Dương Thượng Trúc

Dương Thương Trúc
Tiễn Bạn

Anh nằm xuống giữa mùa đông lạnh giá.
Kiếp phù sinh thôi dứt trả nợ trần
Cũng chẳng còn vương vấn chuyện thế nhân
Xuôi hai tay đi vào lòng đất lạnh

Tuổi thanh xuân ôm một trời kiêu hãnh
Nung chí trai đền đáp nghĩa non sông
Ngang dọc khắp nơi thỏa chí tang bồng
Đem tình thương treo trên đầu mũi súng

Giầy saut anh đi đá mềm chân cứng
Cao nguyên xa xôi đến tận đồng bằng
Đêm di hành truy kích địch dưới trăng
Vang khúc quân ca Biệt Động Quân Sát

Thế mà nay cũng vàng phai ngọc nát
Đời biển dâu sự thể ấy lẽ thường
Đêm thật buồn, xin thắp nén trầm hương.
Tiễn anh đi về phương trời miên viễn.

Có Một Mùa Xuân Ngọt

Nhớ về Phố núi Pleiku,
Mưa rơi rả rích, sương mù giăng giăng.

1.
Reng …Reng …Reng.
Tiếng chuông điện thoại reo vang, khiến Vũ choàng tỉnh ra khỏi giấc mơ thật đẹp.
Một giấc mơ mà anh không bao giờ muốn chấm dứt.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Chẳng biết tại sao hình ảnh của cô Hoa độ này hay xuất hiện trong giấc ngủ của anh.
Dẫu không có dịp gặp gỡ nhau thường, kể từ cái lần cô đã cấp cứu anh bằng phương pháp hô hấp nhân tạo.
Nét mặt thơ ngây, cái má bàu phinh phính và đôi mắt, đôi mắt đen lay láy cứ chập chờn trong những cơn mộng không tròn như sáng nay khiến anh tự hỏi:
-“Hay mình phải lòng cô ấy rồi? Đúng là vớ vẩn.”
Nhưng hình như có một tình cảm êm đềm đang lớn dần giữa hai người.
Reng …Reng…Reng…
Tiếng chuông điện thoại như thúc hối, giục giã!
Vũ tung cái mền nhà binh sang một bên, lồm cồm ngồi dậy.
Ánh nắng luồn qua khe cửa nhỏ làm thành nhiều vệt sáng lung linh dưới thềm xi măng khiến anh biết cũng đã khá muộn rồi. Với tay cầm cái điện thoại dã chiến đặt cạnh giường, anh lên tiếng:
-A lô! Vũ nghe đây.
-Chào buổi sáng Trung úy! Tiếng Nam, người Hạ sĩ quan quân số đại đội reo vui trong máy.
-Chào! Gọi chi sớm vậy Nam? Hôm nay đâu có chào cờ phải không?
-Dạ không có chào cờ bữa nay. Nhưng Trung úy cần qua gấp có khách đang chờ.
-Khách quen hay lạ?
-Ngoại trừ thời gian gần đây, có cô Hoa thỉnh thoảng vào hỏi thăm ông, còn lại là mấy cha đệ tử lưu linh thôi! Chứ ông có bạn bè chi nữa đâu mà quen với lạ.
-Khách đàn ông hay đàn bà?
-Không phải đàn ông, cũng chẳng phải đàn bà.
-Mày giỡn mặt tao hả Nam? Không đàn ông, cũng chẳng đàn bà, vậy “lại cái” à?
-Em đâu dám giỡn mặt ông thày. Cũng không phải “lại cái” nữa.
-Nói mẹ nó ra đi! Ỡm ờ mãi. Không ông, không bà, không lại cái, vậy chứ là giống gì?
-Dạ giống cái, con gái! Tiếng Nam cười khúc khích trong máy.
-Thiệt không vậy mày?
-Em nói thiệt mà! Cổ đến đây chờ ông thày từ lúc 8 giờ rưỡi lận.
Vũ nhìn đồng hồ đeo tay, đã hơn mười giờ rồi.
-Tại sao giờ này mày mới gọi tao?
-Cổ hổng cho kêu Ông thày.
-Cô ấy tên là gì vậy?
-Không cho biết tên.
-Tuổi tác chừng bao nhiêu?
-Chắc đang tuổi cặp kê.
-Thằng này nhiều chuyện. Được rồi, tao sang ngay. À! Thằng Phúi có để xe bên này không?
-Nó mới lau chùi và lái qua bển rồi. Chắc đang đậu trước cửa chờ ông đó!
Vũ vừa làm vệ sinh cá nhân vừa mỉm cười khi nghĩ về người Hạ sĩ quan quân số.
Nam sinh trưởng ở miền tây, thuộc tuýp người thông minh lanh lợi. Trạng tuổi Vũ, chỉ nhỏ hơn vài tháng, có học, nhưng vì:
Rớt Tú Tài, anh đi Trung Sĩ…*
Tuy thế, Nam vẫn không nãn lòng, tiếp tục học hàm thụ, cho đến xong Trung học và hiện nay đã bắt đầu học năm thứ ba Luật khoa.
Cũng chính anh ta đã khuyến khích Vũ ghi danh học lại ở Văn khoa.
Nam làm việc ở văn phòng nên có nhiều thời gian hơn.
Vũ thì phải hành quân liên miên, nên vẫn cứ lẹt đẹt mãi ở năm thứ nhất.
Trong chỗ thân tình hai người coi nhau như anh em.
Đôi lần Vũ khuyên Nam nộp bằng cấp đi học Sĩ quan, nhưng anh ta nói để lấy xong Cử nhân rồi đi luôn…

2.
Vũ xô cửa bưóc ra, sau khi đã quấn thêm cái khăn quàng màu tím lên cổ.
Cơn gió Mùa Xuân mang hơi lạnh của vùng cao nguyên đất đỏ ùa đến khiến anh rùng mình.
Phúi, chú tài xế ngườiTàu lai lái xe đại đội, mà Vũ rất thương mến coi như đứa em, bước vội xuống xe đứng nghiêm chào anh và nói :
-Chào Trung úy! Ông khỏe hông?
-Chào A Phúi, cám ơn tôi khỏe. Thế nào, đêm qua thắng hay bại?
-Em có chơi gì đâu ông thày.
-Xì! Mày mà không chơi thì mấy sòng xóc dĩa ở ngoài khu gia binh dẹp tiệm hết rồi.
-Dạ! Ông Tiểu Đoàn Trưởng ra lịnh năm nay hổng cho cờ bạc trong trại gia binh…
-Điều này thì tao biết, như vậy chắc mày đi đá gà, phải không?
Phúi nín khe, vì bị bắt ngay tẩy.
Đoạn đường từ Khu cư xá sang đến Bộ chỉ huy Tiểu đoàn chỉ khoảng gần hai trăm thước.
Hai bên đường trồng đầy những cụm mai rừng, đã già.
Đang độ vào Xuân, nên hoa nở vàng rực khắp nơí, phơi mình trong nắng Xuân ấm áp. Khiến cho Vũ có cái cảm giác thật an bình, thanh thản.
Người lính gác đứng nghiêm chào, sau khi mở cổng cho xe qua.
Tiểu đoàn tọa lạc trên một ngọn đồi thấp nhìn ra cánh đồng trà mênh mông bát ngát.
Những ngày làm việc, đứng trong sân nhìn qua lớp hàng rào phòng thủ có thể thấy rõ ràng các cô gái hái trà, với cái gùi nhỏ trên vai, thoăn thoắt bước chân theo những luống nhỏ.
Nón lá trắng nhấp nhô như những cánh bướm chập chờn giữa màu xanh thăm thẳm.
Trông đẹp như một bức tranh vẽ.
Không khí thật êm ả, thanh bình.
Có ba lối vào Tiểu đoàn

Cổng chính ở hướng Đông – Cổng phụ hướng Nam đi qua Khu cư xá – Cổng phía Tây đi ra bãi đáp trực thăng và khu gia binh.
Toàn khu doanh trại sắp xếp theo hình chữ U – Bốn đại đội nằm theo hai cạnh còn bộ chỉ huy nằm cạnh đáy, nhìn ra cổng chính.
Phía sau văn phòng làm việc của các đại đội là phòng ngủ binh sĩ.
Xe vào đến sân Tiểu Đòan.
Vắng lặng. Chỉ có vài nhân viên hành chánh làm việc, và một trung đội trực gác cổng, còn tất cả đều được cho về khu gia binh ăn tết với gia đình.
Hôm nay là Ba mươi tết mà.
Thấm thoát thế mà anh đã đón mấy cái tết ở vùng cao nguyên Pleiku đất đỏ, sương mù này rồi.
Nhưng đây là lần đầu tiên anh được đón Xuân ở hậu cứ.
Có những cái tết phải nằm giữa rừng sâu, núi thẳm.
Có những cái tết ở tận vùng biên giới xa xôi…

Anh nhớ lại những đêm ba mươi, giữa rừng già cô quạnh, cùng anh em binh sĩ đón Xuân, chuyền tay nhau mẩu thuốc, chờ giao thừa, mà đôi khi cũng chờ tiếng pháo của địch tấn công:
… Có những mùa xuân giữa chiến trường,
Mai vàng hé nhụy, đón hơi sương.
Chia nhau mẩu thuốc, chuyền hơi ấm.
Nhắc những chuyện tình, chốn hậu phương…**

Đối với anh, tết ở đâu cũng giống nhau mà thôi…
Khi quê hương còn mịt mờ lửa đạn, thì trách nhiệm còn đè nặng trên đôi vai người lính. Các anh vẫn phải đi.
Và mùa Xuân cũng vẫn là những mùa Xuân xa nhà, những mùa xuân không trọn vẹn…
Qua khỏi sân tiểu đoàn, anh đã nhìn thấy bóng một cô gái mảnh khảnh, đang đứng tựa lưng vào gốc cây thông bên hông văn phòng đại đội, nhìn xa xăm về hướng đồn điền trà, trải ngút ngàn đến tận chân trời.
Tiết trời mùa Xuân lành lạnh dường như làm cho ngọn đồi trà xanh thêm.
Cái áo dài màu trắng của cô nổi bật giữa những cụm mai vàng trồng chung quanh hàng rào phòng thủ.
Với chiếc áo len xanh khoác hờ hững trên vai, trông cô mong manh và ẻo lả như sương khói.
Xe vừa dùng lại trước cửa văn phòng đại đội, Vũ nhảy xuống, bước đến bên cô gái, anh gọi khẽ:
-Thưa cô!
Thật bất ngờ, cô gái quay người lại, ôm chầm lấy anh nước mắt lưng tròng.
Vũ vô cùng bối rối vì chưa nhận ra cô là ai.
Cũng may Tiểu Đoàn hôm nay vắng vẻ, nếu không anh thật chẳng biết giải thích ra sao về chuyện này.
-Xin lỗi cô, hình như tôi chưa được hân hạnh biết cô!
-Anh đã quên em thật rồi à! Anh Vũ – Cô gái nói trong tiếng nấc nghẹn ngào – Em là Lan đây thôi. Em đắn đo lắm mới dám đến đây tìm anh. Vì em nghĩ có thể anh chẳng còn nhớ đến em đâu…
Nghe giọng nói, anh chợt nhớ đến một người:
-Lan ở Bồng Sơn phải không? Anh nhớ ra rồi. Xin lỗi, em thay đổi nhiều quá, nên anh ngờ ngợ. Cuộc sống của em độ này thế nào rồi? Mà thôi vào trong văn phòng chúng ta nói chuyện, ngoài này gió hơi lạnh đó.
Cô gái ngoan ngoãn bước theo anh.
Trong văn phòng, ngoài bàn làm việc, còn có một bộ sa lông đóng bằng gỗ thùng đạn pháo binh, kê nơi góc dùng để tiếp khách.
Nam lăng xăng lo đi rót nước, sau đó anh ta nháy mắt với Vũ, nói:
-Em đi qua bên Liên Đoàn có chút việc, cần gì Trung úy cứ gọi nhe!
Vũ trừng mắt ngó Nam và nói:
-Nam hãy ở lại đây để tôi giới thiệu cho hai người biết nhau.
Anh giữ Nam lại để tránh tiếng thị phi sau này, hơn nữa anh lại mới nảy ra một ý tưởng rất ngộ nghĩnh.
Nam bước đến bên ghế ngồi ghé xuống, Vũ nói:
-Đây là cô Lan tôi có dịp gặp năm ngoái, khi đơn vị mình hành quân ở Bồng Sơn – còn đây là anh Nam Trưởng ban quân số Đại đội – Một người đàn giỏi, hát hay và chăm học nữa – Lại độc thân vui tính.
-Trung úy nói quá rồi!
Hai người gật đầu chào nhau!
Cô gái có vẻ bớt nỗi xúc động.
-Nào nói cho anh nghe đi! Chuyện gi đã xảy ra với em? Và nguyên nhân nào khiến em đến đây tìm anh?
Vũ nhỏ nhẹ hỏi, sau khi đã kín đáo quan sát Lan. Cô thay đổi quá nhiều, mới hơn một năm, mà Lan chừng như là một con người khác hẳn. Già dặn và khắc khổ hơn nhiều.
-Chắc anh còn nhớ mình gặp nhau trong trường hợp nào phải không?
-Nhớ chứ làm sao quên được, lần ấy em làm anh lo muốn chết.
-Anh lo chuyện gì?
-Em thừa biết đó là khu vực quân sự, anh lại tự tiện đưa em vào, bảo sao chẳng lo!
Cô gái trầm ngâm, mắt thoáng nét xa vắng, tay xoay xoay ly trà nóng, có lẽ để tâm trí trở lại với chút kỷ niệm ngọt ngào – có thể chỉ là riêng với cô – của những ngày tháng cũ.
Vũ cũng ngồi im lặng, mặc cho giòng chảy của thời gian ngược về quá khứ.

3.
Sau hơn hai tháng trời miệt mài hành quân từ Bồng Sơn lên đến tận Tam Quan cũ.
Với biết bao chiến công và tổn thất, bao chiến lợi phẩm và mất mát.
Đơn vị lui về đóng tại khu vực Tam Quan mới.
Nơi đây có một quận đường, với những dãy nhà xây cất kiên cố, dọc theo hai bên trục lộ, chứng tỏ một thời hưng thịnh.
Nhưng, nay chỉ còn là những đống gạch vụn đổ nát, hoang tàn. Có những nhà còn trơ lại giàn khung xi măng cốt sắt, trông giống bộ xương người trong bài học cách trí mà anh được học lúc còn cắp sách đến trường.
Đại đội anh đóng cuối dẫy phố, bộ chỉ huy đặt tại một căn nhà hai tầng, cũng chỉ còn trơ lại những bức tường vôi cháy xám đen, dấu tích của đạn bom.
Đây là thời gian cho đơn vị nghỉ ngơi, dưỡng sức.
Sáng phái hai trung đội đi lục soát mở đường an ninh trục lộ. Chiều kéo về, nằm khểnh trên cái võng căng dưới những tàn dừa cháy xém.
Tối lại cho mấy Tiểu Đội đi phục kích đêm, chờ đón những con chuột mò về ăn mãnh.

Năm gần căn cứ pháo binh, nên không thiếu thốn món gì, từ nước đá, bia rượu, đến thuốc lá, đều được các xe chở đạn pháo binh đem lên tiếp tế, với điều kiện: Tiền trao, cháo múc…
Đơn vị được tưởng thưởng một số huy chương, qua những tháng ngày gian lao nguy hiểm.
Anh là trưởng đoàn, hướng dẫn gần hai mươi anh em thuộc cả ba Tiểu Đoàn 11, 22 và 23 Biệt Động Quân về nhận lãnh tại Trường Tiểu Học Bồng Sơn.
Phái đoàn đi trên 4 chiếc xe jeep.
Suốt buổi sáng tập dượt nghi lễ, để đón tiếp Tư Lệnh Quân Đoàn Khiến anh em mệt bở hơi tai dưới cái nắng gay gắt của mùa hạ.
Những người lính trận chỉ quen với đánh đấm súng đạn, quen say sưa chửi thề, nay phải vào khuôn phép, đi đứng theo nhịp đếm một hai ba bốn… nên thật vất vả cho vị sĩ quan nghi lễ.
Nhưng đã là lính thì chuyện gì chẳng làm được, nên rồi buổi lễ cũng hoàn tất tốt đẹp.
Mọi người thở phào nhẹ nhõm sau khi tiễn vị Tư lịnh lên trực thăng trở về Pleiku.
Một số anh em đề nghị:
-Bên kia cầu có một tiệm ăn, mình qua đó kiếm cái gì lót bụng rồi hãy về, Trung úy!
Nhìn đồng hồ thấy mới hơn hai giờ chiều, Vũ bằng lòng theo anh em đến tiệm ăn bên kia cầu.
Đó là một căn nhà lầu hai tầng, cũng phần nào ảnh hưởng của chiến tranh, nhưng vẫn còn xử dụng được. Với tất cả trang bị đơn sơ vá víu, nhưng thực phẩm thì không đến nỗi nào…
Mấy tháng trời nay, mới được ăn một tô hủ tiếu nóng hổi, ai cũng xuýt xoa, dù anh Ba tàu lai này nấu không xuất sắc lắm.
Tiệm ăn này dường như chỉ dành cho những người lính lỡ đường, chứ chẳng thấy bóng dáng người dân nào.
Mọi người vừa xì xụp húp, vừa trao đổi ồn ào đủ thứ chuyện trên đời. Lính mà.
Bổng dưng…
Cả cái quán ăn chật hẹp đang râm ran tiếng cười nói chợt im bặt, Vũ ngồi ở cái bàn cuối cùng, lại quay mặt vào trong nên không biết chuyện gì xảy ra.
Có nhiều tiếng xì xào nổi lên, anh nghe một người nói:
-Ông trưởng đoàn ngồi trong góc kìa, muốn gì cô lại nói với ổng!
Anh chưa kịp quay lại thì nghe có tiếng thỏ thẻ của một người con gái, giọng nói miền Bắc pha Bình Định:
-Thưa ông!
Vũ ngẩng vội lên hỏi:
-Cô cần gì?
-Tôi muốn được quá giang về lại nhà cũ.
Lúc bấy giờ Vũ mới có cơ hội quan sát người đối diện-
Đó là một người con gái trẻ, đẹp, có vẻ lanh lợi – khoảng chừng mười tám, đôi mươi, mái tóc để dài, buông xỏa xuống bờ vai thon, như một cô nữ sinh trung học – Nhưng gương mặt buồn, buồn thê thảm- nhất là đôi mắt, lúc nào cũng như long lanh ngấn lệ khiến người đối diện phải não lòng, không dám nhìn thẳng vào đó, và có điểm đặc biệt hơn nữa, trang phục của cô là màu đen tuyền, một màu đen tang tóc – dù cái cái áo bà ba may rất khéo, ôm sát thân hình thanh tú của cô. Một miếng vải màu trắng to bằng ba ngón tay được gài ngay giữa ngực áo cho biết cô đang có tang chế.
Cô gái nói nhỏ nhẹ như tiếng thì thầm:
-Thưa ông! Hôm nay là một trăm ngày của gia đình tôi, xin ông cho phép tôi theo xe các ông về Tam Quan để thắp cho họ một nén hương được không ạ?
Vũ để ý thấy cô ta xách theo môt cái túi nhỏ, lòi lên mấy bó nhang.
Cô năn nỉ tiếp khi thấy Vũ im lặng, và có lẽ sau khi đã thẩm định tuổi tác của Vũ, cô đột ngột thay đổi cách xưng hô:
-Làm ơn đi mà… anh… Em chờ ở đây từ sáng đến giờ. Không ai cho đi nhờ hết.
Giọng cô buồn ảo não:
-Trên đó là khu vực quân sự, dân chúng chưa được vào đâu cô ạ! Vũ nhã nhặn trả lời.
-Em thấy mấy xe lớn có chở phụ nữ trên đó mờ!
-Nhưng đó là vợ con binh sĩ.
-Thì anh cứ nhận em là vợ anh đi.
Cả cái quán chợt ồn ào lên như vỡ chợ, nhìều tiếng cười nói, la ó vang lên.Tiếng đập tay xuống bàn, tiếng huýt gió inh ỏi.
Một tay nào đó la lớn:
-Nhận đại đi ông thày! Cô em đẹp quá trời mà!
-Trung úy tui còn độc thân đó cô ơi!
Vũ vô cùng lính quýnh trước sự táo bạo của cô gái.
Anh gượng gạo chống đỡ:
-Không đi được là không đi được mà.
-Có cấm đâu, mà không đi được…
-Thì không cấm, nhưng trên đó còn nguy hiểm lắm, nên chưa cho dân chúng hồi cư…
-Em đâu có hồi cư, em chỉ lên đó thắp cho gia đình em vài nén hương rồi em về thôi mà!
-Sao lại gia đình?
Cô sửa lại thế đứng, một tay vịn vào cạnh bàn, dường như cô sợ rằng khi nhắc lại những chuyện thương tâm thì cô sẽ ngã quỵ xuống. Giọng cô xa vắng:
-Em ở cách văn phòng quận không xa, nên ngay đêm đầu tiên, khi họ pháo kích vào, nhà em bị một trái đại bác. Gia đình em có sáu người, nay chỉ còn có mình em. Ba em, chị em, và hai đứa em của em chết ngay tại chỗ, mẹ em bị vết thương trên đầu hiện nay còn mê man ở bịnh viện Quy Nhơn.
Cô gái nói trong nước mắt.
Mọi người chợt như hóa đá.
Tất cả đều im lặng.
Im lặng đến rợn người.
Dường như người ta nghe được cả tiếng vo ve của các chú ruồi đói đang bay vần vũ trên những tô hủ tiếu dở dang, mà không ai còn muốn đụng đũa nữa.
Một nghịch cảnh khủng khiếp như thế. Ngay đến những người cứng cõi nhất cũng có thể sụm xuống, huống chi là một cô gái chân yếu tay mềm
Nỗi xúc động làm mọi người thốt không nên lời.
Không gian như chết lặng.
Thời gian cũng ngừng trôi.
Sự im lặng kéo dài không biết bao lâu.
Vũ trấn tỉnh trước.
Anh lướt thoáng qua khuôn mặt đầm đìa nước mắt của cô gái, và chăm chú nhìn vào cái giỏ sách của cô.
-Không có gì trong đây đâu anh.
Cô gái thật thông minh, đã hiểu được ý anh, cô trút tất cả vật dụng xuống nền đất. Chỉ có hai bó nhang, nải chuối cau nhăn nhúm, nắm giấy tiền vàng mã, và một tấm bìa cứng trên đó thây ghi tên bốn người, giống như tấm bài vị.
Cô lôi ra tấm thẻ căn cước trao cho anh, Vũ đọc lướt qua:
Trần Thị Ngọc Lan sinh năm 1954.
Sinh Quán Phủ Lý – Nam Định.
Trú quán Tam Quan – Bình Định.
-Cô người miền Bắc à? Anh hỏi
-Vâng! Em mới sinh thì cha mẹ bồng em lên tàu há mồm, di cư vào Nam.
Anh chuyển tia nhìn lướt qua người cô rất nhanh, rồi quay đi chỗ khác. Cô giũ tung vạt áo lên và nói:
-Nếu không tin, anh có thể khám xét em mà.
Mọi người cười ồ lên, phá tan cái không khí nặng nề đến ngột ngạt.
Một lần nữa Vũ ngồi như trời trồng. Mặt đỏ rần lên tựa vừa uống xong một cốc rượu mạnh.
Để tránh tình trạng bối rối, anh đưa tay lên xem đồng hồ, rồi nói to:
-Anh em chuẩn bị về nghe, gần bốn giờ rồi. Trễ quá họ rút đường hết là mệt lắm đó.
Mọi người lục đục ra xe.
Cô gái lẽo đẽo theo sau lưng Vũ.
Anh bảo tài xế ra ngồi phía sau, nhường tay lái cho anh.
-Lên đó, tôi bỏ cô xuống gần nhà, rồi cô tự tìm xe về dưới này nhé!
-Dạ! Cám ơn anh.
Cô trả lời nhẹ như hơi thở.

4.
Đoạn đường từ cầu Bồng Sơn về đến vị trí đóng quân của đơn vị cũng khá xa.
Hai bên đường các anh em thuộc Sư Đoàn 22 bộ binh nằm giữ an ninh, vẫn còn đó.
Xe vùn vụt lao đi, qua những ngôi làng những thôn xóm xác xơ, chỉ còn trơ đống gạch vụn hay cột kèo cháy xém.
Những vườn dừa mênh mông với thân cây chỉ còn những khúc ngắn ngủn, khiến mọi người thấy xót xa cho người dân hiền lành vô tội, chỉ qua một đêm, bao nhiêu mất mát đau thương đã đến với họ. Của cải tài sải ky cóp tích lũy bao đời, chỉ thoáng chốc trở thành tro bụi. Ngay cả con người cũng khó bảo toàn sinh mệnh.
Ôi! Chiến tranh, ai gây ra thảm cảnh này?
Về gần đến vùng trách nhiệm của Tiểu đoàn, mà vẫn chưa đến nhà cô gái, anh tỏ vẻ âu lo:
-Nhà cô ở tận đâu vậy?
-Dạ ngay gần Quận ấy mà!
Đã vào đến vùng đóng quân của Liên Đoàn.
Các xe khác lần lượt tách về đơn vị họ, anh liên lạc với bộ chỉ huy cho biết đã hoàn tất nhiệm vụ và trở về đến nơi.
Còn cách căn nhà mà đại đội anh đóng không xa, cô gái nói to:
-Nhà em đó!
Vũ rẽ xe vào sân.
Anh tự hỏi sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ như thế này.
Định mệnh nào run rủi, anh lại đóng quân ngay tại căn nhà hai tầng lầu bỏ hoang của cô gái khốn khổ này.
Cô bước vội xuống xe, một số anh em xúm lại.
Họ đến thăm hỏi anh thì ít. Mà xem mặt cô gái thì nhiều.
Lan nhìn anh vẻ dò hỏi:
-Cô muốn vào nhà thì cứ tự nhiên, nhưng đừng đi ra ngoài quá xa.
Ngọc Lan bước vào nhà, nước mắt chảy dài.
Gọi là nhà, chứ thật ra mọi thứ đã bị hủy diệt hết rồi.
Chỉ còn lại cái khung với những bức tường xi măng mang đầy dấu đạn.
Cô dẫn anh đi chỉ từng chỗ:
-Nơi này ba em đã chết, và mẹ em bị thương. Trên lầu thì một người chị và hai đứa em đã ra đi.
Cô vừa nói vừa khóc. Tiếng khóc nghẹn ngào khiến lòng Vũ cảm thấy hết sức bất nhẫn, thương cảm cho cô và cho thân phận những người dân hiền lành vô tội.
Sau khi đi hết các nơi trong nhà, cô xuống tầng dưới, dẫn anh ra khu phía vườn sau, đến bên một ụ đất thấp, nói:
-Ba em, chị em và hai đứa em của em nằm đây, nhờ mấy anh lính Sư Đoàn chôn vội họ, trước khi di tản em xuống Bồng Sơn cùng với mẹ em.
Lan vừa khóc sụt sùi vừa lôi mọi thứ từ trong cái túi nhỏ ra, bày biện trên một tờ báo cũ: nào chuối, nào giấy tiền vàng mã và tấm bài vị, xong cô đánh diêm đốt nhang và quỳ sụp xuống.
Tiếng khóc của cô vỡ òa giữa cảnh điêu tàn đổ nát, trong bóng chiều hoang lạnh khiến mọi người không ngăn được xúc động.
Cô rên rỉ:
-Bố ơi! Chị Mai ơi! Tuấn, Tú ơi! Sao các người nỡ bỏ con mà đi như thế?
Và rồi nằm phục bên nấm mồ, như một thân cây bị chặt ngang.
Dường như tất cả đã vượt quá sức chịu đựng của cô rồi.
Vũ thấy lòng xót xa vô ngần.

Anh nghe mằn mặn nơi đầu môi. Nhưng vẫn để cho cô tiếp tục khóc, mong có thể vơi bớt nỗi thương đau.
Khi bóng chiều đã ngã sang màu tím thẫm, tiếng khóc của Lan cũng nhỏ dần.
Anh bước đến dìu cô đứng dậy, nói:
-Thôi đi vào nhà đi Lan, ở đây sương xuống sẽ nhuốm bệnh đó.
Cô như một kẻ không hồn, mặc cho Vũ dìu đến bên chỗ nằm của anh. Đó là một khoảng trống ngay dưới chân cầu thang, kê bằng mấy cái thùng đạn pháo binh và trải lên bởi một tấm Pon cho.
Thái, âm thoại viên đại đội bước đến bên anh, nói khẽ:
-Tiểu đoàn trưởng muốn gặp Trung úy.
Vũ biết có chuyện không ổn rồi.
Anh bước đến cầm ống nghe:
– Victor tôi nghe đây Đại Bàng!
-Mày chở gái vào vị trí đóng quân hả Victor? – Tiếng ông Tiểu Đoàn Trưởng già vang lên trong máy.
-Đâu có Đại Bàng – Anh hạ thấp giọng – Hoàn cảnh của cô ấy đáng thương lắm Đại Bàng ơi!
-Coi chừng bị lợi dụng thì chết cả nút – Ban hai Liên Đoàn muốn mày đưa cô ấy lên cho họ gặp đó.
-Tôi coi chừng cô ấy được mà.
-Mày biết là chỉ có thân nhân mới được vào vị trí đóng quân…
-Thì cứ coi như cô ấy là vợ tôi đi.
-Mày bảo đảm không?
-Chắc ăn như bắp – Đại Bàng yên tâm đi – Tôi chịu trách nhiệm cho.
-Tao tin mày.
-Cám ơn Đại Bàng! Chúc Ông ngon giấc.
Vũ thở phào nhẹ nhõm, nhưng anh biết rằng đêm nay sẽ là một đêm không ngủ.

5.
-Anh Vũ nè! Hình như hôm đó anh thức trắng đêm thì phải?
Tiếng Lan vang lên, lôi anh về thực tại.
-Đúng thế!
-Tại sao vậy?
-Để canh chừng em chứ tại sao.
-Canh chừng cái gì? Anh sợ em là đặc công Việt Cộng à?
-Không hẳn như vậy, nhưng anh không muốn có một bất trắc gì xảy ra trong đêm hôm ấy.
-Anh đã nhận em là vợ anh rồi mà!
-Sao em biết điều đó?
-Lúc anh nói chuyện em nghe được cả – dù rằng anh đã cố nói nhỏ giọng xuống.
-Xin lỗi em! Anh nói thế để em không bị đưa lên ban hai Liên Đoàn – Ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng cũng thừa biết là anh nói dối-vì anh có vợ hay không ổng biết rất rõ – nhưng vì tin anh nên ổng cũng bỏ qua – Anh không muốn làm mất lòng tin nơi thượng cấp. Đúng là một đêm thức trắng. Thật ra, thấy hoàn cảnh của em như thế, anh rất cảm thông và coi em như một như người em gái mà thôi.
Bây giờ em hãy cho anh biết tình hình sức khỏe mẹ em ra sao?
-Cám ơn anh! Mẹ em mất rồi – Lan chùng giọng xuống, dường như cô không còn nước mắt để khóc nữa – Sau khi lo hậu sự cho mẹ xong, em đến đây tìm anh ngay – Vì trên đời này, em không còn bất cứ một người thân thuộc nào cả. Như em đã nói với anh trong cái đêm ở căn nhà cũ, năm ấy – em đang học lớp đệ nhị ở Quy Nhơn- về thăm nhà và gặp thảm cảnh tang thương như thế đó. Em biết anh là một người tốt, nên đánh liều lên đây tìm anh, mong anh có thể giúp đỡ em vượt qua giai đoạn vô cùng nghiệt ngã này…
Vũ ngồi im lặng, trầm ngâm suy nghĩ…
Có tiếng xe Hon Da dừng lại trưóc văn phòng.
Hoa bước vào, rực rỡ và tươi mát, cô mặc một cái áo dài màu Hoàng Yến, khoác bên ngoài chiếc áo len màu tím sẫm làm nổi bật nước da trắng ngần.
Cô chợt chựng lại khi nhìn thấy Lan và Nam, nhưng không thấy Vũ, vì anh ngồi khuất trong góc. Cô lên tiếng:
-Xin lỗi anh Nam nhé! Tôi không biết anh đang có khách.
Nói xong cô toan lui bưóc, Nam vội nói:
-Hổng phải khách của tui đâu chị Hoa.
Lúc ấy Vũ mới lên tiếng:
-Em vào đây ngồi chơi đã Hoa! Anh giới thiệu cho hai người quen biết nhau.
Hoa bước hẳn vào trong phòng, ngồi xuống chỗ trống bên cạnh Lan, hai người gật đầu chào nhau.
Vũ vắn tắt kể cho Hoa nghe về cuộc đời của Lan – Từ lúc tình cờ anh gặp cô cho đến nay.
Nét mặt Hoa thay đổi theo từng chi tiết của câu chuyện.
Đến khi nghe mẹ Lan cũng vừa mất thì Hoa đã không còn ngăn đuợc nước mắt. Cô xoay sang cầm tay Lan, vỗ nhè nhẹ như an ủi.
Lan cảm nhận được tấm chân tình Hoa dành cho mình.
-Thế bây giờ Lan tính sao? Hoa thân mật hỏi.
-Em cũng chưa biết nữa chị ạ!
-Nhà tôi ở trong trại gia binh khá rộng rãi, còn một phòng trống của ông anh tôi, đã tử trận cách đây hai năm. Nếu Lan không e ngại, tôi về thưa chuyện với ba má tôi dành cái phòng đó cho Lan.
-Em cám ơn chị nhiều lắm!
-Bệnh xá chỗ tôi đang làm việc cũng đang cần một nhân viên hành chánh. Để sau tết tôi hỏi chỗ ấy cho Lan.
-Trời ơi! Nếu được như thế thì may cho em quá!
-Ba má tôi đang chuẩn bị cúng đón ông bà, mời mọi người ra dùng cơm luôn!
Vũ thở phào nhẹ nhõm, Hoa đã giúp anh giải quyết một vấn đề hết sức nan giải và tế nhị. Anh còn độc thân, đâu có lý do nào dể cho Lan ở trong cư xá Sĩ Quan. Mà thuê nhà cho cô ở bên ngoài thì tránh sao khỏi những lời dị nghị đàm tiếu.
Cũng không thể bỏ cô bơ vơ trong hoàn cảnh như thế này.
Anh nhìn Hoa bằng ánh mắt trìu mến và cảm kích, khiến cô phải đánh trống lãng:
-Mau mau lên để Ba má chờ lâu, bị la đó!
Mọi người vui vẻ đứng lên. Nam nói:
-Chị Hoa đưa Honda đây tui chạy, để Trung úy chở mọi người cho tiện.
Hoa đưa chìa khóa cho Nam dắt tay Lan ra xe, hai cô tự động leo lên băng sau.
Vũ quay xe ra phía cổng sau của Tiểu Đoàn, hướng về khu trại gia binh.
Qua khỏi bãi đáp Trực thăng không xa, là đã đến những dãy nhà đầu tiên của Trại gia binh. Nhà nào cũng quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp để chuẩn bị đón mừng Xuân mới.
Nhà Thượng sĩ Ba, là thân phụ của Hoa, cũng được sơn phết lại cẩn thận.
Giàn hoa giấy trước nhà đang trổ bông đỏ ối, bên cạnh những cụm mai vàng rực rỡ làm khung cảnh thêm ấm áp, yên bình.
Xe ngừng lại trước nhà, Thượng sĩ Ba mau mắn bước ra, nói:
-Vô nhà mau đi Trung úy! Tất cả sẵn sàng hết rồi. Ủa! Còn ai đây?
Ông hướng mắt nhìn Lan và hỏi. Cô khẽ cúi đầu chào ông.
-Để vào nhà con nói chuyện cho ba nghe! Hoa trả lời.
Trong nhà trang hoàng theo đúng phong tục cổ truyền để đón mừng Xuân:
Cũng bánh chưng xanh. Cũng câu đối đỏ.
Bàn thờ khói hương nghi ngút.
Thức ăn được sắp xếp trịnh trọng trên cái bàn dài kê giữa nhà.
Bà Ba đang đứng khấn vái trước bàn thờ Tổ Tiên.
Đợi bà quay ra, Hoa nói:
-Thưa ba má ! Đây là cô Lan người ở Tam Quan, cả gia đình bị pháo kích chết hết năm 1972. Nay tứ cố vô thân, con đem về đây xin ba má cho cô ấy ở tạm trong căn phòng của anh Hai, ba má nghĩ sao?
Bà Ba bước đến cầm tay Lan, kéo sát vào lòng, nói đầy vẻ thương cảm:
-Trời ơi! Tội nghiệp con gái chưa! Xinh xắn thế này mà bạc phước. Thôi cứ ở đây với hai bác đi, có rau ăn rau có mắm ăn mắm, mình cùng là nạn nhân của chiến tranh cả mà.
Có lẽ cháu nhỏ tuổi hơn con Hoa nhà này đấy nhỉ?
-Dạ cháu vừa tròn hai mươi tuổi ạ!
-Thế thì làm em con Hoa được rồi. Hoa đã hai mươi hai cơ đấy. Cháu chịu làm con nuôi hai bác không? Nhà bác cũng đơn chiếc lắm.
-Con xin đội ơn hai bác và chị Hoa đã cho con tìm lại được tình thân gia đình. Lan sụt sùi cảm động.
-Giờ này mà còn gọi bằng Bác nữa sao? Nam lên tiếng ghẹo Lan.
-Dạ! Dạ! Ba má … Lan lắp bắp.
Ông Ba lên tiếng:
-Thôi mọi người ngồi vào bàn đi, thức ăn nguội hết rồi. Bà vào lấy thêm chén đũa cho con nó. Để tôi bưng hũ rượu nếp than ra đây ăn mừng nhà mình có thêm thành viên mới.
Đợi ông bà đi khuất, Nam lên tiếng:
-Đáng lẽ là em chồng, bây giờ lại trở thành em nuôi!
-Anh nói thế nghĩa là sao?
-Hồi sáng Trung úy nhận cô Lan là em gái. Như vậy đối với chị không là em chồng thì là gì nữa?
Hoa đỏ mặt sung sướng, nhưng cũng nguýt Nam một cái dài sọc, nói:
-Ai bằng lòng lấy ông Vũ nhà anh hồi nào đâu mà em chồng em vợ.
-Thôi không em chồng nữa! Bây giờ thành em nuôi rồi mà! Cô Lan bây giờ không biết là em …gì của anh Vũ há? Nam vẫn chưa tha
-Cái anh Nam này thiệt cắc cớ!
-Ê! Nam, mày “chèo” với tao không. Vũ chen vào, đùa cợt.
-“Trèo” cái gì Trung Úy?
-Thì… “chèo”… đó mà!
-Em không hiểu ông muốn nói gì!
– Cái thằng này! Mày lo học quá đâm đờ đẫn cả người ra! Sắp ra Luật sư rồi, chẳng lẽ tao nói vậy mày không hiểu hay giả vờ không hiểu.
-Em không hiểu thật mà. Hỏi thử chị Hoa và cô Lan xem hai người có biết Trung úy muốn nói gì không?
-Thày trò nhà anh nói chuyện úp mở như thế, ai mà biết được.
Hoa vừa cười vừa nói.
Ông Ba bước ra, lên tiếng giải thích:
-Ý Trung úy nói là ổng “chèo lái “ còn mày “chèo mũi “đó Nam. Vì con Hoa và con Lan nay là hai chị em mà!
Bà Ba cũng vừa sắp thêm chén đũa, vừa phụ họa:
-Được vậy thì vui biết mất phải không các con?
Nam và hai cô gái cùng đỏ mặt vì mắc cỡ.
Riêng Vũ, thấy lòng vô cùng ấm áp với những tình cảm thân thương ông bà đã dành cho anh.
Họ đã khiến anh như đang được sống trong mái ấm gia đình vào những ngày đầu Xuân.
Lan bước đến ôm chầm lấy bà Ba, nói trong tiếng nấc:
-Con ngàn lần cám ơn Ba Má! Ba Má đã cho con có được tình yêu thương và mái ấm gia đinh. Ba Má và chị Hoa, cùng các anh đây đã mang cho con mùa Xuân mà mấy năm nay con không hề có. Một mùa Xuân hết sức ngọt ngào, đầm ấm…
Ngoài kia, tiếng pháo nổ dòn như reo vui, chuẩn bị đón chào một mùa Xuân mới…

*Ca dao dân gian.
** Thơ DTT

[/read]

Bất Chợt Mùa Xuân

Bất chợt mùa Xuân đến lạnh lùng
Như đàn gieo nốt nhạc ngang cung.
Tơ lòng ai khẩy mà rung phím
Vang những thanh âm thật não nùng.

Bất chợt mùa xuân đến hững hờ
Cho sầu thương nhuộm tím hồn thơ.
Mai đào đâu nhỉ! Mà Xuân đến.
Chỉ thấy lá vàng rơi xác xơ

Bất chợt mùa Xuân đến âm thầm.
Khơi nguồn bao ký ức xa xăm
Đâu những mùa Xuân ngày xưa ấy.
Phai nhạt ước nguyền theo tháng năm

Bất chợt mùa Xuân đến xót xa
Nhân thế ai người hiểu lòng ta.
Mai Xuân trở gót ta về đất .
Nâng chén quan hà ta tiễn ta.

Sao Mùa Đông Đến Vội

mùa đông chưa hẹn đến,
thu vội vã ra đi,
nhưcuộc tình rẽbến,
không một lời biệt ly .

con đường xưa còn đó,
in dấu chân ta về,
tiếng cười vang trong gió,
khúc nhạc tình đê mê .

nụhôn đầu vụng dại,
còn ấm nồng bờmôi,
trinh nguyên ngàn hoa trái,
quấn quýt ta một đời .

gió thu buồn hiu hắt,
lá thu vàng rơi rơi,
mùa thu chưa trởgót,
sao đông đến đây rồi?

Bông Hoa Nhỏ…

Một bông hoa nhỏ vừa hé nụ.
Góp chút hương thơm với cuộc đời.
Hàng cây rũ lá trong nắng Hạ.
Chợt bừng sức sống ánh xuân tươi.

Một bông hoa nhỏ vừa hé nụ.
Dìu dặt thinh không khúc nhạc mừng.
Ríu rít chim muông hòa cung bậc.
Vi vi làn gió góp vui chung.

Một bông hoa nhỏ vừa hé nụ.
Rộn rã hồn ta vạn tiếng cười.
Niềm vui òa vỡ trong ánh mắt.
Hạnh phúc ngập tràn trên nét môi.

Một bông hoa nhỏ vừa hé nụ.
Sức sống trào dâng ngập cõi lòng.
Gia trang rộn rã trong ngày hội.
Giao Thủy chào đời, thỏa đợi mong.

Nỗi Nhớ Còn Vương
* Tặng người ngày cũ Pleiku

Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ.
Ôi! Quê hương, một thuở đã mờ xa.
Có những đêm, lệ buồn đoanh mắt đỏ.
Nhớ làm sao những kỷ niệm ngọc ngà.

Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ.
Con đường xưa, xào xạc lá me bay,
Lá tung tăng, lá cợt đùa với gió,
Rồi nhẹ nhàng, lá hôn trộm tóc mây.

Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ.
Những chiều vàng, ta dìu bước nhau đi.
Đôi mắt nai ngại ngùng như mắc cỡ.
Áo học trò, quấn quýt áo “trây di”.

Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ.
Nhớ để buồn, để thương tiếc… khôn nguôi.
Thật xa xăm mà hồn sao cứ ngỡ…
Nghe đâu đây, văng vẳng tiếng em cười…

Dương Thượng Trúc

Lê Văn Thiện

Lê Văn Thiện
Thua Đậm

Vào một tối thứ bảy cuối tháng chín, trời mưa nhỏ, tình cờ Năm Thân ghé vào quán cà phê Hồng. Thường ngày ông không uống cà phê ở các quán, chỉ uống ở nhà. Thêm nữa, dạng quán như Hồng ông không ưa, vì lúc nào khách cũng đông nghẹt, huyên náo… Trong đời, có những sự tình cờ có thể tác động mạnh hoặc làm thay đổi cuộc sống của con người. Đây chính là một tình cờ như thế. Nhờ bước vào đó, Năm Thân nghe được câu chuyện động trời về Nam Hà, con gái ông.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Lúc ấy quán đông khách, như chợ ngày giáp tết. Vừa ngồi yên chỗ Năm Thân đã nghe mấy người ngồi ở bàn kế bên, chỉ cách hai chậu bông, nói đến tên mình. Họ có ba người: thầy giáo Bích, Bảy Đạo và một thanh niên lạ.
“Anh Bảy giới thiệu để em làm quen với cô bé áo vàng đó”, gã thanh niên nói, “ở xứ này mà có người xinh đẹp, tướng sang như vậy kể cũng lạ”.
“Quên đi em ơi! Sang thì sang đấy, nhưng chẳng ngon lành gì đâu… nó tơi tả, te tua rồi”. Bảy Đạo nói lè nhè, có vẻ như khó khăn lắm mới mở miệng được. Anh ta say nhừ. “Nó là con Năm Thân, bị mấy thằng ôn dịch cùng xóm hạ thủ, xẻ thịt lâu rồi, nát bét, còn gì mà mơ”.
Giáo Bích suỵt: “Nói nhỏ, ông tướng, đây đâu phải cuộc họp mà phát biểu lớn cho hùng hồn!”
“Sợ ai nào? Mọi người biết, xã phường đều biết… chắc chỉ có lão Năm Thân không biết thôi!”.
Giáo Bích nói gì đó nhưng bị tiếng máy hát át mất, rồi anh thanh niên nói: “Tội nghiệp con nhỏ, nhưng mấy ông trời con nào vậy?”.
“Có ông, ngài nào đâu, chỉ hai thằng nhóc tì, cùng lứa tuổi mười bảy, ở xóm này, thế mà chúng nó bỗng nổi máu anh chị… Số là, các cô cậu rủ nhau qua xã Vạn Phước coi cải lương, đến lúc về, trời khuya, rừng vắng…”
Đó là con lão Quyền và lão Đông, hai công dân lương thiện… Trong vụ này có một điều đau đầu: đã hại đời con người ta, chúng còn đi bán rao, nói oang oang như quảng cáo mì tôm bột ngọt!”.
“Bọn này ác bẩm sinh… ác từ trong trứng”.
Năm Thân chết điếng, ngồi lặng khoảng mười lăm phút, rồi đứng dậy ra về, ly cà phê còn nguyên trên bàn… Ngoài đường trời vẫn mưa lâm thâm.
***
Ngay trưa hôm sau, Năm Thân chất vấn con gái. Chỉ trong giây lát ông đã biết rõ những gì cần biết. Ông đau đớn tê dại cả người. Nam Hà khóc như mưa. Năm Thân để mặc con khóc. Ông nghĩ, không ai có thể khuyên giải, an ủi, làm vơi được nỗỉ khổ này cho nó, và cho mình, bất hạnh! Ông đi loanh quanh trong nhà suốt buổi, lặp đi lặp lại “bất hạnh, bất hạnh”, và ông gọi hai cái tên Phát, Chương – hai thằng thủ phạm – hàng trăm lần, như sợ có thể quên mất… Chương, Phát, ai ngờ kẻ hại con ông lại là hai thằng nhỏ này!
***
Văn Hảo – con trai lớn của Năm Thân – khôn ngoan, khéo léo tổ chức một cuộc nhậu tại nhà mình, gài được Chương và Phát đến dự.
Đứng trước bàn tiệc với chục chiếc ghế còn trống, và không khí trong phòng âm âm, lạnh lẽo, khách có vẻ bối rối. Chưa kịp ngồi, hai gã đã thấy ông Thân hiện ra ở cửa. Ông này đến nhà Văn Hảo không lạ. Đáng nói là, nét mặt ông già. Nó trắng ởn, tái mét, như mới vớt dưới nước lên… Năm Thân đóng cửa lớn lại. Hai gã trai nhìn quanh, dáo dác. Năm Thân nói, nhỏ nhẹ:
“Hai cháu uống nước, tự nhiên”. Ông tới đóng thêm một cửa sổ. Văn Hảo đem ra một cuốn vở, hai cây bút bi, và một cái gói nhỏ bọc trong giấy báo. Năm Thân bảo con: “Con xem lại các cửa nhà dưới rồi ra ngoài chơi”. Hảo đặt mấy món đồ lên bàn, đi xuống nhà dưới, ra thềm. Năm Thân nói: “Hôm nay may mắn được gặp hai cháu ở đây, chú muốn bàn một việc quan trọng, là chuyện các cháu đã làm, đã biết”. Ông ngừng, chăm chú nhìn hai chàng trai trẻ. “Chuyện hai cháu chở Nam Hà vào vườn bạch đàn hôm trước đó mà, nhớ không?”.
Phát, Chương kinh hãi, mặt mũi tái xanh.
“Chuyện cũ xì, hơn mười tháng rồi, nhưng nay chú mới biết… Trời ơi, sao các cháu độc ác đến thế!”.
Hai anh chàng chết cóng, không mở mồm được.
“Giờ thế này, giấy bút có sẵn kia, hai cháu viết, thuật lại cặn kẽ sự việc… Đứa nào cũng có học… Hãy tự khai, như ở đồn công an. Thực thà, không quanh co, không giấu giếm… Còn gì mà giấu, mọi người đều biết. Chỉ có chú ngô ngọng, đui điếc, mãi tới nay…” Năm Thân nấc lên, nghẹn lời, rồi khóc òa.
Một lúc khá lâu, cơn xúc động lắng xuống, Năm Thân lấy giấy bút đặt trước mặt hai đối tượng: “Các cháu viết đi, thong thả, rõ ràng. Khai cho đúng, từ đầu đến cuối… Nam Hà đã nói hết, không tránh né, đổ tội cho ai được đâu”. Ông mở bọc giấy lôi ra một gói thuốc trừ sâu: “Đây là phần của chú, thuốc sâu Padan. Hai đứa nhìn xem, thuốc tốt, cực mạnh”, ông cười gằn, “nếu hai cháu cứ lòng vòng, chối quanh, thì chú sẽ… sẽ…”, ông xòe hai bàn tay to bè đang run rẩy, “chú sẽ xử hai cháu, rồi chú uống sạch gói này… thế là ổn, gọn, êm thấm!”.
Phát, Chương ngồi yên, khiếp đảm. Ông già rót trà uống, đẩy gói thuốc thơm tới gần khách, mời: “Hai cháu hút thuốc, bình tĩnh”. Nhà bên cạnh, một bé trai khóc thét. Tiếng người mẹ dỗ con, nghe không rõ… Năm Thân cố kiềm chế, giữ giọng nói ôn tồn. Ông quay sang hỏi Chương:
“Cháu có biết chú và ba cháu là bạn thân không?”
“Thưa chú, biết”, Chương ấp úng.
“Thân thế nào?”.
“Dạ, rất thân, như anh em”.
“Đúng vậy, chí thân, tri kỷ!… Xưa đến giờ chú có làm điều gì không phải với gia đình cháu không?”.
“Dạ, không ạ”, Chương cúi nhìn xuống bàn.
“Phải, chưa bao giờ. Chú và ba cháu chơi thân, đối xử với nhau như bát nước đầy, (đây là nói theo giọng thời cổ), gần ba chục năm nay… nhưng cháu chính là tay chủ chốt trong vụ này. Cháu nghĩ ra chuyện đó, bày mưu tính kế, lôi kéo bạn Ngô Phát… đúng không nào?”. Năm Thân bẻ đốt tay răng rắc. Ông nhìn Chương chằm chằm như ông lái buôn nhìn con heo, ước tính trọng lượng con vật. “Cháu bày ra trò xe hư giữa đường. Cháu hiếp Hà như con yêu râu xanh… cháu quát nạt, buộc con nhỏ phục vụ thằng Phát, “nằm yên, con đĩ, mày bướng thì ông xé sạch quần áo, mày sẽ về nhà trần truồng như mụ điên”…, bốn lần cháu gọi nó là con đĩ… Sao lại đĩ, hở trời!… Tất cả là như thế, vậy thì viết đi, viết cho ngọt”.
Năm Thân ăn một cái bánh ngọt, uống một ly trà, rồi ông đi quanh bàn năm, sáu vòng. Ông nói, gần như thầm thì: “Chú chưa muốn chết, mấy con chó còn muốn sống để ăn cứt. Mong rằng hai đứa đừng buộc chú nốc gói thuốc sâu… và chắc hai đứa cũng chưa muốn chết”. Lúc này đôi bạn trẻ mới thấy, giữa bàn có hai bình trà, một dĩa trái cây đầy vun, hai hộp bánh ngọt, hai gói thuốc.
Năm Thân tới đứng sau lưng Phát: “Cầm bút lên, Ngô Phát”. Ở đây, chỉ trong những lúc hội họp, cúng kính người ta mới gọi một người bằng đủ họ tên. Giọng Năm Thân nghe rợn tóc gáy”
“Phát, cháu có biết chú và gia đình cháu quen thân như thế nào không?”.
“Thưa chú, biết, thân lắm”.
“Chú ăn ở với ba cháu ra sao?”
“Dạ, chú… chú tốt, chú thường giúp đỡ nhà cháu”.
Năm Thân gật đầu: “Đúng rồi, không thể nói khác… Không phải kể công, nhân tiện dây, chú nhắc cho cháu nhớ, năm ngoái nếu không có chú thì thằng Quang, anh cháu, đã chết vì không có tiền đi nhà thương. Mới đây, nếu chú không giúp thì ba cháu chưa sửa được cái nhà… thế đấy”. Năm Thân cười: “Rõ ràng, ở đời có nhiều chuyện người ta không tài nào lường trước được!” Ông đi vòng tới trước, nhìn thẳng vào mắt Phát. “Cháu tích cực giúp sức cho thằng Chương. Cháu bịt miệng con Hà, không cho nó kêu la. Còn gì nữa không? À, cháu vả miệng con nhỏ mấy cái trước khi… Đấy, sự thật là thế. Chú chỉ yêu cầu cháu thuật lại những gì mình đã làm, không cần tô vẽ thêm thắt”.
Hai anh chàng vẫn ngồi không nhúc nhích. Vắng lặng. Có thể nghe tiếng một người đang cày giục bò xa xa.
“Thôi, nghĩ như thế đủ rồi. Hôm đó hai bạn đâu có hỏi ý kiến Hà, đâu chờ cho nó suy nghĩ”. Ông quay sang hỏi Chương:
“Sao, anh bạn viết không?” Ông gằn giọng “Nói ngay, có chịu khai không?”.
Chương bật dậy, như bị một chiếc lò xo lớn đẩy khỏi ghế, “Dạ, thưa, cháu viết”.
“Viết thì tới ngồi bên bàn tròn kia, còn bạn Phát?”.
“Thưa chú, viết”
“Được, tốt lắm”. Ông đưa giấy bút cho hai đứa. “Viết sạch sẽ, không hỏi nhau, như trong phòng thi vậy!” Ông gọi to: “Hảo ơi, có ai tới chơi thì nói ba vừa đi hớt tóc”. Văn Hảo dạ lớn như anh hề.
“Hai cháu viết thật, làm gì chịu nấy… Phải biết nhận trách nhiệm, để xứng đáng là đàn ông.
***
Năm Thân nhận hai bản tự khai, đọc qua hai lần, rồi cho hai đương sự về. Ông dặn cả nhà phải giữ kín chuyện này, bởi nó… bất hợp pháp! Ông nhấn mạnh: “Cố giữ đấy, đứa nào chóp chép thì tao bẻ răng!”.
Từ đó, cứ vài ba ngày ông lại moi mấy tờ giấy đó ra đọc, đọc đến gần như thuộc lòng. Ông không hỏi ý kiến, chẳng bàn bạc với ai, cũng không nộp cho chính quyền. Ông cất kỹ nó vào tủ, rồi lấy ra đọc, rồi cất. Ông trở nên ít nói, biếng ăn, người gầy sút mau chóng.
Hai tháng sau, một bữa Năm Thân hỏi vợ: “Theo ý bà, nên giải quyết chuyện này thế nào?”. Bà Năm nói, như đã chuẩn bị sẵn câu trả lời từ lâu: “Đưa lên xã, huyện. Dù ta có nguyền rủa bọn nó mười năm cũng chẳng ích gì”. “Ờ, để coi… Chẳng phải dễ đâu. Nếu mình khui ra thì sự vụ sẽ trở nên mới, sẽ nổ như đại bác… Lâu nay mình bị tai tiếng nhưng là tai tiếng ngầm, êm ái, nằm ở cấp thôn, xã. Tôi không muốn đem nó đổi lấy cái tiếng xấu chính thức, có đóng con dấu cấp tỉnh!”.
“Vậy cứ để chúng nó tiếp tục vô tội, nhởn nhơ?”
“Khoan đã, để coi”. Ông để coi như vậy đến một năm, rồi hai năm. Vợ con ông bồn chồn, buồn rầu. Còn ông, dường như ông đã gặp một vị thần ác, và bị thần vẩy một thứ nước phép lên người, khiến cho râu ria mọc tua tủa, tóc trắng xóa, miệng móm, thân hình chỉ còn da bọc xương.
Đến một ngày mưa tháng chín, gần quán cà phê Hồng có một đám cưới khá lớn. Mặc cho bầu trời thấp ngập ngụa mây đen, mặc cho những cơn mưa nặng hạt trút nước không ngớt, người ta vẫn ra vào tấp nập, máy vẫn hát như voi rống. Đó là đám cưới của thằng Chương… Lúc ấy, ở nhà mình, Năm Thân nằm co quắp trong buồng như con tôm khô, đã một tuần qua ông chỉ ăn cháo và uống sữa

[/read]

Chập Chờn

Yên chơi thân với Hạt, Lưu từ thời trung học, ở Đà Lạt. Về sau, lớn lên, anh trôi giạt từ Trung vô Nam, rồi quay ngược ra. Nay Yên trở lại Đà Lạt một mình, trong vai du khách. Anh ăn uống ở các quán hạng trung, ngủ trong một khách sạn be bé. Sang ngày thứ hai, tình cờ, may mắn, Yên gặp Lưu. Qua Lưu anh nối lại sợi dây thân tình với Hạt… Trước khi đến thăm vợ chồng Hạt, Yên ở nhà Lưu ba ngày.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Trang trại của Hạt nằm trong xó núi Tiên Hà, cách thị trấn Tam Dương hơn mười cây số. Đây là vùng mới khai phá trong đợt di dân năm 1982. Trên khu rừng rộng, rậm rạp, chỉ có tám mươi nóc nhà, trong đó có ba mươi hộ người Raglai. Gia đình Hạt, bốn người, ở trong hai ngôi nhà lớn, còn mới. Sáu người làm công – chuyên trồng rau cải, chăm sóc cà phê – và một chị chăn bò, sống trong căn nhà mái tôn vách gỗ, cách nhà chủ chừng trăm mét.
Đất vườn rộng, có nhiều người giúp việc, trông Hạt ra dáng ông chủ… Tám giờ tối, Hạt và Yên uống cà phê. “Tối qua, giấc này, mình và Lưu dạo phố”, Yên nói. “Đi những đâu?”, Hạt hỏi. “Từ Võ Tánh xuống rạp xi-nê cũ, xuống Bùi Thị Xuân, vòng qua Phan Đình Phùng… Nay phố lớn, đường rộng, người đông”. “Đông hơn xưa bảy lần”. Yên lặng vài phút. “Đổi mới hay ăn xổi?”. Nghĩ suy khá lâu. “Nó mang cả hai bản mặt đó… nhưng mặc nó, tìm đâu cho ra sự hoàn hảo trên cõi đời ô trược này”. “Ô gì”. “Ô trược!”. Hạt cười ha hả. “Dạo chơi, đi chậm, nhìn ngắm, nhớ lại thời trước”. “Xưa kia, ngày cũ, hồi đó… lớn tuổi thường quẩn quanh với chùm quá khứ, dĩ vãng, lắm lúc nó khiến ta bải hoải, mệt nhoài”. “Không nhớ thì làm gì.” Đà Lạt là núi đồi và thông. Thông mất nhiều, còn chừng phân nửa. Có người nhớ nó. Giới bô lão lẩn thẩn tiếc thương nó. Bọn trẻ chắc không biết, chẳng để ý. Bụng để ngoài da, chúng chỉ quan tâm máy móc, xe cộ, điện thoại… “Đi thế này mình nhớ Thái Phương, liên tưởng vụ sóng thần Thái Lan”, Yên nói. Ngày 26 tháng 12 năm nào du khách quốc tế cũng đổ về Thái đốt nến, thắp nhang trên các bãi biển, tưởng niệm những thân nhân của họ đã chết trong trận sóng thần tai ác năm 2004. Qua chuyện này, ta thấy dân Tây không khô khan, lớt phớt. Xa xôi như thế mà lặn lội đến để khóc, tưởng nhớ… Con người nhỏ bé, cõi đời bảng lảng, chênh vênh.
Mới đó mà hơn ba mươi năm. Từ Đà Lạt lên hốc núi Tiên Hà này chỉ tám chục cây số, nhưng đã khá lâu Hạt không gặp Lưu. Cuộc sống của hai người khác nhau xa. Mối thâm tình của tuổi mộng mơ ngày càng lợt, nhòa. “Chuyện vợ chồng Lưu xộc xệch lắm”, Hạt nói. Nghe vậy, biết vậy, Yên chưa hề gặp Ngộ, vợ Lưu. Hạt nhận xét: Ngộ mang trong người dòng máu nghệ sĩ. Con nhà giàu, nghề nghiệp sáng rỡ, lại ôm anh chàng lêu bêu, chẳng có một nét nổi bật nào, không nghệ sĩ là gì? Nay anh chị vẫn còn là vợ chồng, nhưng sống riêng, làm ăn riêng, bề ngoài nom có vẻ bình lặng, yên ổn, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy có những vết xám bất thường bao quanh họ. “Con cái thì sao”, Yên hỏi. “Một trai chừng mười tuổi, sống với ông bà ngoại”. “Nay Lưu làm gì”, Hạt hỏi. “Không rõ, anh ấy đi suốt ngày, tối mới về. Ở nhà chỉ có ông già và chị ôsin”. “Có dạo Lưu buôn bán gỗ, rồi vào Bạc Liêu nằm lì mấy năm, nuôi tôm làm muối”. Vậy thì, Lưu mới là nghệ sĩ, không phải Ngộ.
Trời đẹp, Lưu – Yên thả bộ suốt hai tiếng. Đi, nhìn, ngó quanh quất, thấy sướng. Lưu nói, lâu nay anh không đi thế này, hễ ra khỏi nhà là lên xe. Đi, ôn lại cảnh cũ trong đầu, nhớ những hàng thông, những triền đồi rợp vàng hoa cúc dại… Xưa, Yên hay tắm nước nóng ở một tiệm nhỏ, không tên, gần cà phê Tùng, nay tiệm không còn. Nhà giặt ủi đông khách kế bùng binh, gần chợ cũng không còn. Mất cũng phải, lâu quá, hơn ba mươi năm. Có lẽ đó không phải mất, nó tiến hóa? Hai nhà sách Khải Minh, Tuyên Đức chiều nào Yên cũng ghé vào mua báo, đã qui tiên. Hai khách sạn Thanh ngọc, Vinh Quang trước rạp xinê vẫn còn, cao to hơn trước, giờ mang tên mới… Có những thứ nhỏ, vụn vặt nhưng cũng có hồn cốt, khiến người ta khó quên, như tiệm giặt ủi, nhà tắm nước nóng. Tắm nước nóng, dịch vụ độc đáo, đặc sản Đà Lạt. “Chiều xẩm, bỏ chiếc khăn nhỏ, cục xà bông thơm trong túi áo jacket, tạt vào nhà tắm quen, tẩy trần hai chục phút, sạch sẽ thơm tho, trước khi ăn cơm, dạo phố”, Yên nói. Lưu cười. “Hàng bánh xèo bên hông rạp xinê, trước tụi mình thường ăn, còn không”, Yên hỏi. “Còn, nay người khác bán”… Đi loanh quanh, nghĩ vẩn vơ, mỏi chân, hai bạn tấp vào một quán cà phê vỉa hè. Cà phê không nhạc, có hai bàn cờ tướng, một nhóm người trẻ đánh cờ. Hai ly đen đá. “Hai đen đá, cô chủ!”. Một câu thường, quen thân, nhưng có chút gì đó làm ta xốn xang.
Yên nói: “Tôi còn nhớ tên mấy khách sạn: Việt Nam, Mimosa, Cao Nguyên… các hiệu ảnh Ngọc Dung, Đại Việt”. Lưu khen: “Tài, anh nhớ giỏi. Khách sạn còn có Thanh Tùng, Phú Hòa, Sài Gòn… Thế, quên các nhà sách Khai Trí, Hòa Bình, Văn Hóa, Liên Thanh rồi sao?”… Nói đến cà phê không thể bỏ qua quán Tùng. Cà phê Tùng như người tiên, không già. Nhược điểm của nó là nhỏ hẹp, nằm chỗ ồn ào, nhưng lớp người cũ vẫn nhớ nó. Chủ quán hiện giờ là con ông chủ cũ. Nhiều người khen, anh này được lắm, có máu văn nghệ. Anh vui mừng khi tiếp đón các vị khách xưa. Những người đó bước vào, anh nhận ra ngay. Anh bảo, trông cách ngắm nghía, dáng ngồi, kiểu uống của họ, mình biết, không lầm… Ngay tối đầu tiên lên đây, Yên ghé lại Tùng, một mình. Quán thưa khách, còn sớm, nhạc mở nhỏ, phảng phất dư âm cũ. Cái gì rồi cũng qua. Ai rồi cũng sẽ già. Núi còn mòn nói chi người. Còn biết yêu thiên nhiên, nhớ thương những nét đẹp, những hương vị ấm nồng một thời là mừng. Yên nhớ lại, cố nhớ tên những bản nhạc mình thường nghe tại quán này, trước đây. Một cô tiếp viên đến, hỏi mấy câu, Yên đáp qua loa, cô bé bỏ đi.
***
Chị Xoa lên hỏi, khuya có ăn gì không. Xoa, vợ Hạt, dân gốc Phan Thiết nhưng giống hệt người miền núi. Nếu gặp ngoài đường, nghe giới thiệu: “Đây là cô H’Pan ở huyện Kon Plong mới ra”, Yên cũng tin. Xoa đô con, đen, mặt lạnh tanh. Chị nói nhỏ, không nhìn ai, không hỏi cười xã giao. “Thôi, không ăn, còn no”, Hạt nói. Xoa xuống bếp, không hỏi thêm. “Xưa giờ bà ấy ở quê, chưa đi xa, không biết Bạc Liêu, Cần Thơ, Huế, Đà Nẵng… Yên cứ ở đây chơi, bao lâu cũng được, đừng ngại. Lâu rồi, chúng tôi chẳng được ai thăm”. Hạt lấy điện thoại gọi, nói cười năm phút. Anh mời một ông bạn, ở cùng buôn, tới chơi. Anh bảo bạn, nhớ đem cây đàn theo. Đó là Đông, anh chàng nửa núi nửa đồng, rất tếu. “Cái chúng mình cần lúc này là vui, thoải mái, phải không”, Hạt hỏi.
Đông tới, cắp cây guitar cũ bên nách. Thêm ly cà phê. Hạt giới thiệu hai bên, ngắn gọn. Đông hút thuốc. Hai con chó sủa vang sau nhà. Xoa nói lớn mấy câu với những người giúp việc. Đông hỏi Yên, anh thấy cái khác rõ nhất giữa Đà Lạt nay và xưa là gì… Mấy mươi năm, khác, đổi thay là tất nhiên, nhưng khác gì có lẽ còn tùy cách nhìn của mỗi người. Người 50 tuổi thấy, nghĩ không giống người 70, Nam khác Bắc… Yên nhớ lại đêm văn nghệ bỏ túi ở một tiệm tạp hóa, một ngày cuối năm lạnh buốt. “Anh còn nhớ đêm nhạc Đỗ Bá Chức ở quán Phú Quý, tụi mình dự cùng Lưu, Thái Phương không?”. “Nhớ… Có một thời như thế, không ma túy, không cướp giật, sống cứ như bơi trên sông”. “Như bơi trong mây… nay Thái Phương ở đâu?” Yên lắc đầu: “Chịu, có thể ở Đức, Mỹ, Canada, hay vẫn còn nằm bên một con suối nào đấy gần Củng Sơn, Phú Túc (tỉnh Phú Yên). Thái Phương dân Đà Lạt, sau dời lên Pleiku… Dạo đó Đỗ Bá Chức còn trẻ, mới tập viết nhạc, nhưng anh đã cho ra đời nhiều ca khúc nóng rực, thơm ngát, khiến đám trai trẻ say mê. Đó cũng là tình yêu, chiến tranh, đời phù du, thế giới điên đảo, nhưng không giống Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Nguyễn Đức Quang, nó nhẹ, đằm, phiêu hơn. “Đêm đó Chức hát bảy, tám bài, Nam Giang hát khản tiếng”. Bá Chức có nhiều tình ca hay, nhưng chưa được quần chúng biết nhiều, có lẽ do khâu tiếp thị, quảng bá yếu. Anh ấy nói, được anh em thích là mừng rồi.
Đông hút thuốc, nhả khói mù mịt. “Bà vợ đáng kính luôn mồm bảo tôi, đừng hút nữa, để sống tới 90. Phải, tôi sẽ bỏ thuốc, nhưng giờ nên hít vài hơi, lấy sức để hát”. Đông đàn, hát. Núi đồi, sông suối, bò rừng, đàn voi, công múa. Sau này, qua lời Hạt, Yên biết đôi điều về Đông, thấy đời anh chàng khá hay, ngộ. Mỗi người có một đời riêng, chẳng ai giống ai, đấy là điểm thú vị là sự sáng tạo phong phú của thượng đế… Đông có hai vợ, sống riêng, một chị ở Đà Lạt, một ở đây. Xưa nay, nếu đếm kỹ, sẽ thấy Đông đã làm bảy nghề, mỗi nghề vài năm. Hiện giờ anh nuôi bò, trồng nấm. “Tôi là trung gia” anh khoe, tự hào. “Tuy sống có vẻ chông chênh, nhảy từ ngành này qua nghề khác, nhưng chỗ nào tôi cũng moi được tiền, đúng không, anh Hạt?” Hạt gật. “Này, chơi ở đây chán, anh sang bên nhà tôi, nghỉ ngơi ít hôm… Trước lạ sau quen, trên này thiếu bạn bè trầm trọng. Anh biết không, ngày nào cũng có cả trăm xe chạy ngang nhà mình, nhưng không xe nào dừng lại”, Đông nói với Yên, xong hát tiếp. Anh hát điệu nghệ, nửa như Nhật Trường, nửa Sĩ Phú. Hết hai bài, Đông uống cà phê. “Chiều mai tôi đưa hai anh lên Kon H’ring chơi, hay lắm, đi không”, Đông hỏi. “Trên đó có gì?” “Có H’Nhi, một cô gái, bạn mới của tôi, lạ, đã đời!” “Hấp dẫn đấy”, nhưng Hạt do dự, “Hãy tả thêm vài nét, nàng lạ thế nào?” “Em người Kinh, H’Nhi là nghệ danh. Nửa Âu nửa Á, biết nói chuyện chính trị thế giới, hát hay, dù chăn dê đã mười năm”. “Trời, như huyền thoại!”. Nhưng Hạt không đi được, bởi phải lo sắp xếp công việc để mốt đi Dak Lak gặp đối tác làm ăn.
Hạt nói với Đông: “Hồi trẻ tôi và Yên quen thân với một chị, ở Pleiku. Khi cuộc chiến trôi về điểm cuối, sôi bỏng, đạn bom mù trời, chị ấy nhập vào dòng người chạy từ Pleiku về Nha Trang. Số người đó, hầu hết, vào được Sài Gòn, riêng chị Phương (chị tên Thái Phương) mất hút. Chuyện cũ, không hiểu nay còn ai nhớ chị ấy… Có bài hát nào buồn nhẹ, nói về một tình cảnh chơi vơi, lềnh bềnh như thế?” “Chị Phương làm nghề gì?” “Buôn bán nhỏ và y sĩ… nay chị đã lão, nếu còn sống”. Đông dạo lướt vài đoạn nhạc, ngẫm nghĩ. “Nếu chị ấy còn, anh muốn chị ở đâu?” “Hỏi khó, muốn sao được… nhưng nếu buộc phải nói, tôi mong Phương ở Na Uy”. “Na Uy, tại sao?”. “Nghe đâu đàn bà xứ ấy ít đẻ, họ quý trọng con người”.
Đông hát “Phố buồn” của Phạm Duy, “Thu vàng” của Cung Tiến. Cũng là cà phê, nhưng uống cà phê ban đêm, vào mùa lạnh, ở Pleiku, KonTum khoái đã hơn các phố dưới đồng bằng nóng bức. Cũng là nhạc, nhưng nghe ở nơi thoáng đãng, với bạn bè hợp cạ thích hơn các chỗ khác, phải vậy không… Yên quay lại nói về Thái Phương: “Hôm nào mình sẽ đến thăm ngôi chùa ở phường 2. Xưa, có lần mình và Phương lạy Phật ở đó”. “Chùa Linh Sơn?”. “Ờ, Linh Sơn”. Một địa danh, một tên đường, một sự kiện lâu nay chìm sâu trong đầu bỗng nhiên cựa quậy, chồm dậy. “Lạ là, mình với Phương không yêu nhau… Không yêu, vẫn nhớ”.
Hôm đó, ở chùa ra, trên đường về anh chị tạt vào nhà sách Liên Thanh, Yên mua sáu cuốn sách. Phương đùa bảo, anh tặng em một cuốn, làm kỷ niệm. Yên đưa cả sáu cuốn, “em giữ lấy, bữa nào anh mua lại”. “Ôi, đùa chút mà”, Thái Phương cười giòn. “Anh nói thật, em cứ cầm cả gói”. “Sao vậy”, Phương phân vân. Yên giải thích, hơi dài, để nàng yên tâm. Anh muốn có một cột mốc, một thứ gì hay hay, để nhớ cuộc dạo chơi này. “Em hiểu”, Thái Phương nói, giọng không mạnh lắm, “coi như em hiểu!”. Đó là lần cuối anh chị gặp nhau… “Yên có vẻ sùng đạo”, Hạt nói, như hỏi. Yên xua tay “không hẵng vậy đâu, có thể chỉ là lớp vỏ bọc, biểu hiện bên ngoài… Tôi luôn động viên mình nên siêng năng hơn, thành tâm hơn trong khâu tâm linh, thờ cúng. Nếu cứ ngoác mồm bài bác, báng bổ, không tin gì cả, dễ thành heo lợn lắm, người ta nói vậy.
***
Chị Xoa bưng lên hai tô thịt. Chị cười tươi rói, “thịt nhím, tôi biết các anh thích”. Thịt này ngon, hiếm. Mấy anh công nhân bắt được con nhím trong rẫy xa, lúc này họ đang nhậu, tưng bừng như liên hoan. “Tôi tặng họ hai thùng bia”, Xoa khoe. Đông ôm đàn đứng dậy, anh nói phải qua hát tặng anh em lao động chân tay vài bản, đáp lễ, họ rất mến anh… Hạt đi lấy bia. Món này bất ngờ, độc đáo. “Tụi mình uống tới sáng, nghe… Chắc còn lâu mới gặp lại nhau”. “Buôn này khuất nẻo, mà sao anh giạt vào đây?” Hạt không đáp ngay. “Khó biết tại sao, chắc do số phận đưa đẩy, như thiên hạ thường nói… Yên định chừng nào quay lại Đà Lạt?”. Thịt ngon. Loài nhím có nằm trong sách đỏ, được bảo vệ không? Nếu để ý sẽ thấy, có những con vật, ba mươi năm gần đây bỗng nhiên biến mất, như công, diều hâu, nai, sơn ca, quạ, bò rừng. Người đông, tràn lên bung ra xâm lấn, chúng nó co cụm hoặc chạy trốn. “Trở lại, tôi chưa nghĩ đến, có lẽ năm bảy năm nữa”. “Lâu quá, lúc đó biết mình còn sống không”. Cười xòa. Cười thôi, chớ nói chuyện xui xẻo!… Điều lạ là, cùng thuộc dạng “tiến lên phía trước” nhưng giai đoạn từ trẻ đến già thì trông giống tiến hóa, từ già đến chết thì như gãy đỗ! Lại cười. Dzô, loài nhím quý hiếm, khó kiếm! “Yên thấy, xó núi này hẻo lánh, quá hẻo, nhưng còn lắm nơi heo hút hơn nữa. Năm kia tôi làm một chuyến đi Kon Tum, tìm mua thuốc Nam. Dạo đó nổi lên phong trào mua rễ củ cây lá, dược liệu, để bán cho thương lái Tàu. Anh biết không, chuyến đi mười ngày đó vui cực kỳ… Cái vùng Dak Krong, Mang Tak ấy nằm phía tây bắc Kon Tum, chỉ cách biên giới Lào bốn cây số…Nói về nó sao đây? Có thể xếp nó nằm trong danh sách những nơi khỉ ho cò hát nhất nước. Sau về, nhớ lại tôi luôn nghĩ, tội nghiệp, sao những người ở đó lại có thể sống tại một nơi như thế, suốt đời?… Nói rõ, nó cũng không man mọi quá, vẫn có chợ, có trường học, nhưng cái chất rừng rú, chiếc áo choàng hoang sơ phủ trùm lên nó quá dày, rộng, thùng thình”. Uống, thong thả uống, Đông vẫn chưa về. Mai kia, về xuôi, Yên sẽ nghĩ về góc buôn này thế nào?”. Yên bá vai Hạt, “Đời mà, chúng mình đã qua thời trẻ, đã gặp nhiều, biết lắm, thấy nhiều, phải không… Có lẽ đừng nên nghĩ xa quá, để khỏi trở thành triết gia thế kỷ 22, thành gã dở hơi… Này, mai đây tôi sẽ chọn cho mình một tên mới, nghệ danh, để luôn nhớ anh và Lưu, để trưng ra với anh em trong các cuộc nhậu… nên lấy tên gì, Y Liê, được chăng?”.

[/read]

Thời Hoa Mộng

Thị xã Tân Thanh nhỏ và đẹp. Nó nằm sát biển, cạnh một đồng bằng rộng, màu mỡ. Tôi đã sống ở đó ngoài hai năm. Sau này được ở nhiều nơi, nhưng không đâu tôi yêu thích bằng Tân Thanh. Đây là nơi tôi có những người bạn thân nhất, có nhiều kỷ niệm khó quên, và có Duyên.

Năm 1970 từ trường Sư phạm ra tôi được bổ về dạy tại một vùng heo hút cách quê tôi trăm rưỡi cây số, cách Tân Thanh mười sáu cây số. Dù xa như vậy, tuần nào tôi cũng có mặt ở thị xã một hai ngày, bởi tôi ghiền xi-nê, phở, và lũ bạn vui nhộn. Ban đầu, nhờ sợi dây thơ văn tôi quen Bạch Hải, anh Duyên. Qua Hải tôi nhanh chóng thân thiết nhóm văn nghệ sĩ của thị xã.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Tôi hòa nhập vào gia đình Hải khá êm xuôi. Nhà này có máu văn nghệ, ai cũng thích đọc sách báo. Ông bà Mạnh là độc giả lâu năm của các báo khoa học kỹ thuật, thể thao. Duyên mua Phụ nữ, Thời mới. Còn Thu Tâm – em Duyên – mua một lúc ba bốn tờ, gồm cả văn nghệ, văn hóa và sân khấu. Thu Tâm còn đi học, sắp thi tú tài, rất yêu thơ. Cô bé mến phục tôi, ngưỡng mộ cái Thi đoàn vang danh La Hoa. Cô đa sầu, giàu tình cảm, mỗi khi đọc truyện gặp những đoạn buồn là khóc đỏ mắt. Tâm khen thơ tôi ngọt ngào, sâu sắc. Cô nàng thường nằn nì nhờ tôi ngâm thơ cho nghe. Tâm chịu những bài ướt như vớt dưới nước lên, và trong đó có nhiều “gió trăng”, “hò hẹn”, “thiếp chàng”. Tôi ăn chực, mọc rễ ở nhà Hải. Người lạ có thể tưởng lầm tôi là con trong nhà. Không chỉ tốn cơm, nhiều lúc ông Mạnh còn cho tôi tiền để tiêu vặt.

Ít lâu sau tôi và Duyên “cảm” nhau. Nói cho trung thực, tôi chưa hề tán tỉnh Duyên câu nào. Đây chỉ là mưa lâu thấm đất. Dạo đó gặp dịp Tết, được nghỉ dạy nửa tháng, tôi về thăm nhà. Nhưng mới bảy ngày tôi đã trở ra. Duyên ngạc nhiên: “Ô kìa, ông thi sĩ, ra chi sớm vậy?” Lúng túng một chặp, rồi tôi thú thật: “Buồn, buồn không chịu được… nhớ ai quá!” Duyên hiểu ngay, nàng xúc động, mặt hồng lên, bối rối chớp lia đôi mắt Tân Thanh to đen, ươn ướt… Ngay tối ấy chúng tôi đến trụ sở ban Ly Tao “trình làng”. Lũ bạn tôi không ngạc nhiên mấy, tỏ ra rất hoan hỉ. Ông bà Mạnh và Hải phớt lờ, làm như chẳng biết gì, và chúng tôi coi thái độ đó là đồng tình. Thu Tâm nhận xét nhẹ nhàng: “Bà Duyên sống trong môi trường trần tục – Duyên làm ở ngân hàng – mà lại kết cặp với người của trăng sao, kể cũng lạ”.

Nhóm nghệ sĩ tinh hoa của thị xã này, (có tôi vào nữa là sáu người), đứng chủ trương Thi đoàn La Hoa (núi Hoa Sơn, sông La), và nắm luôn ban Ly Tao, chuyên ngâm – bình thơ trên đài phát thanh địa phương. La Hoa chào đời trước Ly Tao nửa năm, có đường hướng cụ thể: “Sáng tác thơ ca và trợ lực nhau cùng tiến bộ trên đường phục vụ nghệ thuật”.

Ở đây tôi được bốc lên thành thi hào, vì là người có nhiều thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn, và đã xuất bản một tập thơ: tập “Tưởng là tình lớn”. Các thành viên khác đều còn mò mẫm, lận đận. Ngay như nhà thơ Lê Tưởng, trưởng ban Ly Tao, cũng chỉ có sáu bài thơ được đăng báo. Tính trung bình, anh phải gởi đi hăm bảy bài thì đám chủ bút thiển cận đáng ghét ở Sài Gòn mới chấm một bài. Với thi sĩ Bạch Hải, nhân vật thứ nhì của La Hoa, kết quả còn khiêm nhường hơn. Sau bốn năm múa bút, Hải chỉ có ba bài được lên báo. Nhưng điều này không hề làm Hải nhụt chí, lại càng khiến anh mạnh tay hành hạ những trang giấy trắng, và giọng thơ vốn đã phẫn càng thêm phẫn.

Người viết khỏe, có số lượng thơ ra lò nhiều nhất là Mai Phong. Anh lãnh hai chức danh: đầu tàu Thi đoàn La Hoa và ủy viên giao tế của ban Ly Tao (chúng tôi cũng mắc bệnh háo danh, chứng bệnh buồn cười của loài người, nên tên nào cũng khoác vào mình nhiều chức tước tự phong).

Mai Phong là người duy nhất trong bọn có vợ. Trước kia, do một sự “sai lầm đáng tiếc” Phong cưới vợ hơi sớm, nên nay mới hăm ba tuổi anh đã có ba con. Vợ Phong chất phác, rất kính phục chồng, tuy chị không hề sờ đến sách báo… Mai Phong sống theo lối “phiêu bồng”. Bề ngoài trông anh nhếch nhác, bẩn thấy rõ. Về cái ăn, thì bạ đâu sà vào đấy, chủ yếu ăn nhờ nhà Tưởng và Hải. Tiền lương Phong thường tiêu vèo trong năm, bảy ngày, chi trọn cho mấy quán cà phê, bún bò, tiết canh vịt. Vợ Phong cần mẫn làm lụng nuôi con, cam chịu túng thiếu, không trách chồng tiếng nào. Nhưng ông cụ thân sinh Phong thì tích cực bày tỏ thái độ phản đối. Bữa nọ cụ khăn gói ra phố, leo lên tận hang ổ ban Ly Tao, hùng hổ dạy cho ông con nhà giáo – nhà thơ một bài sấm sét. Quá giận nên cụ mắng rất thô: “Này, mày như con heo đực, xổng chuồng là cùi cũi đi mất, chẳng lo gì nữa. Lâu nay vợ con mày thế nào? Chắc chắn không biết. Sống như thế, tao không hiểu mày dạy trẻ con ở trường những gì. Muốn làm ông gì cứ làm, nhưng chớ quên mình là ông – người”. Nói bấy nhiêu lời xong ông cụ quay trở xuống, về thẳng. Mai Phong thở dài, than: “Đầu và mắt các cụ đã hình thành trước đây hơn nửa thế kỷ, nên không hy vọng các cụ nghĩ và thấy điều gì hay ho được!” Rồi phải nhờ ông Vạn Thọ – cha Lê Tưởng – đứng ra thu xếp, sự vụ mới ổn. Ông bảo Phong cứ ăn tại nhà ông, không phải trả tiền, còn lương thì cắt một nửa gửi về cho vợ.

Hai người sau chót của nhóm, sự nghiệp văn chương mới khởi đầu, chưa có gì nhiều: Võ Hoàng, họa sĩ kiêm ủy viên kỹ thuật, thi sĩ lãng mạn của thế kỷ 19 còn sót lại – và Thái Huyền, phụ trách tài chánh kiêm thư ký. Chúng tôi thường âu yếm gọi Huyền là ủy viên du hí. Anh sành về rượu, giỏi chạy tìm đồ nhậu, nấu nướng khéo tay.

Chúng tôi sống mạnh được phần lớn nhờ nơi cái bụng quãng đại của ông Vạn Thọ, một người vui tính, rất giàu, tốt ít có. Ông dành cho chúng tôi một căn phòng trên lầu, kế phòng ngủ Tưởng, làm trụ sở. Phòng thênh thang, có một tủ sách lớn, một bộ ghế bành to kềnh, hai cái giường bằng gỗ quý đóng kiểu cầu kỳ, và hai bàn làm việc dài ngoẵng. Trên hai chiếc bàn này chúng tôi đã bình văn, ăn nhậu, tán phét về mọi sự đời, và làm thơ. Chúng tôi ca ngợi những áng mây chiều nằm xoãi trên đỉnh Hoa Sơn; những con sò huyết, đặc sản của xứ dừa, ngon và bổ, chắc trời sinh ra để đi kèm với rượu nếp; những đôi mắt của những người con gái Tân Thanh (ôi, đôi mắt đen láy, tình tứ, long lanh, từ mấy trăm năm trước đã bước vào thơ phú, ca dao: “đa tình con mắt Tân Thanh”). Không ai tính được chúng tôi đã tiêu phí bao tạ giấy mực, và hóa kiếp mấy ngàn con sò huyết. Chỉ riêng hòn Hoa Sơn cũng đã làm hao tốn biết bao tâm trí. Đó là hòn núi đơn độc đứng chắn ở cửa ngõ phía Tây thị xã. Chúng tôi mổ xẻ, phân tích đủ các mặt của nó: dáng núi trầm ngâm (vì rằng chưa ai nghe nó nhiều lời bao giờ) – cái vẻ cao vút hiên ngang (cao hơn mặt biển 620 mét) – nỗi buồn kinh niên của núi (đứng trơ chõng một mình, vui sao được) – nỗi đau triền miên khó dứt (thiên hạ ủi sạt một khoảng lớn dưới chân núi, lấy đất làm phi trường)… Đọc số thơ này, người ta có thể tưởng chúng được viết ra từ một xứ nào vốn thanh bình từ ngàn năm nay, chớ không phải ở đây, nơi mà nhiều đêm súng đã nổ thảng thốt ngay tại xóm Gò Dứa (sát nách thị xã), tiếng đạn đuối rơi xèo xuống đại lộ Nguyễn Huệ. Có lần Duyên nói: “Đời có lắm chuyện vô lý, nhưng vô lý nhất là người ta chịu chi tiền để các ngài viết lách khóc thương vô bổ”. Nhưng chính nàng cũng “vô lý”, vì đã để con tim mình chạy rông: Duyên yêu tôi, khác gì yêu cái món thơ văn làng nhàng?
***
Hơn hai năm sau, bất ngờ tôi được đổi về một tỉnh phía nam, cách Tân Thanh ngoài bốn trăm cây số, theo ý muốn của cha tôi. Ở đó cha tôi có một người bạn thân vừa được thăng lên một chức khá lớn bên giáo dục. Cha tôi nói, thời này muốn sống vững phải quen biết rộng, nếu không thì suốt đời sẽ nằm trong bóng tối. Tiền đồ của tôi muốn sáng lóa phải nhờ ông quan bự ấy đỡ cho một tay. Dù không muốn, tôi cũng phải đi. Cha tôi rất cứng rắn, khi ông đã bảo thì vợ con phải coi như pháp lệnh, đừng mong cưỡng chống.

Vô đến nơi tôi được hưởng ngay cái thuận lợi đầu tiên: dạy tại một trường nằm trong thị xã. Nhưng tôi vẫn buồn không nguôi, vẫn nhớ Tân Thanh đờ đẫn cả người.

Mỗi tuần một lần, tôi và Duyên gởi cho nhau những bức thư dày cộp, trong đó chứa đầy buồn khổ, nhớ nhung. Nhưng tình trạng ấy chỉ kéo dài được vài tháng, sau đó nhịp thư thưa dần, rút xuống còn nửa tháng một lá, rồi mỗi tháng một lá. Trong tôi nỗi nhớ tuy không vơi nhưng hình như đã “nhẹ” đi. Và thư Duyên thì lá sau luôn ngắn hơn lá trước… Đến tháng thứ tám tôi được các bạn ở Tân Thanh báo cho tin buồn: Duyên quen người khác. Tôi sửng sốt, và không tin. Sao Duyên hời hợt, đổi thay nhanh đến thế! Nhưng cái tin nản lòng đó cứ được lặp lại đều đặn. Không có cách nào kiểm chứng nguồn tin, tôi thấy mình bất lực, đáng thương. Đúng lúc ấy tôi gặp Hiếu – vợ tôi hiện nay. Té ra trên trái đất còn có những cô gái khác cũng có miệng cười làm ấm lòng người, giọng nói ngọt lịm, và những cử chỉ làm duyên nho nhỏ, ngồ ngộ, đáng nhớ! Ngẫm lại, tôi thấy khối tình trước đây của mình không lớn nặng như lâu nay mình vẫn tưởng!
***
Chiều hôm đó – mười một năm tròn sau ngày ấy – tại thị xã Thới Bình (quê Hiếu) trên đường đi làm về, tránh một cơn mưa bất chợt, tôi chạy vào trú trong một quán nước bên đường. Duyên và con gái đã ngồi trong đó. Duyên nhận ra tôi trước. Chúng tôi hét toáng lên vui mừng, chào hỏi rối rít, làm bà chủ quán ngạc nhiên. Kéo tôi tới bàn, Duyên gọi cho tôi một ly chè đá, (dù trời lạnh), và hỏi dồn hàng chục câu.

Khi bình tĩnh trở lại chúng tôi mới nói chuyện rành mạch, có đầu đuôi. Duyên hiện có hai con. Bé gái đây tên Ngọc, sáu tuổi, còn bé trai ở nhà vừa biết đi. Chồng Duyên tên Yên quê ở Huế, làm bên hải sản, mới đổi vô đây non hai năm. Vậy là đã ở gần nhau khá lâu nhưng chúng tôi không biết. Theo lời Duyên, bé Ngọc giống bố từ nước da, đến cái tai cái tóc. Dựa theo đó, tôi phác thảo ra Yên là một anh chàng đẫm thấp, mắt to, trán hơi vồ. Trông qua cách ăn mặc tôi đoán mức sống của vợ chồng Duyên dư dật. Duyên nhận xét: “Anh gầy, và hơi già đấy nghe.” Tôi nói, nửa thật nửa đùa: “Một người không giàu, cõng một gia đình cồng kềnh thừa miệng ăn, thiếu tay làm, chưa chết là mừng”. Duyên không khác trước mấy, trông như trắng và cao hơn chút ít. Duyên hỏi liền năm câu về vợ tôi. Bất giác, tôi nhìn lại bộ quần áo thảm hại mình đang diện, cái mũ như miếng giẻ nằm ở góc bàn. Chắc Duyên đã thấy rõ chúng.

Qua những lời Duyên kể, tôi thu tóm được những điểm chính của người và cảnh Tân Thanh. Các thành viên của nhóm thơ cũ đã tản mát mỗi người một nơi. Có thể thấy xa, nhiều người trong số đó, từ nay về sau tôi sẽ không còn gặp nữa.

Bé Ngọc tới hiên đưa tay ra ngoài nghịch nước mưa. Duyên nói:
“Anh quên hỏi một người”.
“Thu Tâm?”
“Tâm vẫn chưa chồng, nhưng đã có một con trai ba tuổi”.

Duyên kể chuyện Tâm. Những năm vừa rồi có nhiều chỗ khá tốt đến dạm hỏi, Tâm chẳng chịu ai, rồi đùng một cái nàng dan díu với một anh y sĩ cùng làm chung chỗ. Anh này có vợ. Năm ngoái Tâm bị đánh ghen một trận khá nặng.

Tôi đã thấy và hiểu tình yêu thường đem đến cho người ta nhiều chuyện ngoài y muốn, đau xót, trớ trêu, nhưng việc tai tiếng này của Thu Tâm cũng làm tôi buồn. Tôi không hình dung được gương mặt hiện nay của em. Trong trí tôi Tâm vẫn còn là cô bé xinh xinh, hay cười, thích kem ly, ya-ua, những lúc đọc truyện hoặc xem phim buồn thảm thường khóc.

Tôi bổng nảy ra ý muốn về thăm Tân Thanh.
“Tháng tới có phép, tôi sẽ về thăm chú thím và Tâm”.
“Thật không, hay nói qua đường cho vui?”. Duyên hỏi.

Tôi vội nói, như cam kết: tôi sẽ bỏ ra ba ngày về thăm Tân Thanh, thăm ông bà Mạnh và Tâm. Không hiểu sao bỗng dưng tôi lại sốt sắng như thế.

Ngoài đường, một đôi trai gái che chung dù đi chậm dưới mưa. Cái dù xanh. Cô gái trang phục toàn xanh, từ quần áo đến cái xách tay. Tuổi trẻ. Một hình ảnh đẹp, như tôi đã từng xem trong một phim nào đó… Đêm ấy về, nghĩ lại, tôi thấy nổi lên một điểm: suốt buổi gặp mặt không lúc nào tôi nhớ ra là mình đã từng ôm con người thơm tho này trong tay, nựng nịu như nựng mèo con, hôn hít hàng trăm lần.
“Anh chuẩn bị gà vịt sẵn nhé, mấy hôm nữa bọn này sẽ ra chơi. Vậy là nay chúng ta chỉ còn cách nhau có bảy cây số!”. Duyên nói.
“Không gần đâu bạn ơi. Con số 7 này cũng như số 5 tấc đất, cự ly xa cách giữa người chết và người sống”.
“Thảm quá!… Nay anh còn làm thơ không?”
“Tôi nghỉ. Đến khi nào làm được theo cách mới, tươi vui, khỏe khoắn, có ích cho đời, tôi sẽ cầm bút lại… Nhóm thơ chúng tôi thời đó, Duyên biết không, nếu được đưa ra đứng trước mặt thi hào Gơt (J.W. Goethe, 1749 – 1832) sẽ bị ông gọi là “những thi sĩ của bệnh viện”, vì chuyên ca tụng những thứ ốm đau bệnh hoạn”.

Duyên cười. Một chiếc xe đò bật đèn phóng vút qua. Mưa nặng hạt thêm, kiểu này thì khó biết đến lúc nào mới dứt.

[/read]

Quê Khô

Bà chủ Mộng Hợi trao cho Nghê tập danh sách em út.
“Mừng tái ngộ, bạn biến đâu lâu thế?”
“Mới bảy tháng, ra Trung và lên Tây nguyên”.
“Nay đông vui, nhiều gương mặt mới, tha hồ chọn”, bà quảng cáo.
Hai mươi ba em, nhiều cái tên lạ. Kim Xuân, 23 tuổi, cao 1,60 mét, 54kg – Lãng, 24 tuổi, cao 1,63 mét, 58kg – Lily Ha, 22 tuổi, cao 1,62 mét… Em nào cũng xinh, nhìn thẳng, không cười. Chọn lựa vài phút. Nghê vứt tập giấy xuống bàn. “Chị gọi giùm Lily Ha”.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Bà Hợi cười vui: “Mắt tinh đấy, nàng này dáng chuẩn, mới ra lò mấy tháng”. Bà mở hộc bàn, lôi ra một sổ tay, dò tìm.
“Đây, nghe cho rõ, nhà nghỉ Dã Thảo, 338 đường Phan Hồng, phường bảy, số điện thoại của Hà… nhớ chưa?”.
Bà tú mở tủ lạnh lấy ra một lon coca, đem đặt trước mặt Nghê. Nghê chồm tới ôm chầm cái thân hình tròn lẵn, hôn tới tấp lên hai má bà.
“Quỷ sứ, phạm thượng, chứng nào tật nấy không bỏ!”.
“Cho tôi âu yếm Hợi một lúc”.
Mộng Hợi vùng ra, quát: “Bà đấm vào mõm mày bây giờ… cút đi, đến khách sạn ôm ẵm con Hà”.
***
Nghê tới nhà nghỉ Dã Thảo trước Lily Ha hai chục phút. Cô nhím bảo, mình tên Báu, Lily Ha là dì Hợi đặt. Đây là điểm hẹn để gặp khách trong thời gian ngắn. Báu và một cô bạn mướn nhà trọ bên quận 6. Kể cũng lằng nhằng, nhưng phải như thế mới chắc ăn, an toàn.

Anh chị nhập động, như những người đã quen nhau lâu ngày. Báu thường nhìn trộm khách. Không có việc gì để làm ở đây. Không gian chật hẹp. Sàn diễn, chiến trường là cái giường rộng. Máy điều hòa hỏng. chiếc tủ rỗng, bàn nước nhỏ, tủ lạnh chứa hai loại bia. Chỉ vậy. Lily Ha cởi bỏ quần dài, nằm tênh hênh như đứa bé lơ đãng. Nghê nói vài câu chung chung, nói cho mình nghe, rồi khui một lon bia, mở để đó, không uống. Đây là tầng mười bốn, nhìn qua cửa sổ, người ta có thể ngắm lớp lớp mái nhà lô nhô. Rất ít cây trên phố…Dưới xa kia thiên hạ làm gì? Thì làm gì nữa, vẫn những cảnh cũ, bài bản cũ. Người đi lại, xe cộ nhốn nháo, ầm ĩ, quay quắt. Nắng chói chang. Học hành, tiệc tùng, cưới hỏi, cắm cổ chui rúc vào nhà máy tiệm quán hãng xưởng. Vậy thôi, gọi chung là cuộc sống, ở đâu cũng thế. Cạnh đó, lúc rỗi rảnh thì vào quán ăn, khách sạn, rồi hẹn hò với ai đó, một Diễm Hồng, một Út Em, một Dominique Luu, và đưa nhau lên một hang động ở tầng mười, tầng hai mươi nào đó. Lily Ha nằm dạng chân khiêu khích, nhắm mắt. Nghê hôn cái trán phẳng, mân mê vùng tứ giác êm êm. Nhím giả vờ ngủ.
“Lúc nãy, nhìn qua anh thấy em hao hao giống ai đó. Nghĩ một hồi thì…”
“Như ai?”.
“Giống mấy cô bé thi ca hát trên tivi”.
“Vậy là em đẹp?”
“Sao bọn gái thi thố, kể cả thi sắc đẹp, thường sắm kiểu mặt…”.
“Như mặt em?” Báu cười khì. “Vừa rồi, thấy anh em cũng giật mình”.
“Thiệt sao?”
“Anh chàng này giống ai nhỉ, em nghĩ. Lát sau nhớ lại, anh có nhiều nét giống tay diễn viên chính trong một phim Tàu em mới xem tháng trước”.
Nghê nốc nửa lon bia, đổ vào họng Báu nửa lon, rồi vào cuộc… Sàn đấu thơm mùi xà bông, êm ái. Ngẫm nghĩ thấy kỳ, mới trước đây vài tiếng anh chị hoàn toàn không biết nhau, mà giờ thì, giờ đã… Từ đó đến sáng hai người còn uống bia hai lần nữa, còn nói năng vẩn vơ, hôn hít nắn bóp nhau chục lần nữa. Gặp chỗ nào lấn cấn, Báu phản đối, Nghê liền rút tờ bạc một trăm ngàn nhét vào áo ngực nàng, vậy là êm… Đồng tiền, cái mớ giấy mềm nhàu ma quỉ không mặt mũi tay chân mà có thể sai khiến con người, có thể làm được nhiều việc to lớn.
“Em thấy đồng tiền có lạ không, Lily?”
“Gọi em là Báu, dân quê, em không hợp với Tây Mỹ”. Nghê vỗ nhẹ vùng tứ giác ẩm thấp. “Anh mê em rồi. Em ở đây vài hôm nữa, nghe?”
“Không, em trọ bên quận 6. Lần sau muốn gặp nhau ta sẽ chọn một chỗ khác”.
“Kỹ quá, có cần thế không?”.
“Dì Hợi dạy đấy… nên tin dì, bởi bà có gần mười năm chinh chiến”.
Nghê hôn cái miệng xinh đang nhai nhóp nhép. “Nhai kẹo cũng do bà Hợi dạy?”
“Dì rất khôn khéo. Chín chắn”.
“Còn phải nói, từng trải, tinh ranh, láu lỉnh… Anh đã ngủ với mụ mấy lần”.
“Thiệt à?”.
“Lâu rồi, lúc chị ta chưa lấy chồng… Còn sáu ngày nghỉ, anh không biết sẽ làm gì cho hết những ngày ấy”.
“Rồi anh đi đâu?”.
“Ra Thanh Hóa một tháng, sau đó quay vào Dak Lak”.
“Thích thiệt, đi nhiều biết nhiều.”
“Em ở với anh ba ngày, nghe?”
Nàng không trả lời ngay, Nghê nhắc lại lần nữa.
“Tiếc, mai em phải về quê”.
“Cần lắm à, ở đâu?”
“Phú Vinh, cách Đông Bình hơn trăm cây, về phía bắc”.
“Uổng, anh mê Lily nhím!”.
Báu có bà dì – dì Năm – chị ruột mẹ, cô độc. Dì không chồng, sống với một thằng con, nhưng chẳng may thằng nhỏ mất sớm, lúc mới ngoài hai mươi. Dì làm ruộng, làm mướn, sống tàm tạm. Nhưng về sau, càng già, mức sống của dì càng tụt xuống, xuống mãi, đến ngày gần bảy mươi dì vướng phải hai chứng bệnh già thì nó, cái thực trạng xám xỉn ấy, rơi sát đáy… Thế nên, khi mẹ chết, Báu đem dì Năm về nuôi. Do nhớ mẹ, Báu thương dì. Mới đây, dì lại rước thêm một bệnh nữa. Tính ra, cặn kẽ, nay tiền nuôi ăn, chi phí thuốc men cho dì nhiều hơn tiền ăn uống của Báu. “Có điều buồn cười, anh ạ. Hồi trẻ, những lúc giận nhau, dì Năm hay chửi má em: con đĩ thúi! Thuận miệng, bực tức thì chửi cho hả, má em không làm đĩ!”
“Em nói chuyện vui lắm”, Nghê khen. “Mai cho anh theo về thăm dì”.
Báu phân vân: “Làng em xấu hoắc, đang bị hạn hán, buồn chết, chẳng có gì để ngắm cả”.
“Đâu cần đẹp, anh muốn thay đổi không khí. Cứ nằm mãi trong phố này thì hết chui vào quán nhậu lại lê la trong mấy nhà ngủ… ngủ ngày ba buổi!”
“Được thôi… anh hơi “mát” đấy!”
Nghê hôn cái miệng cong vênh đang nhai chewingum.
“Em biết anh đang nghĩ gì không?” Báu lắc đầu. Nói em đừng giận: ghế làng hồn nhiên, cóc nhái ễnh ương mà có lòng nhân ái”.
“Dì Hợi dạy: để ý, đứa nào hôn ta nhiều thì mến ta thực lòng, nó sẽ còn đến gặp ta lai rai”.
“Bà ấy nhận xét hay”.
“Cái động đó, nhìn phớt qua có vẻ ngăn nắp, nhưng bên trong thì bèo nhèo, giả trá, quanh quẹo. Giả ngay từ tập menu chọn mặt gởi vàng. Em không cao không nặng như mấy con số ghi trong đó!”.
***
Báu có hai ngôi nhà khá to. Dì Năm sống với hai con chó ở nhà dưới, nhà trên đóng cửa. Báu nhờ bà Khả, người hàng xóm, lo phần việc ăn uống cho dì… Vắng ngắt, buồn hiu, cả làng buồn. Ở đây đất vườn rộng, nhà cửa thưa thớt. Cây thì dừa, xoài, cau, me. Thời nay còn giữ cau làm gì?

Báu giới thiệu Nghê với dì Năm: “Anh Nghê, bạn trai của con”. “Rõ rồi, bạn trai”. Dì nói, chậm và nhỏ. Báu hỏi dì về bệnh tình, thuốc men. Tai, mắt dì tốt, nghe rõ, nhìn rõ, nhưng khâu ăn hơi xộc xệch. Mỗi lần dì chỉ ăn một chén cơm, nên mỗi ngày phải ăn sáu bảy lần… Báu tặng ba đứa con bà Khả nhiều bánh kẹo, đồ chơi, để ban đêm chúng sang ngủ với dì Năm. Chu đáo. Dì như mẹ. Biết vậy, nhưng không phải ai cũng thương chú bác cô dì. Thử hình dung, người sống một mình trên đời, không nhà cửa, không cha mẹ chồng con, bệnh quặt quẹo…

Nghê đứng bên bờ ao, nhìn đồng ruộng khô rang trước mắt. Không trâu bò. Không heo gà. Ba, bốn người đội nón, che mặt đi lại, thơ thẩn. Mùa khô, ngó đâu cũng thấy eo xèo, héo úa, bệch bạc. Không thấy những cánh cò bay nhởn nhơ trong ráng chiều. Không có đàn trâu đỏ chạy ngang dọc, nổ máy vang trời. Cùng là người, nhưng những người sinh ra ở đây, sống trong tình cảnh này… Không lâu đài dinh thự cao sang, không phố xá đông đúc xe cộ sáng choang. Nắng nôi, liêu xiêu, mùa khô sẽ còn kéo dài bao lâu.

Về đây Báu sắm bộ mặt khác. Cô nàng nhét bộ quần áo diêm dúa vào giỏ, lôi đồ cũ ra mặc, “Nhân vật vẫn là nông dân, những con người có gốc rễ lâu đời ở đây, nhưng ông trời (đạo diễn) đã khác”, chỉ cái giếng nước cạn khô, Báu nói. “Trước kia trời thuận, mười năm gần đây bỗng nhiên trở chứng, gió nắng nhiều, mưa ít, năm nào cũng thiếu nước bốn, năm tháng. Ở quê mà phải mua nước uống, một ngàn ba chục lít, ốt dột!”

Bà Khả ngồi làm cá kế bên, góp chuyện: “Lão trời ác ôn, nói thêm mệt, than thở cho lắm chỉ tổ hao hơi!” Nghê đùa: “Trời xanh tâm thần”. Báu và bà Khả trò chuyện suốt buổi. Thì ra cái xứ èo uột này (Phú mà trơ xác, Vinh lại tối tăm) cũng có nhiều thứ để nói. Toàn chuyện vụn, nho nhỏ, phập phù, là lạ. Nghê ngồi nghe, như trẻ con nghe cổ tích… Bà Khả vào bếp. Nghê nói nhỏ: “Cách đây ba hôm Phú Vinh không nằm trong đầu anh”. Báu không nghĩ về chuyện làng, nàng nhớ bà động chủ.
“Ngủ với Mộng Hợi anh thấy thế nào?”
“Thế nào là sao”, Nghê ngạc nhiên “thì cũng vậy vậy, nồng nàn, nhiệt tình, rất… đàn bà”.
“Kể cũng buồn cười!”
“Nếu còn bơi trong môi trường đó, em sẽ gặp nhiều chuyện tréo ngoe, trái ngang, rối nùi… Này, người đẹp, hãy quên nó đi, coi như anh chưa nói”.
Anh chị ra chợ xã ăn tối. Quán nhỏ, tám cái bàn, hai bàn có khách. Một người nấu, một người bưng bê. Đồ ăn ngon, có mấy món lạ. Chị tiếp viên đến tán gẫu với Báu một lúc. Chị hỏi Báu ra phố làm gì, ở đâu, lương lậu thế nào. Chị nói, chồng chị vào Biên Hòa làm mướn đã hơn nửa năm. Gặp gì làm nấy, do anh chỉ biết cày bừa, không rành nghề nào khác. “Lương tháng chỉ hơn bốn triệu, nặng nhọc, làm phờ râu, cũng phải làm, vì nắng hạn, ruộng nẻ đất, ở nhà làm gì. Hai bạn thấy không, trai trẻ đi hết, làng xóm chỉ còn rặt đàn bà trẻ con, đồng khô cỏ cháy… Con gái vùng này đi làm nhiều. Làm gì. Không nghề, ngơ ngác, nghe nói lên đó toàn ở đợ, nói cho đẹp là giúp việc nhà, bán buôn lông nhông, làm điếm”.

Chị bỏ đi, nhưng âm hưởng buồn của mấy tiếng làm điếm, đồng khô cỏ cháy như vẫn còn lởn vởn quanh bàn ăn… Ra đường, lên xe, Nghê nói bâng quơ “mưa dội nắng thiêu, nắng lửa mưa dầu”. Có lẽ đây cũng là nguyên nhân khiến nàng Báu mạ non biến thành em Lily Ha mướt rượt.

Lê Văn Thiện

[/read]

Kinh Dương Vương

Kinh Dương Vương
Bài Thơ Cho Bạn Tôi

Dáng anh cao lớn và oai nghiêm, thoạt trông trẻ con hoảng sợ. Nhưng rồi chúng đến vây quanh anh thân ái, khi chúng nhìn thấy đôi mắt hiền, buồn như mắt của một nghé tơ và giọng nói nhẹ dịu lòng. “Các cháu lại đây với chú. Nào, lại đây với chú”

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Anh hãy còn độc thân. Anh yêu một người con gái, nhưng nàng không yêu anh, đã từ lâu, và anh còn yêu nàng mãi… Anh vẫn viết thư thường xuyên cho nàng, những bức thư là những bài thơ tình tuyệt vời không bao giờ có hồi âm.

Bạn tôi, anh là lính trận, nhưng cũng là một thi sĩ. Tôi nghĩ rằng anh chỉ là một thi sĩ. Anh viết những bài thơ trong bụi rậm, trên quyển sổ tay nhỏ, giấy bao thuốc lá hay những mảnh giấy vụn. Những bài lục bát không bao giờ xuất hiện trên mặt báo. Nhưng cây lá, những cỏ mọn hoa hèn và côn trùng – những chú dế nhỏ, cào cào, sâu bọ – biết qua giọng ngâm gợi cảm của anh. Và vài người bạn thiết nhận được những bài thơ của anh từ những vùng hành quân xa xôi.
Anh liên miên đi từ chiến trường này đến chiến trường khác.

Đầu Thu: Anh đang ở mặt trận Tây nguyên, Kontum. Nơi đó có gia đình vợ con tôi. Anh thường ra thăm lũ trẻ, đem theo những viên kẹo và những chiếc bánh ngọt – anh đã mua với số tiền nhín ra từ đồng lương ít ỏi của anh.

Khi tôi về phép thăm nhà thì anh đã theo đơn vị đến một chiến trường khác vùng duyên hải. Tôi không được gặp anh.

Anh gởi người bạn mang về cho tôi tập thơ “Kẻ tiên tri” của Kalil Gibran, anh đã cẩn thận, sửa những lỗi in sai. Anh viết cho tôi trong một bức thư ngắn với nét chữ run rẩy, rằng anh đang bị sốt rét rừng. Anh gởi lời thăm tôi và gia đình an mạnh, mong giữa mùa thu sẽ gặp lại. Tôi viết thư trả lời anh. Cầu chúc anh luôn gặp những điều may mắn và cũng mong sẽ còn gặp lại nhau.
Nhưng anh đã nhận được thư của tôi chưa?
Giữa mùa thu:
Tôi được tin anh đã trở lại chiến trường Pleime, nơi đó anh bị thương. Một mảnh thép đã len vào thân thể anh, nằm trong phổi khiến máu anh chảy ra nhiều cùng với những chiếc bong bóng màu hồng. Việc tản thương chậm chạp và anh đã bất tỉnh. Anh vào nằm bệnh viện và qua một cuộc giải phẫu.
Người bạn anh nhờ mang sách về cho tôi kể chuyện:

Buổi sáng, anh tỉnh dậy sau cơn mê man suốt đêm. Anh đã ngồi lên được và anh hút thuốc – thú vui duy nhất của anh đó mà. Buổi trưa anh cảm thấy mệt nhiều. Anh đã nói với người bạn nhờ nhắn lại cho gia đình tôi biết, nếu anh mệnh hệ nào. Đúng nửa đêm hôm đó…

… Bạn tôi, người bạn thi sĩ mà tâm hồn cao thượng và hiền hòa như lá cây đã vĩnh viễn từ biệt cuộc đời.

Có linh hồn không? Và linh hồn anh đã bay về đâu? Hẳn là linh hồn anh đã nhập vào những nụ xanh của một mùa xuân vĩnh cửu. Hay đến cư ngụ nơi một vì sao, trong ánh trăng vô thủy vô chung, hay đang bay lượn trên những tầng thanh khí? Ở đó, anh không còn là thi sĩ nữa, anh chính là thơ. Một bài thơ vô thanh vô sắc mà con người chỉ có thể nhận ra bằng linh cảm, với xúc động bàng hoàng. Một bài thơ đẫm lệ âm u.

Từ nay, trên thế gian, không nơi đâu tôi có thể tìm thấy bạn tôi, với nụ cười hiền hòa và đôi mắt như mắt một con nghé tơ nữa. Cuộc đời chúng tôi đã bị chia cách bởi một vực thẳm huyền bí mang tên Tử biệt. Chúng tôi có bị chia cách thật không? – Không – Tôi muốn tin như thế cho đến ngày tôi bước vào thế giới của anh và cuộc đời chúng tôi được nối kết lại – anh vẫn còn tiếp tục sống trong đời sống của tôi.

Tôi lần dở những trang sách anh tặng tôi vào đầu mùa thu. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp vài nét chữ của anh. Hẳn những dấu tay anh mà tôi không trông thấy còn in lại trên những trang sách? Những trang sách giữ lại một cách vô tình hơi hướm của anh? Tôi đọc lại bức thư cuối cùng. Những nét chữ run rẩy vì cơn sốt rét rừng giờ đây run rẩy trong tâm hồn tôi.

Sáng nay, một buổi sáng xanh có nắng trong nhuộm rực rỡ khu rừng nơi dừng quân, tôi nhớ đến bạn tôi. Tôi muốn nghĩ rằng ở một nơi nào đó anh vẫn còn đang sống. Trong ánh nắng vàng trong vắt của bình minh kia anh đang cười và trên những chiếc lá xanh kia anh đang viết những câu thơ lục bát bằng ngòi viết tâm hồn anh và mực nắng ban mai. Anh đang nhớ đến người con gái anh yêu, gia đình anh, bè bạn và đời sống.

Nhưng không, mặc cho sự phỉnh phờ của cơn mơ mộng, trong tận cùng tâm trí tôi có một nơi bóng tối không chịu rời xa – dù chỉ một chút bóng tối nhỏ nhoi – từ đó một tín hiệu âm u liên tục đánh đi và tâm hồn tôi luôn tiếp nhận, rằng: “Bạn anh đã chết! Bạn anh đã chết! Đã. . . chết!”

[/read]

 

Ông Thơm

Tạo hóa công bình khi đặt sự sống dưới dạng hóa học là acit amin. Con người ăn bất cứ chất hửu cơ gì, tiêu hóa đều biến thành acit amin nuôi sống được cơ thể. Nếu người ta chỉ sống được nhờ cá, thịt bò, thịt heo, thịt trừu, thịt dê, bơ sữa – là những thức ăn cao cấp – chảy trong huyết quản thì dứt khoát người nghèo không thể sống được vì họ chỉ ăn rau, ăn cỏ, ăn củ, cua sò ốc hến vì các thứ thịt cấp cao hay cấp thấp cũng đều biến thành ra máu, thành acit amin.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Thân khỏe mạnh suốt thời gian dài trong nghịch cảnh cũng nhờ sự công bình đó của tạo hóa. Dạo ấy, người ta truyền miệng thành châm ngôn : “Cái gì nhúc nhích là ăn”. Nhưng có một loại côn trùng nhúc nhích, lại rất nhiều mà không ai dám ăn. Riêng Thân dám ăn.

– Tại sao không ? Thân nghĩ. Bên Tây cũng có món ăn như vậy, mà còn cho là cao cấp nữa, chỉ giới quý tộc sang trọng mới có mà ăn. Ở đây loại côn trùng này chỉ khác môi trường sống thôi. Một hôm đi ngoài ở cầu tiêu lộ thiên, nhìn xuống hàng triệu triệu con côn trùng đang nhung nhúc, thỏa thuê hưởng thụ vũng phân người, Thân nghĩ ra món ăn đó : dòi phân.

Thân đan một giỏ tre lỗ nhỏ. Mỗi lần đi cầu lén múc đầy một giỏ dòi đem xuống suối tẩy rữa thật kỹ, luộc chín, cẩn thận thay nước nhiều lần, rang vàng, giả nhuyển trộn với vài thứ lá rừng thơm rồi cho vào lọ cất. Mặc dù vậy cái mùi chất thải thấm vào thịt dòi không thể nào mất đi được. Mỗi ngày trước khi đi ngủ, Thân kín đáo lấy ra, nín thở uống một muỗng canh với nước lả. Có người trông thấy tò mò hỏi, Thân nói trớ là uống thuốc Nam gia truyền.

Chẳng bao lâu nhờ chất protein thị dòi, Thân từ ốm yếu trở lại bình thường và khỏe mạnh, dù không được thăm nuôi, Thân ít bị đau ốm. Ðược tạm tha, Thân về gặp lại vợ con da thịt hồng hào.

Thân rất hãnh diện về sáng kiến của mình. Nhưng đó là một bí mật tuyệt đối của Thân, sống để dạ chết mang theo xuống mồ. Kể cả vợ con là người đầu gối tay ấp Thân cũng không hé môi.

Thân sống vui vẻ hạnh phúc, được mấy năm bỗng bị một chứng bệnh lạ.

Vợ Thân kể :
– Chị ạ, thoạt tiên ảnh kêu không ăn được cá thịt hoặc những món gì có mùi tanh. Mắm là món ảnh rất thích nhưng giờ chỉ ngửi xa xa cũng đủ làm ảnh không chịu nổi. Ảnh nói :
– Cái màu xám nhờ nhờ và cái mùi… giống món “thuốc Nam gia truyền” quá !
– Món thuốc gì anh ? Em thắc mắc hỏi.
– À không. Nghe mùi mắm trong cổ họng anh như có con gì ngọ nguậy… Rồi ảnh ôm bụng nôn thốc tháo, ra cả mật xanh mật vàng. Em phải mua đồ chay cho ảnh ăn, nhưng ảnh lại không chịu nổi mùi chao. Ít lâu sau, cơm cũng làm cho ảnh sợ. Thân nói :
– Nhìn vào chén cơm anh thấy ghê ghê làm sao. Cơm chúng bò nhung nhúc em ạ.

Từ đó ảnh chỉ sống nhờ bắp khoai ăn với muối.

Bỗng mặt chị đỏ bừng :
– Nói xấu hổ, vợ chồng em dạo sau này không ngủ chung nữa. Khi bệnh mới phát, những khi gần gũi ảnh chỉ tránh né không hôn em. Ảnh không dám để miệng chạm vào da thịt em chị à. Dường như da thịt em dơ bẩn vậy. Em hôn miệng ảnh cũng đẩy ra. Rồi ít lâu ảnh lơ hẳn chuyện vợ chồng, ra nằm riêng. Hễ em hay các con đến gần là ảnh lảng đi. Có một việc hết sức trái với tính nết ảnh, ảnh rất ghét nước hoa, kể cả em cũng không cho dùng, vậy mà bây giờ ảnh lại xức nuớc hoa, còn xức quá lố nữa. Mỗi ngày tắm bốn năm lần, kỳ cọ cả tiếng đồng hồ. Ngửi tay chân kiểu chó đánh hơi. Bị em bắt gặp ảnh nhìn em lấm lét. Em biết ảnh bị bệnh nhưng không biết bệnh gì. Ðưa đi nhà thương ảnh không chịu.

Một hôm ảnh nhìn em với ánh mắt xa lạ hỏi :
– Chị ngửi tôi có thối không ? Rồi ảnh cười. Một vũng phân đây nè. Dòi bò lúc nhúc chị không thấy hả. Chúng đang ăn thịt da xương tủy tui, chúng đục khoét thân thể tui… hà hà… Chị ạ, nhà em điên thật rồi.

Thân xa lánh hẳn vợ con, bỏ nhà đi lang thang. Từ đó Thân có biệt danh là “ông Thơm”. Tiền có được từ những người hảo tâm Thân mua hết nước hoa tẩm vào người. Trẻ con chạy theo chàng gọi ” ông Thơm… ông Thơm”, nghếch mũi lên hít hít ” thơm quá… thơm quá “.

Thân sống nhờ rau cỏ, bắp khoai hái trộm trên nuơng rẫy. Ăn nguyên chẳng nấu nướng. Có lần bị chủ rẫy bắt được đánh bể đầu. Vợ đem thức ăn đến Thân không ăn, chạy trốn.
– Cuối cùng ảnh sợ hãi tất cả mọi người, lánh ở những nơi vắng vẽ, có khi chui rúc ngồi trong lùm bụi.

Như vậy Thân cũng chưa yên tâm. Chàng cẩn thận viết tấm bảng ” cấm hốt phân ” đeo trên cổ, quàng ra trước ngực, sau lưng. Có người đùa dai khi gặp chàng làm cử chỉ như muốn vồ, Thân vừa chạy vừa la : “Ðừng hốt tôi ! Ðừng hốt tôi !”.

Thân thể Thân càng ngày càng tiều tụy. Vợ Thân đưa chàng vào bệnh viện tâm thần, điều trị được ít lâu thì Thân mất.

***

[/read]

 

Những Giọt Nước

Người thanh niên dần dần hồi tỉnh sau khi ngất đi vì bị một trận đòn hội chợ bằng dùi cui và báng súng. Anh mở hé cặp mắt nặng trĩu sưng húp, trước mắt có một cái bóng chờn vờn che khuất, hơi thở nóng của một người nào đó phả nhè nhẹ và những sợi tóc dài lòa xòa trên mặt làm anh nhột nhạt.- Minh tỉnh rồi! Tiếng người con gái thốt lên vui mừng. Một bàn tay mịn, mát rượi đặt lên làn trán nóng hâm hấp của anh.
– Chị Lan hả? Gã liếm làn môi khô, cố cất tiếng hỏi. Còn mấy người kia đâu? Anh thốt nhớ đến các bạn.
– Ở cả đây, trong khám, người con gái tên Lan đáp, giọng đượm vẻ bởn cợt. Bị hốt cả rồi.
Người thanh niên bật ngay dậy, nhưng một cơn nhức đầu khủng khiếp vật ngã anh trở lại. Anh có cảm tưởng bị hai gọng kìm nhọn kẹp chặt vào hai bên thái dương. Đầu anh giật lên từng cơn đau buốt làm mắt anh đổ lửa.
– Minh nằm xuống nghỉ đi! Người con gái vội đỡ cho anh từ từ nằm xuống. “Bị hốt cả rồi”, anh nghe mơ hồ lời người bạn gái nói, nước mắt bỗng trào ra khỏi hai khóe mắt nhắm.
Lúc sau anh lại mở mắt ra.
– Minh thấy trong người thế nào? Vẫn giọng trong trẻo dịu dàng ấm áp của người con gái.
– Cám ơn chị, đã khá. Người thanh niên trả lời sau một giây im lặng. Chưa chết đâu chị, đừng sợ. Anh trở mình ra thấy toàn thân đau như dần.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Anh nằm trên nền xi măng lạnh ẩm, một mùi hôi thối xông lên trong căn phòng tối mờ. Khi đôi mắt anh quen dần với bóng tối, nhận ra gương mặt đẹp của cô bạn gái, nhem nhuốc và mái tóc rũ rượi, nhưng đôi mắt vẫn trong sáng vẻ ngạo nghễ, đang trìu mến nhìn anh lo âu. Hai vành môi đỏ thắm hơi khô, nhưng hình như đang mỉm cười.
– Minh bị ngất đi có hơn hai giờ rồi. Nàng nói. Họ xúm lại đánh Minh dữ quá. Đủ các loại cớm chìm nổi. Minh vừa ngất đi thì hàng ngũ cũng tan rã, cả bọn bị hốt vất lên xe GMC.
– Cho tôi ngồi lên – Anh nói. Người con gái khó khăn xê dịch đỡ anh tựa vào vách. Anh nghe tiếng kim khí va chạm cùng phòng, hai chân anh không nhúc nhích được – Anh đưa tay vuốt ve chiếc còng sắt lạnh lẽo.
– Còn chị Lan? Anh chỉ đưa mắt hỏi.
– Cũng thế! Người con gái mỉm cười đáp. Thì cùng là tội đồ mà! Nàng thốt cười lên nho nhỏ. Minh cũng cười.

Tuổi trẻ thật đáng yêu biết mấy. Nghịch cảnh không làm nản chí họ được vì lòng họ tràn đầy những ước vọng tinh khiết. Với bầu máu nóng, họ lao vào hành động. Chết cho lý tưởng không nao núng, có một niềm hân hoan và nên thơ. Trái tim luôn giữ niềm hy vọng chói sáng. Trái tim chứa những búng máu tươi đỏ thắm đọng lại thành hồng ngọc.

Anh nhìn những người bạn đang ngủ trên bậc xi măng cao hơn, họ ngủ say bình thản như đang nằm trong chăn ấm dưới mái gia đình. Một niềm thương yêu bao la lớn lên trong lòng anh.
“Bạo lực có thể tiêu diệt thể xác nhưng không thể tiêu ý chí”. Anh thầm nghĩ. “Bạo lực sẽ nguội lạnh còn ý chí tuổi trẻ luôn luôn được nối tiếp nung nấu. Tuổi trẻ như măng rừng. Người ta có thể đốn ngã những thân tre, nhưng rừng măng từ lòng đất vẫn tiếp tục mọc lên không ngớt. Rừng măng tua tủa như rừng gươm.

“Tuổi trẻ như lửa, ý chí như gió lớn”. Lửa ngọn có thể bị dập tắt, nhưng không thể dập tắt lửa âm ỉ cháy trong muôn triệu trái tim trẻ. Và không thể ngăn cho gió đừng thổi. Gió bất tận rẽ đưa lửa đi, thứ lửa của nhiệt huyết tiềm tàng, thiêu cháy rụi kim cương”…Trái tim anh bỗng đập mạnh. Máu chảy nhanh trong các huyết quản làm thân thể anh trở nên ấm nóng. Trước mắt anh lại hiện ra những gương mặt trẻ, mắt sáng ngời, lòng háo hức. Những đêm thức ròng rã đánh máy, quay ronéo, viết biểu ngữ. Những chữ Hòa bình – Tự do, cơm áo… được tô đậm nét trên nền vải trắng đỏ chói như viết bằng máu thơm đẹp tuyệt vời… Đoàn người hăm hở kéo đi như một thác lũ, như cuồng lưu, sắp sửa quét sạch những rác rưới nhơ bẩn. Nhưng một bức tường đã chắn lối. Đoàn người quyết vượt qua bức tường kẽm gai, mặc cho những mũi gai nhọn đâm tuôn máu.

Những quái vật hình người mặt thú xuất hiện. Quái vật phun nọc độc mù mịt. Nọc độc làm cho những đôi mắt sáng chợt tối tăm. Nọc độc làm cho bao tử cồn cào, nôn mửa, rồi ngất xỉu. Nọc độc thấm ướt áo quần làm cho ngứa ngáy, lở da bỏng thịt. Đoàn quái vật tiến lên, những người trai trẻ bị chúng cắn, cấu xé chảy máu. Họ thất thế. Các quái vật mang họ về sào huyệt.
Tất cả đã tỉnh dậy. Họ nhìn nhau, im lặng cười. Những nụ cười hồn hậu như lóe sáng trên những gương mặt thư sinh.
Cánh cửa sắt nặng nề bỗng vụt mở. Ánh chiều tà dọi vào làm sáng hẳn căn phòng. Người thanh niên nhìn rõ quanh miệng lỗ tròn của hầm tiêu phân người khô đóng lớp dày mà với ánh sáng ít ỏi từ một lỗ vuông gần trần nhà soi vào không nhận ra được.
Gương mặt một người đàn ông ló vào.
– Đói chưa? Gã hỏi, giọng khô khan. Đó là cái giọng đặc biệt của người cầm dao đối với lũ cá trên thớt.
– Đói! Đói! Đói! Những cái miệng tranh nhau nói lẫn với những cái miệng cười đùa cợt.
– Đợi! Y nói, rồi đóng mạnh cửa lại.
Một lúc những vắt cơm nguội nhét muối, nước lã được đưa vào qua một lỗ nhỏ ở cửa sắt. Tất cả ăn ngon lành. Họ hát đồng ca những “bài hát cho quê hương” vang dội trong phòng kín. Không phải tuổi trẻ, không mang bầu nhiệt huyết sôi sục, người ta không thể cất lên tiếng hát hùng tráng đó. Tiếng hát sẽ bay qua bốn bức tường, vang tiếng tận mỗi trái tim những người trai trẻ khác. Và họ sẽ bắt giọng cất lên hát theo.

Nửa đêm, trong khi mọi người đang ngủ, họ bị đánh thức dậy đột ngột. Ánh sáng một ngọn đèn chói chang như xỉa xói vào mắt họ.
– Ai tên Minh. Tiếng một người đàn ông hỏi.
– Có tôi. Người thanh niên lên tiếng.
– Ngồi riêng ra. Ai tên Lan?
– Tôi. Người con gái đáp nho nhỏ, mắt dịu dàng nhìn thẳng vào mặt gã.
Gã đàn ông nhìn cô xoi mói, khèo một ngón tay làm dấu…
– Hai người theo tôi..
Những vòng sắt được đưa từ cổ chân lên cổ tay. Cánh cửa đóng ập lại. Một lúc, mở ra, đóng ập lại. Rồi lại được mở ra, nhiều lần. Lần cuối cùng khi cánh cửa nặng nề nằm im thì căn phòng hoàn toàn vắng vẻ.

Nhật ký của Minh.
Mãi sau này tôi mới nhận ra, thuở nhỏ tôi là một đứa trẻ độc ác. Nhưng sự độc ác đó, có lẽ cũng giống như hầu hết những đứa trẻ cùng tuổi khác vậy.

Khi đã khôn lớn, có lần tôi bắt được một con chuồn chuồn rất đẹp, đem cho đứa em nhỏ nhất nhà, yên trí rằng nó cũng nhận thấy như tôi là con vật đẹp đẽ dễ thương và nó sẽ nâng niu. Tôi hoàn toàn lầm lẫn về điều đó, tôi vừa quay đi nó đã tẩn mẩn bứt cánh, ngắt đầu, xé manh xé mún con vật ra, vất tứ tung. Thoạt tiên, tôi giận, định mắng nó một trận, nhưng bỗng nó ngước mắt lên nhìn tôi cười, nụ cười ngây thơ với đôi mắt long lanh đen láy như hai hạt nhãn nằm trên một nền trời xanh trong ngọc bích. Một tình cảm đối nghịch liền đến làm cho cơn giận tôi an đi. Đó là hình ảnh của tôi. Phải, chẳng khác tí chút nào.

Hành động đó đâu phải là tội ác, nó làm vậy mà nào biết rằng đó là một tội ác đối với con vật? Không thể đem một qui tắc luân lý nào để kết tội nó. Không có một mục đích, một mưu toan, hay suy tính nào trong hành động đó mà chỉ dưới mắt tôi, mới có tính cách độc ác mà thôi. Nhắc lại nó không cảm thấy đó là tội ác, nó làm không chút hối hận, cứ trông nụ cười hồn nhiên và đôi mắt ngây thơ vô tội của nó thì biết.

Lúc nhỏ, tôi rất mê chơi đá cá thia thia. Tôi thường bỏ buổi học, giấu cặp sách trong các bụi rậm, lội xuống những đám ruộng cỏ mọc thấp, nước xấp xấp, đi “đâm” cá thia thia.

Cá thia thia là một giống cá nhỏ, có nhiều màu sắc xanh, đen, đỏ, lục, biếc rất đẹp, đặc tính của nó rất hiếu chiến. Chúng thường ở chỗ nước đọng, trong những bụi cỏ kín đáo. Cá đực nhả bọt trắng phau như một bãi nước miếng đặc làm tổ cho cá cái đẻ vào đó. Cá đực ở lại giữ cho ca cái khỏi ăn và ở lại trông coi cho đến khi trứng nở, sau đó lại giữ cho đến lúc cá con rẽ bầy. Đi dậm cá chúng tôi chỉ cần tìm những nơi cá đóng bạt, dùng một cái rổ nhỏ xúc là bắt được những con cá đực, đem về nuôi trong những cái keo hay chai thủy tinh trắng. Cá ăn cung quăn hay trùn chỉ, nuôi khoảng ba bốn hôm thì cá sung sức, lên nước mun đen, trổ hết các mầu sắc lấp lánh và cá bắt đầu đá bóng trong gương soi. Có khi chỉ cần để một ngón tay vào cá cũng phùng mang, xòe đuôi, giương kỳ xấn tới tấn công rất hung hăng, có thể cáp độ đá được rồi.

Cá thia thia hiếu chiến một cách kỳ lạ. Có lẽ vì cái tánh hiếu chiến đó nên người ta mới lợi dụng xua chúng vào cuộc để mua vui trong trò đen đỏ. Chúng đá rất hăng, gặp nhau là sấn vào cắn nhau tơi bời hoa lá, cho đến khi có một con chạy hoặc “đâu mỏ”, rồi cả hai kiệt sức mà chết. Gặp trường hợp này cử tọa vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt và hai chủ cá cũng cảm thấy hảnh diện đã nuôi được một con cá anh dũng gan lì.

Những con thắng cuộc được đem về o bế, săn sóc kỹ lưỡng. Con nào thua tôi đem ra xử tội ngay.

Tôi không biết cái cách thức giết những con cá bại trận đáng thương một cách độc ác như vậy do ai bày ra, chỉ thấy mấy đứa trẻ khác làm, tôi bắt chước theo.

Tôi để những con cá “sọc dưa” vào một chai nhỏ đầy nước, đậy nút lại thật chặt, lấy một cái que nhỏ gõ vào chai. Gõ mạnh thì chỉ cần một hai lần là cá đã dẫy lên mà chết tốt, nhưng như tôi đã nói, tôi là một đứa trẻ độc ác, tôi thích kéo dài thời gian làm tình làm tội con vật, theo tôi, đã phạm một trọng tội: thua cuộc! Tôi chỉ gõ nhẹ nhẹ từng cái một, mỗi lần gõ con cá nhỏ như bị điện giật, nẩy lên lật ngữa ra, bất tỉnh một lúc. Tôi chờ cho cá tỉnh lại rồi gõ tiếp, tôi gõ như vậy có đến vài chục lần con cá mới chết hẳn. Như thế chưa hả, tôi còn lấy xác cá ra bắt đầu ngắt hết kỳ vi, đuôi, mọi thứ rồi bóp con cá giữa hai ngón tay đến nát nhầy ra.

Còn một lối giết cá khác nữa. Tôi cũng cho cá vào một chai nước đầy nong một ngón tay vào miệng rồi giật mạnh ra. Cách này tàn bạo hơn cách trước, tuy nhiên, con cá tránh được thời gian kéo dài sợ đau đớn. Nó chết ngay.

Khi ngón tay rút ra khỏi miệng chai, một tiếng “póc” nhỏ vang lên như tiếng mở rượu sâm banh. Con cá từ dưới đáy vọt lên miệng chai như một mũi tên, lật ngữa cái bụng trắng hếu ra tức nước, chết tươi. Sức ép của nước do cái rút tay tạo nên có khi làm vỡ cả cái chai nữa. Tôi nhìn xác nó, từ từ nhìn xuống, cảm thấy hả dạ.

Nhớ lại, tôi thấy quả thật tôi là một đứa trẻ quá sức độc ác khi tôi thưởng thức một cách thích thú sự quằn quại của con cá bị tôi hành hạ.

Bây giờ chính tôi đóng vai một con cá thua cuộc. Tôi không ngạc nhiên nhưng tôi cảm thấy một nỗi đau đớn về tinh thần.

Tội ác của tôi, dẫu sao cũng có thể tha thứ được, tôi chỉ hành hạ một con vật nhỏ bé thôi mà, lại ở trong lứa tuổi chưa có ý thức về lẽ thiện ác. Tôi không thể tưởng tượng nổi nếu như tôi cùng là giống cá thia thia như chúng mà tôi lại có thể hành hạ chúng như vậy. Còn tôi, tôi bị chính những đồng loại mình hành hạ. Chai nước đổi thành thùng phuy nước xà phòng và cái que nhỏ đổi ra một thanh gỗ to.

Làm sao có thể để biện minh một cứu cánh coi như lý tưởng để hành hạ một cá nhân có những tư tưởng đối lập? Phương chi cứu cánh đó chỉ là một hoài vọng nông nổi – nếu không muốn nói là ngụy tạo và vụ lợi – và sự hành hạ thì hoàn toàn, có tính cách đàn áp tiếng nói đối lập chính đáng, phản kháng những tệ trạng hậu quả của những chính sách hư mê?

Dập tắt tiếng nói đối lập bằng bạo lực chỉ có thể là phương thức của những chế độ độc tài quân phiệt. Những tay sai ngu xuẫn thì coi sự hành hạ đó như một sự trả thù, một sự bỏ tức vô lý ngây thơ – nếu nghĩ có một tí ti lý tưởng nào trong những hành vi tàn nhẫn của họ thì khôi hài hết sức – họ chỉ làm cho đã cái nư giận của họ vì chúng tôi đã làm rầy rà họ – nếu không thì họ sẽ có thì giờ nhiều hơn để giải trí – không cư xử tàn nhẫn với tôi một cách vô tội vạ và vô trách nhiệm – đó chính là điều làm cho tôi cảm thấy một nỗi đau đớn sâu xa. Một nỗi hổ thẹn không kềm chế.

Nhật ký của Lan

Anh yêu dấu,
Em sẽ kể anh nghe cơn ác mộng em vừa trải qua.
Em buồn rầu vùi mình vào lòng anh để xin anh tha lỗi. Mọi sự xảy ra, chắc chắn không do tự nơi em, trong một cơn ác mộng em hoàn toàn phải đóng vai thụ động. Em đau đớn về cả thể xác lẫn tâm hồn, và nỗi đau lớn lao quá đã làm cho lòng em trở nên dửng dưng một cách kỳ lạ, như em cam chịu phần số không may cùng với lòng khinh bỉ.

Hẳn là em còn nhớ rất rõ ràng điều nhục nhã xảy đến cho em, vậy mà lúc đó cũng như giờ đây, em không nhỏ ra được một giọt nước mắt. Nhưng anh đừng đột ngột hiện ra bên em mới được, vì nếu anh có mặt ngay bây giờ ở đây, thì em không thể giữ mình được, dẫu em có bị trói bằng dây sắt, em cũng phá tan để lết tới bằng đầu gối ngã vào lòng anh mà khóc như dông bão, và em tưởng chừng nước mắt em hoàn toàn làm ngập lụt ướt đẫm hai thân thể chúng ta. Chúng ta sẽ tắm bằng nước mắt của em, để gột sạch những xúc động nhơ nhớp mà người ta đã gieo lên thân thể em với ác tâm. Vâng, em sẽ khóc, khóc để tẩy uế.

Anh yêu,
Anh còn nhớ cây đào tiên với đôi quả kề nhau mới chín tới của em không? Cây đào hiếm hoi quí báu mà cha em đã công khó vun trồng, săn sóc, gìn giữ suốt hai mươi năm nay và từ khi em biết được sự quí giá chúng em cũng đã góp công gìn giữ. Hai quả đào tiên đó là của hồi môn duy nhất cha mẹ em để lại cho em. Em tâm niệm dành thức ăn quí hiếm đó cho anh, người chồng tương lai yêu dấu của em. Anh không biết được rằng em yêu anh đến chứng nào và em quyết rằng khi chúng ta đã thành chồng vợ em sẽ hiến dâng cho mình anh tận hưởng của hồi môn của em: đôi quả đào tiên đó. Em chỉ nhận sự sung sướng khi nhìn anh cấu vào làn da hồng căng rạn mịn màng của quả đào chất nước thơm ngọt ngào sẽ tiết ra thắm đượm từng kẻ răng anh, chan hòa lưỡi mềm mại của anh. Em chỉ tham dự vào khoái cảm của anh thụ động, nhưng em vô cùng sung sướng, sự sung sướng em tìm thấy trong đôi mắt nhắm ngây ngất của anh, ở những ngón tay tham lam quờ quạng run rẩy của anh.

Đó là lý do duy nhất vì sao em từ chối chưa trao tặng anh đôi quả đào tiên ấy để đến nỗi đôi khi em phải đau lòng vì sự buồn bã lộ ra trên gương mặt khả ái của anh. Vả chăng nếu anh biết rằng, có khi giá trị của nó chính ở nơi lòng mong mỏi, ở thời gian đằng đẵng của chờ mong mà mà không do phẩm chất của nó. Con người dẫu ở tuổi trưởng thành vẫn còn giữ tâm lý của trẻ con, chúng chỉ mơ ước những điều mới lạ. Và khi đã thỏa mãn rồi chúng không còn lòng ham muốn thèm thuồng nôn nả nữa.

Chớ có giận em, anh cũng chỉ là một trong những đứa trẻ con đó thôi. Nhìn thấy hai quả đào hồng mơn mởn treo bên cạnh, những chiếc lá xanh anh đem lòng mơ ước xôn xao, và sự mơ ước không được thỏa mãn sẽ tạo ra nơi anh một nỗi đam mê thắm thiết. Em cần lòng đam mê đó của anh. Anh có quyền nhìn ngắm nó thỏa thuê, nhưng em vẫn xin anh đừng vội ăn quá sớm. Nó chưa chín đủ. Có thể nó sẽ có một vị chua, đắng, lúc ấy… lúc ấy anh sẽ đối với em ra sao? Chính vì thế, do lòng vị kỷ rất đáng yêu của giống cái, phần nào em đã cư xử với anh như đối với một đứa trẻ con. Để khuyến khích sự say mê của nó trong việc học, người lớn chỉ hứa cho nó sự sở hữu món đồ chơi nó thích, và nó cần phải đạt đến một mong muốn nào đó của họ thì nó mới được sở hữu trọn vẹn, hoặc thi đậu hoặc đứng đầu lớp. Ở anh chính là sự thử thách bằng thời gian.

Thực tế đã đánh đổ tất cả khi cơn ác mộng xảy đến. Tuy nhiên, thử thách đó vẫn còn đúng trên suy luận. Suy luận, đó là một chứng bệnh trầm trọng của thời đại chúng ta. Hành động theo một tiêu chuẩn đinh ninh do suy luận, bất chấp những hậu quả thảm khốc. Một loại hành động mù quáng đem cứu cánh biện minh cho phương tiện, trong khi cứu cánh, thực ra chỉ là sâu thẳm què quặt của cá nhân, chứ không phải của quần chúng. Em lầm lỗi, phải không anh? Và dù mọi sự đã xảy ra như vậy, đối với anh, trong suy luận của em, vẫn chưa có gì quan trọng lắm để khiến em không còn ao ước được gặp lại anh đâu. Ân hận đôi chút, nhưng em giống như những người có tinh thần bảo thủ – có lý tưởng chứ không vì quyền lợi – em nghĩ rằng em không nên có thái độ bi lụy quá đối với anh, dầu là em đã trải qua cơn ác mộng đó. Vì cơn ác mộng chỉ có thể xúc phạm đến thể xác em mà thôi, trong khi tình yêu của em dành cho anh đã cô đọng thành một khối kim cương sáng chói trong tâm hồn em không một sức nóng nào có thể làm cho nó tan chảy – ngay khi sự phản bội của anh đi nữa, yêu anh là em đã sống đến mức của sự sống, chính là sự chết, vậy thì còn gì có thể huỷ diệt được tình yêu đó nữa? – đó là khối ngưng đọng của tinh thần, của tình yêu tuyệt đối.
Anh yêu,
Anh biết không, gã đàn ông dơ dáy, bẩn thỉu, tàn nhẫn, có gương mặt mất hẳn nhân tính, đã dùng hơi độc làm em mê man, đưa em vào cơn mộng dữ, cưỡng bức em bằng một phương pháp hết sức lạ lùng.

Gã tàn bạo xé rách quần áo em ra với hai bàn tay gân guốc thô bạo của gã. Em trần truồng như nhộng trước mắt gã, đôi mắt đỏ ngầu rực lên ánh lửa thèm thuồng. Dưới tia nhìn bốc lửa của con quỷ dâm dục, da thịt em, tấm thân trong trắng hoàn toàn trống trải của em như bị muôn ngàn tia đèn pha cực sáng dọi vào thiêu cháy. Em cảm thấy một nỗi xấu hổ kinh tởm tột độ, cũng bằng như em bị bắt khỏa thân trên một khán đài mà bên dưới có hàng triệu tia mắt của những tên “”sa đích” rạo rực nhìn lên. Sự kinh tởm lẫn với lòng sợ hãi đã khiến cho làn da thịt của em mềm nhũn mát rượi dưới bàn tay êm ái nóng ấm của anh trở nên đông cứng lại giá buốt.

Ôi! Phải chi em là một người đã từng qua trong cảnh trần truồng trước mắt những con quỉ thèm thịt sống, anh ơi, em là một gái trinh, anh ơi, em chỉ là một trinh nữ. Và em rùng mình chờ đợi.

Gã đàn ông thô bỉ đứng bên cạnh gốc đào, đôi môi thâm dày ngậm chặt điếu thuốc cháy đỏ, mỉm cười nham hiểm. Gã nói với em bằng ngôn ngữ của chúng ta, nhưng em hoàn toàn không hiểu được gã muốn nói điều gì với những câu như phù chú đó. Và em im lặng. Sự im lặng của em như một thách thức làm cho gã tức giận. Nên thay vì đưa hai tay sần sùi mân mê hai quả đào như gã đã làm trước đó, thình lình gã bấu chặt lấy chúng. Những ngón tay cứng bóp mạnh làn da căng nỏn nà với hết sức lực, như tay kẻ sát nhân trên cổ tử thù.

Hành động đó đưa đến một hậu quả tích cực, gã thấu hiểu. Cây đào với đôi quả trong thời kỳ chín mọng, gã biết em quí đến chừng nào. Sự hành hạ từ núm cuống hai quả đào đến tận gốc rễ của thân cây sẽ làm cho em cực kỳ đau đớn em cắn chặt răng lại, chịu đựng không thốt lên một lời kêu than và mê man đi trong một thời gian ngắn. Khi em tỉnh dậy đã thấy gương mặt hắn úp vào hai quả đào, hai tay nâng lên sờ mó, hàm răng nhơ bợn của gã cắn nhẹ lên núm đào, và cái lưỡi rắn nhám tanh tưởi của gã lè ra, mơn trớn khắp trên làn da. Em phải thú thật với anh điều này vì nếu không sẽ là một xúc phạm lớn đối với anh và anh không sao tha thứ được.

Em phải nói cho anh biết, giữa hai quả đào và thể xác em có một liên hệ xúc cảm mật thiết, chỉ cần một hơi gió thoảng qua trên da thịt chúng cũng đủ làm cho em thoắt rùng mình – chiếc lưỡi nhám liếm lên cuống đào, rà khắp lên thân hai quả đào mà làn da cực kỳ nhạy bén đã tạo ra luồng điện êm ái nhưng mãnh liệt truyền vào thân thể em, khiến thân xác em bủn rủn, em không làm chủ được cảm xúc thuần thể xác của mình nữa, trong giây lát xúc cảm do sự mơn trớn trên cơ thể, em quên mất sự dơ bẩn của cái miệng hôi hám nhờm gớm kia, buông mình vào cơn đê mê ngây ngất.

Nhưng như em đã nói, đó chỉ là xúc cảm tác động lên thân xác em. Không gây một ảnh hưởng tâm lý xấu xa nào đến phần tinh thần em, mà chính tinh thần mới là thành lũy cuối cùng của em. Thứ nhục cảm em thụ hưởng thụ động do gã đàn ông gieo trên thân thể em giống như chất thuốc mê, và sự đê mê của em giống như sự mê man của một người bị đánh thuốc mê vậy – Em là nạn nhân, hoàn toàn không tham dự. Phương chi, đó chỉ là một cách thức thi hành độc thủ?
Một lúc, gã đàn ông ngẩng đầu lên khỏi hai quả đào nói với em bằng ngôn ngữ quen thuộc nhưng em không sao hiểu được điều gã nói.

Thoát ra khỏi cơn đê mê, em trố mắt nhìn gã trân trối như để nhận diện một con quái vật. Gã đốt thuốc, gương mặt lầm lì của gã hiện lên những nét cực kỳ hiểm độc. Gã rít liên tiếp những hơi thuốc dài, điếu thuốc đỏ rực lên trong bóng tối. Gã thong thả dí đầu lửa đỏ lên núm cuốn hai quả đào và kề miệng rít cho lửa rực lên thêm. Một mùi khét lẹt từ đó bay ra cùng với tiếng réo xèo xèo, như mùi khét của da thịt người bị đốt cháy. Còn em thì ngất đi. Em tỉnh dậy rồi lại ngất đi nhiều lần với trò chơi ác độc đó. Hai quả đào với làn da căng hồng mơn mởn bị lửa đầu thuốc đốt cháy đen bầm. Nhựa từ vết thương rỉ ra đỏ thắm như máu.

Cuối cùng, trước khi bỏ đi – vì gã biết rằng không thể thuyết phục nổi một ý chí sắt đá – gã đã dùng những ngón tay cào mặt đất – nơi một kẻ nứt có những rễ nhỏ bám sâu và dí làn thuốc vào kẻ nứt đốt cháy những rễ con, khói bốc ra như mùi tóc đốt. Em bất tỉnh. Và đó là cảm giác đau đớn cùng tuyệt gã đàn ông đã gieo vào cây đào – có liên hệ xúc giác đối với cơ thể em – trước khi gã bất lực bỏ đi.

Gã không nhận được nơi em những gì gã mong mỏi. Nhận một tội lỗi mà em không hề phạm.
Giật mình thoát ra khỏi cơn mộng kinh hoàng, giữa đêm, em chạy ra gốc đào, đưa tay lên mò mẩm trong bóng tối, hai tay hai chân em ngượng ngập như vừa được mở cổng. Nhựa từ hai quả đào rây ra tay em nhầy nhụa. Em thảng thốt nhận ra cơn ác mộng, cùng lúc đã xảy ra trong thực tế.

Anh ơi! Nói lên tiếng nói phản kháng của những kẻ bị đàn áp phải chăng là một tội lỗi?
Nào em có tội tình gì cho cam. Em và đồng bào em lâm vào cảnh đói rách nhọc nhằn. Một buổi sáng, dưới ánh nắng rực rỡ của mặt trời – mặt trời là mắt công bình xa vời phải không anh? – em cùng với những bọn trẻ đồng cảnh ngộ, chúng em đã họp nhau lại kéo nhau ra phố hát lên nỗi thống khổ của mình. Nhưng chung quanh chúng ta, có những kẻ sống một cách vương giả nhờ vào sự bần cùng của chúng ta. Họ muốn chúng ta im lặng, chết rục trong sự khốn cùng đó, họ không muốn chúng em, những kẻ bạo gan dám cất lên tiếng nói phản kháng, và họ, chối tai vì những giọng hát kèn đồng đã cất cao lên, bởi tiếng hét ấy đã phát ra từ ngõ động mạch những trái tim sôi sục lửa căm thù, tiếng hét ấy đã làm cho họ run sợ bị tiêu diệt, tiếng hát đã đốt tiêu ra tro than bọn người nhơ nhớp, tồn tại được nhờ những dòng mồ hôi chảy ràn rụa trên trán, trên lưng của lớp người cùng đinh, nhờ vào suối máu từ những thân thể trẻ trung của các thanh niên tuôn ra trên khắp các mặt trận.

Chúng ta không lạ gì, bởi chúng ta đã sinh ra và lớn lên trong một thời đại mà quyền tự do của con người được tấn phong để rao bán như một món hàng hào nhoáng mặt ngoài mà đục ruỗng bên trong.

Bọn người dùng quyền rao bán đó bắt mọi người phải trả một giá đắt, bị bó buộc phải mua và phải tin rằng đó là một báu vật họ có nhã ý trao tặng chúng ta. Nhưng bổn phận của chúng ta là phải nói cho tất cả mọi người trên thế giới biết rằng đó chỉ là một sự lừa bịp trắng trợn vĩ đại, một âm mưu trục lợi, tin vào đó là tự tiêu diệt đời mình.

Chính vì thế mà chúng em đã cất lên tiếng hát đồng ca và bọn người có uy thế kia đã xua lũ tay sai ngu dốt chúng thuê mướn – với một món tiền ít oi, cũng là những đồng bào chúng ta mà, phải không anh? – đến dập tắt tiếng hát ấy.

Nói sự thật là một tội trọng, đó là một châm ngôn mọi người đều học được trong thời buổi mạt thế này. Nhưng bổn phận chúng ta là phải nói lên sự thật, phải rao giảng chân lý dù chúng ta có bị bạo lực ngàn lần đàn áp đi nữa.

Cuối cùng chân lý bao giờ cũng tỏ lộ dưới ánh sáng huy hoàng của chính nó. Tất cả những gì không phải là chân lý, giả ngụy sẽ bị tiêu diệt.

Anh yêu,
Em đã trở về căn phòng nhỏ tăm tối của em, đốt lên một cây nến trắng. Ánh nến bừng lên soi rõ bức hình anh với đôi mắt sáng trầm tĩnh đầy cương nghị.

Em nhìn vào bức hình như nhìn vào gương mặt thật của anh, đang ngồi trước em. Đôi mắt anh nhìn em âu yếm, bao dung, em soi mặt mình vào đó để tìm thấy chân dung em: tuy vừa trải qua cơn ác mộng, gương mặt vẫn còn giữ được vẻ đẹp ngây thơ, dịu dàng với đôi mắt bồ câu long lanh. Em đã hôn lên đôi môi anh trong bức ảnh để thấy lòng mình bình yên trở lại, vì em vẫn còn cảm thấy kinh hoàng khi nhớ lại những gì đã xảy đến cho em.

Có điều lạ lùng, là khi đem thuật lại giấc mộng cho những người bạn gái của em nghe, họ xác nhận là cũng đã trải qua trong cùng đêm đó, giống như những gì em đã kể, tuy nhiên các chi tiết không đồng nhất và gương mặt, hình dáng gã đàn ông mỗi người đã trông thấy hoàn toàn khác biệt.

Em đã kể cho anh cơn ác mộng xảy đến cho em, những ảnh hưởng.
Chắc chắn là anh phải làm một cái gì cho em, tựa như những vuốt ve êm ái. Anh hãy về ngay với em, để trông thấy hai trái đào vưu vật của anh đã bị gã đàn ông xâm phạm. Chúng đang cần hơi hám của bàn tay anh ấp ủ để những vết thương chóng se mặt, những tế bào mới có thêm sinh lực nẩy nở nhanh chóng, những vết sẹo mau biến đi nhường chỗ lại cho làn da hồng căng mơn mỡn như xưa.
Hôn anh, Lan.

Nhật ký của R… bạn của Minh và Lan
Trong quảng đời tuổi thơ của quí vị, hẳn là có đôi lần, quí vị thích thú cởi trần truồng dầm mình trong những cơn mưa lớn. Từ đầu, khi những hạt nước thưa thớt rớt xuống từ một bầu trời mây đen vần vũ, rơi lộp độp trên mái nhà, quí vị đã cỡi bỏ áo quần ra đứng giữa trời nhảy nhót, hay chạy dong dong la hét ầm ĩ, chờ cơn mưa tới. Nhưng ngay trong lúc đó, khi cơn mưa còn xa, gió mạnh đã đẩy những hạt nước rơi sớm, bay tới rơi lên da trần của quí vị, gây một cảm giác rát nhẹ như những cái tát liên tiếp của một bàn tay nhỏ. Không thích thú gì, vì nhiều cái tát như vậy liên tiếp nhưng thưa thớt, vả vào khắp người khiến quí vị cảm thấy khó chịu? Chính tôi đã trải qua những cảm giác đó. Tôi không thưởng thức những cái tát nhỏ, tôi chờ đợi một cơn mưa lớn nhưng với những hạt nước mịn. Nhà tôi ở gần một bờ biển, vì thế tôi có nhiều dịp quan sát sự xâm thực của sóng nước vào chân các núi đá và những giòng nước nhỏ chảy qua một mặt đá phẳng.

Nếu có một so sánh về thể chất giữa nước và đá, việc làm đó đưa đến kết luận có một khác biệt lớn đến trở thành khôi hài, như nếu có người bày tỏ ý định sẽ lấy nước để bổ đôi, hay để đập tan một tảng đá. Ý định đó không còn gì điên vì thiếu thực tế cho bằng, chúng ta tất sẽ nghĩ như vậy. Nhưng nếu ai cho đó là một ý nghĩ có tính cách khôi hài, có lẽ những người đó đã không chú ý đến yếu tố thời gian.

Chân núi đá vững chải dường nào thì đợt sóng đánh vào có hề hấn gì! Thoạt nghe có vẻ chí lý, cũng như giòng nước nhỏ chảy qua một mặt đá thì làm thế nào có thể bổ đôi tảng đá ra được.
Đó là một ý tưởng nông cạn và sai lầm.

Sự thật, đợt sóng đã có một tác động tích cực trong cùng đích của nó và giòng nước chảy qua mặt đá kia cũng vậy. Chúng ta không nhìn thấy sự xê dịch của kim đồng hồ, phải đâu là chúng không di chuyển? Một nụ hoa phong kín đâu phải không nẩy nở để đến lúc mãn khai và vẻ đẹp trông như rực rỡ kia đâu phải không đang tiến dần đến vẻ héo tàn? Tôi đã từng thấy những chân núi đá bị sóng nước đục thủng vào, và những núi đá gẫy gục xuống vỡ ra thành những đống đá vụn, những khe lõm sâu trên mặt đá chỗ giòng nước chảy qua. Đó là sự xâm thực nhẹ nhàng bị lãng quên trong thời gian, giống như sự cháy ngầm của không khí tác dụng vào sắt thép trông có vẻ vô hại ban đầu nhưng đưa đến một hậu quả hủy hoại khôn lường về sau.

Bây giờ, chúng ta lấy một miếng vải nhung – nhung thì êm ái biết bao! – chà nhẹ lên một khoảng da nhất định. Ở những lần đầu, sự va chạm nhẹ nhàng của nhung vào làn da sẽ khiến chúng ta có một cảm giác được vuốt ve. Tôi tin rằng, chỗ da nhận sự ve vuốt nhẹ nhàng đó sẽ đỏ rần rồi phồng lên nếu chúng ta cứ tiếp tục lập lại sự va chạm êm ái đến một lúc nào đó. Lúc đầu, nếu có người cam đoan, với những cái ve vuốt nhẹ nhàng của một miếng nhung, sẽ làm cho da chúng ta phồng lên, hẳn chúng ta sẽ mỉm một nụ cười tha thứ rất ngạo mạn. Gần gũi hơn, chúng ta có thể nhìn thấy những lỗ thủng sâu xuống dưới mặt đất, ngay dưới mái hiên nhà. Có lẽ một vài người đã vội nghĩ đến những giòng nước của một cơn mưa rào. Không đâu, cần gì đến những giòng nước nặng đó, chỉ là nước sương đọng nhỏ xuống từng giọt một trong suốt những đêm của mùa sương mù thôi. Những cái lỗ cũng đủ sâu hàng năm phân dưới mặt đất rắn.
Hắn cố vặn vẹo cái thân thể trần truồng mà tay chân đã bị cột chặt vào những khoen sắt chôn sâu, gắn xuống nền xi măng lạnh, ẩm ướt. Hắn muốn xê dịch đi một chút, chỉ một phân thôi cũng được để tránh những giọt nước lạnh buốt từ một độ cao, đang rơi xuống nhất định trên khoảng xương che tiểu não. Nhưng hắn bị hai bục gỗ với những đinh sắt nhọn tua tủa giữ chặt sát hai bên đầu và mặt úp xuống nền xi măng. Hắn muốn cất đầu lên để đập xuống cho vỡ tan nhưng một thanh gỗ chắn ngang sát vào làn da trên gáy khiến hắn không thể cựa quậy xê xích được, dù chỉ một ly. Hắn muốn ấn thái dương vào những mẫu đinh nhọn nhưng cảm giác đau đớn đã khiến hắn phải hủy bỏ ngay ý định.

Đã liên tiếp ba hôm nay, người ta bắt hắn chịu hình phạt lạ lùng này buộc hắn khai thêm những bạn bè hắn mà người ta gọi là “những phần tử phản động”, tiếp tay cho giặc phá rối công cuộc trị an, đã ngăn trở bước tiến của toàn quân toàn dân trên đường xây dựng chế độ tự do dân chủ.
Thoạt tiên, người ta cho những giọt nước rơi xuống trên ngực hắn. Thật lạ lùng và khôi hài, hắn nghĩ, hắn tưởng rằng với tội lỗi mà người ta đã gán cho hắn, hắn phải chịu những hình phạt kinh khủng mới phải, sao họ lại bày ra cái trò tắm hắn với những giọt nước hà tiện! Và trong lúc những giọt nước đầu tiên rơi xuống, hắn đã yên tâm chợp đi một giấc ngắn… Nhưng sau đó, không rõ bao lâu, đột ngột hắn bị đánh thức dậy trong một cảm giác toàn thần rúng động vì một cơn đau đớn như vừa nhận một nhát búa bổ mạnh trên lồng ngực. Hắn mở choàng mắt trong lúc ngơ ngác chưa hiểu rõ nguyên nhân cơn đau thì một giọt nước rơi xuống trên lồng ngực hắn.
– Ôi! Hắn nẩy người, kêu lên thảng thốt mở mắt trừng trừng nhìn lên nóc nhà và hắn hiểu ra.
Sự đau đớn như bị một nhát búa đập chẳng qua chỉ là tác động của những giọt nước kia được lập lại mà lúc đầu hắn cảm thấy hết sức vô nghĩa. Hắn cảm thấy thân thể trở nên lạnh buốt, từng miếng thịt thoát khỏi sự kềm chế, tự do run lên. Những giọt nước cứ tiếp tục rơi xuống, đập lên ngực hắn như những nhát búa. Hắn mở mắt thao láo, kinh hãi nhìn giọt nước đang dần dần tụ lại, long lanh. Hắn tưởng như thấy rõ những lượng nước nhỏ từ từ rỉ ra cho đến khi giọt nước thành hình. Khoảng thời gian đợi chờ càng lúc càng trở nên nặng nề nghẹn thở… giọt nước vừa rời khỏi đáy thùng, đang rơi xuống. Hắn nhắm mắt lại. Một, hai, ba. Giọt nước đập vào ngực.
– Giết tôi đi! Giết tôi chết đi! Trời ơi!…tiếng thét kinh hoàng của hắn vang âm trong bốn bức tường,.

Giọt nước lại đang tụ dần dần. Giọt nước trong vắt lung linh, đôi mắt quáng của hắn nhận ra vô số những giọt nước.
– Rơi xuống đi! Rơi xuống mau đi! Hắn rên rỉ. Nhưng giọt nước vô tri không vội vã hãy còn đong đưa, đợi thêm một lượng nước nhỏ nữa cho đủ nặng. Vào lúc hắn không còn đủ sức đợi chờ nữa, bất ngờ giọt nước buông mình rơi xuống.
– Độp! Hắn rủn người:
– Giết tôi đi! Giết tôi chết đi! Hắn thét lên vang dội cả căn phòng.
Cánh cửa sắt mở hé, một người lách mình vào, tiến đến đứng bên hắn, chống tay lên cạnh sườn, nhìn lên trần nhà, gã chiếu tia mắt lạnh lùng lên thân thể nạn nhân:
– Hãy giết tôi đi! Hắn nói gần như rên rỉ, nhìn người vừa vào với đôi mắt van lơn. Hắn muốn được chết.
– Hãy giết tôi ngay đi! Hắn phẫn nộ thét lên thất thanh.
– Thế nào, nhóc con? Người kia hỏi. Mày đã chịu nói thằng nào chủ mưu vụ nhịn ăn phá rối chưa?
– Giết tôi đi! Tôi không biết! Hắn đáp.
Phải khai với ông thế nào đây, hắn nghĩ. Làm gì có người chủ mưu? Làm sao có đủ chỗ giam giữ tất cả số người đông đảo vô kể gồm 90% dân số dân tộc kia chứ?
– Mày muốn phá rối chế độ hả? Người kia hỏi gằn.
– Tôi muốn cho chế độ khá hơn.
– Khá hơn cái con đĩ mẹ mày!
Gã rít lên lời mắng mỏ tức tối, sút một cú mỏ nhọn như trời giáng vào sườn hắn.
– Ngoan cố hả? Phản động hả? Y càu nhàu. Ông sẽ cho mày chết rục.
Y hối hả trở ra, đóng ập cánh cửa khóa tự động lại. Hắn không nghe y nói gì. Hắn đã ngất đi khi nhận cú đá sút.

Hắn tỉnh dậy trong một căn phòng khác. Trong bóng tối mờ mờ, dần dần hắn nhận ra những người bạn. Tình trạng của họ không kém hắn, nhưng trong vẻ mệt mỏi dường như họ không để mất đi thứ ý chí bất khuất trong những tia mắt sáng. Căn phòng hoàn toàn im lặng. Ngoài những hơi thở đều nhè nhẹ, hắn có cảm tưởng như đã bị đưa đến một nôi hoang vu, xa hẳn thế giới loài người. Hắn trở mình định ngồi dậy nhưng người đau như dần, tay chân, những khúc xương trong thân thể như sắp sửa rời ra.

Hôm sau, người ta cho những giọt nước rơi trên trán hắn, hôm sau nữa trên ngay đỉnh đầu và bây giờ …

Những giọt nước rơi trên xương che tiểu não dần dần làm cho hắn mê thiếp đi.
Tôi đã trở về nhà với một tấm thân thể tiều tụy. Một cái gì bất ổn ghê gớm đã xảy ra trong ngũ tạng tôi, tựa như từng mỗi cơ phận nhỏ đã bị dần cũ kỹ, nát nhũn ra, lõng lẻo. Đầu tôi với óc não như chảy ra, lỏng bỏng. Trí nhớ tôi mỗi ngày giảm sút đi và tình trạng đó gia tăng từ hơn ba tháng nay. Tôi không thể gọi đúng tên những đồ dùng thông thường chung quanh tôi nữa. Ban đêm giữa giấc ngủ tôi thường bị đánh thức dậy, cảm thấy như có người đập búa tạ lên ngực tôi, lên trán tôi, lên sọ tôi, ngực tôi đau ran như sắp vỡ. Những cơn nhức đầu tưởng chừng làm cho những mảnh sọ tôi nứt rạn. Bác sĩ cho tôi biết rằng, thân thể tôi đang ở vào thời kỳ suy yếu trầm trọng cần phải bồi bổ, thần kinh tôi đã rối loạn, cần phải chạy chữa kịp thời. Nếu để tình trạng mất trí nhớ tiếp tục, tôi sẽ bị điên.

Cha tôi chỉ là một công nhân. Cả gia đình sống nhờ vào số lương ít ỏi của ông. Trong tình trạng kinh tế suy đồi này, số lương của ông không đủ để ăn hai bữa cháo qua ngày thì còn lấy tiền đâu chạy chữa cho tôi?

Tôi chờ đợi thân thể tôi suy nhược dần dần sức lực. Tôi chờ đợi máu tôi khô cạn, tôi chờ đợi cơn bệnh thần kinh tăng dần đưa đến trạng thái điên cuồng, có lẽ sẽ xảy đến một ngày không xa. Cả hai yếu tố đó hợp lại đưa tôi về cõi chết.

***

[/read]

 

Hoa Quỳnh

“Trong tuổi thơ, tôi còn nhớ cha tôi rất yêu hoa Quỳnh. Một hôm ông mang về một lá Quỳnh, trồng trong một chậu sứ Tàu men lam Ceradon, trang trí hoa văn cánh sen rất đẹp.Cha tôi chăm chút, nâng niu. Ông bón phân bằng xác trà, “để giữ cho hoa được tinh khiết”, ông nói . Từ một lá nhỏ Quỳnh phát triển thành một bụi lớn, hàng chục chiếc lá dài xanh cứng cáp, mạnh mẽ.Mỗi lần Quỳnh nở lòng cha tôi cũng nở theo. Ông vui như trẻ con được quà, một cách hồn nhiên không kềm chế .

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Thời gian chờ đợi Quỳnh ra hoa, lòng cha tôi nôn nao. Ngày nào ông cũng xăm xoi, nhìn ngắm những lá Quỳnh như muốn khám phá một thế giới bí mật…còn che dấu. Ông chờ một cái gì thiêng liêng sắp hiển lộ.

“Khi hoa chưa xuất hiện thì hoa ở đâu ? Trong cây, trong lá, trong nhựa nguyên?” Tôi thấy rõ trong ánh mắt nhìn của ông như tia X quang muốn soi thấu điều ẩn tàng sâu kín bên trong. Cho đến một hôm, như có hẹn, hàng chục nụ hoa nho nhỏ hồng hồng cùng lúc rủ nhau xuất hiện ở các nách lá. Một niềm vui khó tả hiện lên trên nét mặt cha tôi, như có ánh hào quang. Mặt ông sáng rạng rỡ.

Chờ trông hoa lớn lên là một thú vui thanh nhã của cha tôi. Mỗi ngày ông ngắm các nụ hoa nhiều lần, gởi gắm tình cảm của ông cho hoa. Buổi sáng ông dậy sớm, ngồi uống trà, hút thuốc bên chậu hoa, nét mặt hân hoan. Buổi chiều đi làm về, bên hoa cha uống rượu trầm ngâm, thỉnh thoảng đưa tay nâng cánh lá lên ve vuốt dịu dàng. Buổi tối trước khi đi ngủ, cha đứng lặng lẻ trong bóng mờ ngắm hoa như gởi lời chào “ chúc hoa ngủ ngon”.

Niềm vui của cha mỗi ngày tăng thêm theo đà lớn của hoa. Thời gian âm thầm trôi qua và niềm vui của cha tôi tăng lên mỗi ngày. Ông quấn quít bên chậu hoa không muốn rời, như một chàng trai quấn quít người yêu.

Rồi cũng đến ngày hoa Quỳnh nở. Từ lúc giữa trưa đến buổi chiều, đầu nụ hoa bắt đầu chúm chím, e ấp một màu trắng ngà ngọc, ấy là lúc hoa Quỳnh hé nhụy. Cha tôi có kinh nghiệm, biết rằng đó là điềm báo buổi tối hoa nở. Mỗi lần như vậy, ông chuẩn bị lễ nghênh đón hoa.Ông kê chậu hoa trên một chiếc ghế mây thấp, lấy khăn ướt lau chậu sạch sẽ.Cha tôi mời bạn bè đến uống trà Ô Long, ăn bánh ngọt – không ngậm kẹo sỏi như các cụ ta xưa nữa – thưởng thức cảnh hoa Quỳnh nở trong đêm. Ngắm hoa Quỳnh nở có cái thú là thời gian đợi chờ – như chờ người yêu đến, lại đến trong đêm khuya khoắt! Hoa bắt đầu nở từ lúc đầu đêm đến tận giữa đêm mới mãn khai. Nếu tinh mắt có thể thấy các cánh hoa đang từ từ hé nhụy. Chỉ lơ đễnh một chút, khi nhìn lai đã thấy hoa khác trước. Các cụ ta xưa ăn kẹo sỏi để xem hoa Quỳnh nở là thế. Lòng thanh thản không lo lắng, thật thảnh thơi mới tận hưởng được cái thú xem hoa Quỳnh nở. Xem hoa Quỳnh nở là cái thú thanh nhã của các tao nhân mặc khách.

Đầu đêm, Quỳnh như cô gái dậy thì e ấp sửa soạn xiêm y, chúm chím hé nhụy, đến khuya thì hoa mãn khai.
Nhìn hàng chục đóa Quỳnh như các thiếu nữ khuê các đang khoe sắc, tỏa hương ngạt ngào, lòng tôi dạt dào xúc động.

Cha tôi đưa một cây nến trắng đến gần hoa, nói với các bạn: “Các bác xem này, từ trong lòng hoa có một làn hương thổi ra làm dạt ngọn nến!” Tôi cố nhìn, nhưng thú thực không thấy ngọn nến dạt. Các ông bạn của cha tôi chắc cũng thế, nhưng không ai nở làm mất cảm hứng của ông, nên gật gù tán thưởng. Hoặc đúng ra là họ thưởng thức cái ý tưởng nên thơ của cha tôi mà thôi. “Một làn hương từ trong lòng một đóa hoa Quỳnh thổi ra làm cho ngọn nến dạt đi.” Còn ý tưởng nào nên thơ hơn thế!

Cha tôi cũng tin rằng hoa Quỳnh nở báo điềm lành, vận hên. Ông mua vé số tặng các bạn ông, với lời cầu chúc tốt lành.

Hoa Quỳnh mãn khai, cánh hoa có dáng một chiếc thuyền, trắng ngọc ngà, như màu lụa áo một tiểu thư khuê các liêu trai. Riêng tôi chỉ mường tượng đến hình bóng một Công Tằng Tôn Nữ trong chốn cung đình.

Tôi có tham vọng vẽ hoa Quỳnh hiện thực, đã vài lần thử, nhưng đều thất bại. Tôi không diễn tả được cái vẻ đài các phong lưu, thanh cao trong trắng ngọc ngà như tiên nữ của loài hoa trong mộng tưởng.

Tôi đã thử diễn tả bằng sắc màu trừu tượng, vẫn không thành công. Ôi! Đẹp làm sao, duyên dáng kiều mị vô ngần là vẻ đẹp thùy mị, dịu dàng quyến rũ của Công Tằng Tôn nữ. Phải vẽ bằng hương, bằng ánh sắc cầu vồng trên lụa là Hằng Nga, chứ nhất quyết không thể nào dùng sắc màu trần tục mà pha chế, vẽ vời cho thành được. Ôi! Đó là vẻ đẹp của nhan sắc lên hương, của sen ngó nuột nà!

Tôi đành thúc thủ, thầm ngâm hai câu thơ của Huy Cận để trốn chạy sự bất tài, bất hạnh của mình:

Có lẽ hồn ta không đẹp nữa
Bút thần thôi họa nét thiên duyên

Tôi bỏ ý định vẽ hoa Quỳnh từ đó.

Hoa Quỳnh có một đức tính rất đáng yêu, đáng quí trọng. Những loài hoa khác, khi tàn dáng hình đều rất tầm thường, đều cho hình ảnh “hoa tàn nhụy rửa”, màu phai, cánh tả tơi rơi rụng, khác hẳn hoa Quỳnh sang trọng đài các, trước khi tàn sửa soạn vén khéo xiêm y, Quỳnh khép các đài hoa lại cho kín đáo như khi còn búp.

Nàng Quỳnh – xin quí bạn đọc cho phép tôi từ đây được gọi hoa Quỳnh như thế, mới thỏa với lòng tôi- đã khép mình lại trước khi tàn vì không muốn mắt đời trông thấy vẻ tiều tụy của thân xác mình. Nàng Quỳnh chỉ muốn giữ mãi hình ảnh hương sắc tuyệt trần trong lòng nhân thế mà thôi.

Thật đáng quí, đáng yêu biết bao nhiêu cái đức mà trời đất đã phó thác cho nàng Quỳnh.

Quỳnh khoe sắc hương, dâng hiến cho đời.
Quỳnh héo tàn trong lặng lẻ, thầm lặng mà tự trọng.
Quỳnh mãn khai trong đêm,tỏa hương cùng đêm.
Đến giây phút cuối đời, dọn mình kín đáo rồi mới giả từ nhân thế.

Tôi đã xem một tuồng Nô trong phim Sayonara có cảnh cô gái thất tình, cô tìm cái chết bằng cách trầm mình xuống biển làm tôi rất xúc động. Tôi liên kết hai hình ảnh, cô gái và hoa Quỳnh. Cô gái sửa soạn cho thân thể mình sau khi chết được kín đáo, không phô ra lỏa lồ trước mắt nhân thế. Nàng quấn lụa trắng bọc kín thân thể, mặc áo Kimono ra ngoài trước khi trầm mình. Hoa Quỳnh trước khi héo tàn cũng đã khép kín các đài hoa, chuẩn bị cho cái chết của mình, như người nữ trong tuồng Nô.

Hoa Quỳnh khi mãn khai, khoe hết sắc hương cũng chính là lúc hoa bắt đầu những giây phút đầu tiên của úa tàn. Có ai biết đâu là ranh giới, nơi chập chờn thời gian giữa mãn khai và bắt đầu sát na của úa tàn đó nhỉ ?

Những lần đầu thưởng thức hoa Quỳnh nở, tôi muốn cùng cha thức suốt đêm để ngắm hoa, nhưng không sao thức nổi .Nhưng nếu tôi có thức thì cũng không cứu vãn được gì cho hoa. Tôi chỉ chứng kiến những giây phút trôi qua, đưa hoa đến tàn úa mà đau lòng thôi. Buổi sáng, lòng hối hận tôi vội vàng chạy ra với hoa. Hình ảnh hàng chục đóa Quỳnh rũ xuống khiến tôi mường tượng như bao cô gái thanh tân mới mấy giờ trước đây còn khoe hương sắc, giờ rũ xuống chết thảm thương. Nhìn hoa tôi đau xót cả lòng.

Hoa Quỳnh, nếu khi nở sắc hương trinh bạch đem lại niềm vui bao nhiêu, khi hoa tàn khiến ta buồn đau thương cảm bấy nhiêu. Các bạn đã bao giờ ngắm dáng hoa Quỳnh tàn rũ chưa? Thật là một hình ảnh khêu gợi sâu xa lòng thương cảm.

Hoa Quỳnh chỉ nở khoe hương sắc trong một đêm.

Hoa Quỳnh mãn khai trong đêm.
Tỏa hương cùng đêm.
Khoe sắc cùng đêm.
Tàn úa cùng đêm.

Trong tuổi thơ, tôi yêu hoa Quỳnh như tình yêu đầu đời , một tình yêu lý tưởng. Hoa Quỳnh hóa thân thành một người nữ tuyệt vời, thầm lặng chiếm lĩnh trái tim tôi, cõi hồn máu huyết tôi. Nàng là Kiều, Thôi Oanh Oanh, Scarlette, Lara…Những người nữ của cõi văn chương không có thực trong đời. Lớn lên tôi đi tìm những người nữ mộng tưởng đó và không thể yêu một người nữ nào khác, vì bao nhiêu người nữ tôi gặp không ai sánh nỗi với nàng Quỳnh diễm tuyệt. Hoa Quỳnh là tình yêu lý tưởng thầm kín, một người nữ hóa thân với sắc hương lụa là ngọc thạch.

Cha tôi đã mất từ lâu. Giờ tưởng nhớ Cha, tôi trồng hoa Quỳnh. Một lẽ nữa, vì không tìm thấy ở một người nữ nào trên cõi đời có vẻ đẹp chiếm ngự xác hồn tôi nên tôi muốn có hoa Quỳnh bên cạnh để an ủi tình cảm cô đơn.

Và trời đã không phụ tôi, lòng thủy chung với nàng Quỳnh. Tôi đã gặp nàng bằng xương, bằng thịt.Tôi đã gặp MÍA LAU …khi tôi bước vào tuổi chín mươi. Nàng vừa mười tám tuổi.

MÍA LAU là hóa thân của hoa Quỳnh, hiển hiện với tràn đầy hương sắc. Nàng là người nữ tôi đã mất đời người trăm năm để kiếm tìm.

Chúng tôi yêu nhau.”
………………………………………………………………………………
Những lời này được tìm thấy trong sổ ghi chép của một họa sĩ già, nằm chết bên cạnh bức tranh vẽ chân dung MÍA LAU, sắc màu như sương khói, một gam màu trong như ngọc thạch. Từ trong bức tranh tỏa ra ngạt ngào hương của Quỳnh hoa.

***

Con Mén

Cơn chuyển bụng đẻ của Mén trùng với cơn chuyển mưa, nhưng cơn chuyển mưa vần vũ, sấm chớp ầm ì một lúc rồi trút nước xuống như cầm tĩn đổ, chẳng mấy chốc đã tạnh mà con Mén thì cứ nằm ôm bụng lăn qua trở lại, bẻ gãy hết mấy song cửa sổ bằng tre, xé nát tấm chiếu, khóc la đã hai ngày, hai đêm vẫn chưa đẻ được. Cái bụng căng cứng trì xuống, nước ối vỡ ướt.

[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”] 

Mồ hôi Mén toát ra dầm dề đẫm cái áo bà ba hở nút màu cháo lòng và cái quần đen dày cứng vá chằng vá đụp. Đực, chồng Mén thì tỉnh queo, cứ làm việc nhà bình thường, thỉnh thoảng chạy vô rờ bụng vợ hỏi:
– Sao mầy hổng chịu đẻ? Đẻ đi! Kỳ trước mầy đẻ thằng Chó mau lắm mà.

Rồi Đực lại đi ra. Thằng con trai tên Chó, ba tuổi, cũng chạy ra chạy vô rờ bụng mẹ. Nó mặc một cái áo sơ mi ngắn tay không nút, phanh rốn, nhìn không ra màu gì. Nó hỏi Mén:
– Em trong này hả? Nó con gì? Mén hay Đực?
Nó níu Đực:
– Ông ơi! Sao ông hổng nấu cơm tui ăn? Tui đói bụng rồi. Ông nói bà rặn em mau đi. Sao nằm khóc hoài vậy?
– Thì mầy nói bả đi. Tao không nói được. Nó không chịu ra. Để tao luộc mì cho mà ăn.

Đực ra góc rẫy nhổ hai bụi mì. Trời nhá nhem tối. Khu rừng phía sau rẫy mì đen sẫm. Đực ngồi coi lửa, nhìn ra khu rừng mà sợ. Đêm nay voi về phá rẫy phá nhà như năm ngoái thì làm sao đây. Nó đâu có cõng vợ và thằng Chó mà chạy được. Từ đây ra tới đường cái phải băng qua mấy đồi tranh cao quá đầu người, không khéo bị voi dày chết hết. Đực chạy vô hối vợ:
– Mầy ơi! Đẻ mau đi! Tao sợ voi về phá rẫy phá nhà.
– Trời ơi! Mén rên rĩ. Thì mầy đẻ cho tao đi. Tao sắp chết rồi.
– Mầy đừng nói bậy. Đẻ đi! Đẻ đi! Tao lấy mì mầy ăn nghen.
Đực vớt mì ra rổ, lấy hai khúc đưa cho vợ:
– Nè ăn đi! Chắc mầy đói nên đẻ không ra. Ăn vô no cho mau đẻ.

Hai cha con ngồi ăn trong bóng tối. Lửa bếp sắp tàn, thỉnh thoảng phựt lên soi hai gương mặt như đá tạc. Ăn xong Đực kéo manh đệm trải dưới cái sạp Mén nằm, hai cha con lăn ra ngủ. Muỗi rừng bu đen kín mặt, nhưng họ ngủ say như chết.

Sáng hôm sau, thằng Chó con ngủ, Đực dậy sớm thăm vợ xem đã đẻ chưa. Nó nói:
– Để tao đè bụng mầy cho nó lòi ra nghen.
Mén rền rĩ:
– Trời ơi! Đè cho tao bể bụng chết sao? Mầy mổ lấy nó ra đi! Tao sắp chết rồi.
– Mổ sao? Tao đâu biết mổ.
– Thì giống như mầy làm gà, làm thỏ đó. Mổ bụng vạch ra, lấy nó ra.
– Lấy gì mổ đây mậy? Đâu có gì mổ đâu.
– Mầy lấy… Trời ơi! Đau chết đi! Lần sau mầy đừng có đè tao mà đụ nữa nghe Đực… Con dao… Mầy lấy con dao phay dưới bếp đó. Mau lên. Mổ… Mổ… Lấy nó ra giùm tao mau lên.

Đực chạy ra sau chái lấy con dao phay. Nó cầm con dao đứng nhìn cái bụng vợ tần ngần.
– Mổ gà, thỏ thì để làm thịt ăn. Còn mổ vợ thi…
– Mầy mổ đi! Con Mén kêu lên. Còn đứng dòm cái gì vậy?
– Tao sợ!
– Sợ cái thằng cha mầy.

Đực vén áo vợ lên, bắt đầu mổ. Nó vạch một lằn. Cái dao lụt quá, bụng Mén chỉ trầy một đường rơm rớm máu.
– Trời ơi! Đực ơi! Mén rên lên – Mầy đi mài dao đi.

Nó chạy ra cục đá ở góc nhà mài lia lịa, xong chùi vô ống quần xà lỏn đang mặc rồi vào tiếp tục mổ.

– Da người ta dai quá,” nó nghĩ. Nó mổ cả chục lần mới banh được bụng vợ ra. Máu con Mén chảy dầm dề. Đực thấy hài nhi ngo ngoe trong bụng vợ, mừng rỡ vất con dao, thọc hai tay vô bụng móc đứa nhỏ ra. Nó đỏ lòm, nhuộm máu, cuốn rốn dính lòng thòng.

– Được rồi mầy ơi! Con mén.
Đực thấy cái hẽ của đứa bé, la lên.
– Con mén giống mầy.

Đực lấy dao cắt cuống rốn, mặt hớn hở, bưng hai tay đem đứa nhỏ ra sau, múc nước trong lu rửa mặt sạch. Nó kỳ cọ hồi lâu, đứa nhỏ đang đỏ trở nên tím ngắt.
– Nè, con mén nè.

Đực nói với vợ, đặt đứa bé bên cạnh. Mén nằm nhắm mắt, thở dốc lên. Máu chảy đọng vũng dưới nền đất.
– May… bụng… tao lại. Mén phều phào.
– Lấy gì may giờ?
– Kim… chỉ… trong…. Mén thở nấc lên.

Đực lục tìm hồi lâu mới thấy cây kim và cuộn chỉ đen. Nó xỏ mãi mà chỉ không vô lỗ kim. Nó thấm nước miếng đầu chỉ, se lại cho nhọn, nhưng lỗ kim nhỏ quá, chỉ không lọt. Cuối cùng nó xỏ được và bắt đầu may. Hai bàn tay dính đầy máu, nó không còn thấy kim chỉ đâu nữa. Nó loay hoay may, nhưng kim không đâm lủng da được. Mồ hôi trên trán nhỏ giọt xuống đống thịt bầy nhầy bụng Mén. Nó đưa tay gạt, mặt quằn quện máu me.
– Mầy ơi! Tao đang may bụng mầy nè. Đừng có la đau nghen. Da mầy dai như da heo rừng vậy.

Mén không còn thấy đau nữa, không la nữa, dẫu cho Đực có may bụng nó bằng lẹm chằm nóp. Đực nhìn vợ, thấy mặt Mén xanh lè, miệng hả ra, mắt trợn nguợc, hết thở.
– Trời ơi! Mầy ơi! Đực gào lên. Mầy chết hả? Mầy thành ma rồi hả? Mầy bỏ tao hả?
Nó ôm thây vợ khóc mếu máo. Thằng Chó nghe tiếng khóc, chạy vô:
– Gì vậy ông? Sao ông khóc?
– Má mầy thành ma rồi. Chết rồi.
– Ma hả? Bả chết hả?
Nó chạy ra, theo dấu một con bướm đang bay chập chờn quanh căn chòi.

Khóc một hồi, Đực chợt nhớ ra, nó chạy băng băng qua mấy vạt đồi tranh ra đến đường cái đứng la làng:
– Bớ làng xóm ơi! Bà con ơi! Vợ tui nó thành ma rồi! Vợ tui… Vợ… tui…
Đực mệt gần đứt hơi. Nó la khản cổ cả tiếng đồng hồ mới có người nghe. Họ theo Đực vào chỗ ở của hai vợ chồng, đào lỗ, chôn Mén nơi bìa rừng.
*
Phóng viên một tờ báo Thành phố đến phỏng vấn Đực.
– Xin anh vui lòng cho biết quí danh.
– Danh gì. Hổng biết.
Anh phóng viên ngơ ngác, chợt hiểu ra.
– Anh tên là gì?
– Hổng có. À… Đực.
– Năm nay anh bao nhiêu tuổi?
– Hổng biết tuổi. Thấy lớn vậy thôi.
– Cha mẹ anh ở đâu?
– Hổng biết. Hổng có cha mẹ.
– Chị Mén bao nhiêu tuổi?
– Hỏng phải chị. Con Mén.
– Vâng, chị… à con Mén mấy tuổi?
– Hổng biết luôn. Nó cũng lớn như tui.
– Mén có cha mẹ không?
– Hông. Hổng biết.
– Anh chị gặp nhau trong trường hợp nào?
– Hổng có trường hợp.
– À… Anh gặp chị ở đâu?
– Tui gặp nó làm rẫy, tui cũng làm rẫy.
– Anh biết chữ không?
– Chữ gì? Hổng có chữ.
– À… Nghĩa là anh có biết đọc, biết viết không?
– Đọc gì? Hổng biết gì hết.
– Anh có biết rằng anh đã làm một hành động đối với vợ anh như là một kẻ giết người không?
– …
– À… Anh… đã giết chị Mén.
– Hông! Đực chợt hét lên. Tui hổng giết nó. Nó hổng chịu đẻ. Nó đau quá, biểu tui lấy dao mổ cho nó đẻ. Rồi nó chết thành ma. Hu hu… Tui thương nó. Hu… hu…

Đực khóc sụt sùi:
– Nó chết… tui ở với ai giờ đây?

Anh phóng viên nhìn Đực:
– Cảm ơn anh đã trả lời phỏng vấn. Xin chia buồn với anh.
Đực còn ngồi tiếp tục khóc:
– Mầy ơi! tao thương mầy. Mầy thành ma rồi! Mầy bỏ tao! Hu hu…
– Ông ơi! Thằng Chó chạy chơi về. Sao ông khóc vậy? Về nấu mì cho tui ăn đi ông. Tui đói bụng rồi. Nó kéo tay Đực, nhưng Đực dằng tay nó ra, khóc:
– Hu… Tao biết ở với ai! Mén ơi!

Kinh Dương Vương

[/read]

Hà Thúc Sinh

Hà Thúc Sinh
Chiều Say Sảng, Nhớ Bạn
(Gửi Châu Long Đô và Lê Tấn Nhứt)

Nhấm nháp lon bia lúc cuối ngày
Mà sao choáng váng thấy mình say
Thấy mình sao đó sao sao đó
Bạn cũ thôi rồi chẳng sót ai.

Toán mình sau đúng bốn lăm năm
Rụng hết chiều nay chỉ sót Sinh
Lẻ Sáu ba ta, ba chỗ sống
Mèng ơi Lẻ Chín còn riêng mình!

Miệt dưới hôm qua lại động đất
Khi không Sinh nhớ Bạt làm sao
Những ngày còn ở dưới vùng Los
Uống rượu lăng nhăng nói tầm phào

Bỏ thuốc mười năm có lẻ rồi
Nhớ Đô mồi thuốc rít vài hơi
Ho trào nước mắt ho như khóc
Nhớ bạn chiều lên tối nửa trời.

Biết đến bao giờ ta lại đứng
Trên cầu Tham Tướng nhìn sông trôi…

Bóng Dưới Núi Pasadena

Trăng như da thịt một mỹ nhân
Mây che những phần ngại tỏ lộ
Giữa khi khối óc thôi lang thang
Dường như quanh chàng có nỗi nhớ.

Sâu góc núi nổ tiếng ầm lớn
Lòng nghiêng nghiêng lòng như mưa rừng
Róc rách trong hang tựa dĩ vãng
Không thấy hoa mà cảm thấy hương.

Tay gậy chống không vững cuộc đời
Dốc thoai thoải đổ như hiện tại
Nghe kinh mang sinh nở cơn vui
Giữa một đoá lòng chàng tê tái.

Đọc sách cũ ba nghìn quyển đủ
Gió một tờ có thấy chi đâu
Trăng một khoảnh thịt xương xa lạ
Núi vẫn là hoang tưởng đời sau.

Ôi chiều nay không hiểu trời đất
Vì chàng đâu có đứng đó đâu…

Thả Xuân

Len dưới rừng cây cuối tháng Ba
Miệng em son đỏ lẫn vào hoa
Tóc em như khói cay cay mắt
Áo mỏng vân lên màu ngọc ngà

Mùa rét gió chui tê sống áo
Về đây bên lửa cởi đời nhau
Mở cho nhau những thân thể mới
Ta thả nghìn chim bốc trắng đầu

Sớm Xuân khi nắng đem vàng đổ
Lòng đôi ta ấm lòng tách trà
Giấc mơ đau khổ sẽ đằm thắm
Lúc mình len lỏi dưới rừng hoa

Cứ như thế chúng ta có nhau
Trắng phau phau một trí nhớ cũ
Mớ chỉ rối thôi kéo về sau
Chuyện ngày qua dẫu đằm lệ nhỏ

Cứ như thế tháo lỏng dây đời
Cho cơn vui bốc lên trời vắng
Anh sẽ giữ môi son em tươi
Còn ý tưởng gửi chùm hoa trắng

Nghịch Địch Hành

Giao thừa đâu mà vội
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
Mà ăn uống cho say

Ta cũng người như chú
Cũng nhỏ bé trong đời
Có núi sông trong bụng
Mà bất lực hôm nay

Chiến chinh trời cũng sợ
Chỉ còn lại hai bên
Vội vàng chi cho cực
Cứ thong thả nghỉ đêm

Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào

Nếu chú có cha mẹ
Ta chẳng những người thân
Còn mang thêm lắm nợ
Với rượu và gió trăng

Chú cứ ăn cho đủ
Mai chết sẽ chết no
Ta cũng cần đêm cuối
Từ giã gió trăng xưa

Chiều Say Sảng, Nhớ Bạn
* Gửi Châu Long Đô và Lê Tấn Nhứt

Nhấm nháp lon bia lúc cuối ngày
Mà sao choáng váng thấy mình say
Thấy mình sao đó sao sao đó
Bạn cũ thôi rồi chẳng sót ai.

Toán mình sau đúng bốn lăm năm
Rụng hết chiều nay chỉ sót Sinh
Lẻ Sáu ba ta, ba chỗ sống
Mèng ơi Lẻ Chín còn riêng mình!

Miệt dưới hôm qua lại động đất
Khi không Sinh nhớ Bạt làm sao
Những ngày còn ở dưới vùng Los
Uống rượu lăng nhăng nói tầm phào

Bỏ thuốc mười năm có lẻ rồi
Nhớ Đô mồi thuốc rít vài hơi
Ho trào nước mắt ho như khóc
Nhớ bạn chiều lên tối nửa trời.

Biết đến bao giờ ta lại đứng
Trên cầu Tham Tướng nhìn sông trôi…

Buổi Chiều Ở Nhà
Mời Bạn Đánh Chén,
Nửa Chừng Hết Rượu

Giằn ly xuống chiếu cười gượng cười
Ta biết rằng chưa ấm bụng ngươi
Bực thay bạn đến từ muôn dặm
Mà rượu hề không đủ say chơi

Con ta chợt ré lên sau bếp
Buổi chiều đổ lửa xuống nhà tôn
Hà thúc phu nhân coi buồn lắm
Sữa thiếu làm sao tiếp rượu chồng

Bạn ta người của mùa chinh chiến
Đời quen rộng rãi thú tiêu pha
Kéo ta ra quán hề ra quán
Ngó trời ngó đất mà thương ta

Trăng kia sao chẳng vào dinh thự
Mà chỉ nằm chơi một ngọn cây
Bạn ta nào hiểu niềm sung sướng
Đời ta hề chưa bẩn đôi tay

Thủy Nguyệt

Đêm yểu điệu trên hàng dương liễu
Lời hẹn hò những lối chưa đi
Sóng bạc đầu mối sầu trăm tuổi
Mây lang thang buồn lạc lối về

Em không đến hay em sẽ đến
Nhạc lòng anh sóng cũng tràn trề
Một chén rượu làm nên giấc mộng
Quá đủ rồi biển nói anh nghe

Chẳng cùng ai ngồi nơi cuối núi
Quán cà phê có điệu nhạc buồn
Sống những phút cát bồi lặng lẽ
Hạnh phúc nào bằng nỗi cô đơn

Sung sướng quá trời ơi nguyệt hiện
Chìm sâu anh một hạt cát vàng
Trăng vướng núi rơi chìm đáy nước
Anh khóc mùi đúng lúc hân hoan

Bài Thơ Tháng Năm

Tháng này trí nhớ là đêm
Gió mùa lên tới ngang anh thì ngừng
Lầu cao lũng thấp xe tuôn
Quanh co đường lạ phân vân ánh đèn
Cây xanh chót vót cây xanh
Vàng mười nắng mỏng đồi nghiêng dán vào
Dang tay rừng hát lao xao
Gió như cởi áo vào sâu lòng người
Tháng này xa xứ lạ nơi
Buồn thâm trầm khẽ phanh phui ra ngoài

Biển, Cầu Vàng, Và Em

Ở phía sau em biển tựa lòng
Cầu dài nối lại mối tình riêng
Đời sau truyền thuyết người ta nhắc
Thủa ấy ngồi kia em tóc đen

Ôi tóc em thu gió biển về
Lồng bay như một giấc hoang mê
Áo xanh thơm mỏng ngon mùi nắng
Rực rỡ mùa lên một chớm hè

Choáng váng khi em ngước mắt nhìn
Chim, mây, và lá cũng bâng khuâng
Về sau truyền thuyết đồn thêm nữa
Em ghé qua đây chỉ một lần

Ai biết đâu em đã suốt đời
Trong tôi, giọng nói với môi cười
Thì khi nhớ quá tôi qua đó
Hẳn có em vì đã có tôi

Xử Nữ

Người xinh, tính khép, tuy dáng đi hơi vẹo như có thương tật nơi chân, Nhi trọ nhà trên đường Chapel, sáng sáng đáp chuyến buýt sáu giờ lên trường, đã bốn năm. Ngoài bến đợi nàng hay kín đáo mở sách ôn bài, bữa nào chia trí lắm mới lọt tai chuyện của đám đồng hành chung quanh.

Bà Juanita người Mễ, tròn như hạt đậu đỏ hôm nào cũng vui như ngày Cinco de Mayo. Giống tờ báo sống bà biết làu làu mọi chuyện. Bà cân nhắc vụ án O.J. Simpson như một bồi thẩm lý tưởng vì “đây không đen cũng không trắng.” Bà bảo California dám đói vì “đội Rams chuồn khỏi quận Cam nay đến Raiders khỏi Los Angeles, điềm nào gở hơn cơ chứ?” Bà khen Clinton bảnh trai, nhưng “nếu con Maria cháu tôi mặn mà như Natalie Wood được tổng thống chọn làm bí thư, tôi sẽ khuyên nó nghĩ lại đấy nhé!” Ấy nhưng thấy Nhi bước đến là bà đổi ngay câu chuyện. Bà thích nàng, và do đó có vẻ cố tình lôi nàng ra trước “ánh sáng công chúng” dù chỉ bằng những quan tâm kỳ quặc. Thí dụ, “Cưng ơi, Jean mua đâu đẹp thế?” Nàng nghĩ bụng chiếc quần mình mặc có gì là đẹp nhưng vẫn thành thực, “Target đó, có mười hai đồng.” Thế là bà Jennifer, bà già Mỹ có máu da đỏ, hút thuốc liên miên, người duy nhất ở Mỹ nàng thấy có chiếc răng vàng, giật phéng lấy phần ngạc nhiên của bà Juanita, “Tôi đeo kính đấy chứ,” Bà nói. “Y như quần Guess ở Robinsons–May ấy thôi.” Giá ở quê nhà chắc Nhi đã chết vì ngượng. Ai đời mấy bà già xúm lại kéo cái quần cô gái đang mặc ra mà thảo luận bao giờ!

Nhưng đám trẻ như con Toni xem ra bất cần, thậm chí cả những thứ nó có bên trong. Nó như biểu tượng của một nền văn hoá trống trải mà sự diêm dúa không che giấu được gì, không bao bọc được gì, nhưng thiếu nó, thiếu những thế hệ tiếp nối như nó sợ nền văn minh này lại không trọn vẹn. Toni tóc vàng, mắt xanh, đẹp như thiên thần nhưng Nhi kinh nó như một loài hoa ăn thịt ong bướm dù có lần trò chuyện nàng biết nó cùng tuổi xử nữ với mình. Toni bảo, “Bạn trai cháu ư, đếm không xuể đâu bà Jennifer.” Bà Juanita kêu lên, “Dóc mày!” Toni nhún vai. “Thật đấy dì Juanita,” Nó nói. “Cho nhau quả táo còn tươi không hơn đợi lúc nó khô quắt đi à?” Nó đụng bức tường đạo đức u trán? Không, chẳng ai nhìn nó bằng ánh mắt ghê gớm cả, cười thông cảm thôi, có thắc mắc là chỗ không biết bao giờ con nhỏ nó báo tin lấy chồng. Tuy thế bà Juanita vẫn khẽ kêu lên, dù giọng khôi hài chứ không cay đắng, “Chúa ơi, đây rồi trinh nữ như loài thú hiếm tuyệt chủng trên địa cầu.” Chỉ Nhi thầm nghĩ xứ này không ai phá huỷ được người nữ trừ chính họ.

Một lần trên xe bà Juanita đùa hỏi, “Cưng tới tuổi có bạn trai chưa?” Nhi cười, “Tôi băm tư rồi, bà ạ.” Thế là bà ta lại lôi nàng ra trước ánh sáng công chúng. Bà cười rộ bảo mấy bà bạn, “Con nhỏ này tính khai gian tuổi ra ứng cử thị trưởng sao đây! Chúa ơi nó nói với tôi như với một trinh nữ mười ba vậy á. Há há há há… Nó bảo nó đã băm tư.”

Mặt tiền tiệm hoa Conroy’s Flowers góc đường Atlantic thường bày sớm lắm loại rực rỡ, nhưng Nhi ít thấy loại nàng vốn yêu. Chút liên tưởng xa vời như hạt cát chui vào giày, hồn Nhi cộm một cảm xúc khó chịu. Ngày lên, trần gian rầm rập sức sống, vậy mà nàng vẫn nghe rõ hơn sự rùng mình dấy từ chiều sâu chịu đựng của lòng mình.

Nếu bà Jennifer hay than xe chật thì Nhi còn thấy xe nhớp, vì thế nàng thu mình nhỏ hơn trong chỗ ngồi.
***
Ba ngày liên tiếp Nhi thấy ông ta lên xe ở trạm Fremont–Valley, luôn ngồi vào chỗ phía sau băng ghế dành cho người già cả tàn tật, chỉ cách nàng lối đi giữa. Đây đầu đen nhiều nhưng không hiểu sao nàng cứ đinh ninh ông ta phải là người đồng hương, không thể là Tàu, Phi, Nhật hay Đại Hàn. Sao thế? Ăn mặc giản dị? Lặng lẽ trong đám đông? Bị một tên Mễ hung hăng lấn chỗ vẫn vui? Cười một cách rất dĩ hoà vi quý với một thằng bé Mỹ nghịch ngợm ném giấy kẹo vào người? Nhớ đến mấy ông đồng hương lối xóm Nhi bật cười thầm. Đàn ông mình kỳ. Họ có thể hùng hổ như lãnh chúa trên diễn đàn cộng đồng, quyền uy như vua với vợ con trong nhà, nhưng ra đường bị cảnh sát Mỹ nhét giấy phạt vào tay, đôi khi oan uổng trông thấy, lại nhã nhặn lí nhí cám ơn!

Tấm lòng dịu dàng của Nhi bất ngờ nổi tiếng kèn chiến thắng hơi ác khi xe dừng ở trạm đường Mission. Y chang! Hai thiếu niên Mỹ đen phóng lên xe, hung hãn như giặc, lôi hộp sơn xì ra xì tùm lum lên trần lên vách xe. Cảnh quen, chẳng ai cự nự kể cả bác tài nếu như chúng đừng xịt trúng họ. Nhưng một đứa quá tay, trước khi phóng chạy đã xịt một vệt trúng vai ông. Chiếc sơ mi trắng như ứa máu. Hành khách ái ngại âm thầm. Và Nhi cũng ái ngại âm thầm. Nhưng may. Ông ta chịu đựng nổi. Nàng rút tấm khăn giấy trong cặp đưa cho ông. Ông nhìn nàng bằng ánh mắt cảm kích.
Nhi hỏi nhỏ bằng tiếng Anh:
“Ông… người Việt?”
Ông ta từ tốn lau vết sơn, kéo nàng về tiếng mẹ đẻ:
“Thấy cô tôi cũng đoán vậy.”
Thế là quen. Xe chuyển bánh. Nhi lại hỏi:
“Ông sợ?”
Ông cười:
“Những người da trắng trên xe không sợ, sao mình sợ?”
“Sao ông biết họ không sợ?”
“Mặc cảm là trí khôn kẻ tự tử. Có thể người da trắng sẽ bắt đầu sợ khi người da đen biết ngưng phá huỷ.”

Xuống trạm đường Zonal thả bộ vào trường, Nhi hơi tiếc không hỏi gì thêm về ông. Chỉ vài chi tiết mơ hồ sót lại. Ông quãng năm mươi, đeo kính cận nhẹ, người tầm thước, tóc hơi dày chưa bạc, mặt hồng hào, tai to.
Đôi ba ngày sau không gặp lại Nhi quên ông nhanh chóng.
***
Một cuối tuần ngôi chùa trong vùng tổ chức lễ tế độ cho thuyền nhân bỏ mình trên biển Đông. Bà chủ nhà rủ Nhi đi. Nghĩ tới góp nén hương cho bao người không may là điều nên, Nhi vui vẻ. Bà chủ lại có chân trong ban tiếp tân thì nàng thoát sao khỏi sự chia việc của bà. Nàng giữ chân châm trà đãi khách. Đang loay hoay với mớ ấm tách, vị sư dẫn một người đàn ông đi qua. Ông ta!
“A,” Nhà sư dừng chân vui giọng. “Giới thiệu ông một đồng nghiệp tương lai nhé. Đây cô Nhi, học Y trên USC. Đây bác sĩ Hoặc, người cùng quê tôi đấy, cô mời hộ tôi một tách trà đậm đậm chút nhé.”

Vị sư bận tiếp khách. Sau một thoáng bối rối của kẻ bị bỏ lại, ông ta nói lơ lửng, “Trong lòng chảo thung lũng có khác.” Rồi ông thản nhiên lấy khăn tiếp Nhi lau thêm mớ tách.
Nhi thăm dò:
“Bác sĩ mở phòng mạch vùng này?”
Ông giơ cao chiếc tách nhìn kỹ một vệt đen, giọng ôn tồn:
“Có phòng mạch phòng miếc nào đâu. Thế chuyên khoa cô tính chọn…”
“Dạ Tâm Thần.”
“Á… đau đầu lây đấy.”
Tìm cách xưng hô cho là phổ thông và thích hợp nhất, Nhi cởi mở:
“Vì vậy chắc theo cách chú, ra trường cháu kiếm việc bệnh viện cho đỡ đau đầu hơn.”
“Tôi cũng đã tính như cô, có điều…”
“Thế…”
“Trâu chậm cô ơi! Tôi đã cố nhưng giờ không đâu nhận nội trú nữa.”

Nhi hiểu. Trường hợp này không chỉ riêng ông, nhiều. Chuyện xoay sang chiều hướng khác. Lan man mà thân mật. Và khi đủ thân mật, ông hỏi, “Nhi ở với gia đình đấy chứ?” Mất chữ cô khách sáo rồi. Nhi nhìn ông thật nhanh. Không hiểu sao đôi tai to của ông giúp nàng sự yên tâm khá vô cớ, và nàng quyết định, “Dạ một mình thưa chú!” Ông lấn tới, “Diện gì thế, lâu mau rồi?” Nàng cười chỉ ra bàn, đề nghị, “Chú uống trà kẻo nguội.” Nhìn xuống sân đông khách một lát ông buột miệng, “Nhanh. Mới hôm nào cây mận góc kia chỉ ngang tầm tay, mùa rồi đã có trái. Ba năm như ba ngày.” Nàng hỏi, “Gia đình chú sao?” Ông cười ngặt nghẽo. “Cũng như Nhi,” Kế thẳng thắn bảo. “Các cô dựng hàng rào phòng thủ dày quá có khi tự làm rách áo. Gọi khác đi.” Nhi hơi sầm nét mặt, khẽ gắt, “Trời đất, gọi sao nữa đây?” Ông thẳng thắn đến chối tai, “Có anh có em dỗ nhau khi buồn.”

Khi chùa hành lễ, ở góc sân có người đàn bà còn trẻ ngồi lại nơi chiếc ghế đẩu khóc rấm rứt. Ông Hoặc bảo đã thấy bà ta vài lần như thế, ngồi cùng chỗ, khóc cùng tiếng khóc, không dỗ được. Ông kể qua câu chuyện thương tâm trên biển của bà và gia đình bà. “Ấy là nghe nói thế, chuyện đã cũ nhiều năm,” Ông ngẫm nghĩ. “Mà như vậy thì đáng sợ thật vì chẳng có gì tự phá hủy hơn.”
Lời ấy ghim trong óc Nhi lâu lắm.
***
Họ tiếp tục gặp lại, lúc chỗ này, khi chỗ nọ toàn do tình cờ; nhưng dù tình cờ những câu chuyện vẫn như tơ như chỉ, cứ thoải mái rối vào nhau đến quên thời gian, dù trước một siêu thị hay trong một tiệm ăn. Một lần gặp nhau trong hội chợ Tết do người Tàu tổ chức trên đường Valley, tránh một đám đông ùn ùn kéo nhau đến xem đấu võ, ông và Nhi ra quán gọi nước ngồi xem diễn hành xe hoa.
Ông Hoặc nói:
“Lạ, đám đông thường nhắc tôi về một đám đông trước 75.”
“Ngày thay đổi chế độ?”
“Lại nói thời 75… lúc ấy Nhi ở đâu ha?”
“Dạ Sài Gòn,” Rồi để tránh dĩ vãng như tránh hòn đá, nàng nói lảng. “Anh đang nói chuyện đám đông.”
Ông hơi sửng, chợt nhớ, à một tiếng:
“Nhất là đám đông kiểu đốt Los Angeles. Nhi có đó?”
“Dạ lúc ấy còn học ở UCI, chỉ coi qua truyền hình.”
“Tôi mới đến, đang tạm trú nhà người bạn ở khu South Central.”
“Sợ không anh?”
“Phân vân thôi. Hôm ấy đứng trên ban-công nhà anh bạn nhìn xuống. Bạo động nào cũng na ná nhau. Kẻ tham dự không còn là chính họ mỗi ngày. Cũng đánh đấm túi bụi, rượt đuổi, hò la, súng nổ. Cảnh y như cảnh tôi chứng kiến hai mươi năm trước.”
“Sài Gòn?”
“Đúng hơn ở quãng ông Tạ–Bảy Hiền, trước một hiệu bán gạch ngói. Họ biểu tình chống chính phủ và tôi có đó.”
“Anh…”
“Không, kẹt xe thôi. Tôi vừa gắn lon là xuống trình diện trại Hoàng Hoa Thám ngay. Chiếc Vespa khi không oan mạng. Nhưng chẳng vì thế mà nhớ đâu, nhớ là vì dịp ấy tôi cứu nạn nhân đầu tay ngoài đường.”
Nhi thăm dò:
“Một người biểu tình?”
“Kẻ trong cuộc mình gọi nạn nhân có xúc phạm họ không, dù là viên cảnh sát hay người biểu tình? Không, một con bé.”
“…?”
“Mươi mười hai tuổi, chắc đứng xem bị lạc viên ngói vào hông, máu ra nhiều. Con bé thật lạ. Xin lỗi, tôi kéo quần nó xuống tìm vết thương nhưng cứ giữ cứng, nhất định không cho. Mà nào phải búp bê búp biếc gì cho cam, thương tích như thế vẫn cứ ôm chặt trong tay một bó huệ đã héo rũ. Tôi đành băng bó qua loa, bỏ xe bế nó chạy một mạch xuống Vì Dân.”
“Sau đó?”
“Nào biết. Trình diện xong ra trận ngay, mấy tháng sau mới có dịp về lại Sài Gòn.”
Khi không Nhi đổi đề tài:
“Hồi gặp anh mấy lần trên xe buýt, anh đi đâu thế?”
“À… à…”
Ông Hoặc không buồn đáp. Những chuyến xe hoa lộng lẫy lôi hồn ông theo rồi.
Trên đường về Nhi đùa:
“Xe hoa nhiều giai nhân quá, chọn được ai không?”
Ông đùa lại, khá sỗ sàng:
“Chắc mấy anh lùn thế nào chả táy máy, bằng không cô Bạch Tuyết yêu được!”
Lời ấy ghim trong tim Nhi lâu lắm.
***

Có lần chàng than nàng không hiểu chàng, Nhi cười, lục ngăn kéo lấy ra một tấm ảnh, ngắm nghía, nhất định không cho chàng xem. Như hai đứa trẻ họ vật nhau trên giường và chàng giằng được. Nàng nhìn chàng ngơ ngác trước trò chơi của mình. Chàng bảo, “Nghịch quá!” Nàng đáp, “Đã thấy hết ruột gan sao bảo không hiểu?” Lần ấy nàng cắt ảnh chàng, lấy đầu gắn vào một thân thể vẽ bộ phận tiêu hoá.

Nhi biết chàng muốn một đứa con nhưng tự cưỡng, dù đôi phen đã suýt mềm lòng. Có gì gần với sự sợ hãi. Nàng không sao có được sự rạo rực đủ để hiến chàng hưởng trọn cái rùng mình xấu hổ của một thân thể đàn bà. Thậm chí những lúc chàng liều lĩnh rúc vào nàng như đứa bé, nàng vẫn chỉ nuông chiều ở một chừng mực đáng ghét. Nàng mơ hồ thấy mình như bị liệm sống trong một tấm áo không khuy.

Những khi chàng bình tĩnh ra về Nhi càng thêm bấn loạn. Chàng đã chẩn đúng bệnh nàng? Chàng cũng hiểu không gì dễ sợ hơn những tấm ảnh dĩ vãng không hạnh phúc chẳng lục lọi mà cứ lòi ra? Và chàng là lương y, vẫn kiên nhẫn tìm sự hợp tác nơi chính nàng cho sự chữa trị đến thành công? Mình có vô lý khi bảo giở thêm trang mới không chữa được pho thảm kịch cũ? Ít nhất một lần chàng bóc quýt nàng ăn, nàng nhăn mặt bảo, “Để nguyên trái cho em, gì cũng bóc ra, ghê lắm!” Một lần khác giỗ mẹ nàng, chàng đem đến bó huệ, nàng nhìn nhanh, lạnh nhạt hỏi, “Sao lộn hoa gãy thế này?” Mới đây nhất nhân sinh nhật nàng chàng mua tặng một hộp nhạc có tượng Bạch Tuyết, nàng nhìn chàng trân trân, không nói.

Một đêm Nhi ngồi nhìn trăng, chợt hiểu. Tình yêu hai người như tuần trăng Thợ Săn Tháng Mười tráng lệ, soi tỏ lần cuối mặt đất buồn tênh cho mùa đông giá sớm muộn sẽ tràn về. Nàng không trốn được cảm giác khốn khổ đời làm hỏng của nàng một đêm thủa chưa ham vui, làm phí một thời thủa chưa biết tiêu, làm nhạt một mặn nồng thủa chưa muốn hưởng!

Làm sao giải thích chàng hiểu có một cuộc tình như đêm trăng, ngắm thôi, không ôm được vào lòng?
***
Cái chết đột ngột của một cô gái làm rộn khu phố nhỏ. Bà chủ nhà thì lắc đầu bảo, “Thiệt… con nhỏ điên”; ở bến xe bà Juanita cố nhớ lại điều gì, rồi lẩm bẩm, “Nó học bác sĩ mà, người ta bảo nó lạm thuốc là sao”; còn Toni thầm thì chi đó với bà Jennifer ngồi trầm ngâm điếu thuốc lá, và nó chỉ ngưng khi bà reo thầm, “Xe tới, vậy là hôm nay trống một chỗ ngồi”; riêng ở trường Y chắc có nhiều tin tức chính xác hơn, do thế người ta xầm xì nhắc lại chứng đột tử “đi trong giấc ngủ” mươi năm trước thấy xuất hiện trong cộng đồng Lào, H’Mong và Thái; còn ở chùa bá tánh lại gặp nhau ở chữ tội nghiệp, và sự tội nghiệp ấy xem ra còn có kín đáo đính thêm những dấu hỏi vào câu chuyện tình của hai người đồng hương. Ông Hoặc cúi đầu nhận sự chia buồn như nhận mớ hoa giả ném xuống mồ. Ông hiểu, nhưng nói làm sao nguồn cơn của tai biến, thành ra ông yên lặng, một sự yên lặng chì chiết làm bạc nhanh mái tóc ông cách không ngờ.

Đời ông cũng mất mát nhiều, quá nhiều, chẳng sót gì nguyên vẹn, có thể cả lòng trung thành với một hình bóng; phải vì thế chỉ sau lần giỗ đầu cô gái được ông đứng ra tổ chức ở chùa với tràn ngập hoa huệ, người đồng hương không ai gặp lại ông nữa trong thành phố thung lũng San Gabriel những ngày sau đó?./.

Hà Thúc Sinh

Huỳnh Hữu Võ

Huỳnh Hữu Võ
Đà Lạt Tháng Giêng Hồng

nếu như trời không gió
mưa sẽ về đồi thông
nếu như em không đến
sẽ vô cùng mênh mông

Đà Lạt chiều xuống thấp
bóng ai bên hàng cây
chắc nỗi buồn đứng nấp
cho trời chiều đầy mây

bỗng dưng lòng hoang vắng
gió lạnh đâu tìm về
từ cõi nào xa thẳm
để buồn lên tái tê

giọt sương như lay động
nõn xanh bên bờ hồ
bóng em cứ xao động
trong tim anh từng giờ

nếu như em không đến
Đà Lạt tháng giêng hồng
hoa quỳ không còn nở
giữa vô cùng mênh mông

Ngày Trở Lại Phan Rí

Tôi về Phan Rí qua vườn táo
Cắn trái vàng thơm ngọt đượm tình
Cắn trái xanh chua lòng thiếu nữ
Men đời còn xanh trên lá xanh

Lưu lạc bao năm lòng vẫn nhớ
Mái nhà khóm táo của ngày xưa
Ở đây gió cát như dòng chảy
Đời lún sâu khi biển mất mùa

Tôi về Phan Rí đi xe ngựa
Qua cầu, qua cầu đến làng Chăm
Chiêm nữ đội vò đi lấy nước
Dưới đồi đồng lúa trải mênh mông

Như có chút gì còn sót lại
Một thời hưng thịnh thuở vàng son
Tôi thấy hình như trong đáy mắt
Chiêm nữ còn in nét tủi buồn

Tôi về Phan Rí bơi thuyền nhỏ
Qua dòng sông luỹ lặng lờ trôi
Bèo mây có lúc tan rồi hợp
Tôi lại về đây lúc nửa đời

Bên kia một dãy đồi Xích Thố
Đồi đứng mà như ngựa ruổi dong
Phải chăng xưa đó là trận mạc
Nên cát đồi trăng cứ đỏ hồng

Tôi về Phan Rí trông ra biển
Một thành phố nổi một rừng sao
Ở đây lắm mực nhiều tôm cá
Nguồn sống cư dân tự thuở nào

Bao năm tôi lại về Phan Rí
Thăm mấy người thân mấy bạn thơ
Lớp trước thầy cô đâu cả nhỉ?
Trường xưa buồn vắng bóng người xưa.

Một Ngày Với Sóc Trăng

Chiều về Liêu Tú thênh thang gió
Bóng nhỏ đường thôn bước diệu kỳ
Lòng như mây trắng lưng trời biếc
Bên rặng dừa nghiêng Sơn Phos Ly

Em dấu nỗi buồn trong cúc áo
Để cho trăng mười sáu nhạt nhòa
Bếp đùn khói tỏa mờ Buôn, Sóc
Như níu chân người khách phương xa

Lịch Hội Thượng còn là nỗi nhớ
Chùa Khờ me chìm trong mưa giăng
Đưa tay em vẫy lời chia biệt
Để muôn đời thầm gọi: Sóc Trăng

Lung linh nước và mênh mông lúa
Đẹp tuyệt vời đôi mắt Khờ me
Mềm môi vị ngọt lời Nam Bộ
Cỏ rối vướng tay chậm bước về

Sẽ có một ngày em ước hẹn
Con thuyền gác mái nước sông trôi
Là trên bến vắng chiều Liêu Tú
Có kẻ si tình đứng gọi: Phos Ly ơi!

Đà Lạt
Tháng Giêng Hồng

nếu như trời không gió
mưa sẽ về đồi thông
nếu như em không đến
sẽ vô cùng mênh mông

Đà Lạt chiều xuống thấp
bóng ai bên hàng cây
chắc nỗi buồn đứng nấp
cho trời chiều đầy mây

bỗng dưng lòng hoang vắng
gió lạnh đâu tìm về
từ cõi nào xa thẳm
để buồn lên tái tê

giọt sương như lay động
nõn xanh bên bờ hồ
bóng em cứ xao động
trong tim anh từng giờ

nếu như em không đến
Đà Lạt tháng giêng hồng
hoa quỳ không còn nở
giữa vô cùng mênh mông

Ngày Xưa

Em đi giữa dòng đời
Một khung trời thơ mộng
Giọt buồn nào lắng động
Rơi xuống đáy hồn tôi

Làm sao em biết được
Những sáng mờ hơi sương
Làm sao em biết được
Giữa lòng tôi tơ vương

Cửa nhà em đóng chặt
Khép kín một tình yêu
Tôi về qua ngõ quạnh
Khuya khuya niềm cô liêu

Mai em về bến mới
Sóng nhỏ chao lòng thuyền
Em tung tăng dưới nắng
Nón không buồn che nghiêng

Ngày xưa em là mộng
Ngày xưa em là thơ
Giữa hồn tôi còn đọng
Những giọt buồn ngày xưa

Huỳnh Hữu Võ

1 2 3