lẽ nếu bán cho điểm thu mua quanh thị xã, cũng không hơn 10 ngàn đồng; nhưng tôi nhìn thấy họ rất sung sướng! Mười ngàn đồng, cũng có thể giúp chi ta mua dược mấy ổ bánh mì không (hay 3 gói xôi) cho con buổi sáng, trước khi đi học!

Người đàn ông đi xe đạp thồ trên 50 tuổi, từ quê NK xuống phố chợ đón chờ khách, thường ghé lại hiên nhà tôi ngồi nghỉ. Xin nước uống. Tôi mang tách trà mời. Hôm nào còn chút bánh trái gì nhâm nhi, đều cùng ông lai rai, trò chuyện mưa nắng. Tôi nhận ra ông ầy mùa đông cũng như mùa hạ, chỉ với bộ áo quần kaki cũ; tôi biết mình còn dư một áo ấm (hơi cũ), mấy bộ áo quần còn tốt, mang ra cho ông. Ông kêu: “Chú cho nhiều quá, chiều về tôi sẽ cho lại thằng bạn đánh xe ngựa!”
Thêm niềm vui và làm vơi bớt khổ cho người, không có gì khó – nhất là không mất nhiều thời gian, không tốn kém gì. Chỉ cần có chút lòng lân mẫn quan tâm, chút sẻ chia tùy duyên tùy cảnh – là cả ta và người đều được an vui, lợi ích! “Thêm niềm vui & vơi bớt khổ” không mất công tìm kiếm ở đâu xa; tất cả đều ờ bên ta, trước mắt ta, gần gũi trong đời sống thường nhật mà mỗi khi thức dậy, mở mắt ra, ai ai cũng gặp, cũng thấy, cũng biết. Chỉ có điều, vì ta thơ ơ, sống vội, vô cảm – thì dù có “nhìn thấy cũng như không” thôi! Vì thế, hãy tự luôn nhắc nhở mình mỗi sớm mai khi thức dậy: “Sáng cho người niềm vui/ Chiều giúp người bớt khổ”, khi nhớ đến câu thơ “Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy/ Cho ta thêm ngày nữa đẻ Yêu Thương!”( Kahlil Gibran); là ta đã xứng đáng là người con Phật rồi!

Trong thực tế đời sống, có vài trường hợp (không nhiều), có người khi quan hệ với bạn bè, chòm xóm, mọi người thì rất tốt. Luôn “cho người niềm vui & giúp người vơi bớt khổ”; nhưng với ông bà, cha mẹ, anh chị em – nhất mối quan hệ vợ chống, lại không được như vậy! Họ chưa có đủ sự quan tâm, cảm thông, chia sẻ đúng mực; hay không cho là điều quan trọng mà mình cần làm, phải làm, trước khi thực hành với mọi người chung quanh! Đây là một nhận thức rất nguy hại, có ảnh hưởng không tốt cho nhân cách đạo đức của mỗi con người; làm tổn thương sự an tịnh cần có trong cuộc sống Đạo, bởi vì, “không thương yêu giúp đỡ những người thân yêu ruột thịt của chính mình, thì có thể yêu thương giúp đỡ ai thật lòng?”
Tuy vậy, trong cuộc sống nhiêu khê, phức tạp – vẫn có nhiều trường hợp – vì nhiều lý do riêng, ta không có cơ hội “cho niềm vui, và làm vơi bớt khổ” được cho ai, thì hãy luôn ghi nhớ, chớ nên tạo nỗi buồn và nỗi khổ thêm cho người! Đó là điều mà những người học Phật cần tâm niệm và thực hành hằng ngày trong đời sống, để được đời nầy An lành, đời sau Hạnh phúc vậy!

Mang Viên Long

[/read]

Lãm Thúy

Lãm Thúy
Còn Nói Gì Quên Nhớ

Đời sống không tiếng than
Ta ngậm niềm ly biệt
Lặng lẽ qua tháng năm
Cũng không cần ai biết

Còn hỏi ta làm chi
“Đâu những điều bất toại?”
Nào ta đạt được gì
Suốt cuộc đời trôi nổi !

Ba mươi năm rồi sao?
Tưởng như vừa mấy bữa
Gió thổi buốt lòng sầu
Ta qua sông lần đó

Một lần là trăm năm
Còn nói gì quên, nhớ
Sông dài, cá mù tăm
Chim bay trời giông tố

Tại người nhắc chuyện xưa
Nên lòng ta lạ quá
Qua hết thời mộng mơ
Sao tim còn rộn rã…?

Cảm Xúc

Cứ như là thuở ban đầu
Khi ta đứng nép vào nhau. Chụp hình
Chạm nhau rất khẻ. Vô tình
Mà trong tim – máu vỡ thành tiếng ngân

Nghe chừng nắng rọi đầy sân
Như xưa dại dột. Có lần… Ồ ! Không…
Lâu rồi , ai nhớ mà mong
Ai thương mà đợi. Ai trông mà về !

Lạnh lùng như thuở xưa đi
Không dưng gặp lại . Chẳng vì ước mơ
Thực ra . Chỉ tại tình cờ
Nói chi như thể tình xưa vẫn nồng

Nhớ làm chi một bờ sông
Buổi đưa tiển ấy. Nhắc. Lòng còn đau
Không thương sao nhỏ lệ sầu
Không thương sao để vì nhau mỏi mòn?

Có người tóc bạc. lòng son
Đã thành quá vãng vẫn còn bâng khuâng
Nói gì như mấy mươi năm
Nỗi rung động ấy vẫn thầm trong ta

Nhắc gì tóc chải năm xưa
Soi gương chung bóng còn chưa quên người
Nhớ chi cho tội một đời
Đã muôn trùng vậy, ngậm ngùi mà chi !

Nói gì trong mắt ngày đi ?
Tay còn chưa chạm, đường thì xa xôi
Người về nhớ nữa hay thôi
Ta sang bên ấy, một trời hoài mong

Biết Sợ Thời Gian

Ôi! Ta từ quá tuổi năm mươi
Biết sợ thời gian, sợ bóng đời
Năm tháng lăn dài con dốc thẳm
Ngậm ngùi nghe đá nát, vàng phai…

Đâu có nhiều chi mộng tuổi xanh
Mà bao chìm nổi, thác qua ghềnh
Trăm năm ngó lại. Đời như khói
Một nhánh sông buồn. Ta quẩn quanh…

Một nhánh sông buồn. Ta nổi trôi
Hoa rơi, bèo giạt xót xa đời
Nở trong ly loạn thời binh lửa
Tan tác xuôi theo ngọn sóng giồi !

Hạnh ngộ, từ ly khóc đã nhiều
Sinh ly, tử biệt cuốn mình theo…
Trăm năm mà sống như nghìn tuổi
Một mảnh hồn tan nát, hắt hiu !

Ngó lại đời ta, lệ đã đầy
Nghe niềm tàn tạ rớt quanh đây…
Chiều thu, đứng lặng bên triền dốc
Xót lá thu vàng tơi tả bay !

Bày Tỏ

Có người, dù xa , vẫn nhớ người
Một thời nuôi mộng, thả mây trôi
Nằm nghe sóng vỗ con thuyền cạn
Đợi ánh đèn khuya hắt bóng soi

Ta cứ chờ như thế mỗi đêm
Nghe từng rộn rã bước chân quen
Bàn tay mầu nhiệm đêm thương tích
Người tái sinh đời ta. Chẳng quên !

Những ngày tháng đó dù tai ương
Mà còn mơ ước để sinh tồn
Người mang đến bao niềm hy vọng
Thả chiếc phao vào giữa đại dương.

Thuở ấy, lòng ta như gương soi
Ngưỡng vọng ai : Thiên sứ tư trời
Ôi ! Có lời thơ nào đủ đẹp
Để ta thành kính tạ ơn người !

Rồi đời phân ly , người xa người
Chân trời góc bễ đã chia phôi
Mấy mươi năm giữa dòng lưu lạc
Theo dấu tìm nhau cũng cạn đời !

Người tái sinh đời ta một lần
Xua ngày băng giá , trãi hoa xuân
Khi ta còn sống , còn hơi thở
Sẽ chẳng bao giờ quên nghĩa ân !

Sự sống người cho ta, đã trôi
Đứa con yêu dấu đã qua đời
Mà sao kỷ niệm còn lưu mãi
Năm tháng phai tàn. Đâu dễ nguôi !

Có người vẫn nhớ, dẫu muôn trùng
Vốn chẳng hẹn hò sao thủy chung?
Còn nghe vạt sóng bao năm cũ
Bâng khuâng , dào dạt vỗ bên lòng …

Ta bữa về thăm , có ghé qua
Bên bờ quê cũ hết còn hoa
Sao dời vật đổi từ lâu lắm
Chẳng dễ chi tìm ra dấu xưa

Người cũ không còn , cảnh chẳng quen
Khơi lòng ta một nén hương nguyền
Ngậm ngùi đứng lại, nghe tàn tạ
Nuốt thầm, sao lệ cứ dâng lên!

Lãm Thúy

Luân Hoán

Luân Hoán
Nụ Thơ Hàng Xóm

khi đứng rửa chén một mình
thỉnh thoảng vô cớ thình lình liếc nghiêng
bộ bàn ghế đặt ngoài hiên
thoáng như có bóng ai yên vị ngồi

định thần nghiêng cổ trông vời
chỉ là cơn gió khẻ rời ghế không
giật mình tưởng tượng viễn vông
một con ma nữ môi hồng lén thăm

hai tay đầy bột xà bong
làm tuột đôi đũa theo dòng nước trong
nhích người xê dịch khoảnh hông
nhìn ra cửa kính mênh mông không người

cô hàng xóm có chồng rồi
tóc vàng môi rộng đẹp đôi Hoa Kỳ
lắm lần không biết nghĩ chi
cô làm tôi nhột chỉ vì nhìn qua

ánh mắt lạ lạ rất là
không đâu, rất khó thể mà, vẩn vơ
hẳn bị bắt gặp bất ngờ
đang rửa chén, dị, khù khờ thế kia

tôi lành như tấm mộ bia
của cô vợ đảm thật xua lâu rồi
làm sao tránh khỏi mơ chơi
chân dài bụng hở em ngồi hướng qua

một mình lúc thúc ở nhà
rửa xong đống chén lần ra hiên ngồi
con chim nuôi hót không tồi
mang ra luôn, thế một người bạn thân

vợ vắng, cô láng giềng gần
thiếu bàn cờ tướng bần thần cách chi
chờ dài cổ chưa thấy gì
ngoài quân với lính ông thi sĩ cùn

thơ cùng nước lọc uống suông

Hương Bài Thơ Cũ

bốn mốt năm xa chợt sáng nay
hương bài thơ cũ gợn chân mày
tiếng vàng thỏ thẻ reo hồn nhạc
đánh thức tình vui mở cánh bay

đứng lại trên hè ngã tư xưa
một thời chờ đợi run tay đưa
đôi câu viết vội trên bao thuốc
tim đập liên hồi quên gởi thưa

kịp nhớ bàn tay rất thẹn thùng
giấu ngay vào vạt áo rung rung
quay mình thả bước nhanh theo bạn
nhưng gót chừng như vướng nhớ nhung

em khuất dần trong đám bạn bè
ta vào trở lại quán cà phê
trái tim rộn rã chưa kịp tĩnh
và suốt cả ngày như vẫn mê

ta vậy, còn em… đến bây giờ
mới hay em vẫn đợi chờ thơ
những hôm qua ngã tư quen ấy
ta vắng, em buồn lo ngẩn ngơ

tội nghiệp cho em đã hết lòng
vì thơ, đã vội vã qua sông
mang theo tất cả bao câu chữ
truy niệm cuộc tình chẳng trổ bông

cảm tạ tình em nuôi dưỡng thơ
ươm thơm thương nhớ đến bây giờ
cũng may thơ chính là em đấy
ta với em là… cũng chính thơ

vốn hiểu lòng nhau đã quá lâu
từ hôm mắt chạm mắt lần đầu
bài thơ không chở nguồn ngôn ngữ
chỉ đựng tình yêu trao gởi nhau

vẫn nhớ đêm trong cánh võng xanh
đêm trên nền phản ván yên lành
mắt tình quấn quít tay không chạm
hạnh phúc reo theo gió lướt mành

sẽ nhắc nhiều hơn kể nhiều hơn
cửa đông mãi ngát những hương thơm
hương bài thơ cũ chưa hề cũ
vẫn mới tinh khôi ở trong lòng

Đưa Đò

đưa người tha thiết đưa người
lạ quen qua lại ngược xuôi mỗi ngày
dòng nước chảy ngày hôm nay
khác hôm qua khác mai này ra sao ?

miên man gió thở rì rào
vi vu gió hát nắng đào mưa bay
đôi bờ chim hót trong cây
bình yên hoa nở lá dày cành xanh

người chậm chạp kẻ tinh nhanh
cùng chung vẻ đẹp hiền lành bao dung
con đò từ tốn khiêm cung
tay dầm khua nước vui chung với lòng

hỡi ơi ai đã qua sông
có nghe tiếng sóng của sông của người ?
tưởng chừng như chẳng buồn vui
man man tâm sự ngậm ngùi xót thân

vu vơ có được mấy lần
ngắt hoa súng đặt nơi chân đứng người !
chỗ ngồi gió thổi mất hơi
vẫn như đọng lại nụ cười vu vơ

bờ qua rồi lại qua bờ
trên trời dưới nước mây hờ hững trông
người đưa đò phút ngồi không
hình như biết nhớ biết mong điều gì

hồn nhiên trời đất thầm thì
con đò chiếc lá tre đi lừng khừng
sóng trong nước còn nhớ nhung
sóng trong lòng có nhịp rung theo đời ?

trôi sao mau hết kiếp người
hỡi ơi !

Luân Hoán

1 2 3 4 5 6 58