Phan Các Chiêu Hằng

Phan_Cc_Chiu_Hng_1(1)

Đường Về

Nàng nghiêng người nhìn ra bầu trời xanh ngắt bên ngoài khung cửa sổ nhỏ. Tiếng động cơ vẫn nổ đều rì rầm bên tai. Phía dưới kia, những rặng núi bắt đầu hiện rõ hình dáng. Phi cơ bắt đầu xuống thấp dần, bởi nàng có thể nhìn thấy những vách đá thẳng đứng không bị tuyết bao phủ. Nhìn thấy được cả chút màu xanh ẩn hiện đâu đó của những rừng cây thông nằm sâu trong thung lũng xa mịt mờ dưới kia, nơi lớp tuyết trắng như bông đã dần tan. Tháng bảy rồi còn gì. Nơi thành phố nàng vừa bỏ lại sau lưng, cái nắng nung người dữ dội đã bắt đầu từ mấy tháng trước. Mùa xuân và mùa hè không có biên giới nào rõ rệt. Nàng chợt nghe lòng mình quặn lên, hốt hoảng. Nàng cúi nhìn xuống đôi bàn tay của mình xếp lại nằm im thẳng thớm trên nền áo màu vỏ măng cũt tím sẫm. Chàng vẫn bảo, tính em đâu có ủ ê sầu não, mà sao quần áo cứ lựa màu buồn bã tối tăm. Chiếc nhẫn vàng trơ trụi nằm trên ngón tay áp út, thân quen như đã trở thành một bộ phận sống của cơ thể. Như tay chân. Như buồng phổi. Như trái tim. Vậy tôi đang làm gì ở đây, chiếm một chổ ngồi nhỏ nhoi khiêm nhường trong lòng phi cơ này, bay về một nơi chốn lạ? Phi cơ đang vùn vụt hướng tới trước, mà lòng tôi sao cứ giật lùi? Khung cảnh chung quanh rất đỗi bình thường. Người đàn bà bên cạnh vẫn ngủ ngon lành từ lúc phi cơ cất cánh. Đầu bà lúc ngoẹo qua bên phải, lúc ngoẹo qua bên trái, lúc lắc nhịp nhàng. Cô tiếp viên hàng không thỉnh thoảng qua ngang, ngó cười thân thiện. Vậy đó, mà sao trái tim tôi lại đập rộn ràng rối nhịp như những ngày xưa, khi bồn chồn ra vào lắng nghe tiếng chân chàng lao xao trên lối sỏi. Một thuở hẹn hò. Một thời yêu đương. Dùng chữ “một thời” chắc cũng không đúng, vì nó biểu hiệu cho những gì có bắt đầu và đoạn kết. Bắt đầu, dĩ nhiên là có. Còn đoạn kết, làm sao tôi biết được! Bởi tôi vẫn nghĩ chuyện kết thúc đã xảy ra bao năm về trước. Mà nếu thế, giờ này tôi đã chẳng ngồi đây để hồn trôi theo những tầng mây lênh đênh vô định. Rốt cuộc, có phải lâu nay tôi đã tữ lừa dối chính mình?
Nàng chớp mắt, nghĩ tới chàng, và tự dưng mỉm cười vu vơ. Nàng nhớ tới ngọn đồi con ở gần ngôi nhà cũ. Ngôi nhà có mảnh vườn giáp mé với bìa rừng, có dàn wisteria dây leo uốn éo ngoài sân sau vẫn nở từng chùm hoa tím thơm ngát vào mùa xuân. Mỗi lần chàng ghé qua, hai đứa hay dẫn nhau lên ngọn đồi sau nhà, nằm dài ra trên cỏ nói chuyện bâng quơ. Nàng gối đầu trên cánh tay chàng, nghe tiếng chim hót, nghe tiếng gió đùa, và nghe hạnh phúc lao xao len lỏi vào từng hốc kẹt trong trái tim hồn nhiên. Hồn nhiên? ừ, thì nàng mới mười bảy, mườn tám chi đó. Mà những ngày rong ruổi lang thang trên đồi dưới suối với chàng phải vào mùa hè. Vì trời ấm, xanh, và cao ngất mấy từng không.
Phía bên kia ngọn đồi là dòng suối nhỏ, nước trong veo, chảy róc rách không ngừng. Mùa xuân, tuyết tan, dòng suối rộn ràng linh động hơn. Mùa hè và mùa thu, nhịp nước trôi lặng lờ êm ả. Chàng nắm tay nàng đi dọc theo bên bờ, nàng tung tăng bước nhỏ, luôn co chân đá tung những hòn đá lăn lông lốc xuống ven suối, rồi cười hớn hở, hồn nhiên. Chàng gầm gừ hăm dọa:
– Em mà không hết lăng xăng, chắc anh phải đi mua sợi dây xích về cột chân em lại.
– Nàng chu môi, cười ngạo nghễ một cách dễ giận:
– Em thách đó. Anh không nghe người ta nói “when you love something, set it free…”? Anh đòi cột em lại là làm sai sách vở hết trơn.
– Cột lại không thôi thì nói làm gì. Với em thì chắc anh còn phải… đóng chuồng. Em tuổi con gà, phải không? Gà tre hay gà ác? Em thích sửng cổ cải cọ, chắc phải là gà lôi hay gà nòi. Con gà thì bị nhốt vô chuồng là đúng quá rồi chứ còn gì nữa.
Nàng nheo nheo mắt, làm bộ suy nghĩ:
– Em nhớ hình như em bị làm khai sanh… lộn. Đúng ra là em cầm tinh con khỉ, thích leo trèo và ăn… khô bò.
– Khỉ ăn chuối chứ làm gì có chuyện khỉ ăn khô bò?
Nàng cười khúc khích:
– Đây là khỉ… thành tinh mà anh.
Mùa thu, trời trở lạnh. Nàng không mò mẫm xuống suối nữa mà chịu nằm yên ngoan ngoãn trên đồi, gối đầu lên tay chàng, dĩ nhiên, và đếm lá vàng… rơi. Khung cảnh ảm đạm làm nàng buồn đi một chút, vì thảm cỏ đã bắt đầu tàn tạ héo hon và bầu trời đùn mây thấp xám nặng màu chì. Nàng hỏi chàng:
– Anh có nhớ cái chuyện ngắn “chiếc lá cuối cùng” bằng tiếng Anh hồi ở trung học không?
Chàng cười, lắc đầu:
– Anh già quá rồi, làm sao nhớ chuyện từ thời ở trung học. Với lại hồi đó anh chỉ tới trường để được… hoãn dịch, chứ đâu phải để thu thập kiến thức. Mà truyện đó đầu đuôi như thế nào?
Nàng nhìn chàng ngờ vực, nhưng vẫn hắng giọng kể:
– Thì cái chuyện viết về một con nhỏ bị bệnh nặng, nằm chèo queo trên giường suốt ngày ngó ra ngoài cửa sổ ngắm lá rụng. Con nhỏ in trí là khi cái lá vàng cuối cùng mà rụng đi, thì nó cũng chết. Có thằng cha họa sĩ hàng xóm nghe nói vậy lấy làm tội nghiệp cho con nhỏ, nên trời lạnh căm căm mà ban đêm thằng cha cũng lén mò ra ngoài để vẽ lên tường hình mấy cái lá vàng…
– Để làm chi vậy?
Chàng ngắt ngang, làm bộ ngớ ngẩn. Nàng cau mày, suỵt suỵt:
– Đừng hỏi lộn xộn làm em mất hứng, anh sao kỳ cục quá, em đang kể ngon trớn… ờ, để coi. Thì làm như vậy để con nhỏ đó tin là cây vẫn còn lá, thì nó chưa chết. Hình như tại thằng cha họa sĩ cứ mò ra ngoài ban đêm lạnh lẽo như vậy nên cuối cùng bị cảm lạnh tới sưng phổi, hui nhị tì… End of story.
Chàng la trời:
– Hình như?… Em kể chuyện gì kỳ vậy? Đoạn kết gay cấn vậy mà em chỉ nhớ là “hình như”?
Nàng cười:
– Ai biểu anh đi học mà không chịu để ý làm chi. Bài trả lại hết cho thầy cô. Phải chi anh nhớ, thì cần gì em kể cho nghe? Mà không nghe, đã không ấm ức bực bội la làng…
Chúa nhật, nàng lon ton theo chàng đi xem lễ vào buổi sángg. Nhà thờ cách đó không xa, chừng nửa dặm đường. Hai người đi bộ ngang qua con đường có những dãy nhà hai tầng cũ kỹ, vách ván, sơn những màu nhàn nhạt tương tự nhau. Nhà nào cũng có một khoảnh sân nhỏ trải sỏi hay trồng cỏ và vài bụi cây kiểng xác xơ, èo uột. Qua hết con đường, quẹo trái, là bầu trời như chợt đậm đà ra với màu xanh của những hàng cây khuynh diệp sừng sững cao trong công viên phía bên tay mặt. Giữa công viên là một cái hồ nhỏ xíu, nước xanh thẳm một màu rêu, luôn luôn có mấy chú vịt nhàn nhã lội bơi. Chàng trêu nàng, gọi là cái “ao tù”. Nàng sừng sộ:
– Đây là hồ… Tĩnh Tâm của người ta. Em hay ra đây ngồi ngắm mấy con vịt, mỗi lần có chuyện… suy nghĩ.
Chàng thừa biết điều đó, cũng như biết là nàng còn lẩm cẩm đến độ đặt tên cho những con vịt mà nàng… nhận diện được, nào là Vịt-cồ, Vịt-đẹt, Vịt-bầu… nên chàng bèn cười:
– Vậy sao không gọi là Hồ Vịt, nghe nó dễ hiểu hơn? Em sao mà rắc rối lắm chuyện.
Qua khỏi công viên là nhà thờ, với tường vôi trắng, nóc nhọn, và những bậc thềm đá hoa cương lấm chấm đen trắng như rắc bụi. Nàng là kẻ ngoại đạo, nhưng chăm chỉ đi nhà thờ, chăm chỉ đọc kinh làu làu một cách rất nghiêm trang thành khẩn. Nhưng không bao giờ chịu công nhận là vì chàng. Nàng lý luận:
– Em vừa đi chùa, vừa đi nhà thờ. Vừa “kính mừng Maria…” vừa “Nam mô A-di-đà…” Em lo xa như vậy, mai mốt chết không được Chúa cứu thì em cũng được Phật độ.
– Lỡ không ai thèm ra tay nghĩa hiệp vì thấy em … ba phải?
Nàng cười:
– Chúa, Phật đều là “người” tốt, sức mấy mà đành đoạn bỏ rơi em. Em là người nhiều đức tin lắm, anh đừng có giỡn mặt!
Chàng lắc đầu chịu thua, rồi mơ mộng chuyện tương lai xa vời:
– Mai mốt đất nước mình yên vui, anh sẽ đưa em về quê anh. Lúc đó em đỡ mất công hơn.
– Sao vậy hả anh?
– Tại vì quê anh có nhà thờ chính tòa và chùa nằm sát bên nhau, cách có cái hàng rào. Tha hồ cho em… chui rào qua lại. Gần đó lại có lò bánh mì ngon nổi tiếng lắm, nhỏ ơi. Em mê bánh mì, “nhất cử” mà tới … “tam tiện”!
Nàng cười khúc khích, ra chiều hài lòng với viễn ảnh tương lai. Mắt chàng bắt đầu đượm vẻ mơ màng:
– Nhất định phải đưa em đến thăm trường cũ của anh nữa. Ngôi trường đẹp đẽ và ngon lành nhất nhì nước Việt Nam Cộng Hòa đấy nhé, cô nhỏ. Trong khuôn viên trường có ba con đường chính chụm đầu lại vào nhau thành hình tam giác. Anh chỉ còn nhớ có hai tên, Đỗ Mai Lộ và Hoàng Hoa Lộ. Hoàng Hoa Lộ có tên như thế là vì dọc theo con đường này người ta trồng hai hàng cây muồng đen giao ngọn vào nhau. Cây muồng đen đẹp lắm em ạ. Có lá nhỏ lăn tăn và hoa vàng nở thành từng chùm rực rỡ vào mùa hè. Trường anh có một nơi gọi là vườn cây Mẫu, trồng đủ loại cây để dùng vảo việc thực tập khảo cứu như cây sao, cây vàng tâm…, có Đại Thánh Đường uy nghi nằm cạnh hồ sen thơ mộng dùng để họp hành hay trình diễn văn nghệ. Kế đó là vườn trúc đẹp tuyệt vời như trong tranh vẽ. Rồi anh sẽ đưa em qua cầu Trắng về phố chợ, đi uống cà phê và thưởng thức nhạc tình ở quán Ngọc Loan hay quán Anh Đào nằm bên bờ hồ. Ngày còn đi học thì bọn anh thích quán Anh Đào. Vào lính rồi, khi về phép thì anh mới có… can đảm để ghé quán Ngọc Loan. Mà chắc phải mình nên đi quán Ngọc Loan, em ạ, cho em có dịp ăn thử thịt… chó.
Nàng xanh mặt, kêu lên:
– Ghê! Quê của anh sao khủng khiếp vậy? Toàn dân… nhậu không hả? Quán thì bán thịt chó. Trường thì có đường tên Mai-Quế-Lộ.
Chàng nhăn mặt, sửa sai:
– Đỗ Mai Lộ, cô nhỏ ơi. Gì mà có Mai-Quế-Lộ trong đó! Ghê vậy thì thôi, không thèm dẫn em đi xem đồi trà hay đồn điền cả phê. Cho người quê mùa lục tỉnh khỏi có dịp nhìn hoa cà phê trắng…
Nàng xuống nước năn nỉ. Thôi nói cho em nghe về vườn trà với hoa cà phê đi. Kể cho em nghe về tháng ngày tuổi nhỏ khi anh theo mẹ đi hái trà trên những nương đồi chập chùng xanh ngắt. Tả làm sao cho em có thể hình dung được màu lục mơn mởn tươi tắn củ những đọt trà non vừa hái, những đọt trà chớm nẩy mầm với hai chiếc lá con bé xíu dễ thương khi mùa mưa tìm về làm đục mờ bầu trời cao nguyên bụi đỏ. Anh nói thêm cho em biết về những nụ hoa trà dại màu trắng điểm chấm tim tím nhỏ xíu mà bãng lãng mùi hương thơm ngát núi rừng. Những cảnh đó nghe thơ mộng hơn quán Ngọc Loan bán thịt chó của anh nhiều… Nàng thủ thỉ bên tai chàng, mắt sáng long lanh mở lớn đợi chờ.
Mùa đông về mang theo tuyết trắng phủ kín ngọn đồi và dòng suối sau nhà. Những chú vịt lang bạt ngoài hồ Tĩnh Tâm của nàng cũng biến đi đâu mất. Nàng không còn lang thang giang hồ vặt được nên dặn dò chàng:
– Anh đem mấy cái áo thun lại đây. Bây giờ em rảnh rồi. Em sẽ “trang trí” mấy cái áo cho anh, chớ áo gì chỉ có một màu nhìn hoài chán chết.
Chàng hốt hoảng:
– Em định vẽ gì lên đó? Em biết anh bị… dị ứng với hoa cỏ, thú vật, chim muông, mặt người kỳ dị…
– Anh đừng lo. Em chỉ vẽ hình lập thể và trừu tượng…
Chàng ngẩn người, không biết có nên tin lời nàng? Nhưng cãi làm chi cho mất vui. Vài cái áo thun mà đánh đổi một nụ cười. Mười đầu ngón tay của nàng có đến chín cái xoắn ốc “hoa tay”. Nàng vẽ vời rất khá, chàng biết điều đó, nhưng thà mất lòng trước, được lòng sau, nên chàng cẩn thận giao hẹn:
– Đừng cho màu gì nhiều “nữ tính” quá, nhớ nghe em…
Vẽ xong mấy cái áo được chàng gật gù khen thưởng nhiệt tình, nàng cười vui hớn hở. Mùa đông vẫn chưa qua hết. Nàng nhắc nhở:
– Hôm trước anh nói mới thâu một đống băng nhạc mới, muốn em kẻ chữ đề tựa. Lần tới anh nhớ mang lại. Bảo đãm không đẹp là không tính tiền.
Rồi nàng đề nghị:
– Hay là em may áo chemise cho anh nghe? Anh vẫn muốn có cái áo màu đen phải không?
Chàng lắc đầu phục lăn mớ tài vặt của nàng:
– Em biết may nữa?
Nàng tỉnh bơ:
– Em chưa may quần áo lần nào, nhưng thấy cũng dễ. Anh kiếm cái áo cũ cũ, đưa cho em tháo ra làm ni. Cái đó là quan trọng nhứt. Có ni rồi, cứ may cho mấy miếng vải rời dính lại… thành chùm với nhau chớ có khó khăn gì đâu?
Hai tuần sau, nàng khoe với chàng công trình vĩ đại của mình. Cái áo chemise đen nhìn cũng y như thật. Đường may thẳng. Cổ đứng. Nút đơm… cùng một bên. Nhưng rộng thùng thình. Nàng ngượng ngập giải thích:
– Em thấy cái áo anh đưa làm ni sao coi ốm nhom ốm nhách. Em nghĩ là anh phải mập hơn nên nới thêm cho anh vài phân.
Rồi phụng phịu:
– Em còn thêu tên hai đứa lên cổ áo. Thêu bằng chỉ đỏ đàng hoàng cho nó nổi. Chưa nghe anh khen tiếng nào!
Chàng vạch cổ áo ra ngắm nghía tên mình và tên nàng nằm cạnh bên nhau, trông có vẻ rất là chung sống hòa bình. Chàng mỉm cười, lòng chợt ấm áp không đâu. Vây mà em vẫn chưa thèm nói tiếng yêu ta. Quả là con người bướng bỉnh cứng đầu.

Ngày cưới, nàng làm bộ điệu hạnh, eo xèo một chút như trong bài hát. “khóc như cô thiếu nữ lúc bước đi về nhà chồng. Phút xe hoa khép kính tiễn nét trăng độ vừa tròn…” Chàng an ủi vỗ về:
– Bây giờ thì em luôn luôn có anh trong đời, home is where your heart is.
Nàng khóc nhiều hơn một chút nữa, thổn thức:
– Nhưng mà em còn nhỏ quá, em đâu có biết làm dâu. Hồi đó tới giờ má đâu có bắt em làm công chuyện nhà gì đâu. Em chỉ mới biết “dọc mùng” là cây bạc hà. Cái “môi” là cái dá múc canh.
Chàng kêu trời:
– Vậy sao em nhận lời lấy anh bây giờ. Mình chờ thêm vài năm nữa cũng đâu có sao.
Nàng lau vội nước mắt, nhìn chàng cười ngỏn ngoẻn:
– Nhưng mà em thích ở bên cạnh anh suốt ngày đêm, hết năm này qua năm nọ. Chờ lâu, phát mệt. Lỡ cô nào nhào vô là em… lúa.
Tuần trăng mật ở miền biển là chuỗi ngày đẹp như trong truyện thần thoại hoang đường. Tháng bảy là mùa thiên đường của nắng hồng, trời xanh và mây trắng. Tháng bảy quay cuồng mê đắm của những tấu khúc hân hoan. Màu cát trắng chói lòa như bốc hơi trong nắng nhiệt đới, bãi biển cạn với con dốc thật lài, chạy mãi tuốt ngoài khơi tít tắp. Hai người kéo nhau đi miết ra xa, khi không còn mấy ai quanh mình. Nàng ngụp lặn đùa giỡn theo nhịp sóng đẩy đưa, hai bàn tay mềm quấn quít bám siết trên vai chàng, trôi tuột xuống miền bụng phẳng phiu, tiếng cười nàng dòn tan như thủy tinh vỡ. Những giọt nước biển trong vắt mặn mà đẫm ướt mắt môi. Những nụ hôn nồng nàn cuống quít. Chàng thì thầm bên tai nàng, lời rì rào êm ái như gió đùa trên sóng. Nhỏ ơi, ta yêu em. Anh yêu em. Và nàng lại cười. Nụ cười tươi long lanh hạnh phúc. Buổi tối, trên balcon hiu hiu gió thoảng thơm ngát mùi hương ngọc lan, nàng nằm khoanh ngoan ngoãn trong vòng tay ấm áp của chàng, mặt hướng về biển tối mịt mờ ngoài xa. Hai người cùng im lặng lắng nghe những xúc cảm dịu dàng trôi nổi lênh đênh trên miền thịt da êm ái. Tiếng sóng vỗ về thì thầm lẫn trong tiếng những tàu lá dừa xào xạc đong đưa trong gió. Rồi chàng đưa tay chỉ bâng quơ ra ngoài trời bao la, thì thào với nàng:
– Em có thấy không? Có thấy là anh mang dâng tặng nguyên cả một bầu trời rộng và một góc biển riêng tư cho em để dành làm chút gia tài yêu thương cho ngày sau?…

Nàng hay nhớ lại những ngày tháng đó trong những lần ngồi chờ chàng về trước mâm cơm đã nguội lạnh. Nước mắt rơi xuống cũng mặn như nước biển năm nào, nhưng cõi trời xưa đã khép và lời biển xưa đã im lìm. Bầu trời xanh bao la giờ thu lại trong căn nhà nhỏ, chỉ chứa đủ những bước chân loanh quanh buồn bã của nàng. Bước âm thầm của những đêm lui tới ngóng chờ chàng về. Bước hối hả chạy đi lấy chiếc thau con để cho chàng ụa mửa thốc tháo trong cơn say. Bước nhẫn nhục đi tìm cái khăn ướt để lau mặt cho chàng tỉnh táo, pha cho chàng một ly nước chanh ít đường chua đến gắt cổ, se môi. Nước mắt nàng lại đầm đìa rơi xuống. Vài giọt lẻ loi đọng lại trên mặt chàng. Khuôn mặt xương với triền mũi thẳng và đôi mắt chan chứa yêu thương đã cuốn hút trái tim nàng năm nào. Đôi mắt giờ hằng những đường gân máu đỏ chạy dọc ngang như những vết chém thảng thốt gạch nát trên mảnh hồn buốt lạnh tê điếng của nàng.
Ngày hai người ly thân, người chị chồng tốt bụng đã an ủi:
– Thôi cũng may cho em. Nếu hai đứa có con với nhau thì còn khổ thêm. Ít nhất như vầy em còn rảnh tay tạo lập lại cuộc đời.
Bà cô ruột thì chép miệng:
– Phước đức đó, con ơi. Bỏ được cái thằng rượu chè say sưa như vậy là tốt lắm rồi. Tiếc làm chi…
Nàng dọn vào căn apartment một mình. Vừa loay hoay sắp xếp đồ đạc, vừa cố gắng… đếm những cái “may mắn” và “phước đức” của mình mà hình như những người chung quanh ai ai cũng nhận diện thật dễ dàng. Vậy mà sao nàng chỉ nhìn thấy thảm cỏ xanh trên đỉnh đồi con và dòng suối nhỏ hiền hòa sau ngôi nhà thời con gái. Khu rừng bạch dương với những thân cây màu trắng bạc điểm lấm tấm lá vàng vào mùa thu. Những con đường nhỏ đã tay đan tay đi qua cùng chàng. Những chuyến xe bus đã thả chàng xuống góc đường ở cuối ngõ nhà nàng. Những đêm trăng bàng bạc trải lụa ngà trên chăn chiếu thơm tho, tắm đẫm nồng nàn trên môi mắt. Sao trong tận cùng những góc thẳm của vòm trời ký ức, nàng chỉ nhớ được màu trùng dương xanh biếc và tiếng sóng rì rào thiết tha réo gọi. Và chỉ biết là từ đây và mãi mãi về sau, sẽ không bao giờ còn nữa những buổi sáng vừa mơ màng thức giấc, nằm khoanh tròn lười lĩnh trong vòng tay chàng ấp ủ, cùng lặn nhìn dòng nắng vàng rực rỡ hay những bông tuyết trắng xóa bay ngập trời phía bên kia vuông cửa sổ của một thời đằm ấm yêu thương.

Có đôi lần nàng nhìn thấy trong chiêm bao cảnh tượng này. Những bước chân nôn nao cuống quít trong lòng con đường hầm nối liền cửa phi cơ và tòa nhà. Nàng hiện ra ở cuối con đường hầm đó, bỡ ngỡ ngó quanh tìm kiếm. Và nhìn thấy chàng. Vẫn dáng cao và gầy. Cũng trong chiêm bao, chàng đứng tựa lưng bên cạnh bức tường ngăn bằng kiếng, cạnh gốc dừa kiểng thưa lá cao lêu khêu, bồn chồn đợi chờ. Chàng mặc quần xanh olive, màu nàng vẫn thích, áo chemise màu rêu nhạt lấm tấm những hình vuông tròn lẫn lộn nhỏ xíu màu đen và cà phê sữa. Giấc mơ luôn luôn nằm vào thời điểm của một ngày mùa đông. Nên chàng mặc thêm áo len dầy, sợi nhỏ đan vào nhau quấn quít, màu cặn rượu đậm đà. Trên vai chàng khoác hững hờ cái áo da màu đen. Nàng hơi hụt hẫng một chút, nhớ đến khu rừng và ngọn đồi ngày cũ, nơi đã bao nhiêu lần nàng nhìn thấy chàng trong áo khoác mùa đông màu đỏ ấm áp. Màu của lửa ngọn nồng nàn. Nhưng trong chiêm bao, rõ ràng chiếc áo da khoác trên vai chàng có màu đen tuyền, mịn màng, trơn láng, đã kề sát môi má nàng khi vòng tay chàng khép chặt quanh thân. Rồi hai đứa lơi tay ra để nhìn nhau cười nhẹ, nụ cười ngượng ngập, ấm áp… Nàng nhìn qua vai chàng, bên kia bức tường kiếng là phi đạo trải dài hun hút. Xa xa nữa là những núi đồi chập chùng tuyết phủ. Nàng nhớ lời chàng vẫn hát vào mùa hè năm xưa. “Rước em lên đồi, cỏ hoa ngập lối…”
Nhưng đó là trong chiêm bao. Giờ nàng đứng đây, ở cuối con đường hầm, đối diện với bức tường kiếng trong vắt cao sững sờ. Dĩ nhiên là chàng không có đó để đợi chờ, vì làm sao chàng biết được là nàng đang có mặt trong thành phố này, dù những lời nhắn gửi đã ngân vang bao lần trong đầu nàng. Em đã đến. Cuối cùng, em đã tìm đến đây, dù chỉ trong khoảnh khắc đủ để nhìn nhau rưng rưng ngậm ngùi. Nhưng có vội vàng ngắn ngủi đến đâu thì cũng là một câu trả lời mà anh thấu hiểu, phải không? Trước đây, bao lần chàng hỏi. Chưa bao giờ nàng hứa hẹn điều gì, mà chỉ lẳng lặng thở dài. Gặp nhau chi nữa, chỉ làm rối rắm đời nhau thôi anh. Chàng buồn rầu. Vậy mà có lần em nói khi đã chấn chỉnh lại đời mình thì anh cứ cất lời gọi tên, thì dù bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, em cũng sẽ quay về… Nàng im lặng, không biết trả lời sao với chàng. Không lẽ đổ thừa tại… định mệnh đã an bài, nên chuyện đôi lứa sum vầy thôi đành… hẹn kiếp sau? Hay nhắc nhở cho chàng biết, là em đâu có hứa dù đang “bất cứ với ai”, em cũng sẽ tìm về…
Lúc đứng chờ lấy xe, nàng sờ tay lên chiếc nhẫn vàng trơn, xoay xoay. Giờ này chắc chồng nàng đang chúi đầu vào chồng giấy tờ ở văn phòng, hay bận rộn trong buổi họp nào đó. Lảm sao biết được nàng đang đứng giữa thành phố lạ lẫm này, cách xa bao dặm đường và hàng hàng lớp lớp những dãy núi đồi chập chùng cao vòi vọi, đang lao đao lặn ngụp trong cõi mù sương vây khốn của riêng nàng? Nàng lục lọi trong sắc tay, kéo ra tấm bản đồ thành phố và mẩu giấy nhỏ ghi nguệch ngoạc số điện thoại và địa chỉ. Tên đường cũng là một con số. Con số đon cao nhất. Nàng mỉm cười, có thể hình dung ra được nụ cười nửa miệng tếu tếu trên khuôn mặt chàng. Đại loại, chàng có thể giễu một câu như:
– Chín nút, chưa bù. Dấu hiệu tốt. Em có thấy là đời anh luôn gặp may mắn không?
Bình thường, chắc nàng cũng “phang” cho chàng một câu:
– Cái đó còn tùy anh đang chơi bài gì. Chín nút hay chỉ là ngầm chín. Bù hay được ngầu hầm.
– Đường vào thành phố trơ trọi không một bóng cây. Hai bên là cánh đồng cỏ khô cháy vàng hoe như màu lúa chín, chạy dài ngút mắt. Rồi nối theo là những cơ xưởng, hàng quán, nhà phố. Cái nào cũng cũ kỹ với màu sắc ảm đạm như nhau. Khung cảnh đìu hiu buồn tẻ như những ý nghĩ chập chùng trong đầu nàng. Nàng rời xa lộ, rẽ vào con đường thẳng tắp hướng về miền Nam, chạy một đỗi xa. Những bảng tên đường mang số xuống thấp dần. Lại trở ngược về hướng đông. Những tên đường bây giờ hoàn toàn là tên của cây cối. Nàng cố tình tạo sự bận rộn cho trí óc mình bằng cách nghĩ vẩn vơ. Cái ủy ban, hội đồng nào đặt tên đường cho thành phố này đúng là nơi tụ họp của một nhóm người kém trí tưởng tượng và lười suy nghĩ. Số? tha hồ mà đếm. Cây? có cả một tự điển đầy. Cứ tự do tiếp tục xây cất, phá núi, mở đường. Nhảy thêm một con số, cộng thêm tên một loại cây, rồi thì nhét vào North, South, East, West là xong. Tiện việc sổ sách trăm bề.
Lúc đi những bước cuối cùng về hướng cửa bệnh viện, nàng mới bắt đầu cảm thấy hai chân mình run rẩy, luống cuống. Toàn thân nàng như chợt hóa băng, rờn rợn, lạnh toát. Nàng nhớ đến cú điện thoại bất ngờ chiều qua. Tiếng chuông vang rền lạnh lẽo như cứa mạnh vào không khí tĩnh mịch của ngôi nhà yên ắng. Nàng đang chuẩn bị làm cơm chiều, thì thà rau cải bày biện đầy trên mặt bàn. Giọng nói của người nữ y tá ngọt ngào, mềm mỏng. “Trước khi được đưa vào phòng mổ, ông ấy đã đọc số điện thoại và nhờ tôi làm giùm một đặc ân là tìm cách báo tin cho bà. Thương tích của ông có phần trầm trọng. Nếu được, chắc bà cũng nên cố gắng đến thăm một lần. Tôi chỉ dám đoán chừng bà là người quan trọng đối với ông ấy, dựa theo cách ông nhắc nhở dặn dò tôi mấy lần… “Nàng định hỏi, còn bà ấy đã biết tin chưa, nhưng kịp ngưng ngang. Dĩ nhiên là bà ấy phải được báo tin. Không biết vô tình hay cố ý mà đôi khi nàng vẫn quên đi cái chi tiết quan trọng đó, là chàng đã “đi thêm bước nửa”, cũng như nàng.
May là chồng nàng không có ở đó. Nên ít nhất nàng đã có được những giây phút riêng tư cần thiết để ngồi yên bàng hoàng với những cơn khóc run vai. Nàng thu người trong lòng ghế, chập chờn tưởng nhớ. Đã bao năm rồi hai người không gặp lại nhau. Mối liên lạc duy nhất là những cú điện thoại không hẹn trước vẫn làm nàng thẫn thờ luôn mấy ngày sau đó. Tại sao vẫn chia sẻ với em những biến cố, vẫn kể lể cho em nghe những vui buồn. Nàng hỏi. Chàng mềm giọng. Bởi vì nhìn quanh quất lại trong đời, em vẫn là một trong số người rất hiếm hoi đã thương yêu anh vô điều kiện mà anh luôn luôn có thể đặt trọn vẹn niềm tin. Chuyện anh đã vụng về để vuột mất em cũng đâu có thay đổi được những thứ tình cảm đó. Những lỗi lầm em đã tha thứ, phải không?… Khi dọn dẹp xong buổi ăn tối với chồng, nàng đã biết rằng sáng hôm sau, bằng mọi cách, nàng cũng sẽ ra phi trường để bay về thành phố của chàng. Nàng phải nhìn thấy chàng, dù chỉ một lần này thôi.
Nàng bước vào trong diện tích hẹp của những khung cửa kiếng tự động xoay vòng, đặt chân vào khu vực tiếp tân của bệnh viện. Nàng dừng lại một chút trước tấm bảng chỉ dẩn hướng đi đến thang máy. Hành lang dài thẳng tắp. Tường sơn màu xanh da trời dịu mắt, kẻ những đường vân màu vỏ trứng gà nhu nhã. Sàn gạch trắng được chùi lau cẩn thận, bóng loáng dưới ánh sáng của những hộp đèn từ trần nhà tỏa xuống lạnh lẽo.
Nàng ghé lại bàn của y tá trực. Vài người đang chụm đầu xì xào nói chuyện. Người nữ y tá có mái tóc vàng óng ả ngẩng đầu lên nhìn nàng, đôi mắt xanh biếc mở tròn, chờ đợi. Tự dưng nàng thấy lòng nhẹ nhõm khi nhận ra bảng tên trên ngực áo của cô là tên người đã điện thoại cho mình chiều qua. Nàng nở nụ cười ấm áp, tự giới thiệu mình. Cám ơn cô đã chịu khó báo tin chiều qua. Giờ thì tôi bằng xương bằng thịt đây. Vâng, tôi đã vội vàng đến bằng chuyến bay rời thành phố sớm nhất buổi sáng này. Mua được vé vào giờ chót trong mùa thiên hạ nghỉ hè du lịch đông đảo như vầy là tôi may mắn quá, phải không cô? Bây giờ thì xin cô làm ơn cho tôi biết số phòng của anh ấy.
Nàng thấy mấy cặp mắt hốt nhiên cùng quay lại một lúc, nhìn nàng đăm đăm thảng thốt. Những khóe nhìn đọng vũng xót thương.

Chỉ Là

là sương mỏng buổi chiều thu
là mường tượng khói của mù mịt xa
là mơ hồ vạt nắng tà
mà sao rất thật lệ ta khóc người.

Những Mùa Xưa

những mùa xưa lá đỗ
đã âm thầm về đâu
tháng mười qua bước nhỏ
nắng chìm dưới mưa mau

những mùa xưa vàng ngát
nụ hoa bên lối chờ
chiêm bao về đã lạc
đường quen bướm ngẩn ngơ

những mùa xưa tóc mướt
những mùa xưa tay mềm
những mùa xưa mắt biếc
xoay vòng giữa nhớ quên

chiều nay nhìn mưa xuống
ơ thờ bên lũng xa
những mùa xưa cõi tạm
ừ thôi, mùa xưa qua…

Xõa Tóc

Ngồi khoanh nhớ nắng hôm qua
Giọt nghiêng thềm cũ la đà tóc em
Nay về nắng đã ngủ quên
Nhạt nhoà dấu bụi in nền gạch hoa
Tóc xưa hương cũ la đà
Rộn ràng đâu tiếng chân qua một thời…

Thuyền Xưa

Ngày hay tin chị Thuyền ôm cầm sang… thuyền khác, tôi biết anh Long buồn ghê lắm, mặc dù thật ra cả nhà không ai lấy làm ngạc nhiên. Chẳng gì, chị Hiền đã kể cho mọi người trong gia đình nghe về lần gặp gỡ cuối cùng giữa anh Long và chị Thuyền trước đó không lâu. Cuộc hẹn hò “mặt đối mặt, tay… chẳng cầm tay” này do chị Thuyền đề xướng đã xảy ra ở nhà chị Hiền trên Gia Ðịnh, nơi anh Long đang ở nhờ trong thời gian mới bắt đầu đi làm việc. Chị Hiền chép miệng, rươm rướm nước mắt khi kể với má tôi:
– Má biết không, con Thuyền khóc dữ quá nên con cứ sợ nó lăn đùng ra xỉu bất tử. Thằng Long nhà mình thì cứ ngồi im rơ trên ghế salon như hóa đá, còn con Thuyền thì ngồi phệt dưới đất ôm chân nó mà năn nỉ ỉ ôi, van xin nó tha thứ. Con gái Huế nói chuyện hay thiệt, văn hoa bóng bẩy quá trời, câu nào câu nấy nghe muốn rụng rời tay chưn hết trơn làm hai mẹ con con núp đàng sau nhà bếp nghe lén mà cũng mủi lòng khóc bù lu bù loa. Vậy đó, mà thằng Long cứ im thin thít không thèm trả lời trả vốn tiếng nào. Con Thuyền nói cả nửa tiếng đồng hồ không dứt. Cuối cùng thằng Long chỉ buông ra có một câu duy nhất, thôi em về đi!…
Tôi say mê ngồi nghe, há hốc miệng sững sờ. Thôi em về đi? Dù “thôi” như trong bài hát “Thôi em đi về đi xa xôi rồi thăm nhau mà chi…”, hay là “Thôi em đừng nhắc nữa làm gì…”, hoặc “Thôi nín đi em lệ đẫm vai rồi buồn thương nhớ ơi…” với ba động từ nặng trĩu buồn-thương-nhớ đi một dọc lê thê theo nhau của ông nhạc sĩ chuyên viết nhạc thất tình Ðỗ Lễ, khi chữ “thôi” nằm ở đầu câu, trong hầu hết mọi trường hợp, không phải là dấu hiệu… khả quan. Nhất là khi hai người yêu nhau đang có chuyện lục đục trầm trọng như anh Long và chị Thuyền. Tôi hồi hộp hỏi chị Hiền, bất chấp tia nhìn đe dọa kiểu “con nít đừng bầy đặc lộn xộn” của má:
– Rồi sao nữa chị Hiền?
Chị Hiền thở dài não nuột, nhìn tôi hơi gắt gỏng:
– Thì còn làm sao nữa! Con Thuyền phải đứng dậy đi về chớ sao bây giờ?
Rồi chị quay sang má, tiếp tục kể lể:
– Thằng Long cứ ngồi im một chỗ không thèm màu mè đưa tiễn gì hết. Con Thuyền lủi thủi đi ra mở cửa rào một mình, vừa đi vừa khóc tức tưởi. Thấy cũng tội nghiệp!…
Tôi tròn mắt:
– Anh Long nhà mình coi vậy mà… ngon lành quá hén?
Chị Hiền bĩu môi, lắc đầu:
– Ngon lành cái con… khỉ mốc! Nó chỉ chờ con nhỏ kia đi khuất ngoài đầu đường là vô phòng nhào ra khóc như con nít bị ăn chổi lông gà!
Tôi lặng người ngơ ngác. Anh Long tài ba, chững chạc, hùng dũng của tôi mà lại khóc như con nít vì một người con gái? Ngàn năm tôi cũng không tưởng tượng được chuyện này. Nhưng dù cho tính chị Hiền hay vẽ rồng vẽ rắn đến đâu đi nữa, chắc chị không dám “đẩy cây” với má. Tôi lấm lét nhìn má, dò chừng xem phản ứng của bà trước tin động trời này. Nét mặt má vẫn trầm tỉnh hiền hòa như bao giờ. Bà chỉ nói một câu… xuôi xị:
– Chuyện vợ chồng là chuyện duyên số, con ơi. Chắc tại hai đứa nó có duyên mà không nợ nần gì nhau. Thì thôi, biết tánh con nhỏ kỳ cục như vậy trước khi tụi nó lấy nhau vẫn hơn. Chớ chờ lấy nhau rồi, con cái lùm đùm rồi bỏ nhau thì mới thiệt là khổ!…
Câu “thiên duyên tiền định” cũ mèm xưa rích được đem ra xài kèm theo lời phán xét thực tế nhưng phũ phàng của má như gáo nước lạnh dội xuống trái tim mới lớn còn nóng bỏng sôi nổi của tôi. Trái tim đang bừng bừng dậy sóng, đang nghiêng ngửa đảo điên vì chuyện tình yêu của… thiên hạ bỗng xìu xuống, eo xèo. Trong mắt của con nhỏ mới mười sáu tuổi đang lẫm đẫm tập tểnh làm thơ tình với rất nhiều… tưởng tượng như tôi, đoạn kết mối tình dễ thương và lãng mạn của anh Long và chị Thuyền là một chung cuộc lãng nhách, đáng lẽ không bao giờ được quyền xảy ra.

Tôi không đến độ đau khổ tuyệt vọng như anh Long, nhưng cũng ngơ ngẩn bàng hoàng mấy tháng trời. Cả Trúc nữa. Suốt ba năm trời, tháng nào hai chị em tôi cũng gò gẫm viết thư qua lại với chị Thuyền ít nhất là hai ba lần. Hai đứa cùng hăng hái bớt tiền ăn hàng vặt để dành mua tem thư. Chị Thuyền là người lớn duy nhất chịu khó viết thư “trao đổi tâm tình” với tôi cho nên tôi quí chị lắm. Trước chị, tôi chỉ thư từ qua lại với Hạnh, con nhỏ bạn thân người Bắc chơi với tôi từ ngày mới vô trường nữ tiểu học thị xã. Hai đứa học chung đến năm cuối cùng ở tiểu học, sau vụ Tết Mậu Thân kinh hoàng, thì ba Hạnh đột ngột được lệnh đổi về Sài gòn. Rồi sau đó Hạnh thi đậu vào trường Trưng Vương thơ mộng nằm gần sở thú, nơi mà nó vẫn cố thuyết phục tôi phải gọi là “thảo cầm viên” nghe cho nó nhẹ nhàng văn vẽ hơn, trong khi tôi “chôn vùi tuổi xuân” ở trường nữ trung học công lập trong thị xã. Thư từ trao đổi giữa tôi và Hạnh đề tài chung chung là những mẫu chuyện làng nhàng dính dáng đến học hành, trường lớp, than van về thầy cô nghiêm khắc và bài vở khô khan khó nhớ, hay bàn bạc lung tung xèng về quần áo, thời trang. Hạnh luôn “cập nhật tin tức”, cho tôi biết hiện nay ở Sài gòn người ta đang diện mốt gì, còn tôi thì biết để mà… quên. Chứ nhớ để làm gì bây giờ? Con gái tỉnh nhỏ như tôi, muôn đời ra đường nếu không mặc áo dài khi đi học thì cũng chỉ quần satin đen với áo bà ba bằng tơ lụa nội hóa. Thỉnh thoảng tôi và Hạnh nổi hứng làm một màn thề nguyền rất cảm động là hứa hẹn với nhau một ngày nào khi lớn lên, có chút đỉnh tiền túi và được phép đi xa một mình, hai đứa sẽ lặn lội đi tìm nhau để… sum vầy.
Tình bạn “bút đàm” của tôi nghèo nàn èo uột như vậy cho nên khi chị Thuyền trở thành người yêu của anh Long và… đi vào đời tôi, tôi và Trúc hoan nghinh bằng cả hai tay lẫn… hai chân. Hai đứa tôi tranh nhau hì hục viết thư làm thân với chị. Chị Thuyền hội đủ tất cả điều kiện để thỏa mãn cái tính mơ mộng lãng đãng của hai chị em tôi. Anh Long khoe chị hát rất hay, hay nổi tiếng trong trường đại học Khoa Học, nhất là với những tình khúc nhẹ nhàng mà ray rứt của Cung Tiến, những Hoài Cảm, Hương Xưa, Nguyệt Cầm… mà tôi đang yêu mê mết. Anh Long thì có ngón đàn guitar vô cùng bay bướm, ai nghe anh đàn nhạc cổ điển tây phương cũng ngẩn ngơ hồn. Anh là người đã đem chút “văn học nghệ thuật” giới thiệu vào đời con em gái tỉnh lẻ nhà quê, cho tôi biết Chopin qua Nocturne, Mozart qua Elvira Madigan, Beethoven qua Moonlight… Như vậy, anh Long và chị Thuyền đúng là đôi tình nhân… nghệ sĩ. Nghe lãng mạn làm sao! Thêm vào đó, chị Thuyền có dáng dấp rất ẻo lả dễ thương khi chị mặc áo dài. Anh Long chụp vô số hình chị đứng ngồi đủ kiểu trong chiếc áo dài dịu dàng tha thướt. Quỳ trên đồi cỏ xanh non. Thơ thẩn dưới rặng thông già. Nghiêng mình bên dòng suối nhỏ. Tôi và Trúc tha hồ vác hình chị đem khoe nhặng xì ngầu với lũ bạn nhà quê cùng lớp. Còn nữa, chị Thuyền là người Huế, nhà chị lại ở xa tít mù trên vùng núi đồi cao nguyên đất đỏ bụi mù, là… “giống người” hoàn toàn lạ lùng với tụi tôi. Bởi vậy cho nên đối với những kẻ “vọng ngoại” như tôi và Trúc, bao nhiêu hình ảnh có thật và tưởng tượng về chị bỗng mang đầy vẻ hoang đường và lãng mạn trong đó.
Dĩ nhiên tôi và Trúc không làm sao đoán biết được tình cảm chị Thuyền dành cho mình thật giả, nông sâu như thế nào. Nhưng những lá thư từ phương xa của chị luôn mang đến bao nhiêu niềm vui rộn ràng cho hai chị em tôi. Chị cũng tỏ ra chịu khó lấy lòng hai cô nhỏ có viễn ảnh trở thành em chồng tương lai của chị, viết thư riêng cho từng đứa, kể chuyện trời trăng mây nước dông dài. Thư chị viết trên giấy trắng không kẻ hàng, chữ viết tròn trĩnh thẳng thớm. Nhiều khi chị hấp tấp, viết tháu, những chữ “o” không bao giờ khép thành vòng tròn nghiêm chỉnh mà tôi thấy coi cũng hay hay. Những mẫu chuyện vụn vặt chị kể cho tụi tôi nghe bao giờ cũng ngộ nghĩnh và dễ thương. Sao tôi thấy cái gì liên can tới chị Thuyền cũng có vẻ hay ho đặc biệt hết. Tôi và Trúc thường hỏi nhau, hay có lẽ tụi mình cũng bắt chước anh Long, bị… mù quáng vì tình yêu? Từng lá thư của chị được tôi cẩn thận xếp lại theo thứ tự để đọc đi đọc lại như đọc tiểu thuyết.
Vì vậy mà hai chị em tôi cùng chia sẻ từng biến cố lớn nhỏ trong mối tình của chị Thuyền và anh Long. Ðầu mùa Hè, giọng thư chị ướt sủng nước mắt. Chị kể chuyện hôm anh Long về quê nghỉ hè trong khi chị còn phải ở lại trường thêm vài hôm để thi cho xong. Mặc dù anh đã dặn dò chị đừng ra bến xe đưa tiễn chỉ thêm buồn, chị đã lén tìm đến, đứng nép người sau góc tường bên cạnh bến xe để nhìn anh đi mà không dám đưa tay vẫy gọi. Tôi nghe lòng mình cũng quặn đau theo từng dòng chữ chị phơi trải tâm tình trên những trang giấy vô hồn. Tôi tưởng tượng ra vóc dáng nhỏ nhắn cô đơn của chị Thuyền đứng ủ rũ trong bầu trời xám lạnh với những giọt mưa phùn lác đác phất phơ bay. Buổi sáng Ðà Lạt chắc phải “lạnh lùng sương rơi heo may”. Còn anh Long chắc phải vai mang nặng hành lý và “chân bước phân vân lòng ngập ngừng”. Rồi chị Thuyền lủi thủi co ro một mình trở về nữ đại học xá sau khi chuyến xe đò cũ kỷ từ từ lăn bánh mang anh đi xa, chìm khuất trong màn sương trắng xóa mịt mờ. Tôi chỉ tưởng tượng bấy nhiêu đó thôi mà còn lòng đau thổn thức, mắt ứa lệ rưng rưng, thì trái tim hai người trong cuộc chắc phải… bầm dập tan nát đến dường nào. Qua đầu Thu, giọng thư chị Thuyền trở lại xôn xao ríu rít sau những lá thư buồn thảm của mùa hè. Chị và anh Long đều đã trở lại trường để bắt đầu cho niên học mới. Ðà Lạt dễ thương quá, tuyệt vời quá, Liên ơi, vì hôm nay chị đã gặp lại anh Long sau cả một mùa hè dài như trăm năm. Chị lao xao kể chuyện vui tái ngộ. Tôi nôn nao đọc thư, uống từng dòng chữ, lòng nhẹ hẫng lâng lâng.

Sau ngày anh chị cùng tốt nghiệp đại học, chị Thuyền trở về quê đi dạy. Tôi “ghen” với mấy cô học trò ngang tuổi tôi của chị, tự dưng cảm thấy như mình bắt đầu mất mát một cái gì. Ở Pleiku hay Ðà Lạt gì thì chị cũng xa tôi ngút ngàn, và với tôi thật ra chị vẫn còn là “người tình không chân dung” vì chưa lần nào gặp gỡ, vậy mà tôi mơ hồ cảm thấy một Thuyền của Pleiku không còn là một Thuyền của Ðà Lạt ngày nào. Thuyền với đôi tà áo dài thướt tha bay lượn trong bầu trời bãng lãng khói sương của Ðà Lạt nhất định phải nên thơ hơn là Thuyền với áo dài lấm tấm bùn lầy đất đỏ của Pleiku, và buồn nhất là “Thuyền của chị em tôi” đang sống giữa những người… xa lạ vì anh Long phải về Sài gòn tiếp tục lên cao học.
Hơn nửa năm sau, ba má tôi khăn gói theo anh Long ra mãi tận Pleiku gặp gia đình chị Thuyền để làm đám hỏi cho anh chị rồi… để đó, chờ anh Long học xong mới tính chuyện tiến hành đám cưới. Tôi và Trúc thì thấp thỏm trông ngóng chờ ngày anh Long cưới vợ để hai đứa được biết mùi đi máy bay coi ra thể nào. Trúc ăn cắp chữ nó mới đọc trong truyện Thằng Vũ của ông Duyên Anh đem ra áp dụng liền, ngày đêm hớn hở bàn với tôi, “đi máy bay cao tít trên trời chắc phải sướng… rêm mé đìu hiu, chị Liên hả?…”
Hai lần đám cưới trong gia đình tôi, của chị Hiền rồi đến anh Tùng, xe hơi còn chưa được xài đến thì đừng nói gì đến máy bay. Ngày chị Hiền lấy chồng, gia đình anh rễ tôi ở ngay sau lưng nhà tôi, cách nhau cái hàng rào xi măng cao không qua đầu người. Bình thường con cái hai nhà có thể bắt ghế trèo qua trèo lại như không. Dĩ nhiên là chị Hiền chưa bao giờ thú nhận là chị có từng làm chuyện này giống như đám em út của chị hay không. Gần sát bên như vậy, nhưng không thể đón đưa dâu theo kiểu “trèo tường khoét vách” nên ngày cưới của chị Hiền hai gia đình phải đánh một vòng… gần tròn, đi ra tới đầu ngõ, quẹo phải, đi dọc theo đường hẻm bên hông để qua nhà bên kia. Khúc đuôi của đoàn rước dâu còn dồn cục bên nhà trai thì khúc đầu đã vô tới cổng rào bên nhà gái. Chị Hiền chỉ sắp xếp hành lý sơ sài lấy có vì lỡ quên thứ gì thì cứ chạy ra sân sau réo lũ em đưa đồ qua bờ tường. Năm đầu tiên còn ở bên nhà chồng, chị Hiền đi làm dâu mà chiều chiều cứ tuôn về nhà cha mẹ để tụ tập ăn hàng vặt và tán dóc, cãi cọ với em út.
Ðến phiên anh Tùng đi lấy vợ thì nhà bà chị dâu ở bên cù lao nằm giữa sông, đối diện với chợ. Vậy là đoàn rước dâu đi bằng đò, áo xanh áo đỏ, dù hồng dù tím màu mè rực rỡ chói mắt cả một khúc sông. Chiếc xuồng chở đám con nít tụi tôi tròng trành suýt lật úp khi đi vào những con lạch nhỏ vì cả đám cứ xô đẩy lao nhao để chọc hái những trái ổi, trái mận chín hồng thơm tho hấp dẫn đong đưa trên mấy nhánh cây de ra hai bên bờ kinh.
Nghĩ tới đám cưới của anh Long và chị Thuyền, tôi cười thầm, chắc thời kỳ đám cưới “thủy quân lục chiến” bao gồm từ đường bộ đến đường sông trong gia đình đã chấm dứt, không còn cảnh đi bộ tà tà như đi hóng mát hay ngồi đò lênh đênh trên sông nước.

Ðôi khi, trong những lúc “trà dư tửu hậu”, tôi và Trúc hay đem chuyện anh Long và chị Thuyền ra mà mổ xẻ phân tích để chứng tỏ như mình cũng đã hiểu ít nhiều về chuyện yêu đương bồ bịch của người lớn. Trúc cho ý kiến:
– Dĩ nhiên là chị Thuyền phải thương anh Long nhiều lắm, chị Liên há? Anh mình học giỏi, đẹp trai, tài hoa, hiền lành, chung thủy, dễ thương…
Con nhỏ mới bước qua tuổi mười bốn, miệng còn hôi sữa, tập tành nói chuyện tình yêu như dân sơn đông mãi võ rao bán thuốc dán, thuốc tiêu, thuốc tể, cao đơn, hoàn tán…, chỉ còn thiếu hai chữ “mại dzô, mại dzô…”Tôi bật cười. Trúc phân trần:
– Vậy chớ không phải chị Thuyền là người “tấn công” anh Long trước hay sao?
Tôi suỵt suỵt:
– Anh Long mà nghe mày ăn nói kiểu đó thế nào cũng bị cú đầu vài cái.
Anh Long ghét tụi tôi dùng hai chữ “tấn công” này lắm, nói như vậy là ám chỉ chị Thuyền đã “chạy” theo anh, nghe… đại hạ giá con gái người ta quá! Anh hay bênh vực chị Thuyền đủ điều, tụi tôi đồng ý với nhau, ngay cả cái chuyện ai đã theo ai trước nào có mất mát thiệt thòi gì đâu mà anh cũng cố lấp liếm bào chữa cho chị. Có lẽ tại đầu óc anh có phần hơi… cổ lỗ sĩ. Cô Út của tôi đã quả quyết:
– Tao dám chắc thằng Long nhà này là hậu thân của Khổng Tử. Người đâu mà xưa như trái đất!
Từ đó mà anh Long mới có thêm cái tên gọi ở nhà là cụ đồ Long.

Mùa hè năm đó, cuối cùng tôi và Trúc cũng được gặp mặt “thần-tượng-từ-miền-cao-nguyên -đất-đỏ” là chị Thuyền. Nhân dịp nghỉ hè, hai đứa được ba má cho phép lên nhà chị Hiền ở chơi hai tuần lễ, gặp đúng dịp chị Thuyền từ Pleiku bay về thăm anh Long. Mấy anh chị em rủ nhau lên Ðường Sơn Quán ăn uống mừng ngày gặp gỡ. Chị Thuyền mặc áo dài màu vàng rực rỡ như nắng thu, quần satin trắng ống rộng mềm mại phất phơ. Dáng chị đẹp như tranh vẽ, đẹp hơn cả những tấm hình tôi đã được nhìn qua. Tóc chị suông, để dài quá vai, đường ngôi rẻ giữa thẳng tắp. Ngoài đời, nhan sắc chị cũng không thuộc vào hàng xuất sắc, nhưng chị có duyên và được trời phú cho đôi mắt sáng long lanh ướt mềm cộng thêm nụ cười e ấp dễ thương. Tôi có thể đoán được là chính đôi mắt như sao trời của chị đã làm ông anh tôi hụt chân, té nhào. Mắt em là nước hồ thu… Tôi đọc ở đâu đó câu ví von này. Nhìn vào mắt chị Thuyền buổi sáng hôm ấy, tôi hiểu ngay được sự so sánh thơ mộng này. Cả một bầu trời mây xanh nắng hồng rực rỡ như in bóng trong đôi mắt hồ thu của chị Thuyền ngày hôm đó.
Tôi ngồi cạnh chị và anh Long. Ghế ngồi là những gốc cây già cưa ra thành từng khoanh tròn, đặt quanh mấy cái bàn gỗ trong khoảng sân rộng với những tàn lá cao su xanh rì cao ngất ngưởng lao xao nhảy múa trên không. Tiếng xe cộ vùn vụt qua ngang ngoài xa lộ mơ hồ vọng lại âm thanh rầm rì dễ chịu nghe như tiếng ru. Buổi trưa thanh vắng tịnh yên với một chút gió thoáng qua rất nhẹ làm lung linh những giọt nắng chập chờn dọi trên nền đất phẳng phiu. Mà rồi cũng chẳng ai thèm để ý cảnh trí chung quanh vì mải mê nghe chị Thuyền nói chuyện. Chị Thuyền ở ngoài đời có lối nói chuyện ngọt ngào không khác mấy những lá thư chị viết, giọng chị nhẹ nhàng trầm bổng với bao nhiêu đề tài lý thú khác nhau. Chị quay sang hỏi Trúc về “danh lam thắng cảnh” của quê tôi. Trúc cười lúng túng:
– Quê em không có chỗ nào tên nghe hay như ở ngoài Huế của chị hết. Mấy cái tên ở ngoài đó nghe không cũng phát thèm. Trường Tiền, Hương Giang, Vỹ Dạ, Ðông Ba…
Chị Thuyền cười xòa:
– Chị đâu có biết Huế ra làm sao. Gia đình chị dọn vào Pleiku lâu lắm rồi.
Tôi dùng mớ kiến thức văn nghệ nghèo nàn của mình để “cứu bồ” Trúc:
– Thì Pleiku của chị cũng được ông Vũ Hữu Ðịnh với ông Phạm Duy làm thành… bất tử với “phố núi cao phố núi đầy sương…” đến đỗi anh khách lạ cũng phải đi lên đi xuống, đi tới đi lui… Còn Vĩnh Long, chị có nghe bản nhạc nào nói về Vĩnh Long thơ mộng chưa?
– Vậy quê em có gì thì cứ kể cho chị nghe…
Trúc nhíu mày suy nghĩ:
– Quê em có nhiều cầu lắm. Cầu Cái Cá, cầu Cái Côn, cầu Cái Cam… Nghe “cái mà” thấy ghê luôn.
Chị Thuyền bật cười, tiếng cười chị trong veo, ấm áp:
– Rồi gì nữa Trúc?
– Cầu Lộ, cầu Lầu, cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi Heo, cầu Vòng, cầu Ông Me, cầu Bà Ðiều, cầu… đủ thứ giống!
Trúc kể lể một hơi dông dài nghe gần muốn đứt hơi, gom góp hết tên những cây cầu trong thị xã mà nó nhớ được để trả bài với chị Thuyền. Rồi nó nhìn lại nét mặt chị Thuyền càng lúc càng tỏ ra… kinh hải với những tên cầu nghe thật chẳng giống ai, con nhỏ bỗng sượng sùng ngưng ngang, ngồi thộn mặt ra ngó quanh bàn. Mọi người cùng phì cười trong khi chị Thuyền cố nói năng một cách đàng hoàng:
– Em nói đúng ghê. Quê em quả thật là nhiều sông nhiều cầu. Cứ y như là một Venice của Việt Nam!
Chị Thuyền quả thật là người khéo ăn khéo nói, vừa nhanh trí lại vừa lịch sự hết chỗ chê. Dù không biết Venice là cái quái đản gì, tròn méo ra sao và nằm ở xó nào trên năm châu lục địa, tôi chỉ lụp chụp nghe được cái tên ngoại quốc là khoái tỉ tê trong lòng. Ừ, thì Vơ-nít nghe cũng từa tựa như… Vĩnh Long, cùng bắt đầu bằng một chữ V, như vậy chắc chắn là có… bà con xa gần rồi. Anh Long chăm chú lắng nghe tụi tôi nói chuyện, cười tủm tỉm rồi lắc đầu làm bộ ra vẻ chán nản ê chề.

Hôm chị Hiền đột ngột về thăm nhà, tôi đoán chắc có chuyện gì không ổn, dựa theo cái vẻ đi đứng bồn chồn nóng nảy, mặt cau mày có của chị từ lúc bước chân vào nhà. Sau buổi cơm chiều, khi mấy chị em quây quần quanh bàn ăn chăm chú nhìn má dạy cách đổ rau câu sơn thủy, chị mới thì thầm kể lể với má:
– Vụ thằng Long với con Thuyền chắc là không xong đâu má à!…
Má tôi ngước lên nhìn chị Hiền, không giấu được sự ngạc nhiên:
– Sao vậy? Bộ tụi nó hục hặc gì hả?..
Chị Hiền thở ra:
– Anh Quang con có người bạn cũ cùng dạy một trường với con Thuyền, người ta biết Long là em con nên mới nói cho biết là con Thuyền đang cặp bồ với một anh chàng giáo sư cùng trường. Thành phố nhỏ xíu nên chuyện trong nhà chưa hay thì ngoài ngõ đã biết. Hôm tháng trước thằng Long bay ra ngoài đó gặp con Thuyền để hỏi rõ sự tình, con Thuyền thề sống thề chết là nó vẫn thương, vẫn chờ thằng Long. Thấy cũng tạm êm rồi…, ai dè đâu tuần trước bạn thân thằng Long làm việc ở ngoài Nha Trang lại gọi cho nó, nói gặp con Thuyền ở khách sạn với người đàn ông nào coi thân mật tình tứ lắm. Con Thuyền trông thấy nó là mặt mày xanh lè, hết đường chối cãi…
Má tôi buông người nặng nề xuống ghế, ngước mắt nhìn chị Hiền nhưng không nói được lời nào. Tôi bỗng thấy nghẹn thở và không muốn nghe tiếp những lời chị Hiền kể lể. Chưa yêu ai ngày nào mà tôi cảm thấy đau đớn như chính mình là người bị phụ tình. Chị Hiền ôm vai má tôi, nhẹ giọng vỗ về:
– Con về đây để nói cho má biết là thằng Long mới đánh điện tín ra Pleiku cho ba mẹ con Thuyền hôm qua để xin từ hôn.
Ðó là lý do chị Thuyền đã vội vã bay về Sài gòn để xin gặp mặt anh Long. Tôi bần thần suy nghĩ tới lui, nhưng không đoán được tại sao chị còn năn nỉ van xin anh Long tha thứ để làm gì. Mọi chuyện hình như đã đi quá xa, như những vòng bánh xe lăn đã đưa đến sát bên bờ vực thẳm mà không còn cách nào đứng dừng hay quay đầu trở lại.
Buổi tối, tôi và Trúc rút vào phòng sớm hơn thường lệ, thì thào bàn bạc về chuyện mới xảy ra. Hai đứa cùng ngẩn ngơ đau khổ như nhau. Tôi bỗng dưng nhớ đến mẫu giấy tập học trò lấm tấm vài vệt nâu loang lổ mà tôi và Trúc tình cờ nhìn thấy trong cái bóp da nhỏ của anh Long. Anh Long giải thích, đó là tờ giấy chị Thuyền đã gói ô mai tặng anh để làm quen. Trúc nghe qua, nhăn mặt kêu lên:
– Em đâu biết cụ đồ Long mà cũng biết ngậm ô mai cam thảo…
Tôi hả họng cười:
– Vậy chớ mày không nghe má thường hay nói sao, khi người ta thương nhau thì biểu ăn “bùa mê thuốc lú” gì cũng ăn, nói gì tới ba cái ô mai, xí muội, cánh chỉ, trần bì…
Ðó là chuyện vui trong quá khứ. Còn hiện tại thì mấy anh em tôi cay đắng cùng nhau ngậm… bồ hòn. Tôi và Trúc lục soạn moi móc ra hết những tờ thư cũ của chị Thuyền, ngồi lẩm nhẩm đọc lại từng dòng chữ như để tìm bất cứ dấu hiệu nào cho tụi tôi có thể đoán biết là một ngày nào đó chị sẽ hững hờ quay lưng. Dĩ nhiên là tôi không tìm thấy gì hết. Cho nên tôi tự an ủi là tình yêu một thời chị dành cho anh Long là điều có thật. Những giọt nước mắt chị nhỏ xuống với anh là những giọt nước mắt chân thành. Và có lẽ, ngay cả những lời cầu xin anh tha thứ cũng xuất phát từ trái tim, mặc dù tôi không đoán được chị sẽ xử sự ra sao nếu anh đồng ý chấp nhận cho chị quay về. Tôi không biết chị đã tìm được một tình yêu khác trưởng thành hơn tình yêu lãng mạn và mong manh của thời làm sinh viên mơ mộng, hay chị đang hốt hoảng cuống quýt chợt nhận ra giá trị của những gì sắp sửa vuột xa ngoài tầm tay với. Dù có là gì đi nữa, trong thâm tâm tôi biết chắc là chị không hề dự định chỉ yêu anh Long một thời cho… vui. Tôi thầm đoán, trên một đoạn đường đời đã cùng đi chung bước, như bao nhiêu đôi tình nhân khờ khạo ngu ngơ khác trên cõi đời này, hai người cùng trao nhau bao lời thệ nguyền dài lâu bằng cả tấm lòng thành mà không nhìn thấy trước được những thử thách gian nan, những hố thẳm vực sâu đang chực chờ trước mặt.
Tôi lẩn thẩn nghĩ, cái câu “duyên số tại trời” của má suy ngẫm vậy mà… có lý. Có lẽ cuối cùng thì cũng không phải lỗi tại ai mà chỉ tại… ông trời. Nhưng rồi tôi thấy phân tích lung tung để chứng tỏ mình là người hiểu biết, bao dung và… quân tử là một chuyện, sự thật thì nỗi đau vẫn nằm nguyên đó, là cũng như anh Long, tôi đã mất chị Thuyền. Mất đành đoạn xót xa. Mất bàng hoàng tức tưởi. Khi bị tình phụ thì chắc người quân tử chính hiệu con nai vàng hay người quân tử… tàu cũng đều đau khổ quắt lòng, cũng đòi đoạn tâm can như nhau!..
Tôi ngồi co người ở mép giường với hai tay vòng ôm gối, đầu lắc lư nhịp nhàng theo tiếng mưa rơi gõ đều trên mái ngói, bâng khuâng nghĩ đến chuyện sẽ chẳng bao giờ còn nhận được những lá thư mang nét chữ quen thuộc từ “phố núi cao, phố núi trời gần…” nữa, và tự dưng nghe lòng buồn quá đỗi…

Vui Nhé
Những Ngày Sau

Mênh mông giữa ngày tàn
lặng lờ bước tháng năm
chiều nay chợt bàng hoàng
tiếng hát vọng dư âm
gió lướt qua hiên thu
đong đưa bóng chiều tà
trong nỗi niềm thực hư
man mác giữa mưa hoa…

Tháng mười nghe xôn xao
như mùa thu ban đầu
thuyền về ghé đêm nao
bến đời nghiêng nắng chao
tóc rối chẻ đường bay
phấn hoa vương nét ngài
nhắn người xa dặm dài
vui nhé những ngày mai

Xin giữ tim khoan dung
giữa đời bao lỗi lầm
xin vòng tay tri ân
dù chẳng phải tình chung

Thì thôi, người thuở xưa
trả lại mộng ban đầu
thì thôi, người thuở xưa
vui nhé những ngày sau…

Cơn Đau Nỗi Khốn Cùng

này người cõi sương mù
còn nhặt lá vườn thu
giấu chôn tình mật ngọt
nuôi dưỡng đời cằn khô

này người cõi mây giăng
co bóng lẻ qua đường
xin mưa về gội rữa
vết buồn của tháng năm

này người phố cao nguyên
này người ở trong tim
của đời qua lặng khép
của tình nào chưa yên

xin đem trăng ước nguyện
về soi hồ mắt duyên
xin dâng môi thánh thiện
còn chứa chan nỗi niềm

đôi khi trong nắng vỡ
dáng về giữa mông lung
đôi khi trong tim nhỏ
còn đau nỗi khôn cùng.

Nhắc Chi Hoài Trăm Năm

nhìn trăng treo cuối phố
nhớ màu trăng năm nào
trăng này là mấy nữa
héo tàn trên hư hao

nhìn đêm sâu trăn trở
nhớ gối chăn ban đầu
đêm nay là mấy nữa
chìm hẫng xuống lao đao

nhìn tay thon ngón nhỏ
nhớ tay trên phím đàn
đâu rồi tay một thuở
lùa trong tóc em ngoan

nhìn gương soi mắt đỏ
vẫn long lanh kiếm tìm
gương ơi, còn đâu đó
hình hài trong đáy tim

nhìn mưa qua buổi nọ
che kín lối trăng vàng
trăng ơi, thôi đã lỡ
nhắc chi hoài trăm năm.

Lời Cho Rừng Thu

rừng thu ơi
lối cỏ vàng
chân khiêu vũ dưới màu trăng năm nào
mảnh ân tình gửi về đâu
mà đêm gió lạ mang sầu về đây

rừng thu ơi
bóng trăng gầy
đăm đăm dõi bước đường mây cuối trời
hoa thơm hương nhẹ nhàng rơi
sao lòng nặng những bùi ngùi không đâu

rừng thu ơi
áo lụa nhầu
ngọt hương chăn gối của đầu tiên xưa
cỏ hoa nghiêng buổi gió đùa
vô tình xóa dấu chân đưa thuở nào

rừng thu ơi
nắng mai sau
có như nắng thuở ban đầu khôi nguyên?…

Đi Chùa

Hình như nắng sớm ngủ quên
Cho mây len lén về trên vai nàng
Em đi giữa lối hoa vàng
Tháng hai giũ lụa trên tàn lá cao

Áo em đôi vạt xôn xao
Lượn bay trước cổng xuân chào mùa sang
Nhắn người phương ấy về ngang
Bên sân chùa lắng nghe hàng thông reo

Lời kinh chìm giữa quạnh hiu
Ru em từng tháng ngày đều đặn qua
Bướm ơi, xin nhớ hồn hoa
Hẹn mai chết dưới hiên chùa tịnh tâm

Khi môi thơm khép nghìn năm
Tàn hơi thở muộn khóc lần chia phôi
Bướm gom mộng chở về trời
Làm mưa rơi ấm trên đời người thương

Em đi chùa tóc mây buông
Lời kinh cầu gửi người ngàn năm xa
Em quỳ, nghiêng xuống hư vô
Khói hương che khuất đôi bờ thiên thu…

Phan Các Chiêu Hằng

Phan Bá Thụy Dương

Phan-B-Thy-Dng-001

Phan Bá Thụy Dương
Viết Về Thơ Thy An

Thy An: 40 năm làm thơ, yêu đời và yêu người.
Thy An tên thật là Nguyễn Thế Tài, sinh năm 1952.
Anh xuất thân trường Pháp tại Việt Nam, tốt nghiệp ngành khoa học tại Âu châu và cư ngụ tại Bỉ quốc. Thy An cho biết anh rất yêu thích thi ca và văn chương Việt Nam ngay từ khi còn bé.

Học sinh, sinh viên miền Nam VN, nhất là người theo học chương trình Pháp như Nguyễn Thế Tài hay chọn ngành chuyên biệt Pháp ngữ trên các phân khoa đại học, những người yêu thích thi ca phương Tây, thi ca hiện đại, không ai không biết hay từng say mê, đọc qua Stephane Mallarmé, Paul Verlaine, Arthur Rimbeau, đặc biệt là Guillaume Apollinaire [1880-1918] – ít nhất, qua Le Pont Mirabeau và Le Voyageur, hoặc Victor Hugo [1802-1885] với Les Misérables, Alphonse De La Martine [1790-1869] qua Méditations… mà thi phẩm Le Lac của vị đại thi hào này thì dường như ngay cả học sinh trung học chương trình Việt trước 1975 có thể nói ai cũng thuộc lòng.

Thy An theo học trường Pháp từ thuở thiếu thời, nên có điều kiện thuận lợi để đọc, tiếp xúc rộng rải với nền văn hóa, văn học Tây phương, do đó tôi nghĩ phần nào anh đã chịu ảnh hưởng của những thi sĩ trứ danh nêu trên, để từ đó anh yêu và làm thơ hơn 40 năm qua.

Và qua Tuyển Tập Thơ Thy An, nếu cần nhắc thêm ảnh hưởng về dòng thi ca trữ tình, lãng mạn VN thì người đọc còn nhận ra trong thơ Thy An phảng phất âm hưởng, tiết tấu, phong vận của Đinh Hùng, Hồ Dzếnh, Hàn Mạc Tử.

Hầu hết những người làm thơ không ai là không chịu ảnh hưởng ít nhiều của những thi sĩ thành danh đi trước. Ngôn ngữ thi ca, thi ảnh… mỹ miều không nhiều, nên tự thân việc chịu ảnh hưởng về một mặt nào đó vốn là chuyện đương nhiên, bình thường. Vấn đề là người chịu ảnh hưởng, thấm nhuần tư tưởng thi ca của các thế hệ đi trước có biết cấu trúc, hài hòa để tự sáng tạo cho thơ mình một ” chân dung ” mới, một con đường mới hay không. Theo tôi, Thy An đã thực hiện được điều hay đó một cách trọn vẹn, hoàn hảo.

Thơ Thy An được cấu trúc chặt chẽ, hài hòa và đầy nhạc tính, với những nhân dáng, hình ảnh sâu đậm, mà Robert Bly và nhóm thi hữu của ông như James Wright, Louis Simpson, William Stafford… đã tận dụng, khai thác và được họ mệnh danh là “deep images”. Lời thơ dù mang sắc thái lãng mạn, trữ tình, hoặc cảm xúc trước sông hồ, biển cả, núi non như được biểu tượng hóa, đều luôn phảng phất, tiềm tàng tinh thần nhất quán của một bản thể tính hoài niệm.

Thơ anh nhẹ nhàng và dài hơi, nhất là trong thể loại 8 chữ, thơ mới. Nguồn thi cảm của anh phong phú, dạt dào và được giao thoa, dàn trải một cách thiết tha, lắng đọng.

Thi ngữ Thy An xử dụng thường mới lạ, âm vận êm đềm, đồng thời chuẩn mực về thi pháp và quy luật, nên dễ lôi cuốn người đọc tiếp tục hành trình khám phá, thưởng ngoạn tuyển tập thơ của anh. Đây là một tác phẩm hay cần có trong tủ sách gia đình.

Tác phẩm đã xuất bản:
* Albert Einstein, nhà bác học đam mê và chân thật (biên khảo, xuất bản tại Bruxelles năm 2007, tái bản lần thứ nhất 2008)

* Tuyển Tập Thơ Thy An tác giả ấn hành tại Bruxelles, cuối 2008. Sách dày 220 trangvới nhiều phụ bản tranh màu của các họa sĩ trứ danh: ?, Monet, Vangogh, Jacobha, Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Bé Ký… Địa chỉ giao dịch điện thư : thyan278@yahoo.fr

Dưới đây là một số bài được trích từ tuyển tập thi ca nói trên :

Lời Độc Thoại
đời một nửa nghiêng sâu vào tình sử – hồn lung linh theo tiếng hát lên trời
đỏ nước mắt gửi niềm đau ngọc nữ – rồi ngày qua, ngày qua vẫn thấy rã rời
chiều thắp sáng nguồn đau chờ sám hối – giấc chiêm bao như héo úa tàn canh
theo tiếng gió gửi lời ca buổi tối – thương ngày mai như thương khoảng ngày xanh

Có Phải Em Về
có phải em về đèn khuya héo úa – cho cả bầu trời ẩm đục sương đêm
tay đốt lửa soi đời ngày đối mặt – ôi khuôn mặt xưa mờ mịt bên thềm

có phải em về phấn hương tẻ nhạt – môi vẫn hồng tóc vẫn chấm ngang vai
những thương yêu ấp ủ ở bàn tay – hay ngày mai chỉ là cơn gió lạnh

ngày ra đi, đời ta buồn ủ chặt – nghe hương xưa thoang thoảng áo phong trần
trời có biếc, mắt có trong màu trinh nữ – ta vẫn mình ta khua nhịp đều chân

trên đỉnh trời sầu loài cây nhớ gió – một lần trót thương vạn kiếp u mê
ta đã xót xa ngày tháng lê thê – nghe gãy mục từng cảnh đời vàng ố

có phải em về thời gian vỡ đổ – để ngọn đèn khuya nức nở thâu đêm
ôi dung nhan của một thuở êm đềm – ta bỗng sợ cho ngày mai gió bão

có phải em về buồn lên sắc áo – ánh đèn vàng đâu soi rõ đời nhau
đời của em lẽ nào buồn da diết – để lời thơ ta mãi mãi sầu đau ?

Bài Thơ Du Tử
rồi mai anh về thơ thành hoa thành lá – có bao giờ hoa lá ngủ trên vai
có bao giờ em thương mến ngày mai
hay suốt đời thơ anh – chỉ là giọt sương buổi sáng ?

khi đã ngã nghiêng một vùng đời quên lãng – anh chợt về vầng trán nét suy tư
có thể nào thôi vàng lá mùa thu – để anh tiếc ngày đêm làm du tử

tình của anh là tiếng buồn cô lữ – dưới hiên nhà trên đồi núi sơn khê
nghe vang xa từng tiếng suối đê mê – nghe thương nhớ mảnh trăng thề chờ đợi

anh vẫn tiếc những tháng ngày diệu vợi – con đường nào hàng me lá bay bay
đã quên chưa em cơn hò hẹn tình dài – hay kỷ niệm chỉ là thời vang bóng ?

ngày ra đi anh vẫn biết đời biển động – nên đã cười mà đau đớn xót xa
cũng như ngày xưa anh đã chọn thi ca – làm giấc ngủ trong những đêm phiền muộn

và trời Liège khi sương chiều buông xuống – phủ lòng anh đêm rừng núi vây quanh
anh đã nhớ tới em qua làn khói mong manh – qua kẽ hở bàn tay mùa gió lạnh

có lẽ nào mùa thu đã đem về hiu quạnh – để lòng anh se sắt đớn đau
có lẽ nào bàn tay đã đánh mất tin yêu – để mãi mãi anh một đời rong ruổi

rồi mai anh về, thơ thành hoa thành lá – đậu bờ vai hay hàng giậu trước hiên
anh sẽ về tìm bắt cánh chim khuyên – hay nỗi nhớ muôn đời là nỗi nhớ ?

Em Về, Ta Về
* Tặng NKChi

em về rũ áo tà huy – sương mai hóa ngọc, xuân thì nở hoa
phù vân dòng suối tóc ngà – cuốn theo hư ảo nhạt nhòa chân mây

ta về, tâm thức : tỉnh, say – uyên nguyên hạt bụi lung lay phong trần
vai mềm, áo bạc che thân – nghe kinh huyễn ảo chín phần nổi trôi

em về hoa nở trên môi – tiếng thơ rơi rụng núi đồi vọng mê
lần nghe tiếng gió gọi về – trời xanh biển rộng sơn khê ngậm ngùi

ta về, nỗi nhớ : ngược, xuôi – giọt kinh phủi xuống buồn vui muộn màng
lên đồi bát nhã thênh thang – vẽ lên tấm áo hai hàng sen thơm

Bài Thơ
Làm Tại Giảng Đường
người về đó rêu bồng xanh mái tóc – đá hoang vu mòn nhẵn cạnh trùng khơi
trong mê lốc ta nghe đời hao đổ – thoáng hương xưa trên vai áo rối bời

nghiêng bóng nắng môi cười không thành nụ – ta trở về, tim ủ nẫu tình xưa
đem ước mơ về phủ gót chân thừa – xô dạt mãi gió mưa ghềnh thác lũ

người về đó chim muông thành cầm thú – cướp hồn ta đêm cào máu thành thơ
đã chín chưa ôi vời vợi mong chờ – hay mưa bụi vẫn bay bay thềm cũ ?

mùa thu đó đã về đây yên ngủ – áo người xanh rồi cũng phủ mờ sương
hồn của ta rồi cũng rụng bên đường – mai đi dạo dưới chân người vần vũ

người đã đến đã đi đời trôi nổi – vớt hồn ai trên dục vọng cuồng điên
lắng xuống đi đời ta vỡ trăm miền – chìm lỉm mãi bao quanh vùng biển tối

người có nhớ về đây nhìn tội lỗi – lỗi đời ta ngày mưa gió yêu người và bài LTLĐ dưới đây có thể nói đã thể hiện rõ rệt nhất bản chất tiêu dao, thanh thoát cùng những hoài niệm trầm mặc, thiền vị trong thơ Thy An NTT:

Lững Thững Lên Đồi
ôm nỗi nhớ ta về qua triền núi – rừng xa xưa cất tiếng gọi khôn nguôi
con suối trong xanh soi bóng bùi ngùi – bao kỷ niệm nghe buồn hơn yên lặng

đá vắng lạnh nên hồn ta cũng lạnh – tóc thiên thu vén lại mấy tầng mây
lững thững lên đồi hát với cỏ cây – mắt hoang dại tìm dung nhan bất tận

núi vẫn đó trông xuống đời lận đận – cuộc phong trần đá cũng phải hư hao
chuyện tình người như sông biển chờ nhau – chân bước mỏi nẻo sơn khê lỡ vận

mây gọi mưa ở cuối trời hiu quạnh – núi và rừng vẫn xanh mãi cùng ta
lững thững lên đồi hát bản tình ca – trong gió thoảng hương thơm ngàn hoa lạ

ôm nỗi nhớ ta về cùng cỏ lá – dặm đường xa đi dưới bóng tà huy
vạt nắng cuối non ôi thật nhu mì – nghe như tuổi thanh xuân thời mộng mị

lững thững lên đồi ta quên hệ lụy – núi cùng ta to nhỏ với hư không.

Tình Khúc Nếu Mai Em Về
1.
nếu mai em có về xóm biển
thả gió về trời cho mây bay
bên con suối ngọc mơ màng ngủ
cho tóc em nồng hương cỏ may
nước mắt mẹ –
có rơi dài đêm tối?
nỗi niềm cha –
còn u ẩn tháng năm?
em – em đó sầu dâng mấy độ
ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm
2.
nếu mai em có về quê cũ
đánh thức dùm tôi nhánh ô môi
đang rủ sắc buồn bên song cửa
với giàn bông giấy đắm sương mai
có băng qua bãi,
băng qua suối
theo tiếng thì thầm trong khói mưa
mặc gió hững hờ rung tà áo
đã quên sầu,
hết xót xa chưa
3.
nếu mai em có về xóm biển
hãy thắp dùm tôi mấy nén nhang
cho bạn bè trên đường bỏ xứ
lỡ trầm mình dưới đáy đại dương
thắp thêm nhiều nén trên bia mộ
cho thân bằng quyến thuộc anh em
đã ngã gục qua lằn tên mủi đạn
thủa chiến chinh chia cắt đôi miền
4.
nếu mai em có về quê cũ
đọc lại tình thư đã nhạt màu
mà dư lệ đã lem nhòa trang giấy
với muộn phiền chất ngất lao đao
đò qua xóm vắng ai xuôi ngược
có chở đầy trời thương nhớ không
mộng hồn nào vấn vương tóc rối
gót chân sen em có động chiều hồng?

Liên Khúc Vô Thường
* Tặng Trần Thiện Hiệp

1.
Đốt công án vất kinh thư khải ngộ
Theo đường trăng –
trăng khi tỏ khi lu
Tìm người hiền nơi thâm cốc âm u
Thỏng tay vào rừng giả làm ẩn sĩ
Giòng sinh mệnh
chừng nhuộm màu chướng khí
Bến nhân gian ai quán niệm vô thường
Hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương
Trên vách núi chân dung in mờ tỏ

2.
Ném công án chôn kinh thư bất ngộ
Nương sông ngòi biển cả tới an nhiên
Nửa u hoài, nửa chợt nhớ, chợt quên
Bỗng tan tác cùng tiên thiên tự ngã
Tay huyễn hoặc đề lời thơ trên lá
Hồn xanh xao mờ mịt chốn tang bồng
Người đâu rồi,
người đâu rồi sao tịch mịch hư không
Hương dạ thảo đang chớm mùa khai nở

3.
Hủy công án buông kinh thư giác ngộ
Vào chợ đời áo mỏng phất phơ bay
Bụi khói mê man,
chênh chếch nắng gầy
Lời phố thị chập chờn như ảo giác
Ta là ai –
ta là ai sao tâm linh ngơ ngác
Người là ai –
người là ai mà sắc diện mơ hồ
Rượu độc ẩm hề chân lạc loài đưa
Mây biến dịch mưa chắt chiu giọt nhỏ.

Trên Nỗi Tình Người 4

1.
mấy ngàn dặm hai khung trời cách biệt
em một phương
và ta ở một phương
trăng tuyết ở đây sao cũng dị thường
như khơi động nỗi niềm người viễn xứ

lỡ mai mốt em về qua xóm cũ
ta lạc loài từ thuở dấy đao binh
đường xưa em đi cô lẻ một mình
ôm khắc khoải thẫn thờ trong dư ảnh

2.
mưa bên ấy –
chắc làm em thấm lạnh
gió Hạ buồn có làm tóc em bay
trời đất mang mang sông bể vơi đầy
ai đếm được con nước ròng, nước lớn

thôi nhé em –
góp chi từng sợi nắng
nuối tiếc gì bụi khói đã trôi xa
nhớ nhung nào năm tháng chẳng phôi pha
mà chợt khóc, chợt cười trong ảo mộng

3.
đốt lửa lên em –
đốt lửa lên em, hâm thêm rượu nóng
để mình say quên bão táp vô tình
sao mắt em buồn như giọt sương đêm
tìm đôi bàn tay –
tìm đôi bàn tay, cũng chưa thấy ấm

biết về đâu ta nửa đời phiêu lãng
giấu u tình trong cổ mộ hoang vu
có còn chăng bèo bọt với mây mù
và ủ ấp bóng người trong lặng lẽ

4.
sóng biển hỡi – xin vỗ về thật nhẹ
cát vàng ơi – thôi xóa dấu hài hoa
sỏi đá nào dòng nước đã trôi qua
sao heo hắt muộn phiền như rêu cỏ

gác chuông Bắc ta treo hồn trên đó
đợi em về hong tóc gọi đêm Thu
cho mưa nguồn giăng lá thắm sa mù
và em cất tiếng, ru ta ngàn kiếp.

Cho Lá Thắm

1.
kể từ độ quan san chung cách biệt
bởi tự thân mình đã lỡ căn phần
ngày qua ngày ta sám hối ăn năn
em hờn dỗi ôm tình chôn đáy mộ
trót gieo hạt nảy mầm trên đất khổ
đường nhân gian ta thất thểu độc hành
ta treo hồn trên suối tóc em xanh
bay – bay mãi trong cuồng mê lầm lạc

2.
sao khắc khỏai chẳng hao mòn tan tác
mà dật dờ như bọt sóng lênh đênh
thử hỏi lòng lau sậy có điêu linh
có mặc niệm lời bi ca ẩn dụ
em thả gió thả hương vào vũ trụ
ta miệt mài đuổi bóng dưới trăng khuya
rượu tàn canh –
rượu tàn canh mù mịt lối đi về
tay huyền hoặc đề thơ trên giấy máu

3.
em đến thực hay mơ trong mộng ảo
cho ta nâng niu
từng ngón tay mềm
nụ hôn nào vương vấn má môi em
mà chua xót, ngọt ngào đêm kỳ ngộ
dưới huyệt lạnh em còn thương còn nhớ
chiều Gò Công có hoang vắng nhạt mưa
Lá Thắm ơi –
Lá Thắm đã về chưa
để ta ấp ủ hình hài em thánh thiện

4.
rượu tàn canh –
rượu tàn canh ta ngẫn ngơ tìm kiếm
em –
em nơi nào – trời đất có bao dung
ta lạc hồn trong cõi nhớ mông lung
réo gọi mãi chỉ thấy tòan dư ảnh

5..
có phải bây giờ
thủy triều đang xuống
thuyền đã đưa em về chốn hư vô
nên ráng chiều mây biếc cũng bơ vơ
và hiu hắt muộn phiền trong cô lặng
dẫu gom góp từng giọt sương sợi nắng
cũng âm u như lời hát chiêu hồn
em ơi em –
ở bên này hay bên đó buồn hơn
ta thao thức dỗ từng cơn ngủ muộn.

Trên Nỗi Tình Người 7

1.
Kể từ độ quan san chung cách biệt
bởi tự thân mình đã lỡ căn phần
ngày qua ngày ta sám hối ăn năn
em hờn dỗi ôm tình chôn đáy mộ
Trót gieo hạt nảy mầm trên đất khổ
đường nhân gian ta thất thểu độc hành
ta treo hồn trên ngọn tóc em xanh
bay –
bay mãi, trong cuồng mê lầm lạc
Sao khắc khoải chẳng hao mòn tan tác
mà dật dờ như bọt sóng lênh đênh
thử hỏi lòng lau sậy có điêu linh
có mặc niệm lời bi ca ẩn dụ

2.
Em thả gió thả hương vào vũ trụ
ta miệt mài đuổi bóng dưới trăng khuya
rượu tàn canh –
rượu tàn canh mù mịt lối đi về
tay hư huyễn đề thơ trên giấy máu
Em đến thực hay mơ trong mộng ảo
cho ta nâng niu
từng ngón tay mềm
nụ hôn nào vương vấn má môi em
sao chua xót, ngọt ngào đêm kỳ ngộ
Dưới huyệt lạnh em còn thương còn nhớ
chiều Sơn Qui có hoang vắng nhạt mưa
Lá Thắm ơi –
Lá Thắm đã về chưa
để ta ấp ủ
hình hài em thánh thiện

3.
Rượu tàn canh –
rượu tàn canh ta ngẩn ngơ tìm kiếm
em –
em nơi nào –
em nơi nào, trời đất có bao dung
ta lạc hồn trong cõi tạm mông lung
réo gọi mãi chỉ thấy toàn dư ảnh
Có phải bây giờ
thủy triều đang xuống
thuyền đã đưa em về chốn hư vô
nên dáng chiều mây trắng cũng bơ vơ
cũng hiu hắt muộn phiền trong cô lạnh
Dẫu gom góp từng giọt sương sợi nắng
cũng âm u như lời hát chiêu hồn
em ơi em –
ở bên này hay bên đó buồn hơn
ta thao thức dỗ từng cơn ngủ muộn.

Bóng Thời Gian

biển lặng sóng nước xanh như mắt ngọc
liểu vờn bay như suối tóc người tình
cơn nắng hồng – giọt nắng mới lung linh
thuyền ai đó mái chèo khua bỡ ngỡ

ôm khổ hạnh én lần qua đất nhớ
gió về đâu
nghiêng ngã khóm phi lau
gió về đâu
mà bụi khói xôn xao
mây lờ lửng trên đỉnh trời vàng vọt

cành lá biếc
vừa đâm chồi nảy lộc
ai báo Xuân cho lau cỏ rộn ràng
nhịp trống nào xa
khoan nhặt mênh mang
nghe phảng phất bóng thời gian vời vợi.

Gõ Thức Đêm Đen
* cho Anh Thuần và Lá Thắm

1.
Lửa đã lịm trong lòng anh đó sao
Mà lời nguyện cầu nghẹn tắt
Tình đã dậy trong tim em đó sao
Mà tiếng ca ấm êm ngọt mật
Anh oằn vai vác gỗ qua sông
Chợt thấy bóng dã nhân
run run, ngơ ngác
Đôi chân lạnh hững hờ trên cát
Lưu dấu mù mờ ấn tích bi thương.

2.
Quanh quẩn đâu đây bên chổ anh nằm
Chỉ có tiếng thở dài âm u
của người tù già biệt xứ
Quanh quẩn đâu đây, trong tâm thức anh
Chỉ có đôi mắt em rưng rưng giọt lệ
Và tiếng hét hận thù
của bầy ngạ quỷ nồng nặc mùi tử khí tanh hôi
Không còn gì không còn gì nữa em ơi.

3.
Quanh quẩn đâu đây
bên chổ anh nằm
Đêm tối đen, vắng nhịp chuông gõ thức
Anh thèm một nụ hôn trên môi, trên tóc
Thèm một giọt nước cam lồ, cứu rỗi
Và đôi bàn tay dịu mềm
vỗ về trong cơn khát, đói
Không có gì – không có gì, ngoài âm hưởng xích xiềng rơi
Lặng câm – tịch mịch – rã rời.

4.
Anh oằn vai vác đá băng rừng
Con đường mòn khổ dịch
gập ghềnh – xa xăm – vô định
Quanh quẩn đâu đây trong tiềm thức anh
Tiếng hú đồng vọng, tiếng gió qua truông
Sao rờn rợn, hung hăng
Như ánh mắt ma tinh của loài cú vọ
Hình hài anh cùng trái tim anh
Rịn chảy – âm ỉ những giòng máu đỏ
Mặt trời đã lặn, đã ngủ mê trong cõi chết
Không còn gì – không còn gì nữa đâu em
Ai – ai sẽ khua trống, chuông đồng
gõ thức đêm đen ?

Liên Khúc Vô Thường
* Tặng Trần Thiện Hiệp

1.
Đốt công án vất kinh thư khải ngộ
Theo đường trăng –
trăng khi tỏ khi lu
Tìm người hiền nơi thâm cốc âm u
Thỏng tay vào rừng giả làm ẩn sĩ
Giòng sinh mệnh
chừng nhuộm màu chướng khí
Bến nhân gian ai quán niệm vô thường
Hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương
Trên vách núi chân dung in mờ tỏ

2.
Ném công án chôn kinh thư bất ngộ
Nương sông ngòi biển cả tới an nhiên
Nửa u hoài, nửa chợt nhớ, chợt quên
Bỗng tan tác cùng tiên thiên tự ngã
Tay huyễn hoặc đề lời thơ trên lá
Hồn xanh xao mờ mịt chốn tang bồng
Người đâu rồi,
người đâu rồi sao tịch mịch hư không
Hương dạ thảo đang chớm mùa khai nở

3.
Hủy công án buông kinh thư giác ngộ
Vào chợ đời áo mỏng phất phơ bay
Bụi khói mê man,
chênh chếch nắng gầy
Lời phố thị chập chờn như ảo giác
Ta là ai –
ta là ai sao tâm linh ngơ ngác
Người là ai –
người là ai mà sắc diện mơ hồ
Rượu độc ẩm hề chân lạc loài đưa
Mây biến dịch mưa chắt chiu giọt nhỏ.

Đêm Trên Bãi Cà Ná

dường như lá ngủ trong mê
lũ chim muông đã tìm về núi xa
trên cao bên dãy thiên hà
có vì sao rụng bóng tà long lanh
nổi chìm trong nước biển xanh
nhấp nhô sóng bạc xô gành đá non
còn chi ẩn mật u tàng
bãi đêm quanh quẩn
rượu càng nhạt môi
sinh sinh hóa hóa dòng đời
cũng hư huyễn với kiếp người phù du
lều ai heo hắt đèn lu
lẫn trong hơi gió cát mù mù bay

Bên Dòng Sông Lạnh

Thử hỏi dòng sông Seine –
theo thủy triều xuôi ngược
Mỏi mệt chưa qua năm tháng thăng trầm
Du thuyền nọ ai đưa và ai đón
Có hao gầy với mưa nắng mong manh

Cửa khải hoàn có chia niềm kiêu hảnh
Ngọn Eiffel còn thao thức dung tình
Ðền nguyện cổ có trao lời kinh sáng
Rửa hoà chưa bao tội lổi nhân sinh

Này dòng thủy triều miệt mài trôi chảy
Ðã u hoài mấy độ dưới trăng khuya
Ðèn heo hắt –
sao ánh đèn heo hắt quá
Có đủ ấm lòng tận đáy sâu kia

Thử hỏi con nước sông Seine –
đong đưa khi ròng khi lớn
Mỏi mệt chưa sao còn vẫn luân lưu
Hãy soi chiếu mặt người như gương thánh
Rồi bềnh bồng trong quên lãng, vô ưu

Có cánh chim vừa đáp trên cành trúc
Và mây đang quấn quít rũ nhau về
Thôi, xin vảy tay chào –
xin vảy tay chào dòng sông êm ả
Một lần quen một lần nhớ thiên thu

Như Vì Sao Lạc
* Bài thủ vĩ ngâm cho Hồ Thành Đức

1.
như một vì sao lạc giữa sơn khê
nhìn trần thế âm u màu chướng khí
người rũ áo – xoa hành tinh, ứa lệ
gọi hồn thiêng sông núi đến tự tình
đem hạt nhân hòa, nhân ái kết tinh
âm thầm cấy dưới đồng ngô, ruộng lúa

2.
rải thương yêu, ngọt ngào trên đất khổ
tô màu xanh cho biển rộng xanh thêm
điểm son hồng trên môi má nhung êm
pha hương sắc cho đời thôi u uất

3.
người quỳ đó: cô đơn và trầm mặc
viết tâm kinh mà tâm thức hắt hiu
tay khẳng khiu hứng từng đợt nắng chiều
phủ trên mộ, trên rừng hoang cô quạnh
có phải người hóa thân làm ánh sáng?
soi rọi tự thân, soi chiếu đêm mê
như một vì sao lạc giữa sơn khê

Nếu Mai Em Về
1.

nếu mai em có về xóm biển
thả gió về trời cho mây bay
bên con suối ngọc mơ màng ngủ
cho tóc em nồng hương cỏ may
nước mắt mẹ –
có rơi dài đêm tối ?
nỗi niềm cha –
còn u ẩn tháng năm ?
em – em đó sầu dâng mấy độ
ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm

2.
nếu mai em có về quê cũ
đánh thức dùm tôi nhánh ô môi
đang rủ sắc buồn bên song cửa
với giàn bông giấy đắm sương mai
có băng qua bãi,
băng qua suối
theo tiếng thì thầm trong khói mưa
mặc gió hững hờ rung tà áo
đã quên sầu,
hết xót xa chưa

3.
nếu mai em có về xóm biển
hãy thắp dùm tôi mấy nén nhang
cho bạn bè trên đường bỏ xứ
lỡ trầm mình dưới đáy đại dương
thắp thêm nhiều nén trên bia mộ
cho thân bằng quyến thuộc anh em
đã ngã gục qua lằn tên mủi đạn
thủa chiến chinh chia cắt đôi miền

4.
nếu mai em có về quê cũ
đọc lại tình thư đã nhạt màu
mà dư lệ đã lem nhòa trang giấy
với muộn phiền chất ngất lao đao
đò qua xóm vắng ai xuôi ngược
có chở đầy trời thương nhớ không
mộng hồn nào vấn vương tóc rối
gót chân sen em có động chiều hồng?

Đêm Bên Dòng Sông Lạnh
* Bài Cho Anh Đinh Từ Thức

thử hỏi dòng sông Seine –
theo thủy triều xuôi ngược
mỏi mệt chưa
qua năm tháng thăng trầm
du thuyền nọ ai đưa và ai đón
có hao gầy với mưa nắng mong manh

cửa Khải Hoàn
có chia niềm kiêu hãnh
ngọn Eiffel
còn thao thức dung tình
đền Nguyện Cổ
có trao lời kinh sáng
rửa hoà chưa bao tội lổi nhân sinh

này dòng thủy triều miệt mài trôi chảy
đã u hoài mấy độ dưới trăng khuya
đèn heo hắt –
sao ánh đèn heo hắt quá
có đủ ấm lòng tận đáy sâu kia ?

thử hỏi con nước sông Seine –
đong đưa khi ròng khi lớn
mỏi mệt chưa sao còn vẫn luân lưu
hãy soi chiếu mặt người như gương thánh
rồi bềnh bồng trong quên lãng, vô ưu

có cánh chim vừa đáp trên cành liễu
và mây đen quấn quít rũ nhau về
thôi, xin vẩy tay chào –
xin vẩy tay chào dòng sông êm ả
biệt kinh kỳ ta tìm chốn sơn khê.

Thôi Ta Về Ôm Góc Núi

1.
Áo nhuộm phong trần chưa rũ sạch
Tóc đã pha màu nắng quan san
Thôi thôi ta về ôm góc núi
Đẽo gỗ trầm hương tạc tượng nàng

Gõ phách mà ca bài độc đạo
Hứng tinh hoa nhật nguyệt càn khôn
Mang ẩn tích về treo cổng gió
Chợt phân vân ngẫm chuyện sinh tồn

2.
Mềm môi cạn rượu đêm trừ tịch
Lại nhớ người xưa, hương tóc xưa
Đường thăm thẳm bước chân lơ đãng
Thoảng nghe lạc điệu pháo giao thừa

Thôi thôi ta về bên dốc đá
Dựng am đường hội chứng vô âm
Rủ chim chóc ngao du rừng trúc
Đốt cảo thơm chuyển hóa huyễn thần

3.
Dư ảnh chập chờn như bụi khói
Ảo chân rời rạc giữa lưng trời
Thôi thôi ta về ôm góc núi
Đục gỗ trầm hương tạc tượng người

Gõ nhịp mà ngâm bài tuyệt tận
Gọi hồn Lá Thắm suốt đêm thâu
Gió sương phơ phất đời cô lặng
Nhòa nhạt chưa phiến thạch mộ sầu?

Trên Nỗi Tình Người 5

cơn gió thổi mộng hồn bay lả bóng
trời hoang vu mấy độ phủ hồn em
ôi mắt ngọc của ngày xưa hiển hiện
ta ngẩn ngơ thao thức những canh huyền

sao thương nhớ những nụ sầu giông bão
sao u tình dằn vặt suốt đêm thiêng
ta mệt mỏi ghi vào trang giấy máu
nụ hôn đầu trong ký ức trinh nguyên

Niệm Khúc Tôi

ta về tóc phủ sương đông
áo tà huy quyện bụi hồng phấn tơ

hốt nhiên tỉnh giấc mộng hờ
mắt từ dung đã lững lờ tử sinh

rán chiều rực lửa vô minh
nhịp chuông chiêu niệm
lời kinh cầu vàng

ta về cõi trú thênh thang
bỏ dương thế
với địa đàng hoang vu.

Cũng Còn Kỷ Vật

em dâng trái cấm đầu mùa
với trăm mộng ước ban sơ ngọc ngà

anh ngồi góp ánh trăng sa
cho em đan áo tình tha thiết tình

dẫu mai đời có phiêu linh
cũng còn kỷ vật để mình nhớ nhau.

Phan Bá Thụy Dương

Phạm Tương Như

Phạm Tương Như-002

Khánh Ngân Trang Đài

Khánh ngân còn đó thanh âm
Trang đài diễm diễm trăm năm thương hoài
Ai về ôm mộng trên tay
Gió đưa tóc thả áo bay lượn mùa

Chừng như trời sắp đổ mưa
Xin đừng ướt áo người chưa hẹn hò
Cây vừa rụng chiếc lá khô
Sợ trang thơ dệt ươm mơ thấm buồn

Ướt tình ánh mắt sầu vương
Ai còn hát phiên khúc buồn vì ai?
Vết chiều kết sợi nắng phai
Ngập ngừng chân bước chia hai hướng đời

Vẵng đâu đây tiếng nói cười
Còn mơ bóng ảo, hương môi ngọt ngào
Đường đời ai biết mai sau
Nghe dòng cảm xúc len vào cô miên!

28/06/2015

Em Và Tôi

Em bơ vơ trong trái tim tôi gầy
Những hạt máu thành nước mắt khóc thương
Điều trăn trở trong lòng tôi tối sẫm
Em và Tôi mê đắm giữa mù sương

Em khóc chưa cạn hồ nước mắt tôi
Ngọn sóng trăm sông tràn về biển lớn
Thuyền đời trôi theo cánh buồm tả tơi
Màu nước biển xanh vô tình non mởn!

Em hiển lộng nơi lẽ sống tình tôi
Những nghịch cảnh ùa qua cơn chảy xiết
Trận hồng thủy cuốn trôi tôi vô bờ
Không tự mãn trên hai vai khánh kiệt

Mùa đông tím bầm trút lá đơn côi
Nỗi đau chung thân cuộn mình tối sáng
Niềm hy vọng lờ mờ vắt ngang trời
Tôi gọi tên em, vườn thơ im lặng

Yêu em ! Dâng hiến trái tim tôi hồng
Nơi tâm hồn em kỳ hoa dã thảo
Ong bướm sơ khai ân ái mặn nồng
Đôi mảnh đời hoang tìm nhau ẩn náu

02/07/2015

Mai

Cớ gì nắng đậu cành mai
Gió đưa Xuân đến, thoảng dài hương xa
Hay là Xuân của người ta
Mai vàng nở rộ là đà gió xưa

Mai đầy cành, lá lưa thưa
Tình tôi như lá mới vừa nõn Xuân
Bướm hoa vàng nắng bâng khuâng
Còn tôi hiu hắt ngại ngần nỗi riêng

Lối mai, ngỏ trúc hoa viên
Người qua áo lụa dệt viền chỉ xanh
Én du Xuân, gió lượn cành
Nhớ người, ngắm lá lanh chanh phiến buồn

Ngày xưa gió núi sương rừng
Tháng giêng mai nở rưng rưng Xuân về
Bây giờ vẽ chữ đam mê
Nhìn mai tôi ước lời thề ai trao!?

Phạm Tương Như
27/06/2015
Nếu Như…
* Trong nỗi nhớ một người…

Nếu như anh chẳng làm thơ
Thì ai đưa đón giấc mơ em về
Hồn anh đâu biết tái tê
Gieo vần kết chữ điên mê tháng ngày

Nếu như chim chẳng hát hay
Chân vui điệu múa, dáng bay cánh mềm
Tiếng em gửi gió chiều êm
Nhạc thơ huyễn hoặc, trăng đêm khuyết tròn

Nếu như đời chẳng cô đơn
Môi chưa ngủ trọ vết son em chờ
Hoa hờn con bướm ngẩn ngơ
Tim lòng gỏ nhịp bơ vơ tội tình

Nếu như giấc ngủ riêng mình
Không còn rưng rức bóng hình người thương
Sương khuya đâu rụng xuống vườn
Để giun dế gọi miên trường nhớ nhau

Nếu như tình cảm chưa trao
Trăng đâu chìm bóng, sóng gào biển sông
Nắng vàng chia nửa hoàng hôn
Anh còn chuốc nửa mảnh hồn hoang sơ

Nếu như mình chẳng hẹn hò
Trăm năm hình, bóng giả đò có đôi
Chắc tim anh vẫn bồi hồi
Đêm nhìn dáng nguyệt nhớ người trong thơ

Nếu như lở gãy ước mơ
Thơ anh chết, chẳng bao giờ tái sinh
Em ơi hỏi lại lòng mình
Dù sao đi nữa…cũng tình thiết tha…..
(Dù sao đi nữa…. trọn tình nhé em…..)

Tôi Buồn

Tôi buồn chắc tại trời mưa
Mưa làm tôi nhớ người chưa dặn dò
Mưa dầm lòng bổng lo lo
Sợ em ướt áo, sơ dù không giương
Em qua trũng nước ven đường
Sợ trăm lá cỏ, chân vương lấm bùn

Sợ em nhớ anh, em buồn
Giọt mưa chen giữa nỗi lòng đôi ta
Tự tình như thể sân ga
Thiếu em bến vắng….người qua lâu rồi?

Mù Sương

Nỗi lòng giăng sáng mù sương
Dòng đời như những con đường quanh co
Qua sông để lở chuyến đò
Qua cầu gãy nhịp, cam go tình trường
Tìm yêu, đi lạc lối rừng
Qua đêm thức trắng buồn thương dáng hình
Thì em nói chuyện chung tình
Sao tôi ngờ ngợ nỗi mình nỗi em
Sương mù phủ mấy đường tim
Nhớ nhung quay quắt… biết tìm em đâu?

Ru

Em ru lời lá rơi
nhẹ như bước chân trần
sao lòng tôi rách nát
từng phiến buồn ăn năn

Tiếng em lời gió ru
trong bóng đêm giao mùa
trên hàng cây lá ngủ
nhánh khua lời võng đưa

Áo em còn thả bay
Môi ướp đầy men say
Cho hồn anh lộng gió
Ôm mộng tràn đôi tay

Tóc em còn giăng tơ
Mắt biếc xanh đôi bờ
Nối vòng cung nhật nguyệt
Trăng tình đưa võng thơ

Mưa

Lòng buồn cuốn lá cô đơn
Mưa rơi ướt dột từng cơn nhớ người
Đêm nằm cắn kén mồ côi
Con tằm gậm nhầm hồn tôi nát nhầu

Mưa mù xây một thành sầu
Nhốt tôi vào với nỗi đau miên trường
Dáng em ngàn đóa yêu thương
Mưa đâu xóa được vô thường tình ta!

Lời Ru

Em ru nhẹ tiếng lá rơi
Sao tôi nghe nặng tơi bời bước chân
Ru tôi nắng gió bâng khuâng
Vết đau kỷ niệm bao lần xót xa
Gió đưa áo thả lụa là
Điệu chim muông hát lời ca yêu đời
Ráng chiều ru ửng chân trời
Em ru hay khóc một người viễn mơ?

Tôi ru em khúc nhạc thơ
Nụ cười, ánh mắt ai ngờ để quên
Tôi ru tôi giấc buồn tênh
Em, tôi còn đó mông mênh nỗi lòng
Vườn em nõn lá màu thương
Tôi vào mới biết mù sương tan rồi!

Áo Tặng Màu Mây

Người đem tặng áo màu mây trắng
Chen những hàng mây đang chuyển mưa
Từ đó hồn tôi bay lãng đãng
Nhớ hoài môi, mắt, dáng người xưa

Áo mây tôi mặc thơm mùi tóc
Còn vết son môi, hơi thở ai
Hôm qua giặt áo, nghe mưa khóc
Giọt lệ từ tim cũng chảy dài

Con sâu kết kén, treo cành lá
Tôi cuộn hồn tôi trong áo mây
Thời gian nhung nhớ chưa thành đá
Nên vẫn đau suốt cuộc tình gầy

Sáng nay đem áo phơi ngoài nắng
Mây trắng đùn quanh, mây trắng bay
Bên kia bóng mát ai làm dáng
Gió thổi bụi mù nghe mắt cay!

Áo mây thêu dệt vầng thơ muộn
Còn ũ hương yêu, giấc mộng đầy
Ai giết hồn tôi khao khát muốn
Áo cởi một lần đem thả bay

Tôi ngắm mù sương trên mộ chí
Ngỡ áo mây về ôm xác tôi
Em ru thơ hát bao tình ý
Thiếp mắt tôi chờ môi ướt môi!

Về
Tôi về bơi sóng phù sa
Theo con nước đục bến nhà nơi đâu?

Tìm
Nương cơn sóng nhớ
Vượt vạn đường mây
Bến đợi phương này
Nhìn ra bóng ảo

Chiêm Bao
Người về ngang giấc chiêm bao
Giật mình tưởng tiếc chưa trao thơ tình

I- Phone
Mở I- phone để ngắm hình
Yêu người hay chỉ oằn mình nhớ nhung

Tin Nhắn
Nhắn tin, em nói nhớ thương
Nghe tim âm ấm, miên trường trở trăn

Tiếng Chim
Tiếng con sáo sậu
Chào khách mới về
Hương khói hồn quê
Nửa đời cách biệt
Tiếng chim bìm bịp
Gọi thủy triều lên
Nhắc khách đừng quên
Đò chiều tiễn biệt

Ví Von
Tình yêu như thể trăng sao
Khuyết, tròn, mờ, tỏ…lắm màu đổi thay

Nỗi Lòng
Hồn tôi biển rộng, sông dài
Muôn trùng sóng vỗ, chảy hoài niềm riêng

Karaoke
Karaoke, em hát nhạc tình
Hay là ngầm nhắn với mình đều chi?

Vời Trông
Mây trôi không bờ bến
Nước chảy chẳng ngược dòng
Lòng tôi triền dốc mênh mông
Ngược xuôi, xuôi ngược vời trông bóng người

Ngắm Nhìn
Ngắm mây, nhớ tóc áo người
Nhìn hoa, ngờ ngợ nụ cười em trao

Lá Xanh
Lá xanh nõn biếc trời xuân
Hồn tôi chan chứa gió đàn ru cây

Nụ Hôn
Nụ hôn còn đọng hồn tôi
Nụ cười, ánh mắt ngõ lời nhớ thương

Khách Lữ
Trên đỉnh phù sa
Nghe ta xấp, ngửa
Tình quê chan chứa
Khói bếp lửa chờ
Sao mình bơ vơ
Một đời khách lữ!

Hồn Quê
Trời xanh, hàng chuối lá xanh
Vườn cây nhản, trái oằn cành
Áo trắng học trò qua ngỏ
Nghe lòng chín đỏ tình quê

Lời Đêm
Nhớ ai giun dế thở than
Tưởng chừng nghiên bút dệt ngàn lời thơ

Dỗ Giấc
Trắng đêm dỗ giấc ngủ mòn
Sáng nhìn nắng gió vẫn còn dáng ai?

Nhớ
Nhớ người lạc hướng mây bay
Gió say lối gió, trăng say men tình

Nhả Thơ
Còn nguyên trong cõi lặng thinh
Hồn tôi cắn kén, trầm mình nhả thơ

Đối Ẩm
Nhớ lần đối ẩm cùng em
Chung ly, mắt hẹn, dậy men, say tình
Đường về trăng rớt lung linh
Gió qua thấp thoáng bóng hình giai nhân

Thiếu Nữ
Áo ai cuối phố
Thả gió ru tà
Huyễn hoặc hồn ta
Một thời thiếu nữ

Lá Xuân
Ai người tiếc lá xuân xanh
Ta như mưa gió oằn cành nhớ thương
Hoa Xuân phấn nhụy tỏa hương
Ta như cánh bướm lượn vườn tình duyên

Niềm Riêng
Ngắm chim cắn cọng cỏ mềm
Bổng nhiên nhớ bước chân em thuở nào.

Nghiêng
Nghiêng vai dốc cạn u hoài
Chông chênh một nửa đêm dài riêng mang
Nụ cười thay tiếng khóc khan
Tặng ta một dấu chấm than ru đời!
Trần thị dã quỳ

Họa
Hồn nghiêng mấy nỗi cảm hoài
Trăng tàn, sương lạnh tình dài cưu mang
Ta, người ai sẽ gọi khan
Đất trời còn đó, thở than chi đời!
Bến Xưa
Dòng sông tiễn khách thăm quê cũ
Gió lộng, chiều phai nhớ điệu hò
Chỉ nghe sóng vỗ mạn đò
Ưu tư khách lữ còn chờ bến xưa!?

Nếm
Ta vừa chung ly rượu cay
Môi em mới nếm mà say ngất đời

Mưa
Mưa dầm lá, cỏ tả tơi
Hồn ta ướt dột, buồn rơi xuống buồn!

Ánh Mắt
Hồn tôi chìm ánh mắt em
Ngất ngư chỉ một con tim bồi hồi

Môi Phượng
Anh hôn đôi môi phượng
Son chín đỏ đầu cành
Lòng như lá biếc xanh
Ve ru lời anh hát

Nắng Lụa
Áo bay sân nắng lụa vàng
Ngỡ bao thoảng gió ru ngàn nhánh thơ

Ngắm Sông
Lục bình man mác trên sông
Có chở hồn tôi xuôi dòng?
Ngọn bần, xuồng câu thấp thoáng
Dáng chiều trầm mặt nước trong

Bến Đời
Chim chìa vôi hát líu lo
Tự dưng nhớ quá giọng hò
Bến sông đâu còn bóng Mẹ
Bến đời một cõi bơ vơ!

Khói Chiều
Lá dừa nhúm lửa khói cay
Hồn tôi theo gió thả bay lên chiều

Khóc M
Mùa hè năm trước trở về đây
Thấp thoáng quanh sân dáng Mẹ gầy
Tháng hạ mùa này con chỉ khóc
Bàn thờ, mộ chí khói nhang bay!

Về Quê
Ta về hát khúc đồng dao
Theo chân thôn nữ dạt dào tình quê
Vườn ai nhạt ánh trăng thề
Ruộng đồng, hoa trái, xuồng ghe chở đầy

Hiên Ngoài
Lặng nghe từng giọt mưa rơi
Đêm sâu nỗi nhớ rụng rời ngoài hiên
Xót xa chút mảnh tình nghiêng
Lệch vai oằn gánh oan khiên đau đời
Trần thi dã quỳ

Họa
Trăng tàn, gió lặng, sương rơi
Còn riêng bóng lạnh chưa rời hàng hiên
Một mình níu ngọn tình nghiêng
Oằn vai thương nhớ, oan khiên tím đời

Bạn Lính
Bạn mới hẹn đã vui
Rượu chưa khui tưởng xỉn
Còn đâu đây trận chiến
Những thằng đi ngậm ngùi!

Trả Em
Trả em!. Dốc hết tình này
Đau thương, hạnh phúc tràn đầy lòng ta
Cảm ơn giọt nước mắt ngà
Câu thơ ngẩu hứng hóa ra đoạn trường!

Niềm Đau Chiến Tranh
Cưới nhau không trăng mật
Nồng hơi ấm tân hôn
Hương yêu tỏa ngập hồn
Hôm sau anh ra trận
Đường bay còn vương vấn
Bổng đau vết đạn thù
Đời cách biệt thiên thu
Tình chôn nhau miên viễn!
(theo chuyện kể và nước mắt K. Anh)

Khói Bếp
Khói mù mái lá nhà ai
Đưa tôi vế lại tháng ngày ấu thơ

Hồi Âm

Cứ tưởng nhà thơ dân Huế rặt
Dại học miền cao Đà lạt tề!
Lính lát một thời xưa xa lắt
Mắc gì kể chuyện Vĩnh Long tôi

Xe đò Nhan Nhựt chuyên đưa khách
Có đứa tòng quân chẳng trở về
Mỹ Thuận Sài gòn đâu ngăn cách
Vậy mà phố thị khác chân quê!

Con trai Nhan Nhựt xưa là bạn
Giờ “rớt mùng tơi” chuốc phận nghèo
Tháng tư kẻ cướp về gây nạn
Cửa nhà, xe cộ khổ lây theo

Chủ xe Nhan Nhựt khi còn sống
Giúp bất kỳ ai, chẳng hại người
Khi chết thiếu “vườn không nhà trống”
Không đất chôn thân “đéo mẹ đời!”*

Có những thằng khùng quen mỏ vẹt
Hô hào trống rỗng, trí như heo
Nhan Nhựt anh hùng theo chủ chết
Tiền Giang, Mỹ Thuận hết đò chèo

Nhan Nhựt bềnh bồng thơ thi sĩ
Mỗi lần về lại Vĩnh Long Xưa
Con đường dẫu chẳng đường thiên lý
Sao nhớ gì đâu những đón đưa!

Cám ơn Thầy Giáo còn “Vấn Lệ”
Tình lính năm nào vẫn ngược xuôi?
Vĩnh Long muôn thuở thành tri kỷ
“Giọt lệ đài trang”** đủ chết người!

* “Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời!” thơ Cao Bá Quát
** Nhạc Châu Kỳ

Điệu Ru Dế Mèn
* Thơ gửi người hát rong

Cô dế mèn của anh ơi!
Mãi mê hát khúc tình sầu
Nỉ non đêm thâu gọi nhớ
Trách đời lở cuộc biển dâu

Thơ anh nhắn lời dế giun
Ước mơ giây phút trùng phùng
Thâu đêm chuốc màu trăng lụa
Nghe chừng khóc cuộc tình chung

Dế mèn gọi tên bốn mùa
Hồn đêm chan chứa gió lùa
Cô đơn rót tràn bóng tối
Rượu đời đắng chén cay chua!

Và anh gọi tên dế mèn
Vầng trăng vằng vặc soi đêm
Sương khuya ướt mềm lá cỏ
Lấy gì khâu vá con tim?

Cánh khua câu hát điệu tình
Nhún mình vươn cánh lung linh
Dế mèn bay qua giông tố
Gọi khan khoảnh khắc lặng thinh.

Gió Và Lá

Gió ru lá ngủ trên cành Đong đưa sương lạnh, ngậm vành trăng khuya
Trời mới chớm sang Xuân. Những phiến lá xanh nõn nà da thiếu nữ, đang say sưa hớp từng ngụm trăng non. Đêm rất dài, gió rất nhẹ, lá lắt lay thì thầm lời tình tự ướt đẫm hơi sương. Ta thắp trên môi em ngọn tình nóng bỏng, màu hồng đậm những đài hoa mới trổ hương Xuân, phấn hoa thoảng đâu đây mùi thơm nhụy mới. Lớp áo mỏng thêu dệt lưới tình, để hở khoảng trống nơi đôi vai huệ trắng. Hai cỗ chân buông gót gió lả lơi, phơi trần sức sống, mười ngón chân son trang điểm rung trên dấu hài. Chừng như em cố tình đánh thức, cơn mộng mị trong ta khát thèm nhục thể. Hãy nói đi em, lời nồng nàn thức ngủ biếc màu phiến lá xanh, thoi thóp thở vào đêm khuya. Những sợi gió cựa mình cột chùm bao nỗi nhớ. Hằng hà phiến lá du dương đang trườn
mình hứng cơn gió lạ, chờ hạt lệ sương rưng rưng khóc gọi tên người.
Ta nhen nhúm nơi má em hơi ấm hương nồng, của buổi chiều chưa tắt nắng. Nụ hôn vội vã như hơi gió chợt đến chợt đi, sao rã rượi lòng ta. Lời từ giả nghịch lý với ánh mắt nhìn nhau thật nồng nàn tình tự, ngầm trao nhau lời ước hẹn. Thời gian quá ngắn ngủi, không đủ cho ta vẽ một chân dung tình yêu, cũng không đủ cho lời thơ hóa thành nhạc khúc, rung trên phím đàn, và em buông cảm xúc theo từng câu hát, thả lơi đôi tay, vạt áo đong đưa dáng liễu, đu mình nghiêng theo triền gió.
Những áng mây bay phiêu lãng trên nền xanh giả tạo của không gian, chưa kịp xếp cánh đã phải chuyển mình tan theo hướng gió. Gió! Gió! Gió! Tình còn đó hay đã bay theo cơn gió loạn, vì nghịch cảnh, mùa chợt thay mùa, lá cũng đổi màu xiêm y. Ta còn đây giấc mơ phía bên kia bờ định mệnh. Thứ định mệnh gió hắt hiu ru ngủ lá ngàn. Bờ gió chắn những chia xa từ trùng trùng duyên khởi. Hơi thở em ũ thơm làm say ngất môi ta. Những cơn gió mê hoặc đang thì thầm, hòa cùng âm vọng của hơi thở, lời rên siết thiết tha, điên mê của lá làm tim ta loạn nhịp. Ta tan biến vào em bằng trận bão giông. Ta cố gọi tên em như chưa từng tuyệt vọng. Ta cắn vào da thịt em những vết cắn của loài sâu màu da lá xanh, đã gậm mòn viền nâu phiến lá. Lá sẽ chín vàng, lá
sẽ theo gió bay xa, bỏ lại vết xước thân thương những tháng ngày, cành là của lá, cuống lá đong đưa, phiến lá ngửa mặt uống trăng, từng đêm treo giấc ngủ trên cành.
Em cố rót nhẹ vào tai ta tiếng yêu và lời nhớ. Ta khẽ đánh thức nơi má em hồng một nụ tình mật ngọt, ngọt như màu son môi em cười làm tươi vui khu vườn tình ái. Con bướm nào nươn theo nắng gió tìm hoa! Con ong nào miệt mài hút nhụy! Có phải đó là tình yêu! Làm sao ta quên được em! ”… ta ôm bóng đêm, đêm làm mặt lạ, đêm cháy lửa đen…” và ta thức ngủ, lắng nghe đêm đen cuộn tròn chăn gối, mùi tóc hôm nào còn ũ ngát hương đêm. Gió vẫn khảy đàn, những điệp khúc phổ lời thơ của lá. Lá vẫn lao xao say ngất, chao nghiêng theo từng nhịp điệu vi vu gió ngàn giao hưởng.
Gió thì thầm với lá, lá oằn mình lao xao, đêm nồng nàn tình tự, nụ hôn đầu trao nhau!

Chờ

Lụy người huyễn mộng mơ ta
Môi ngon, mắt ướt, mượt mà tóc tơ
Ngỡ ngàng lối gió đường thơ
Bên kia hư ảo, vượt bờ tình duyên

Lụy người hồn bướm mơ tiên
Vết chân sỏi cát chạm miền nhớ thương
Ánh nhìn thắp ngọn sầu vương
Má môi cháy bỏng đêm trường nhớ quên

Lụy người sóng nước lênh đênh
Nghe ta hấp hối, thở trên phiêu bồng
Ngọn tình chảy một đời sông
Đôi bờ sóng vỗ, giấc nồng chiêm bao

Mềm lòng nhặt nhạnh hư hao
Chật ngăn tìm thức, thơ trào lệ khô
Trăm năm nghìn mối tơ vò
Đêm nghe sương rụng, mong chờ dáng ai?

Trộm Thương

Em gửi anh lời thăm hỏi nồng nàn
trong buổi sáng trời Houston rất lạnh
hồn bỗng ấm và con tim ranh mãnh
thơ dễ thương, cây cảnh biết yêu đời

Có phải tình là mộng, văn là người
mộng đã tình nên lòng người cũng khác
người đang yêu thấy đời thêm hoan lạc
nhạc thơ ru từng khúc hát giao tình

Em dấu yêu trong hơi thở riêng mình
thổi nụ hôn màu môi hồng nắng ấm
Anh hớp gió ngỡ thơm bờ môi thắm
nghe xôn xao du dạo khắp châu thân

Trăm hướng mộng hồn khép mở tình nhân
anh nhặt ưu tư, gieo mùa trăn trở
yêu mới chớm, đời nửa đời đã lỡ
trăng động tình cũng ngờ ngợ khuyết tròn

Ai đếm nhịp tim từ tấm lòng son
nghe vất vả cuồng si bờ tối sáng
đem quá khứ cất vào ngăn quên lãng
đời có bao lâu sao nỡ hững hờ!!!

Đời Tình Thất Lạc

Hồn tôi là thác đổ
Rơi trên sỏi đá mòn
Yêu người chưa biết mỏi
Chảy một đời cô đơn

Hồn tôi là lau lách
Gió về ngọn nghiêng chao
Đôi bờ sông ngăn cách
Còn nguyên tiếng lao xao

Hồn tôi là cỏ dại
Đợi bước chân ai về
Nắng mưa làm tê tái
Lối cỏ mòn điên mê

Hồn tôi là ngọn gió
Theo mãi một đời mây
Mây bay hoài viễn xứ
Gió buồn ru cỏ cây

Hồn tôi là con nước
Trăm năm chảy qua cầu
Làm sao tôi biết trước
(bến mơ tình xuôi ngược)
Giòng đời tựa biển dâu

Hồn tôi lời chim hót
Gọi khan mấy giọng tình
Em còn nghe lảnh lót
Tiếng núi rừng van xin

Hồn tôi là thác đổ
Chảy qua thung lũng buồn
Phải em là suối nhỏ
Tìm về muôn nhánh sông
Có nghe lời thác gọi
Trùng phùng nơi biển Đông

Nửa đời tình thất lạc
Em để mất hồn tôi
Còn trái tim tan nát
Giữ giùm tôi em ơi!

Ngọn Tình
Trên Sóng Phù Sa

Dòng sông đưa nước đục phù sa
Vượt sóng đò xuôi trở lại nhà
Lữ khách ngậm ngùi theo lối gió
Ngõ hồn rách nát chuyến mưa qua

Tiền Giang chia mấy nhánh sông xưa
Bạt gió chim bay vỗ cánh lùa
Đuổi bóng thời gian, đưa quá khứ
Về đây tìm lại gió mây mùa

Nhấp nhô muôn sóng vỗ mạn đò
Đã mấy mươi năm vắng tiếng hò
Tóc, áo, mái chèo bao thiếu nữ
Ngây tình trong ánh mắt ngu ngơ

Hôn mê ta hỏi cánh lục bình
Có nhớ chàng trai vẫn lụy tình
Cô bé học trò môi mắt ướt
Nửa hồn say khướt cánh hoa xinh

Ngập ngừng vớt bóng nửa đời ta
Đã gãy hình xưa nhuộm nắng tà
Gió rối bồng bồng trêu tóc bạc
Ai còn cánh bướm lượn hương hoa?

Ngọn tình trên sóng nước phù sa
Vực nhớ chao nghiêng tuổi ngọc ngà
Vết xước đã bàu sâu ký ức
Sao còn trôi mãi bóng mây qua?

Mưa Ngâu

Mưa ngâu chưa thấm áo người
Chỉ nghe sướt mướt một thời nắng phai

Mưa

Mưa làm ướt dột hồn tôi
Tim côi lạnh lẽo bồi hồi nhớ ai?
Giọt mưa khẽ gọi u hoài
Còn nghe tiếng nấc vọng ngoài gió khuya

Thơ Tinh

Thơ tình theo gió bụi mờ
Áo lam gói trọn hai bờ yêu thương
Bên bồi mây tím vấn vương
Còn trên bến lở tiếng chuông ngân chiều

Dã Quỳ

Tình yêu như cõi sương mờ
Bên ni bên nớ chạm bờ nhớ thương
Bóng chim xa khuất còn vương
Mặt hồ tăm cá …gợn chuông xuống chiều
Ptn.

Tình Trao

Anh trao em chút tình gầy
Gió làm bay bổng bám đầy hồn em

Cỏ Đêm

Cỏ ngu ngậm hạt sương ngơ
Trăng soi huyễn hoặc tình chờ giấc khuya
Gió về ru cỏ đong đưa
Võng ai hát khúc nguyệt vừa đu mây

Mà Sao…

Trên trời chỉ một vầng trăng
Mà bao la sáng, xóa màng đêm đen
Tình anh yêu mỗi mình em
Mà sao giông bão nhận chìm đáy sâu
Mắt anh chứa mấy giọt sầu
Mà sao trời đất nhuộm màu thê lương

Thời Gian 2

Thời gian rồi cũng bỏ ta
Bên kia kỷ niệm đã già thuở xưa
Tình yêu đâu phải nắng mưa
Mà quên với nhớ đong đưa tháng ngày

Vị Cà Phê

Cà phê hương vị mượn hồn
Nỗi vui đen, đắng, nỗi buồn khói bay
Nhớ em một thuở tình đầy
Bây chừ gặp lại vai gầy, héo hon

Khăn Tay

Thuở nào em tặng khăn tay
Thêu bông lan trắng, có hai nhánh đời
Tưởng chừng nửa kiếp rong chơi
Khăn hoa nhuộm tím màu trời nhớ thương

Thời Gian

thời gian qua mái tóc
còn để lại màu mây
con chim nào đứng hót
chân in đuôi mắt này
ngày mai ai sẽ khóc,
cát bụi gió mù bay !

Nỗi Lòng

Nỗi buồn
tròn trịa lăn bi
Nỗi đau lở loét
tình si nát lòng

Tình rơi
vỡ vụn tim chùng
còn đâu nước mắt
khóc thương phận mình

Nhớ Người Tưởng Bóng
* Họa thơ Kim Oanh

Chân mây hồng ửng chiều nhuộm sắc
Ta nhớ người quay quắc cơn mê
Gió ru cây, đưa bóng ai về
Môi, tóc, áo …hẹn thề năm cũ

Bóng chợt khuất mây mù che phủ
Nước sông buồn, bóng nhạt màu pha
Dáng em trôi theo nắng huy tà
Hoa, lá, bóng là đà giởn bóng

Kỷ Vãng

Dư hương lạ gió vù bay
Hồn tôi vàng nắng ôm vai áo người
Nhớ thương rồi cũng đến hồi
Tim côi rung nhịp tình trôi tím mùa

Người qua thả vạt áo lùa
Phấn son, hương tóc rối đùa nắng phai
Vườn thơm con bướm vờn bay
Hoa ngàn khoe sắc tình dài vấn vương

Chừ anh ngọn cỏ mơ sương
Gối đêm ủ tóc sầu thương ngất lòng
Bên này đếm nỗi nhớ mong
Em ơi ! Kỷ vãng còn trong tim này

Tình Chờ

Có cuộc đời buồn trên dòng sông định mệnh
Thời gian bào mòn, không trôi hết thương đau
Có cuộc tình chờ, căng hờ tơ nhện
Bắt được gì trong khoảnh khắc bên nhau?

Mà Sao…

Trên trời chỉ một vầng trăng
Mà bao la sáng, xóa màng đêm đen
Tình anh yêu mỗi mình em
Mà sao giông bão nhận chìm đáy sâu
Mắt anh chứa mấy giọt sầu
Mà sao trời đất nhuộm màu thê lương

Nàng Thơ L.A.

Em là nàng thơ, đa tình quá đổi
vẫn làm anh mơ, café chiều tối .
Ngồi sau xe em, thơm mùi tóc rối
eo nhỏ vai mềm, ai thương mà vội.
Em ơi em ơi ! Sao làm anh nhớ
mắt nói thành lời, mai tình vẫn đợi!!!!

Khúc Hát Riêng Tư

Miền gió núi chim rừng bay mỏi cánh
Sóng trùng dương ru mãi khúc ngàn năm
Bóng thời gian chở những ước mơ nhòa
Vườn kỷ niệm hôm nao em xin giữ

Liên Anh

Họa

Chim nhớ cội, tình chở mòn đôi cánh
Sóng lòng anh ru thủy khúc trăm năm
Thời gian trôi nhật nguyệt chẳng phai nhòa
Bao kỷ niệm, mộng đời anh luyến giữ

Ptn.

Cổ Chiên

Cổ Chiên yêu dấu của tôi ơi
Sông nước sóng xô, gió ngõ lời
Em chứa bao trăng mà dịu mát
Hay là em chiếm nửa hồn tôi

Nước Sông Hiền

Em hiền như nước sông con gái
chảy lửng lờ qua trái tim tôi
Trong ánh mắt mạch đời ngây dại
có lòng tôi vỗ sóng bồi hồi

Nữ Sinh

Áo trắng nguyên khôi hồn cô gái
Nón lá làm nên dáng học trò
Nắng gió sân trường ngây gót dại
Bao mùa phượng đỏ mấy yêu mơ?

Nước Mắt Khóc Mưa

Một người đứng khóc dưới mưa
Người kia tê dại mắt vừa hẹn nhau
Hai người chung một niềm đau
Chân đi hai lối nghiêng chao đôi lòng

Một người nối lại nụ hôn
Một người để lở những vòng tay ôm
Đại ngàn hai hướng chờ mong
Chung con nước chảy, dòng sông đôi bờ

Hồi nào chung lối ngu ngơ
Bây giờ bước thấp, bước bơ vơ buồn
Trời làm nước mắt mưa tuôn
Em làm sướt mướt đường không lối về

Ngắm dòng tóc ướt hương mê
Cuộc tình khóc ướt càng thê thiết nhìn
Người còn hoa mộng, dáng xinh
Tim côi run nhịp chông chênh bước đời

Mùi hương tình tự gọi mời
Mưa trôi bong bóng… Tôi ơi, khóc thầm !!!

Nắng Khua
Tình Đọng Vơi Đầy

Nắng vàng trong ánh mắt tin yêu
Môi lương duyên cười nụ diễm kiều
Em chín mộng tơ nhung áo đỏ
Hồn anh bồng ngọn gió hắt hiu

Lời thơ ru ngọt lịm môi tình
Dáng ai, nắng vờn bóng trở mình
Con chim hót, lồng son ngơ ngác
Giấc mơ hồng, tiếng hát bình minh

Em giăng bắt ánh mờ Thu nguyệt
Nỗi lòng anh trăng khuyết, trăng đầy
Chuyện đời sông, trôi nổi như mây
Hồn lãng tử kiếp này rong ruổi

Môi bám tóc rối mùi trần trụi
Phớt nụ hôn áo mỏng, thì thầm
Hát không lời điệu lý tình câm
Hồn trong mắt xa xăm gởi nhớ

Con bướm trắng vờn qua cổng gió
Nhụy hoa bay chở nặng ân tình
Chùm hoa nắng ngan ngát hương trinh
Vườn mật đắng lung linh hư ảo

Lụy Tình Trần*

Bàn tay ấm mơn man miền rung cảm
Mùa cỏ thơm ươn ướt đọng sương đêm
Đôi cánh gió chập chờn hương ướp mật
Đồi đồi son hoa sữa ngọt môi mềm

Đôi môi ấm khát từng hơi thở ấm
Vị giác trườn sung mãn nếm lạ quen
Đêm bấu víu, hụt hơi vùng tối sẫm
Dấu yêu ơi , ngồn ngộn chốn không đèn

Thiên đường ấy loài người vươn sức sống
Giấc đam mê năng động cánh tay trần
Đêm cởi bỏ, chỉ còn hương tục lụy
Quên mùa xa, say ngất cuộc tình gần

Bàn tay rối rối nhầu hương tóc rối
Đêm động tình, đêm nguyệt thực mê ly
Đời dông bão thêm một lần bão nổi
Vườn trăng êm xô lệch giấc ly kỳ

Gió hay sóng thét gào cơn sóng gió
Thơ là thơ hay mộng thực du dương
Ta ngỡ chết ngát bờ sương lá cỏ
Và tình ơi có phải cõi thiên đường

* Nhân đọc
“Vùng Thanh Thoát” của Luân Hoán

Quán Nhớ Hồn Em

Hồn em là quán nhớ
Biễn hiệu mang tên anh
Ghế bàn xô lệch chỗ
Cửa sổ quên buông mành

Hồn em là quán nhớ
Đèn hồng gió chông chênh
Cà phê đen lệ nhỏ
Giọt đắng rót riêng mình

Hồn em là quán nhớ
Hương đêm ngất cơn mê
Trà xanh vừa ấm lửa
Khách đi mãi chưa về

Hồn em là quán nhớ
Vọng buồn tiếng nhạc khan
Gió giạt, mưa than thở
Cuộc vui để lỡ làng

Hồn em là quán nhớ
Đá lạnh tê môi ghiền
Ly, bình pha duyên nợ
Kem dâu hóa sầu riêng?

Hồn em là quán nhớ
Men say cay bốn mùa
Má hồng bày giữa chợ
Mơ về quán lá xưa !

Nước Mắt Tím Thương

Anh lặng nhìn em khóc
Lệ tràn ngọc lưu ly
U buồn nhầu mái tóc
Giọt trào ướt hàng mi

Em gửi chi nước mắt
Thơ anh rối trăm chiều
Vai rung từng tiếng nấc
Tay chùng níu quạnh hiu

Khăn hoa này em tặng
Chưa vơi những ưu phiền
Hãy lau khô sầu lắng
Nỗi niềm sẵn tư riêng

Đêm mù sương chắn lối
Trăng khuya rụng xuống cầu
Sông chảy dòng hối lỗi
Thương đau khởi từ đầu

Hoa nở, tình lại khép
Hương xưa héo tim người
Tay nào vươn tóc áo
Đêm giấu biệt nụ cười

Trăng tang chế mùa thương
Cây lá khóc con đường
Và anh ướt mắt
tình trường thả bay

Chuyện Đời Mây

“Đập cổ kính mong tìm thấy bóng”
Ta về đây nhớ lại tháng ngày
Vẫn còn đó trời xanh, mây mộng
Của thuở nào xé gió vù bay

Saigon Tower vang trong đạn pháo
Lần Herky cất cánh sau cùng
Tháng tư ấy nát nhầu xiêm áo
Bốn mươi năm trầm uất bão giông

Đài kiểm soát y nguyên dáng cũ
Nhìn quẩn quanh định vị Phi- đoàn
Chỉ cách thềm xi- măng bãi đậu
Mà xa xăm như thể ngút ngàn

Tiếng gào thét, không gian rách nát
Mây đùn mây tím ngất tim người
Em và tôi, hai phương gió giạt
Mưa cũng rồi! Nắng xế chia phôi

Bóng đã khác, hình trôi bước mỏi
Sá gì đâu vết xước đau dài
Chí cả đáp lời Sông Núi gọi
Ai ngờ trôi mãi một đời mây

Dáng Cỏ Sương Trăng

Sáng nay lá hát trên rừng
Reo vui sinh nhật Cỏ
mừng ví von
Nắng vàng khoác áo nõn son
Giọt sương nhân ngãi đọng
còn luyến lưu

Suối mơ chảy miết sa mù
Mềm vai róc rách ca
ru tóc bồng
Thiên nhiên đậu giữa triền sông
Đôi bờ hoa dại trổ
hồng môi em

Vành trăng treo lửng khung đêm
Mây khoe lụa mỏng cởi
mềm áo bay
Bình nguyên dáng Cỏ mê say
Ôm em tơ nõn vòng
tay bốn mùa

Lá say châu thổ ngày mưa
Áo may lục diệp em
vừa măng tơ
Cỏ yêu rắc hạt sương mơ
Hồn anh bóng bẩy vầng
thơ ngát đồng

Vết trăng nguyên thảo đơm bông
Chân em cát bụi bước
hồng gót xưa
Tình sương duyên cỏ đong đưa
Anh qua lối mộng trăng
vừa ngủ say

Café Môi Thơm

Café.com chiều nghe chim hót
Tháng ba nắng trải lụa phơi giòn
Hương áo em mùi café nhỏ giọt
Giọng miền Nam ngọt lịm môi hồng

Tóc em dài chảy dòng suối mát
Anh giăng mơ bắt được lòng mình
Dáng em hiền nai vàng ngơ ngác
Tình cải lương hay nợ nhân duyên

Lời tâm tình mùi câu vọng cổ
Ru ngủ cung gợi chuyện tình ta
Hoa Hoàng hậu thả từng sâu chuỗi
Treo hồn anh từ buổi xa nhà

Môi má ửng, mùa em chín bói
Mắt reo vui trao gửi nụ cười
Tha thiết quá như từng đón đợi
Bên bờ sông em Vĩnh Long ơi!

Chiều nhan sắc ướp hương con gái
Nhiễu hồn anh, gợn sóng lòng ai?
Ừ! Mai mốt hay là mãi mãi
Café môi thơm kết nụ tình dài

Anh Đi

Ngày anh đi trời guăng mưa
Không em đời như dư thừa
Lòng anh rơi bao giọt nhớ
Tìm em trong hàng mưa đưa

Lên xe sao nghe vương sầu
Hồn say hay con tim đau
Nhìn quanh toàn người xa lạ
Dây thương tơ chùng hai đầu?

Dòng xe tranh nhau qua cầu
Dòng tình ta trôi về đâu?
Thôi đành ru câu thương nhớ
Ru tình đôi bờ sông sâu

Sài gòn miên trường sau lưng
Lang thang sân ga phi trường
Nơi đây xưa từng cất cánh
Sao giờ muôn trùng buồn thương

Phi cơ lưng trời hoang vu
Không gian chia xa hai đầu
Rưng rưng đôi hàng nước mắt
Chông chênh qua mùa tình sầu

Bên kia mưa nhiều không em
Chăn khuya còn nồng hương đêm?
Phương này buồn tình thức trắng
Lòng anh mưa giông triền miên

Đêm khuya mưa em thầm thì
Bờ môi, vòng tay mê si
Em ơi, đừng về ướt áo
Cơn mơ tình thơ phân kỳ

Rượu Xuân

Uống trên môi
rượu Xuân tình
Ngắm em mắt biếc
ngỡ mình mộng du
Nửa vời say
nửa sa mù
Hoa yêu mãi nở
thiên thu tình về

Rót đầy môi
những hẹn thề
Niềm vui trước mặt
điên mê ngất đời
Van em
nhan sắc tuyệt vời
Rượu xuân say, tĩnh
chơi vơi bốn mùa

Phạm Tương Như

Phạm Tín An Ninh

Pham Tin An Ninh

Nỗi Buồn Mùa Thu

Có lẽ những chiếc lá mùa thu đã nhuộm vàng phần lớn thi ca nhân lọai. Và dường như nếu không có mùa thu thì những cuộc tình sẽ không còn lãng mạn, thế gian này sẽ không có mặt của thi nhân. Ông Văn Cao đã khởi đầu sự nghiệp của mình bằng ” Buồn Tàn Thu” để rồi cuộc đời của người nghệ sĩ tài hoa này cũng tàn theo Giai Phẩm Mùa Thu (trong Nhân Văn Giai Phẩm). Ông mất đi trong cảnh khốn cùng để lại cho đời một kho tàng âm nhạc quí giá , cùng sự thương tiếc ngậm ngùi và bao điều suy ngẫm. “ Cây đại thụ” Phạm Duy phỏng theo một bài thơ Tây, phổ bản “Mùa Thu Chết”, để rồi tên tuổi cũng đã chết theo mùa thu ở cái “thị trấn giữa đàng” bên tận xứ Cali, bởi cái tính kênh kiệu và nói năng đôi điều phản trắc, chỉ để lại cho những người từng hâm mộ ông sự chua xót, bẽ bàng. Ở Việt nam ta, nếu ” con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô “đã làm nên Lưu Trọng Lư, thì bên Tây “Les Feuilles Mortes” đã khắc sâu tên tuổi Jacques Prévert trong lòng những người mê thơ, yêu nhạc.

Riêng cái thằng vừa nhà quê vừa ít chữ như tôi dĩ nhiên không thể nào làm nỗi một câu thơ và cũng chẳng mò ra được một nốt nhạc, vậy mà tâm hồn lại rất dễ bị đắm chìm trong những lời thơ tiếng nhạc – đặc biệt có Mùa Thu trong đó. Nhưng trong tất cả những tác phẩm có bóng dáng Mùa Thu trên thế gian này, cái bài làm tôi xúc động nhất, thuộc lòng từ thời tấm bé, không phải là thơ, là nhạc, của ta hay tây, mà lại là một bài văn xuôi rất …học trò của ông Thanh Tịnh .

“ Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được……….

Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp…….”

Không biết ngày ấy ông Thanh Tịnh ở tận nơi đâu, mà sao cái cảnh ngày đầu tiên ông đi học giống tôi như đúc. Tôi cũng được mẹ nắm tay dẫn đi trên con đường làng Phú Hội, cũng vào một buổi sáng có ( một chút) sương thu và gió lạnh.

Một năm sau mẹ tôi qua đời, bỏ lại tôi một mình đi trên con đường dài và hẹp đó với bóng dáng yêu dấu của bà. Rồi cũng một năm sau nữa, cha tôi đang dạy học ở trường PhápViệt thì được Việt Minh đưa ra Liên Khu Năm làm “công tác xóa nạn mù chữ”. Tôi trở thành thằng bé mồ côi, phải về ở với ông bà nội. Mỗi ngày tôi vẫn đi trên con đường làng ấy, nhưng bây giờ tôi đến trường cùng một đám anh em bà con trạc tuổi. Sau này, trong đám học trò dưới mái trường làng ngày ấy có vài thằng lên núi đi làm ..kách mệnh, có đứa sớm thành liệt sĩ ; nhiều đứa làm quan làm lính cộng hòa, cũng có lắm thằng đuợc Tổ Quốc Ghi Ơn ; đám còn lại là nông dân năm tháng soi mặt với ruộng đồng, nhưng cũng có thằng trở thành giáo sư, bác sĩ, lấy vợ rồi đóng đô luôn ở chốn thị thành, lâu lâu dắt díu nhau về thăm làng cũ.

Vậy mà cái tình đồng môn của thời thơ ấu đó lại keo sơn gắn bó đến không ngờ. Mấy ông nông dân có con cháu đi lính, được mấy ông bạn nhà binh nhận về đơn vị chở che, xuống thành phố đi học có mấy ông bạn thầy giáo hướng dẫn lo trường lo lớp, nơi ăn chốn ở ; đau bệnh thì có mấy thằng bác sĩ chăm sóc thuốc men, xin vào nhà thuơng miễn phí. Mấy thằng làm quan lâu lâu về quê chở cả đám nông dân ra thành phố tập tễnh ăn chơi cho biết cái sự đời . Quân với dân còn hơn cả cá với nước.

Rồi đùng một cái , tháng 4/75, bão tố bất ngờ ập xuống, kéo theo cơn lốc đổi đời, cũng có niềm vui tương phùng nhưng cũng có nhiều bi thảm : Mấy ông bạn trên núi hồ hởi về nắm chính quyền, mấy ông nông dân vốn bao năm an nhàn với dồng áng bây giờ lại được mấy ông bạn chính quyền ưu ái khuyên nên làm gương mang hết ruộng đất sung vào hợp tác xã, giúp những thằng bạn cũ sớm trở thành vô sản, hầu cùng nhau ” tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc ” lên thế giới đại đồng . Mấy ông lính, ông thầy, ông bác sĩ tự dưng trở thành ” những con nai vàng ngơ ngác “, cuốn gói về quê nương náu để đợi chờ số phận, lại được mấy ông bạn nông dân ngày trước cho gạo cho tiền, chí ít cũng đãi đằng được một chầu thịt gà rượu đế, tiễn đồng môn cũ đi vào “trường cải tạo”. Một ít vào trường sơ cấp, trung cấp trong nam, số còn lại được ưu ái ra trường cao cấp tận vùng núi rừng Việt Bắc.

Sau sáu, tám , rồi mười năm, thằng nào còn sống mang tấm thân tàn tạ ra tù, kẻ thì vượt biển, người thì đi diện HO, lưu lạc tha phương, bỏ lại sau lưng con đường quê, ngôi trường làng cũ với biết bao kỷ niệm êm đềm. Đất khách gặp nhau, chỉ còn biết vỗ vai an ủi :

Qua cơn mờ mịt binh đao
đứa còn đứa mất ba đào tang thuơng
Lạc loài trên chính quê hương
thôi thì gió cuốn mười phương cũng đành
Định cư xong, lo góp tiền gom bạc gởi về cứu đói mấy ông bạn nông dân , bây giờ đã bạc cả mái đầu mà còn trắng cả đôi tay. Còn mấy ông sớm chọn cho mình lý tưởng, bỏ trường lên núi hồi còn son trẻ, bây giờ một số phục viên về nằm nghỉ mát, mỗi ngày uống trà ngắm mấy cái ” bằng khen”, mấy cái huy chương “dũng sĩ” treo trên vách mà suy ngẫm cuộc đời, vui buồn lẫn lộn .

Rồi cũng vào một mùa thu, từ đất khách tôi về lại quê hương. ” Mùa thu năm ấy tôi ra đi, mùa thu này nữa tôi..trở về”. Khoảng cách giữa hai mùa thu .. vậy mà cũng đã hai mươi năm.Tôi về để tìm lại ngôi mộ của cha tôi được mấy người bạn tù chôn cất sơ sài trên núi bên ngoài trại cải tạo Đá Bàn. Ông đã chết sau hai năm bị giam trong trại tù này, cũng vào một ngày cuối thu ảm đạm. Tôi nhờ người cải táng, đưa ông về nằm bên cạnh mẹ tôi và ông bà nội trong nghĩa trang gia tộc .

Tôi đi một vòng thăm lại làng xưa. Đám bạn bè cũ bây giờ chẳng còn mấy đứa, thằng chết, kẻ ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Hôm nay, tôi lại đi trên con đường làng cũ, vẫn con đường dài và hẹp mà ngày xưa mẹ tôi âu yếm dắt tay tôi tới lớp. Hôm nay cũng có nhiều sương thu và gió lạnh, tôi đi một mình trơ trọi, chỉ còn đâu đây bóng dáng, tiếng nói tiếng cười của đám bè bạn ngày trước

Tôi về đứng trước ngôi trường cũ
nhìn xuống làng xưa chạnh nỗi niềm
nhấp nhô những mái nhà rêu phủ
thương hải tang điền mấy biến thiên
Tôi về xuôi một dòng sông chảy
con nước vô tình lặng lẽ trôi
hiểu nghĩa cuộc đời đành không thể
hai lần tắm ở một dòng thôi
… Tôi về – có phải sông về biển
sao nghe từng con sóng não nề
như thể bây giờ là cổ tích
tôi về – chỉ gặp lại mình . . .tôi
Nghe nói nhờ tiền tài trợ của Ngân Hàng Thế Giới, nên ngôi trường vừa dược xây cất lại khang trang. Có lẽ học sinh cũng vừa mới tựu trường, nên cờ xí khẩu hiệu còn đỏ cả sân trường. Cái trường mang tên làng làng Phú Hội ngày xưa bây giờ đã được đổi tên thành “Trường PTCS Lê văn Tám”. Nhìn các em bé sắp hàng vào lớp mà lòng tôi cứ bâng khuâng. Không phải vì vừa mới tìm lại được bóng dáng của mình ngày trước, mà vì thấy thương và tội nghiệp cho các cháu học trò.

Không biết mỗi ngày phải học thuộc lòng những bài thơ ngợi ca những lãnh tụ, anh hùng , những bài thơ kiểu “Khóc ông Lê Nin” của nhà thơ lớn Tố Hữu, có bao nhiêu em đã ” từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim” (thơ T.H) , và liệu các em có còn nhớ đuợc cái bài văn xuôi ” hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc..” hồn nhiên và dễ thương của ông Thanh Tịnh mà thế hệ cha ông ai cũng nằm lòng ? Các em có xót xa khi biết trường của các em mang tên “anh hùng Lê văn Tám”.mà các em được dạy như là một tấm gương., lại là một người không hề có thật .( mà chỉ là nhân vật trong phim truyện của đạo diễn Phan Vũ ( Xem báo Thế Giới (Hà Nội) số 39 (154) ngày 27/9/04 , trang 22-23, website Talawas ngày 11..10. 04 tác giả Quang Hùng, đài BBC chương trình ngày 15.10.04)

Rồi mới đây bà hiệu trưởng Trần Thanh Vân đầy quyền uy ( dưới những ô dù) kéo theo một nhóm thầy cô vây cánh của trường chuyên Lê Quí Đôn nào đó ở “thành phố mang tên Bác” thản nhiên lấy tiền đô la, làm hồ sơ ma nhận cả một đám học trò dốt nát, con cháu của những đại gia và các ngài quan lớn (trong đó có con trai của đồng chí chánh thanh tra sở giáo dục thành phố) vào ngôi trường chuyên một thời có tiếng .

Tôi nghiệp, chẳng lẽ mới lớn lên, các em đã phải học những điều gian dối, và tương lai các em sẽ ra sao với một nền giáo dục và văn hóa “phong bì ” ?

Cũng may mà các em còn bé và ở tận một vùng quê, nên không biết nhiều về đạo đức của các nhà “mô phạm”, những “ nhất tự vi sư bán tự vi sư “ một thời được dân chúng trải chiếu hoa mời ngồi dưới mái đình làng .

Ngoài Hà Nội, có lẽ vì thành phố thủ đô trử tình với mùa thu và hương hoa sửa, nên ông thầy già trưởng khoa Đỗ Tư Đông “khả kính” ở trường Cao đẳng Truyền Thanh Truyền Hình nhà nước “lấy điểm gạ tình” một số nữ sinh viên . Thầy chỉ cho điểm cao khi nào trò hoàn thành nhiệm vụ “trả bài” cho thầy trong khách sạn !

Dưới cái tỉnh Bình Phước mới toanh, nên thầy Lê Hoàng Sang, hiệu trưởng trường Lê văn Tám (lại Lê Văn Tám!) cũng vừa làm một điều vô cùng tân tiến: bắt các cô giáo chưa chồng phải uống rượu cùng các quan lớn địa phương, bất kể trưa chiều hay trước giờ lên lớp. Nếu lỡ

gọi các quan già bằng”chú” mà không phải bằng “anh” thì bị thầy hiệu trưởng nạt nộ đòi kỷ luật.

Mới đây trên đài BBC, ông Tạ Phong Tần, cán bộ sở thuơng Mại Du Lịch Bạc Liêu, sau một khóa được đào tạo tại chức, đã công khai tuyên bố :” Không ít tiến sĩ, thạc sĩ là những người biết diễn đạt những điều đơn giản trở thành khó hiểu hoặc không ai hiểu nỗi ” (nguyên văn)

Cầu mong cho các em học trò nhỏ ở quê tôi không nghe được mấy cái tin “vui”này đăng đầy trên các tờ báo trong nước, để còn thấy mùa thu trên quê nghèo vần còn một chút thơ mộng dễ thương.

Trước khi rời khỏi quê hương, tôi ghé lên thành phố thăm thằng bạn học cũ, trước kia là một giáo sư tóan-lý-hóa nỗi tiếng của một trường trung học lớn., Bây giờ ngồi bán thuốc lá ở vỉa hè. Con cái nó cũng đã nghỉ học từ lâu để lăn vào cuộc sống, nên mấy cái bằng cử nhân toán nó chỉ còn dùng để ..gói thuốc lá. Bỗng dưng tôi nhớ tới bài thơ của một ông nhà thơ nào trong nước mà lòng thấy ngậm ngùi:

“Thầy có nhớ con không…?”
Tôi giật mình nhận ra người đàn ông áo quần nhếch nhác
người đàn ông gầy gò ngồi sau tủ thuốc ven đường.
“Thầy còn nhớ con không…?”
Câu lặp lại rụt rè rơi vào im lặng
hoa phượng tháng Năm rơi đầy vỉa hè
rụng xuống trên vai người thầy học cũ

“không… xin lỗi.. ông lầm…
Tôi chưa từng dạy học
Xin thối lại ông tiền thuốc… cám ơn!”
Cuộc sống cho ta nhiều quên, nhớ, vui, buồn
Thầy học cũ mười năm không lầm được
Thầy học cũ ngồi kia giấu mình sau tủ thuốc
giấu mình sau hoa phượng rụng buồn tênh.
Con biết nói gì hơn, đứa học trò tôn sư
người Thầy cũ lại chối từ kỷ niệm,
chối từ những bài giảng dạy con người đứng thẳng,
biết yêu anh em – đất nước – xóm giềng.
Đứa học trò vào đời với trăm nghìn giông bão,
Bài học ngày xưa vẫn nhớ mãi không quên.
Bên hè phố im lìm,
vành nón sụp che mắt nhìn mỏi mệt.
Câu phủ nhận phải vì câu áo rách
trước đứa học trò quần áo bảnh bao?
Tôi ngẩn ngơ đi giữa phố xá ồn ào,
những đứa trẻ con tan trường đuổi nhau trên phố.
Mười năm nữa đứa nào trong số đó,
sẽ gặp thầy mình như tôi gặp hôm nay?

Ngày rời khỏi quê hương, ngồi trên máy bay nhìn xuống, mùa thu Sài gòn không có lá vàng rơi, cũng không có con nai vàng nào ngơ ngác, mà sao tôi thấy như vàng cả không gian , ảm đạm cả đất trời. Tôi bỗng ngộ ra một điều ngộ nghĩnh : Đâu phải chỉ có mấy ông nhà thơ, mấy ông nhạc sĩ mới nhuộm buồn được mùa Thu, mà trên quê hương tôi, có những con người dù chằng có một chút xíu tâm hồn nào, có khi không có cả quả tim, mà cũng có thể làm cho mùa thu quê tôi .. buồn chết được.

(Khi máy bay lên cao và ra khỏi không phận Việt Nam, tôi lật tờ báoTuổi Trẻ ra đọc, nhiều dộc giả vui mừng vì Việt Nam vừa có ông Bộ Trưởng Giáo Dục mới, một người rất quan tâm đến nền giáo dục và nặng lòng cho tương lai của các thế hệ trẻ quê nhà. Tôi mừng và hy vọng, nhưng cũng thấy lo âu. Không biết một vài con én có thể làm được một mùa Xuân, khi nền giáo dục ở quê nhà đã trải qua những mùa đông khá dài và ..lạnh lẽo)

Cô Gái Quá Giang
Trong Đêm Mồng Một Tết

Chiếc thuyền nhỏ mang theo hơn năm mươi người, một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của Nauy trên đường từ Nhật sang Singapore cứu vớt. Hai ngày sống trên tàu chúng tôi có cảm giác như đang ở trên một thiên đàng. Tất cả đều được tận tình hỏi han chăm sóc. Chúng tôi cảm thấy vừa mừng vừa xót xa khi nhận ra thế gian này vẫn còn có đầy ấp tình người. Họ là những kẻ xa lạ, không cùng màu da, màu tóc, không cùng ngôn ngữ, mà lòng thông cảm yêu thương họ đã dành cho chúng tôi lớn lao biết đến dường nào. Trong lúc những “người anh em” cùng một nhà thì lại hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng để phải đành lòng bỏ nước mà đi. Với ân tình đó chúng tôi chọn Vương quốc Nauy là quê hương thứ hai để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.
Sau gần một năm ở trại tị nạn, gia đình chúng tôi được đi định cư. Khi bầu đoàn thê tử như một bầy nai vàng ngơ ngác bước xuống phi trường Oslo, được nhiều người đón tiếp, trong đó lại có cả mấy ông nhà báo và đài truyền hình nhà nước phỏng vấn, quay phim. Gốc nhà quê, nên tôi cũng chẳng biết họ quay phim để làm cái gì. Trước khi về nhà, chúng tôi còn được mời vào một nhà hàng Tàu, và tha hồ gọi bất cứ thức ăn nào mình thích.
Đến khi bước vào ngôi nhà, được bà trưởng phòng xã hội trao cho một chùm chìa khóa, dẫn đi một vòng xem phòng ốc đã được trang trí xong nội thất, cái bếp và cả cái tủ lạnh có sẵn đầy đủ thức ăn nước uống, một cái TV màu. Mọi thứ đều mới tinh. Sáu đứa con và hai đứa cháu họ của tôi thì ngồi mân mê mấy cái bàn học, và mấy cái ba lô có đầy đủ sách vở trong đó. Trước khi ra về bà giới thiệu chúng tôi một cô nhân viên của bà, và một cô giáo ở lại hướng dẫn chúng tôi xử dụng mọi thứ tiện nghi trong nhà, và mỗi ngày sẽ đến đưa gia đình chúng tôi đi mua sắm, khám bệnh, làm răng, còn cô giáo thì đặc trách lo việc học hành cho mấy đứa nhỏ. Khi tất cả ra về, tôi nằm dài dưới sàn nhà và chợt khám phá ra rằng mình quả là may mắn được đến định cư ở một nước Bắc Âu xa lạ nhưng thơ mộng và có quá rộng tấm lòng này, mà lúc xuống biển ra đi chắc chẳng có ai bao giờ nghĩ tới.
Buổi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần trước cái TV. Thằng con trai lớn ra điều mới học được văn minh, bấm tới bấm lui tìm đài. Cả đám bất ngờ nhìn thấy dung nhan của mình trên màn ảnh. Thì ra chương trình phóng sự. Họ đang kể về gia đình chúng tôi: “những công dân mới của Nauy, mà ông bố đã từng ở tù nhiều năm, giống nhiều người Nauy bị nhốt trong các trại cải tạo của Đức quốc xã, cái thời Hitler làm mưa làm gió ở Âu châu, và đã can đảm dắt theo sáu đứa con và hai đứa cháu nhỏ vượt đại dương trên một chiếc thuyền đánh cá mong manh”. Nghe họ ca ngợi mình mà tôi xấu hổ. Dù gì tôi cũng là kẻ bỏ nước tha phương, với họ, ít nhiều gì cũng là một cành tầm gởi. Còn chuyện vượt biển, vượt biên, đến bước đường cùng thì ai cũng phải liều mạng thế thôi, chứ có hàng triệu người còn can đảm gấp vạn lần tôi. Nhiều người đi bằng đường bộ, trèo núi, băng rừng, lội suối, bơi sông, qua Cam Bốt, Thái Lan, để vài năm sau mới đến được Singapore. Và dĩ nhiên đã có biết bao nhiêu người chẳng bao giờ tới bến.
Cũng vì cái chương trình phóng sự bất ngờ này, mà sau đó, mỗi ngày gia đình chúng tôi phải tiếp nhiều người khách không mời, và nhận đủ thứ quà. Trong số đó, đặc biệt có một người đàn bà Việt Nam, mà lúc bà mới bước vào nhà, chúng tôi cứ tưởng là người Nhật, hay là người Tàu gì đó, khi nhìn thấy cái vẻ quí phái đặc biệt của bà. Tôi nghĩ có lẽ không có người Việt Nam nào sống ở cái xứ Bắc Âu xa lạ này từ lâu để có được nét đẹp của một người con gái đông phương pha lẫn âu tây ở cái tuổi còn trẻ như bà. Sau đó tôi bất ngờ thú vị khi bà tự giới thiệu tên là Huyền-Trân Thomassen, hiện là giảng sư môn nhân chủng xã hội học tại trường đại học Oslo, chồng bà là người Nauy, hiện đang làm đại sứ tại Mexico. Bà không muốn bỏ nghề bà yêu thích, hơn nữa bà vẫn còn tiếp tục nghiên cứu về ngành này, nên không theo chồng mà ở lại Nauy với hai đứa con. Lúc nhỏ bà theo cha sang sống ở Thụy Sĩ, khi cha bà là đại sứ của VNCH tại đó. Người chồng của bà, cũng thuộc một gia đình có truyền thống ngoại giao. Cha của ông cũng một thời là đại sứ của Nauy tại Thụy Sĩ. Hai người con của hai ông đại sứ quen nhau từ khi học chung một trường trung học và làm đám cưới sau khi tốt nghiệp đại học tại thủ đô Bern, một năm trước khi miền Nam Việt Nam thất thủ.
Tôi rất ngưỡng mộ người đàn bà trẻ này. Rời Việt nam từ lúc 12 tuổi, nhưng bà nói tiếng Việt rất lưu loát, hiểu biết rất nhiều về văn học Việt nam, từ truyện Kiều của Nguyễn Du, đến bài thơ Hai Sắc Hoa TyGôn của TTKH. Điều đặc biệt hơn hết là bà rất quí mến và giúp đỡ tận tình người đồng hương. Gia đình tôi cũng mang nặng khá nhiều ơn nghĩa của bà.
Những ngày sống hạnh phúc ở quê người, nhìn con cái ngày một lớn lên và đang có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt, lúc nào tôi cũng chạnh lòng nhớ lại cái thời mình khốn khó và những bạn bè xưa. Tôi thấy mình nợ nần nhiều người mà không biết làm sao trả được. Trong số này, người mà tôi thường nghĩ tới nhiều nhất và ân hận chẳng giúp được điều gì là Nguyễn Thượng Tâm, người đồng đội và cũng là đứa em kết nghĩa của tôi.
***
Tâm ra trường sau tết Mậu Thân. Về trình diện đơn vị tôi khi vừa tròn 18 tuổi. Mặc dù còn rất trẻ, nhưng được đào tạo từ lúc còn nhỏ tại trường Thiếu Sinh Quân nổi tiếng ở Vũng Tàu nên Tâm là một hạ sĩ quan gương mẫu trong kỷ luật và gan dạ trong chiến trường. Tâm hiền lành và rất ít nói. Nhưng không phải vì vậy mà tôi trở thành thân thiết với Tâm và hai thằng kết nghĩa anh em, nếu không có buổi sáng mồng một Tết năm 1969, khi đơn vị chúng tôi tạm dừng quân trong một ngôi làng hoang đổ nát nằm sâu giữa những động cát nơi giáp ranh hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy lúc trước.
Dù đang hành quân, nhưng biết hôm đó là mồng một Tết, tôi thức dậy thật sớm, thay bộ đồ trận mới, đi một vòng chúc tết anh em. Ngày đầu năm, nằm giữa một khu hoang tàn không một bóng người, chắc ai cũng chạnh lòng nhớ tới gia đình. Chiếc radio từ một căn lều poncho nào đó đang phát ra tiếng hát nỉ non của ca sĩ Duy Khánh, trong bản nhạc Xuân Này Con Không Về của Trịnh Lâm Ngân, làm lòng tôi càng thêm lắng xuống. Đến cuối ngôi làng, tôi bỗng giật mình khi nghe tiếng sụt sùi. Lại gần tôi mới nhận ra Tâm. Anh ta đang quì lạy trước một cái bàn thờ được kê bằng cánh cửa sổ của căn nhà nào sập xuống. Trên bàn thờ dã chiến, tôi thấy có mấy cái hoa rừng cắm trong cái bi đông nước, hai bát cơm bằng gạo sấy và một lon guigoz có lẽ chứa nước trà hay canh nấu bằng lá giang hay lá tàu bay gì đó. Tâm khấn vái một lúc, quay lại bất ngờ nhận ra tôi. Tâm đưa tay chào và cũng như mọi khi, không nói một lời nào. Có lẽ Tâm biết là tôi đã đứng im lặng ở đây từ lâu lắm. Tôi bước tới nắm chặt tay Tâm, kéo anh đứng lên. Tâm vội rút tay ra lau nước mắt. Tôi đến trước bàn thờ vái một vái, rồi vỗ vai Tâm:
– Em cúng bố mẹ à. Sao đầu năm mà buồn quá vậy em.
– Không, bố em còn ở ngoài Bắc, em không biết là còn sống hay đã chết. Mẹ em thì đã qua đời lúc em còn bé lắm. Nhà em ở tận Ý Yên, nhưng bố em đi làm xa, nên phải gởi hai anh em em xuống nhà ông chú ở Hà Nội học, rồi theo gia đình chú ấy xuống tàu há mồm vào Nam luôn.
– Còn anh của em bây giờ ở đâu? Tôi hỏi
– Anh ấy chết rồi. Anh là sĩ quan thủy quân lục chiến, tử trận đúng ngày mồng một tết Mậu Thân ở ngay Sài gòn. Hôm nay là giổ đầu của anh ấy.
– Anh em tên gì?
– Nguyễn thượng Minh, khi chết anh vừa mới lên trung úy.
Tôi giật mình. Cái tên Nguyễn thượng Minh làm tôi nhớ ngay đến một thằng bạn cùng tên hồi còn tiểu học. Tôi hỏi Tâm:
– Vậy có phải em là cháu của thầy giáo Nguyễn Thượng Cầu?
– Dạ phải, nhưng chú Cầu đã chết lâu rồi. Tâm trả lời rồi nhìn tôi ngạc nhiên.

Năm 1954, tôi đang học lớp nhì trường huyện Vạn Ninh. Nhập học được vài tháng, thì thầy hiệu trưởng Nguyễn công Tố dắt ba đứa học trò lạ vào lớp giới thiệu với cô giáo Kiệt rồi dặn dò đám học trò chúng tôi:
– Hôm nay trường nhận thêm những em học trò mới, trong đó có ba em vào lớp này. Tất cả các em phải biết yêu thương và giúp đỡ những người bạn này, vì họ đã vừa phải bỏ quê hương, gia đình ngoài miền Bắc, di cư vào đây. Đó cũng là lời kêu gọi của Ngô Thủ Tướng.

Hai thằng con trai và một đứa con gái cúi đầu chào cô giáo rồi quay xuống chào chúng tôi bằng thứ tiếng lạ hoắc khó nghe. Thằng lớn con nhất được cô Kiệt chỉ cho ngồi dãy bàn cuối lớp, ngay phía sau tôi.
Đến giờ ra chơi, bọn tôi bu quanh “phỏng vấn” nó đủ điều. Tên nó là Nguyễn Thượng Minh. Nó và thằng em nhỏ hơn bốn tuổi, nhà ở quê, mẹ chết sớm, ông bố đi làm xa, nên phải gởi anh em nó xuống Hà Nội ở nhà ông chú để học hành, hơn nữa ông lại là thầy giáo. Khi có lệnh di cư, ông chú không liên lạc được bố nó, nên dắt hai anh em nó xuống tàu há mồm vào Nam luôn, rồi được chính quyền phân phối đến định cư ở quê tôi, Vạn Giã, cùng với hơn mười gia đình khác. Nó bảo vài hôm nữa ông chú nó cũng sẽ được sắp xếp cho vào dạy lớp ba trường này, thay cho một ông thầy thuyên chuyển đi nơi khác.
Nó lầm lì ít nói, chắc ngại cái tiếng Bắc Kỳ xa lạ của nó. Nhưng không phải vì điều đó mà làm cho tôi ghét nó, và đã có nhiều lần đánh lộn với nó nữa. Lý do chính là nó đánh bi rất giỏi, giành mất giải quán quân của tôi trong lớp. Nó đánh bi khác với chúng tôi. Chúng tôi để viên bi lên đầu ngón tay giữa rồi bắn đi, còn nó đặt viên bi trong lòng bàn tay và bắn đi bằng ngón tay cái. Vậy mà nó ăn tôi sạch túi. Bọn tôi bảo là nó ăn gian, không được chơi kiểu bắc kỳ của nó mà phải chơi theo kiểu trung kỳ của bọn tôi. Nhập gia phải tùy tục. Nó cô đơn một mình nên chịu thua, phải trả lại cho tôi tất cả viên bi nó thắng ngày hôm đó. Vậy mà hai hôm sau nó chơi trở lại, dĩ nhiên với cái kiểu hoàn toàn mới lạ với nó, nhưng nó vẫn thắng tôi oanh liệt. Cuộc đấu bi này bây giờ không phải chỉ giữa cá nhân hai thằng: tôi với nó, mà giữa hai miền nam-bắc, cho nên học trò trai gái cả trường bu quanh làm khán giả. Tôi thua trắng tay, mất luôn chức vô địch từ lớp năm đến bây giờ. Dĩ nhiên là tôi ức lắm. Điều ghê gớm hơn nữa, là chỉ có cuối tháng đầu tiên nó đứng hạng ba trong lớp, lên nhận bảng danh dự sau tôi, nhưng kể từ tháng thứ nhì trở đi nó đều chiếm hạng nhất. Tôi đâm ra hận nó, có nó là tôi mất tất cả. Mấy lần tôi nhại tiếng Bắc chọc quê nó, nó cũng chỉ cười, tôi nghe lời xúi của lũ bạn, bảo nó rờ sau “đít” coi có còn tòn ten cọng rau muống nào không, nó chỉ im lặng. Có lần bọn tôi xô nó ngã, nó chỉ cười, đứng dậy rồi phủi bụi trên áo quần. Tôi thua nó, nhưng cố làm ra vẻ tự mãn: “nó vẫn chỉ là một anh hùng cô đơn, không có ai chơi với nó”.
Đùng một cái nó nghỉ học. Chẳng có ai biết lý do. Nhưng rồi vài ngày sau nó tới trường, nhưng không phải để học mà để bán bánh mì và cà rem. Cô giáo và bạn bè hỏi, nó khóc và bảo là bà thím, sau khi cãi vã với chú nó một trận, không nuôi hai anh em nó nữa, nó phải tự “khắc phục” để còn nuôi một thằng em nhỏ. Hôm đó bọn tôi nhiều thằng cũng khóc theo với nó. Chờ cho tất cả vào lớp, tôi ở nán lại chỉ để ôm nó và nói một lời xin lỗi về những điều đã qua. Nó nhìn tôi thân thiện, và bảo là nó chưa hề để tâm tới điều ấy. Tôi “tâm phục khẩu phục” nó. Nó còn nhỏ mà thông minh và thánh thiện hơn tôi nhiều.
Tôi bèn làm ngay một cuộc “quảng cáo” cho bánh mì và cà rem của nó, vì vậy hôm nào nó mang mọi thứ tới trường là bán sạch ngay trong giờ ra chơi buổi sáng. Sau đó tôi còn kêu gọi một cuộc lạc quyên giúp nó: gạo, tiền xu, tiền cắc, áo quần, có thằng còn mang tới cho nó cả buồng chuối và một trái mít nữa.
Rồi nó cũng được chính quyền giúp đỡ, tôi nghĩ như thế, nên vài tuần sau nó trở lại lớp học, và chỉ bán bánh mì trong giờ ra chơi. Nó vẫn học giỏi, vẫn đứng đầu lớp, nhưng lần này nó không còn là anh hùng cô đơn nữa mà nó có đông đảo bạn bè, mà thằng thân nhất chính là tôi.
Ông chú nó, thầy giáo Nguyễn thượng Cầu, cũng đã vào trường dạy lớp ba, nhưng bây giờ anh em nó không còn ở chung với ông chú nữa, mà chỉ đến thăm ông vào những cuối tuần. Có khi nó dắt tôi đi theo. Vì vậy tôi mới bíết ông thầy, chú nó sợ bà vợ Bắc kỳ còn hơn sư tử, nên chẳng dám bênh vực nhiều anh em nó, mặc dù ông rất đau lòng xót xa khi bọn nó phải dọn ra ở ké nhà một gia đình người di cư khác.
Tôi mất mẹ, cha tôi cũng đi làm xa, nên tôi thông cảm hoàn cảnh của Minh, nên thường đưa anh em nó về nhà ông bà nội tôi và chơi với đám anh em họ hàng của tôi.
Khi xong tiểu học, tôi vào Nha Trang học trung học, cũng là lúc phải chia tay nó. Bởi Minh cũng vừa theo một số người di cư vào tận khu định cư Phước Tỉnh nào đó ở trong nam, người ta bảo trong ấy làm ăn khấm khá hơn ở quê tôi nhiều lắm. Từ đó, tôi không gặp lại nó, mặc dù trong ký ức tuổi ấu thơ của tôi, lúc nào hình ảnh nó cũng in lên đậm nét.
Không ngờ hôm nay, giữa chiến trường xa xôi này tôi lại bất ngờ gặp lại thằng em duy nhất của Minh, và lòng tôi lắng xuống khi biết nó cũng từng là lính đánh giặc và đã hy sinh đúng ngày này năm trước: ngày mồng một Tết. Cái ngày mà lời chúc Tết của ông Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Hà Nội chính là cái mật lệnh “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân” để giết hại bao nhiêu người vô tội, đặc biệt hàng vạn người ở Huế bị chôn sống. Cũng là cái ngày người ta nhận diện được bọn trí thức, sinh viên phản trắc, đã giết hại bao nhiêu thầy, bạn của chính mình.
Sau đó, tôi rút Tâm về làm việc bên cạnh tôi, phụ tránh toán quân báo gồm toàn những người lính trẻ. Chúng tôi yêu thương nhau như anh em. Rồi vào một đêm trăng sáng, dưới sự chứng giám của đất trời, tôi đã nhận Tâm là đứa em kết nghĩa, sau lần Tâm liều mình cứu tôi thoát chết trong một cuộc phục kích ở Thiện Giáo. Đổi lấy sự an toàn cho tôi, Tâm phải mất hai ngón tay của bàn tay trái và nằm bệnh viện hơn một tháng để được giải phẩu lấy một mãnh đạn nằm trong sâu trong thanh quản. Sau khi xuất viện, Tâm phát âm tương đối khó khăn. Được hội đồng giám định y khoa xếp vào loại không còn khả năng chiến đấu, Tâm có thể chọn về một đơn vị hành chánh hay tiếp vận nào mà Tâm thích, nhưng Tâm một mực chối từ và nằng nặc đòi trở lại đơn vị cũ. Tâm xác nhận là mình vẫn còn khả năng chiến đấu, hai ngón tay của bàn tay trái và giọng nói khó khăn một chút không gây trở ngại nhiều cho một người lính chiến trường. Cuối cùng Tâm được toại nguyện.
Tôi vừa vui mừng vừa cảm động khi Tâm trở về trình diện. Tâm bảo sống chết gì em cũng muốn ở bên anh. Vì gia đình em có còn ai nữa đâu. Đơn vị này là gia đình của em. Tôi sắp xếp cho Tâm một công việc tạm thời ở hậu cứ để tiếp tục chửa bệnh. Chỉ sau vài tháng giọng nói của Tâm gần trở lại bình thường. Tâm nghe lời tôi xin vào khóa Sĩ Quan Đặc Biệt ở Thủ Đức. Tâm được ưu tiên thu nhận vì gốc TSQ.
Ra trường đúng vào mùa hè đỏ lửa 1972, Tâm lại xin trở về đơn vị cũ, lúc này đang ngày đêm nằm trong lửa đạn ở mặt trận Kontum. Năm tháng sau, tôi bị thương, được tản thương về Quân y viện Pleiku nằm điều trị gần một tháng. Xuất viện, được điều về Phòng Hành Quân. Cả tháng tôi không gặp lại Tâm, nhưng ngày nào chúng tôi cũng liên lạc trên hệ thống vô tuyến.
Cuối năm 1973, chiến trường lắng dịu. Tâm xin phép về Sài gòn cưới vợ. Vợ Tâm là cô bạn nhỏ ngày xưa trong cùng một viện mồ côi. Bây giờ là cô giáo. Hai người gặp lại và tình yêu nẩy nở trong thời gian Tâm học ở trường Thủ Đức. Cả vợ chồng tôi đều có mặt trong ngày cưới, và làm chủ hôn bên họ nhà trai. Đám cưới xong, tôi vận động xin cho vợ Tâm được chuyển lên dạy tại một trường tiểu học nằm trong thành phố Pleiku, để vợ chồng được gần gũi nhau hơn.
Đầu tháng 3/1975 Ban Mê Thuột thất thủ, bản doanh Bộ Tư lệnh SĐ 23 BB bị tràn ngập sau một phi vụ bắn nhầm. Ông Tư Lệnh Phó cùng ông tỉnh trưởng Đắc Lắc bị bắt. Hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 44 được trực thăng vận nhảy xuống đầu tiên ở Phước An, quận duy nhất còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm vừa ngăn chặn địch quân tràn xuống Khánh Dương theo Quốc lộ 21, vừa tái chiếm thị xã Ban Mê Thuột khi tình hình cho phép. Tâm có mặt trong toán quân đầu tiên này. Tôi không gặp được Tâm nhưng có liên lạc nói chuyện vài lần trong máy vô tuyến. Tâm rất đau lòng khi phải bỏ vợ và đứa con gái ba tuổi trên Pleiku, trước khi gởi gấm cho anh trung sĩ tiếp liệu đại đội cố dắt theo cùng đoàn quân triệt thoái về tỉnh lộ 7, bây giờ không biết ra sao. Tâm khẩn khoản nhờ tôi tìm mọi cách liên lạc và giúp vợ con mình. Tôi lấy cái tình anh em kết nghĩa mà thề với Tâm là tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Không ngờ, đó là một kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, đã làm mất biết bao nhiêu sinh mạng, kéo theo sự sụp đổ cả miền Nam. Ra tận Tuy Hòa, đứng đón dòng người tả tơi, nét mặt còn đậm nỗi kinh hoàng, họ vừa trải qua và chứng kiến biết bao nhiêu cái chết thê thảm để được đến bên này bờ con sông Ba nhuộm máu, tôi nghĩ là tôi chẳng còn có cơ hội nào gặp lại vợ con Tâm. Trở lại Khánh Dương, đúng lúc Phước An thất thủ và đơn vị của Tâm đã phải tan hàng, tôi gặp lại vị chỉ huy của Tâm ở Dục Mỹ, ông xác nhận là trung úy Nguyễn Thượng Tâm đã nằm lại trên đỉnh đồi Chu Cúc, khi chiến đấu tới viên đạn cuối cùng rồi tự sát trước một biển người của địch quân tràn lên chiếm giữ.
* * *
Hơn sáu tháng định cư ở Nauy, cả nhà tôi lúc nào cũng miệt mài để sớm hội nhập vào quê hương mới. Thời gian qua nhanh quá. Mới đây mà chúng tôi cũng đã tập tành tổ chức ngày lễ Giáng Sinh và ăn cái tết Tây đầu tiên theo truyền thống của Nauy. Sau đó bận bịu đi học đi làm, và cũng chẳng có cuốn lịch Âm lịch nào để biết ngày nào là Tết Ta, Nguyên Đán. Một buổi tối vợ chồng tôi đang ngồi cãi nhau về thời điểm giao thừa để thắp một nén hương tưởng nhớ ông bà, thì điện thoại reo. Bà Huyền-Trân Thomassen gọi, mời cả nhà chúng tôi tối mai lên ăn tết với gia đình, chồng bà từ Mexixo cũng mới trở về. Bà cho biết bây giờ đã là sáng mồng một Tết bên Việt Nam. Thì ra, chúng tôi tệ quá, mới rời khỏi Việt Nam hai năm mà không còn nhớ ngày tết và tổ chức mừng Tết như bà. Tôi cám ơn và nhận lời bà xong, vội vàng thắp mấy nén hương tạ tội ông bà. May mắn ngày mai là thứ bảy.
Bà biết gia đình chúng tôi có tới mười người mà chỉ có một cái xe Ford vừa nhỏ vừa cũ, nên bà đặt một chiếc taxi tám chỗ ngồi lại đón chúng tôi. Bà xã tôi chỉ huy bầy con gái trên chiếc taxi, còn tôi lái xe chở đám con trai chạy theo sau. Trời thật lạnh, tuyết rơi trắng cả bầu trời. Chúng tôi phải chạy gần một tiếng đồng hồ mới tới nhà bà. Bà ở trong một ngôi biệt thự khá xinh, cách trường đại học Oslo, nơi bà dạy, chừng năm phút lái xe. Trong phòng khách bà trang trí giống như tết ở Việt Nam, đặc biệt có cả một cành mai thật to (một loài hoa Bắc Âu nở hoa vào mùa đông, nhìn giống như hoa mai) trong một cái bình sứ lớn, nằm ở giữa nhà. Chồng bà rất phúc hậu, và nói được một ít tiếng Việt. Khi giới thiệu ông với chúng tôi bà đùa:
– Hoàng đế Chế Mân của tôi đây.
– Không, tôi là Trần Khắc Chung. Ông vừa đưa tay bắt tay tôi vừa đùa.

Ông ta khá am tường về lịch sử Việt nam. Ông cũng biết khá nhiều và có những nhận định khá công bình về cuộc chiến Việt nam. Ông cho biết là lúc cuộc chiến Việt Nam đang ác liệt, khi ấy ông là trưởng ban ngoại giao của Quốc Hội Nauy, đã phản đối kịch liệt những nhóm tả khuynh và đặc biệt là những nhận định và việc làm của ông Olaf Palma, thủ tướng Thụy Điển, người đã hô hào ủng hộ Bắc Việt và tuyên bố sẵn sàng chấp nhận cho binh lính Mỹ đào ngũ đến dung thân ở nước ông. Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhìn hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, ông vừa kịp phản tỉnh thì cũng bị ám sát chết.
Bữa ăn còn có cả dưa hành, thịt kho và bánh chưng. Tôi phục bà và thấy xốn xang nhớ những ngày tết lúc tôi còn nhỏ ở quê nhà.
Ăn uống xong, bà còn lì xì bì thơ màu đỏ cho mấy đứa con và mấy đứa cháu của tôi. Tôi đành phải ngượng ngùng xin lỗi vì không chuẩn bị kịp quà cáp cho hai đứa con của bà. Nhưng bà rất khéo léo, khi bảo sự có mặt của gia đình chúng tôi trong thời khắc đặc biệt này đã là một món quà vô giá, rất có ý nghĩa cho mẹ con bà.
Tôi thay mặt gia đình cám ơn, chúc tết ông bà và gia đình. Tôi cũng nói lên lòng ngưỡng mộ của chúng tôi đối với một người đã xa quê hương lâu ngày và lập gia đình với một người ngoại quốc mà vẫn còn giữ được truyền thống và bản sắc văn hóa Việt Nam, trong lúc một số người mới chân ướt chân ráo sang đây đã vội tập tành thành người bản xứ, muốn quên hết nguồn cội của mình.
Chia tay bà lúc gần mười hai giờ đêm. Đường sá vắng tanh. Tuyết vẫn rơi kín bầu trời. Không quen lái xe trên tuyết, tôi chạy thật chậm. Khi đến trước khu đại học Blindern, tôi thấy có một người đứng dưới tàng cây thông, đưa tay đón. Tôi dừng xe lại. Một cô gái chạy tới xin quá giang về nhà, vì cô dự tiệc tối ra, đã gọi taxi khá lâu mà không thấy tới. Tôi bảo đứa con trai lớn của tôi ra ngồi ở băng sau, nhường ghế trước cho cô gái. Khi cô lễ phép chào tôi, và bắt tay mấy cậu con và cháu của tôi ngồi ở băng sau, tự giới thiệu tên Anita rồi ngồi lên ghế, tôi mới nhận ra cô gái gốc Á đông, nhưng phát âm tiếng Nauy và điệu bộ hoàn toàn như người bản xứ. Tôi ngạc nhiên khi thấy cô đang run vì lạnh. Cô chỉ mặc một cái áo khoác mỏng. Tôi dừng xe, cởi cái áo choàng bằng lông cừu choàng qua vai cô. Gương mặt cô bé xinh xắn dễ thương, nhưng phảng phất buồn. Tôi hỏi cô bé đến từ nước nào. Cô cho biết cô được cha mẹ nuôi người Nauy nhận mang về đây lúc chưa tròn ba tuổi, nên cô chẳng biết gì. Sau này lớn lên, cô mới được cha mẹ nuôi kể lại là cô được Cơ quan Bảo Trợ Nhi Đồng LHQ nhận từ một viện mồ côi ở Việt Nam vào năm 1975. Ông bà xin nhận cô làm con nuôi từ Cơ quan này. Cô bé rất mong muốn được trở lại Việt nam một lần, để biết nơi mình sinh ra và nhờ người tìm lại tông tích, mồ mả của cha mẹ ruột. Cô sẽ xây mộ cho ông bà. Cha mẹ nuôi có hứa sẽ đưa cô về sau khi cô học xong trung học, và khi nào việc xin visa vào Việt Nam dễ dàng hơn. Nhà cô không xa nơi tôi ở, có lẽ không quá hai mươi phút lái xe. Khi qua hết mấy khu rừng thông thanh vắng, cô chỉ ngôi nhà lớn nằm lưng chừng trên một ngọn đồi, bảo tôi dừng lại phía dưới. Cô sẽ đi lên bằng con đường tắc. Cô cám ơn tôi, cởi trả lại tôi cái áo choàng. Cô hỏi xin tôi một mảnh giấy, viết địa chỉ xong rồi đưa lại cho tôi. Cô mời tôi đến Lễ Phục Sinh ghé lại nhà cô chơi. Vì chỉ còn một ngày nữa cô phải đi London tiếp tục theo học một năm chương trình trao đổi học sinh. Cha mẹ nuôi của cô rất thích nói chuyện với người Việt Nam, nhất là những người đã từng tham gia cuộc chiến. Tôi hứa với cô là thế nào tôi cũng đến thăm cô cùng ông bà cha mẹ nuôi tốt bụng.
Về nhà, khi kể lại chuyện cô bé quá giang cho vợ và mấy cô con gái nghe, tôi mới nhận ra một điều: sao tôi lại có duyên với những người mồ côi đến thế. Suốt cả đêm hôm ấy tôi nằm trằn trọc nghĩ đến thân phận mình và nhớ thật nhiều đến Nguyễn Thượng Tâm, người mà tôi đã từng nhận làm đứa em kết nghĩa, nhưng mãi đến bây giờ vẫn chưa làm tròn được lời thệ ước của mình.
* * *
Ðến Lễ Phục Sinh, nhớ lời hẹn, tôi rủ bà xã và hai cô con gái lớn đến thăm cô Anita. Bây giờ là đầu tháng tư mà tuyết vẫn còn rơi trắng cả bầu trời. Nhờ ban ngày nên tôi thấy rõ nhà cô hơn. Ngôi nhà có dáng của một lâu đài, cổ kính, sang trọng. Chung quanh là một hàng thông. Chủ ngôi nhà chắc đã trọng tuổi và giàu có. Ngần ngừ một lúc, tôi bấm chuông. Đúng như tôi nghĩ, người mở cửa là một bà già khoảng trên bảy mươi, nhưng còn khỏe mạnh và nói năng vui vẻ lịch thiệp. Bà ngạc nhiên nhìn tôi, và hỏi tôi đến có việc gì bất ngờ mà bà không được báo trước. Tôi xin lỗi, giới thiệu tên mình và cho bà biết là tôi có hẹn với cô Anita, con gái của bà, đến thăm cô ấy và vợ chồng bà. Có lẽ cô Anita quên, không kể chuyện lại với bà. Bà tròn mắt ngạc nhiên:
– Anita nào ? vì đứa con gái duy nhất của chúng tôi đã chết rồi mà.
Bây giờ đến lượt tôi ngơ ngác. Tôi kể cho bà nghe chuyện tôi gặp cô Anita trước cổng trường đại học hồi tháng hai, và cho cô quá giang về đây lúc nửa đêm. Bà mời tôi vào nhà, chỉ cho tôi tấm ảnh treo trên vách.
– Đây chính là cô Anita mà tôi đã gặp, trước khi cô trở lại London để tiếp tục học. Tôi nói to như để xác nhận với bà.
Bà nhìn tôi sụt sùi hai dòng nước mắt.
– Ðúng rồi, sau lần về thăm nhà và cũng để khám bệnh ấy, thay vì trở lại trường, con tôi phải vào bệnh viện, do một mảnh đạn nằm sâu trong tim từ lúc cháu ba tuổi, và cháu qua đời sau đó một tuần. Trước đây, bác sĩ có khám và chụp hình, nhưng bảo mảnh đạn nằm ở một vị trí khá an toàn, và rất nguy hiểm nếu phải giải phẩu. Không ngờ cháu lại chết vì chính mảnh đạn từ thời chiến tranh này.

Bà ra nhà sau lên tiếng gọi ông chồng, kể cho ông nghe câu chuyện tự nãy giờ. Ông đến chào tôi, và bảo tôi chờ ông bà mặc áo lạnh rồi sẽ dẫn tôi ra nghĩa trang, nằm không xa ở phía sau nhà, thăm ngôi mộ cô con gái.
Ngôi mộ phủ đầy tuyết trắng. Bà đưa tay phủi lớp tuyết trên tấm bia, hàng chử khắc sâu trên bia: ANITA NGUYEN HILDE. Nhìn tấm ảnh trên mộ bia, tôi có cảm giác dường như cô cũng đang nhìn tôi mỉm cười. Tôi đứng trước mộ, chấp hai tay khấn nguyện một đôi điều. Ông bà chủ nhà sụt sùi, bảo với tôi đó là cô con gái duy nhất mà ông bà hết lòng thương quí. Từ khi cô ta qua đời, ông bà chẳng còn thiết tha bất cứ thứ gì trên cõi đời này nữa. Đưa tôi trở lại nhà, ông châm củi thêm vào lò sưởi, rót mời tôi một tách cà phê nóng. Ông bảo nếu cô không chết thì mùa hè này ông bà sẽ đưa cô về thăm quê hương nguồn cội ở Việt Nam. Riêng cha mẹ ruột của cô thật sự đã chết trong chiến tranh rồi.
Dường như vừa nhớ lại một điều gì, ông đứng lên bước tới kệ sách, quay lại nói vói tôi:
– Trong hồ sơ của con tôi, người ta có ghi chú: Khi hấp hối, mẹ cháu có trăn trối nhờ người mang nó về một viện mồ côi mà bà quen. Bà có để trong túi áo quần của đứa con một tấm hình khi vợ chồng bà làm đám cưới. Sau tấm hình có ghi tên và đơn vị của ba cháu. Đó cũng là dấu tích duy nhất về gốc gác của cô con gái nuôi yêu dấu của chúng tôi.
Tôi chưa kịp hỏi, ông đã đưa cho tôi tập album, và chỉ cho tôi một tấm ảnh đen trắng ngã màu vàng sậm, được dán ngay ở trang đầu. Nhìn tấm ảnh, tôi giật thót cả người, như đang bị mộng du vào một cõi xa xăm nào đó: hai người trong tấm ảnh chính là vợ chồng Nguyễn Thượng Tâm, người em mồ côi kết nghĩa mà chúng tôi đã lạc mất nhau trong những ngày cuối của một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.

Những Vì Sao
Của Một Thời Tuổi Thơ

Thời học trung học, tôi có người bạn thân, không những tướng tá mà cả cái tên cũng đẹp: Phan Ái Minh. Hai đứa học chung trường. Minh học Ban B và trước tôi một lớp, còn tôi dốt toán nên học Ban C. Vì vậy mà bạn còn là “ông thầy” kèm toán cho tôi. Nhà Minh ở trên Thành (Diên Khánh), cách thành phố Nha Trang, nơi có ngôi trường Võ Tánh của bọn tôi hơn mười cây số. Minh cùng người anh thuê căn nhà nhỏ trong một con hẻm ở gần đình Phương Sài để trọ học. Mỗi chiều Thứ Sáu, sau khi tan trường, hai anh em đạp xe về thăm nhà đến chiều Chủ Nhật lại ca bài đường trường xa trở lại Nha Trang, mang theo thức ăn cho một tuần sau đó. Tôi cũng từ một vùng quê khác vào Nha Trang học, ở nhà ông chú, một tiệm buôn giữa trung tâm thành phố. Để tránh ồn ào và khỏi bị sai vặt, tôi thường đạp xe lên nhà Minh vừa chơi vừa học. Có khi tôi ngủ lại hoặc cuối tuần theo anh em Minh về thăm quê bên kia Cổ Thành Diên Khánh.
Minh luôn hãnh diện khoe với bọn tôi về quê hương “Cổ Thành”. Anh thường gọi đó là “la Citadelle” và gần như thuộc lòng sử tích: “được chúa Nguyễn Phúc Ánh xây từ thế kỷ 17 và lần lượt do các ông Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh trấn thủ. Võ Tánh là một dũng tướng bất khuất, sau này đã tự thiêu tuẫn tiết trước khi thành Bình Định lọt vào tay tướng Trần Quang Diệu của Tây Sơn. Có lẽ vì vậy mà ngôi trường trung học lớn nhất miền duyên hải của chúng ta mang tên Võ Tánh, để nêu gương sĩ khí cho đám học trò.” Minh còn đọc đi đọc lại bài thơ của công chúa Ngọc Du khóc phu quân tướng công Võ Tánh, làm bọn tôi thuộc nằm lòng cho đến mãi bây giờ:
Những tưởng ra tay giúp nước nhà
Ai dè binh địa nổi phong ba.
Xót người vị quốc liều thân ngọc,
Khiến thiếp cô phòng ủ mặt hoa.
Gối mộng mơ màng duyên nợ cũ,
Đài mây xiêu lạc phách hồn xa.
Lửa trung đốt đỏ gương hào kiệt,
Nóng ruột thuyền quyên giọt lệ sa!

Có lẽ chính quê hương Cổ Thành và hình ảnh dũng tướng Võ Tánh in rất đậm trong trí óc và tâm hồn Minh từ thuở ấu thơ, đã hun đúc trong Minh một mẫu người lý tưởng sau này.
Vào những mùa thi, căn nhà trọ khá oi bức và đèn điện không đủ sáng, bọn tôi thường rủ nhau đạp xe xuống bờ biển, nơi có các trụ đèn tỏa sáng, vừa học bài vừa nhìn biển trời mênh mông mà xây mộng tương lai. Có lần Minh bảo“ sau này nhất định tao sẽ chọn binh nghiệp để đọ sức cùng nắng mưa và tha hồ xông pha trận mạc”. Tôi cười đùa: “Mày nói hay như đang hát tuồng Thuyền Ra Cửa Biển!” (lúc ấy gánh hát Thanh Minh Thanh Nga đang diễn vở tuồng này tại rạp Minh Châu – Nha Trang)
Là bạn, nhưng dường như tất cả mọi thứ trên đời ông trời đã dành cho Minh nhiều hơn tôi: đẹp trai hơn, to con hơn, võ nghệ, đàn hát và nhất là học hành cũng giỏi hơn. Chơi đàn và đọc sách là hai món tiêu khiển của Minh. Anh đọc rất nhiều sách, từ truyện Tam Quốc Chí đến Đệ Nhi Thế Chiến, từ các sách nghiên cứu Khoa Học đến Thiên Văn Học. Trí nhớ của Minh rất tốt, anh nhớ từng chi tiết và làm bọn tôi mê mẩn mỗi lần ngồi nghe anh kể lại. Ngoài ra Minh rất tư cách, tính tình bộc trực, thẳng thắn. Một lần có tay “anh chị” ở đầu hẻm hiểu lầm, tưởng tôi làm ngã cái xe gắn máy của y, lớn tiêng ăn hiếp, Minh bênh vực tôi, ôn tồn nói điều phải trái, nhưng gã kia hung hăn ra tay trước, Minh không đánh lại, chỉ đỡ vài đòn mà hắn đã té nhào không đứng lên được. Minh đưa tay kéo hắn lên và phủi bụi đất bám trên mặt hắn. Thấy Minh võ nghệ cao cường, có khí phách và lòng hào hiệp, hắn ta phục, bắt tay xin làm bạn, đãi bọn tôi một chầu phở Hợp Lợi. Sau lần ấy, tôi mới biết bạn tôi “văn võ song toàn”.
Cứ đến mùa Hè, tôi đạp xe lên quê Minh ở chơi một vài tuần. Nhà Minh ở gần con sông chảy uốn khúc qua một vài khu xóm làng và ruộng đồng tĩnh mịch. Ban đêm, tôi theo Minh và đám bạn bè, ra cắm lều, đàn hát, câu cá và ngủ lại bên bờ sông. Khung cảnh êm đềm thơ mộng. Đêm mùa Hè, trời trong vắt, bọn tôi thường đua nhau đếm thử có bao nhiêu vì sao, tìm trong các dải ngân hà, xem nơi nào có cái cầu Ô Thước của Ngưu Lang Chức Nữ. Minh biết tên khá nhiều các ngôi sao, và lúc ấy Minh đã dạy bọn tôi biết cách nhìn sao trời để định hướng và dự đoán cả thời tiết nữa. Minh còn giải thích về các thiên hà, tinh tú trong vũ trụ mênh mông, có những vì sao mang cái tên kèm theo một huyền thoại, rồi kể cho bọn tôi nghe truyện Les Étoiles của nhà văn Alphonse Daudet mà thầy Cung Giũ Nguyên có nói qua trong giờ Văn Học Sử Pháp. Có những vì sao sáng lấp lánh, bọn tôi đua nhau giành lấy. Ai “xí” được ngôi sao nào lóe lên trước nhất sẽ được đặt tên mình và tên một cô bạn học trò đã từng khuấy động trái tim. Trong bọn, Minh là người tìm được cho mình nhiều ngôi sao nhất. Nhưng có một điều lạ, là ngôi sao nào anh giành được và đặt tên mình, đều lóe sáng lên, nhấp nháy vài lần rồi bỗng dưng vụt tắt, biến mất trên bầu trời, giữa hằng hà tinh tú khác. Nằm chờ mãi không thấy hiện lên, Minh bèn phân tích hiện tượng này, nhưng rồi cả anh và bọn tôi đều xuýt xoa nuối tiếc.
Ngày ấy, chúng tôi đều con nhà nghèo lo đi học, chưa có người yêu và cũng không dám mơ tưởng tới chuyện yêu đương, nhưng dường như trong trái tim khờ khạo của đứa nào cũng phảng phất bóng hình một cô bạn học trò cùng lớp hoặc chung trường. Trong những lần tâm tình, hay lúc đặt tên cho những vì sao, Minh cũng thường nhắc tên một cô học trò cùng quê, học sau Minh hai lớp. Cô bé có làn da trắng, đôi môi mọng đỏ, hiền hậu dễ thương, mà bọn tôi đã gặp một đôi lần.
Xong tú tài, đang học ở Đại Học Khoa Học Sài Gòn thì Minh tình nguyện vào Khóa 20 Võ Bị. Con đường võ nghiệp mà Minh đã từng nhiều lần tâm tình với đám bạn bè là anh sẽ chọn, mặc dù với khả năng, anh còn có thể tiến xa trên đường học vấn. Bạn bè có người khuyên Minh vào Trường Hải Quân ở ngay Nha Trang để được gần nhà và sau này trong các chuyến hải hành tha hồ ngắm sao trời mà đặt tên cho người tình trong mộng. Nhưng Minh nhất quyết chọn Trường Võ Bị. Lúc ấy tôi thầm nghĩ, một người có khả năng, phong độ và tư cách như Minh, lại được đào tạo bởi một quân trường danh tiếng, chắc chắn sẽ trở thành một sĩ quan, một cấp chỉ huy đảm lược và mẫu mực sau này.
Đúng vào một ngày Giáng Sinh, đám bạn bè chúng tôi tiễn Minh lên Đà Lạt. Cùng nhập học Khóa 20VB với Minh còn có một số các anh cựu học sinh xuất sắc khác của trường Võ Tánh: Phạm Cang, Hoàng Văn An, Hồ Đắc Tùng, Cao Đình Phú, Quách Giám, Võ Anh Tuấn, Nguyễn Công Lắm vv. Chia tay Minh, bọn tôi cũng mỗi thằng mỗi ngã. Sau đó hơn tám tháng, tôi và hai thằng bạn khác vào quân trường Thủ Đức.
Những ngày đầu năm 1965, khi chúng tôi đang thực tập hành quân tại bãi tập bên bờ sông Đồng Nai, thì nghe các sĩ quan cán bộ và anh em SVSQ bàn tán về trận chiến Bình Giã rất khốc liệt. Tiểu Đoàn 30, 33 BĐQ và nhất là Tiểu Đoàn 4 TQLC bị tổn thất rất nặng nề. Cả tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó, y sĩ trưởng và gần 20 sĩ quan khác đã hy sinh. Chúng tôi bàng hoàng khi biết được trong số các sĩ quan tử trận có ba thiếu úy tân khoa vừa mới tốt nhiệp Khóa 19VB Đà Lạt, 1 BĐQ (Nguyễn Thái Quan) và 2 TQLC (Võ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng). Họ đã hy sinh ngay trong trận đánh đầu đời, chỉ sau hơn hai tuần trình diện đơn vị. Đặc biệt trong số này có vị thủ khoa Võ Thành Kháng. Người sĩ quan tân khoa ưu tú đã bắn bốn mũi tên đi bốn phương trời trong ngày lễ ra trường, và mang theo rất nhiều hào quang cho con đường binh nghiệp. Bọn tôi không ai quen biết anh Võ Thành Kháng cũng như các anh cùng khóa 19 VB vừa tử trận, nhưng tất cả đều ngậm ngùi tiếc thương những sĩ quan rất trẻ, chọn binh nghiệp bảo vệ giang sơn, nhưng vừa được đào tạo văn võ song toàn mà đã hy sinh khi chưa kịp thi thố tài năng, chưa có cơ hội để “đem hết sở tồn làm sở dụng”, mà nếu còn sống chắc chắn sẽ trở thành những cấp chỉ huy tài giỏi sau này. Khi ấy, bỗng dưng tôi nhớ tới Phan Ái Minh, người bạn thân tài hoa của tôi đang theo học Khóa 20 Đà Lạt, và tất nhiên cũng thoáng một chút âu lo cho số phận của chính mình. Cuộc chiến đang có dấu hiệu bắt đầu khốc liệt.
Một sự kiện trùng hợp đặc biệt khác làm tôi không thể nào quên. Người kể cho chúng tôi nghe chi tiết trận Bình Giã và danh tánh các sĩ quan hy sinh trong trận chiến khốc liệt này là anh Dương Văn Chánh, người bạn cùng trung đội SVSQ Thủ Đức với tôi. Nhờ có người thân quen ở TQLC nên anh biết rõ từng chi tiết một. Chánh đang học ở đại học luật khoa thì nhận lệnh động viên. Tướng tá phong trần, nước da sạm đen, giọng nói khàn khàn, đôi mắt sáng, tính tình hiền lành và trầm ngâm, ít nói. Ra trường, anh là một trong số rất ít (hình như chỉ có bốn người) được chọn về binh chủng Nhảy Dù. Sau ngày mãn khóa, khi chúng tôi đã ra đơn vị và tham dự nhiều cuộc hành quân, thì Dương Văn Chánh vẫn còn đang học nhảy dù. Vậy mà đến giữa tháng 6/65, tôi bất ngờ được tin Chánh vừa hy sinh trong trận Đồng Xoài. Có lẽ đó cũng là trận đánh đầu đời của Chánh. Và cũng khi ấy, chúng tôi mới biết Chánh được bổ sung về Tiểu Đoàn 7 thuộc Chiến Đoàn 2 ND mà vị Chiến Đoàn Trưởng, Trung Tá Trương Quang Ân, là anh rể của Chánh. (Ba năm sau ông là Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn của tôi).
Là một sĩ quan trừ bị, khi bước chân vào quân trường, Chánh không phải là người chọn binh nghiệp, nhưng với một người có nhiều khả năng và cá tính như Chánh, nhất định phải là một người lính can trường, được hầu hết bạn bè cùng khóa kỳ vọng trở thành một cấp chỉ huy tài giỏi sau này, nhưng anh đã hy sinh quá sớm. Cái chết của Chánh làm tôi lại nhớ đến bầu trời tuổi thơ ngày xưa của bọn tôi ở quê Minh, bên kia Cổ Thành Diên Khánh và mơ hồ như nhìn thấy một vì sao nữa vừa mới lóe lên rồi vụt tắt!
Khi đang hành quân ở Phú Yên, tôi nhận được thư Minh báo tin anh chuẩn bị làm lễ ra trường. Minh bảo sẽ cố gắng để được đi Nhày Dù hay TQLC, còn nếu ra Bộ Binh thì sẽ chọn về Sư Đoàn 23 để được gần tôi cùng một số bạn bè khác cho vui.
Tôi vào quân trường Thủ Đức sau hơn nửa năm nhưng lại ra đơn vị trước Minh. Vì thời gian học ở Võ Bị lúc ấy gấp ba lần ở Thủ Đức. Hơn nữa, đặc biệt so với các khóa trước, Khóa 20 VB, sau khi tốt nghiệp,còn phải theo học khóa Rừng Núi Sình Lầy tại TTHL/ BĐQ Dục Mỹ thêm 42 ngày.
Khoảng đầu tháng 2 năm 1966, hình như ngay sau Tết nguyên đán, tôi rất vui mừng được tin Minh bổ sung về cùng Trung Đoàn với tôi. Minh về Tiểu Đoàn 4, còn tôi đang ở Tiểu Đoàn 3. Lúc ấy, đơn vị tôi đang hành quân ở Di Linh (Lâm Đồng) còn tiểu đoàn của Minh thì hành quân ở Lạc An (Khánh Hòa). Hai đứa hẹn gặp nhau sau cuộc hành quân, uống một chầu mừng cho cuộc trùng phùng. Nhưng rồi cuộc hẹn đã không thành và tôi không bao giờ có cơ hội để được gặp lại Minh, người bạn đa tài mà tôi hằng mến mộ cả một thời đi học.
Cuộc hành quân dài hạn ở Di Linh vừa kết thúc, tiểu đoàn tôi không trở lại Nha Trang như dự trù mà lại nhận lệnh di chuyển đến Phan Thiết, tăng phái cho TK Bình Thuận, phối họp với một đơn vị Thiết Kỵ của Hoa Kỳ, hành quân giải tỏa mật khu Lê Hồng Phong. Một mât khu rộng lớn và địa thế hiểm trở bị Cộng quân chiếm cứ khá lâu. Tại tuyến xuất phát, tôi được anh sĩ quan truyền tin Tiểu Đoàn, cùng quê với Minh, cho biết Phan Ái Minh đã hy sinh tại Lạc An trước đó hai ngày, khi đang điều động trung đội tiến chiếm mục tiêu. Tôi bàng hoàng, xót xa khi vừa mất một người bạn mà mình hằng mến phục, quân đội cũng vừa mất đi một sĩ quan ưu tú, mà nếu còn sống chắc chắn sẽ trở thành một cấp chỉ huy tài giỏi sau này. Tôi mang hình ảnh của Minh theo suốt cuộc hành quân cam go hôm ấy. Cuộc hành quân kết thúc toàn thắng. Tôi nghĩ, có thể hình ảnh của Minh đã tạo thêm sức mạnh cho tôi để đơn vị tôi có được chiến thắng vẻ vang này.
Mấy đêm liền sau đó, tôi nằm trằn trọc nghĩ tới Minh, nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Nhớ những đêm cùng Minh và đám bạn bè nằm bên bờ con sông quê dưới bầu trời lung linh những vì sao, mầu nhiệm. Bỗng tôi giật mình khi nghĩ tới một điều kỳ lạ: các vì sao mà Minh đã chọn để đặt tên mình, tất cả chỉ vừa lóe sáng lên rồi vụt tắt. Và nhớ tới người con gái nào đó, được Minh trầm trồ tha thiết đặt tên, không biết nếu nghe được câu chuyện thơ mộng này lòng cô có nhiều xúc động? Tôi (và chắc có cả Minh nữa) thầm cầu mong cho cô được tròn hạnh phúc sau này.
Khóa 20VB được bổ sung về đơn vị tôi còn có các anh Vũ Phúc Sinh, Hoàng Văn An, Cao Đình Phú, Bùi Hữu Kiệt, Dương Đình Chính, Hồ Đắc Tùng, sau này đều là những cấp chỉ huy giỏi. Anh Vũ Phúc Sinh, người cùng về TĐ 4 với Minh, đã được đặc cách lên trung úy chỉ 9 tháng sau ngày ra đơn vị, Anh Hoàng Văn An là sĩ quan đẹp trai nhất Trung Đoàn, tính tình vui vẻ, cương trực, được mọi người từ quan tới lính yêu thương. Rất tiếc là các anh đã thuyên chuyển, rời khỏi đơn vị khá sớm, sau khi nắm đại đội và đánh thắng vài trận, để lại bao luyến thương và tiếc nuối cho tất cả mọi người. Dương Đình Chính đã tử trận (mất tích) tại chiến trường Kontum đầu năm 1973, khi vừa lên nắm Tiểu Đoàn 1. Bùi Hữu Kiệt thuyên chuyển về TK Ninh Thuận, nắm một tiểu đoàn ĐPQ và hy sinh tại Bình Định cuối năm 1972 khi dắt tiểu đoàn tăng cường cho mặt trận này. Người cuối cùng còn ở lại đơn vị là anh Hồ Đắc Tùng, sau này là một tiểu đoàn trưởng đã đóng góp nhiều chiến công trong chiến thắng Kontum mùa Hè 1972.
Khóa 20 VB đã có rất nhiều cấp chỉ huy lỗi lạc ở các quân, binh chủng, làm rạng danh quân lực. Một số đã thăng tiến rất nhanh, giữ các chức vụ trung đoàn trưởng BB, liên đoàn phó BĐQ. Sau này khi biết được một số trong những tên tuổi của Khóa 20 VB từng nổi danh trên các chiến trường: các anh Hoàng Mão, Lại Thế Thiết, Huỳnh Bá An, Vương Mộng Long, Phạm Cang, Quách Vĩnh Trường, Nguyễn Thái Bửu, Trương Phúc, Đoàn Minh Phương, Trương Dưỡng, Nguyễn Văn Măng, Phạm Văn Tiền…tôi luôn nghĩ đến Phan Ái Minh, người bạn đa tài của tôi, và nhớ tới những vì sao sớm vụt tắt trên bầu trời tuổi thơ của chúng tôi thuở trước.

Ba Dòng Nước Mắt

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận đuợc thư Bình, thằng bạn thân tình từ thời nối khố. Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31. Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:
“Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm một chỗ bình yên. Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với mày. Bởi tao nghe mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích hợp cho những người cần một nơi để chửa trị những vết thương khó lành được trong lòng.
Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt..”

Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình. Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp lại, tha hồ mà kể chuyện xưa. Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một nơi xa tít mịt mùng ?

Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.
***

Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường làng, rồi lên trường huyện. Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần “inh”. Trong lớp bạn bè thường gọi bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang Trung đại đế, cái nơi nổi tiếng “con gái cầm roi đi quyền” đó nó ra sao. Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía sau hè. Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân. Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá. Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài gòn, trong lúc kinh tế gia đình đang lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng rủ nhau vào lính. Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần tượng của bọn tôi từ lâu lắm. Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không vui. Vì kể từ hôm nay, không còn “chúng mình ba đứa” nữa. Tôi tiễn hai thằng đến Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn gói vào Sài gòn học tiếp.

Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc đứng bên cạnh một chiếc F 5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó. Sau khi về nước chỉ có thằng Bình được lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.

Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu động cho Quân Đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có mặt. Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích delta trong các vùng địch. Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang. Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ được một tuần “anh về với em rồi anh lại đi”. Có lẽ nhờ vậy mà nó có khá nhiều mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc được trên các tần số không lục.

Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt lắm.
Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi nhà phía trước “thăm dân cho biết sự tình”, không ngờ “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”, đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà. Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm phụ rể.

Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận. Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi và chai rượu đế. Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra, nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị. Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc. Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường ba hoa với đám bạn bè.

Chỉ có thằng Bình là “số đẻ bọc điều”. Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng vẫn quanh quẩn ở Biên Hoà, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói. Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo “tán”, sau các buổi tan trường.

Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một vài hôm. Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, phi đoàn Thần Tượng ở Nha Trang có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi chợ. Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường. Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà giàu. Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành. Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng rất tự hào do chính tay mình nấu : cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao “đừng nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng” như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.
Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate. Khách khứa lên đến trăm người.

Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi “xác thân đã nhuốm mùi trần tục”, một vợ mấy con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón khách.
Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển. Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói “lắm mối tối nằm không”, đến ngày mất nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.

Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang rồi Biên Hoà. Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau như cái thời còn đi học. Mỵ Khê, bà xã của Bình cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hoà lẫn tiếng khóc của trẻ thơ. Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.

Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng cầm chân địch hơn một tuần. Biên Hoà bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà Nóc tránh pháo. Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một thằng bạn cùng khoá, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

Ngày 29.4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập, cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng. Anh em trong phi đoàn ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển..
Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường. Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội, bảo Bình thu xếp gấp về Sài gòn để kịp đưa vợ con đi. Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của nó được đặt dưới quyền của tướng tư lệnh Nguyễn Khoa Nam. Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.

Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày,thì biết tin Sài Gòn thất thủ. Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang Thái Lan.
Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện “học tập cải tạo” bất ngờ gặp Bình. Trong cái cảnh “nước mất nhà tan” này mà có được một người bạn thân thì cũng vơi được nỗi buồn. Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em. Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống trên phi cơ.

Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc mỗi thằng bị chia mỗi ngả. Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với những người khác trong vùng. Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.

Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên. Trong trại tỵ nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ chức vượt biên. Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.

Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina lúc 9 giờ rưởi tối. Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ. Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế “ứng chiến” để đối phó với những điều bất trắc. Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng khoá chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định, nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box. Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.

Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn còn hàng ria mép. Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng. Ở cách xa nhà vợ chồng Bình chừng hai mươi phút lái xe.
– Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng cháu nói bọn nó nghe.
– Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trưóc khi gặp vợ chồng Bình. Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử sao cho thích hợp.

Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á châu.
– Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.

Ông bảo người con gái đứng trong quày mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự :
– Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè, Nó hết lòng lo lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quần. Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì Bác mà gây nên cớ sự. Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào. Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó. Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống, chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết. Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai Bác gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.

Tôi đưa tay xin ngưng lời bác.
– Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác ?
– Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với Mỵ Khê sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi “mu” qua Hawaii. Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ không buồn. Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè. Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.
– Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác ?
– Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư. Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì trong đó. Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ bác.
Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.
Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó. Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.

Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi. Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự thâu đêm. Tôi chưa biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự.
– Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới này. Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người. Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng.
Mong nó trở về đây. Cháu Lina, con gái của tao cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống
– Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao ?
– Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.
– Bây giờ mày tính sao ? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày ?
– Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.
– Còn mày thì sao ?
– Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Nauy ở với mày là phúc cho tao. Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu không được thì tao lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu Lina, cho dù trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.

Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những dông tố trong đời. Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy dài trên má. Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ hello, mà nó đã thường xài từ lúc còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.

Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì. Riêng tôi đang hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.

Sáng nay, chủ nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo. Bốc ống nghe chưa kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu giây giọng nói quen thuộc của thằng Định :
– Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.

Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình :
– Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ chồng thằng Định đây. Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận. Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của nguời cùng huyết thống, nên tao theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu. Bác sĩ bên này giỏi thật.

Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi. Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn có nhiều thời gian để tâm tình với cha của nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi tao cho vui.

Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà :
– Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối. Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen vào :
– Hello, Ninh ! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.

Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.

Một Thoáng Pleiku

Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa – thực sự vĩnh viễn xa – Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.

Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.

Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiết) và đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt – Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.
Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ Tư Lệnh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.
Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu hùng”. Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân phong quân kỷ?) như ai.

Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.

Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.

Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.

Do cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân, để “may mà có em đời con dễ thương!”

Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13/3/75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh. Một nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.

Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề… mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)

Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ – nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.

Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng:

Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ Pleiku:

Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….
Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.

Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Đỗ Bê … những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả – có lẽ cũng như tôi – chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.
Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố Núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó”:

Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền

Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”

Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!
Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.

Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.
Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku.

Phạm Tín An Ninh

Phạm Thiên Thư

Phạm Thiên Thư

Biếc Phố

Lắng nghe từng sợi mưa dài
Cơn mây xõa tóc bên ngoài hè xanh
Hạt nào biếc phố long lanh
Hạt nào cẩn ngọc trên nhành tay hương.
Lắng nghe ủ rũ con đường
Mùa thu lấp ló trên tường rêu hoang
Lắng nghe đôi ngọn lá vàng
Xạc xào như tiếng thời gian thở dài
Lắng nghe đôi cánh mày ai
Dường như đậm nét cảm hoài bâng khuâng
Lắng nghe hồn nhẹ lâng lâng
Cảm ơn! Từng sợi tóc bồng bềnh mưa .

Chim Quyên
Từ Độ Bỏ Thôn Đoài

Chim quyên từ độ bỏ thôn Đoài
Quyên chẳng buồn thảm thiết gọi ai
Về núi Nam gặp cành hoa trắng
Quặn đau lòng ngó phiến tâm mai

Đồi Cù

Thả gót giầy lãng đãng bên hồ
Trên đồi Cù thông rụng lá khô
Cơn sương trắng lùa ta mải miết
Xuống ven bờ phi hữu phi vô

Đan Áo

Em ngồi đan chiếc áo len xanh
Hẹn gió thu về gửi tặng anh
Rồi bỏ đó em vào thiên cổ
Anh một đời ngóng áo thiên thanh.

Phơi Áo

Xưa em phơi áo giữa thu phong
Lá vàng cài trên lụa rực hồng
Nay áo đã cuốn về thiên cổ
Lá vàng bay lạnh nỗi niềm không.

Phạm Thiên Thư

1 2 3 4 18