Mang Viên Long … (Còn Tiếp)
Mang Viên Long
Tuyệt Huyết Ca Của Đặng Tấn Tới
Tại sao tôi chọn đọc thi phẩm “Tuyệt huyết ca” mà không là “Thi Thiên” (tác phẩm thứ tư, phát hành mùa Thu Quí Sửu), hay thi phẩm mới nhất vừa phát hành trong mùa Xuân 1974 là “Trúc Biếc” của Đặng Tấn Tới ? Tại sao là một tập thơ mỏng manh, được in ra vội vàng trong một năm đầy biến cố (mùa hè 1972), kỹ thuật trình bày cũng xoàng xỉnh, mà không là một tập nào trong 04 tập thơ xem như được độc giả lưu ý nhiều nhất ?Chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca” tôi cần nói tới hai điều :
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
1-Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của kẻ sĩ Việt Nam (hay nói cách khác: Nỗi bi thiết tuyệt diệu và vô cùng của người nghệ sĩ Việt Nam) hai mươi năm “lạnh nghe hồn réo mười phương, Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn”.
2-Minh chứng, lần chót nhưng không phải là thừa thãi, không có sự phân chia (không phải sự tìm hiểu, nghiên cứu) nào trong Thi ca là thích hợp ; hay nói cách khác, không thể uốn nắn, xếp loại một cách gượng ép, cứng nhắc, với nhiều ác ý để từ đó đưa ra những luận cứ nhất thời rất hàm hồ, về những thi phẩm đã được giới thiệu.
Phần một (xin tóm tắt) : Thi phẩm “Tuyệt Huyết Ca” gồm 27 đoạn thơ song thất lục bát, tất cả 108 câu thơ, chung quanh một nhan đề chính đã được chọn. Sử dụng lối thơ cổ truyền Việt Nam để diễn tả những khúc ca máu hồng tuyệt vời của dân tộc, Đặng Tấn Tới đã dồn hết rung cảm tích tụ kỳ diệu bao năm giữa “Trăng cổ độ ố mầu tăng hải, Trải thu phần quan tái vài bông”, trong cảnh tượng đời sống ghê khiếp như ma quái “Người vất vưởng tận hang cùng cốc. Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương” vào thời gian được ghi nhận là biến loạn nhất trong hai mươi năm chinh chiến.
Tôi tạm chia “Tuyệt Huyết Ca” thành một bố cục như sau : Đoạn một : (08 câu đầu) Tình cảm mang mang thúc đẩy lần viết (hay lần mở) từng trang tuyệt huyết của Dân tộc. Đoạn hai : (72 câu tiếp) có thể chia làm 04 tiểu đoạn. Tiểu đoạn a: (08 câu) Viết (hay mở) với tư thái thong dong, trang trọng, chua xót và có chút gì như là chán nản. Tiểu đoạn b : (16 câu) . Những trang đầu tiên – là một cuộc tao ngộ kỳ bí, đưa đẩy tác giả túy lúy trong cảnh “Sông nước chảy chiêm bao máu rạng. Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương”. Tiểu đoạn c: (16 câu) . từ cuộc hội ngộ “chung tuyệt huyết” tri kỷ trên, thảm cảnh ma quái trần gian tỏ lộ sáng ngời như đời sống ngày đêm của Dân tộc đã hai mươi năm “Người vất vưởng tận hang cùng cốc/ Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương/ Máu khô thịt nát bên đường, Rợp mầu tinh huyết đò dương đắm chìm”. Tiểu đoạn d : (32 câu) . Thái độ tìm thấy khi đã kinh qua cảnh đoạn trường (ở đây cũng là tâm sự, thái độ của kẻ sĩ – hay nghệ sĩ, đối với mọi biến động) : Giải quyết những nỗi ưu tư bi thiết bằng sự an ủi của chính mình, bằng sự xoa dịu của đôi mắt nhân ái trầm buồn của Phật Lão, và sau rốt, bằng vào sự hy vọng (vẫn còn hy vọng) : “Non nước cũ rạng ngời sông núi / Trời trong xanh muôn tuổi thơ ngây / Nước trôi mây cuốn chưa đầy / Ngày sương nắng biếc hồng rây ánh vàng”. Đoạn 3 (28 câu cuối): Con người đau khổ thống thiết từ đầu (cuộc tao ngộ) đã đổi khác : Ở đây là một cõi mới, một đời sống tiên cảnh lạ thường, hay là một cõi chiêm bao mộng mị của đa số nghệ sĩ Việt Nam. Nhờ đâu con người (em Nguyên Thủy) đã chết với máu me, với hình hài tiều tụy, với xương trắng cát lạnh, đã được sống lại vào đoạn kết ? Nhờ đâu? Xin thưa : Nhờ niềm hy vọng. Nhờ ước mơ. Nhờ mơ tưởng. Nhưng phải chăng mọi hy vọng ở tương lai cũng chỉ là chiêm bao ? Đoạn kết : “Mây gió nổi trôi ngàn bước mộng/ Bàn chân không lùa sóng vô biên/ Ta đi dạo khắp cõi miền/ Này là phố thảo kia triền xóm hoa”.
Đặng Tấn Tới trong “Tuyệt Huyết Ca” không phải u mặc như Tâm Thu Kinh, cũng không gảy những đoản khúc du dương (hân hoan hay bi lụy) liếc ngó đời sống với đôi mắt nhuốm đượm màu sắc Lão Trang – một thái độ ẩn dấu, e dè, nản chán – đó là thái độ hay tâm sự của kẻ sĩ hiện thời. Trong 108 câu thơ ở “Tuyệt Huyết Ca” đã kéo được tấm màn cho ngần ngại cho thấy rõ ràng một hình ảnh của nhà thơ : Đây là những hình ảnh trung thực, gần gũi, linh hoạt, chứa chất nhiều tâm sự bi đát (không giấu diếm – qua những cái nhìn, đến tư tưởng) có thể đại diện cho đa số kẻ sĩ (hay nghệ sĩ) hiện thời : Thương nhớ quê hương, xót xa vì vận nước, nhưng chỉ thể hiện bằng những thái độ tiêu cực (Than thân trách phận, buồn nản, tuyệt vọng, hy vọng, mơ ước, mộng mị, chiêm bao, và thoát tục : Một tính chất biểu hiện hiển nhiên trong vài năm gần đây tâm sự, quan niệm, đời sống của người nghệ sĩ (hay kẻ sĩ) rất phù hợp với vận nước, cùng những cố gắng khai phá cho Thi ca một lối thoát). Sự chuyển biến tâm tư trên có thể giải thích tóm tắt : Quá Đau Khổ Ngao Ngán -> Thất Vọng -> Quá Thất Vọng -> Hy Vọng – > Trở Về Với Mình = Mộng / Ước / Chiêm Bao / Thoát Tục, v.v…. Tất cả những trạng thái tình cảm quanh co nầy đã được ghi dấu trong “Tuyệt Huyết Ca” bằng một giọng trầm tĩnh, trang trọng nhưng lại quá lâm li bi đát.
Tình cảm đó là :
Mang mang cát bụi lên đường
Những xương máu cũ phai hường là đâu?
Trăng cổ độ ố mầu tang hải
Trải thu phần quan tái vài bông
Nao nao gió giục sang hồng
Rụng bao nhiêu cánh giữa lồng nhân sinh
Ngậm ngùi thương cảm :
Ghé trong mây trắng môi cười
Một xe cát bụi xô người ra đi
Và :
Vin sắc máu trong tòa hồng sử
Tay run mầu lữ thứ cô hương
Lạnh nghe hồn réo mười phương
Ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn
Nồng nhiệt, tha thiết :
Ta uống cạn giòng trong bích ngạn
Cuộn tâm bào ức vạn sinh linh
Quá giang ca ngộ cô tình
Lấp mầm sinh tử như mình như ai
Người thoáng hiện di hài cuối nguyệt
Đoạn trường:
Hồn đau nhỏ máu tơ đồng
Mấy cung hồ rợn mênh mông gió gào
Sông nước chảy chiêm bao máu rạng
Chén vàng thanh ngồi nán đêm sương
Chán nản :
Mây trôi lớp lớp vô thường
Trời xanh còn lại con đường chim bay
Nhìn thấy:
Người vất vưởng tận hang cùng cốc
Kiếp lạc loài oan khốc kêu sương
Máu khô thịt nát bên đường
Rợn mầu tinh huyết đò dương đắm chìm
Và :
Phơi xương trắng ngoài đêm cát lạnh
Vùi đó đây từng mảnh thân non
Đất bay đá chạy chi còn
Bi thương cổ lục héo mòn tân thanh !
Vì thế, tâm sự :
Trường thu hận tan tành sông núi
Bao mạng người làm củi nung tim
Mây ơi nở nụ im lìm
Chở hồn hoa trắng bay tìm tình tang
Tiếng kêu thương trầm thống còn vọng mãi muôn đời:
Nghìn thu trước ai tình xanh mắt
Nghìn thu sau hiu hắt hồn hương
Cùng nhau về tụ đầu sương
Long lanh chút mộng cuối đường tài hoa.
***
Không kể đến những tâm sự được giải bày mạch lạc trong một bố cục chặt chẽ (điều nầy cố ý hay vô tình ? Tác giả đã : “Ta cũng sầu mở quá độ chơi”) phô diễn và liên kết từng dòng xúc cảm, từng chặng thăng trầm, như một lan tràn tươi mát của suối nguồn. Ngoài một lối sử dụng thể thơ song thất lục bát độc đáo, mới lạ, tuyệt vời nhất trong những áng thơ song thất lục bát đã có tự cổ chí kim (Tôi chịu trách nhiệm về những phát biểu đã nói hôm nay cho tới ngàn sau), không có một câu thơ nào trong 108 câu của “Tuyệt Huyết Ca” tì vết, suy suyễn (mà bạn có biết là tại sao có 108 câu?). Tôi có thể ví như một xâu chuỗi hạt, 108 hạt ngọc đều ngời sáng và quí giá như nhau. Không chú trọng tới những ưu điểm hình thức, điều quan trọng tôi muốn nói lên khi chọn đọc “Tuyệt Huyết Ca”, phân đoạn và dẫn chứng, rằng không có sự phân chia nào trong Thi ca là thích hợp cho mỗi tác giả, không cố định và bắt buộc phải chịu dán cái nhãn hiệu kỳ quặt xa lạ đối với họ (Thi sĩ) Rằng Thơ phải đọc bằng tâm hồn, rung cảm tự nhiên, đọc và mê man tàng tịch trong mỗi dòng mỗi chữ. Rằng thơ phải như thế – xúc cảm ; nồng nhiệt, phẫn nộ, hay đau xót, hân hoan cũng phải chảy vào lòng người bằng ngõ ngách sâu khuất nhất của tâm hồn. Chứ không phải là một kỹ thuật dụng chữ. Dụng ngôn. Đao to búa lớn. Tôi có thể vắn tắt : Sự rung cảm truyền đạt bền bỉ và sâu sắc là phần quyết định chân giá trị của một thi phẩm chứ không phải : Viễn mơ, Dấn thân, Thiền hay một cái gì ngộ nghĩnh khác.
[/read]
Mang Viên Long
Sen Hồng Nở Giữa Mùa Trăng…
Ngày Đức Phật Thế Tôn thị hiện đản sanh – PL 2555 lại đến với tất cả chúng ta – những nguời con Phật trên khắp hành tinh này . Mùa Sen Hồng lại nở giữa ngàn trăng đang ngát hương mầu nhiệm và không ngừng xoa dịu bao nỗi ưu phiền thương đau ; mãi mãi hiến dâng bao niềm hy vọng an hòa cho cõi nhân gian đầy biến động với lẽ sinh diệt vô thường của kiếp người nổi trôi mê lầm ; đã và đang ngời ngời rực sáng trên khắp hành tinh…Hơn 25 thế kỷ đã đi qua – ngày ánh Đạo Vàng đầu tiên tỏa chiếu ở Ca Tỳ La Vệ vẫn mãi trường tồn trong muôn triệu trái tim của người con Phật của cả nhân loại và của muôn loài chúng sinh . Hôm nay và mai sau. Sen Hồng sẽ mãi mãi nở giữa mủaTrăng bất diệt trong tâm hồn mỗi người con nguyện đi theo con đường an lành giải thoát của Đấng Cha Lành…
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Cảm nhận được sự thiêng liêng thiện lành của ngày Đức Phật ra đời – Ni sư Thích nữ Diệu Quả đã thành tâm ghi lại xúc cảm qua mấy vần thơ giản dị mà đầy xúc cảm :
“ Ngày Phật Đản hiện lên vầng trăng sáng
Giữa bầu trời tỏ rạng ánh quang minh!
Quét bóng đen – sạch hết cõi vô minh…
Dạy nhân loại thực hành theo Bỉ Trí.
Ngày Đán sanh đấng Từ Bi vô nhị…
Cứu muôn loài thỏat khỏi mọi đau thương (…)”
(Kính Mừng Ngày Phật Đản)
Triệu Nguyên Phong trong bài “Một Khúc Sông Quê “ đã chỉa sẻ niềm hân hoan trong mùa trăng tháng Tư lịch sử:
“ Tháng Tư
lễ hội hoa đăng
Bồ giang ơi! Một khúc sông quê nhà
Tam giang ôm nước nguồn xa
Mây giăng đầu núi- mặn mà tình trăng (… )”
Nhà thơ Nguyễn Khôi cảm tác từ “ Vọng Tiếng Chuông Chùa “ vào một đêm Ban Mê khó quên trong đời thắm đượm đạo vị:
“ Đêm Ban Mê nằm nghe tiếng gió
Vọng tiếng chuông khuya giữa núi rừng
Một thoáng ngày xưa – ngàn dặm biếc
Trăng vàng sáng mãi cõi lòng tôi (..)”
Hình ảnh khó quên trong đời có lẽ cũng là đêm Rằm tháng Tư ở ngôi chùa quê thanh vắng nên thơ – cùng nhau vào chùa lễ Phật nguyện cầu an lành cho tất cả – Trần Minh Nguyệt đã ghi lại một kỷ niệm về “ Chùa Quê “ như thế rất sâu sắc :
“ Rằm tháng Tư em đi chùa – lễ Phật…
Quy y thiện quả kính dâng hương!
Chùa quê soi bóng trăng trong sáng
Pháp nhũ trùm giăng rộng đất trời !”
Cùng có chung cảm nhận về hình ảnh “ lễ Phật “ của những nữ Phật tử son trẻ chân phác nhân hậu – Tâm Không – Vĩnh Hữu đã xúc cảm ghi lại trong bài “Em Quỳ Lễ Phật “ dài 25 câu thơ- VHT xin trích giới thiệu bốn câu mở đầu:
“ Em quỳ rạng rỡ nét vui
Như sen một đóa vừa ngoi khỏi bùn
Chắp tay tâm sáng diệu thường
Như trăng lồng lộng ngát đường quê xưa (..)”
Nhà thơ Nguyễn Miên Thượng với “ Trăng Sáng Nghìn Xưa “ gồm 5 khổ thơ mới dã ghi lại ngày lịch sử Phật Đản Sanh bằng tấm lòng ngưỡng vọng tri ân – VHTxin chỉa sẻ cùng Bạn đọc 1 đoạn :
“ Trăng rực rớ khắp Ca Tỳ La Vệ
Trời tháng Tư ngào ngạt sắc hương hoa
Cả trần gian như bừng sáng- chan hòa
Cung nghinh đón Đấng Thế Tôn thị hiện (..)”
Trần Ba nhìn ánh trăng Rằm tháng Tư cũng cảm thấy có gì khang khác? Trong màu trăng dường như cũng tỏa hương…
“ Trăng Rằm vằng vặc muôn nơi
Dưới trăng – ta dạo nhớ lời Cha xưa…
Ánh vàng bàng bạc xa đưa
Màu trăng Phật đản như vừa ngát hương?”
Hoa Sen đã được ghi nhận như một biểu tượng thiêng liêng mầu nhiệm từ ngàn xưa để hướng tâm về điều thiện lành tinh khiết. Hướng tâm về Phật. Hoa Sen Hồng cũng vừa được Việt Nam chọn làm “ Quốc Hoa “.Trong bài “ Cảm Tác Mùa Sen “ – Trịnh Thị Vui đã bày tỏ :
“ Tháng Tư sen nở
Bừng dậy sắc hương
Không gian reo hát
Đón mừng Thế Tôn (…)”
Với bài thất ngôn bát cú – Sơn Bình chân thành ghi lại xúc cảm về “ Rạng Ánh Hào Quang” mà chính mình đã cảm nhận được nhân ngày Phật đản sinh :
“ Lành thay! Phật hiện cõi trần gian
Nhân loại nương theo ánh đạo vàng
Cứu thế – kim ngôn xua khổ lụy
Độ nhân – diệu pháp thoát nguy nàn
Đạo mầu dẫn lối qua bờ giác
Tà kiến dần xa cõi lụy phiền
Đuốc tuệ Như Lai soi khắp nẻo
Muôn đời còn rạng ánh hào quang”
Hoàng Hà với “ Tháng Tư Hoa Nở”:
“ Hoa Tâm nở ngát vườn hồng
Tiếng kinh sưởi ấm bao lòng tháng Tư
Cành thương đơm trái nhân từ
Long lanh mắt Phật ngọt lừ giọng con”
Nhà thơ Ngô Cang có được phút giây “Hành Thiền Dưới Bóng Chùa Quê” trong ngày Đức Phật đản sinh thật đáng ghi nhớ :
“ Trước cổng tam quan hoa sen nở
Thoảng thơm giữa nắng tháng Tư xanh
Hành thiền theo từng nhịp thở
Phút giât lắng dọng mãi trong anh
(…) Ta bước đi “tâm Phật rộng vô bờ”
Khi nhìn giọt sương trên đóa sen nở trắng
Hương thơm sắc thắm
Giữa ngày Khánh Đản nắng quê hương (..)”
Từ niềm vui vô biên của ngày Đức Phật thị hiện bao tâm hồn đã nhận được vô lượng pháp nhũ nhiệm mầu để tìm thấy niềm an lạc chứng ngộ tri kiến giải thoát cho cuộc đời khổ đau huyễn mộng của mình. Cấn Sách ( Thích Trung Viện ) đã bày tỏ niềm vui lớn ấy trong bài “ Thong Dong”:
(..) “Lỡ chân
nghỉ lại Ta bà
Tỉnh mơ thức giâc
lỡ làng chiêm bao
Trời cao
vững bước tiêu dao
Hướng về quê Phật
rạt rào niềm vui (…)”
Trần Đới với “ Gậy Thiền “ rất ấn tượng :
“Gậy thiền
trên đỉnh
thong dong
Bên vành nón
rạng nắng Xuân
mới về
Hoàng y
từng bước
đề huề
Đường mây trắng dựng
bốn bề hư không (..)”
Nhà thơ Kiều Trung Phương với “ Rửa “ thật vi tế sâu sắc:
“Quay về
gội rửa
thân tâm
Trong bến đục
rửa
mê lầm
phù hoa
Soi gương
ta hỏi chính ta
Bao mê hoặc
có thoát ra
rửa mình?”
Nhà thơ Nguyễn Nguyên An với 2 bài tứ tuyệt “Lành” & “Tát” ngan ngát hương đạo :
“Gắng trồng cây xanh
Tròn trịa lòng thành
Chung quy hữu báo
Dù chỉ mầm xanh”
V à
“Thời gian sắp cạn
Nhoảnh lại hư không
Chắp tay ta tát
Cạn sạch biển lòng”
Hòa cùng niềm vui chung ngày Đức Phật đản sanh – Nguyễn Thị Hiệp đã ghi lại cảm nhận về” những ngày Thầy Thích Tâm Mẫn “ nhất bộ nhất bái” ( tại Quảng ngãi tháng 7 năm Mậu Dần ) với lòng thành kính tri ân :
“Bước một bước dần về cõi tịnh
Lễ một lạy độ tận hằng sa
Tâm Từ một cõi ta bà
Nhân gian mát rượi Cà Sa Ánh Vàng (…)”
(Kính Dâng Thầy)
Vườn Hoa Tâm mùa Phật Đản có được nhiều hương sắc tươi thắm để cúng dường lên Đức Phật Thế Tôn là nhờ vào nhiều bàn tay trí tuệ của nhiều nhà thơ đạo hữu chung góp. Đây là một mảnh vườn nhỏ xinh xắn . gom góp bao cánh hoa thơ – như những nén tâm hương từ bốn phương kính dâng mừng ngày Khánh Đản. Người giữ vườn trân trọng cám ơn quý nhà thơ thân hữu đã luôn gắn bó với Vô Ưu – dành cho trang thơ những tác phẩm tâm đắc để Vô Ưu ngày càng xứng đáng với lòng tin yêu của Bạn Đọc…
Nhân mùa Phật Đản Sinh PL 2555 – chân thành gởi đến quý Đạo hữu quý anh chị em văn nghệ sĩ và gia đình lời cầu chúc: “Mãi mãi an lảnh trong Tình Yêu Thương Vô Bờ của Chư Phật!”
[/read]
Một Ngày Cô Độc
Có đôi lúc tự dưng Thạc bỗng thấy ghét giận lão Thỉ quá!. Buổi sáng lão ta trở về chạm mặt Thạc nhận thấy nỗi ghét giận xuất hiện nơi ý nghĩ mình đành nén lại quay đi không đáp lại cái cười cười cố hữu của lão. Tuy bỏ vào phòng Thạc cũng gắng nhếch mép mơ hồ gượng gạo để tỏ ý thân mật với những cái ngớ ngẩn vô lý kỳ khôi của lão. Có đôi khi không giằn được cơn giận Thạc im lặng trở vào đóng cửa hoặc hỏi một câu vu vơ như cái cười khó thương nọ: Dạo này trên đồn tình hình đánh bài có gì khả quan không ông Thỉ ?
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Những lúc nghe vậy lão cũng cười cười nói lí nhí một câu gì đó hoặc làm thinh. Lão thường cười hơn nói. Cười ngớ ngẩn. Cười vô lý. Cười chỉ nhếch môi lộ hai hàm răng vàng bệch cáu bẩn. Lão làm y như cái cười của lão là đẹp quyến rủ lắm vậy. Nhưng lão đâu có ngờ cái cười cười của lão chỉ khiến cho những người đàn bà góa chồng như bà Sen mê thôi. Vậy mà Thạc đã phải trông thấy những cái cười đó thường ngày. Anh tự nhủ gắng mà chịu đựng. Và sự chịu đựng của Thạc đã tới lúc chỉ còn biết im lặng giữ gìn gượng gạo. Có lẽ cái cười với cặp môi lát lướt mỏng dính với hàm răng vàng bệch cáu bẩn đã làm Thạc thấy không chịu được ngay lần gặp lão đầu tiên. Một người ưa cười dễ cười lại là người thường làm cho kẻ khác khóc. Bà Sen càu nhàu khóc lóc với lão những bận từ đồn trở về lấy thêm tiền bạc bòn chắt nữ trang; nhưng lão vẫn lui tới tỉnh bơ lai rai và cười cười như thường. Dễ chừng lão không biết buồn bã tủi nhục là gì ? Thấy vậy Thạc lại ghét ghét lão sao đó mặc dù bà Sen với anh không có chút tình thần mật nào hơn một người cho thuê phòng với giá cắt cổ. Nhiều lần chui vào phòng rồi anh vẫn còn cảm giác hậm hực. Thạc nghĩ mình không nên cư xử với một người đã luống tuổi như vậy tuy lão là người đàng điếm dị kỳ. Đã bao lần vì kính mến tin mình- lão đã kể cho mình nghe vài cuộc tình rày đây mai đó thời chiến- lâu lâu lại được nghe vài chuyện lục đục giữa lão với bà Sen với bà này bà nọ- thấy lão vẫn cười cười như chẳng hề có gì xảy ra-Thạc lại thấy nỗi ghét giận lão thoáng tới khiến anh khó chịu. Ở đời lại có những chuyện kỳ cục như vậy: Có người thương kính mình mà ngược lại mình không thể đáp lại . Giá mình dửng dưng lạnh nhạt bỏ qua được thì khỏe biết chừng nào ? Cái khổ của Thạc còn ở chỗ đó nữa. Giá lão Thỉ cứ lầm lì im lặng thì đỡ cho anh biết bao. Sau bao lần cố gắng Thạc quyết định: Đừng bao giờ giận ghét người nào khi họ không là kẻ thân tình gắn bó với mình. Làm được vậy anh cảm thấy yên ổn tỉnh trí hơn giữa những người bạn xấu bụng và những người chung quanh kỳ khôi như lão Thỉ.
Thạc nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Đúng là tiếng gõ cửa của lão Thỉ Thạc ngồi im. Lão Thỉ lại quấy rầy mình về những bức thư gởi về cho vợ con rồi đây? Nhớ lại lúc lão đọc cho anh viết những giòng thư nhắn nhủ dặn dò mà Thạc muốn nỗi lên cười: “Thân gửi vợ con bà ở nhà làm ăn ra sao có mạnh giỏi không cho tui biết tin tức nhớ coi sóc tụi nhỏ lỡ đau ốm thì khổ lắm. Phần tui vẫn mạnh khỏe nhờ Trời không hề hấn gì cả làm chỗ cũ một ngày gác ít giờ hay không gác chỉ phân công thôi đi đốc canh rồi về lô cốt nằm uống rượu nhớ bà và lũ nhỏ quá bà à chắc cuối tháng tui xin phép được sẽ về thăm. Thôi chúc bà mạnh khỏe tui mừng”. Tiếng gõ cửa lại vang lên nhẹ nhàng e dè. Đúng là tiếng gõ sợ sệt khẽ khàng của lão Thỉ rồi. Chắc lão dư biết mình làm phiền người khác khi bắt họ viết thư hộ cho vợ con nên thường tỏ ra lúng túng rụt rè . Lần thứ ba tiếng gõ cửa tuy nhỏ nhưng âm vang như xáo động tận trong đầu Thạc. Từng tiếng một rõ ràng thôi thúc. Thạc đứng dậy mở cửa thật mạnh . Ồ Kim Trâm. Trâm từ bên kia cây cầu dài hai mươi mốt nhịp nơi cái quận lỵ ngơ ngác miền đất chộn rộn những đêm ồn ào đạn pháo kích rơi rải rác dọc đường- quận lỵ có cái tên nghe cũng khiếp: Hiếu Xương. Tại sao là Hiếu Xương mà không Phú Lâm như trước ? Phú Lâm nghe vẫn hiền và hay hơn đó chứ ? Trâm trong tấm áo man-teau màu xanh lá cây tấm áo thấm vài giọt nước mưa-Trâm trông có vẻ co ro rét mướt tội nghiệp. Thạc hỏi:
-Sao em qua sớm dữ vậy – Trâm ?
Trâm cười bước vào phòng cởi áo manteau treo lên móc. Nàng làm những động tác đó rất tự nhiên và khoan thai. Thạc nhìn đắm đuối vào đôi mắt Trâm tự dưng anh thấy thương thương nàng quá đi. Một nỗi chân tình và tội nghiệp như toát ra từ thân thể gầy hư của nàng bên mối tình đầu với anh mà nàng đã nguyện gắn bó tha thiết. Chợt Trâm nhìn chậm lên mắt Thạc cười khẽ:
-Qua sớm không thì anh đi mất…
Thạc hỏi – trong tiếng cười :
-Anh đi đâu mà mất ?
– Ai biết được chuyện đó ?
Ai biết được chuyện đó. Phải làm sao em biết được hết những lo lắng lận đận của anh ? Ngay cả khoảng thời giờ cuối tuần dành riêng cho em nhiều lúc anh cũng không thể giữ được. anh bận bịu quá xuôi ngược quá. Làm sao anh nói hết cho em những gì anh phải lo lắng thực hiện cho đời sống anh lúc nầy ? Ai biết được chuyện đó con gái khi đã quá yêu dễ sinh những ngờ vực kỳ cục như vậy. ai biết được chuyện đó vâng em cứ nghĩ như vậy đi cho vui. Thạc nghĩ tiếp cứ để cho Trâm có những giận dỗi nghi ngờ ghen tuông bóng gió như thế cũng tốt. Trong tình yêu không có những thứ đó cũng hơi buồn phải không Trâm ? Và Thạc không dè cô bé cũng thành thạo trong việc ghen tuông quá sức. Có ai dạy cho nàng những điều này đâu ?
Trâm ở lại suốt buổi sáng chủ nhật hôm đó bên Thạc. Bà chủ nhà trọ đã quen lệ mang sẵn hai phần cơm để ở bàn chờ. Những sáng chủ nhật Thạc coi như đã dành hẳn cho nàng. Thạc nghĩ trong suốt một tuần lễ khó khổ buồn bã nhất cũng phải có một ngày cho mình cho người yêu chứ ? Giá không có ngày chủ nhật – ngày dành cho tình yêu trong tuần thì đời sống sẽ buồn nản cô độc biết bao ? Nghĩ vậy nên anh rất mãn nguyện với việc thu xếp hết mọi bận rộn dành cả ngày chủ nhật cho Trâm.
Thạc nôn nao nhìn bầu trời xám hẳn mây lòng thầm buồn lo. Những đám mây đen vần vũ dập dềnh kia sẽ là những cơn mưa dữ dằn sắp tới chắc Trâm sẽ ướt hết và anh cũng sẽ khổ cùng với bọn học trò cả ngày nay rồi. Những cơn mưa dai dẳng kia cũng sẽ làm kết qủa của ngày quyên góp cứu trợ giảm sút hẳn đi. Thạc đứng ở hiên. nhìn bầu trời nhìn đồng hồ càu nhàu trách giận ông Trời. Đã gần 8 giờ rồi sao Trâm chưa thấy qua cà ? Thế nào nàng cũng phải tới trước những cơn mưa. Thạc cau có: Mưa gió bão lụt cả tháng không ưng bụng sao giờ còn mù mịt ướt át thế này ? Hãy để cho thiên hạ thấy chút nắng mặt trời mà lo dựng lại nhà cửa sửa san vườn tược đã gãy sập đã chớ ? Mưa mưa mưa lèm nhèm tối ngày. Quá nóng lòng Thạc trở vào lấy mảnh giấy ghi vội mấy hàng cho Trâm : “Kim Trâm anh lên trường lo chút công việc có lẽ chỉ trở về buổi trưa rồi một giờ lại đi ngay. Nếu thích em cứ nằm đây đọc sách chờ anh. Chìa khóa vẫn để chỗ cũ đó nhớ chưa? Xin lỗi không kịp thông báo cho em vì nhà trường quyết định quá gấp. Mong em ở lại”. Ghim mảnh giấy lên cửa Thạc vội vã lên trường. Nghĩ tới cái tính ưa dỗi hờn ghen tuông bóng gió của Trâm tự dưng Thạc mỉm cười. Cái ý định sẽ mang Trâm cùng tham gia công tác quyên góp ở trường Thạc không thể thực hiện được nữa. như vậy cũng đỡ bị bọn học trò chọc ghẹo.
Học sinh đứng nhốn nháo lộn xộn ồn ào trong sân trường. Thấy Thạc nhiều đứa reo lên. Anh cười dễ dãi với bọn học trò. Phần đông những đứa học trò anh đều ở tận các vùng quê lên tỉnh học rồi lại hối hả quay về đỡ đần cho cha mẹ. vì thế ngoài dáng dấp trẻ thơ đáng mến anh còn nhìn thấy nhiều nét tội nghiệp chân tình. Chúng thường hiền -chịu khó và chăm chỉ. Bước vào văn phòng anh thấy ông thầy già cựu giám thị đang thẫn thờ chờ đợi. Thạch người vừa được ông giám đốc đưa lên làm giám thị thay cho ông thầy già lăng xăng ghi ghi chép chép gì ở bàn. Và cô thư ký thu ngân đang ngồi ở góc phòng chải lại mớ tóc. Tất cả những gì cho cuộc lạc quyên chưa được chuẩn bị chút nào Thạc trở ra mượn vài đứa học trò đi mua kẹp đinh ghim. Niêm phong các thùng lạc quyên. Phát kim và huy hiệu. Chia toán . Phân công. Lập danh sách. Dặn dò. Tất cả những điều đó đều chưa thực hiện. Cái lối thực hiện “chỉ trong vòng 5 phút” của gã giám đốc chủ trường đã nhiều bận làm Thạc nản quá. Tổ chức Trung thu : Trong vòng 5 phút. Tổ chức Giáng sinh: Trong vòng 5 phút. Những khoản 5 phút kia thực là hợp với tính lười biếng lừng khừng và tài lợi của lão giám đốc giàu sụ mà dốt đặt.
Thầy Chuyên (ông thầy già cựu giám thị) dáng điệu buồn bã chán nản sau nhiều lần đi ra đi vào thất vọng .Ông liền gọi một đứa học trò bảo :
-Mày tới coi thử ông giám đốc đang làm cái gì ở nhà ? Hỏi thử sáng nay có đi lạc quyên không còn cho học trò chúng về ?
Tiếng một học sinh trong đám đông nói lớn :
-Ổng ở nhà thu băng chạy áp phe kiếm tiền chứ làm gì nữa thầy ?
Nghe lời nói đó Thạc bỗng nhớ tời lời nói của gã giám đốc mê thu băng hơn dạy học: Ở nhà thu băng khỏe. Dạy học làm gì cho mệt ? Thì giờ tôi ở nhà thu băng kiếm tiền gấp mấy lần đi dạy nữa. Tôi bây giờ không cần dạy học. Và gã tự chia cho mình một tuần với những giờ phụ phất phơ đi trễ về sớm cho khỏe.
Lúc mới vào nhận dạy thêm giờ ở trường này Thạc nghĩ là anh sẽ gắng giúp cho học sinh bằng những hướng dẫn và hoạt động trong phạm vi học tập cũng như sinh hoạt nhưng sau bao lần thử thách những cố gắng bị ngăn cản và phá hoại anh nản định chờ ngày xin thôi việc. Không thể nào sống chung hoặc làm việc bên cạnh những kẻ tự phụ lười biếng tài lợi và bất tài như vậy. Và Thạc nghĩ những hy sinh phục vụ của mình rồi đây cũng sẽ bị hiểu lầm và nghi kỵ xoi bói. Từ đó dù có tha thiết bao nhiêu với những dự định tuổi trẻ bên những đứa học trò quê mùa nghèo khổ Thạc cũng khó một mình mà chống chỏi với bao khó khăn hiềm tị nhỏ nhen chung quanh. Ở đời không làm được gì thì bị chê mà có làm được gì thì lại bị ghét. Sự có mặt của Thạc trong ngôi trường này vì vậy là một sự nhẫn nại cố gắng vì bọn học trò của anh hơn là số tiền được lãnh thêm vào cuối tháng.
Khi phân chia các thùng đựng tiền đinh ghim huy hiệu và những địa điểm cần phải có mặt vừa xong thì trời đổ mưa. Gió thổi rạt rào lạnh buốt. Tuy vậy qua dáng điệu co ro chịu đựng của bọn học trò Thạc còn tìm thấy thực nhiều niềm hân hoan phấn khởi. Sự khổ nhọc của đời sống đã dạy chúng coi thường mọi khó khăn. Gió và mưa cũng chẳng làm sờn được tấm lòng hăng say nồng nhiệt nơi tuổi trẻ. Những ánh mắt hực sáng những đôi môi luôn nở nụ cười những xoắn xít mừng rỡ của đám học trò trước mặt làm Thạc xúc động. Anh thấy niềm tin yêu của mình không đến nỗi lẻ loi cô độc như anh đã tưởng. Lúc đi ngang qua toán nữ sinh bọn Tú Ngọc Hồng Lan nhao nhao lên hỏi: Thưa thầy thưa thầy làm sao nói xin tiền được thầy ? Thạc bỗng cười: Đã nói rồi các cô cứ hỏi mãi ? Thạc dặn lần chót: Muốn người ta cho tiền mà không thấy áy náy ngờ vực buồn lòng các cô phải ăn nói dịu dàng lễ phép về lý do của việc quyên góp và sau khi đã nhận được tiền bỏ vào thùng phải thay mặt người đói rét bất hạnh cảm ơn lòng tốt của họ cho đàng hoàng… Thạc chịu trách nhiệm các toán lớp 9 do anh làm giáo sư hướng dẫn và trông coi tổng quát các địa điểm khác. Đó là phần trách nhiệm mà anh tự đặt ra bắt mình phải hoàn tất. Gã giám đốc chủ trường tứ thời đeo ống nghe vào hai tai thấy bọn học trò quá nhiệt thành và quí thầy cô lên nhận công tác xã hội cũng không nỡ bỏ đi về nhà dù lòng rất tiếc những cuộn băng đang thu dở.
Toán Thạc được phân công dẫn tới ngã Năm trung tâm thị xã. Trời mưa nhẹ nhưng cũng đủ ướt đẫm mớ tóc của bọn Ngọc Hường Nguyệt Thúy ; cũng đủ ướt áo quần của bọn Nông Quà Mạnh Quảng Ngung Thanh…; cũng đủ làm ướt rũ mái tóc bềnh bồng của Thạc lòa xòa xuống trán. Thạc chia làm hai toán ở mỗi góc đường phố. Người đi dạo phố chủ nhật thưa thớt hơn mọi khi. Từng đoàn xe nhận còi chạy lướt qua lạnh lùng. Sau một lúc làm việc không có kết quả thường bị người đi đường từ chối bị những ông quan lớn nhà giàu cự nự khi xe hơi bị chặn bọn học trò buồn tiu nghỉu bu quanh Thạc:
-Thưa thầy mấy ông kia la quá thầy ? Thưa thầy họ cằn nhằn cau có làm tụi em sợ. Buồn quá thầy ơi …
Thạc im lặng thấy thực khó xử. Anh biết nói sao đây với lũ học trò mình – ôi những đứa học trò tâm hồn còn trinh trắng tấc lòng đang bừng nóng nhiệt thành về những gì chúng đã thấy đã hỏi ? Chính mắt anh cũng đã trông thấy một ông lái xe hơi nọ cự nự xài xể học trò mình chính tai anh nghe những người nhàn tản đùa ghẹo dửng dưng trước những lời lẽ tha thiết kêu gọi của đám học trò áo quần tóc tai ướt rũ đang run lên vì lạnh vì nỗi lạc lõng cô độc ? Cuối cùng để giúp chúng nhẫn nại làm việc Thạc nói giọng tự nhiên;
-Các em đừng ngại cứ làm việc cho hết lòng là được. Ai nói gì mặc họ. Nào toán của Ngọc chia làm hai xuống ngã dưới toán của Cúc của Trương của Quà của Nông mỗi người một góc đường đi.
Trời bỗng đổ mưa ào ào. Mưa lớn rồi. Thạc nói cho các em vào nghỉ một lát đi. Tiếng của Nông của Quà đáp lại giọng quả quyết: Thưa thầy không. Cứ việc làm thầy. Tiếng cười của bọn nữ sinh phụ họa theo. Thạc phải nói : Nghỉ một lát đi tạnh mưa rồi hãy làm.
Dù anh nói vậy lũ học trò vẫn đứng im ngoài trời dưới làn mưa dày đón từng chiếc xe hỏi xin từng đồng bạc lẻ. Hình ảnh này làm Thạc thấy thương yêu lũ học trò mình dù trong bọn có đứa ở lớp cũng thường nghịch ngợm như Thiên như Siêu. Thạc cũng có mặt bên cạnh chúng nhắc nhở an ủi khuyến khích chúng. Anh nghĩ nếu không có nỗi an ủi cần thiết cho tuổi trẻ chúng dễ bị thất vọng chán nản lắm. Hễ gặp một trường hợp buồn lòng Thạc luôn miệng nói : Các em đừng ngại cứ làm việc đi. Họ nói gì mặc họ. Cố gắng đi được bấy nhiêu hay bấy nhiêu.
Khi trời vừa tạnh mưa có đứa đề nghị với Thạc :
-Xin thế này ít quá thầy ơi. Hay thầy cho một toán đi vào tận các nhà buôn coi thử sao …
Từ trước Thạc cũng đã nhìn thấy sự quyên góp thực là ít ỏi khó khăn. Kẻ nghèo thì giàu tình thương nhưng ít tiền bạc còn người giàu thì nhiều tiền bạc nhưng ít lòng thương do vậy những đồng bạc lẻ chắt mót quyên góp được dù đã thể hiện được tấm lòng từ bi bác ái đối với đồng bào mình đang bị nạn bão lụt làm phải khốn đốn đói khổ nhưng chưa thể đem lại cho họ những an ủi cấp thiết bằng bát cơm tấm chiếu. Do đó khi nghe lời đề nghị Thạc chấp thuận liền: đúng rồi toán nào lĩnh phần trách nhiệm này ? Nhiều học sinh giơ tay Thạc chọn những đứa hơi lớn một chút và có khả năng ăn nói để “cạy tủ được” những nhà buôn những nhà giàu có trong thị xã. Thế là một toán nữa bắt đầu mang thùng vào các dãy nhà dọc phố.
Sau khi đôn đốc nhắc nhở các toán còn lại Thạc lấy xe chạy một vòng các địa điểm khác trong thị xã. Lên tới đầu cầu Thạc gặp ngay một bọn học trò lắt chắt của lớp 6 và 7 chúng thấy Thạc mừng rỡ reo lên :
-Thưa thầy xin được nhiều tiền lắm thầy! Ở đây mấy người nhà quê đi chợ nhiều lắm thầy ơi…
Thạc nhìn quanh địa điểm: Đó là một bến xe Lam; và cửa ngõ của vùng quê Đông Phước Hòa Thắng Hòa Trị đổ xuống phố. Ở đây xin được nhiều tiền cũng phải. Nghĩ tới câu nói: “Ở đây mấy người nhà quê đi chợ nhiều lắm thầy ơi”. Thạc thấy thực là tội nghiệp cho những người nghèo khổ quê mùa. Lúc này chỉ có những người khổ nhọc mới cứu giúp nhau thực lòng mà thôi. Ôi những đồng bạc quí báu và thiêng liêng đã chia sớt từ một bữa chợ của những gia đình nghèo khổ tản cư. Thạc thăm hỏi và an ủi nhắn nhủ với những học sinh – những đứa học sinh nhỏ bé đứng dầm dưới cơn nưa tháng mười hai – rồi chạy rẽ xuống các ngã đường số 4 tới chợ. Nhóm học sinh lớp 9 và 10 đang đi rong trong các dãy chợ thấp lầy lội. Gặp Thạc chúng liền tỏ rõ nỗi thất vọng buồn bã : Sao người ta lơ là; dửng dưng; lạnh lùng với lũ em quá thầy à? Cũng có người nạt nộ gắt gỏng nữa lũ em buồn quá. Thạc lại phải lập lại những câu an ủi cũ mong giữ được lòng tin yêu nơi đám học trò. Đôi lúc anh thấy thực là khó khăn để xoa dịu nỗi thất vọng nơi những gương mặt ngơ ngác; buồn thiu của chúng: Chính anh cũng đang cô độc lạc lõng làm sao có thể mang lại niềm vui cho kẻ khác ? Tại ngã tư Bùi Nguyên Ngãi – Trần Hưng đạo một toán nữ sinh lớp 10 chặn xe Thạc lại than :
-Kỳ quá thầy ơi người ta cứ chạy xe như gió không ai chịu dừng lại cả?
Thạc cười:
-Gì mà kỳ ? Đâu có phải mình quyên góp cho riêng mình tiêu xài đâu ? Cứ gắng lên là được. Điều quan trọng là phải nhẫn nhục cố gắng …
Nói xong Thạc đi thẳng lên những toán của anh ở ngã Năm. Các toán vẫn làm việc hăng hái chăm chỉ. Dừng xe lại Thạc đưa tay xách thử chiếc thùng chứa bạc đã quyên góp anh nói lớn:
-Vậy là được rồi nặng lắm gằng nữa đi…
Nói xong anh thấy bọn học trò đều cười theo anh trong dáng điệu rét run tội nghiệp
***
Ở trường về -Thạc thấy nỗi buồn ngút lên lan rộng xâm chiếm mọi tưởng nghĩ trong đầu. Hình ảnh những đứa học trò ướt đẫm run rẩy những nhẫn nhục bỏ từng đồng bạc cắc vào thùng những cử chỉ nhạt nhẽo với nhiều khinh bạc của những gã lái xe hơi những lới nói gắt gỏng dửng dưng của khách nhàn tản giàu có; tất cả những thứ đó in đậm trong trong trí óc Thạc và làm anh khó chịu buồn nản. Anh nghĩ tới Trâm- Kim Trâm. Nghĩ tới Trâm lúc này như một nỗi an ủi gần gũi và nồng nàn có thể giúp anh quên hết mọi trắc trở phiền muộn: Tình yêu quả là một điều màu nhiệm vô biên cho kẻ cô độc muộn phiền. Có lẽ nàng còn chờ đợi mình ở nhà? Kim Trâm anh mong em ở lại. Anh cần có em ngay lúc này. Phải -chỉ có em là nàng tiên với phép màu mới có thể xoa dịu nỗi cô độc của anh mà thôi. Kim Trâm ơi chỉ gọi tên em anh cũng đủ ấm lòng.
Thạc đầy của bước vào phòng: Căn phòng trống trơn vắng vẻ quá. Kim Trâm .Kim Trâm. Nàng đã về. Đã trở qua bên kia chiếc cầu đen dài 21 nhịp. Đã âm thầm bên cái quận lỵ ngơ ngác nghèo khó đó rồi. Hiếu Xương hay Phú Lâm cũng vẫn là nơi người yêu ta đang sống. Thạc cúi xuống nhặt tấm giấy lên đọc: “Anh Thạc ơi em về! Em không thể chịu được nỗi cô độc khi vắng anh trong căn phòng trống trải này.” Thạc lấy bút ở túi áo viết bên cạnh dòng chữ yếu ớt của Trâm :” Anh cũng vậy! “
[/read]
Chiều Vơi Bớt Khổ
Tôi rất tâm đắc khi đọc câu Pháp Cú sau đây trong Phẩm Ngàn (Sahassavaggo): “Tụng đến ngàn câu vô nghĩa, chẳng bằng một câu có nghĩa lý, nghe xong tâm liền an vui, tịch tịnh”. Từ lời giáo huấn trên của Đức Phật, tôi nghĩ – chỉ cần nhớ và làm theo một câu trong muôn ngàn lời dạy của Đức Phật thôi, trong suốt cuộc đời mình, cũng sẽ mang lại cho ta, cho người nhiều niềm an lạc, lợi ích – ở đời nầy và đời sau rồi! Đâu cần đọc tụng, thuộc lòng, muôn ngàn câu, mà chẳng thực hành miên mật, tinh tấn?
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Đạo Phật là triết lý sống, là đạo để thực hành, để tự tìm thấy sự an lạc giải thoát chứ không phải để chiêm bái, lễ lạy! Mọi hình thức, chỉ để “trợ duyên”, giúp ta có thêm niềm tin, thêm “duyên lành” để đến gần với Đạo; không phải là cứu cánh! Đức Phật há chẳng đã khuyên ta:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai”
Một trong vài câu kệ đơn giản tôi vẫn ghi nhớ, và gắng làm mỗi sáng từ nhiều chục năm nay khi thức dậy đón ngày mới là: “Sáng cho người niềm vui, chiều giúp người bớt khổ!” (Nhật tụng thiền môn).
“Cho người thêm niềm vui” tức là đem lại cho mình niềm vui chân chính. “Niềm vui” ấy không đòi hỏi gì lớn lao, tốn kém, mà chỉ là lòng từ ái. khoan hòa, chia sẻ, trong những mối quan hệ thường nhật với người quanh ta thôi! Một lời thăm hỏi chân tình, một nụ cười cởi mở gần gũi, một cái bắt tay ấm áp tình nghĩa, một ánh nhìn thiện cảm chan hòa… Đó là những “niềm vui” mà ai ai cũng có thể làm được cho nhau, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn.
Sự lắng nghe, cảm thông và chia sẻ, sẽ là những “niềm vui” ta có thể “cho người” mà chẳng tốn kém gì. Người được an vui, chính ta cũng là người được niềm an vui lớn hơn! Cuộc sống mà những người quanh ta đều được an vui, há chẳng phải là một đời sống hạnh phúc tuyệt vời hay sao?
Sáng dậy sớm, đưa chiếc xe đạp cà tàng ra sân, chuẩn bị ghé công viên để đi vài vòng thư giãn cho trái tim ổn định; gặp mấy chị từ các vùng quê lân cận lên chợ mua đủ loại cây trái, quả củ, chất đầy chiếc xe honda cũ kỹ tội nghiệp, loay hoay với bao đồ kềnh càng không thể chất lên xe; tôi vội chạy lại tiếp tay một chút – chị cười vui : “Cám ơn chú!” Lên đến công viên, nhìn thấy người phụ nữ trạc trên 40, đang nhích dần từng bước trên con đừog quanh công viên mỗi sáng để tập đi sau cơn đột quỵ, tôi cũng có “lộ trình” đi theo con đường ấy, mỗi vòng qua mặt cô, tôi bước chậm lại – nhìn cô, tươi cười hỏi thăm vài câu: “Sáng nay cháu có khỏe không? Gắng lên nhé!” hay “Cháu thường lên công viên lúc mấy giờ?” Những câu hỏi bâng quơ, thân tình như vậy, đã khiến cô cười rất tươi. Tôi chợt thấy gương mặt cô sáng lên một niềm tin cho dầu phía trước còn nhiều gian khó!
Sau hơn 30 phút đi bộ ở công viên, tôi đạp xe về nhà. Con hẻm dẫn vào nhà hẹp, có dốc hơi cao, gồ ghề, người ba gác già đang ì ạch đẩy xe chở đầy hàng vào căn nhà trong cùng, nhưng xe không lăn bánh khỏi đoạn đốc. Tôi dựng xe, vội đẩy phụ bác một đoạn đường hẻm ngắn thôi, không nghe bác nói gì; nhưng trên gương mặt đen sạm của bác rạng rỡ một niềm vui!
Tôi vẫn có giấc nghỉ trưa khoảng một giờ, 1 giờ 30 đã thức dậy. Theo “thói quen” hằng ngày, lúc rảnh việc, tôi thu nhặt các thứ “gọi là phế thải” (thùng giấy, chai nhựa, lon bia – nước ngọt, bao ny lông, giấy báo v.v…) từ bao rác con cháu để ở hiên, chờ xe thu rác buổi chiều đến đem đi, để dành một bao riêng, Vài ba ngày, chọn lựa được một bao đầy. Những người đàn bà vẫn thường dắt xe đạp vào hẻm hỏi mua đồ phế thải, tôi lôi ra “tặng” cho họ. Cả bao to, có lẽ nếu bán cho điểm thu mua quanh thị xã, cũng không hơn 10 ngàn đồng; nhưng tôi nhìn thấy họ rất sung sướng! Mười ngàn đồng, cũng có thể giúp chi ta mua dược mấy ổ bánh mì không (hay 3 gói xôi) cho con buổi sáng, trước khi đi học!
Người đàn ông đi xe đạp thồ trên 50 tuổi, từ quê NK xuống phố chợ đón chờ khách, thường ghé lại hiên nhà tôi ngồi nghỉ. Xin nước uống. Tôi mang tách trà mời. Hôm nào còn chút bánh trái gì nhâm nhi, đều cùng ông lai rai, trò chuyện mưa nắng. Tôi nhận ra ông ầy mùa đông cũng như mùa hạ, chỉ với bộ áo quần kaki cũ; tôi biết mình còn dư một áo ấm (hơi cũ), mấy bộ áo quần còn tốt, mang ra cho ông. Ông kêu: “Chú cho nhiều quá, chiều về tôi sẽ cho lại thằng bạn đánh xe ngựa!”
Thêm niềm vui và làm vơi bớt khổ cho người, không có gì khó – nhất là không mất nhiều thời gian, không tốn kém gì. Chỉ cần có chút lòng lân mẫn quan tâm, chút sẻ chia tùy duyên tùy cảnh – là cả ta và người đều được an vui, lợi ích! “Thêm niềm vui & vơi bớt khổ” không mất công tìm kiếm ở đâu xa; tất cả đều ờ bên ta, trước mắt ta, gần gũi trong đời sống thường nhật mà mỗi khi thức dậy, mở mắt ra, ai ai cũng gặp, cũng thấy, cũng biết. Chỉ có điều, vì ta thơ ơ, sống vội, vô cảm – thì dù có “nhìn thấy cũng như không” thôi! Vì thế, hãy tự luôn nhắc nhở mình mỗi sớm mai khi thức dậy: “Sáng cho người niềm vui/ Chiều giúp người bớt khổ”, khi nhớ đến câu thơ “Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy/ Cho ta thêm ngày nữa đẻ Yêu Thương!”( Kahlil Gibran); là ta đã xứng đáng là người con Phật rồi!
Trong thực tế đời sống, có vài trường hợp (không nhiều), có người khi quan hệ với bạn bè, chòm xóm, mọi người thì rất tốt. Luôn “cho người niềm vui & giúp người vơi bớt khổ”; nhưng với ông bà, cha mẹ, anh chị em – nhất mối quan hệ vợ chống, lại không được như vậy! Họ chưa có đủ sự quan tâm, cảm thông, chia sẻ đúng mực; hay không cho là điều quan trọng mà mình cần làm, phải làm, trước khi thực hành với mọi người chung quanh! Đây là một nhận thức rất nguy hại, có ảnh hưởng không tốt cho nhân cách đạo đức của mỗi con người; làm tổn thương sự an tịnh cần có trong cuộc sống Đạo, bởi vì, “không thương yêu giúp đỡ những người thân yêu ruột thịt của chính mình, thì có thể yêu thương giúp đỡ ai thật lòng?”
Tuy vậy, trong cuộc sống nhiêu khê, phức tạp – vẫn có nhiều trường hợp – vì nhiều lý do riêng, ta không có cơ hội “cho niềm vui, và làm vơi bớt khổ” được cho ai, thì hãy luôn ghi nhớ, chớ nên tạo nỗi buồn và nỗi khổ thêm cho người! Đó là điều mà những người học Phật cần tâm niệm và thực hành hằng ngày trong đời sống, để được đời nầy An lành, đời sau Hạnh phúc vậy!
Mang Viên Long
[/read]