TRẦM HƯƠNG SỐ 2 – Bộ Mới

TRẦM HƯƠNG

tạp chí văn học nghệ thuật
Chủ nhiệm: Nguyễn Đức Nhơn
Chủ bút: Túy Hà
Thông tin liên lạc
Tuyha81@yahoo.com
doanthachngoc@yahoo.com
Trình bày và layout: Túy Hà
In tại: Mr Print Ần Quán

THI VĂN ĐÀN TRẦM HƯƠNG THỰC HIỆN

MỤC LỤC

Lối vào (3)
Đàm Trung Pháp Khảo luận – Thăng hoa khả năng ngoại ngữ qua thi ca trữ tinh (17) – Nguyễn Đức Nhơn Thơ(26) – Trọng ĐạtKhảo luận – Khái luận về nghệ thuật tùy bút Nguyễn Tuân (27) – Phan Xuân Sinh Truyện – Thuở đất tình lên ngôi (46) – Dư Thị Diễm Buồn Thơ (48) – Lãm Thúy Thơ (50) –Yên Sơn Truyện – Những nhánh rong trên dòng sông tuổi nhỏ (53) – Hải PhươngThơ (61) – Diễm Nghi Thơ (66) – Trần Yên Thảo Truyện – Sợi khói ngang mặt (68) – Uyên Giang Thơ (83) – Thy Lan ThảoThơ (85) – Luân Tâm Thơ (87) – Hoàng Đình Hiếu Truyện – Những ngày xưa thân ái (90) – Phạm Tương Như Thơ (95) – th. Đoàn Thy Vân Đọc sách – Lời thơ song vỗ bờ xa (98) – Phan Bá Thụy Dương Thơ (103) – Như Phong Thơ (106) – Vũ Tiến Lập Thơ (109) – Nguyễn Văn Đường Thơ (111) – Phan Các Chiêu Hằng Truyện – Thuyền xưa (112) – Phan Các Chiêu HằngThơ (123) – Kim Oanh Thơ (125) – Song An Châu Thơ (127) – Vĩnh Tuấn Thơ (130) – Nguyễn Lập Đông Thơ (131) – Ái Ưu Du Truyện – Niềm luyến lưu ngọt ngào (133) – Trần Yên Thảo Thơ – (145) – Nguyễn Tôn Nhan Thơ (148) – Ngô Nguyên Nghiễm Thơ (150) – Lê Quang Đông Thơ (154) – Phan Xuân Sinh Thơ (156) – Nguyễn Đắc Nguyên Khoa Thơ (167) – Lê Hữu Minh Toán Thơ (169) – Thái Bạch Vân Thơ (171) – Mây Ngàn Thơ (173) – Cù Hòa PhongPhỏng vấn Nguyễn Hữu Nhật về tác phẩm Hoa Đào Năm Ngoái (174) – Hoàng Xuân Sơn Thơ (197). Nguyễn Tâm Hàn Thơ (200) Mây Ngàn-Anh Tú Nhạc (202)

Khác gì ngậm ngải tìm trầm
Lời tòa soạn: Khác với lời dẫn thường lệ. Kỳ này BBT cho đăng
“Bài Nói Chuyện” của Văn hữu Chủ nhiệm Nguyễn Đức Nhơn
thực hiện trên Đài Tiếng Nước Tôi Dallas. Tựa bài do BBT đặt.

Thấm thoát mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã đóng góp cho nền Văn Học Hải Ngoại 14 tác phẩm với hơn 50 tác giả của Thi Văn Đàn Trầm Hương. Lúc đầu Thi Văn Đàn Trầm Hương có tên là Tao Đàn Trầm Hương và tác phẩm mang tên là Giai Phẩm Trầm Hương với số đầu tiên ra mắt Độc giả vào Mùa Xuân năm 2005. Sách dày 204 trang do Thư Ấn Quán in ấn và Trầm Hương xuất bản với sự góp mặt của các tác giả: Đỗ Quân, Giang Bắc, Hoàng Nguyên, Kiều Mộng Hà, Lê Khánh Duệ, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyên Khoa, Nguyên Thao, Nguyễn Hồng Liên, Như Hoa Lê Quang Sinh, Như Phong, Phạm Cây Trâm, Phan Văn Thuận, Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Thuận Xuyên, Tuấn Đình, Trầm Khanh và Vi Thể. Đây là những tác giả có công rất lớn với Thi Văn Đàn Trầm Hương trong những ngày đầu. Đến tháng 3 năm 2007 thì danh xưng Tao Đàn Trầm Hương được đổi thành Thi Văn Đàn Trầm Hương và tác phẩm mang tên là Giai Phẩm Trầm Hương vẫn tiếp tục phát hành cho đến số 13. Đến Mùa Thu năm 2009, vì nhu cầu bài vở và cơ sở ấn loát nên Giai phẩm Trầm Hương đổi thành Tạp chí Trầm Hương (bộ mới) và số đầu tiên phát hành vào tháng 4 năm 2009. Sách dày 196 trang in tại Mr. Print với nhiều thay đổi từ hình thức đến nội dung.

Phải nói Thi Văn Đàn Trầm Hương lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn, có lúc tưởng chừng như phải bó tay, nhưng với quyết tâm của mọi người, Thi Văn Đàn Trầm Hương vẫn sinh hoạt đều đặn và mỗi ngày một thêm lớn mạnh. Trên đoạn đường dài mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã vượt qua tất nhiên cũng có những trục trặc thường tình mà bất cứ một tập thể nào cũng phải chấp nhận. Vì vậy độc giả không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy có sự thay đổi hoặc thêm bớt thành phần nhân sự trong suốt 5 năm sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương.

Như nói trên, từ Trầm Hương số 2 và những số kế tiếp đều có sự thêm bớt ít nhiều các tác giả góp mặt trong từng tác phẩm. Trầm Hương số 2 phát hành vào tháng 12 năm 2005. Sách dày 167 trang, với 22 tác giả góp mặt gồm có: ĐCCB, Đức Hồ, Giang Bắc, Hoàng Nguyên, Kiều Mộng Hà, Lưu Ca, Lê Khánh Duệ, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyên Khoa, Nguyễn Hồng Liên, Nguyên Thao, Như Hoa, Như Phong, Phạm Cây Trâm, Phan Văn Thuận, Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Thiện Hỷ, Thuận Xuyên, Tuấn Đình, Trầm Khanh và Vi Thể. Để minh thị thêm cho giai đoạn mở đầu trong sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương, xin mời quý thính giả nghe bài phát biểu của tôi trong buổi ra mắt Giai Phẩm Trầm Hương 1 ngày 4-9-2005 tại nhà hàng Thiên Kim như sau:

“Đầu năm 2005, chúng tôi gồm có Nguyễn Đức Nhơn, Nguyễn Đắc Khoa, Lê Quang Sinh và Phạm Cây Trâm đã gặp nhau tại Dallas để thảo luận một số vấn đề có liên quan đến những sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật tại địa phương cũng như những nơi có nhiều người Việt cư ngụ. Chúng tôi nhận thấy việc phát huy và bảo tồn các giá trị Văn Chương của nền Văn Hóa Việt nơi xứ người là một việc làm hoàn toàn chính đáng và rất cần thiết, đồng thời chúng tôi cũng muốn tạo điều kiện cho những người thích hoạt động Văn Nghệ có cơ hội ngồi lại với nhau đàm đạo, viết lách hầu làm vơi đi phần nào cái trống vắng cô đơn nơi xứ người. Từ những động cơ này, chúng tôi không ngần ngại đứng ra vận động một số Văn Thi hữu tại địa phương để thành lập một Nhóm Thơ Văn mệnh danh là Tao Đàn Trầm Hương. Và, để dễ dàng trong sinh hoạt, chúng tôi đã triệu tập một cuộc họp mặt đầu tiên,tổ chức tại trụ sở Cộng Đồng Fort Worth vào ngày 2 tháng 4 năm 2005 với khoảng 50 người tham dự, để hình thành cơ cấu tổ chức, đề ra tôn chỉ mục đích và nêu lên một số quy định để làm kim chỉ nam cho mọi sinh hoạt của Nhóm sau này. Sau những ý kiến và thảo luận sôi nổi trong tinh thần cởi mở và xây dựng, hội nghị đã biểu quyết thông qua các vấn đề sau đây:
1. Danh Xưng: Tao Đàn Trầm Hương.
2. Tôn Chỉ: Phục vụ Văn Học Nghệ Thuật.
3. Ban Điều Hành:
Ông Nguyễn Đức Nhơn: Trưởng Ban Điều Hành
Ông Nguyễn Đắc Khoa: Ủy Viên Điều Hành Đặc Trách Vùng Dallas
Ông Phạm Cây Trâm: Ủy Viên Điều Hành Đặc Trách Vùng Fort Worth
Ông Lê Quang Sinh: Cố Vấn

Sau khi hình thành, Tao Đàn Trầm Hương đã nỗ lực hoạt động và đạt những thành quả khiêm nhường sau đây:
1. Đã và đang thực hiện VƯỜN THƠ TAO ĐÀN TRẦM HƯƠNG trên một số tờ báo phát hành tại địa phương.
2. Đã và đang cùng Hội Cao Niên Dallas phát thanh chương trình TAO ĐÀN TRẦM HƯƠNG trên hai đài phát thanh VRN và TNT.
3. Đã và đang thực hiện GIAI PHẨM TRẦM HƯƠNG.

Và cũng nhằm mục đích đẩy mạnh sinh hoạt để tiếp tay cùng các Tổ Chức Văn Học tiền lập trong sứ mạng cao cả là phát huy và bảo tồn nền Văn Hóa Việt nơi xứ người. Ngày 5 tháng 6 năm 2005, chúng tôi thực hiện cuộc họp mặt lần 2 tai Hội quán Thiên Kim, thành phố Richardson với số lượng thân hữu tham dự gần 100 người. Trong dịp này, chúng tôi có gởi đến quý vị một tập Thơ Văn nhỏ, quy tụ 18 cây viết của Tao Đàn Trầm Hương, nhưng tính đến ngày 5 tháng 6 năm 2005 thì số Hội Viên đã lên đến 26 người, gồm các Nhà Văn, Nhà Thơ định cư tại vùng Dallas- Fort Worth. Tuy địa bàn hoạt động chỉ thu hẹp trong vùng Dallas-Fort Worth, nhưng chúng tôi đã quy tụ được một số khá đông Văn Nghệ Sĩ tham gia vào Tao Đàn Trầm Hương. Điều này cũng nói lên được phần nào sự cố gắng của chúng tôi. Tuy nhiên, dù cố gắng đến đâu, chúng tôi cũng không thể nào liên lạc và tiếp xúc được với tất cả Quý Văn Thi Hữu hiện đang định cư tại địa phương nhà. Vì vậy, nhân cơ hội này, chúng tôi xin ngỏ lời trân trọng và hân hoan được tiếp tục đón nhận Quý Vị tham gia vào gia đình Trầm Hương để chúng ta cùng nhau xây dựng một Tổ Chức Văn Nghệ lành mạnh, có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu trong tiến trình hoạt động của chúng ta sau này.

Mặc dù với thời gian hoạt động không lâu và những khó khăn tất yếu của buổi ban đầu, chúng tôi đã cố gắng vượt qua và đã tạo được một vài thành quả khiêm nhường mà tôi vừa trình bày ở trên. Tuy nhiên, với sự quyết tâm của Tao Đàn Trầm Hương và sự ủng hộ nhiệt tình của Quý Vị, chúng tôi hy vọng sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp hơn, nhất là ở Giai Phẩm Trầm Hương 2, nơi mà chúng tôi sẽ dồn hết mọi cố gắng để hình thành một tác phẩm có nội dung lẫn hình thức không làm phụ lòng Quý Vi. Mong Quý Vị đón xem Giai Phẩm Trầm Hương 2, sẽ phát hành trong một ngày không xa.

Trước khi dứt lời, tôi xin thay mặt Tao Đàn Trầm Hương và Ban Tổ Chức chân thành cám ơn Quý Vị đã bỏ nhiều thì giờ quý báo đến tham gia buổi họp mặt của Tao Đàn Trầm Hương ngày hôm nay”.
Kính thưa quý thính giả nghe Đài,
Đến Trầm Hương 3, ngoài những tác giả góp mặt trong Trầm Hương 2, Tao Đàn Trầm Hương đã thu hút được một số tác giả tên tuổi như Lê Phương Nguyên, Trần Yên Thảo, Nguyễn Tôn Nhan, Trần Tuấn Kiệt, Ngô Nguyên Nghiễm, Phạm Thiên Thư, Đặng Tấn Tới v.v… Trầm Hương 3 dày 166 trang, phát hành vào tháng 4 năm 2006.
Có thể nói bắt đầu từ Trầm Hương 3, Tao Đàn Trầm Hương thực sự đã trưởng thành. Với số lượng tham gia càng ngày càng nhiều các tác giả tên tuổi đã làm cho Giai phẩm Trầm Hương mỗi ngày một thêm khởi sắc từ hình thức đến nội dung. Ở Trầm Hương 4, chúng ta thấy sự xuất hiện của một số những tên tuổi mới như Mùi Quý Bồng, Lan Cao, Song An Châu, Huỳnh Chiếu Đẳng, Nguyễn Cát Đông, Túy Hà, Trần Minh Hải, Đức Hồ, Vũ Hối, Nguyễn Phú Long, Vĩnh Tuấn, Thy Lan Thảo v.v… Trầm Hương 4 dày 204 trang, phát hành vào tháng 9 năm 2006.
Với Trầm Hương 5, Chúng tôi xin mượn lời mở đầu của tập này để giới thiệu cùng quý thính giả nghe đài sự lớn mạnh từng bước của Thi Văn Đàn Trầm Hương.
“Sau 2 năm hoạt động, chúng tôi đã cố gắng không ngừng trong việc nâng cao chất lượng và số lượng trong mọi sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương. Riêng với Giai Phẩm Trầm Hương, chúng tôi đã bỏ khá nhiều công sức, và, hôm nay chúng tôi cảm thấy an ủi rất nhiều, khi cầm trên tay Giai Phẩm Trầm Hương 5, một tác phẩm đã đánh dấu sự lớn mạnh của Thi Văn Đàn Trầm Hương về mọi mặt. Với 25 cây viết ở rải rác khắp mọi nơi, từ Canada đến Hoa Kỳ, chúng tôi đã tạo được một lực lượng khá hùng hậu để hoàn thành tác phẩm này, và đó cũng chính là lý do mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã dành được một chỗ đứng tương đối khá vững vàng trong khu vườn Văn Học VN hải ngoại .
Cho đến nay, Thi Văn Đàn Trầm Hương đã được các Văn Thi hữu khắp nơi nhiệt tình tham gia, mà đa số là các Văn Thi hữu đã thành danh, tác giả nhiều tác phẩm, chẳng hạn như Đàm Trung Pháp, Mùi Quý Bồng, Vũ Hối, Xuân Bích, Song An Châu, Trần Minh Hải, Nguyễn Phú Long, Vĩnh Tuấn, Nguyên Nhung, Trần Bang Thạch, Lan Cao, Yên Sơn, Túy Hà, v.v… cộng với các thành viên cũ như Nguyên Khoa, Lưu Ca, Bùi Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Tuấn Đình, Như Phong, Độc Cô Cầu Bại, Giang Bắc, Lê Khánh Duệ, Đức Hồ, Trầm Khanh, Phan Văn Thuận, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyễn Tôn Nhan, Đoàn Thuận, Trần Yên Thảo v.v… cùng một số nghệ sĩ như Nhạc sĩ Nguyễn Hải, Nhạc sĩ Phan Đình Minh, Ca sĩ Hà Lan Phương đã nâng số thành viên của Thi Văn Đàn Trầm Hương lên đến 40 người.
Với số thành viên hùng hậu nêu trên, Giai Phẩm Trầm Hương hy vọng sẽ đóng góp được phần nào trong công việc phát huy và duy trì khu vườn Văn Hóa Việt nơi xứ người mỗi ngày một tươi tốt hơn”.
Trầm Hương 5 dày 200 trang, phát hành vào tháng 12 năm 2006 với 35 Văn Thi hữu góp mặt. Trầm Hương 6 dày 196 trang, phát hành vào tháng 3 năm 2007 với sự góp mặt của 36 tác giả, trong đó có thêm những tên tuổi mới như Trần Hoài Thư, Nguyễn Mạnh Cẩm, Mịch La Fong v.v…
Với Trầm Hương 7, chúng tôi muốn đề cặp đến một khía cạnh khác, đó là vấn đề chi phí in ấn. Vấn đề này được tôi trình bày một phần trong bài thay lời mở của tập này như sau:
“Trong những lần họp mặt Ban Cố Vấn và Ban Điều Hành Thi Văn Đàn Trầm Hương, hầu hết các Văn Thi hữu có trách nhiệm đều quan tâm về nguồn tài trợ cho Giai Phẩm Trầm Hương. Nhìn chung, đa số hội viên Thi Văn Đàn Trầm Hương là những người đến định cư ở Hoa Kỳ theo diện tị nạn HO; Tôi muốn nói đến những người mà, trước đây họ đã từng gánh chịu những mất mát lớn lao trong suốt hai cuộc chiến kéo dài trên đất nước chúng ta. Và, hiện nay họ cũng chính là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất trên mảnh đất tạm dung này, vì họ là những người đến sau, họ là những người đến với những hậu quả mang theo từ những năm tù cải tạo, họ đến với mớ tuổi đời chồng chất; Nói một cách khác, đa số họ là những người đang sống nhờ vào tiền trợ cấp của nhà nước hay sự giúp đỡ của con cháu. Vì vậy có thể nói Thi Văn Đàn Trầm Hương là nơi quy tụ những người có lòng nhưng không có sức. Sự đóng góp của họ dù cố gắng đến đâu cũng khó lòng trang trải nổi những chi phí in ấn cho những tác phẩm mà mỗi cuốn dày đến 200 trang. Một tạp chí không quảng cáo, không đăng tin chia vui, chia buồn, không một nguồn tài trợ nào ngoài sự đóng góp của anh em, nhưng Giai Phẩm Trầm Hương vẫn sống đến ngày hôm nay một phần nhờ vào sự ủng hộ của một số Độc giả xa gần.. Vào một chiều đầu thu đẹp trời, tình cờ tôi nhận được tấm check 200 đô của một vị ân nhân từ thành phố Baton Rouge, Louisiana gởi tặng cho Giai Phẩm Trầm Hương.
Cầm tấm check trên tay, tôi cảm thấy lòng mình vui hẳn lên, thực ra nguồn vui này không hoàn toàn do số tiền ủng hộ mà là do sự cảm nhận được tấm lòng hào hiệp và yêu chuộng văn chương chữ nghĩa của một độc giả xa xôi hướng về Dallas với lòng mến mộ Thi Văn Đàn Trầm Hương. Chúng tôi vui vì thấy công việc của chúng tôi đã thực sự làm nên một điều gì đó, khả dĩ đánh động được tấm lòng thương yêu của độc giả xa gần và chính điều này đã làm cho chúng tôi mạnh dạn hơn và tin tưởng hơn trên con đường phục vụ nghệ thuật.
Trầm Hương 7 dày 196 trang, phát hành vào Mùa Hè 2007. Từ Trầm Hương số 8 trở đi, phần trình bày có đôi chút thay đổi, nhưng tựu trung cũng không có thay đổi gì lớn kể cả thành phần nhân sự và hình thức. Trầm Hương 8 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Thu năm 2007. Trầm Hương 9 dày 196 trang, phát hành vào Mùa Đông năm 2007 với sự tham gia của những khuôn mặt mới như Nguyễn Thị Thanh Dương, Trần Ngọc Minh, Tiểu Thu, Phan Chính, Đoàn Thuận, Trần Khánh Liễm, Châm Hồ, Linh Du, Phương Triều v.v….
Trầm Hương 10 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Xuân 2008. Để quý thính giả nghe đài rõ hơn về tác phẩm này, chúng tôi xin gởi đến quý thính giả bài viết của Giáo Sư Đàm Trung Pháp nhận định vê Trầm Hương 10 trong ngày ra mắt tác phẩm này như sau:
Kính thưa quý văn hữu,
Để trả lời câu hỏi “Tại sao bạn viết văn?” thì nếu có người đưa ra vài lý do thực tế như “để có chút tiếng tăm, để kiếm tiền, để giải trí”, thì lại cũng có người đưa ra vài lý do thanh cao hơn, như “để thăng hoa mức tưởng tượng, để tự tạo cho mình một thế giới riêng tư, để trốn sang một thế giới khác”. Lý do nào cũng vững cả, nhưng có lẽ cái lý do có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất để nữ sĩ Sei Shonagon (966-1013) tiếp tục viết văn đã được bà nói huỵch toẹt ra là “nếu việc viết lách mà không có trên đời này thì chúng ta sẽ sầu khổ biết bao nhiêu!”
Nữ sĩ Shonagon là một nhật ký gia, chuyên ghi chép những chuyện xảy ra trong triều đình Nhật Bản thuộc thế kỷ 11, và bà được hoàng hậu Teishi ái mộ. Bà ghi lại quốc sự, cũng như những lời đàm tiếu, những câu chuyện nho nhỏ (như con chó của hoàng đế đã cắn chết con mèo của hoàng hậu, để rồi bị trừng phạt ra sao, chuyện tình ái lăng nhăng của các công chúa và các hoàng tử, vân vân). Bà viết rất duyên dáng, thông minh, và trung thực, được thế giới tây phương biết qua cuốn sách mang tên “Makura No Soshi” (được dịch sang tiếng Anh thành “The Pillow Book”). Sở dĩ tôi nhắc đến câu nói để đời của nữ sĩ Shonagon vì tôi thấy nó cũng đồng thanh tương ứng với lời tâm sự của văn hữu Nguyễn Đức Nhơn, chủ nhiệm giai phẩm TRẦM HƯƠNG số 10, như đã ghi trong lời mở đầu (trang 6): “Cái nghiệp viết lách đã đeo đuổi theo tôi gần hết một đời. Đôi khi tôi cũng thấy chán, nhưng nếu không ngồi vào bàn viết thì lại càng chán hơn!!!”
Vì con số người đọc bao giờ cũng lớn hơn con số người viết văn chương bội phần, một câu hỏi nữa cần phải đặt ra là “Tại sao chúng ta đọc văn chương?” Theo thiển ý, có ba lý do chính. Lý do thứ nhất là để chạy trốn nỗi buồn tẻ, phiền lụy của chính mình bằng cách đi tìm những kinh nghiệm mới lạ qua sự mô tả của người khác. Văn chương, qua những đoạn văn thơ kỳ thú có thể làm chúng ta lên tinh thần. Đó là những chuyện trinh thám ly kỳ, những chuyện tình rực rỡ, những bài thơ làm ấm lòng người đọc. Lý do thứ hai là để mở rộng kiến thức, vì văn chương có thể được coi là một văn kiện xã hội, cho người đọc sự hiểu biết về luật pháp, phong tục, thái độ, giá trị của một thời đại, của một văn hóa, nhất là trong tiến trình “hoàn cầu hóa” của nhân loại ngày nay. Và lý do thứ ba là để trực diện với kinh nghiệm sống. Đọc là một sự tham dự, một sự nhập cuộc. Những nhân vật trong văn chương (tiểu thuyết, truyện ngắn, thi ca) giúp chúng ta tìm hiểu trực tiếp sự muôn hình vạn dạng của nhân sinh. Qua văn chương, chúng ta có thể tự tìm thấy chính chúng ta, qua kinh nghiệm và sự diễn tả của người khác. Một chỉ dấu quan trọng của văn chương đích thực là nó để lại một dấu ấn, một hiệu lực (effect) trong lòng người đọc.
Kính thưa quý văn hữu,
Chính vì ba lý do nêu trên mà tôi đã đọc trọn 199 trang của giai phẩm TRẦM HƯƠNG số 10 do Thi Văn Đàn Trầm Hương thực hiện, và tôi đã mãn nguyện. Trầm Hương số 10, cũng như các số trước, rất đáng được đọc một cách nghiêm chỉnh. Cả mấy tháng nay tôi vô cùng bận rộn và mệt mỏi với chuyện dọn nhà và công việc ở trường, chẳng mấy lúc được ngồi đọc văn chương viết bằng tiếng mẹ đẻ. Quả thực Trầm Hương số 10 đã đến với tôi như một luồng gió mát.
Tôi đã chung vui một vài kinh nghiệm kỳ thú trong giai phẩm này. Trước hết là câu chuyện tình rất đẹp, rất chung thủy, có kết cục hạnh phúc giữa cô giáo Thủy Tú và trung úy Sơn trong truyện TÌM EM TỪ BUỔI LẠC NHAU ĐẾN GIỜ của văn hữu Lê Thị Hoài Niệm. Đặc sắc nhất là cách ăn nói duyên dáng của nhân vật Thủy Tú. Một kinh nghiệm kỳ thú nữa là qua truyện BÀ MẸ VỢ của văn hữu Nguyễn Thị Thanh Dương. Câu chuyện hồn nhiên này đánh tan được quan niệm xấu xa về mẹ vợ (“mother-in-law”) của người Mỹ, như chúng ta thường nghe họ coi “thông gia” (in-laws) như những kẻ “ngoài vòng pháp luật” (outlaws), trong một lối chơi chữ tàn bạo. Nhưng trong BÀ MẸ VỢ thì anh con rể người Mỹ tên Steve quý mến bà mẹ vợ Việt Nam vô cùng. Vì vậy, sau khi bà mẹ vợ về Việt Nam, Steve “buồn ra mặt, anh nhớ bà mẹ vợ, người đã thương con, chiều cháu bằng cả một tấm lòng, anh đã hiểu một bà mẹ Việt Nam cần cù, chịu khó và hy sinh vì con cháu thế nào!”. Bạn nào thích chơi câu đối thì không thể bỏ qua bài viết cực kỳ lý thú của văn hữu Nguyễn Phú Long, mang tên CHƠI CÂU ĐỐI, một lối chơi chữ đặc thù của dân Việt. Lối chơi chữ này đòi hỏi mức độ “thông minh ngôn ngữ” (linguistic intelligence) rất cao, chẳng hạn như trong đôi câu đối sau đây của hai người chơi chữ khá giỏi: “Dê sồm mùi mẫn, dương khoe cẳng dài” (Nguyễn Phú Long) đối với “Cọp cái dần dà, hổ thẹn ân sâu” (Người Đà Lạt).
Tôi cũng đã học hỏi thêm được về cuộc đời dân Việt cận đại qua Trầm Hương số 10. Như cuộc sống bất ổn của người dân miền Nam trong thời Việt Minh bắt đầu làm rối ren ở miền quê đã được văn hữu Tiểu Thu phơi bầy trong truyện THƯƠNG HẬN.
Đây là câu chuyện đau buồn của một phụ nữ đẹp và đoan trang đã bị người tình sau khi thành tài ở Paris về phản bội, chỉ vì thế lực kim tiền. Như nếp sống thảm khốc của dân quê miền Nam thời chinh chiến, những năm 1969 – 1970, thời đại mà nhiều người trong chúng ta còn ở trong hàng ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, được lột tả trong truyện VỢ CHỒNG ÔNG HỘ của văn hữu Nguyễn Đức Nhơn. Ông Hộ đã góa vợ, già nua, và mất mạng trong căn nhà cũ bị dội bom. NGỌN RAU LÁ CỎ của Nguyên Nhung là một câu chuyện vui tươi, nằm trong thời điểm dân Bắc Kỳ di cư vào Nam. Kinh nghiệm của cô bé Bắc Kỳ với dân Nam Kỳ bản xứ thực dễ mến.
Tôi may mắn được thoát ra khỏi Việt Nam từ đầu tháng 4 năm 1975. Nếu kẹt lại thì chắc chắn cũng đã đi cải tạo, vì lúc ấy tuy là giảng sư đại học chính ngạch, tôi vẫn là một sĩ quan biệt phái về Đại Học Sư Phạm Saigon với cấp bậc trung úy. Vì vậy tôi rất thương cảm những ai bị Việt Cộng đầy đọa trong những trại cải tạo dã man của chúng. Truyện ngắn DĨ VÃNG VÀ HIỆN TẠI của văn hữu Đoàn Thạch Ngọc đã làm tôi xúc động mãnh liệt. Đây là nỗi thống khổ của những chiến sĩ VNCH nằm trong tay của Cộng sản: “Sau một ngày lao động, về trại liếm láp qua loa chút ít thực phẩm do trại cấp phát rồi lên sạp nằm ngó trần nhà, thả hồn về quê hương, nơi có những người thân thương đang mỏi mòn chờ đợi. Tôi nhớ lắm. Nhớ tất cả. Nhớ cha mẹ già hẩm hiu cô quạnh trong những ngày gần đất xa trời. Nhớ người vợ hiền đang từng ngày bươn chải nuôi con, nhớ những đứa con nhỏ dại ngây thơ không biết có đủ no, đủ ấm trong những ngày đông tháng giá.” Đấy, nếu tôi kẹt lại, thì số phận tôi cũng như vậy! Tôi đã tìm thấy tôi một phần nào, qua cái đau khổ của nhà văn Đoàn Thạch Ngọc và biết bao những chiến sĩ anh hùng khác nữa của VNCH đã sa cơ thất thế.
Kính thưa quý văn hữu,
Còn nhiều điều đáng nói lắm trong giai phẩm Trầm Hương 10, nhưng tôi đã nói nhiều, và xin để quý bạn khám phá thêm những lời hay ý đẹp trong giai phẩm.
Trân trọng kính chào tạm biệt và cảm tạ quý văn hữu đã lắng nghe”.
Kính thưa quý thính giả nghe Đài,
Trầm Hương số 10 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Xuân năm 2008 đặc biệt có tăng cường thêm một cây bút mới, đó là Nhà văn Lê Thị Hoài Niệm.
Trầm Hương 11 dày 208 trang, phát hành vào Mùa Thu năm 2008 có tăng cường các cây bút tên tuổi như Vũ Tiến Lập, Nguyễn Lập Đông, Vũ Linh, Hồ Công Tâm, Hải Bằng v.v…
Sang Trầm Hương 12 có sự hiện diện của Nhà thơ Hải Phương và Nhà văn Trần Bang Thạch càng làm cho Giai phẩm Trầm Hương đứng vững hơn trong làng Văn học Hải ngoại mà đỉnh cao có lẽ là Trầm Hương 13 với sự xuất hiện của Quan Dương, Phạm Ngũ Yên cùng nhiều tác giả khác làm nên một tác phẩm hoàn chỉnh về hình thức lẫn nội dung. Trầm Hương 13 là tác phẩm cuối cùng kết thúc một chặng đường dài gần 5 năm để bước vào một giai đoạn mới là Trầm Hương 14 mà chúng tôi chuyển thành Trầm Hương số 1 Bộ mới. Có thể nói Trầm Hương số 1 bộ mới này là một cố gắng vượt trội của chúng tôi để hình thành một tác phẩm với sự đổi mới hoàn toàn về hình thức lẫn nội dung. Trầm Hương 1 bộ mới dày 196 trang với sự góp mặt của Yên Sơn, Trần Yên Thảo, Nguyễn Thị Thanh Dương, Phan Bá Thụy Dương, Hải Phương, Nguyễn Bạch Dương, Ngô Nguyên nghiễm, Nguyễn Đức Nhơn, Phạm Ngũ Yên, Tuấn Đình, Nguyên Đắc Nguyên Khoa, Đàm Trung Pháp, Trần Nguyên Đán, Phạm Tương Như, Huỳnh Quang Thế, Túy Hà, Nguyễn Thế Giác, Nguyễn Hữu Nhật, Nguyễn Lập Đông, Nguyễn Tôn Nhan, Như Phong, Phan Xuân Sinh, Thái Bạch Vân, Vũ Linh, Lê Hữu Minh Toán, Lưu Thái Dzo, Xuân Bích, Song An Châu, Tiểu Thu, Lan Cao, Vũ Tiến Lập, Tuấn Trường, Diễm Nghi, Vĩnh Tuấn, Trọng Đạt, Lã Mộng Thường, Phiêu Bồng và Hà Lan Phương.
Trầm Hương 1 bộ mới phát hành vào Mùa Thu năm 2009. Sự ra đời của tập 1 bộ mới là khởi đầu cho một cuộc hành trình với những thách thức trùng trùng trước mắt. Quý thính giả có thể thấy rõ điều này qua lời tâm sự của Văn hữu Chủ bút Túy Hà trong phần mở đầu sau đây:
“Viết đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu cho những đời lấy chữ nghĩa làm vui, và dĩ nhiên bốn mùa luôn xoay chuyển thì ý tình người cũng mộng ảo biến thiên. Nhưng thực tế muôn đời vẫn là phàm tục, nợ áo cơm thôi thúc từng giây. Người viết muốn trọn tình ngôn ngữ, muốn trải lòng tình tự quê hương thì luôn phải mượn hồn nhập xác như hằng đêm trên sân khấu, người diễn viên luôn phải thay vai… Lúc là vua quyền uy một cõi, lúc lính hầu khiên võng nặng vai. Kịch là đời và chính đời là kịch, mỗi một người là một diễn viên. Khi sinh ra, biết khóc trước cười là dấu chỉ cho một đời nhập cuộc, để thích nghi với toàn cảnh thiên nhiên nhất là lúc giao mùa chưa rõ nét mà ngoài kia lá đã chớm vàng.
Thu u uẩn như vầng trăng thiếu phụ,
Thu cũng là mùa cúc nở râm ran
Trăng nghiêng xuống nhuộm vàng lên xác lá
đời lưu vong nhớ quá mảnh sân nhà.

Trầm hương đã là một vuông sân có thật cho những đời lưu vong còn nhớ mảnh sân nhà, đã năm năm qua khởi đi từ vài người bạn già sinh tình tức cảnh lúc trà dư tửu hậu, tự hỏi còn gì sau những bôn ba mỏi mệt ở xứ người. Như ngẫu hứng lý qua cầu lỡ độ, thì thôi đành đem chữ nghĩa luận bàn, từ lý luận suông bàn thành thực tế và Trầm Hương thành một sân chơi. Tin lại thư đi, bằng hữu tụ về không thiếu, thì ra: ngựa hồ luôn nhớ ngọn bắc phong. Mỗi thân hữu góp một bàn tay với nhiệt tình rực lửa, không so đo tính toán, không phân biệt chuyên nghiệp hay tài tử mỗi một sáng tác thi văn đều chung dòng sinh mệnh, đem tâm tình làm phong phú chữ nghĩa nước ta. Ngôn ngữ Việt Nam tự nó đã là thơ là nhạc, là tiếng chim hót đầu hè, là tiếng đỗ quyên gọi hồn Thục đế, là tiếng gió ru trên bạt ngàn ruộng lúa, là tiếng gào thê thiết của hổ nhớ rừng. Tất cả là tâm tư tình cảm của những đời dân Việt lưu vong. Tất cả đã đến với Trầm Hương suốt năm năm dài không ngừng nghỉ, góp thêm hương sắc cho vườn hoa văn học Hải ngoại. Tự hào nhưng không tự tôn, tự ti nhưng không mặc cảm. Trầm Hương đã là một thực thể hiện hữu trong trái tim của những người còn yêu chữ nghĩa.
Thế nhưng, trên đường thiên lý làm sao không mỏi mệt, mộng ảo có biến thiên, mà sức người thì luôn luôn hữu hạn trước những đổi thay bất chợt của mưa lạnh nắng hè.
Nắng không ưa, mưa không chịu, thôi thì nối lại vòng tay đón ngọn thu phong, bước vào mùa trăng diễm ảo. Bằng chút tình chữ nghĩa vẫn có nhau.
Với chút tâm tư mơ hồ bảng lảng ấy, chúng tôi và những bằng hữu còn lưu luyến với Trầm Hương, quyết định tiếp bước dù khó khăn hạn chế mọi nẻo đường. Không bằng lòng với chính mình có nghĩa là luôn cầu tiến, biết quên đi những lời khen hoa mỹ có nghĩa là tự trọng. Người cầm bút chân chính là người không mang tính tự kiêu. Bởi vì tự kiêu chính là sát thủ luôn chực chờ để giết chết mọi tài năng.
Bạn đang đọc những dòng chữ này có nghĩa là bạn đang hà hơi tiếp sức cho chúng tôi tăng thêm nhiệt tình để sống, để viết, làm vơi đi nỗi buồn lưu vong.
Với tình hình phát triển không ngừng nghỉ của hệ thống điện báo toàn cầu thì việc in sách báo, tạp chí, tưởng chừng như lạc hậu và đang đến hồi giẫy chết. Thế nhưng thử hỏi bạn nghĩ gì khi cầm một ấn phẩm mới còn thơm mùi mực, và thử hỏi bạn sẽ ngồi bao nhiêu lâu trước máy tính cá nhân để đọc hết những trang điện báo nhất là đối với thế hệ lưu vong thứ nhất. Nhiều, còn nhiều câu hỏi lắm, vì thế không thể khen chê hay so sánh. Vì vậy Trầm Hương sẽ tiếp tục ấn hành như chút kỷ niệm lưu lại trong lòng những người Việt chân chính và hữu tình hằng quan tâm đến việc phát huy văn hóa Việt Nam nơi xứ người. Tuy nhiên bên cạnh đó để việc giới thiệu sáng tác mới đến đọc giả được hữu hiệu hơn và cũng có thể xem như một hồ sơ lưu trử tài liệu, chúng tôi cũng đã cố gắng thực hiện và mời Quý vị ghé thăm trang nhà:
www.hoiquantramhuong.net
Vì không chủ trương thương mại nên mọi yểm trợ tinh thần cũng như vật chất của quý thân hữu và độc giả sẽ là niềm khích lệ to lớn cho nhóm chủ trương. Xin nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của chúng tôi”.
Kính thưa quý thính giả nghe Đài,
Song song với các sinh hoạt mà tôi vừa trình bày ở trên, Thi Văn Đàn Trầm Hương cũng đã tổ chức những buổi họp mặt giới thiệu các tác phẩm của Trầm Hương cũng như những tác phẩm riêng của một số thành viên trong Thi Văn Đàn. Tổng cộng có 8 lần tổ chức: 2 lần ở Trụ sở Hội Cao Niên Fort Worth, 1 lần tại trụ sở Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Dallas, 2 lần tại Hội quán Thiên Kim ở Richardson, 2 lần tại nhà hàng Tự Do ở Arlington và 1 lần tại nhà hàng Kim Hồng ở Arlington, Texas. Hiện tại Thi Văn Đàn Trầm Hương đang thực hiện các chương trình sau đây:
1. Tạp chí Trầm Hương
2. Trang thơ trên Tuần báo Kiến Thức
3. Phát thanh vào ngày Chúa Nhật hàng tuần trên Đài TNT
4. Thực hiện website: hoiquantramhuong.net
Kính thưa quý thính giả,
Bài nói chuyện của tôi hôm nay có mục đích gởi đến Độc giả, Thính giả Đài TNT và quý Văn Thi hữu một số thành quả khiêm nhường mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đạt được để kỷ niệm ngày Thi Văn Đàn Trầm Hương tròn 5 tuổi và mừng Tết Nguyên Đán Canh Dần năm 2010.
Trước thềm năm mới, thay mặt Ban Điều Hành Thi Văn Đàn Trầm Hương, tôi xin kính chúc quý Độc giả, quý Thính giả Đài TNT và quý Văn Thi hữu cùng Gia đình một năm mới hạnh phúc, an khang và thịnh vượng.

Đàm Trung Pháp
THĂNG HOA KHẢ NĂNG NGOẠI NGỮ
QUA THI CA TRỮ TÌNH

Hồi còn là sinh viên ban cử nhân chuyên về Anh ngữ tại Miami University thuộc tiểu bang Ohio trong đầu thập niên 1960, tôi có cơ hội học thêm một số ngoại ngữ trong phần học trình nhiệm ý. Tiến sĩ Glen Barr là vị giáo sư tiếng Tây ban nha tôi ngưỡng mộ nhất. Ông uyên bác, hiền lành, tận tụy, và rất quý mến học trò. Sau một thời gian học với ông, tôi được ông mướn làm người chấm (grader) bài tập của sinh viên theo học các lớp Tây ban nha ngữ nhập môn của ông. Mỗi cuối tuần, với nụ cười hiền hậu, ông trao tôi một món tiền căn cứ vào số bài tôi đã chấm dùm ông. Món tiền thường chỉ đủ để đưa cô bạn gái người Mỹ đi xi-nê một hai chầu là cạn, nhưng tôi rất cảm động và hãnh diện được ông thầy học tin cậy khả năng.
Một hôm tôi hỏi ông: “Thầy ơi, có cách nào hấp dẫn hơn để trau giồi tiếng Tây ban nha, ngoài việc học thuộc lòng các quy luật văn phạm và từ vựng buồn tẻ không?” Ông gật gù, có vẻ thích thú câu hỏi của tôi, rồi ông hỏi lại tôi: “Anh có thích thơ và nhạc không?” Thấy tôi gật đầu lia lịa, ông nói tiếp: “Vậy thì hãy thử tìm đọc thơ của Gustavo Adolfo Bécker, và nghe những bài hát do Trio los Panchos trình diễn đi!” Ông thầy chí tình của tôi còn quả quyết là qua thơ và nhạc, tôi sẽ thích tiếng Tây ban nha hơn, biết thêm từ vựng văn học, hiểu thêm nếp sống tình cảm của người dân Tây ban nha và Mỹ châu la-tinh, và nhất là sẽ thăng hoa khả năng phát âm và khả năng nghe hiểu thứ tiếng này. Ông vỗ vai tôi, nói tiếp trước khi tôi rời văn phòng ông: “Tin tôi đi, vì đó là kinh nghiệm bản thân của tôi mà!”
Tôi không thể ngờ là giáo sư Barr đã cho tôi một lời khuyên vô giá. Ông quả là một nhà giáo ngoại ngữ tinh đời mà tôi có diễm phúc được làm học trò.
Rời văn phòng ông, tôi vội ghé thư viện của trường để mượn một cuốn hợp tuyển dầy cộm về văn học Tây ban nha trong đó có thơ của đại danh Gustavo Adolfo Bécker và các thi nhân lẫy lừng khác. Tôi cũng vào một tiệm âm nhạc ở ngoài phố để mua một đĩa hát của ban tam ca Trio los Panchos rất được ưa chuộng thời ấy, bìa in hình ba chàng ca sĩ để râu mép như Clark Gable, đội mũ rộng vành, tay ôm đàn điệu nghệ. Chỉ tiếc là cái album đĩa hát thuộc loại “long-playing” ấy của nhà sản xuất Columbia không có đính kèm bản văn (lyrics) của các bài hát, nhưng đây lại là một điều tốt cho tôi, như sẽ giải thích dưới đây.
Gustavo Adolfo Bécker (1836-1870), một nhà thơ tài hoa nhưng mệnh yểu thuộc trào lưu hậu lãng mạn, đã chinh phục ngay được lòng mến mộ của tôi qua một số bài thơ trữ tình trong tuyển tập RIMAS của ông. Thi tuyển này gồm 98 bài –có bài rất ngắn nhưng cũng có bài khá dài, tổng cộng thành vài ngàn câu thơ trác tuyệt– đóng vai trò quan trọng trong văn học Tây ban nha và nằm trong học trình trung học của các quốc gia nói thứ tiếng này. Sau tuyệt tác này, Bécker được coi như người đã sáng lập ra trường phái “trữ tình mới” của văn học Tây ban nha, ảnh hưởng trực tiếp đến các đại danh thi ca như Octavio Paz và Rubén Darío. Nét trữ tình ngọt ngào và chân thành của nhà thơ nổi bật trước sự bộc phát của tình yêu và nỗi cô quạnh của thiên nhiên, khiến người đọc mủi lòng và thấm thía đến nỗi phải đọc đi đọc lại đoạn thơ hay cả bài thơ liên hệ ấy cho đến khi nhập tâm mới thôi.
Nhưng Nàng Thơ của thi tập RIMAS là ai ? Thưa, đó là nàng Elisa Guillén, một kiều nữ mà nhà thơ mê say nhưng duyên không thành, trước khi ông đành kết hôn với cô Casta Esteban Navarro trong một cuộc tình duyên thiếu hạnh phúc.
Trau giồi tiếng Tây ban nha qua thi tập RIMAS trữ tình của Bécker và qua những bài hát mùi mẫn của ban tam ca Trio los Panchos bỗng chốc trở thành niềm đam mê mới của tôi!
Xin nói về thơ trước. Mỗi chiều sau khi xong bài vở các môn học khác, tôi ngồi hàng giờ để đọc và … học thuộc lòng thơ Bécker! Ngay bữa đầu tôi đã bị quyến rũ bởi RIMA XXI, RIMA XXII, và RIMA XXIII là ba bài thơ tình rực rỡ mà ý nghĩa đã khiến tôi ngồi mơ mộng, ước chi mình là người thi sĩ diễm phúc ấy! Này nhé, chàng có một cô bạn gái xinh như mộng đang mê chàng như điếu đổ. Một hôm nàng âu yếm nhìn chàng thật lâu rồi nhõng nhẽo hỏi: “Thơ là cái chi mà anh mê nó thế hả anh?” Sự bộc phát của tình yêu đã khiến nhà thơ thốt ra câu trả lời nổi tiếng nhất trong thi ca trữ tình thế giới: “Thơ … là em đấy!” Thi nhân cũng chẳng để lỡ cơ hội cho tiếng lòng đang thổn thức rót thêm những lời đường mật vào tai cô bạn gái mà chàng vừa tấn phong làm Nàng Thơ. Xin mời quý bạn đọc thưởng lãm tiếng thơ nguyên tác của Bécker trong ba bài vừa kể và miễn chấp phần vụng về cố gắng dịch sát ý nghĩa sang tiếng Việt của tôi theo sau:
¿QUÉ ES POESÍA? DICES, MIENTRAS CLAVAS
EN MI PUPILA AZUL.
¿QUÉ ES POESÍA ? Y TÚ ME LO PREGUNTAS ?
POESÍA … ERES TÚ.
Thơ là cái chi ? Em hỏi, khi
mắt em soi thẳm mắt xanh anh.
Thơ là cái chi ? Em hỏi anh như vậy ?
Thơ … là em đấy.
¿CÓMO VIVE ESA ROSA QUE HAS PRENDIDO
JUNTO A TU CORAZÓN ?
NUNCA HASTA AHORA CONTEMPLE EN
LA TIERRA SOBRE EL VOLCÁN LA FLOR.
Bông hồng cài sát
bên tim em sao sống nổi ?
Xưa nay trên đời chưa ai thấy
bông hoa nào trên hỏa diệm sơn.
POR UNA MIRADA, UN MUNDO,
POR UNA SONRISA, UN CIELO,
POR UN BESO… ¡ YO NO SÉ
QUE TE DIERA POR UN BESO !
Một thế giới cho từng ánh mắt,
Một bầu trời cho mỗi mỉm cười,
Riêng mỗi nụ hôn … anh chẳng biết
Tặng em gì cho mỗi nụ hôn !
Ý tứ rạt rào đam mê, ngôn ngữ bình dị như lời nói chuyện, cú pháp đơn sơ ở mức tối đa trong những câu thơ trên khiến chúng trở nên vô cùng hấp dẫn và dễ thuộc lòng. Và thuộc lòng những câu thơ mà mình thống khoái có nhiều lợi điểm lắm. Nào là từ vựng, nào là cách chấm câu, nào là các mẫu cú pháp, tất cả đã được ghi nhớ vào trí óc để sẵn sàng mang ra sử dụng khi cần thiết. Tôi mê các câu POESÍA … ERES TÚ / POR UNA MIRADA, UN MUNDO/ POR UNA SONRISA, UN CIELO cho nên đã dùng chúng làm các câu mẫu để viết ra các câu tương tự như MI MUSA … ERES TÚ (Nàng Thơ của anh … là em đấy), POR UNA CARICIA, UN YATE (Một du thuyền cho mỗi vuốt ve), và POR UN ABRAZO, UN CASTILLO (Một lâu đài cho từng ôm ấp). Thú thực, lúc đó đam mê tình ái của nhà thơ đã lây sang tôi, và tôi thấy thi ngữ của Bécker ngon như những viên kẹo dragées !
Nhưng không phải bài thơ nào của Bécker cũng hạnh phúc đâu. Khi đọc xong RIMA LIII lòng tôi chùng xuống như thể bị thất tình, vì hành vi những con chim én trong bài thơ não nùng ấy được dùng làm biểu tượng cho lòng sầu muộn và nỗi lo âu của một cuộc tình vừa tan vỡ :
VOLVERÁN LAS OSCURAS GOLONDRINAS
EN TU BALCÓN SUS NIDOS A COLGAR.
Y OTRA VEZ CON EL ALA A SUS CRISTALES,
JUGANDO LLAMARÁN.
Những con én đen đúa sẽ trở lại
xây tổ trên mái hiên nhà em.
Và lần nữa, vỗ cánh trên cửa sổ
chúng vui chơi và sẽ gọi tên.
PERO AQUELLAS QUE EL VUELO REFRENABAN
TU HERMOSURA Y MI DICHA A CONTEMPLAR,
AQUELLAS QUE APRENDIERON NUESTROS NOMBRES,
¡ESAS… NO VOLVERÁN !
Nhưng những con từng bay chậm lại
để ngắm nhìn nhan sắc em và hạnh phúc anh,
Những con đã biết gọi tên chúng mình,
Những con ấy… sẽ không trở lại!
RIMA LIII chứa đựng nhiều từ vựng quan trọng trong thi ngữ Tây ban nha, nhưng đáng kể hơn nữa là những câu thơ trác tuyệt trong bài là điều nhắc nhở người đang học rằng thứ tự các từ ngữ (word order) trong cú pháp Tây ban nha rất linh động, chẳng hạn ngay trong câu đầu tiên, động từ VOLVERÁN được đặt trước chủ từ LAS OSCURAS GOLONDRINAS, và trong câu thứ năm túc từ trực tiếp EL VUELO được đặt trước động tnhi
REFRENABAN.
Nếu so với thơ về mức hấp dẫn để thăng tiến khả năng ngoại ngữ thì nhạc “ăn đứt” thơ vì nhạc có thêm chiều (dimension) âm thanh. Mỗi bài hát, ngoài từ vựng và cú pháp gửi gấm trong những lời ca, còn là một mẫu mực cho phát âm (pronunciation) và các mô hình ngữ điệu (intonation patterns), cũng như một thực tập để nghe hiểu (listening comprehension). Ba bài hát SOLAMENTE UNA VEZ, PERFIDIA, và BÉSAME MUCHO do Trio los Panchos trình diễn mùi mẫn trong điệu bolero chầm chậm đã làm tôi mê ngay lúc nghe lần đầu, mặc dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa những câu hát vì tôi không có văn bản (lyrics) trước mắt. Tôi quyết định phải nghe đi nghe lại ba bài hát ấy cho đến khi thuộc lòng, rồi ngồi xuống, với cuốn tự điển Tây ban nha nho nhỏ trong tay để giúp phần tra cứu chính tả (spelling), viết ra giấy những gì tôi đã ghi trong trí nhớ. Nỗ lực ấy là một lối thực tập tự viết chính tả thú vị, và sau một hai tiếng đồng hồ, tôi đã có văn bản của ba bài ca bất hủ! Khả năng nghe hiểu (listening comprehension) cũng rõ rệt được thăng hoa khi tôi chăm chú mê say nghe những lời ca của Trio los Panchos. Âm điệu (melody) ngọt ngào êm tai hòa với nhịp điệu (rhythm) lên xuống rộn ràng của các bài hát như có ma lực giúp tôi mau chóng thuộc lòng những lời ca chứa chan cảm xúc mạnh của chúng.
Nói về cảm xúc mạnh thì ba bài hát nêu trên thuộc loại thượng thừa! Nghe xong bài SOLAMENTE UNA VEZ tôi thắc mắc hoài về người trong cuộc. Tại sao chỉ một lần yêu thôi? Lý do nào tan vỡ? Ly dị, chết chóc, hay chỉ vì người ta thay lòng đổi dạ? Mời quý bạn đọc nghe niềm tiếc nuối ngút ngàn của tác giả bài ca này:
SOLAMENTE UNA VEZ
AMÉ EN LA VIDA ;
SOLAMENTE UNA VEZ,
Y NADA MÁS.
Chỉ một lần thôi
tôi đã yêu trong đời ;
chỉ một lần thôi,
rồi không còn chi nữa.

UNA VEZ NADA MÁS EN MI HUERTO
BRILLÓ LA ESPERANZA,
LA ESPERANZA QUE ALUMBRA EL CAMINO
DE MI SOLEDAD.
Chỉ một lần thôi tia hy vọng
rực sáng trong mảnh vườn tôi,
tia hy vọng soi con đường
cô độc cả cuộc đời.
UNA VEZ NADA MÁS
SE ENTREGA EL ALMA
CON LA DULCE Y TOTAL
RENUNCIACIÓN.
Chỉ một lần thôi
tâm hồn tôi hàng phục
sự buông lơi trọn vẹn
ngọt ngào.
Y CUANDO ESE MILAGRO REALIZA
EL PRODIGIO DE AMARSE,
HAY CAMPANAS DE FIESTA QUE CANTAN
EN EL CORAZÓN.
Và khi phép lạ ấy
mang lại ái ân kỳ diệu,
bao tiếng chuông đình đám rộn ràng
cùng ca hát trong tim.
Tôi thấy tội nghiệp vô cùng cho tác giả bài hát PERFIDIA. Đau sót biết mấy khi có người yêu điên đảo ! Nhạc sĩ thất tình với trái tim rớm máu này thở than về một phụ nữ đã làm cho đời ông tan nát. Ông mang cả Thượng Đế, cả biển sâu ra làm nhân chứng cho mối tình thành khẩn, cho những lần than khóc, cho những chuyến đi tìm kiếm vô vọng của ông – tất cả chỉ vì sự đảo điên, đi hoang của nàng thôi :
MUJER, SI PUEDES CON DIOS HABLAR,
PREGÚNTALE SI YO ALGUNA VEZ
TE HE DEJADO DE ADORAR.
Y AL MAR, ESPEJO DE MI CORAZÓN,
LAS VECES QUE ME HA VISTO LLORAR
LA PERFIDIA DE TU AMOR.
Em, nếu có thể thưa chuyện cùng Thượng Đế,
hãy hỏi Ngài xem anh đã dám lần nào
chểnh mảng tôn thờ em.
Và hỏi biển, gương soi trái tim anh,
những lần biển đã thấy anh nhòa lệ
khóc cho đảo điên tình ái của em.
TE HE BUSCADO DONDEQUIERA,
YO NO TE PUEDO HALLAR.
Y TÚ, QUIÉN SABE POR DÓNDE ANDARÁS,
QUIÉN SABE QUÉ AVENTURAS TENDRÁS,
QUÉ LEJOS ESTÁS DE MÍ.
Anh đã đi tìm em khắp chốn,
mà nào thấy bóng dáng em đâu.
Còn em, ai biết em đi phương nào,
ai biết em mạo hiểm tình ái ra sao,
khi em xa cách anh biết mấy.
May thay, những tiếc nuối trong bài SOLAMENTE UNA VEZ và những nát lòng trong bài PERFIDIA được đền bù rộng rãi bằng những đam mê trong bài BÉSAME MUCHO do nữ nhạc sĩ Mễ tây cơ Consuelo Velázquez sáng tác năm 1940. Điều đáng ngạc nhiên về tác giả bài hát thúc dục hôn nhau thắm thiết nổi tiếng thế giới này là sự kiện cô ta, cho tới lúc ấy, chưa bao giờ được ai hôn cả. Cô phải bạo phổi lắm, vì ở thời điểm đó bên Mễ tây cơ, hôn nhau say đắm theo kiểu cô ta đề nghị vào ban đêm thì chắc chắn bị coi như … tội lỗi rồi ! Cả thế giới biết đến bài hát này mà dưới đây là hai đoạn chính của nội dung nguyên tác ; đoạn thứ nhất được nhắc lại ở cuối bài hát như một điệp khúc khi trình diễn. Vì tác giả thuộc phái đẹp, trong phần chuyển ngữ tôi để nàng làm người thúc dục động tác hôn nhau :
BÉSAME, BÉSAME MUCHO,
COMO SI FUERA ESTA NOCHE LA ÚLTIMA VEZ.
BÉSAME, BÉSAME MUCHO.
QUE TENGO MIEDO PERDERTE, PERDERTE DESPUÉS.
Hôn em đi, hôn em đi thật say đắm,
như thể là lần chót trong đêm nay.
Hôn em đi, hôn em đi thật say đắm.
Em sợ biết bao sẽ mất anh, mất anh sau này.
QUIERO TENERTE MUY CERCA,
MIRARME EN TUS OJOS, VERTE JUNTO A MÍ.
PIENSA QUE TAL VEZ MAÑANA
YO YA ESTARÉ LEJOS, MUY LEJOS DE TÍ.
Em muốn có anh thật gần,
soi bóng em trong mắt anh, thấy anh sát bên em.
Anh hãy nghĩ mai đây có thể
Em sẽ đi xa, hàng vạn dặm xa anh.
Mấy chục năm đã qua đi, nhưng kỳ diệu thay những bài thơ tình trinh nguyên của Bécker, những bài hát do Trio los Panchos trình bầy mùi mẫn mà tôi học thuộc lòng trong tuổi thanh xuân, ngày nay tôi vẫn chưa quên! Tôi vẫn còn giữ thói quen đọc thơ và nghe nhạc Tây ban nha trong lúc nhàn rỗi để thăng hoa khả năng thứ tiếng ấy. Mới đây thôi, tôi đọc một bài thơ tuyệt đẹp của Pablo Neruda (1904-1973) từng đoạt giải Nobel văn chương. Đó là bài LA REINA (Nữ Hoàng) mà thi bá gốc người xứ Chí lợi viết để tặng Nàng Thơ bằng da bằng thịt của mình mang tên Matilde Urrutia. Nàng thua ông 8 tuổi, yêu kiều, tràn đầy nhựa sống, tính tình nồng thắm, hát như chim sơn ca, và chơi dương cầm thiện nghệ. Hai đoạn thơ long trời lở đất trong bài LA REINA sau đây cho người đọc biết tại sao nàng được ông tôn là Nữ Hoàng:
Y CUANDO ASOMAS
SUENAN TODOS LOS RÍOS
EN MI CUERPO, SACUDEN
EL CIELO LAS CAMPANAS,
Y UN HIMNO LLENA EL MUNDO.
Và khi em xuất hiện
tất cả những giòng sông náo động
trong thân anh, những hồi chuông
rung chuyển cả bầu trời,
và một bài thánh ca ngập tràn thế giới.
SÓLO TÚ Y YO,
SÓLO TÚ Y YO, AMOR MÍO,
LO ESCUCHAMOS.
Chỉ có em và anh,
em yêu ơi, chỉ có em và anh
lắng nghe bài thánh ca ấy.
Và trong dịp nghỉ lễ Giáng sinh vừa qua, tôi lên Internet tìm lại được bài SOLAMENTE UNA VEZ là bài hát tôi yêu mến nhất! Kỹ thuật ngày nay cho âm nhạc thêm một chiều nữa, đó là hình ảnh sống động đi kèm. Tôi nghe và xem hình hai giọng ca vàng Julio Iglesias gốc Tây ban nha và cô Thalía sắc nước hương trời, đệ nhất đào thương telenovela xứ Mễ tây cơ, song ca trong một youtube. Từ trước đến nay, tôi chưa thấy ai hát SOLAMENTE UNA VEZ ngọt ngào đến mê hồn như họ! Bao kỷ niệm thời thanh xuân vụt trở lại, và tôi, nước mắt tiếc nuối lưng tròng, thầm đọc mấy câu thấm thía của Rubén Darío (1867-1916):
JUVENTUD, DIVINO TESORO,
YA TE VAS PARA NO VOLVER!
CUANDO QUIERO LLORAR, NO LLORO …
Y A VECES LLORO SIN QUERER …
Tuổi thanh xuân, kho tàng thần thánh,
đã ra đi để chẳng trở về !
Lúc muốn khóc nào đâu khóc nổi ..
nhưng nhiều khi bất chợt lệ rơi…

Nguyễn Đức Nhơn
bóng thời gian
(Tôi vẫn biết dù năm cùng tháng tận
Cũng chỉ là nhịp thở của hư không)

Hưng phế ngàn năm giấu mặt
Cổ kim luận tội anh hùng
Trái đất ngàn năm què quặt
Sao khuya rớt giữa muôn trùng
Hình nộm mặc áo long bào
Xua tay đuổi bầy ngạ quỷ
Mặt nạ ngàn năm giấu kỹ
Bùa mê rải khắp tinh cầu
Mặt đất khép kín hà đồ
Lạc hồn bùa mê thuốc lú
Ngậm ngải đi tìm quái thú
Rừng xanh áo vải khăn sô
Tượng đá cúi mặt ngủ vùi
Hình như một lần mở mắt
Cát sỏi bầm gan tím mật
Giật mình khép vội con ngươi
Trống đồng phù điêu bỏ phế
Hưng vong tuổi đất dạy thì
“Nguyệt lạc ô đề” bạch thố
Lần tay tính tuổi sao Vi.

Trọng Đạt
KHÁI LUẬN
về Nghệ thuật tùy bút Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân (1910-1987) là người đã tự xây dựng cho mình một địa vị riêng rẽ trong nền văn chương Việt Nam, ông không thuộc một trường phái nào, là một nhà văn độc lập và có những nét độc đáo về hành văn, tư tưởng.
Trong bài này chúng tôi xin trình bầy cùng quí vị một cái nhìn tổng quát về nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân, những nét chính trong văn chương của ông viết trước 1945 và xin được chia làm những đặc tính như sau.
1-Tùy Bút.
2-Lữ Hành.
3-Cái Tôi.
4-Mâu Thuẫn.
5-Hướng Thiện.
6-Đi Trước Thời Đại.
7-Bi Quan.
8-Giá Trị.
Theo Ông Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại.
“Những tập văn của ông dầu không phải là tùy bút cũng ngả về tùy bút chẳng ít thì nhiều”
Trong bài Nguyễn TuânVà Sông Đà, nhà nghiên cứu trong nước Nam Mộc viết.
“Những tác phẩm ấy có cuốn đề là truyện dài, truyện ngắn hoặc phóng sự, du ký nhưng nói chung đều là những tùy bút hoặc mang nhiều tính chất của tùy bút là thể tài sở trường của Nguyễn Tuân và rất phù hợp với cá tính của Nguyễn Tuân”
Trương Chính, nhà nghiên cứu phê bình trong nước cũng đã nói.
“Truyện ngắn truyện dài, phóng sự của ông tất cả đều là những thiên tùy bút trá hình. Vì vậy, nói đến tác phẩm của Nguyễn Tuân tức là nói đến con người của ông”
Các tác phẩm của Nguyễn Tuân viết trước ngày theo Việt Minh gồm có:
-Vang Bóng Một Thời, tập truyện ngắn, xuất bản năm 1940.
-Ngọn Đèn Dầu Lạc, ký sự, Mai Lĩnh xuất bản 1941.
-Tàn Đèn Dầu Lạc, ký sự, Mai Lĩnh xuất bản 1941
-Một Chuyến Đi, Tân Dân xuất bản, Hà nội 1941.
-Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, tùy bút, Hàn Thuyên xuất bản 1941.
-Tùy Bút I, Cộng Lực xuất bản 1941.
-Tùy Bút II, Lượm Lúa Vàng xuất bản 1943.
-Quê Hương, tiểu thuyết, Anh Hoa xuất bản 1943.
-Tùy Bút III hay Nguyễn, Thời Đại, Hà Nội xuất bản 1945.
-Chùa Đàn, truyện ma quỉ, xuất bản Hà Nội 1945.
Chúng tôi xin dành đôi giòng để nói về tùy bút.

1-Tùy Bút.
Được định nghĩa là để tùy ý cho ngọn bút diễn tả một cách rộng rãi tự do tâm tư của tác giả.
Ông Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, cuốn 3 đã định nghĩa như sau.
“Duy có điều là ký sự của ông không phải như ở giai đoạn Nam Phong… mà là đại biểu cho một giai đoạn già dặn… để tự do, tùy bút, muốn viết gì thì viết, ghi chép gì cũng được. Những truyện của Nguyễn Tuân hơn cả với Thạch Lam chẳng có gì làm truyện cả; nghĩa là những yếu tố thông lệ gọi là động tác, là thắt là cởi. Chỉ là những mảnh đời hé lộ của cuộc sống xưa, hay là những kể lể dông dài về một cuộc gặp gỡ, những tâm sự lê thê, những cảm tưởng vụn vặt của chính mình”.
Nhà phê bình văn học trong nước Nguyễn Mạnh Đăng định nghĩa như sau.
“Tùy bút là gì? Định nghĩa vừa dễ lại vừa khó. Dễ vì khái niệm bản thân nó đã tự giải thích: là phóng bút, tùy bút mà viết chứ sao! Nhưng chính vì thế mà khó. Vậy thì còn có thể nói gì về qui tắc thể loại của nó nữa? Ở Tây phương hiện đại, tùy bút rất phát triển. Nhưng càng phát triển, khái niệm tùy bút càng mơ hồ hơn. Có người đã nói: ‘Tự do là phép tắc duy nhất của tùy bút’.Có thể hiểu một cách đại khái thế này: người viết tùy bút thường mượn cớ thuật lại một sự kiện, một mẩu chuyện nào đó mà mình có trải qua để nhân đấy nêu lên những vấn đề này khác mà bàn bạc, mà nghị luận, triết luận, ném ra những suy tưởng của mình một cách thoải mái phóng túng”.
Chúng tôi xin trích dẫn thêm một số định nghĩa nữa về tùy bút của các nhà nghiên cứu trong nước để chúng ta có thêm nhiều ý kiến hầu dễ bề quán triệt.
Ông Vương Trí Nhàn trong bài Nguyễn Tuân Và Thể Tùy Bút có nói.
“Thuở vua Lê chúa Trịnh, tức những năm tháng hỗn loạn của chế độ phong kiến, cũng đã có một cuốn sách mang tên Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ ra đời, nhưng chữ tùy bút ở đây, không phải là để chỉ thể loại của tác phẩm, mà có liên quan tới cách viết cũng là cái phóng túng trong công việc cầm bút. Vả chăng đọc vào thì thấy đây là một thứ ghi chép của nhà nho nghèo nhân quan sát sự đời mà tìm cách ghi lại để các thế hệ sau cùng biết, chứ cái phần thấy đậm gắt ở tùy bút Nguyễn Tuân là chất chủ quan của nhà văn, cái đó ở Vũ Trung Tùy Bút không có”
Theo Vương Trí Nhàn, tùy bút phải có tính cách chủ quan của nhà văn, những ý nghĩa thâm trầm, những tâm tư của tác giả trước cuộc đời. Ông cũng lấy định nghĩa trong tự điển của Nga ra để giảng nghĩa thêm như sau.
“Tùy bút (essai – tiếng Pháp) là tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ và có cấu trúc tự do, biểu thị những ấn tượng và suy nghĩ cá nhân về những sự việc, những vấn đề cụ thể và hoàn toàn không tính tới việc đưa ra cách giải thích cố định và đầy đủ về đối tượng”
Ông cũng trích dẫn một cuốn tự điển khác như sau.
“Được gọi là tùy bút là những tác phẩm mà ở đó nổi lên trên bình diện thứ nhất, những phẩm chất, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo của riêng mình, những người thích tự biểu hiện, tự phân tích, đồng thời là những bút pháp vừa giầu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt chẽ như châm ngôn. . . những người đó mới đi vào tùy bút”.
Dưới đây là định nghĩa về túy bút của Hà Văn Dức, nhà nghiên cứu trong nước.
“Tùy bút là một thể loại có lối viết tương đối tự do, phóng khoáng. Nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đẩy, có thể đi từ việc này sang việc khác, từ liên tưởng này sang liên tưởng nọ để bộc lộ những nhận thức, suy nghĩ và cảm súc của mình về đối tượng được phản ánh. Ở thể loại tùy bút, cái tôi bản ngã của nhà văn được thể hiện rõ nét gần như trong thơ trữ tình. Nguyễn Tuân khi nói về thể loại tùy bút đã đưa ra một nhậân xét ngắn gọn nhưng không kém phần dí dỏm: ‘Tùy bút là viết tùy theo bút, theo cảm hứng’. Nói như vậy không có nghĩa đây là một thể loại dễ viết. Nếu người viết tỏ ra kém bản lĩnh hay non tay sẽ rất dễ gây cho người đọc cái cảm giác nhàm chán”.
Như vậy theo ý kiến chung của một số nhà nghiên cứu kể trên chúng ta có thể hiểu tùy bút là một bài tường thuật, mô tả một vấn đề hay một sự kiện, câu chuyện . . để bàn bạc, triết lý hay suy tư thoải mái. Bài viết thường mang nặng tính chất chủ quan, cái tôi của tác giả.
Ông Nguyễn Đăng Mạnh có nói ở Tây phương hiện đại, tùy bút rất phát triển, nhưng theo chúng tôi biết văn học Tây phương qua sự nghiệp của các tác giả lớn, nổi tiếng từ thời cổ điển như Tolstoi, Ivan Tourgueniev, Dostoievsky, Victor Hugo. . đến thời cận đại, hiện đại như Sholokhov, Hemingway, Margaret Mitchell, Gheorghiu, J. Steinbeck, Boris Pasternak. . . . chỉ thấy họ viết truyện ngắn, hoặc tiểu thuyết vĩ đại trường giang đải hải không thấy viết tùy bút và cũng không nghe thấy nói đến tùy bút của họ. Có lẽ chỉ riêng có Solzhenitsyn (được giải Nobel văn chương 1972, Một Ngày Trong Đời Ivan Denitsovitch) với cuốn Khu Bệnh Ung Thư (Le Pavillon des cancéreux) dài trên 500 trang, gồm nhiều truyện ngắn không kết thúc có thể coi như gần giống thể văn tùy bút như trong Vang Bóng Một Thời. Theo chúng tôi biết các nhà văn nổi tiếng của văn học Trung Hoa cận đại như Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đường, Quách Tự Phần, Thi Dân. . . . cũng chỉ viết truyện ngắn, tiểu thuyết và không thấy viết tùy bút.
Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân viết 1940 và Hà Nội Băm Sáu Phố Phường của Thạch Lam viết 1942 là những tùy bút đầu tiên của nền văn chương Việt Nam ta có thể coi Nguyễn Tuân và Thạch Lam là hai nhà văn đi tiên phong viết tùy bút. Tại miền Nam từ sau 1954 cho tới 1975 và bây giờ tại hải ngoại thể tùy bút vẫn được rất nhiều nhàvăn ưa chuộng. Như vậy thể túy bút là một thể loại được nhiều nhà văn chuyên nghiệp ở Việt Nam sáng tác và ít thấy xuất hiện trên văn đàn thế giới.

2-Lữ Hành.
NguyễnTuân trong đa số các truyện và tùy bút đã cho ta thấy hình ảnh một người lữ khách chỉ thích ra đi, du lịch, bỏ nhà, phiêu bạt giang hồ. . Trong Nguyễn, một truyện dài viết 1941, cụ Tú Quân mua đất ở tả ngạn sông Tô làm nhà cho Nguyễn để giữ chàng lại, bỏ cái tính lông bông nhưng chỉ được ít ngày lại sổng mất Nguyễn. Chàng lại cho thuê căn nhà rồi chỉ giữ lại một phòng để chứa sách và một ít đồ xong lại tiếp tục cuộc đời kẻ lữ hành, phiêu bạt giang hồ.
Trong Một Chuyến Đi, tác giả theo đoàn tài tử sang Hồng Kông năm 1938 đóng phim Cánh Đồng Ma ông viết.
“Thì ra bữa rượu say sưa của kẻ lữ hành vĩnh viễn đã được trả giá một đời nghệ sĩ tìm lẽ sống của mình trong sự xê dịch luôn luôn trong không gian và thời gian”
Nguyễn Tuân cho rằng đổi chỗ trong không gian là để thoát ly khỏi sự trói buộc của cuộc sống hàng ngày. Ông chỉ mong được đi mãi không ngừng, tác giả ca ngợi cuộc đời giang hồ, di chuyển luôn để thoát khỏi cái tủn mủn của cuộc đời cố định nhất là trong Quê Hương, một truyện dài độc nhất của ông, thực ra chỉ là một tùy bút dài dòng văn tự như viết ra để ca ngợi những cuộc viễn du.
“Bạch cảm thấy mình đã hoàn toàn là mình, một người thèm đi và được đổi chỗ. Đi với cái thương nhớ những người vừa chia tay, với cái hồi hộp của phút sắp được hưởng tại chỗ sẽ tới”
Nhân vật Bạch cũng như Nguyễn đều là những hình ảnh của Nguyễn Tuân ở đây chỉ thèm thuồng cuộc sống không có quá khứ , nhớ tiếc cuộc đời thủy thủ đã từng lưu lạc giang hồ qua Nam Mỹ, Ý, Thượng Hải, Hoành Tân. . Bạch nói nhưng người đời không hiểu Bạch lại cho rằng người có tài như chàng không chịu làm một việc gì, chỉ biết đi không kỳ hạn để lại nhiều thiệt thòi cho chính ông và cho cả xã hội.
Thực vậy cái hạnh phúc của Bạch, một hình ảnh của Nguyễn Tuân chỉ là cái thú ích kỷ, lãng mạn tiêu cực để lại nhiều thiệt thòi cho gia đình chàng và cho cả xã hội xung quanh.
Và bây giờ tại Hà Nội, không được đi viễn du, chiều chiều Bạch thích ra ga ngắm những con tầu vào Nam ra Bắc cho đỡ cơn thèm du lịch, Bạch tự ví mình như người du khách đứng ngoài thời gian, không gian, đứng yên mãi để du lịch trong trí tưởng tượng với một tấm lòng đau khổ. Hình ảnh của một chàng Bạch thèm đi là lối diễn tả của Nguyễn Tuân để nhấn mạnh thêm lên cái thú đi, phiêu bạt khôn cùng.
Nguyễn Tuân tự cho mình là người cao đẳng vì có cái thú của thói quen muốn thoát khỏi cái chặt chẽ của đời sống, theo ông không có gì chán cho bằng cứ gặp nhau mãi ở một nơi nhất định. Trong truyện Bạch, mặc dù đã hết cái thời đi đây đi đó nhưng vẫn còn thèm thuồng và luyện cho người khác như cậu em Phối lên đường, mặc nhiên nó cho ta thấy khát vọng ra đi của Bạch, của Nguyễn Tuân là nhường nào.
Hết cái thời đi Nguyễn Tuân lại nói đến cái lòng thèm đi của nhân vật Bạch hoặc Tần, cái số không được lìa nhà, vợ đẻ, hai cụ mãn phần, rồi thương vợ quá nên không nỡ xa lìa để bây giờ lại thèm thuồng cuộc đời giang hồ của bạn. Sự ra đi, phiêu lưu . . . đối với Bạch như một lý tưởng: muốn đi phải quên hết người thân, gạt tất cả những lưu luyến lại phía sau mình thì mới mở đầu cho một độ đường mới. Nguyễn Tuân nói.
“Họ đi để mong làm một cái gì, lầm! lầm to! Sao lại không lấy nguyên cái việc được đi là một cái thú ở đời rồi? Tôi cho được đi là một cứu cánh”
Theo Nguyễn Tuân đi là một cứu cánh vì nó đưa ta thoát khỏi cái gò bó, tùn mủn của cuộc đời cố định chứ không phải đi để mong tới một kết quả nào. Đi để có một nơi rời bỏ không phải có một nơi đến, có thể nói đó là một tâm hồn bệnh hoạn mà người ta đã đạt tên cho là “bệnh không gian”.
Trong bài Một Lá Thư Không Gửi (cuốn Tùy Bút I) Nguyễn Tuân gửi cho một người bạn thủy thủ ở phương xa ông nói kẻ được đi vui thú với cuộc viễn du, người ở lại như ông phải chôn chân một chỗ thấy ngày tháng dài như kẻ tội nhân khổ sai có kỳ hạn.
“Cái thằng được đi thì lại cứ được đi mãi, còn cái đứa phải ở nhà thì lại cứ phải mòn héo với cái tủn mủn một cuộc đời hẹp hòi”
Cũng như trong Quê Hương, Ở đây Nguyễn Tuân ca ngợi lý tưởng cuộc sống, hạnh phúc của con người ở chỗ phải đi, đi mãi. . . nhưng nếu đã tới đích thì cuộc vui đã hết, một người cua rơ xe đạp, một người chinh phục tình yêu khi đạt mục đích chỉ thấy sự nhạt nhẽo vô vị. Nguyễn Tuân lại chê bai cuộc đời định cư như một bức tranh tĩnh vật.
Trong bài Lại Đi Nữa, Nguyễn Tuân viết.
“Đi đối với tôi là hình thức tốt đẹp nhất của thoát ly. . . cứ bắt tôi ở mãi một nơi, tôi sẽ hèn trong tình yêu – yêu hiểu theo nghĩa rộng – và trở nên nhút nhát và ghẻ lạnh trước cuộc sống”
Ông lập đi lập lại nhiều lần cái mâu thuẫn giữa đi và ở, đi là những cái gì tốt đẹp nhất và ngược lại ở sẽ làm ta nhút nhát lạnh lùng trước cuộc sống.
“Tôi thích đi không phải vì có một xứ để mà đến, nhưng vì có một xứ để rời bỏ”
Càng đi, càng yêu những người chung quanh, không bao giờ tính chuyện dừng bước giang hồ.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại viết.
“Trong Thiếu Quê Hương, người ta thấy du lịch trở nên một bệnh, vai chính trong truyện là một chàng thiếu niên lúc nào cũng muốn đi, lúc nào cũng thấy mình cần phải đi. Chiếc va li, tẩu thuốc lá, sân ga, con tầu là những vật chính để đưa người lãng tử lê gót bốn phương trời. Nhưng đi đây là đi không có định kiến, không có mục đích gì cả, đi cho chán chân, rồi lại trở về nhà ít lâu để rồi lại lấy sức mà đi nữa”
Theo ý kiến của một số nhà phê bình nhận xét về sự thèm đi, cuộc lãng du của Nguyễn Tuân chỉ là biểu hiện của một thứ bệnh hoạn.

3-Cái Tôi.
Các nhà nghiên cứu phê bình về Nguyễn Tuân đều nhìn nhận ông là một nhà văn chủ quan nhất, mở đầu cuốn Nguyễn ông viết một cách ngang tàng .
“Kính tặng tôi”
Ng.T
Tự kính tặng mình, quả chưa có nhà văn nào chủ quan và ngang tàng như thế. Trương Chính trong Vài Nét Về Con Người Và Tác Phẩm Nguyễn Tuân đã nhận xét như sau.
“Nguyễn Tuân là một nhà văn chủ quan nhất trong các nhà văn của ta. Chưa có một người nào chuyên nói về mình một cách lộ liễu, không che dấu như thế. Tựa hồ ngoài ông, ông không còn nhìn thấy ai nữa.Mà có nhìn thấy thì lúc nào cũng nhìn thấy qua cái màn sương tâm tình của mình. Cho nên ông là một nhà viết tiểu thuyết mà lại không sáng tác được một nhân vật nào khác, ngoài nhân vật đại diện cho ông là anh chàng Nguyễn. Truyện ngắn truyện dài, phóng sự của ông tất cả đều là những thiên tùy bút trá hình. Vì vậy nói đến tác phẩm của Nguyễn Tuân tức là nói đến con người của ông”
Tôn Thảo Miên trong Nguyễn Tuân Tài Hoa Văn Chương viết.
“Nguyễn Tuân hoạt động trên rất nhìều lãnh vực: viết văn, làm báo, diễn kịch. . . ở lãnh vực nào ông cũng say sưa, thể hiện hết cái “tôi” của mình”
Hoặc.
“Nguyễn Tuân đã đề cao cái “tôi” cá nhân, tất cả đều xuất phát và quy tụ về cái “tôi”nghệ sĩ đó. Ông không ngần ngại mà tự thú rằng: ‘lòng kiêu căng của ta đã xui ta chỉ chơi có một lối độc tấu’. Vì ẩn mình trong cái vỏ cá nhân, không hòa mình với thế giới xung quanh, nên nhiều lúc Nguyễn Tuân bị mất niềm tin vào cuộc sống, không dám tin vào bất cứ điều gì ngoài bản thân mình: ‘Rồi tôi vẫn vênh váo đi giữa cuộc đời như một viễn khách không có quê hương nhất định. Cái gì cũng ngờ hết, duy chỉ có tin chắc ở cái kho cái vốn tình cảm và cảm giác của mình”
Nguyễn Đăng Mạnh trong Quan Điểm Nghệ Thuật Của Nguyễn Tuân viết.
“Mâu thuẫn này xoay quanh cái mà một nhà phê bình gọi là “bệnh tôi”của Nguyễn Tuân. Thực ra bản thân nhà văn cũng có lúc tự nhận xét như thế: “Lòng kiêu căng của ta đã xúi ta chỉ chơi có một lối độc tấu” (Vô Đề)
Trừ Vang Bóng Một Thời và những truyện ma quỉ, hầu hết những tùy bút, truyện ngắn truyện dài, ký sự … của Nguyễn Tuân đều thể hiện tâm tư giai thoại, cuộc đời của chính mình như Hà Văn Đức nhận xét dưới đây.
“Đọc tùy bút Nguyễn Tuân, ta thấy “tôi”bản ngã được thể hiện một cách rõ rệt. Nhiều nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Tuân xử dụng đại từ nhân xưng thứ nhất “tôi”và thậm chí các nhân vật khác của ông, mặc dù có tên gọi khác nhau: Vi, Bạch, Hoàng. . . thì thực chất vẫn mang rõ hình bóng chủ quan của tác giả”
Vương Trí Nhàn trong bài Nguyễn Tuân, Huyền Thoại Một Thời đã so sánh Nguyễn Tuân với Hemingway, nhà văn hào Mỹ đoạt giải Nobel 1954 này có những cá tính, lối sống kỳ lạ và nhiều huyền thoại: đấu bò, đánh cá, tham chiến tại Âu Châu.. . những huyền thoại ấy đã được người ta bàn tán, thổi phồng không kém gì tác phẩm của ông , có người cho Hemingway đã cố ý trình ra trước xã hội một con người có những cá tính độc đáo như ông muốn để giúp cho tác phẩm của ông được nhiều người chú ý hơn lên.
“Ấy thế nhưng trong văn học Việt Nam hiện đại cũng đã có một nhà văn dựng tạo sự nghiệp của mình theo kiểu Hemingway nói trên. Trong khoảng gần năm chục năm cầm bút ông đã tạo nên quanh mình cả núi giai thoại, chính những giai thoại nửa thật nửa bịa đó là một chất dẫn truyền rất tốt để tác phẩm của ông có thêm cái lung linh mà người đọc phải cố tìm biết.
Nhà văn đó là Nguyễn Tuân”
Vương Trí Nhàn đã có một nhận xét hay và mới mẻ khi ông so sánh lối tạo huyền thoại của Nguyễn Tuân với Hemingway, không phải Nguyễn Tuân đã bắt chước đua đòi theo kiểu Hemingway nhưng ông cũng cố tạo dựng cho cuộc đời mình những nét độc đáo, lối nhìn đời khinh bạc, những cuộc lữ hành không mục đích, cảnh ăn chơi sa đoạ bên mâm bàn đèn thuốc phiện, chốn lầu xanh lầu hồng. . . để tô điểm thêm cho văn chương mình thêm phong phú đặc sắc. Từ Quê Hương, Một Chuyến Đi, Ngọn Đèn Dầu Lạc, Tùy Bút. . Nguyễn Tuân đã chau chuốt cái tôi của ông nhiều nét độc đáo khiến cho nó có những điểm khác người, cái tôi của ông phải là độc đáo, mang nhiều huyền thoại.
Đa số các nhà phê bình đã nhận xét Nguyễn Tuân là một nhà văn độc lập, chủ quan nhất, người đã công khai đem chuyện đời tư của mình ra viết thành tùy bút, truyện ngắn, truyện dài, ký sự. Trừ một số truyện ma quỉ và tác phẩm đầu tay Vang Bóng Một Thời còn lại đều là những giai thoại nói về mình từ cuộc viễn du đi đóng phim bên Hồng Kông Một Chuyến Đi đến những cuộc ăn chơi, cô đầu hát xướng trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Ngọn Đèn Dầu Lạc. . có khi ông xưng tôi, có khi ẩn dưới một vài nhân vật nào như Nguyễn, Bạch. .
Trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn Tuân làm sống lại những ngày ăn chơi sa đọa của ông bên người bạn Thông Phu bất hạnh. Trong Một Chuyến Đi tả một chuyến viễn du sang Hồng Kông cùng những tâm tình của ông về tình bạn, sự cay đắng của chuyến đi, trong Nguyễn tâm sự của một người chỉ thích làm người lữ khách, Tùy Bút I, II. . thể hiện những ký sự, tâm tư của tác giả trước thời cuộc và ngoại cảnh.

4-Mâu Thuẫn.
Văn chương và con người của Nguyễn Tuân có nhiều điểm mâu thuẫn trái ngược nhau. Nhiều tùy bút truyện ngắn rất thanh cao, tao nhã thể hiện một thế giới tinh thần huy hoàng rực rỡ và cũng trong nhiều tùy bút, ký sự, ông đã tả chân kỹ lưỡng những cuộc ăn chơi trụy lạc ở chốn lầu xanh, cô đầu, thuốc phiện.
Trong Vang Bóng Một Thời Nguyễn Tuân làm sống lại cả một nền văn minh tinh thần thanh cao huy hoàng đầy những phong, hoa, tuyết, nguyệt. Những nghệ thuật, nếp sống xa xưa, tao nhã được diễn tả như một niềm hối tiếc của một tâm hồn hoài cổ. Trong bài Hương Cuội, ông dựng lại một thế giới đầy hương thơm ngào ngạt của hương lan, kẹo đá y như phong vị nên thơ của thi ca đời Đường. Nguyễn Tuân tả tỉ mỉ cái thú chơi hoa trồng hoa của cụ tú Kép, thuậtù làm đá kẹo, cảnh nhắm rượu thưởng xuân khiến cho ta có cảm tưởng ngậm ngùi tiếc nhớ cho những cái hay, cái đẹp của một nền văn minh tinh thần nay đã vang bóng một thời.
“Thế rồi trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mờ, và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá vàng trong đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quí. Gọi là kiếm một công việc nhàn nhã cho quãng chót một kiếp dư sinh”
Bài Chén Trà Trong Sương Sớm diễn tả một nghệ thuật “nhẩm xà” thật là cầu kỳ công phu y như trà đạo ở tận xứ Phù Tang.
“Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhậân thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý”
Lại còn một nghệ thuật cầu kỳ chưa từng nghe ai nói tới: hốt từng giọt nước trên những chiếc lá sen thơ mộng để đủ pha một ấm trà thơm ngon.
“-Cả ạ, thầy cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trên lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi.Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm. Hồi thầy còn ít tuổi, mỗi lúc được quan đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thầy cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thầy học yêu như con”
Trong Những Chiếc Ấm Đất, Nguyễn Tuân kể chuyện một người uống trà sành điệu, say mê cái thú ấy đến độ khánh tận cả gia tài sự nghiệp, Ngôi Mả Cũ ông ca ngợi tinh thần hy sinh cao cả của một người chị không xuất giá ở nhà dệt vải nuôi em ăn học, ông đã làm sống lại những cái hay cái đẹp của một thời nho giáo nay đã suy tàn, trong Thu Muộn ông mô tả kỹ lưỡng cái thú chơi đèn kéo quân dựa trên điển xưa tích cũ.
Phu Nhân Họ Bồ, truyện tình yêu lãng mạn duy nhất của Nguyễn Tuân, một mối tình lý tưởng cao thượng, tác giả đã yêu một bà phu nhân bằng mối tình câm một chiều, thanh cao.
“Tình yêu của tôi là một thứ tình chỉ có một chiều, có buông ra rất nhiều mà chưa nghĩ tới sự được trả lại lấy mảy may. Đấy là một thứ tình chìm hẳn xuống, lẩn hẳn cả vào trong”
Cao thượng hơn nữa, tác giả lại không bao giờ nghĩ đến chuyện chinh phục phu nhân.
“Đối với Bồ phu nhân, chưa bao giờ tôi nghĩ đến chuyện chinh phục. Tôi chỉ tưởng vọng tới sự cầu thân của tâm tưởng thôi”
Một tình yêu cao thượng hơn cả những truyện tình lý tưởng trong các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn.
“Vậy là tôi cứ yên lặng mà yêu Bồ phu nhân không cần đến tiếng nói, giấy mực lời thư và những cử chỉ rất quen thường của thế tình”
Nguyễn Tuân nói Bồ phu nhân có một lối đẹp kín đáo nên ông đã yêu bà bằng một mối tình lý tưởng y như trong truyện thần tiên.
Trái ngược với cái thế giới thanh cao trong Phu Nhân Họ Bồ , Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân cũng đã cho người đọc thấy những cuộc ăn chơi trụy lạc, sa đọa của mình trong Ngọn Đèn Dầu Lạc, Tàn Đèn Dầu Lạc, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Một Chuyến Đi. . .
Trong Tàn Đèn Dầu lạc, Ngọn Đèn Dầu Lạc, ông diễn tả chi tiết những cái xấu xa bệ rạc của cái thế giới nghiện, một quãng đời bệ rạc của mình bên nàng tiên nâu, có lẽ không phải để khoe khoang cái kinh nhiệm ăn chơi sa đọa của mình mà chỉ là một ký sự diễn tả ghi nhận một cách khách quan. Trong Tàn Đèn dầu Lạc, bằng những chi tiết chua chát, hiện thực, tác giả cho thấy cái xấu xa, nhớp nhúa của chốn ăn chơi như sau.
“Ông Ba Quynh quên nói rằng cầu thang hôi thối quá, ướt át quá nữa. Vì ban nãy, lúc tôi vội vã lên, tôi đã dẫm phải một viên gạch long đường vôi miết, nước phọt vào thấu háng và đẫm cả đũng quần và cái ông máng gạch ở phía trên cửa cầu thang, đã vỡ rỉ mấy giọt nước đặc vào đầu tôi.Tôi sờ tay lên đầu, dí tay vào mũi, có mùi thum thủm như nước gạo và nhầy nhầy như mỡ chậu nước rửa bát mùa đông tháng giá”
Tác giả cũng cho thấy cái sức hấp dẫn ghê gớm của nàng tiên nâu, cái xấu xa hèn mạt và bệ rạc của thuốc phiện cùng cảnh nghiện ngập cũng như những con người bệ rạc bê tha khi sa ngã vào vòng tay của Ả Phù Dung.
Trong Ngọn Đèn dầu Lạc, thế giới nghiện được diễn tả kỹ lưỡng hơn, mở đầu Vua Tiệm Băng Hà là cảnh đám ma của một ông chủ tiệm, một ông vua thuốc phiện, một thế giới nghiện, từ người chết đến kẻ đi đưa toàn là dân nghiện. Trong Bài Bữa Thuốc Hồng Phiến Ngoài Quê Hương, Nguyễn Tuân mô tả một tiệm hút tập thể tại nơi xứ người, xấu xa bệ rạc, ồn ào, sô bồ dơ bẩn, ở giường trên khạc đờm nhổ xuống giường dưới.
“Vì bọn trên này cựa nhiều quá, đánh rơi mấy con rệp qua kẽ sàn và lọt xuống bàn đèn dưới. Và khi lẩy bẩy, mấy ông già quá bữa tay đâm ra bắt chuồn chuồn, đã rót nước không đúng vào chén tống làm lênh láng cả mặt sàn và thẩm lậu xuống mặt những người nằm dưới”
Tàn Đèn Dầu Lạc, Ngọn Đèn Dầu Lạc đã cho ta thấy những kinh nghiệm, từøng trải của Nguyễn Tuân trong thế giới thuốc phiện, một thế giới bệ rạc độc hại, xấu xa nhơ nhớp, thế giới cặn bã của xã hội, cộng đồng.
Ỡ bài Duyên Bèo trong Một Chuyến Đi, Nguyễn Tuân khai ra hết những ngày ăn chơi trụy lạc của mình trong chuyến đi Hồng Kông đóng phim Cánh Đồng Ma, rồi một đêm lạnh lẽo đến nhà chứa ăn nằm với một cô gái Tầu, người đẹp ra về có để cho ông một tấm danh thiếp với cái tên Duyên Bèo. Tác giả đã tự khai ra những ngày sa đọa của mình chốn lầu hồng, ông muốn tỏ ra người từng trải ăn chơi để về nước kể lại cho bạn bè nghe chuyện về đàn bà xứ lạ.
Trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn Tuân tự thuật lại những ngày ăn chơi bên những xóm cô đầu, hết nhà này đến nhà khác. Ông nói cuộc đời ăn chơi lêu lổng của mình bắt đầu từ lúc ông bạn vong niên Thông Phu cho ông cái lư đồng mắt cua, đi tù về ông lại lao đầu vào những cuôc ăn chơi hưởng thụ, rồi gặp người bạn hành lạc lại rủ rê vào đường ăn chơi.
Tháng giêng về nhà ăn tết với gia đình, tháng hai trở ra Hà Nội quyết lập lại cuộc đời, thề không vào nhà hát cô đầu, tình cờ gặp lại Xuyến, cô đào hát người tình cũ thế là lại dăm bẩy ngày xuống nhà Xuyến.
Tác giả tự cho mình là kẻ chơi bời nghịch ngợm và Chiếc Lư Đồng Mắt Cua được coi như tập tùy bút về những ngày ăn chơi phóng túng cùng với tâm trạng chán chường. Nguyễn Tuân lấy chiếc lư đồng mắt cua làm cái mốc thời gian cho những ngày ăn chơi sa đọa, từ ngày ông Thông Phu cho chàng cái vật kỷ niệm ấy. Truyện đã cho thấy một quãng đời ăn chơi lêu lổng của ông với tâm tư chán chường thất vọng.
Người đọc đôi lúc ngạc nhiên khi thấy ở một số tùy bút, truyện ngắn rất thanh tao, trang nhã làm sống lại một nền văn minh tinh thần rực rỡ nhưng đến một số bài tùy bút hoặc những truyện khác lại thấy hiện ra cả một thế giới ăn chơi sa đọa ở những chốn lầu hồng, tiệm thuốc phiện, nhà hát cô đầu, những cảnh xấu xa trụy lạc khiến ta có cảm tưởng ở NguyễnTuân có hai con người: một thanh cao và một ô trọc.

5-Hướng Thiện.
Qua nhiều tác phẩm Ngọn Đèn Dầu Lạ, Nguyễn, Một Chuyến Đi, Chiếc Lư Đồng mắt Cua, Quê Hương. . Nguyễn Tuân lại tỏ ra người có tinh thần hướng thiện, ông đã tự nhận mình là người vô tích sự của gia đình, nhiều khi ông dừng bước lãng du để quay về với mái ấm, với cụ thân sinh, vợ hiền, con thơ. . khi ấy ông cũng nhìn nhận cái suy đồi của những ngày ăn chơi sa đoạ.
Trong Ngọn Đèn Dầu Lạc, sau những ngày mệt mỏi bên mâm bàn đèn thuốc phiện, NguyễnTuân thú thực những cái tai hại của nàng tiên nâu đã đem đến cho mình, tác giả nhận thấy những cái độc hại, muốn thoát ly nó và đã xuống một tờ ly hôn với thuốc phiện, ông đã xám hối, ý thức được cái sa đoạ của nó và có ý hướng thiện quay về cuộc đời lành mạnh.
“Nếu ở cái xã hội đầy tội lỗi của chúng mình, có những tên tử tù còn muốn vượt ngục, còn muốn chọc thủng cái lưới canh phòng chặt chẽ, thì tôi, một dân nghiện chân chính, tôi đêm nay, cũng có cái tư tưởng muốn thoát ly thuốc phiện”
Tác giả không ca ngợi cái thú ăn chơi hưởng lạc như một nhà phê bình trong nước đã kết án, ông cho thấy thuốc phiện độc hại như thế nào:
“Bỏ thầy chính là hắn rồi đấy đằng ấy ạ”
Ông đã cho nó là thuốc độc, tập ký sự cho thấy cái thế giới sa đọa xấu xa, độc hại mà bọn thực dân có tình duy trì. Ông kết án thuốc phiện là phá hoại nhân phẩm, gia đình, xã hội, với tinh thần hướng thiện Nguyễn Tuân lên án nó là thuốc độc. Trong bài Cái Ca Vát Đen, tác giả mở tủ nhìn lô ca vát đâm chán cái đời truy hoan, lô ca vát là dấu vết của cuộc đời ăn chơi đã qua nay chỉ để lại những chán chường vô tả.
“Nguyễn chán lắm rồi, không thể chán được hơn thế này nữa. Chàng đã mất hết cả tin tưởng trong cái lối sống riêng biệt mà trước kia chàng cho là mầu nhiệm kỳ thú lắm.
Ra cái hạnh phúc con người ta không thể đặt lên truy hoan được”
Thấm thía cái chán chường của cuộc đời ăn chơi hoang đàng lêu lổng, Nguyễn đã lấy cái ca vát đen kết thúc cái cuộc đời tội lỗi ấy, có người hỏi chàng để tang ai, Nguyễn đáp “ Cháu để tang cháu đấy ạ”. Trong Một Người Cha Về Ăn Tết, anh chàng Nguyễn về nhà ăn Tết trong lòng ân hận vì chẳng đem được cái gì về nhà, tự thấy mình ích kỷ quá không xứng đáng với thầy mẹ, vợ hiền con trẻ, vì chàng nghĩ đến mình nhiều quá, quên hẳn cả những người xung quanh gần nhất.
Trong Lửa Trại, Nguyễn trở về nhà với hạnh phúc gia đình sau một cuộc đời ăn chơi chán chường, muốn đem nửa đời tội lỗi của mình đánh đổi lấy một đêm đốt lửa. Một Người Cha Về Ăn Tết, Lửa Trại cho thấy tâm trạng một chàng Nguyễn lương thiện giã từ cuộc đời ăn chơi tội lỗi, quay về mái ấm gia đình và tìm thấy hạnh phúc bên ánh lửa hồng, mặc dù ông diễn tả tô điểm cuộc đời ăn chơi phóng đãng nhưng chung cục nhân vật chính của ông, cũng chính là tác giả đã quay về với hạnh phúc gia đình.
Trong Một Chuyến Đi, trên con tầu trở về Hải Phòng một đêm mưa, Nguyễn Tuân tưởng nhớ đến ông cụ thân sinh trong những đêm mưa phùn đã sai đốt lò hương trầm để cụ đánh đàn, ngâm thơ, trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, gần một năm làm thư ký cho một sở tư, Nguyễn Tuân không đem về nhà một đồng nào mà đem vào chốn cô đầu, thuốc phiện ăn chơi hết, mua sắm những cái cười của những cô đào, có nhiều đoạn cho thấy ông đã xám hối cái tội lỗi xấu xa của mình. Nguyễn Tuân đã nằm liên miên ở nhà ông Thông Phu mấy tháng nào rượu chè, thuốc phiện, cô đầu công nợ, trở về nhà thấy vợ con, tác giả cho mình là một người thừa trong gia đình, ông đã cảm thấy nổi lên trong lòng một nỗi ê chề tủi hổ.
Nguyễn Tuân can đảm thú nhận tất cả những cái xấu xa nhất như đã đánh lừa ông cụ thân sinh lấy nửa hòm rượu sâm banh đem đi vui chơivới chúng bạn tại các xóm cô đầu, ở Chiếc Lư Đồng Mắt Cua từ chán chường đưa tới ân hận và tác phẩm cũng đã để lộ cho thấy có lúc ông nghĩ đến gia đình và tự cho mình là người lỗi đạo.
Khi ông Thông Phu trở bệnh ngặt nghèo, Nguyễn Tuân đi mời bác sĩ Tây về chích thuốc để khoe khoang hàng xóm, vợ con ốm đau ở nhà trước đây chẳng bao giờ ông đi lo thuốc men cho họ. Một hôm cô đào Ngàn đi sắm đồ về quê cho gia đình, Bạch, một hình ảnh của Nguyễn Tuân hối hận có ý muốn lập lại cuộc đời, phải nói ông là người hướng thiện, đã nhận ra những cái xấu xa của cuộc đời ăn chơi cô đầu thuốc phiện và muốn quay trở lại. Lối sống giang hồ vô trách nhiệm đến một lúc nào bắt ông phải ân hận để quay về mái ấm gia đình với những người thân thích để lập lại cuộc đời vì đã ăn tiêu hoang phí nhiều rồi.
Bạch cảm thấy mình thiếu lòng trắc ẩn với vợ con, thấy rõ sự vô nhân đạo của mình, chàng xấu hổ chỉ muốn chuộc lại tội lỗi của mình, Bạch cũng như Nguyễn đã ăn năn hối cải tội lỗi hoang đàng hư hỏng của mình. Phần cuối truyện, Nguyễn Tuân tỏ ra hối hận cách cư xử với gia đình vợ con, cụ thân sinh. Có lúc ông muốn nói đã xấu hổ với lương tâm, muốn chuộc lại tội lỗi bằng những lời vui vẻ giữa hoàn cảnh gia đình.

6-Đi Trước Thời Đại.
Trong Nguyễn có đoạn.
“Một người bạn đồng nghiệp có địa vị ngồi một chiếu cạp điều riêng trải ở giữa làng văn, lúc đọc sách chàng đã phải đeo đến hai cặp kính tuổi chồng lên nhau mới nhìn thấy mặt chữ, đã nói kháy tác giả, một lúc tan một buổi họp thảo luận dự án về thể lệ Hội nhà văn.
-Tác phẩm của tiên sinh quả là đi trước thời đại, e những người đồng thời của tiên sinh không theo ngay cho kịp được, nên kìm cái đà của mình lại thì có hơn”
Đoạn văn trên có thể là phản ảnh những ý kiến của bạn bè, những người đương thời của Nguyễn Tuân về sự sáng tạo của ông. Nhưng trên thực tế văn chương của Nguyễn Tuân có thể coi là đi trước thời đại.
-Về hình thức, tùy bút là một thể văn hoàn toàn mới so với những năm đầu thập niên 40, ngoài ông và Thạch Lam ra chưa có ai viết tùy bút đề cao cái tôi và cuộc đời mình, trong Nguyễn.
“Nguyễn đã dùng một cuốn sách in để tỏ rõ cả tính mình, cuốn sách đã đánh dấu sự chàng có mặt ở cuộc sống này – một cuộc sống đầy bất mãn và uất kết của người trong cuộâc, phản lại nỗi lèm nhèm, lẹt đẹt, lờ mờ, luộm thuộm và bằng lòng của tất cả chung quanh”
Thể tùy bút ấy để phản lại cuộc đời hiện tại, diễn tả những tâm tình, cái tôi của mình, những quãng đời ăn chơi lêu lổng, những tâm sự chua chát, chán chường .
-Về nội dung, ca ngợi viễn du, phiêu lãng . . để phản ứng lại cái tủn mủn, lèm nhèm của cuộc đời, Nguyễn Tuân đã đem vào văn chương Việt Nam những ý tưởng, lối sống hoàn toàn mới lạ:
– Thoát ly khỏi cái tủn mủn, lèm nhèm của cuộc đời hiện tại.
– Lối nhìn khinh bạc, ngạo mạn chỉ ông mới co.ù
– Lối sống mới, lãng du có thể coi đó là những ý tưởng đi trước thời đại.
– Ông là người nói về cái tôi nhiều nhất và đối với thời đại ấy, hồi thập niên 40, đem chuyện riêng của đời mình ra viết thành truyện, ký sự, tùy bút một cách công nhiên chỉ có Nguyễn Tuân mới làm đươc.
– Lối văn biểu tượng: Trong Cái Ca Vát Đen (Nguyễn), ông đã lấy những chiếc ca vát làm biểu tượng cho cuộc đời ăn chơi hoang đàng của mình, lại còn lấy đó làm hình ảnh của những cung nữ bị bỏ rơi trong cung cấm. Và rồi Nguyễn chán chường cái cuộc đời ăn chơi vô vị, chàng lấy ca vát đen để tang chính mình, để kết thúc cuộc đời ăn chơi ấy. Trong Chiếc Áo Gấm Mượn (Nguyễn), một anh chàng đã có sáu đứa con được mời đi phù rể, mặc một cái áo gấm mượn của nhà trai thấy lòng vui lây cái hạnh phúc của người khác, cái vui ké ấy cũng là một giấc mơ bằng vàng diệp. Lấy cái ca vát đen để tiêu biểu cho sự kết thúc cuộc đời ăn chơi phù phiếm và chiếc áo gấm mượn biểu hiện cho chút hạnh phúc mượn ké của người khác, Nguyễn Tuân đã xử dụng một lối viết biểu tượng sâu sắc đi trước thời đại.
Trong Phu Nhân Họ Bồ, một mối tình thanh cao, thầm lặng, lý tưởng, cao thượng. . một tình yêu chỉ có buông ra mà không mảy may nghĩ đến sự trả lại, không bao giờ nghĩ đến sự chinh phục người yêu. Một tấn bi kịch thanh cao, trong sáng và một sự thú tội đã ăn lường gạt tình cảm của vợ chồng người bạn. Tùy bút cho thấy văn chương của ông đi trước thời đại rất xa, cho tới nay cũng còn là mới lạ, một vết thương lòng day dứt của Nguyễn Tuân được thể hiện trong một truyện tình kỳ ảo như truyện thần tiên ở một nước non xa lạ.
Chính Nguyễn, người đại diện cho tác giả cũng đã tự nhận văn chương của mình đi trước thời đại khi chàng trả lời ông bạn đồng nghiệp.
“Nguyễn cũng biết ông bạn già có ý nói mát mình: ăn miếng phải trả miếng, chàng cũng tạm mượn luôn một câu của một danh sĩ kia mà kính đáp.
-Thưa túc hạ, bỉ nhân cũng ngờ rằng độc giả của bỉ nhân chỉ rải rác ở tận tương lai thôi. Những lời túc hạ chỉ giáo bộc này xin cám ơn lắm.
Thế rồi bất chấp những lời chỉ giáo ấy Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh. Đời nó ngu thế, không bướng bỉnh thì sao có được? Chàng đã thành thực trong cái bướng bỉnh, thành thực cho đến sống sượng cho đến phũ phàng: sự thành thực tàn bạo ấy đã làm cho người chung quanh lấy làm tương tức và từ chàng”
So với Tự Lực văn đoàn và các tác giả thời tiền chiến, văn chương của Nguyễn Tuân đã đạt được một bước tiến dài.

7- Bi Kịch.
Nguyễn Tuân ít sáng tác về Bi Kịch, ta chỉ thấy trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua và một thoáng trong Phu Nhân Họ Bồ, theo chúng tôi biết Chiếc Lư Đồng Mắt Cua không phải chỉ để diễn tả cuộc đời ăn chơi phóng túng sa đọa, nhưng chủ đề chính lại là cái bể khổ mênh mông của đời người giống như Thạch Lam trong Gió Đầu Mùa thể hiện những tấm thảm kịch của đời người.
Tả một bệnh nhân nằm liệt giường liệt chiếu như ông thông phu, sống mòn mỏi chờ chết, Nguyễn Tuân viết.
“Ở đây là một sự chết mòn, ở đây là một cái mồ sống”
Nhiều đoạn trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua cho thấy văn chương của ông tả chân hiện thực có phần còn ghê rợn hơn cả ở Thạch Lam.
“Những buổi phải chui vào trong cái màn khai ẩm nửa cuốn nửa buông đó, cầm cái mũi tiêm sắt soạn bữa a phiến hàng ngày cho con bệnh chờ chếùt kia, tôi muốn rỏ một giọt nước mắt vô ích để tiếc cho ông Thông Phu và để thương rộng ra đến tất cả những cuộc đời phóng lãng khác lúc lâm vào cảnh ốm liệt, bệnh giữ riệt ở một chỗ tối tăm làm nó trì chiết và gây buồn phiền cho mình đến thế là cùng.
Ông trời chơi nhiều miếng khăm mà thật vậy! Mỗi được dịp chứng kiến là mình mỗi thêm khiếp sợ”
Phần cuối truyện, Nguyễn Tuân sang một bi kịch khác: Bảo, một nhà văn, nhà báo, tính tình phóng khoáng. Hường, bạn gái chàng là cô đào hát có danh phận sau thành vợ lẽ, bị lao, không có thầy thuốc nào chữa được, sau có một thầy lang mách cho cách lấy máu dê sống, tác giả mô tả tỉ mỉ cách Bảo mua con dê đực, chọc tiết cổ, cắm ống cao su vào rồi đưa cho Hường uống ừng ực thật ghê rợn, bệnh vẫn không hết sau cùng nàng chết trên giường bệnh.
Trong Phu Nhân Họ Bồ, Nguyễn Tuân kể lại mối tình u uẩn của chính ông với một phu nhân họ Bồ, một mối tình câm, lý tưởng và bi thảm, một vết thương lòng day dứt của ông, mối tình u uất bị dồn nén, một tấn bi kịch lãng mạn trong cuộc đời tình cảm của tác giả.
“Phu nhân họ Bồ mất. Tôi đã phải phụ ông bà M nhiều hơn là lúc phu nhân còn sống, vì có đến lại nữa, chỉ càng phiền khổ thêm cho tôi là một kẻ đã chót phải lồng một ít dĩ vãng vào khung cảnh ấy. Bây giờ tôi tưởng có trở lại nhà ông bà M thì mỗi lần chỉ càng là một lần đi tảo mộ”
Đó là một truyện tình buồn, nhẹ nhàng cho thấy Nguyễn Tuân cũng có chú trọng tới khía cạnh bi kịch của tình yêu, của đời người.

8-Giá Trị.
Toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Tuân từ 1940 đến 1945 gồm Vang Bóng Một Thời, Một Chuyến Đi, Ngọn Đèn dầu Lạc, Tàn Đèn Dầu lạc, Quê Hương, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Tùy Bút I, Tùy Bút II, Nguyễn, Chùa Đàn. Nói về phương diện nghệ thuật của ông, chúng ta thấy có một số tác phẩm vượt trội lên như Vang Bóng Một Thời, Phu Nhân Họ Bồ, Chùa Đàn, Cái Ca Vát Đen, Chiếc Áo Gấm Mựơn. . Một số khác sáng sủa có giá trị về văn chương như Một Chuyến Đi, Ngọn Đèn Dầu Lạc, Tùy Bút II. . nhưng cũng có nhiều tác phẩm rườm rà nhạt nhẽo như Quê Hương, Nguyễn, Tùy Bút I. . giá trị nghệ thuật trong sự nghiệp văn chương Nguyễn Tuân không được đồng đều như ta thấy ở Khái Hưng , Nhất Linh, Thạch Lam, có thể nói khi bất cập, khi lại thái quá.
Nguyễn Tuân là một nhà văn chủ quan, công khai đem cuộc đời tư của mình viết thành nghệ thuật, văn nghiệp của ông hầu hết là tùy bút, là cái tôi, cuôc đời riêng tư của ông được diễn tả một cách ngang nhiên bằng một giọng văn khinh bạc.
Một số tác phẩm chứng tỏ nghệ thuật của ông độc đáo, tuyệt diệu vượt trội hẳn các tác giả đương thời khác như Vang Bóng Một Thời, một tập truyện làm sống lại cả một thời cổ xưa, một nền văn minh tinh thần rực rỡ với những tư liệu, những nghệ thuật cầu kỳ. . mà không ai có thể dựng lên được như ông. Phải nói nghệ thuật của tác giả có những nét độc đáo ít ai sánh kịp như Phu Nhân Họ Bồ, một mối tình kỳ ảo mà hầu như không thấy ai có thể thực hiện được sự u uẩn, lãng mạn như Nguyễn Tuân, lối văn biểu tượng như Cái Ca Vát Đen, Chiếc Áo Gấm Mượn tượng trưng cho sự kết thúc cuộc đời ăn chơi và một thứ hạnh phúc vay mượn cho thấy văn chương Nguyễn Tuân có những nét độc đáo ít ai sánh kịp, một cây viết chỉ lấy những chuyện riêng tư, tâm tình cá nhân của mình để dựng lên những tác phẩm hay như Phu Nhân Họ Bồ, Chiếc Áo Gấm Mượn, Tựa Am Sông Tô. . nhưng lại thành công vẻ vang thì phải nói là trường hợp hy hữu. Chùa Đàn truyện quái đản cuối cùng của Nguyễn Tuân, một tác phẩm đã được các nhà phê bình coi là đạt tới tột đỉnh nghệ thuật cho thấy ông cũng là một thiên tài trong thể loại ma quái.
Nhưng vì ông đã tham lam đưa quá nhiều chi tiết vào văn chương khiến cho nhiều tác phẩm có khi lộn xộn, rườm rà làm ta tưởng như ông đã hết đề tài, cạn nguồn cảm hứng .

Phan Xuân Sinh
Dấu xưa
cái thuở ta còn làm tên lính trận
ôm ba lô ngồi mơ mộng một mình
cái thuở em còn tay ôm cặp sách
buồn vu vơ che dấu những thư tình

ngày ấy bên cầu ta thường đứng đợi
tà áo bay che khuất một khung trời
ta lượn vòng đuổi theo em mệt nhọc
mà em vẫn còn xa tít mù khơi

trong binh lửa ta chẳng hề nao núng
coi gươm đao như một khoảng trời không
bỗng nhiên gặp em chân ta quỵ xuống
đôi mắt em chọc thủng trái tim hồng

ta mang vết thương làm người si dại
những tình thư ta viết thật điên cuồng
em đón nhận nhưng lòng đầy bất định
để thư tình trôi theo những ngả sông

em vẫn lọc lừa như tay phù thủy
ta ngu ngơ như một đứa chân tu
cạm bẫy bủa giăng làm sao tránh được
sa chân vào rớt xuống chốn âm u

ta ngụp lặn bởi bể tình lầy lội
em đứng nhìn thỏa mãn thú tiêu dao
trò chơi ấy cũng đến hồi kết cuộc
em vụt bay xa chẳng biết nơi nào

mấy năm rồi ngồi đây nhớ lại
em của một thời lộng lẫy kiêu sa
vết thương cũ đã bao lần nhức nhối
đã bao lần thổn thức trái tim ta

những mùa xuân qua chưa về quê cũ
thăm chiếc cầu một thuở đứng chờ em
tiếng guốc còn khua trên đường vắng?
dòng sông xưa, nước còn chảy êm đềm?

chút tình cho Huế
là buổi sớm mai em vừa thức dậy
chim hót trong vườn. nắng rớt ngoài sân
là những lúc mưa dầm dề tháng chạp
trước ngõ nhà em, ta bước ngại ngần

Huế rộn rã tiếng guốc khua đường phố
nón che đầu e ấp buổi tan trường
em sợ ai mà bước đi vội vã
để má hồng còn đọng chút nắng vương

ta chết điếng một thời, em Thượng Tứ
bởi nụ cười, môi mỏng gái thâm cung
bởi lòng em thay từng hồi, từng chặp
mà sao ta vẫn nhớ Huế vô cùng

em nắng sớm mưa chiều mấy bận
lòng ta đau tím ruột bầm gan
chưa nhấm rượu, cũng say bí tử
mắt mờ. Ðưa con sáo sang ngang

Huế của ta ơi. Bao lần sóng gió
vẫn hiên ngang sừng sững bóng hoàng thành
em bây giờ còn đi ngang xẻ dọc?
Huế bây giờ còn đượm nét đài trang?

Dư Thị Diễm Buồn
Tình yêu trả lại trăng sao
Chúng mình quen giữa mùa xuân nắng ấm
Sau tháng ngày rét mưới tuyết mưa bay
Chim chuyền cành trên cây xanh lá thắm
Hoa khoe màu tươi đẹp dưới nắng mai

Anh đem đến cho tôi tình yêu cuối!
Tôi vô tư chân thật nhận tình đầu
Mùa hè sang chói chang ươm nắng mới
Khuôn viên trường thường hò hẹn với nhau

Đêm dần buông, trăng tỏa ngời ánh ngọc
Mặt nước hồ sóng sánh bóng trăng soi
Đường sỏi đá nối liền khu Đại học
Hàng cây bên đường, nhân chứng lứa đôi

Chim ca hót chúc tình đầu nồng thắm
Gió thì thào, mưa lách tách rơi mau
Ở bên anh, tôi nghe lòng mình ấm
Niềm thương yêu, ôi chan chứa dạc dào

Anh hẹn thề có trăng sao, có gió
Hai đứa cùng bàn tính chuyện ngày sau
Hè qua mau, lá vàng rơi khắp ngõ
Mưa giăng giăng, mây tím phủ trời cao

Giáng Sinh đến, phố phường đầy hoa tuyết
Cây thông xanh rực rỡ ánh đèn màu
Đường thưa vắng, chợ đông người sắm Tết
Buốt giá lạnh lùng mình vẫn có nhau

Chuông đinh đon vọng rền lời truyền giáo
Không gian huyền dịu lấp lánh muôn sao
Trong yêu thương tôi quên mình ngoại đạo
Tha thiết, thành tâm dưới Chúa nguyện cầu

Gió rét lạnh lùng đóng băng hồ, suối!
Tôi thẩn thờ lặng ngắm tuyết bay mau
Cảm ơn anh đã đem cho tình cuối!
Lời hẹn thề xin trả lại trăng sao.

Nay xa rồi! Phải chăng mình không nợ?
Ôm nỗi sầu khóc tình lỡ thương đau!
Trong tim tôi tròn đời ghi câu nói
“Tình yêu đầu, nhớ mãi đến ngàn sau…”

Lãm Thúy
Những giấc mơ
Mơ thấy ta về nhà cũ
Thuở còn vách lá đơn sơ
Ta còn sống đời lam lũ
Với đàn em dại ngây thơ

Nhà bên dòng sông quê ngoại
Bâng khuâng bìm bịp kêu chiều
Nước lớn, sông đầy, cuộn chảy
Đôi bờ lau lách đìu hiu…

Ở đó, cuộc đời bình lặng
Trắng quê soi cảnh cơ hàn
Biết bao nhọc nhằn, cay đắng
Tháng năm túng thiếu, nợ nần…

Cha còn soi chim, bẫy cá
Mẹ còn áo rách vá vai
Quết chuối, nuôi heo vất vả
Đói no sớm tối sum vầy

Mà đời hồn nhiên vui sống
Ngoại còn tưới đám trầu xanh
Ta còn bao nhiêu ước vọng
Vươn lên cuộc sống trong lành

Mơ thấy ta về nhà cũ
Vườn hoang, cỏ dại lan đầy
Thuở ấy, mới về lại xứ
Chị em cơ cực lưới chài

Mơ thấy con còn thơ dại
Cha tù tội chốn xa xăm
Mẹ con về nương náu ngoại
Tuổi thơ vất vả, gian nan

Mơ thấy trong căn chái cũ
Con kê tay mẹ gối đầu
Lạnh lùng những đêm gió hú
Cận kề, hơi ấm chia nhau

Mơ thấy ta về Vàm Xáng
Cha ta tóc bạc thân gầy
Mẹ ta cô đơn, bệnh hoạn
Tóc tang đè nặng hai vai.

Ở đó bên sông quê nội
Nhà cao, cửa rộng mà buồn!
Mẹ cha già nua, yếu đuối
Đàn con lưu lạc tha phuơng!

Ngoại ta đã về thiên cổ,
Con ta tro bụi lâu rồi
Mơ thấy sông chiều lộng gió
Tuyệt nhiên không hiện bóng người!

Có đứa em ta thương nhớ
Cũng về ngủ giấc nghìn thu
Mơ thấy ta về thăm mộ
Vườn chiều ướt sũng cơn mưa

Ở đây, bên trời lưu lạc
Mơ thuở nào chưa tang thương
Người chưa tử vong, mất mát
Ta còn sớm nắng, chiều suơng

Cứ sợ một ngày nào đó
Mẹ cha khuất núi, qua đời
Cuộc sống còn buồn hơn nữa
Lấy gì chuộc được ngày vui?

Cuộc sống tha hương buồn quá
Muốn về bắt ốc, hái rau
Thà vui với đời thôn dã
Còn hơn xa xứ ngậm sầu !

Nghe lòng rã rời đau xót
Đời cứ bớt mãi niềm vui
Còn đâu tháng ngày dịu ngọt
Bên nhau rộn tiếng vui cười?

Cứ về theo nhau lũ lượt
Mà đời như là mơ sao?
Những người thân yêu thuở trước
Hồn giờ tan tác về đâu?

YÊN SƠN
Những nhánh rong xanh
trên dòng sông tuổi thơ
Buổi sáng, khi mặt trời chưa thức dậy, hắn đã ở ngoài vườn, tỉa cành tưới nước, vuốt ve những cụm hoa đang khoe sắc. Mấy chậu hoa sứ nở ngào ngạt hương. Hương hoa sứ thơm dịu dàng như một thiếu nữ trang đài đứng trên lầu mộng. Hắn lượm mấy nụ hoa mới rụng dưới cội đưa lên mũi hít thở nhẹ nhàng. Mùi thơm dịu ngọt cho hắn một cảm giác thật dễ chịu và lấy làm tiếc là nó không giữ được lâu như những loại hoa khác. Hắn bỗng mỉm cười nghĩ tới câu “hồng nhan bạc mệnh”! Hương hoa sứ thanh khiết nhưng mong manh như một người con gái trang đài xinh đẹp.
Hôm nay đã là ngày thứ Sáu trong tuần! Hắn có cảm tưởng như hắn chỉ vừa chào ai đó trong ngày thứ Sáu… một hai hôm trước! Thứ Sáu đâu mà rộn rịp thế nhỉ? Thứ Sáu đại diện cho một tuần lễ sắp hết mà càng lúc thấy nó tới nhanh hơn mình tưởng! Tâm lý con người cũng vẫn quanh quẩn như vòng trầm luân của đời sống, như bánh xe nước ở mấy chặng sông Trà, sông Vệ năm xưa: con nít vô tư, hồn nhiên mong chóng lớn, người lớn sợ thời gian, người già thích trở lại cái thuở hồn nhiên vô tư lự! Nghĩ tới cái thời “vô tư lự” lòng hắn bồi hồi chạnh nhớ những kỷ niệm xưa dù có nhiều vết tích cũng đã lờ mờ sương khói.
Nhà hắn bên bờ xe nước sông Vệ, nơi hắn thường bơi lội với lũ bạn sau những buổi tan trường. Học mới lớp một, lớp hai mà hắn đã “bơi lội như rái” – theo lời kể của Mẹ hắn mỗi lần cùng Mẹ ôn lại chuyện xưa. Dưới chân bờ xe nước thường có nhiều tôm càng, cua xanh và cá bống mú. Cá bống sông Trà, sông Vệ mà kho rim tiêu, ăn với cơm nóng thì tuyệt cú mèo. Dòng sông này đã cho hắn khá nhiều kỷ niệm thuở thiếu thời. Một lần vô ý bị cua kẹp dưới đáy nước, hắn hét tướng lên làm nước tràn vô miệng, uống cành hông, từ dưới đáy ngoi được lên mặt nước tưởng như thời gian ngưng lại, may mà không bị chết đuối! Cũng dòng sông này đã cướp mất của hắn một người cô yêu quý! Đó là dịp kỵ giỗ hàng năm của đại gia đình bên Nội. Cô hắn cũng còn rất trẻ, thích bơi lội, biết anh em hắn bơi giỏi nên mỗi lần về là rủ đi tắm sông. Sự tin tưởng của cô đã bị phản bội khi dòng nước nhận chìm cô vì chân cô bị vọp bẻ, và anh em hắn cũng suýt chết đuối theo bà cô giã từ cuộc đời đầy bi lụy! Cũng dòng sông này anh em hắn đã từng nhặt những trứng vịt rơi rải rác nằm sâu dưới dòng nước, trên mặt cát mỗi buổi sáng khi những đàn vịt nuôi, hàng ngàn con được lùa qua; hay những đêm trăng thanh gió mát mang chiếu ra trải trên bải cát trắng phau, nghe người lớn hò đối đáp rồi cùng ngủ qua đêm với các anh chị hàng xóm. Hắn cũng nhớ Mùa Vu Lan năm nào đó rất xa trong ký ức, giọng ca cao vút của một chị huynh trưởng, trong đoàn Phật tử, hát trong đêm văn nghệ trên khán đài lộ thiên nằm trên mặt cát trắng bên dòng sông Vệ. Hắn nhớ hoài giọng hát và gương mặt đó với bài hát Mục Kiền Liên… Đìu hiu gió bóng chiều rơi theo lá thu, có đàn chim bay vấn vơ, chuông chùa xa đưa huyền mơ! Mục Kiền Liên đứng nhìn cảnh đêm dần lan, nhớ Mẹ xót xa tâm hồn, bóng Mẹ biết bây giờ đâu… Không biết là vì vóc dáng của chị đoàn trưởng, hay là vì ánh sáng huyền hoặc của đêm trăng rằm hôm đó mà từng lời ca, từng dáng điệu in hằn lên tâm khảm hắn như một tỳ vết dễ yêu mỗi khi nghĩ đến, nhớ về! Dòng sông này cũng còn một kỷ niệm nguyên xi những lần hướng dẫn gia đình chạy nấp máy bay oanh kích của giặc Pháp, hoặc các trận đụng độ giữa Việt Minh và Pháp trước ngày đất nước chia đôi, trong các hầm cát bên bờ sông gần nhà hắn mà phía trên của hầm cát là những cụm xương rồng và cây lưỡng long tua tủa gai nhọn. Những hầm cát này đã được lũ trẻ con hàng xóm, bạn bè của anh em hắn cùng đào móc chơi đùa với nhau sau những giờ tan học, hoặc để tránh những cơn nắng hạ khắc nghiệt một thời. Dòng sông này cũng là nguồn thực phẩm nuôi sống cho anh em hắn và biết bao nhiêu gia đình ở hai bên ven sông…
Khi Ba Mẹ hắn quyết định đưa đàn con đi tìm vùng đất hứa ở miền Nam trong chiến dịch khẩn hoang lập ấp anh em hắn đã bỏ ra mấy ngày, ngồi hàng giờ nơi chốn ấy để thì thầm những lời ly biệt, để gửi lại những tiếc nuối khôn nguôi! Cái quyết định rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, xa lìa gốc gác, mồ mả tổ tiên đã bao đời gầy dựng để xuôi Nam “vì tương lai con cháu” của Ba hắn là một biến cố trọng đại cho gia đình và giòng họ. Cái quyết định đã gây sững sờ không những cho giòng họ mà còn cho cả xóm làng. Ba hắn đã thuyết phục một số bà con và những bạn bè thân cận cùng “đi lập nghiệp” ở một nơi chốn chỉ biết qua giấy tờ và lời thuyết phục từ các cấp chính quyền. Người ta xầm xì, bàn qua tán lại cho là “đi về chốn rừng thiêng nước độc” khiến một số gia đình thay đổi ý định, kẻ ở người đi! Cho tới lúc này, ngồi đây viết những dòng này, hắn cũng cảm nhận cái quyết định của Ba hắn thời đó là một quyết định “dữ dội”, là một sự can đảm phi thường, là một sự liều lĩnh có tính toán! Hắn chợt nhớ nghĩ đến người cha thân yêu, hắn càng cảm phục sự nhìn xa thấy rộng của Người, cái quyết tâm dũng cảm của Người, và càng biết ơn Người!
Nói đến thời kỳ khẩn hoang lập ấp, hắn nhớ ngay đến hai dãy nhà tiền chế nằm hai bên con lộ đất đỏ mù trời duy nhất được ủi vội để chào đón những gia đình mới tới! Lúc đoàn xe vận tải nối đuôi đổ người xuống, sau mấy ngày di chuyển vô cùng vất vả trên đoạn đường dài từ miền Trung mịt mù xa lơ xa lắc, hắn không biết là khoảng thời khắc nào, chỉ nhớ mặt trời đã nằm sâu dưới những tàng cây đầy kỳ bí mà chung quanh là núi rừng dày đặc hoang vu! Có tiếng khóc bất an của một vài người đàn bà và em nhỏ hòa cùng tiếng côn trùng và chim muôn kêu rả rích tạo nên những khúc nhạc thê lương ảm đạm! Những gốc cây trơ trụi còn sót lại chỏi lên khắp nơi, những đống cây khô khổng lồ được xe ủi gom vào từng hàng dài càng làm cho cảnh vật thêm phần u tịch! Hắn nhớ như in vẻ mặt chịu đựng của Mẹ hắn, dấu vội đi những giọt nước mắt lăn dài khi vừa đẩy cửa bước vào một trong hai căn nhà dành cho gia đình hắn. Căn nhà khá rộng nhưng mái lợp bằng tranh, vách ngăn bằng lá. Mẹ nghẹn ngào nói với đàn con “các con ráng chịu khổ một thời gian, chắc chắn mình sẽ được chính phủ giúp đỡ để tạo dựng một đời sống ổn định hơn cho tương lai của các con”! Hắn nhớ quá thời gian tân khổ nơi này… những cánh đồng hoang vu mênh mông mầu mỡ, những khu rừng bát ngát vô tận, những rừng mai bạt ngàn mỗi khi xuân về tết đến. Những hồ ao, đồng lầy đầy ắp cua cá, con sông La Ngà lặng lờ chứa đựng dư thừa thủy sản… rồi những ruộng lúa mênh mông, những rẫy bắp, nương đậu xanh mướt một màu, rộng bao la cũng theo thời gian cùng với sức người hiên hữu khắp nơi. Rừng rậm và thú dữ càng ngày càng bị đẩy xa, xa tận tầm nhìn… Đặc biệt mỗi khi lên mùa nào đậu, nào bắp, nào lúa tràn ngập khắp nhà từ trước tới sau, từ trong ra ngoài, vun tràn từng đống lớn. Thế mới thấy cái quyết định của Ba hắn là đúng đắn chứ không như những ngày đầu đầy ân hận! Tuy nhiên, hắn vẫn thấy khổ ơi là khổ cho những nhà nông! Trong thâm tâm hắn đã có ý nghĩ “một ngày nào đó mình sẽ lìa xa”… Nhớ ơi là nhớ Cánh đồng lớn, khu rừng Mai, con sông La Ngà, ngọn Đồi Bảo Đại với những hàng cây vú sữa rợp bóng dọc theo con đường trôn ốc từ dưới lên tận đồi cao nhưng nay đã không còn chủ…

Hắn chợt nhớ ngày đầu tiên khai trương khu trường Trung Học Công Lập đệ nhất cấp Võ Đắt. Anh em hắn là một thành phần trong loạt học sinh Trung học đầu tiên vào học trường này. Ngày cắt băng khánh thành, anh em hắn được mặc đồng phục toàn trắng, trông rất oai nghiêm đứng hàng giờ dưới trời nắng chang chang để chờ sự xuất hiện của Cụ Ngô ! Mặc bộ đồ đặc biệt này lòng hắn sung sướng xiết bao, hắn thấy như mình lớn hẳn ra, đi đứng trang nghiêm, nói năng chững chạc. Ở nhà, hắn đã phải đứng xoay qua xoay lại “cho Mẹ nhìn ngắm thanh niên của Mẹ một lúc”. Hắn chợt nhớ quá những khuôn mặt thân thương cùng hắn chia sẻ những nỗi vui niềm buồn của một đời học sinh trên cái xứ đất đỏ buồn tênh xa cách thị thành! Nào Tươi, nào Thành, nào Hiền, nào Tư, nào Ánh, nào Thu, nào Hạnh… nay kẻ còn người mất… người phương này kẻ tận mờ xa!
Hình bóng Tươi bỗng nhiên xuất hiện. Tươi là thằng bạn thân nhất từ những ngày khốn khó đầu tiên. Hai đứa cứ quấn quít nhau từ trường về nhà, từ ruộng qua rẫy. Đi đâu, làm gì cũng có hai đứa. Rất lâu năm, hai đứa thường chụm đầu đánh cờ tướng mà bao giờ hắn cũng thua, có may mắn lắm cũng chỉ thí quân theo kiểu lưỡng bại câu thương để thủ huề. Tươi nói “làm sao mầy đánh lại tao được, tao nghĩ trước tới bảy nước cờ”. Hắn nói với Tươi “mầy cũng có đánh lại tao đâu, tướng thư sinh của mầy chỉ cần ba mươi giây là tao cho chổng vó lên trời”! Mỗi lần nghe hắn nói vậy Tươi chỉ cười! Tươi không thích tập võ mặc dầu Ba hắn sẵn sàng dạy võ cho nó. Ba hắn chỉ dạy võ cho mấy anh em trai trong nhà mà thôi, dứt khoát không nhận dạy người ngoài, mà Tươi là trường hợp ngoại lệ, thế mà nó không chịu học mới tức chứ! Cũng vì cái tài đánh cờ của nó mà hắn cũng được hưởng lây khi đi đấu với các người lớn tuổi ở nhiều chỗ khác nhau trong thôn xóm hoặc các làng lân cận. Chiến thắng là những phần quà bánh tình cờ. Vâng, chỉ là những bánh kẹo tầm thường nhưng thời đó, nơi chốn đó đã là một ưu đãi! Bù lại thì hắn cũng giúp bảo vệ cho Tươi những lần gặp những người thua cờ nổi nóng. Mà cái vụ bị nổi nóng, đập bàn cờ, hoàn đi hoàn lại, cãi tới cãi lui luôn là chuyện thường tình!
Sau khi học xong lớp Đệ Tứ, Tươi với hắn tạm chia xa, vì hoàn cảnh gia đình đặc biệt nên Tươi không cùng lên tỉnh thành với hắn và một số bạn học cùng lớp, mặc dù Tươi học rất khá. Tươi ở lại với ruộng vườn cho đến năm 17 tuổi thì tình nguyện gia nhập Địa Phương Quân. Hắn không nhớ rõ Tươi làm chức vụ gì nhưng lâu lâu lại đưa lính đi huấn luyện ở tỉnh lỵ Bình Tuy. Có một lần, trong dịp nghỉ hè, hắn về thăm gia đình thì gặp lúc Tươi phải đưa lính đi. Tươi chạy chọt cách nào không biết mà hắn được cùng Tươi đi máy bay về tỉnh cùng với mấy chục người lính mới. Phải nói đó là lần đi phi cơ đầu tiên trong đời nên hắn rất vui và hồi hộp lẫn hãnh diện. Sau khi làm xong công vụ, hai đứa tới ở trọ nhà anh Cát, một người bạn vong niên trong lính của Tươi. Buổi tối hôm đó là một đêm trăng tỏ, anh Cát rủ hai đứa mang đầy đủ mùng mền chiếu gối, lò nướng, cần câu… đi câu và ngủ trên biển! Hắn nghe hấp dẫn quá chịu liền. Thế là ba anh em tất bật chuẩn bị cho chuyến đi chơi đêm trên thuyền và trên biển. Anh Cát không quên ghé một tiệm tạp hóa mua theo mấy lít rượu trắng. Đêm hôm đó là một đêm nhớ đời. Câu được con nào nướng con đó trên lò than hồng, gió mát trăng thanh, chén anh chén chú cụng suốt, xỉn hồi nào không hay. Khi thức dậy vào buổi sáng vẫn thấy con thuyền lênh đênh, loanh quanh trong vùng vịnh cách bờ khá xa mà Tươi và anh Cát vẫn đang ngủ ngáy tưng bừng! Ở Bình Tuy có một vùng biển rất đặc biệt. Từ bờ ngó ra Hòn Bà xa xa là một vùng rộng lớn nhưng rất an toàn vì dòng nước chỉ chảy vòng vòng bên trong vịnh, quanh năm sóng yên gió lặng. Phải nói chuyến đi này là một kỷ niệm khó quên. Lòng hắn vẫn luôn bồi hồi xao xuyến mỗi khi nghĩ về chuyện này!
Hắn lại nhớ Thanh, đứa con gái 16 tuổi như nụ hoa quỳnh vừa chớm nở, hương sắc dịu dàng. Hắn quen Thanh trong những sinh hoạt của gia đình phật tử tại địa phương. Tuổi thiếu niên thuở ấy rất hồn nhiên, trong sáng. Mà người lớn dường như không ai để tâm phân biệt nữ nam như bây giờ. Có một lần cắm trại tại khuôn viên chùa, cả nam lẫn nữ cùng cho ngủ chung trong một “căn lều cộng đồng”, nằm như xếp cá mòi. Cả nam lẫn nữ theo lệnh Thầy được nằm chung với nhau, chỉ cần quay đầu ngược lại nhau. Hắn và Thanh nằm ở giữa. Lúc chưa ngủ hai bên vẫn nghịch ngợm đạp chân nhau, nói cười vô tư lự đi vào giấc ngủ. Lúc gần sáng, khi tiếng chuông mõ khai kinh làm hắn giật mình tỉnh giấc, hắn mới phát giác ra cô bé đang ôm hắn ngủ ngon lành! Đứa con gái 16 tuổi đã trổ mã dậy thì như một đóa hoa xuân phơi phới đang gác tay gác chân lên người hắn! Tự nhiên cả người nổi gai lạnh với cảm giác nhột nhạt khắp châu thân. Hắn cảm thấy nhịp tim loạn xạ, thở hít khó khăn vì hương tóc nồng nàn quyện với mùi thịt da con gái làm hắn ngất ngây ngây ngất, nửa muốn gở ra, nửa muốn ôm chằm. Đầu óc phấn đấu kịch liệt cố nghĩ tới những điều trong sáng. Hắn tự nói cho hắn biết là mình đang ở chùa, là một phật tử thuần thành, là phải tôn nghiêm giới luật! Hắn lẩm nhẩm lặp đi lặp lại năm điều tâm nguyện của người thanh niên Phật tử: “Phật tử quy y Phật Pháp Tăng và giữ giới đã phát nguyện; Phật tử mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống; Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật; Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm; Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo”! Hắn băn khoăn tự hỏi không biết Thanh vô tình hay cố ý, và càng lúc càng run hơn! Có lẽ sự run rẩy của hắn và tiếng chuông mõ công phu cũng đã làm cho Thanh thức giấc! Hắn thấy Thanh tự động buông ra và xoay người về hướng khác! Hắn thở phào như trút được gánh nặng dù sự nuối tiếc vẫn lâng lâng. Hắn nhanh lẹ ngồi bật dậy, ra ngoài sân chạy một vòng chùa để cố quên và dấu sự bẽn lẽn!
Mặc dù sau đó cố tránh mặt nhau một thời gian – có thể là tại vì đã có tình ý, và cũng muốn tránh cho nhau những cảm giác ngượng ngùng – nhưng tình cảm của hai người ngày càng thân thiết hơn. Tới một ngày kia, trong buổi sinh hoạt tuần lễ cuối cùng, hắn thông báo với đoàn là sắp đi học xa, Thanh mới tìm cách nói cho hắn biết là chiều hôm sau sẽ để phong thư trên đầu cây chuối thứ tư trên con đường chạy xe đạp nối liền hai xóm nhà. Sáng hôm sau hắn kín đáo leo lên cành mít cao, lén viết thư tình rồi nôn nao chờ đợi buổi chiều để trao đổi. Buổi chiều đang ngồi trước sân ngó mong ra ngõ, hắn thấy Thanh chạy xe đạp ngang qua mà không hề ngó vào như mọi lần. Chờ cho Thanh đi khuất một lúc sau, hắn lấy xe đạp chạy qua con đường nhỏ. Hắn tới cây chuối thứ tư, ngó trước ngó sau mới dò tìm phong thư ẩn dấu. Phần thì hồi hộp, phần lo có người đi qua, tim hắn đánh như trống làng mà tìm mãi vẫn không thấy thư đâu cả. Hắn trở lại đầu đường và đếm số lại, nhưng vẫn không tìm thấy thư của Thanh. Đang ngẩn ngơ, bối rối hắn mới kịp nghĩ hay là cây chuối thứ tư đếm từ bên kia sang? Quả đúng như thế, phong thư được gói ghém rất cẩn thận để phía trong bẹ chuối khuất tầm nhìn. Hắn để thư hắn vào thế chỗ rồi đạp xe ngang nhà Thanh. Thấy Thanh đứng trước hiên nhà, hắn nhẹ gật đầu và quay mặt về phía sau ý nói có thư chỗ đó. Thế là nguyên tuần lễ còn lại, ngày nào cũng lặp đi lặp lại bài bản cũ cho đến ngày hắn khăn gói lên xe đò đi về Long Khánh trọ học. Lúc xe lăn bánh hắn mới thấy bàn tay Thanh kín đáo vẫy chào!
Nhớ về những ngày trọ học ở Long Khánh thì không thể không nhớ một cuối tuần cùng Tư và Thành rủ nhau chạy xe đạp về Võ Đắt. Đoạn đường hơn ba mươi cây số với đồi giốc chập chùng, rừng cây cao rậm, cọp beo không thiếu… với chiếc xe đạp “typical one speed” thời đó nặng chình chịch… thế mà ba đứa quyết định “thử” một chuyến ra sao! Hôm đó trời mưa lất phất, ba đứa đang hân hoan đổ giốc sau khi cặp giò tê tái vượt lên một con giốc dài. Đang ngon trớn bỗng cả bọn xanh mặt, thắng gấp, dùng cả gót giày ép vào bánh xe vì phía trước không xa có một con voi to cao dềnh dàng đứng chắn lối đi. Theo kinh nghiệm người đi rừng dạy lại, ba đứa từ tốn dẫn xe vừa run vừa đi lùi lên đầu giốc… chờ một thời gian khá lâu cho con voi đi khỏi mới ngó trước ngó sau, phóng nước đại qua truông. Nói tới Long Khánh không thể không nhớ những vườn cà phê, sầu riêng, chôm chôm sai trái của mấy người bạn học bản xứ. Nhớ nửa trái sầu riêng con bé nhà hàng xóm khép nép để ở góc bàn học rồi chạy biến về nhà vào một buổi trưa khi hắn đang ngồi ôn luyện bài thi. Nhớ gia đình anh chị Ngữ đã cho ăn cơm tháng suốt mấy năm dài. Nhớ những lần đi biệt tăm cả tuần không dám đụng tới bát đũa vì sợ thịt chó! Hắn đã học được cái tính “không nên giận ai quá 15 phút” của anh Ngữ. Nhớ anh chị với nụ cười nhân hậu, tấm lòng bao dung luôn luôn khuyến khích hắn trong việc học hành! Nhớ những mũi kim thêu hai con chim yến bay song song trên vùng núi nhỏ ở góc chiếc khăn “mouchoir” trắng mà cô em gái của thằng bạn học chung lớp thẹn thùng gửi tặng khi hắn từ biệt về học Saigon. Cũng vì sự tích này mới nảy sanh ra một bút hiệu mà theo thời gian mất đi dấu sắc (vì có người phê bình chữ “Yến” nghe yếu xìu)! Nhớ tới hãng kem đậu xanh ngon tuyệt vời ở đầu ngõ nhà trọ là nơi lũ học trò xa nhà tụ tập sau những buổi cơm chiều. Nhớ giọng rao hàng của ông Tàu già bán bánh bò bánh tiêu mỗi xế trưa qua xóm, nhớ tiếng gõ lóc cóc hằng đêm của xe bán hủ tíu dạo bên đường của một ông Tàu khác mà hắn vẫn nghĩ chưa có đâu ngon bằng… nhớ ơi là nhớ!
Ôi những kỷ niệm vẫn bám theo hắn cả đời, thật gần nhưng cũng thật xa, xa tít mù trong tiềm thức! Có phải không khi nhìn bóng chiều rơi người ta thường nhớ về những bình minh có muôn sắc muôn mầu, tiếc những giọt sương long lanh trên đầu cánh lá?! Câu tiếng Pháp trong bài Triết học hồi còn lớp 12 làm cho hắn nhớ hoài: “chúng ta không bao giờ có được tâm hồn của buổi chiều hôm nay” (nous n’aurons jamais plus l’âme de ce soir), có thể rất đúng nhưng sao mỗi khi chạnh nhớ về những ngày thơ ấu lòng hắn cũng bâng khuâng rung động, cũng xao xuyến bồi hồi! Tai vẫn như nghe tiếng kẻo kẹt của bờ xe nước, mắt vẫn mơ màng thấy lũ con nít đứng trên bờ cao nhảy tùm xuống dòng sông tuổi nhỏ, mũi vẫn thoang thoảng mùi hương thơm của lúa chín, mùi rạ nặc nồng cuối mùa gặt…

HẢI PHƯƠNG
Con sóng vỗ cuồng điên
đau luống biển
Vịnh em
biển sóng nhọn
bứng rễ khu rừng nguyên khai bật gốc
ta dứng trơ trọi
khản lời gió
trôi lữ hành đêm
biệt dạng.

Vịnh em
ghềnh đá vỡ vụn
con sóng trào lên cuộn
dưới chân hành trang hư không
ta biệt tích
đêm phục chế bầu trời ý niệm
ngân nga giọt xanh
xa lắng.

Vịnh em
nắng cổ tích chứa chan
mưa quê nhà vời vợi
rỏ hồn ta giọt máu thầm
như nỗi hy vọng tuyệt vọng
còn luân lưu
chẳng nỡ tận tiệt.

Vịnh em
bố cục buổi chiều lặng câm tím
con hải âu táo tác
tìm lại đường bay hôm qua
nền trời xám lạnh vỗ cánh
ta hòa âm cuộc hành trình cô độc
trên tang trống hoàng hôn lục điệp
phố khuya vỗ nhẹ
vỗ nhẹ (bước chân quen đôi guốc mộc.)

Vịnh em
thơ mọc từ vòm nhánh
chân trời thả xuống
vòng cánh tay mê lộ tròn êm ái
lấp lánh tinh cầu em
tìm về
đôi khi cõi lòng riêng rất lạ.

Vịnh em
sao khi ta về
cõi lòng riêng rất lạ
sao khi ta đi
ở nơi dòng sông không ngừng lại
Con Sóng Vỗ Cuồng Điên Đau Luống Biển

Từ cung lễ hội mùa xuân
…femme, l’atelier des êtres humains.

Khi ở khách sạn lộ thiên lá cây đơm đầy nhánh môi hôn
nhón nhẹ khẽ khàng bước chân kiễng lên lên nhịp rung
tiếng thì thào của gió đầy ắp nội dung mật ong tình yêu xôn xao tử cung lễ hội mùa xuân
cơn động kinh sớm tàng trữ rạng đông ẩn hình
tháng giêng xanh cánh đồng cỏ khởi đầu trú ngụ
trang điểm ngụ ngôn biển và bí tích em bát độ ngân rực rỡ.

Em hãy mở ra
mở ra tất cả
các cửa sổ của ngôi nhà hữu thể (chúng ta)
treo những linh hồn và những nụ cười tươi rói (trên các cửa sổ)
chào mừng tử cung lễ hội mùa xuân của mẹ.

Em hãy treo vòng ngà thời con gái lên cổ
mọc lá ngữ điệu sơ sinh trí nhớ
hãy ngợi ca người nữ thống trị bầu trời(làm mưa làm nắng)
hãy mở bung âm thanh của sự lặng thinh lầm lì mặt đất nơi chúng ta trú ngụ
hãy gióng nhịp thủy triều kinh kỳ biển sóng vỗ
chào mừng tử cung lễ hội mùa xuân của mẹ.

Khi ở khách sạn lộ thiên rừng hưng phấn thao thaó độ lượng hằng tỷ năm cô đơn đá tảng chứa đựng thứ ngôn ngữ lóng lánh như thạch ngọc kết tụ êm ái dành riêng cho thơ
ca tụng nhan sắc và mùa xuân tử cung lễ hội.

Em hãy ra khỏi
ra khỏi khách sạn lộ thiên
ra khỏi tức thì chỗ ẩn trú hoang vu thinh không tịch lặng
hãy đập vỡ trái tim mộ đá
hãy tươi rói phơi phới môi em gió lên
chào đón lễ hội mùa xuân tử cung của em và mẹ.

Khi ở khách sạn lộ thiên biển nổi lửa cháy bừng (trong nước có lửa) mạn thuyền và những dòng sông xa nguồn lâu ngày được quyền thưởng thức nỗi nhớ nhung thon mềm như con sóng nhỏ vỗ nhẹ vào bờ cát lao xao thân ái hỏi han những điều đã nói nhiều nhưng chưa nói hết chưa kịp giãi bày chưa lần cung nhã trước cung diễm nguy nga giữa cung đình tình ái và mùa xuân tử cung lễ hội.

Em hãy hát phúc âm
thứ phúc âm của loài người khổ đau hoạn nạn biệt xứ lao lung lưu đầy trọn kiếp
hãy xua đuổi những hao hụt quạnh quẽ và những điêu tàn long lanh
bởi vì không mấy khi loài người được ân sủng
em hãy ra biển ngóng
đợi những con tầu vội vã trở về bến cảng
nhìn những con hải âu xao xác bay quanh nhịp cánh gọi nhau mừng rỡ.

Em hãy mưa
như mưa dầm dề đêm qua
và hãy lũ lụt tràn bờ những con sông cạn nước
và hãy hội tụ những nhánh sông rộng
chảy mênh mang một dòng ra biển lớn
bởi vì giống nòi ta tội tình chia năm xẻ bẩy xuống biển lên rừng lang thang lứ thứ
bởi vì nhiều khi chúng ta giấu biệt nhau những cơn mưa nhiệt đới môi em mong đợi kiếm tìm rực rã.

Em hãy gieo trồng
bởi vì mùa màng thường hay thất bát
chúng ta (anh và em) bội thu những mùa gặt hư vô
em hãy ươm mầm
bởi vì thế kỷ ta người nữ toan tính trụy thai tuyệt sản.

Em hãy gom góp lại
tất cả cỏ rác
bởi vì đời rất hào phóng nhìn ta như cỏ rác
nên ta yêu đời cỏ rác ở trong thơ.

Em hãy nắng
sợi nắng dài đa cảm lung linh trên ngực trần độ lượng
và hãy là những con đường
để ta rút ngắn dặm trường rong ruổi lưu đầy biệt xứ
và sự trở về của mặt trời sơ khai ửng hồng hoa trái.

Khi ở khách sạn lộ thiên thời tiết em dự báo động đất
và nôn nao chuyện nắng mưa ngày ấy.

Em hãy treo linh hồn các nữ sinh và những nụ cười rạng rỡ lên các cửa sổ lớp học giờ triết vỡ lòng của mái nhà hữu thể bằng tất cả thứ ngôn ngữ nồng nàn tình ái và những trái tim hiền lành như cục đất biết thổn thức trong giây phút cơ may anh em gặp gỡ.

Và em hãy sơ sinh
như ta mãi sơ sinh trong Tử Cung Lễ Hội Mùa Xuân Của Mẹ.

Diễm Nghi
Nhớ Huế
Huế ơi! mấy độ thu rơi
Bây chừ ray rứt bên trời luyến thương
Bao năm cách biệt đôi đường
Từng trang ký ức hằn vương nỗi lòng

Hỏi chừ Huế có còn không?
Nội Thành ngày nớ rêu phong phủ mờ
Ngự Bình buồn đứng trơ vơ
Sông Hương nước chảy lặng lờ đêm thâu

Thuyền xuôi ngược bến Vân Lâu
Sương rơi Thiên Mụ giăng sầu bơ vơ
Tịnh Tâm sen nở, Xuân chờ
Thiên An gió thổi xác xơ lá vàng

Ngự Viên du khách ghé ngang
Giở trang hoài cổ mơ màng nét xưa
Còn đâu lối cũ chiều mưa
Ngại ngùng sánh bước ai đưa ai về

Chạnh lòng nhớ kẻ bên tê
Mông lung khắc khoải vọng về Huế mơ
Trầm tư dưới ánh nguyệt mờ
Hồn say lạc giữa đôi bờ tịch liêu.

Sầu tương tư
Trời trong gió mát trăng thanh
Hoa xuân khoe sắc trên cành ngát hương
Cỏ non ươm đọng màu sương
Ngồi đây mà ngỡ lòng tương tư sầu

Không gian xa cách mãi nhau
Ai đem thương nhớ nhuộm màu thời gian
Xanh xao ngày tháng võ vàng
Chơi vơi hồn khẽ buông ngàn tiếng tơ

Hẳn rằng đâu phải ảo mơ
Lời thơ xao xuyến lạc bờ mê say
Một đời tri kỷ có hay
Ngộ duyên tiền định an bày hẳn sao

Trăm năm lòng mãi thanh tao
Tình xa biết có lao đao hỡi tình!
Thương cành hoa nhỏ trắng xinh
Bùi ngùi ngẫm lại phận mình xót xa

Trăng tà mây tản thướt tha
Chuông chùa buông nhẹ ngân nga vọng về

U tịch
Hoàng hôn khuất bóng sau rặng núi
Gió thoảng đìu hiu cuối trời mây
Chim tìm tổ ấm kêu ngơ ngác
Rừng chiều xơ xác lá rơi bay

Xa xa vượn hú bên trời
Thông già yên đứng sương rơi phủ cành
Sầu dâng cao vút non xanh
Quê cha đất tổ đoạn đành ly tan!

Trần Yên Thảo
Sợi khói ngang mặt
Quên tao rồi sao Định. Đâu. Tao đâu quên, mày về đó hả Tư. Ừ, tao về mày lạ lắm sao. Tao tưởng không còn gặp mày nữa. Tao cũng tưởng vậy đó. Mày đi lính nhảy dù rồi hả, hồi nào vậy. Lâu rồi mày. Ngon không. Biết đâu được, mày muốn thì thử đi, tao đã rồi. Chạy đâu khỏi, tao lấy căn cước rồi mà. Ông già mày chết rồi hả Định. Ừ, ổng bị thổ tả hôm trong năm. Còn bà già tao cũng đau luôn, thấy nhà cửa tao rầu quá mày. Kệ, thời buổi như vầy chạy đâu khỏi khổ. Mày về đằng nhà chưa Tư. Chưa, mày thấy anh tao còn giận tao hết. Giận mẹ gì nữa, hai năm mấy rồi. Ờ, coi vậy mà lâu ghê Định há. Thằng Tư trở về thật bất ngờ. Tôi tưởng nó sẽ không bao giờ về cái đất này nữa. Dù là những con đường vô số cay nghiệt rào đón vây bủa. Những chốn khỉ ho cò gáy. Những nơi chó ăn đá gà ăn muối. Những ngày tháng lê lết của một đời sống phủi lủm. Dù là những con đường trơn tru im phẳng. Những cánh tay vẫy mời đón ân cần. Những ngả rẽ tưng bừng hào nhoáng. Những đời sống phủ phê cơm áo rượu thịt. Nó sẽ không bao giờ quay mặt ngó lại cái đất này nữa. Xứ sở của nó, Những con đường nhỏ tối tăm khuất khúc lem luốc bụi than. Những con phố buồn rầu lẻ tẻ. Những bữa cơm hất hủi ê chề. Những mơ ước trôi xuôi tuồn tuột như dòng nước chảy trên mặt nghiêng của mái nhà. Những cặp mắt thao láo. Những nét mặt lầm lủi quen thuộc. Xứ sở của nó. Con sông chảy qua mặt ngang bờ chợ. Một cây cầu gỗ và những bến cá thưa thớt. Xứ sở của nó. Bên kia sông là biển và khu rừng lau khô. Mỗi lần về khuya những cơn bấc dậy muộn quét rát rạt vào thị trấn, buồn và rét. Nhưng nó đã về. Nó đi vênh vang thù hận. Nó về lầm lủi e dè. Khung cảnh đâu đó vẫn như vậy. Đời sống ngược xuôi vẫn như vậy. Nó đi vơ quét tom góp. Nó về trống rỗng xuội lơ. Những con đường khuất khúc vẫn tối tăm lem luốc. Những bữa cơm đèn lửa hẩm hiu. Nó đi hâm he thách đố. Nó về mệt mỏi bơ phờ. Những ngày tháng vẫn cào cấu chụp giựt. Những miếng đất cằn cỗi không có chỗ chen chân. Nó đi sừng sộ vung vãi. Nó về tiu nghỉu chán chường. Nó bước vào từ con đường đá lốc chốc, rực nắng mù bụi. Cái dáng gầy đen cử động hơi lờ đờ chậm chạp, mang thêm một bộ đồ nhảy dù, đôi giày cao cổ và một vết sẹo dài cắt ngang khoảnh trán đen nhờn lấm tấm mồ hôi. Nó đứng lại. Cúi nhìn sàn đất ẩm, nhìn tôi, nhìn căn nhà hơi tối bằng hai con mắt lừ đừ rồi ngồi xuống ở một góc đi-văng, tì lưng vào phía vách có cửa sổ nói quên tao rồi sao Định. Bên ngoài nắng buổi sáng hừng hực. Những chiếc xe lam chở đầy nhóc than chạy qua, đổ dồn về phía bến cá. Bụi quấy lên mù mịt đen đặc che khuất dẫy nhà bên kia đường, mập mờ những khung cửa vuông đen và những mái lá chum hum. Con đường hẹp xuyên vào ruột khu xóm lá lè tè khuất khúc, mùa mưa thì lầy lội, mùa nắng thì bụi mù. Thằng Tư vẫn ngồi yên đó, gạt đầu điếu thuốc trên thành cửa sổ, một ít tro rớt lả tả xuống mặt đi-văng trầy trụa. Những đốm tro bị gió cuốn tản mác, vỡ vụn rồi sà xuống mặt đất ẩm. Thằng Tư hỏi mày còn đi biển không Định. Còn, không đi rồi sống bằng gì. Mấy mùa lưới sẩm rồi đở không. Đói rát ruột, toàn những chiều lưới khô, cái đất gì không ngóc đầu nổi. Cái số vậy đó, chạy đâu bây giờ. Nắng rọi xuống những mái lá không đều nhau đẩy những khung bóng mát so le nằm dài trên mặt lộ. Thằng Tư cởi áo máng trên thành chiếc ghế gỗ, nó lấy ngón tay vuốt những lớp bợn đen sì trên cổ áo rồi trở lại ngồi ở góc đi-văng. Gió ngoài cửa sổ thổi vào, tôi vói tay mở thêm một cánh cửa, căn nhà hơi mát và sáng lên. Thằng Tư rít hơi thuốc dài rồi ném tàn ra cửa sổ. Nó há họng lim dim cặp mắt, khói bay ra từng cụm nhỏ ngập ngừng ở các kẽ răng. Bộ mặt nó lúc này trông êm đềm thanh thản một cách mơ hồ. Con Thơm có chồng chưa Định. Chưa, dạo này nó hỏi thăm mày luôn, sao mày không gởi thư cho nó. Gởi làm mẹ gì, tao đâu có định về nữa. Thằng Tư nói xong câu đó vít người ngồi thẳng lên thành cửa sổ. Cái lưng của nó trám gần kín khung cửa làm căn nhà hơi tối lại. Má con Thơm còn chửi tao hết Định. Không biết nữa, hôm giáp Tết con Thơm gặp tao nó cũng hỏi mày, nó nói giờ không biết ảnh sống chết ở đâu. Vậy mà độ này tao thấy nó đi với một thằng Sư Đoàn Mười, buồn không Tư. Buồn mẹ gì, vui mẹ gì đời vậy đó mày. Tôi vói lấy bao thuốc của thằng Tư rút một điếu hút ngồi nhìn ra đường. Chiếc xe nhà binh từ dưới bến cá chạy lên, ôm cua thật ngặt bắn những viên đá dăm rẹt rẹt vào cánh cửa ván. Chiếc xe lao nhanh trong vùng bụi mù của một cơn lốc vừa dậy. Thằng Tư vẫn ngồi nhả khói trên thành cửa sổ, gác mũi giày trên cạnh đi-văng. Nó rung đùi làm lay động tấm màn vải xám chắn ngang sau lưng bàn thờ. Tôi lấy cây nhang châm lên ngọn đèn dầu vặn nhỏ như hạt đậu rồi cắm vào chiếc lư đồng trước mặt chiếc ảnh bán thân của ông già tôi… Thằng Định sau này sẽ giống cha… Tôi đã không mơ ước như vậy. Ông già tôi đẻ ra ở cái xứ này, lớn lên ở cái xứ này, ngót năm mươi năm xác xơ đói rách cùng cực ở cái xứ này với bụi bặm, lầy lội và muối biển rồi chết với những thứ đó. Không dám nghĩ ngợi, không dám tin cậy, không dám ngại ngùng biển khơi. Mùa nắng rát rạt chất muối, mùa mưa thì bão chực hờ. Tôi đã không mơ ước như vậy. Không ai mơ ước như vậy. Thằng Tư bỏ đi vì không mơ ước như vậy. Tôi mơ ước những cái khác. Nó mơ ước những cái khác. Nhưng tôi chịu trận vì những cái khác. Nó bỏ đi vì những cái khác. Nó bưng bít. Nó bất mãn. Nó thù hận. Nó hằn học. Nó xơ xác, nhưng nó đã về. Nó ngồi đó hút thuốc, trên khung cửa sổ mở xuống con đường hẻm và bờ vách ván của căn nhà bên kia. Buổi sáng hừng hực. Nắng gội trên đầu khu xóm lá cực nhọc buồn bã. Nắng len lỏi qua những cành bàng trên nóc nhà rớt lổ đổ xuống bờ vách ván bên kia khung cửa thằng Tư đang ngồi. Những đốm nắng loe hoe chờn vờn trên lớp ván cũ thâm đen vì đã ngấm nước nhiều mùa mưa, loang lổ chập chờn như mặt nước ao tù hơi chao động. Tiếng hò hét xôn xao và tiếng máy bào nước đá đang nổ dưới bến. Thằng Tư thò đầu ra ngoài. Dưới bến đang muối cá gì vậy Định. Lưới lặn. Mày không đi sao. Bà già tao đau bỏ nhà cho ai. Bà đau lâu chưa. Lắt nhắt từ hồi ông già tao mất đến giờ, nhà cửa gì rầu muốn chết. Mùa lưới lặn này bán khá không Định. Muối mặn hết chớ nán mẹ gì. Đường xe bị bên kia cấm lâu rồi. Nó phá hết ba cây cầu nữa. Gặp
máy bay bên mình cũng chết, gặp tụi nó cũng chết đâu ai dám đi. Mày còn nhớ thằng D không Tư, thằng D phật tử đó, nó theo bên kia rồi. Mấy hôm xe đò còn chạy nó chận Rừng lá để nhìn mặt công chức tòa tỉnh. Mấy người đi về thấy nó mang súng lục đứng ra lệnh cho mấy thằng kia. Dưới này hành quân lên bắn hụt nó ba bốn lần đó. Dưới bến vẫn ồn ào. Những chiếc Lambretta chạy lên ngang qua con lộ, một người thò đầu ra hông xe nhổ nước bọt. Thằng Tư nhảy xuống ra đứng ở cửa nhả khói thuốc bay ngược vào nhà, lởn vởn thành những sợi nhỏ rồi tan mất. Thằng Lục hết điên chưa Định. Chết rồi, hồi cuối năm sáu hai nó về Mương Mán chạy ra đồn Bảo an giựt súng lính canh bắn vào đồn chửi Ngô Tổng Thống, bị người ta bắn nó lòi ruột trên dây kẽm gai. Tội nghiệp má nó còn chỉ mình nó đó mày. Thằng Tư trở vào ngồi buồn xo ở góc đi-văng. Mặt nó như đang nghĩ tới một điều gì thật xa xăm. Một điều nó đã mơ ước, một điều mãn đời làm nó thù hận, một điều dù nó muốn quên hay muốn nhớ chắc lâu rồi cũng làm nó thấy thân thuộc. Con đường nào đó đã hơn một lần đi qua trong những năm lang bạt, một con đường thật nhiều đắng xót, thật nhiều rượu ngon, thật nhiều đón mời, thật nhiều hất hủi hoặc chỉ là một hình ảnh làm nó váng vất hơn là ngủ yên. Nó vẫn ngồi cúi gầm xuống, quẹt đầu điếu thuốc vào đế giày rồi dụi tắt luôn. Gió ngoài bờ sông phía sau nhà lùa vào khua rổn rảng trên bức mành sáo làm bằng giấy số kiến thiết chắn ở cửa hậu. Thằng Tư đang nghĩ gì. Nếu thằng Lục có linh hồn nó đang nghĩ gì ở dưới đất. Dưới âm phủ có người có vật, có nhà cửa, có đời sống, có lò nấu dầu và mười hai cửa ngục nó đang làm gì. Một thằng điên chửi Ngô Tổng Thống có bị cưa hai nấu dầu nữa không. Tôi đứng dậy đưa hộp quẹt trả thằng Tư. Nó ngẩng đầu lên đốt thuốc hút nữa. Trời chớm trưa. Phu khiêng cá dưới bến lục tục kéo về nói chuyện rộn ràng ngoài đầu lộ, vác theo đòn khiêng và dây lòi tói. Tiếng máy bào nước đá không còn nổ dưới bến. Tôi nói ở ăn cơm trưa với tao nghe Tư. Thằng Tư đứng dậy uốn mình, thôi để tao về đằng anh tao cái đã. Nó lấy áo mặc nói thôi tao về nghe Định rồi cúi khom người bước qua ngạch cửa nhà ngoài. Nắng đã vào kín hàng hiên.

—o0o—

Tôi nép vào cánh cửa ngoài thềm khi nghe tiếng hai người cãi cọ trong nhà. Tiếng thằng Tư và tiếng anh nó. Mày chửi xỏ ai đó, đồ vô học. Ức thì nói, không chửi ai hết. Anh muốn làm gì làm thử tôi coi. Mày thách tao hả Tư. Ừ tôi thách vậy đó. Anh quý nó hơn tôi, tôi biết mà. Quý mẹ gì. Mày làm bậy binh mày cho người ta cười thúi đầu tao ra hả. Được, anh có giỏi binh thì binh đi. Thằng đó có ngày cũng mất mạng với tôi cho coi. Tôi nói thật đó. Vô học đồ vô học. Nhà thằng Tư ở trong cùng của con hẻm, giữa một xóm lá đông nghẹt, âm u, bi bít, lụp xụp. Đêm đen chụp xuống những hơi thở mịt mùng. Trời tối như mực ngửa bàn tay không thấy. Những túp nhà chung quanh thấp thoáng vài ngọn đèn dầu chập chờn qua các khe lá. Gió hắt mạnh vào hiên. Tôi thu mình lại, nheo mắt nhìn qua kẹt ván. Bên trong được soi bằng ánh sáng lòe nhòe của ngọn đèn Huê kỳ đặt trên bàn. Thằng Tư ở trần ngồi trên đầu chiếc chõng tre kê sát vách giữa hai đống lưới cước cao ngất ngưởng. Anh nó mặc quần đùi, áo thun lá ngồi nơi bàn, trên chiếc đẩu vuông quay mặt qua phía thằng Tư. Một cơn gió nữa trờ tới. Tôi nép khuất hẳn vào kẹt cửa. Anh thằng Tư le lưỡi thấm nước miếng vào điếu thuốc mới vấn rồi đưa lên đèn châm hút. Tao cực như trâu vầy mày có thèm biết đâu. Bộ tôi sướng lắm đây sao. Thì mỗi người phải làm một việc mà sống chứ. Sướng cực mẹ gì, không kham nổi thì chết phức cho rảnh. Để người ngoài đường than cực anh mới biết động lòng mà. Còn tôi cứt đây. Mày chửi xỏ ai đó. Tôi nói vậy đó, không chửi ai hết. Thằng ngổ ngáo bất hiếu như mày mà em tao tao nghĩ tủi quá, mắc cở quá. Chứ anh có muốn tôi em anh đâu. Tôi đồ bỏ tôi biết mà. Tiếng máy bay trực thăng đâu đó chợt nổ ình ình trên bầu trời rồi những bóng đèn đỏ nhấp nháy lia lịa, chiếc trực thăng trờ tới lượn một vòng trên đầu thị trấn trước khi bay thẳng vào ruộng muối. Tiếng động cơ nổ nhỏ, nổ nhỏ chìm dần vào không gian xa, để lòi những tiếng động lẻ tẻ rời rạc vang vọng từ các hóc xóm. Thằng Tư xòe bày tay đập muổi trên lưng nói anh muốn cầm gốc cho nó cướp của tôi, tôi biết mà. Thằng cứ nói ngu, sao lại cướp của mày, nó không có rồi lột da nó sao. Thằng Tư khạc đờm nhổ ra cửa sổ ngu mẹ gì mướn hai lồng lưới nửa năm nay ít sao. Hôm đầu mùa lặn lưới nó toàn khẩm sao nó lánh mặt tôi. Thì cho nó kiếm ăn đã chứ. Nửa năm nay nó sắm mấy lồng như vậy cũng còn được mà. Anh cầm gốc cho nó, anh ôm tôi giữa bãi cho nó đánh mấy cây nạng lên đầu không ai thấy sao. Tôi thì sống để bụng chết mang theo thôi, nói thật đó. Thằng Tư bây giờ mặt hầm hầm, răng nghiến chặt lại, xương quai hàm nổi gồ lên. Hình ảnh ngoài bãi hồi chiều làm nó tức lộn gan, nó đưa tay mân mê sau đầu, chắc chắn cục u vẫn còn nguyên, hiện đau đớn ở đó. Anh thằng Tư vấn điếu thuốc khác đưa lên đèn mồi rồi cầm chiếc quạt nan phe phẩy trước ngực. Những nạm khói đen đặt lởn vởn trước mặt anh ta bị quạt bay tán loạn. Căn nhà chìm trong sự im lặng rất hậm hực. Một manh chiếu trải ngửa dưới sàn đất, con dao và lưới, chiếc bật lửa và những ghim cước nằm lạnh tanh trên đó. Mảnh chiếu trải sát vách gỗ có dán mấy bức liễn vẽ hình Quan Công, Lưu Bị hồi mới kết nghĩa ở vườn đào. Hình vẽ cái bụng Lưu Bị phệ xuống như cái bụng anh thằng Tư lúc ngồi vá lưới. Hồi Lưu Bị kết nghĩa thì người ta chưa biết làm lưới ny-lông và xuồng để đánh cá. Hồi đó chắc Lưu Bị cũng không ôm Quan Công lại cho thiên hạ đánh u đầu. Tôi đứng lùi ra tì đầu gối vào vách cho đỡ mỏi. Gió đẩy cánh cửa gỗ khép lại, hắt vào chỗ tôi đang đứng. Ngoài trời sương đã xuống nhiều. Không gian hình như phả một lớp mù mù đục. Những mép lá khô trên nóc nhà bị gió đánh rèn rẹt cất lên âm thanh rì rào đều đặn, lầm lũi mơ hồ như đời sống ở đây. Gió lùa vào hàng hiên trống trơn, lùa vào tóc vào áo tôi làm căng phồng như cánh buồm bọc gió. Chiếc trực thăng lúc nãy quay trở lại, sà thấp rồi bay thẳng về phía trại Đào Duy Từ. Tôi vẫn đứng yên đó nhìn qua kẽ vách. Thằng Tư trở mình ngồi vào đống lưới xoay mặt vô trong, nó luồn tay xuống chiếu lấy quyển Tiên Hạc Thần Kim nghiêng ra ánh đèn lật lật mấy trang rồi gập lại đặt trở xuống chiếu. Dưới chân nó có hộp Brillantine ba số năm bằng thiết, chiếc hộp nó vẫn dùng đựng thuốc hút đi biển cho khỏi ướt. Hộp Brillantine lâu lắm rồi, đâu hồi lễ Quốc Khánh nó thi nhảy bao bố được thưởng. Lâu quá rồi tôi không nhớ rõ là tháng Mười của năm nào. Hồi tuổi thơ chưa bị phơi khô, chưa bị châm ngòi phát hỏa, chưa tàn rụi tiêu ma như một xóm lá mới qua cơn hỏa hoạn. Cái hồi tay chân mặt mũi trí óc và bộ dạng thật nhởn nhơ, không nghĩ ngợi, không bất bình, không thù hận. Những mơ ước cũng êm ru như chiếc ghe trôi nhẹ nhàng trên mặt sông mùa đứng gió. Lâu lắm rồi. Tôi nhìn hộp Brillantine lăn lóc dưới chân thằng Tư và nhớ tới như đánh thức uể oải một hình bóng nào đó đã xa xăm đã lạnh ngắt đã mơ hồ. Như một nuối tiếc bất chợt dựng đứng tuổi thơ rất mong manh rất gượng gạo rất ngại ngùng giữa cái khô cằn trầy trụa hắt hủi của cuộc sống. Tôi chơ vơ. Tôi lạnh buốt. Tôi bủn rủn mình mẩy. Tôi mỏi rục chân cẳng. Đêm rút xuống thật khuya. Những cơn gió dậy muộn tạt vào chạy dọc theo bờ biển trống hẹp. Trong nhà thằng Tư đằng hắng nho nhỏ trong cổ họng. Bộ dạng của nó rũ xuống, ấm ức một cách ê chề. Không cần ai thương tôi hết. Nói thật đó. Đời này thương yêu cho mấy tôi cũng phải nai cái lưng trùng trục, cũng phải chết xác mới sống được. Anh thằng Tư ngước lên, vặn cái bánh xe điều chỉnh sợi bấc vải cho ngọn đèn tỏ thêm một chút. Cho nhớ nghe Tư. Có gì rồi đừng há họng kêu tao. Sức mấy tôi kêu anh, để người ngoài đường họ kêu anh chớ tôi sức mấy. Thằng vô học, ở đời cứ giữ cái giọng đó người ta cô lập cho chứ được mẹ gì. Nói mày như cắt ruột để qua mà mày có chịu nghe đâu. Đừng lung lạc tôi mất công, không ai lung lạc được tôi nữa đâu. Tôi đã đời rồi. Người ta cô lập vậy mà đỡ mất của. Đồ vô học, không biết phải quấy gì hết, cục cứt còn có đầu có đuôi. Vô học mẹ gì, có học mẹ gì, ai rồi cũng điếm như nhau thôi, sợ có học còn điếm hơn nữa đó. Anh thằng Tư nổi xung đẩy ghế đứng phắt dậy nhìn nó trừng trừng. Chợt không biết nghĩ sao anh ta lặng lẽ ngồi xuống nói mày hỗn vừa thôi Tư. Hỗn gì, hiếp tôi tôi nói không hỗn với ai hết. Ai hiếp mày, ai
hiếp mày, nói nghe thử. Thằng Tư quay nhìn lại chỗ anh nó ngồi. Ai cầm gốc cho nó cướp của tôi. Không phải anh sao. Tôi nói có mặt đèn đó. Anh thằng Tư chắc đã tức ứa gan. Lần này xô ghế đứng dậy thật. Tiếng thở hồng hộc của anh ta làm ngọn đèn chao đảo rồi tắt phụt. Căn nhà đột nhiên tối mò, bàn ghế xô nhau loảng choảng. Bỏ cái giọng đó đi, cây lên đầu bây giờ. Bộ cây chưa lên đầu sao, mấy cục u còn nguyên đây này. Tôi sống để bụng chết mang theo thôi. Thằng vô học, tao dần nát xương mày ra. Tôi thách anh đó. Chiếc đèn dầu rơi choảng xuống nền nhà. Trong bóng tối tiếng chân đuổi nhau thình thịch quanh bàn va lộp cộp vào mấy chiếc ghế ngã. Thằng mất dạy tao cho mày biết thân. Thằng này biết thân lâu rồi, từ ngày ông già bà già mới mất lận mà. Anh thằng Tư lúc này hình như đã đứng lại. Đồ ác báo coi đẹp mặt dữ, không sợ ngoài đường người ta cười thúi đầu. Tiếng thằng Tư bây giờ hình như vọng ra từ một góc nào đó. Cười cũng lâu rồi, người ta cười trong bụng cười trong đầu cười ngoài bãi cười khắp xóm. Đẹp đẽ gì nữa mà giữ. Thật tao như mày chỉ còn bỏ cái xóm này thôi. Tiếc gì nữa mà không bỏ. Tôi dám thề độc với anh đó. Chỉ sợ thằng nào bỏ cái đất này một bước thì đói meo mỏ thôi, tôi khỏi lo. Mày chửi tao đó hả. Anh thằng Tư vừa thét như vậy vừa tông ghế nhảy vào góc nhà chỗ phát ra tiếng nói của thằng Tư. Mày chửi tao hả, để coi tao có trị được mày không. Thằng vô học. Trong bóng tối hai người dằn nhau quần quật ở một góc nhà, những chiếc ghế gỗ va loạng choạng. Đồ bất trị. Cục cứt còn có đầu có đuôi. Tôi còn mấy lồng lưới đó giết tôi cũng còn được mà. Đừng trêu ngươi tao, tao đang ứa gan đây. Trong bóng tối, chiếc bàn bị đẩy xịch qua một bên rồi hình như một người nhẩy phốc ra cửa sau. Đi cho khuất mắt tao, đừng bước vô cái nhà này nữa. Tiếng thằng Tư từ nhà sau vọng lại, tôi lấy hai lồng lưới về tôi đốt rồi đi liền, khỏi đuổi. Trong nhà trở lại im thin thít. Im một cách không ngờ tới. Tôi nghe rõ tiếng thở hổn hển của anh thằng Tư, tiếng chân lê lẹt xẹt dưới đất, chán ngán và mệt mỏi. Tiếng bật lửa mở nắp quẹt xành xạch rồi một ngọn đèn hột vịt được châm lên, qua chỗ ánh sáng nhỏ yếu ớt của nó tôi nhìn thấy lờ mờ những chiếc ghế lăn lốc và khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của anh thằng Tư. Khuôn mặt đờ đẫn nhưng cặp mắt bén ngọt và lãnh đạm, không biết là hằn học, là chán ngán hay ân hận. Đêm đã thật khuya, những khe lá không còn chập chờn ánh đèn dầu. Ngọn điện trên cột gỗ mù mù thấp thoáng ngoài đầu hẻm xa. Phía Rạch Nhum, vài chiếc xuồng nhỏ đang rẽ nước khua mái chèo lục đục trên be gỗ. Khu xóm lá im ngủ trong xác xơ buồn tẻ của cuộc sống. Trong gẫy đổ ly tán của anh em thằng Tư… Đừng lung lạc tôi, không ai lung lạc được tôi nữa đâu… Ở đời cứ giữ cái giọng đó rồi cũng bị cô lập… Cô lập vậy mà đỡ mất của. Và trong mù mịt thâm sâu của đêm tối… Đi đi cho khuất mắt tao… Còn tiếc gì nữa mà ở. Đó là một đêm tối giữa năm sáu mươi, lúc thằng Tư sắp bỏ cái đất này.

—o0o—

Tôi dốc hết chai la-de vào ly, bỏ chiếc vỏ chai xuống chân bàn, thò ngón tay vào quậy quậy, cục nước đá khuất dưới lớp bọt trắng bị khua động chạm lách cách vào thành thủy tinh mỏng, cái đầu nhọn của nó mòn dần. Tôi quệt ngón tay trên vành ly. Quán Tám Lộc buổi trưa hầm như một lò lửa. Mái tôn lợp ngang sà xuống gần chấm đầu người. Chiếc quán lèo tèo với một ít khách nhậu nằm lùi vào hóc sâu của một bãi đất trống trước mặt Hợp tác xã ngư nghiệp. Xóm nhà sàn nổi lềnh bềnh trên con nước lớn bên kia bờ Rạch Nhum. Con rạch hẹp chạy vòng sau lưng Hợp tác xã rồi lủi vào khu rừng mắm ngoài mé sông. Mấy người trong quán đang lè nhè những câu chuyện hình như không đâu vào đâu… Mai tao dắt mày lên hội đồng, chuyện đồ bỏ tao nói một tiếng thôi… Anh ra tay giùm tôi đi, gạch ngói tôi chở về kẹt đó mấy tháng rồi đó… Tin tao đi con, tao chưa nói dóc với ai hết, từ hồi ông Bảo Đại ỉa cứt su tới giờ lận mà. Tôi uống la-de ăn khô đuối nhìn ra phía trước. Nắng chói chang trên những mái ngói mới lợp, trên mặt kính của những chiếc xe vận tải và trên những chiếc nón lá bọc plastic. Chiếc xe nhà binh từ trên cầu đổ xuống con đường sỏi, lủi vào bến cá trước Hợp tác xã để trở đầu rồi vọt lại con đường cũ, bụi bốc mù một khoảng dài. Tôi xoay nhẹ cái ly, mồ hôi rịn ngoài thành thủy tinh lạnh ngắt chảy từng giọt xuống mặt bàn. Một thằng mặc quần xanh áo ni-lông trắng bước vào quán cười với tôi rồi đến ngồi chiếc bàn bên cạnh. Không biết đã gặp thằng này ở đâu. Tôi xé khô đuối chấm thật nhiều tương ớt ăn. Trời nóng như đốt. Tôi vuốt mồ hôi chảy trên chân tóc xuống cổ. Thằng kia lại ngó qua cười để lòi hàm răng vàng thật khó ưa. Tôi cố moi trong tận cùng trí nhớ – những chỗ đã có dịp đến, những con đường đã có dịp đi qua, những người đã có dịp gặp – vẫn không có nó. Nắng bên ngoài chờn vờn dán khít đời sống. Ông già trong Hợp tác xã dắt chiếc xe đạp xẹp lép cả hai bánh qua bãi đất trống, chui vào tấm tôn che nghiêng nghiêng của anh Ba sửa xe đạp dưới chân cột đèn rồi trở ra đứng chống nạnh ngó xuống bến cá. Mấy chiếc ghe câu khơi đang tấp vào, một cảnh mua bán nho nhỏ lao xao ở đó. Những mỏ neo quăng lũm bũm xuống nước, những con cá thu láng bóng mình mẩy và những chiếc nón lá nhấp nháy ánh nắng. Tôi mượn bật lửa của ông già ngồi phía sau để đốt thuốc. Thằng kia lại ngó qua cười, vẫn hàm răng vàng nhe đủ năm cái. Tôi nheo mắt lại, bóp trán bằng mấy đầu ngón tay – những đêm tối trời mùa Sẩm ngoài bãi ngang ồn ào tấp nập, những buổi trưa mùa Lặn nóng rát oi bức ở trong bến, những sớm mai kéo lưới Rùng dưới Mũi Đá – tuyệt nhiên không có nó. Đời sống quần quật nhay nhắt trên mỗi đầu ngón chân ngón tay, trên chân lông chân tóc, trên tai mắt mũi họng. Không có thì giờ đảo mắt, không có không gian cựa quậy. Nó có được một không gian rộng rãi hơn tôi? Nó có những thời khắc rộng rãi hơn tôi? Nhìn gương mặt nó, bộ dạng nó tôi không muốn tin như vậy. Chắc nó hơn tôi được một tình cờ nào đó là cùng. Ngoài kia nắng chuyển động thành từng dòng quắn quít. Ông già đã vá xong xe đạp, dắt ra con đường sỏi để đạp lên cầu. Mấy chiếc ghe câu khơi mua bán xong đang tách bến qua đậu bên kia sông. Con sông chắn ngang bãi biển bằng một bãi cát rộng và dài mút mắt, những ngọn sóng lô xô vãi bọt, những mái lá cúi thấp đứng san sát nhau chạy tít lên trên xa rồi khuất vào chòm dừa và khu rừng lau khô dưới chân một động cát chói nắng. Tôi kéo lọ tương ớt múc một muỗng đổ ra đĩa, pha thêm một ít xì-dầu. Cục nước đá trong ly đã tan hết làm loãng mất màu vàng của la-de. Tôi bưng lên uống một hơi dài, nhạt nhẽo chua lè. Thằng kia ăn xong tô hủ tiếu đứng dậy đi ra. Nó quay lại nhìn tôi cười một lần nữa. Thoáng thấy chiếc bật lửa sáng óng ánh trong tay nó tôi hơi tiếc rẻ, phải chi chào hỏi nó vài câu để mời nó ngồi lại nói chuyện giây lát. Thú thật tôi có một thói xấu là hay ăn cắp vặt, nghĩa là thấy ai có cái gì hay hay cũng muốn biến nó thành của mình một cách mờ ám, một cách bất hợp pháp. Nhưng ít hôm chán rồi cũng bỏ đi. Những người khác cũng đứng dậy lai rai… Thôi mày cứ yên trí mai đi với tao… Tôi tin anh đó, anh cố giúp tôi nghe… Tao không ưa nói nhiều, từ cái hồi ông Bảo Đại ỉa cứt su lận mà mày. Ngoài trời vẫn chang chang phả nắng. Thằng kia băng qua bãi đất trống, đi dọc theo hàng hiên bến cá rồi rẽ xuống bờ sông chỗ những ngư thuyền Phước Hải đậu. Hình như tôi nhớ ra một điều gì. Có những biến dịch một thời làm tôi xốn xang bứt rứt khi ngó mặt những người chung quanh. Có những gặp gỡ bất ngờ như một tai họa chợt đến. Những tiếng động mơ hồ lẻ tẻ của cuộc sống rơi rớt đâu đây hay chỉ là một kỷ niệm đáng tiếc. Đúng rồi. Đêm chập choạng vãi xuống mỗi lúc một dày. Bãi đất trống nhá nhem dưới lớp ánh sáng nhão nhẹt lem luốc hắt ra từ quán Tám Lộc. Những đống rác, những chồng vỉ tre phơi cá và bốn chiếc xe vận tải mệt nhọc nằm đó. Thằng Tư uống hết hai xị nếp than ngồi khật khừ ở một góc quán. Ánh đèn vàng khè dán khít những bàn gỗ bọc thiếc… Đ.m. vô kiếm thêm chầu nữa cho đậm rồi lên chợ kiếm mấy thằng thanh niên Lagi dợt. Bốn thằng dưới ghe Phước Hải kéo vào quán la lối nghênh ngang, đá bàn đá ghế rồi vào ngồi chiếc bàn kê ở gian trong… Anh Tám cho tụi tôi bốn lít đậu nành mau đi nghe… Rồi có liền. Thằng Tư ngó tụi kia gầm gầm, mắt nó long lên, lửa giận đốt nóng cả cơ thể… Cho thêm vô keo này rồi lên chợ kiếm mấy thằng thanh niên Lagi. Không cầm được nữa, thằng Tư đứng vụt dậy xách ghế ném hắt qua chỗ tụi kia, chiếc ghế rơi ầm xuống bàn trúng đầu một thằng, chai cốc vỡ loạn xạ. Thằng to con nhất trong đám ôm đầu xuýt xoa mặt nhăn quíu như khỉ ăn ớt lòi ra năm chiếc răng vàng. Không cho đứa nào kịp trở tay, thằng Tư thủ một chiếc ghế nữa lăm lăm tiến tới tụi kia. Thời khắc lúc đó ngộp thở như cây pháo châm ngòi chực nổ. Tám Lộc hấp tấp chạy ra choàng vai thằng Tư nói thật ngọt… Thôi chú Tư thiếu gì chỗ thanh toán, để cho tôi mua bán chớ, chú không thương tôi sao. Thằng Tư buông ghế xuống đi ra như cái máy, mặt nó vẫn lạnh như tiền. Nó băng qua bãi đất trống tới trước nhà sửa máy dầu cặn. Mấy thằng kia ngồi chết cứng trong quán… Tội quá mấy anh gây sự không đi kiếm chỗ khác, phá phách thế này tôi đâu làm ăn được nữa. Không thông cảm tôi sống sao nổi. Tám Lộc khoa tay phân trần. Tụi
kia vẫn ngồi im. Những mảnh vỡ dưới đất chưa được thu dọn. Chưa tàn nửa điếu thuốc thằng Tư trở lại, lôi theo một đống dây cáp bỏ ngay trước cửa quán… Đ.m. thằng nào muốn kiếm thanh niên Lagi ra đây, khỏi cần lên chợ. Chiều anh Tám chút đi coi, đừng để tao vô đó. Thằng Tư đứng chống nạnh một chân gác lên đống dây cáp ngó tụi kia trừng trừng… Đ.m. không thằng nào ra hết hả. Thằng răng vàng hết muốn kiếm thanh niên Lagi rồi sao. Mấy thằng kia ngồi chết cứng như xiết bù-loong xuống mặt ghế. Tám Lộc ở nhà sau chạy ra nói thôi về đi chú Tư rồi quay vào đóng trít cửa lại cho bốn thằng kia tị nạn. Đêm đó thằng Tư ra bờ song lấy gáo dừa xúc cứt trét đầy cửa quán Tám Lộc. Tôi nhớ ra rồi. Năm chiếc răng vàng chực vọt ra khỏi cặp môi dù là khi mãn nguyện, dù là khi hãi hùng, dù là khi đớn đau hoặc hờn tủi. Thằng Tư bất mản, hung hăng, ngang ngược, động tình bất hòa với cuộc sống, của bản thân, của những ngày đêm một chọi năm bảy. Nhưng nó đã âm thầm bỏ đi cùng với cái quá khứ của nó, cùng với tâm tư chai dày của nó. Năm chiếc răng vàng trong miệng thằng kia đã hăm he thách đố, đã nhăn nhó xuýt xoa, đã cười bình thản. Những cử động của chân tay, những ý tưởng của đầu óc với chừng đó vô tư, chừng đó lầm lộn, chừng đó nghiệt ngã, chừng đó hận thù cũng đủ để đời này như vậy. Trời vẫn nắng như tâm hồn thằng Tư lúc nổi giận. Tôi váng vắt đầu óc, tôi nóng bừng hai mép tai, nóng bừng trong gan ruột phổi phèo, trên cả chân lông chân tóc. Tôi muốn có một cái gì đó trong tay để thủ thế hoặc để bóp vỡ hoặc để xé rách cũng được. Tôi muốn nhìn từng khuôn mặt tái lét chung quanh, muốn nhìn tận mặt sự trơ trẽn của tôi, có chắc trơ trẽn là vô ích không, người ta không trơ trẽn rồi sống bằng gì. Thằng Tư khóc cười bằng cặp mắt ngang ngược thù hận của nó. Thằng kia diễn tả mọi thứ bằng năm chiếc răng vàng. Tôi muốn có một cái gì đó để thủ thế, dù chỉ để thủ thế. Tôi đứng dậy và thấy mình choáng váng thật. Nắng vẫn chưa muốn dịu.

—o0o—

Hai đứa lum khum chui vào tấm vải dầu che nghiêng nghiêng bên hông chiếc xe bán nước đá của con Thơm. Thằng Tư đứng yên một lúc, vuốt mồ hôi trên mặt rồi cùng ngồi xuống tắm ván kê men theo triền xe. Con Thơm gấp cuốn báo Phụ Nữ Diễn Đàn bỏ vào ngăn kéo đựng tiền hỏi sao mấy anh vô trể vậy. Tôi nói tại không muốn vô sớm. Kỳ cục đi biển làm quá đi chơi. Uống cái gì đây. Sao không hỏi thằng Tư trước. Hỏi chung hai người không được sao. Đâu được tôi đi theo nó mà, tôi đâu có tiền. Con Thơm nguýt dài quay qua thằng Tư, thôi anh Tư uống cái gì. Mặt thằng nhỏ xịu xuống ngó chỗ khác nói gì cũng được. Mấy cái anh quỉ này bộ tôi thánh sao. Thấy hai đứa nó như mặt trời mặt trăng tôi cười thật to cho tụi nó nới bớt cái thế thủ. Thôi cho tôi chai xá xị với nửa trái chanh tươi. Thằng Tư vẫn ngó chỗ khác nói tôi cũng vậy. Con Thơm cười hỏi trống sao không giỏi kình nữa coi rồi đứng lên giở tấm bao bố đậy trên mặt thùng gỗ thông, bới lớp mạt cưa lấy ra cục nước đá bỏ vào chậu rửa. Xe nước đá của con Thơm đặt trên hàng hiên bến cá sát với bờ sông. Buổi chiều còn vài tia nắng trải mỏng bên kia bến. Con nước giật ra xa bỏ lại một cồn cát và những chiếc ghe mắt cạn… Rồi đây trong những đêm mưa gió dạt dào… Một giờ trước thằng Tư đứng hát nghêu ngao trên mũi thuyền… Nơi loan phòng chăn êm nệm ấm em trỗi khúc nhạc tình dạo khúc ly tao ơ… ơ… Chiếc thuyền bồng bềnh trên mặt biển. Tôi tát bớt nước dưới khoang. Anh thằng Tư giữ chèo lái tránh những ngọn sóng lớn để vào cửa. Thằng Tư trở về rồi thôi. Không lăn lộn nữa, không ngược xuôi nữa. Nó như sực nhớ một điều gì và lầm lũi e dè đi kiếm. Nó như cái bóng lao đao hấp tấp vùng vẫy rồi đứng khựng lại thu nhỏ ở một góc đời sống. Những cái mất đi kể như không có. Những cái đang ở trong tay kể như rất tình cờ. Cái đang đi kiếm thì nghĩ rằng còn lâu mới gặp, hoặc không gặp. Nó chạy một bước rồi đứng lại khoanh tay ngó cái quá khứ điêu tàn như coi cải lương. Nó đang ngồi đó, ở đầu cùng của một tấm ván hẹp. Con Thơm đem ra hai chai xá-xị, hai ly đá và một trái chanh cắt làm đôi. Tôi rót xá-xị ra ly rồi vắt chanh. Thằng Tư làm theo như cái máy. Nó uống một hơi hết nửa ly. Con Thơm trở vào ngồi lấy cuốn Phụ Nữ Diễn Đàn ra lật từng trang một, miệng hát ai nói với em nếu anh là lính. Cuốn này có đánh chưởng không cô Thơm. Nó trề môi kiểu cách khi nghe tôi hỏi như vậy. Đâu cái này tâm lý xã hội mà. Mặt trời đã xuống rất thấp gần khuất sau động cát dưới cửa sông. Những sợi nắng luồn vào hông xe lấp lánh trên những chai nước ngọt và những chai la-de xếp hàng trên kệ gỗ. Tôi bưng ly nước uống. Thằng Tư hút thuốc cúi đầu nhả khói vào ly của nó. Khói thuốc gặp lạnh đọng lại dưới đáy ly như sương mù. Nó ngồi bất động như một hình tượng trên đài kỷ niệm, cặp mắt trừng trừng vào đáy ly, lớp khói dưới đó bị hơi thở của nó làm chao động, một vài sợi mỏng bay lên lởn vởn trước mặt nó, thật hẩm hiu thật mơ hồ. Kim Chung hai mới ra anh đi coi chưa. Cô hỏi ai vậy. Hỏi anh không được sao. Đã biểu hỏi thằng Tư mà, tôi đâu có tiền. Con Thơm cười mỉm xòe bày tay túm mái tóc hất ra phía sau nói tôi muốn hỏi ai tôi hỏi, bắt buộc tôi sao được. Thằng Tư vẫn ngồi bất động ở cái thế hình tượng cúi đầu. Tôi không biết được những cái nó đang nghĩ. Không ai biết được. Nó chắc gì đã biết… Buồn mẹ gì, vui mẹ gì đời vậy đó mày. Mặt nó lạnh như tiền. Con Thơm không còn đi qua con hẻm nhà nó từ ngày thấy nó về đây. Nó thản nhiên một cách khó tin. Buổi chiều nó đứng dưới bến thấy con Thơm hí hửng xuống đò qua bãi với thằng Sư Đoàn Mười. Nó thừ người ngó theo cho tới lúc con đò tấp bên kia bến rồi leo lên mũi thuyền đứng hát nghêu ngao mấy câu vọng cổ. Sợ nó không sống nổi với cái thản nhiên tội nghiệp này. Bên ngoài nắng đã rút hết. Con Thơm đứng dậy bắt ghế mở tấm vải dầu. Chỗ tôi ngồi sáng hẳn lên. Tôi nhìn rõ khung cảnh tứ phía. Một toán phu khiêng cá chen nhau lãnh tiền bên Hợp tác xã. Gió vùn vụt nổi lên vãi bụi mù mịt cuốn theo những chiếc lá bàng khô lăn dài trên mặt đường sỏi rồi tấp vào hai chiếc xe nhà binh đang án ngữ trước cửa quán Tám Lộc. Thằng Tư thả mẩu tàn thuốc vào ly, đốm lửa tắt xèo trong nước. một ít khói thoát nhanh ra ngoài. Trên cầu có một cô gái đang đi xuống. Gió thổi ngược. Hai mảnh quần trắng dán khít vào đùi vào háng làm tôi nghĩ ngay đến cái chuyện kia. Tôi uống hết chỗ còn lại trong ly xá-xị. Trời đang sậm dần. Những chiếc ghe cuối cùng đã vào cửa. Những con sóng trườn mình gợn trắng trên mặt biển đen. Con Thơm gấp miếng vải dầu bỏ vào thùng xe hỏi lơ đảng anh Tư tính ở nhà đi biển luôn hả. Thằng nhỏ vẫn ngồi im như bị cấm khẩu. Nó không dám nói đâu cô Thơm. Sao kỳ cục vậy. Nó đào ngũ rồi, nói sợ cô kêu lính bắt nó. Con Thơm trề cái môi dưới nặng trịch nói chuyện đó mắc mớ gì tới tôi. Thằng Tư cầm chiếc muỗng gõ nhẹ trên vành ly nói thôi về Định.

UYÊN GIANG
TÂM SỰ
Tặng TOÀN NHƯ

Bạn hỏi thăm ta: – Ở Bắc Cực,
Mù trời băng tuyết, lạnh lắm không?
Có khi nào nhớ quê nhà nắng
vàng trải mênh mang khắp núi rừng?

Ờ thì … cũng lạnh sơ sơ vậy,
Hơn chục độ trừ, đủ tím môi.
Mùa đông giá rét chừng dăm tháng,
Dằng dặc dài như… thế kỷ trôi!

Những sáng đi làm trong gió tuyết,
Trắng rừng… Trắng núi… Trắng trời mây.
Con đường trắng buốt xa hun hút,
Phủ trắng đời… ngàn cánh tuyết bay!

Mỗi mùa đông đến càng thêm sợ,
Không hẳn… chỉ vì tuyết với băng.
Mà sợ lòng mình teo tóp lại,
Quanh quẩn không ngoài chuyện áo cơm!

Quê nhà? – Nhớ chứ! Sao không nhớ!
Nhớ cảnh … Nhớ đời… Nhớ vẩn vơ.
Càng sống xa quê càng thêm nhớ,
Như thuyền lìa bến… nhớ sông xưa .

Phố người… nắng sớm… mềm hơn lụa,
Ngơ ngác Sài Gòn… Nắng Tháng Tư!
Ráng chiều… đổ xuống… sân trường vắng,
Và… những con đường… hối hả xe!

Mười lăm năm… ngủ còn mơ,
Chiếc thuyền ván mục… vật vờ… biển trôi.
Đã đành… Thì vẫn là người.
Nhưng trong mê tỉnh… Nửa trời… mộng du.
Bỗng dưng… ta chợt hiểu ta,
Nhớ người… nghe tiếng gọi đò… giữa đêm! (1)
Bạn hỏi thăm ta : – Ở Bắc Cực …

(1) ”Đêm nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
Trần Tế Xương.

Thy Lan Thảo
TÌM DÁNG ĐÒ XƯA
Ta về trên bến năm xưa
Con đò quen thuộc cũng vừa sang sông
Chút mây gợn đục nặng lòng
Trong đôi mắt nhớ… gió trông nắng đời

Nhìn quanh ta bỗng dưng cười
Nước trong, dòng phẳng vẫn tươi một màu
Năm xưa mưa gió ngọt ngào
Bây giờ giông bão dễ xao xuyến lòng

Ngày xưa sóng bước nắng hồng
Uyên ương đủ cặp, chập chùng trời mây
Đổi đời tiếc bước lưu đày
Bước về buồn nhớ mặt mày buồn xo

Tìm đâu ra dáng con đò
Thuận buồm, im sóng, ai cho tin chờ
Đã qua rồi tuổi mộng mơ
Bài thơ dang dở ý thơ thật buồn!

Luân Tâm
HOA SỮA
Anh khát sữa đeo đỉnh đồi rau má
Gọi mây bay nâng cánh khói mồ côi
Em bú tay níu dòng sông nước đá
Nghe trăng tan lấp đáy biển vá trời

Mưa không ướt đất lành cho chim đậu
Thì cũng đành trôi nổi gánh hát rong
Ngày hụt hơi đêm không nơi nương náu
Chim quyên đau khô héo trái nhãn lồng

Em nhóm lửa tình sông thương ngập núi
Chờ bình minh gọi đò chở sương mù
Nghìn năm sau bên góc đời lủi thủi
Ta gặp nhau hôn môi đói thiên thu

Anh chú rể chân phèn vui khan tiếng
Sính lễ hoa vú sữa trái mãn cầu
Em cô dâu áo vàng bông điên điển
Cười đơn sơ trong vỏ ốc nhiệm mầu

Đời giặc giã bụi tre che bụi chuối
Đất đen thui tình nghĩa thật trắng tươi
Trăng ăn mật em nhìn anh bối rối
Trời đất ơi! Vợ anh đẹp quá trời….
CHO HOA CỎ CƯỜI
Anh đứt ruột thương em đau thơ khóc
Trời đất tan trong mắt biển sương mù
Lòng sông thương sao trôi nguồn tuyệt vọng
Dỗ ngọt em anh uống lệ thiên thu

Em đã hứa bên anh không buồn nữa
Suốt ngày đêm không áo mây trăng ăn
Mặc nắng lửa mặc mưa dầu chôn lửa
Ta nước non tắm rửa cát sông Hằng

Nắng về mưa hương đong đưa mềm ấm
Cho cỏ hoa cười tươm mật ước ao
Em tình ca ru hồn anh mê lắm
Gọi mưa về hoa nắng nở ca dao

Tóc em hóa trăm nghìn tay bạch tuộc
Vuốt ve anh dỗ ngọt khắp luân hồi
Em nín thở ôm đỉnh trời siêu thoát
Anh hụt hơi hôn đáy biển tuyệt vời…

Anh Tiền Giang em Hậu Giang khế ngọt
Suối tình dâng chín cửa Cửu Long Giang
Sóng quấn gió biển đeo trời liền cánh
Nghiêng thuyền thơ ta vớt ánh trăng ngoan

Quên dâu bể cởi trói buồn cay đắng
Ta mênh mông như biển rộng như trời
Em mới yêu hồng trần chân mây trắng
Anh trải hồn thơ nệm ấm em ngồi

Em thương sợ đau hồn anh thơ đói
Ôm cổ đền trăm vạn đóa hoa môi
Mình hóa bướm mộng du hồn sông núi
Em vòng cưng mê lộ anh thấu trời…

Đất no nước gió đói trăng trôi nổi
Ta thèm nhau bốc lửa đòi cho lời
Chim khôn về rừng ru cây dỗ cội
Người yêu người ru nghìn kiếp chung môi (1)

Ôm anh ngủ em giáng hương thần thoại
Bóng gió ghen anh nuốt dáng thủy tiên
Em chợt tỉnh nhìn anh hoa biết nói
Cục cưng ơi! Sao ăn mãi thêm ghiền…
———————-
(1) Ca Dao :
” Chim lạc đàn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi …”

Hoàng Đình Hiếu
Những ngày xưa thân ái
Thương tặng cựu học sinh trường
Trung Học Đông Giang Đà Nẵng (1967-1975)

Ai cho một điều ước, và nếu lời ước trở thành sự thật, thì chắc chắn bạn và tôi, sẽ xin một điều đơn giản thôi:“hãy cho chúng tôi sống lại những ngày xưa thân ái”.
Vâng, từ thuở lên 10, ngày hai buổi cắp sách tới trường làng, cho dù ông thầy có khó cách mấy, ngôi trường chẳng mấy khang trang và bạn bè năm ba đứa hoang nghịch kiểu nhà quê đồng ruộng, ấy thế mà lòng những cậu bé trong làng vẫn tưng bừng vui vẻ. Cuộc đời nơi thôn dã cơ hồ cũng nhảy nhót theo từng bước chân chim.
Kịp đến khi ra tỉnh, vào thành phố, chen bước về thủ đô, thử hỏi bạn có mang theo nỗi lo âu gì khác, ngoài một điều dặn dò:“con phải rán học để nên người”. Hành trang gia đình trao cho bạn chỉ có từng đó. Và tôi đoan chắc, chỉ có từng đó thôi, bạn đã bắt đầu cảm thấy như có một trách nhiệm đè xuống trên đôi vai bé bỏng của mình. Cũng may, trách nhiệm ít khi đánh bạn với tuổi thơ. Trong trường rất hiếm gặp những nét mặt đăm chiêu, những ông cụ non ngồi lo thiên hạ sự. Hình ảnh tổ chim, có cả chim mẹ và chim con, minh họa gần đúng mái trường, nơi tuổi thơ chúng ta đã có cơ hội và thời gian quận tụ sum vầy.
Đối với tôi, dấu ấn những mái trường xưa, từ năm 1954 đến hết niên học 1961-1962 là những năm tháng khó quên. Bỏ làng lên thị xã Đồng Hới, tôi học lớp nhì tại Trường Chân Phước Phượng (nay là hiển thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng, tử đạo) niên khoá 1953-1954. Khi hiệp định Genève chia đôi đất nước, tháng 7-1954, tàu hải quân Pháp, cập sát cầu Mụ Kề gần nhà trường để chở tất cả học sinh và các thầy Dòng Thánh Tâm vào Gia Hội, Huế. Tôi thực sự trở thành đứa trẻ di cư vị thành niên, được các Sư huynh bảo trợ, trong hoàn cảnh mẹ bị kẹt lại ở ngoài làng, mất liên lạc với gia đình ông anh và 3 bà chị trong đoàn người di cư khổng lồ, trải dài từ Quảng Trị vào đến Nha Trang.
Lúc đầu tôi ở với các sư huynh Dòng Thánh Tâm gần Bến Ngự, Huế. Nhưng khi niên học 1954-1955 khai giảng, linh mục Cao Văn Luận (Viện Trưởng Viện Đại Học Huế 1957-1965) gữi tôi vào Trường Trung Học Pellerin. Tôi học lớp Nhất với Thầy Ambroise, sư huynh Dòng La San và cuối năm thì đi thi lấy bằng Tiểu Học. Trung tâm thi là Trường Tiểu Học Thượng Tứ, Thành nội Huế. Oái oăm thay, học sinh đậu thủ khoa trung tâm là một tôn nữ đất thần kinh mà tôi không bao quên tên, cô Công Tằng Tôn Nữ Thị Tuyết Nếp. Tôi đậu hạng nhì, nghĩa là tên tôi bị che khuất dưới một rừng liễu um tùm, lại có cả tuyết trắng và lúa nếp Thừa Thiên. Từ đó tôi mới biết thêm một sự thật, con gái-đàn bà, đừng tưởng bở, nếu không muốn nói là rất đáng nể mặt trên nhiều lãnh vực tranh đua.
Khoảng giữa tháng 8 năm 1955, cha Cao Văn Luận gọi tôi xuống gặp ngài tại tư thất ở đường Duy Tân. Tôi đạp xe đến. Vừa xuống xe, Cao Văn Ngự là bạn học, cháu gọi cha Luận bằng bác, đón tôi trước cửa. Nhìn tôi ra chiều lo lắng, Ngự mĩm cười càng làm cho tôi thêm hồi hộp. Nhưng khi bước vào trong nhà thì thầy Nguyễn Văn Học (sau nầy là linh mục) ân cần dẫn tôi vào gặp cha Luận tại phòng làm việc của ngài. Vừa thấy tôi, cha Luận nói ngay: “Con về soạn quần áo, sách vỡ để ngày mai đúng 9giờ sáng tới đây. Con theo thầy Học về Sàigòn. Chuyện gì thì khi gặp cha Chính Khẩn, con sẽ biết thêm. Cha có cho con một chút tiền để tiêu, nhưng thầy Học đang giữ. Nói với gia đình là Cha Luận gữi đi học xa, đừng lo lắng gì cả”.
Thế là trên một chuyến bay của hãng hàng không Pháp “Cosara”giữa tháng 8-1955, thầy Nguyễn Văn Học đã dẫn tôi đi Sàigòn. Ngồi nhìn phong cảnh miền Trung, với núi non, sông biển khuất dần sau từng cụm mây bay. Lần thứ nhất trong đời, tôi biết mình đang đi nhanh và đi thật xa quê hương Bình Trị Thiên.
Mấy dòng tự thuật trên đây tôi không dẫn các em đi lạc đường (cũng không lạc đề), nhưng mời các em đi vào những ngày xưa thân ái bắt đầu bằng đoạn đường trước ngày tôi được về Đông Giang với các em. Không phải ai cũng có cái may mắn đó. Bởi thế, hình như tôi đã có một sự chuẩn bị khá chu đáo, để khi đối diện với các em thì mình không cảm thấy ngỡ ngàng, xa lạ chút nào!!
Khi tôi tốt nghiệp Trung học đệ nhị cấp ở Sàigòn năm 1962, thì đa số các em còn ở các lớp tiểu học, nghĩa là khoảng trên 10 tuổi. Năm 1966, không ngờ từ Đại Học Huế, tôi bước vào ngành giáo dục, trong tay có viên phấn trắng và trong lòng có rất nhiều ước mơ. Nhưng có một ước mơ thật đơn giản là xin được đi xa xứ Huế một chút, bởi vì mình thực sự đã từ giả Huế năm 1955. Bổ nhiệm tôi đi đâu cũng được, lạy trời, xin đừng bắt tôi đi dạy ở Huế, vì tôi sợ gặp lại cô tôn nữ đã làm tôi e ngại thuở mới đụng đầu ở trường thi!
Không ngờ điều mình cầu xin đã được toại nguyện. Càng toại nguyện hơn là được về dạy học ở Trường Trung học Đông Giang. Các em thử nghĩ, giá như lúc bấy giờ tôi được bổ nhiệm đi Quảng Tín, lên Quế Sơn hay vào Quảng Ngãi, Bồng Sơn, thì chắc chắn phải cầm sứ vụ lệnh lên đường mà trong lòng chẳng mấy vui. Đằng nầy, Ôi cái tên Trường Trung học Đông Giang sao mà êm đềm đến thế. Ở Đà Nẵng mà không phải là Đà Nẵng! Nó nằm ở phía đông một dòng sông lịch sử! Ngôi trường Đông Giang nhìn ra dòng sông Hàn, đối diện với một thành phố cảng có tuổi thọ ngang với Hải Phố của Hội An, cả hai là một kho tàng cổ học có bề dày văn hóa cũng như địa lý lịch sử có một không hai ở Miền Trung Việt Nam.
Vâng, địa thế ngôi trường của chúng ta khá thuận lợi, xét về mặt thủ đắc và sinh tồn. Các em còn nhớ, chúng ta ra quân là chúng ta đạt chiến thắng ở ngôi vị cao nhất của thánh phố. Không phải là Cao Biền đi tìm long mạch. Chúng ta biết Hội An, Điện Bàn rất tự hào với năm cụm núi quê hương (Ngũ Hành Sơn), trong khi đó thì Trường Đông Giang của Chúng Ta có tiền giang, hậu hải; tả hữu có Sơn Trà, Ngũ Hành như những sơn trấn uy dũng cho một địa thế hiếm có của thiên nhiên phía nam Hải Vân Sơn. Nếu được phép lựa chọn vị trí cho một quần thể văn hóa lịch sử Hàn Giang-Đà Nẵng, có lẽ các em sẽ đồng tình với tôi nên bắt đầu từ tụ điểm Đông Giang. Điều nầy không phải là chuyện tưởng tuợng. Chúng ta chưa có thành tích nhiều vì chúng ta chưa có thời gian đào tạo lâu dài. Nhưng chỉ 8 năm thôi (1967-1975), nay các em thử nhìn lại tổng số những nhân tài xuất thân từ ngôi trường Đông Giang của chúng ta hiện đang đóng góp tài năng cho quê hương hôm nay như thế nào. Dĩ nhiên, các em phải tiếp tục phấn đấu trong một hoàn cảnh lịch sử khó khăn nhất sau năm 1975 để sống còn và vươn lên. Nhưng do một môi trường phấn khởi ngay từ lúc bắt đầu, ban giảng huấn của chúng tôi có thể tự hào về một tương lai tốt đẹp đến với tất cả các em. Tiếc thay, cái thuở thiên thời, địa lợi, nhân hòa như chúng ta từng chung hưởng, không biết đến nay còn bảo lưu được bao nhiêu?
Dầu sao thì chúng ta cũng đã có với nhau những ngày xưa thân ái. Và đó là điều còn rất sống động trong ký ức khi nhớ về ngôi trường cũ của mình.
Như các em biết, tôi về trình diện thầy Hiệu Trưởng Lâm Sĩ Hồng khi ngôi trường Đông Giang còn thơm mùi xi măng mà những viên táp-lô mới được chồng lên nhau chưa quen với tiếng cười của đám trẻ khắp Quận Ba tụ tập về đây. Giữa một bãi cát rộng, ngôi trường đứng lên như một thách đố của số phận. Chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng hình như càng ngày càng có đông các cô, các cậu trước thì có vẻ rụt rè bước vào từng lớp, để rồi sau đó nghiễm nhiên trở thành những chủ nhân tí hon, đến nỗi từng viên sỏi, từng ngỏ ngách, từng góc cạnh nào của ngôi trường cũng được các em tận tình tham quan và yêu mến. Tuổi trẻ đem nhốt chung lại với nhau sẽ là một sáng tạo lạ lùng! Tôi bước vào lớp học, với tư cách là một ông thầy của các em, nhưng thú thật tim tôi lúc bấy giờ cũng rộn ràng như gió thổi vù vù bên ngoài hành lang lớp học. Trường chưa có cây cao để ru gió mát cuộn về. Nhìn ra bên ngoài, ánh sáng chói chang hắt lên từ bãi cát trắng, tôi có cảm tưởng, đi dạy ở Đông Giang chẳng khác nào về bãi biển Mỹ khê nghe sóng biển và nhìn những dấu chân ghi lại tuổi thơ ngây trên bãi cát quanh trường.
Có một câu nói, hình như là của các cô nữ sinh: “Thầy gìáo(độc thân) vào trường thì các nữ sinh sợ, nhưng ra đường thì sợ nữ sinh”. Thật tình tôi muốn thử nghiệm có bao nhiêu phần trăm sự thật trong câu nói có tính đe dọa nầy, nhưng khi bước vào lớp, tôi thấy chẳng em nào tỏ ra sợ cái ông thầy lạ hoắc nầy cả. Chứng cớ là một em (hình như Nguyễn Văn Hùng Anh) mĩm cười rất tự nhiên và nói vừa đủ cho tôi nghe: “Hôm qua em thấy thầy chở cô đi chợ Hàn”. Thế là chân tướng của tôi đã được bóc ra qúa nửa! Làm một thầy giáo trẻ, hình như ai cũng muốn học trò coi mình như còn độc thân! Hỏng! Còn quậy vào chỗ nào được nữa?
Có một lần trên đường hành hiệp, một cô giáo nhờ qúa giang. Khi chiếc xe Vespa của tôi vừa dừng lại trước sân trường. Trăm con mắt đổ về làm tôi cũng luống cuống như tiếng nổ bì bạch của chiếc xe không chịu im ngay khi đã sang số ngừng! Thế là…cô với thầy vui vẻ nhỉ? Vâng, thưa các em, dạy học ở Đông Giang ai nói là khổ? Không, đi dạy và đi học ở Đông Giang thật là vui! Chẳng vui sao mãi đến hôm nay các em còn nhớ đến nhau và nhớ mãi những thầy cô của mình.
Một chuyện của thời cuộc, tôi muốn kể lại với các em ở mấy hàng cuối nầy. Sau 5 năm rưởi xa cách thành phố, tháng 10 năm 1980, tôi từ trại An Điềm trở về Đà Nẵng. Khi tôi đang lớ ngớ ở bến xe Chợ Cồn, hai thiếu nữ, tuổi phải trên 17, không biết có phải đã phát hiện ra dáng dấp của tôi hay do một sự linh cảm nào khác, cả hai em chạy đến bên tôi rồi cùng thốt lên: “Thầy! thầy!” Cũng như hai em, nước mắt ở đâu cũng chảy dài trên má của tôi!. Tôi cảm động lắm về chút tình nghĩa thầy trò mà các em chưa đánh mất, trong khi chính các em đã bị đánh mất tuổi học trò, để mỗi em phải bưng một cái thúng đựng thuốc lá, bánh kẹo…đem rao bán ở các bến xe.
Cũng vậy, tháng 9 năm 1981, ngày tôi được gọi tên trên loa phóng thanh của trại tị nạn Ga Lăng ll thuộc Indonésia, để chuẩn bị đi đinh cư, cô Võ Thị Diệu Thuấn (có lẽ là lớp lớn nhất học ở Đông Giang với các em) chẳng biết từ đâu, rẻ đám đông tìm thấy tôi trong một hoàn cảnh thật trớ trêu và bất ngờ. Chuyện là thầy trò gặp lại nhau sau bao thăng trầm dâu bể, mà sao lòng nghẹn ngào chẳng nói nên lời!
Với tất cả các em, quốc nội cũng như ở hải ngoại, tôi chưa có hân hạnh gặp lại, nhưng lòng chúng ta vẫn gần nhau. Riêng với các thầy, các cô, ngoại trừ Thầy Trần Minh Trung ghé về Dallas được tay bắt mặt mừng trong chốt lát, tôi vẫn nhớ và cầu chúc tất cả được muôn vàn ân phúc. Ước mong những ngày xưa thân ái ở Đông Giang vẫn sống động mãi trong lòng mỗi người chúng ta.

PHẠM TƯƠNG NHƯ
Thơ học trò
Theo gót chân em thơ vàng nắng mới.
Trời chớm thu em đạp nắng đến trường.
Lá ngã màu để áo trắng dễ thương.
Hoa cúc nở đón mừng em nhan sắc

Em ngây dại để dòng thơ nhơ ngác.
Bờ môi xinh nở đỏ nụ hoa hồng.
Mắt diễm tình chứa cả mảnh trời trong.
Đôi chân bước tung tăng tà áo trắng .

Em mười bốn nên thơ còn tóc ngắn,
Thả mây về lảng đảng chạm hai vai,
Dấu tuổi thơ trong tà áo diều bay,
Em là bướm vờn hoa lay gió nhẹ.

Nghe em nói thơ buông lời hát khẻ,
Miệng em cười thơ vũ những điệu vui,
Em học bài thơ đùa chữ ngược xuôi.
Em thiếp ngủ thơ trải hồn chăn chiếu.

Em mười sáu thơ tròn ,trăng ám hiệu.
Mùa yêu đương gieo buồn nhớ vu vơ.
Tuổi học trò thi tứ với hồn thơ.
Mà vần điệu là nhạc tình chim hót.

Nắng óng ả thiên nhiên cài lên tóc.
Thơm hương rừng với mật ngọt đôi môi.
Em đọc thơ tình như hơi thở thôi.
Sao cánh phượng nhẹ rơi trong chiều vắng .

Anh còn mãi tiếng ve, hè trầm lắng…

TÌNH RU TIẾNG BIỂN
(Tặng Nguyễn Đức Nhơn ,t.g. “Biển và tôi”)

Anh tỏ tình bằng lời biển đêm nay,
Em, thuyền con lênh đênh chở trăng đầy,
Lòng rộn rã trổ hoa trên triền sóng,
Uống rượu mời cùng biển ngả nghiêng say.

Anh tìm em bằng lượn sóng ngàn phương,
Trong lòng biển anh có những nẻo đường,
Anh gọi tên em là thơ phổ nhạc,
Điệu thì thầm sáng tác thơ thùy dương.

Biển lặng thinh trong giấc ngủ bình an,
Gió im hơi nên trăng cũng ngỡ ngàng,
Như lòng anh đã qua hồi giông bão,
Biển tình là muối mặn đã hòa tan.

Anh tặng em hoa trắng của biển xanh,
Để em thêu mây trắng áo thiên thanh,
Mây gió ngàn năm còn ru tiếng biển,
Sóng bạc đầu là tâm sự riêng anh.

Nổi lòng anh chứa một biển nhớ nhung,
Thơ và em như cô gái tình chung,
Khi tâm tỉnh,lòng chập chùng sóng nhớ,
Biển ,Thơ và em là cỏi đẹp vô cùng.
Ptn. Nov-25- 09

TRÒN TRĂNG ÔM BIỂN NHỚ
(Cũng để nhớ phố Phan Thiết, biển Bình Thuận)

Đêm biển sâu như ánh mắt thèm thuồng
Mãi mê nhìn vầng trăng sáng trần truồng
Lượn sóng xô những đường cong tuyệt mỹ
Ánh bạc ngây tình ôm trọn vòng hông.

Em hát du dương tiếng biển thì thầm
Lời tình đêm ân ái tự ngàn năm
Ngực tròn như đồi trăng chìm đáy nước
Ru mộng anh về theo gió xa xăm.

Mặt biển xôn xao , lòng chứa ngọc trai
Trăng chứa tình anh truyền kiếp lưu đày
Anh yêu em như tình trăng với biển
Góc bể chân trời trăng nước mê say.

Lưới tình hay biển dệt ánh trăng đan
Nhốt kình ngư giữa triền sóng thủy thần
Bọt biển trỗ hoa tan đời mộng mị
Trăng lặn rồi, biển vọng mãi âm vang.

Biển nhớ lòng anh như sóng vỗ bờ
Như trăng muôn đời một bóng bơ vơ
Trời nước bao la làm sao chứa cả
Mưa gió đời anh khi em làm ngơ !

Nov- 27- 09

th.Đoàn Thy Vân
Mây Ngàn: Lời thơ sóng vỗ bờ xa
Lời tỏ tình nào cho dù xưa cũ, khi gieo vần gởi ý vẫn mãi là nỗi nhớ miên man, đất trời rộng mở mênh mông, với những biến thiên vô hạn thường làm cho con người gần gũi với thơ. Có lẽ trong hoàn cảnh ấy, Mây Ngàn đã từng bước hội nhập vào thế giới thi ca từ một chút ngẩu hứng, nhanh chóng trở thành niềm đam mê không dứt. Dường như chữ nghĩa của Mây Ngàn đã run rẩy đẩy đưa theo tiếng thở dài vẫn từng phút giây trôi theo nỗi nhớ. Cảnh cũ người xưa luôn là một hoài niệm không nguôi ngoai của những đời viễn xứ. Mây Ngàn đã biểu lộ tình cảm ấy qua ngôn ngữ của thơ ở một chừng mực nào đó.
Tôi vẫn thường đọc được thơ anh trên làng báo Hải ngoại và trên một số diễn đàn điện tử, đã có lúc tôi ngạc nhiên vì những vần thơ trau chuốt và dể thương như lời tỏ tình với nhiều dè dặt của một thời mới lớn. Tôi bắt gặp hình ảnh của chính tôi là cậu học trò rụt rè gởi thư cho cô bạn học, hoăc ngẩn ngơ dõi bóng khi trống điểm tan trường. và cứ thế tôi lần theo bóng thời gian để tìm lại chính mình trong thi tập đầu tay : Bóng thời gian của Mây Ngàn. Cho đến lúc ấy tôi chỉ biết Mây Ngàn qua một số bằng hữu.
Người ta vẫn quan niệm thi ca chỉ khởi đi từ những khổ đau phiền muộn của đời thường vốn có nhiều bất trắc và người làm thơ như mầm cây chỉ phát triển từ tĩnh lặng tối tăm. Thế nhưng Mây Ngàn là một hiện tượng trái ngược, với nghị lực thêm một chút may mắn anh đã vượt qua được những bước gian truân và khá thành đạt ở miền đất hứa mà không hứa này. Nếu như những người tự mãn khác có lẽ anh đã vui thú điền viên, du sơn ngoạn thủy, hoặc tìm niềm vui bên những canh bạc đỏ đen vốn vô cùng cám dỗ, thế nhưng Mây Ngàn đã can đảm tìm đến với… thơ, như điểm trang cho cuộc đời thêm hương sắc.
Cuộc sống vốn có nhiều bất ngờ và cái bất ngờ ấy đến với tôi khi hữu tình hạnh ngộ và làm quen với một Nhà giáo, người ấy là Đặng Xuân Ngô tức nhà thơ Mây Ngàn. Khi được biết tôi cũng có tới lui phất phơ trong làng báo, lập tức nét thân thiện hiện ra ngay trên nụ cười đầu. Nếu không được giới thiệu trước có lẽ ít ai nghĩ rằng Đặng Xuân Ngô là một người thơ. Bởi vì ở anh luôn luôn có nụ cười xã giao đi trước như là thói quen của giới kinh doanh, hơn nữa, khi tiếp chuyện lại bắt gặp cái cái dịu dàng đôn hậu của một nhà giáo. Và cái khẩu khí của người thơ chỉ xuất hiện khi anh tung hứng với bạn bè thân quen. Nói cách khác có ba khuôn mặt trong một con người của Mây Ngàn Đặng Xuân Ngô.
Từ đó chúng tôi vẫn liên lạc, tuyệt nhiên anh chẳng hề đá động đến thi ca, có lần cao hứng tôi gợi ý hỏi về thơ, anh chỉ cười cười : “ moa mà thơ thẩn gì, đôi lúc làm cho vui…” Nhưng chữ “cho vui” này làm tôi khó chịu lắm bởi vì :
Cho ai vui, vui điều gì mà đẫm lệ nhớ thương:
…Quê hương xa nửa địa cầu/ Khi buồn chẳng biết gởi sầu cho ai
Có đêm thức trắng canh dài/ Tập thơ ngày cũ đã phai sắc màu…*
vui gì được mà vui khi :
…Chiều mưa áo trắng qua cầu/ Bờ vai ướt lạnh che đầu cặp da
Tan trường xế bóng đường xa/Thu qua đông lại mưa sa nặng lòng…
Chỉ mới lướt qua đôi dòng lục bát thôi là tôi đã không thể nào bằng lòng với câu trả lời của mây Ngàn.
Tôi tự hứa thế nào cũng hỏi cho ra lẽ.
Sao đó cuộc mưu sinh cuốn hút tôi đi xa một thời gian, khi trở về chốn cũ, sự tình cờ đưa đẩy tôi đến tham dự buổi tiệc của một hội ái hữu quân đội, tôi lại được gặp Mây Ngàn trong quân phục của một Sinh Viên sĩ Quan Thủ Đức và bất chợt nhớ về Quân Trường Mẹ làm tôi ngẫn ngơ. Anh vẫn thân thiện như ngày nào chỉ khác là cương nghị hơn mạnh mẽ hơn từ nhân dáng cho dù khi anh tháo mũ thì chân tóc đã có nhiều sợi bạc. Con người thứ tư, con người thực sự của Đặng Xuân Ngô mới hiện rỏ hình. Một ngạc nhiên khác nữa, anh giúi vào tay tôi tập bản thảo gồm những bài thơ tuyển và muốn tôi xem để thay cho lời giải thích về câu trả lời trước đây : “Moa làm thơ cho vui thôi mà”.
Và một lần nữa tôi theo Bóng thời gian*, xuôi cùng con đò chữ nghĩa để hứng Mưa sông* và ghé bờ Thi Tuyển Mây Ngàn*.
Không, thơ Mây Ngàn không phải làm cho vui như lời tác giả, những tình ý của thơ anh
dù có ngụy trang dưới cái vẻ nhẹ nhàng lắng đọng để dành nhung nhớ tuổi học trò, cũng không dấu được nỗi đau của khách ly hương. Thơ anh không hiện ra đầm đìa nước mắt nhưng anh đã khóc âm thầm trên từng con chữ :
… Đã mang số kiếp phù sinh/ Để nghe nhân thế đưa mình về đâu
Lệ tình hòa giọt mưa ngâu/ Chìm trong hư ảo nhuốm sầu thiên thu…*

Hoặc : …thôi thì em đã đi xa/ núi non mòn mỏi thông già gió reo
hút heo; heo hút đỉnh đèo/ tiển nhau ngày ấy mang theo giọt sầu…*
Tôi nghe như chính tôi đang thổn thức, trái tim nặng trĩu những điều tôi không nói được mà Mây Ngàn đã nói dùm tôi bằng những vần thơ hết sức bình dị, dể hiểu và thấm đậm lòng người . Trong kinh doanh anh trau chuốt bao nhiêu, thì trong thơ anh mộc mạc bấy nhiêu, mộc mạc như ca dao nghe tử hơi thở Mẹ.Nhẹ nhàng như tiếng gió thoảng qua lay động trúc đào. Tôi nghĩ điều ấy giúp anh làm cho đọc giả dể cảm thông hơn. Trong vườn thơ muôn sắc, mỗi một người thơ là mỗi dáng vẻ khác nhau; Có khi tự nhiên, có khi cố làm dáng để cho khác người, nhưng chỉ có lời chân thành giản dị mới làm cho người xích lại với người. Nhất là trong tiếng việt ta vốn đã có thi ca, mà ca dao là một biểu tượng muôn thuở của nền văn minh lúa nước. Phải chăng Thơ Mây Ngàn đã được nuôi dưỡng và ảnh hưởng không ít từ những làn điệu ca dao ấy. Cho nên:
…Nơi đây cũng có dòng sông/Có đồng lúa chin mênh mông nắng vàng
Sao ta cảm thấy bàng hoàng/ Hay lòng mãi nhớ những làn nắng xưa…*
Tình tự quê hương nói ra nghe nhẹ lắm nhưng thực tình nặng tợ ngàn cân, phải thấm, phải nhớ, phải thương thì mới rung động và diễn cảm được tình cảm ấy khi đứng trưởc một hình ảnh gởi nhớ một chút quê nhà.Nói thế không có nghĩa là thơ Mây Ngàn chỉ dừng loại ở thể lục bát thấm đượm ca dao mà vì:
Anh đứng đầu sông/ ngó lên đỉnh đèo/những làn khói trắng/ngỡ ngàng tóc bay
Em ở cuối sông/nhìn chân đồi vắng/có đàn thú hoang/ ngẫn ngơ man dại….*
Những câu thơ bốn chữ ấy viết ngắn gọn buông thả nhưng đầy hình tượng đã được nhân cách hóa một cách hài hòa, làn khói trắng kia có phải là người sơn nữ, đàn thú hoang kia có phải là những chàng lính trận miền xa. Chỉ có trái tim đầy tình người mới nhìn ra điều ấy và đó là cái nhìn mang tính nhân bản.
Nếu chỉ lướt qua, người đọc có thể ngộ nhận thơ anh thiếu cẩn trọng, nhưng nếu đọc kỷ thì sẽ hiểu ngược lại bởi lẽ thi hứng sẽ chết khi bị đóng khung, như dòng nước sẽ tắc nghẽn khi bị đê điều chặn lại.
Có lẽ Mây Ngàn là một người thơ tự do mê mãi trôi theo dòng cảm hứng tuôn trào, đôi khi không để ý đến hình thức cấu trúc gieo vần, ngắt đoạn …hình như anh muốn kể chuyện nhiều hơn là làm dáng thơ mình.Cũng chính vì điều này làm cho thơ anh gần gũi với người đọc.
Mỗi người thơ đều có bút pháp riêng cái chuẩn mực đặt ra cho từng thể loại sẽ trở thành vô nghĩa trước dòng cảm hứng bất tận của thi nhân. Từ ngàn xưa ai nhốt được hồn thơ vào những giáo điều tự kỷ. Tôi không phải là ngươi bình thơ nên không dám đi sâu vào lãnh vực kỷ thuật cấu trúc . Chi ghi lại những dòng này từ một chút cảm hứng trước những vần thơ làm lay động chính tôi, riêng tôi và cũng để tự trấn an mình trước khi lần giở từng trang của “Thi tuyền Mây Ngàn”
Thay cho lời giới thiệu xin mượn mấy câu thơ của bằng hữu để mời bạn cùng tôi bước vào cõi thơ Mây Ngàn Đặng Xuân Ngô:
Thơ Mây ngàn- vết dầu loang
Từng trang kỷ niệm úa vàng còn thương
Lời như tiếng thở miên trường
Nửa đời lữ khách tha hương cảm hoài.
Cái cảm hoài của Mây Ngàn không những chỉ tìm thấy ở trong thơ mà còn tìm thấy ở chính con người ôn nhu bình dị của tác giả sau mỗi nụ cười là lời tự than: “ sao moa cứ nhớ nhớ… thuở nào”
Vâng, cái thuở nào xa xưa ấy đã nẩy mầm trổ hoa sẽ góp thêm hương sắc cho vườn hoa thi ca hải ngoại. Hy vọng điều ấy phải thành hiện thực qua “Ý sóng tình thơ” đang trên đường đến với những người còn …thương quá đi thôi tiếng Việt mến yêu.

th.đoàn thy vân
viết từ tửu nguyệt lầu
*(chữ nghiêng) thơ Mây Ngàn

PHAN BÁ THỤY DƯƠNG
BÓNG THỜI GIAN
cho Thu Hương HSM

biển lặng sóng nước xanh như mắt ngọc
cát vờn bay như suối tóc người tình
cơn nắng tàn
giọt nắng Hạ lung linh
thuyền ai đó mái chèo khua bỡ ngỡ

ôm khổ hạnh én lần qua đất nhớ .
gió về đâu .
nghiêng ngã khóm phi lao .
gió về đâu
mà bụi khói xôn xao
mây lờ lửng trên đỉnh trời vàng vọt

cành lá biếc
vừa đâm chồi nảy lộc
ai báo tin cho lau cỏ rộn ràng
nhịp trống nào xa
khoan nhặt mênh mang
nghe phảng phất bóng thời gian vời vợi.
Venice 2008

QUÁN ĐỢI BÊN CẦU

nhìn xa khói bếp mờ nhân ảnh
có phải chăng em quán dọc đường
cát bụi nhạt nhòa trên tóc mượt
sao còn đứng đó ngóng tà dương?

nắng Hạ đường dài chân ngại bước
ai tiếp ai chào khách viễn phương
giọng hát nào êm –
êm như biển nhớ
em quán bên cầu đón gió sương?

THÔI TA VỀ ÔM GÓC NÚI
1.
Áo nhuộm phong trần chưa rũ sạch
Tóc đã pha màu nắng quan san
Thôi thôi ta về ôm góc núi
Đẻo gỗ trầm hương tạc tượng nàng

Gõ phách mà ca bài độc đạo
Hứng tinh hoa nhật nguyệt càn khôn
Mang ẩn tích về treo cổng gió
Chợt phân vân ngẫm chuyện sinh tồn

2.
Mềm môi cạn rượu đêm trừ tịch
Lại nhớ người xưa, hương tóc xưa
Đường thăm thẳm bước chân lơ đãng
Thoảng nghe lạc điệu pháo giao thừa

Thôi thôi ta về bên dốc đá
Dựng am đường hội chứng vô âm
Rủ chim chóc ngao du rừng thấp
Đốt cỏ thơm chuyển hóa huyễn thần

3.
Dư ảnh chập chờn như bụi khói
Ảo chân rời rạc giữa lưng trời
Thôi thôi ta về ôm góc núi
Đục gỗ trầm hương tạc tượng người

Gõ nhịp mà ngâm bài tuyệt tận
Gọi hồn Lá Thắm suốt đêm thâu
Gió sương phơ phất đời cô lặng
Nhòa nhạt chưa phiến thạch mộ sầu
Như Phong

VỀ ĐÂY TA LẮNG NGHE TA

Loanh quanh rồi cũng trở về
Mặc đời mưa gió phủ đam mê
Dù cho say khước đời tục lụy
Dù trắng tay thua cuộc não nề

Trở về đây ta ngồi nghe ta
Giữa đêm hoang vắng giữa ta bà
Về đây ngồi gục đầu bên gối
Đựơc thua thôi đừng quá xót xa

Từ thuở lọt lòng sao vội khóc
Mai có mang gì vào hư không
Bỗng dưng lại muốn làm con nít
Theo thời gian xây mộng viễn vông

Mộng đời dệt những giấc mơ xanh
Vạn cổ xoay quanh bại với thành
Mà sao mộng vẫn chồng lên mộng
Chạy hụt hơi vẫn mãi mong manh

Thôi trở về đây ta với ta
Một cốc rượu cay một tách trà
Vào ra mà đếm đời tuổi rụng
Kiếp sau nên tránh cõi Ta bà.

LẠC TRẦN
Ta đến trần gian làm khách trọ
Mới hay nhân thế một cõi buồn
Mai kia đầu bạc thân hoàn thổ
Tình em gởi lại chốn vô thường

Ta đến trần gian làm khách trọ
Gặp em nên đọa kiếp trăm năm
Quên cả trai chay và tụng niệm
Ngất ngưỡng say như một người điên

Ta đến trần gian làm khách trọ
Em và ta hai kẻ lạc đường
Nên dắt tay nhau vào quán trọ
Lột trần nằm nói chuyện yêu đương

Ta đến trần gian làm khách trọ
Cứ tưởng nhân gian rộn tiếng cười
Quẩn quanh cho mỏi mòn một kiếp
Mai về ngồi niệm khúc bi thương

Ta đến trần gian làm khách trọ
Mới biết nhân gian một cỏi buồn
Em còn say mộng đời tục lụy
Ta quay về kinh kệ hóa duyên

Vũ Tiến Lập
vắng mặt
ý chừng như thấu hiểu một điều gì
thành đô rúc ran tiếng cười
trong long đêm
em nói với tôi
về mầu nhiệm
sự cô đơn
cùng cực của con người
không một chỗ nương thân

này em
trên muôn vàn lẽ sống
có một ngọn đèn không bao giờ tắt
giữ lấy
để thắp sáng đường về
khi không thể vay mượn đất trời
soi vào hố thẳm
em sẽ bước qua rất yên
thắp bóng mình
đứa con thạch nữ
khó có thể có được
nhưng rừng hương đã thở
mùi hương độc đáo
sẽ không bao giờ thiếu thốn
khi ngọn đèn chẳng thể tắt
vì em là chốn ngụ.

bên kia bờ
bên ngoài hạn hẹp
điện ngọc nguy nga
hay vẫn đi dưới rừng mơ
nỗi khoan hồng không thể giải
vượt ra ngoài hiểu biết
lìa xa mọi thi thố của trí năng
thân ôm chầm tháng chạp
gió ập như thác đổ
rung động hai bàn chân
đam mê không củi lửa
chỉ còn chút tự tại
làm hành trang mong manh
vọng đêm dầy núi gió
bặt tăm tiếng còi tầu thường lệ
từ đáy thẳm sâu
nghe chừng xa lạ
tiếng cười diệt vọng
lời kinh thức giấc
gió ngừng đổ
tĩnh lự
cùng tiếp sức

bên kia bờ

NGUYỄN VĂN ĐƯỜNG
Hồn quê
Đông về xứ Mỹ tuyết rơi.
Ổ rơm nào ấm mảnh đời xa quê.
Xa xăm một nẻo đường về.
Cỏ may vương bụi dốc đê ven làng.
Bến xưa nhớ chuyến đò ngang.
Ngút ngàn bờ bãi chiều vàng cuối thu.
Trưa hè vẳng tiếng mẹ ru.
Đơn côi cánh vạc mịt mù chân mây.
Liêu xiêu dáng mẹ hao gầy.
Gánh gồng năm tháng chất đầy nguồn cơn.
Tiếng chuông chiêu mộ chiều hôm.
Rơi vào tĩnh lặng ru hồn nhân gian.
Canh gà xao xác đêm tàn.
Ban mai sắc nắng nhuộm vàng chân đê.
Rưng rưng mắt mẹ ngày về.
Xa quê xanh mãi hồn quê thuở nào.

Nhớ
Lá phong ngả sắc thu vàng.
Mây buồn nương nhẹ gió ngàn về đâu?
Thời gian phai nhạt sắc mầu.
Người ơi còn lại trong nhau những gì?
Một chút tình gói mang đi.
Ủ thương ủ nhớ những khi đông về.
Ấm lòng năm tháng xa quê.
Nặng lòng với những hẹn thề hôm nao.
Xa nhau biết đến khi nào.
Nhớ nhau xin hãy bước vào trong mơ.

Phan Các Chiêu Hằng
Thuyền xưa
Ngày hay tin chị Thuyền ôm cầm sang… thuyền khác, tôi biết anh Long buồn ghê lắm, mặc dù thật ra cả nhà không ai lấy làm ngạc nhiên. Chẳng gì, chị Hiền đã kể cho mọi người trong gia đình nghe về lần gặp gỡ cuối cùng giữa anh Long và chị Thuyền trước đó không lâu. Cuộc hẹn hò “mặt đối mặt, tay… chẳng cầm tay” này do chị Thuyền đề xướng đã xảy ra ở nhà chị Hiền trên Gia Ðịnh, nơi anh Long đang ở nhờ trong thời gian mới bắt đầu đi làm việc. Chị Hiền chép miệng, rươm rướm nước mắt khi kể với má tôi:
– Má biết không, con Thuyền khóc dữ quá nên con cứ sợ nó lăn đùng ra xỉu bất tử. Thằng Long nhà mình thì cứ ngồi im rơ trên ghế salon như hóa đá, còn con Thuyền thì ngồi phệt dưới đất ôm chân nó mà năn nỉ ỉ ôi, van xin nó tha thứ. Con gái Huế nói chuyện hay thiệt, văn hoa bóng bẩy quá trời, câu nào câu nấy nghe muốn rụng rời tay chưn hết trơn làm hai mẹ con con núp đàng sau nhà bếp nghe lén mà cũng mủi lòng khóc bù lu bù loa. Vậy đó, mà thằng Long cứ im thin thít không thèm trả lời trả vốn tiếng nào. Con Thuyền nói cả nửa tiếng đồng hồ không dứt. Cuối cùng thằng Long chỉ buông ra có một câu duy nhất, thôi em về đi!…
Tôi say mê ngồi nghe, há hốc miệng sững sờ. Thôi em về đi? Dù “thôi” như trong bài hát “Thôi em đi về đi xa xôi rồi thăm nhau mà chi…”, hay là “Thôi em đừng nhắc nữa làm gì…”, hoặc “Thôi nín đi em lệ đẫm vai rồi buồn thương nhớ ơi…” với ba động từ nặng trĩu buồn-thương-nhớ đi một dọc lê thê theo nhau của ông nhạc sĩ chuyên viết nhạc thất tình Ðỗ Lễ, khi chữ “thôi” nằm ở đầu câu, trong hầu hết mọi trường hợp, không phải là dấu hiệu… khả quan. Nhất là khi hai người yêu nhau đang có chuyện lục đục trầm trọng như anh Long và chị Thuyền. Tôi hồi hộp hỏi chị Hiền, bất chấp tia nhìn đe dọa kiểu “con nít đừng bầy đặc lộn xộn” của má:
– Rồi sao nữa chị Hiền?
Chị Hiền thở dài não nuột, nhìn tôi hơi gắt gỏng:
– Thì còn làm sao nữa! Con Thuyền phải đứng dậy đi về chớ sao bây giờ?
Rồi chị quay sang má, tiếp tục kể lể:
– Thằng Long cứ ngồi im một chỗ không thèm màu mè đưa tiễn gì hết. Con Thuyền lủi thủi đi ra mở cửa rào một mình, vừa đi vừa khóc tức tưởi. Thấy cũng tội nghiệp!…
Tôi tròn mắt:
– Anh Long nhà mình coi vậy mà… ngon lành quá hén?
Chị Hiền bĩu môi, lắc đầu:
– Ngon lành cái con… khỉ mốc! Nó chỉ chờ con nhỏ kia đi khuất ngoài đầu đường là vô phòng nhào ra khóc như con nít bị ăn chổi lông gà!
Tôi lặng người ngơ ngác. Anh Long tài ba, chững chạc, hùng dũng của tôi mà lại khóc như con nít vì một người con gái? Ngàn năm tôi cũng không tưởng tượng được chuyện này. Nhưng dù cho tính chị Hiền hay vẽ rồng vẽ rắn đến đâu đi nữa, chắc chị không dám “đẩy cây” với má. Tôi lấm lét nhìn má, dò chừng xem phản ứng của bà trước tin động trời này. Nét mặt má vẫn trầm tỉnh hiền hòa như bao giờ. Bà chỉ nói một câu… xuôi xị:
– Chuyện vợ chồng là chuyện duyên số, con ơi. Chắc tại hai đứa nó có duyên mà không nợ nần gì nhau. Thì thôi, biết tánh con nhỏ kỳ cục như vậy trước khi tụi nó lấy nhau vẫn hơn. Chớ chờ lấy nhau rồi, con cái lùm đùm rồi bỏ nhau thì mới thiệt là khổ!…
Câu “thiên duyên tiền định” cũ mèm xưa rích được đem ra xài kèm theo lời phán xét thực tế nhưng phũ phàng của má như gáo nước lạnh dội xuống trái tim mới lớn còn nóng bỏng sôi nổi của tôi. Trái tim đang bừng bừng dậy sóng, đang nghiêng ngửa đảo điên vì chuyện tình yêu của… thiên hạ bỗng xìu xuống, eo xèo. Trong mắt của con nhỏ mới mười sáu tuổi đang lẫm đẫm tập tểnh làm thơ tình với rất nhiều… tưởng tượng như tôi, đoạn kết mối tình dễ thương và lãng mạn của anh Long và chị Thuyền là một chung cuộc lãng nhách, đáng lẽ không bao giờ được quyền xảy ra.

Tôi không đến độ đau khổ tuyệt vọng như anh Long, nhưng cũng ngơ ngẩn bàng hoàng mấy tháng trời. Cả Trúc nữa. Suốt ba năm trời, tháng nào hai chị em tôi cũng gò gẫm viết thư qua lại với chị Thuyền ít nhất là hai ba lần. Hai đứa cùng hăng hái bớt tiền ăn hàng vặt để dành mua tem thư. Chị Thuyền là người lớn duy nhất chịu khó viết thư “trao đổi tâm tình” với tôi cho nên tôi quí chị lắm. Trước chị, tôi chỉ thư từ qua lại với Hạnh, con nhỏ bạn thân người Bắc chơi với tôi từ ngày mới vô trường nữ tiểu học thị xã. Hai đứa học chung đến năm cuối cùng ở tiểu học, sau vụ Tết Mậu Thân kinh hoàng, thì ba Hạnh đột ngột được lệnh đổi về Sài gòn. Rồi sau đó Hạnh thi đậu vào trường Trưng Vương thơ mộng nằm gần sở thú, nơi mà nó vẫn cố thuyết phục tôi phải gọi là “thảo cầm viên” nghe cho nó nhẹ nhàng văn vẽ hơn, trong khi tôi “chôn vùi tuổi xuân” ở trường nữ trung học công lập trong thị xã. Thư từ trao đổi giữa tôi và Hạnh đề tài chung chung là những mẫu chuyện làng nhàng dính dáng đến học hành, trường lớp, than van về thầy cô nghiêm khắc và bài vở khô khan khó nhớ, hay bàn bạc lung tung xèng về quần áo, thời trang. Hạnh luôn “cập nhật tin tức”, cho tôi biết hiện nay ở Sài gòn người ta đang diện mốt gì, còn tôi thì biết để mà… quên. Chứ nhớ để làm gì bây giờ? Con gái tỉnh nhỏ như tôi, muôn đời ra đường nếu không mặc áo dài khi đi học thì cũng chỉ quần satin đen với áo bà ba bằng tơ lụa nội hóa. Thỉnh thoảng tôi và Hạnh nổi hứng làm một màn thề nguyền rất cảm động là hứa hẹn với nhau một ngày nào khi lớn lên, có chút đỉnh tiền túi và được phép đi xa một mình, hai đứa sẽ lặn lội đi tìm nhau để… sum vầy.
Tình bạn “bút đàm” của tôi nghèo nàn èo uột như vậy cho nên khi chị Thuyền trở thành người yêu của anh Long và… đi vào đời tôi, tôi và Trúc hoan nghinh bằng cả hai tay lẫn… hai chân. Hai đứa tôi tranh nhau hì hục viết thư làm thân với chị. Chị Thuyền hội đủ tất cả điều kiện để thỏa mãn cái tính mơ mộng lãng đãng của hai chị em tôi. Anh Long khoe chị hát rất hay, hay nổi tiếng trong trường đại học Khoa Học, nhất là với những tình khúc nhẹ nhàng mà ray rứt của Cung Tiến, những Hoài Cảm, Hương Xưa, Nguyệt Cầm… mà tôi đang yêu mê mết. Anh Long thì có ngón đàn guitar vô cùng bay bướm, ai nghe anh đàn nhạc cổ điển tây phương cũng ngẩn ngơ hồn. Anh là người đã đem chút “văn học nghệ thuật” giới thiệu vào đời con em gái tỉnh lẻ nhà quê, cho tôi biết Chopin qua Nocturne, Mozart qua Elvira Madigan, Beethoven qua Moonlight… Như vậy, anh Long và chị Thuyền đúng là đôi tình nhân… nghệ sĩ. Nghe lãng mạn làm sao! Thêm vào đó, chị Thuyền có dáng dấp rất ẻo lả dễ thương khi chị mặc áo dài. Anh Long chụp vô số hình chị đứng ngồi đủ kiểu trong chiếc áo dài dịu dàng tha thướt. Quỳ trên đồi cỏ xanh non. Thơ thẩn dưới rặng thông già. Nghiêng mình bên dòng suối nhỏ. Tôi và Trúc tha hồ vác hình chị đem khoe nhặng xì ngầu với lũ bạn nhà quê cùng lớp. Còn nữa, chị Thuyền là người Huế, nhà chị lại ở xa tít mù trên vùng núi đồi cao nguyên đất đỏ bụi mù, là… “giống người” hoàn toàn lạ lùng với tụi tôi. Bởi vậy cho nên đối với những kẻ “vọng ngoại” như tôi và Trúc, bao nhiêu hình ảnh có thật và tưởng tượng về chị bỗng mang đầy vẻ hoang đường và lãng mạn trong đó.
Dĩ nhiên tôi và Trúc không làm sao đoán biết được tình cảm chị Thuyền dành cho mình thật giả, nông sâu như thế nào. Nhưng những lá thư từ phương xa của chị luôn mang đến bao nhiêu niềm vui rộn ràng cho hai chị em tôi. Chị cũng tỏ ra chịu khó lấy lòng hai cô nhỏ có viễn ảnh trở thành em chồng tương lai của chị, viết thư riêng cho từng đứa, kể chuyện trời trăng mây nước dông dài. Thư chị viết trên giấy trắng không kẻ hàng, chữ viết tròn trĩnh thẳng thớm. Nhiều khi chị hấp tấp, viết tháu, những chữ “o” không bao giờ khép thành vòng tròn nghiêm chỉnh mà tôi thấy coi cũng hay hay. Những mẫu chuyện vụn vặt chị kể cho tụi tôi nghe bao giờ cũng ngộ nghĩnh và dễ thương. Sao tôi thấy cái gì liên can tới chị Thuyền cũng có vẻ hay ho đặc biệt hết. Tôi và Trúc thường hỏi nhau, hay có lẽ tụi mình cũng bắt chước anh Long, bị… mù quáng vì tình yêu? Từng lá thư của chị được tôi cẩn thận xếp lại theo thứ tự để đọc đi đọc lại như đọc tiểu thuyết.
Vì vậy mà hai chị em tôi cùng chia sẻ từng biến cố lớn nhỏ trong mối tình của chị Thuyền và anh Long. Ðầu mùa Hè, giọng thư chị ướt sủng nước mắt. Chị kể chuyện hôm anh Long về quê nghỉ hè trong khi chị còn phải ở lại trường thêm vài hôm để thi cho xong. Mặc dù anh đã dặn dò chị đừng ra bến xe đưa tiễn chỉ thêm buồn, chị đã lén tìm đến, đứng nép người sau góc tường bên cạnh bến xe để nhìn anh đi mà không dám đưa tay vẫy gọi. Tôi nghe lòng mình cũng quặn đau theo từng dòng chữ chị phơi trải tâm tình trên những trang giấy vô hồn. Tôi tưởng tượng ra vóc dáng nhỏ nhắn cô đơn của chị Thuyền đứng ủ rũ trong bầu trời xám lạnh với những giọt mưa phùn lác đác phất phơ bay. Buổi sáng Ðà Lạt chắc phải “lạnh lùng sương rơi heo may”. Còn anh Long chắc phải vai mang nặng hành lý và “chân bước phân vân lòng ngập ngừng”. Rồi chị Thuyền lủi thủi co ro một mình trở về nữ đại học xá sau khi chuyến xe đò cũ kỷ từ từ lăn bánh mang anh đi xa, chìm khuất trong màn sương trắng xóa mịt mờ. Tôi chỉ tưởng tượng bấy nhiêu đó thôi mà còn lòng đau thổn thức, mắt ứa lệ rưng rưng, thì trái tim hai người trong cuộc chắc phải… bầm dập tan nát đến dường nào. Qua đầu Thu, giọng thư chị Thuyền trở lại xôn xao ríu rít sau những lá thư buồn thảm của mùa hè. Chị và anh Long đều đã trở lại trường để bắt đầu cho niên học mới. Ðà Lạt dễ thương quá, tuyệt vời quá, Liên ơi, vì hôm nay chị đã gặp lại anh Long sau cả một mùa hè dài như trăm năm. Chị lao xao kể chuyện vui tái ngộ. Tôi nôn nao đọc thư, uống từng dòng chữ, lòng nhẹ hẫng lâng lâng.

Sau ngày anh chị cùng tốt nghiệp đại học, chị Thuyền trở về quê đi dạy. Tôi “ghen” với mấy cô học trò ngang tuổi tôi của chị, tự dưng cảm thấy như mình bắt đầu mất mát một cái gì. Ở Pleiku hay Ðà Lạt gì thì chị cũng xa tôi ngút ngàn, và với tôi thật ra chị vẫn còn là “người tình không chân dung” vì chưa lần nào gặp gỡ, vậy mà tôi mơ hồ cảm thấy một Thuyền của Pleiku không còn là một Thuyền của Ðà Lạt ngày nào. Thuyền với đôi tà áo dài thướt tha bay lượn trong bầu trời bãng lãng khói sương của Ðà Lạt nhất định phải nên thơ hơn là Thuyền với áo dài lấm tấm bùn lầy đất đỏ của Pleiku, và buồn nhất là “Thuyền của chị em tôi” đang sống giữa những người… xa lạ vì anh Long phải về Sài gòn tiếp tục lên cao học.
Hơn nửa năm sau, ba má tôi khăn gói theo anh Long ra mãi tận Pleiku gặp gia đình chị Thuyền để làm đám hỏi cho anh chị rồi… để đó, chờ anh Long học xong mới tính chuyện tiến hành đám cưới. Tôi và Trúc thì thấp thỏm trông ngóng chờ ngày anh Long cưới vợ để hai đứa được biết mùi đi máy bay coi ra thể nào. Trúc ăn cắp chữ nó mới đọc trong truyện Thằng Vũ của ông Duyên Anh đem ra áp dụng liền, ngày đêm hớn hở bàn với tôi, “đi máy bay cao tít trên trời chắc phải sướng… rêm mé đìu hiu, chị Liên hả?…”
Hai lần đám cưới trong gia đình tôi, của chị Hiền rồi đến anh Tùng, xe hơi còn chưa được xài đến thì đừng nói gì đến máy bay. Ngày chị Hiền lấy chồng, gia đình anh rễ tôi ở ngay sau lưng nhà tôi, cách nhau cái hàng rào xi măng cao không qua đầu người. Bình thường con cái hai nhà có thể bắt ghế trèo qua trèo lại như không. Dĩ nhiên là chị Hiền chưa bao giờ thú nhận là chị có từng làm chuyện này giống như đám em út của chị hay không. Gần sát bên như vậy, nhưng không thể đón đưa dâu theo kiểu “trèo tường khoét vách” nên ngày cưới của chị Hiền hai gia đình phải đánh một vòng… gần tròn, đi ra tới đầu ngõ, quẹo phải, đi dọc theo đường hẻm bên hông để qua nhà bên kia. Khúc đuôi của đoàn rước dâu còn dồn cục bên nhà trai thì khúc đầu đã vô tới cổng rào bên nhà gái. Chị Hiền chỉ sắp xếp hành lý sơ sài lấy có vì lỡ quên thứ gì thì cứ chạy ra sân sau réo lũ em đưa đồ qua bờ tường. Năm đầu tiên còn ở bên nhà chồng, chị Hiền đi làm dâu mà chiều chiều cứ tuôn về nhà cha mẹ để tụ tập ăn hàng vặt và tán dóc, cãi cọ với em út.
Ðến phiên anh Tùng đi lấy vợ thì nhà bà chị dâu ở bên cù lao nằm giữa sông, đối diện với chợ. Vậy là đoàn rước dâu đi bằng đò, áo xanh áo đỏ, dù hồng dù tím màu mè rực rỡ chói mắt cả một khúc sông. Chiếc xuồng chở đám con nít tụi tôi tròng trành suýt lật úp khi đi vào những con lạch nhỏ vì cả đám cứ xô đẩy lao nhao để chọc hái những trái ổi, trái mận chín hồng thơm tho hấp dẫn đong đưa trên mấy nhánh cây de ra hai bên bờ kinh.
Nghĩ tới đám cưới của anh Long và chị Thuyền, tôi cười thầm, chắc thời kỳ đám cưới “thủy quân lục chiến” bao gồm từ đường bộ đến đường sông trong gia đình đã chấm dứt, không còn cảnh đi bộ tà tà như đi hóng mát hay ngồi đò lênh đênh trên sông nước.

Ðôi khi, trong những lúc “trà dư tửu hậu”, tôi và Trúc hay đem chuyện anh Long và chị Thuyền ra mà mổ xẻ phân tích để chứng tỏ như mình cũng đã hiểu ít nhiều về chuyện yêu đương bồ bịch của người lớn. Trúc cho ý kiến:
– Dĩ nhiên là chị Thuyền phải thương anh Long nhiều lắm, chị Liên há? Anh mình học giỏi, đẹp trai, tài hoa, hiền lành, chung thủy, dễ thương…
Con nhỏ mới bước qua tuổi mười bốn, miệng còn hôi sữa, tập tành nói chuyện tình yêu như dân sơn đông mãi võ rao bán thuốc dán, thuốc tiêu, thuốc tể, cao đơn, hoàn tán…, chỉ còn thiếu hai chữ “mại dzô, mại dzô…”Tôi bật cười. Trúc phân trần:
– Vậy chớ không phải chị Thuyền là người “tấn công” anh Long trước hay sao?
Tôi suỵt suỵt:
– Anh Long mà nghe mày ăn nói kiểu đó thế nào cũng bị cú đầu vài cái.
Anh Long ghét tụi tôi dùng hai chữ “tấn công” này lắm, nói như vậy là ám chỉ chị Thuyền đã “chạy” theo anh, nghe… đại hạ giá con gái người ta quá! Anh hay bênh vực chị Thuyền đủ điều, tụi tôi đồng ý với nhau, ngay cả cái chuyện ai đã theo ai trước nào có mất mát thiệt thòi gì đâu mà anh cũng cố lấp liếm bào chữa cho chị. Có lẽ tại đầu óc anh có phần hơi… cổ lỗ sĩ. Cô Út của tôi đã quả quyết:
– Tao dám chắc thằng Long nhà này là hậu thân của Khổng Tử. Người đâu mà xưa như trái đất!
Từ đó mà anh Long mới có thêm cái tên gọi ở nhà là cụ đồ Long.

Mùa hè năm đó, cuối cùng tôi và Trúc cũng được gặp mặt “thần-tượng-từ-miền-cao-nguyên -đất-đỏ” là chị Thuyền. Nhân dịp nghỉ hè, hai đứa được ba má cho phép lên nhà chị Hiền ở chơi hai tuần lễ, gặp đúng dịp chị Thuyền từ Pleiku bay về thăm anh Long. Mấy anh chị em rủ nhau lên Ðường Sơn Quán ăn uống mừng ngày gặp gỡ. Chị Thuyền mặc áo dài màu vàng rực rỡ như nắng thu, quần satin trắng ống rộng mềm mại phất phơ. Dáng chị đẹp như tranh vẽ, đẹp hơn cả những tấm hình tôi đã được nhìn qua. Tóc chị suông, để dài quá vai, đường ngôi rẻ giữa thẳng tắp. Ngoài đời, nhan sắc chị cũng không thuộc vào hàng xuất sắc, nhưng chị có duyên và được trời phú cho đôi mắt sáng long lanh ướt mềm cộng thêm nụ cười e ấp dễ thương. Tôi có thể đoán được là chính đôi mắt như sao trời của chị đã làm ông anh tôi hụt chân, té nhào. Mắt em là nước hồ thu… Tôi đọc ở đâu đó câu ví von này. Nhìn vào mắt chị Thuyền buổi sáng hôm ấy, tôi hiểu ngay được sự so sánh thơ mộng này. Cả một bầu trời mây xanh nắng hồng rực rỡ như in bóng trong đôi mắt hồ thu của chị Thuyền ngày hôm đó.
Tôi ngồi cạnh chị và anh Long. Ghế ngồi là những gốc cây già cưa ra thành từng khoanh tròn, đặt quanh mấy cái bàn gỗ trong khoảng sân rộng với những tàn lá cao su xanh rì cao ngất ngưởng lao xao nhảy múa trên không. Tiếng xe cộ vùn vụt qua ngang ngoài xa lộ mơ hồ vọng lại âm thanh rầm rì dễ chịu nghe như tiếng ru. Buổi trưa thanh vắng tịnh yên với một chút gió thoáng qua rất nhẹ làm lung linh những giọt nắng chập chờn dọi trên nền đất phẳng phiu. Mà rồi cũng chẳng ai thèm để ý cảnh trí chung quanh vì mải mê nghe chị Thuyền nói chuyện. Chị Thuyền ở ngoài đời có lối nói chuyện ngọt ngào không khác mấy những lá thư chị viết, giọng chị nhẹ nhàng trầm bổng với bao nhiêu đề tài lý thú khác nhau. Chị quay sang hỏi Trúc về “danh lam thắng cảnh” của quê tôi. Trúc cười lúng túng:
– Quê em không có chỗ nào tên nghe hay như ở ngoài Huế của chị hết. Mấy cái tên ở ngoài đó nghe không cũng phát thèm. Trường Tiền, Hương Giang, Vỹ Dạ, Ðông Ba…
Chị Thuyền cười xòa:
– Chị đâu có biết Huế ra làm sao. Gia đình chị dọn vào Pleiku lâu lắm rồi.
Tôi dùng mớ kiến thức văn nghệ nghèo nàn của mình để “cứu bồ” Trúc:
– Thì Pleiku của chị cũng được ông Vũ Hữu Ðịnh với ông Phạm Duy làm thành… bất tử với “phố núi cao phố núi đầy sương…” đến đỗi anh khách lạ cũng phải đi lên đi xuống, đi tới đi lui… Còn Vĩnh Long, chị có nghe bản nhạc nào nói về Vĩnh Long thơ mộng chưa?
– Vậy quê em có gì thì cứ kể cho chị nghe…
Trúc nhíu mày suy nghĩ:
– Quê em có nhiều cầu lắm. Cầu Cái Cá, cầu Cái Côn, cầu Cái Cam… Nghe “cái mà” thấy ghê luôn.
Chị Thuyền bật cười, tiếng cười chị trong veo, ấm áp:
– Rồi gì nữa Trúc?
– Cầu Lộ, cầu Lầu, cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi Heo, cầu Vòng, cầu Ông Me, cầu Bà Ðiều, cầu… đủ thứ giống!
Trúc kể lể một hơi dông dài nghe gần muốn đứt hơi, gom góp hết tên những cây cầu trong thị xã mà nó nhớ được để trả bài với chị Thuyền. Rồi nó nhìn lại nét mặt chị Thuyền càng lúc càng tỏ ra… kinh hải với những tên cầu nghe thật chẳng giống ai, con nhỏ bỗng sượng sùng ngưng ngang, ngồi thộn mặt ra ngó quanh bàn. Mọi người cùng phì cười trong khi chị Thuyền cố nói năng một cách đàng hoàng:
– Em nói đúng ghê. Quê em quả thật là nhiều sông nhiều cầu. Cứ y như là một Venice của Việt Nam!
Chị Thuyền quả thật là người khéo ăn khéo nói, vừa nhanh trí lại vừa lịch sự hết chỗ chê. Dù không biết Venice là cái quái đản gì, tròn méo ra sao và nằm ở xó nào trên năm châu lục địa, tôi chỉ lụp chụp nghe được cái tên ngoại quốc là khoái tỉ tê trong lòng. Ừ, thì Vơ-nít nghe cũng từa tựa như… Vĩnh Long, cùng bắt đầu bằng một chữ V, như vậy chắc chắn là có… bà con xa gần rồi. Anh Long chăm chú lắng nghe tụi tôi nói chuyện, cười tủm tỉm rồi lắc đầu làm bộ ra vẻ chán nản ê chề.

Hôm chị Hiền đột ngột về thăm nhà, tôi đoán chắc có chuyện gì không ổn, dựa theo cái vẻ đi đứng bồn chồn nóng nảy, mặt cau mày có của chị từ lúc bước chân vào nhà. Sau buổi cơm chiều, khi mấy chị em quây quần quanh bàn ăn chăm chú nhìn má dạy cách đổ rau câu sơn thủy, chị mới thì thầm kể lể với má:
– Vụ thằng Long với con Thuyền chắc là không xong đâu má à!…
Má tôi ngước lên nhìn chị Hiền, không giấu được sự ngạc nhiên:
– Sao vậy? Bộ tụi nó hục hặc gì hả?..
Chị Hiền thở ra:
– Anh Quang con có người bạn cũ cùng dạy một trường với con Thuyền, người ta biết Long là em con nên mới nói cho biết là con Thuyền đang cặp bồ với một anh chàng giáo sư cùng trường. Thành phố nhỏ xíu nên chuyện trong nhà chưa hay thì ngoài ngõ đã biết. Hôm tháng trước thằng Long bay ra ngoài đó gặp con Thuyền để hỏi rõ sự tình, con Thuyền thề sống thề chết là nó vẫn thương, vẫn chờ thằng Long. Thấy cũng tạm êm rồi…, ai dè đâu tuần trước bạn thân thằng Long làm việc ở ngoài Nha Trang lại gọi cho nó, nói gặp con Thuyền ở khách sạn với người đàn ông nào coi thân mật tình tứ lắm. Con Thuyền trông thấy nó là mặt mày xanh lè, hết đường chối cãi…
Má tôi buông người nặng nề xuống ghế, ngước mắt nhìn chị Hiền nhưng không nói được lời nào. Tôi bỗng thấy nghẹn thở và không muốn nghe tiếp những lời chị Hiền kể lể. Chưa yêu ai ngày nào mà tôi cảm thấy đau đớn như chính mình là người bị phụ tình. Chị Hiền ôm vai má tôi, nhẹ giọng vỗ về:
– Con về đây để nói cho má biết là thằng Long mới đánh điện tín ra Pleiku cho ba mẹ con Thuyền hôm qua để xin từ hôn.
Ðó là lý do chị Thuyền đã vội vã bay về Sài gòn để xin gặp mặt anh Long. Tôi bần thần suy nghĩ tới lui, nhưng không đoán được tại sao chị còn năn nỉ van xin anh Long tha thứ để làm gì. Mọi chuyện hình như đã đi quá xa, như những vòng bánh xe lăn đã đưa đến sát bên bờ vực thẳm mà không còn cách nào đứng dừng hay quay đầu trở lại.
Buổi tối, tôi và Trúc rút vào phòng sớm hơn thường lệ, thì thào bàn bạc về chuyện mới xảy ra. Hai đứa cùng ngẩn ngơ đau khổ như nhau. Tôi bỗng dưng nhớ đến mẫu giấy tập học trò lấm tấm vài vệt nâu loang lổ mà tôi và Trúc tình cờ nhìn thấy trong cái bóp da nhỏ của anh Long. Anh Long giải thích, đó là tờ giấy chị Thuyền đã gói ô mai tặng anh để làm quen. Trúc nghe qua, nhăn mặt kêu lên:
– Em đâu biết cụ đồ Long mà cũng biết ngậm ô mai cam thảo…
Tôi hả họng cười:
– Vậy chớ mày không nghe má thường hay nói sao, khi người ta thương nhau thì biểu ăn “bùa mê thuốc lú” gì cũng ăn, nói gì tới ba cái ô mai, xí muội, cánh chỉ, trần bì…
Ðó là chuyện vui trong quá khứ. Còn hiện tại thì mấy anh em tôi cay đắng cùng nhau ngậm… bồ hòn. Tôi và Trúc lục soạn moi móc ra hết những tờ thư cũ của chị Thuyền, ngồi lẩm nhẩm đọc lại từng dòng chữ như để tìm bất cứ dấu hiệu nào cho tụi tôi có thể đoán biết là một ngày nào đó chị sẽ hững hờ quay lưng. Dĩ nhiên là tôi không tìm thấy gì hết. Cho nên tôi tự an ủi là tình yêu một thời chị dành cho anh Long là điều có thật. Những giọt nước mắt chị nhỏ xuống với anh là những giọt nước mắt chân thành. Và có lẽ, ngay cả những lời cầu xin anh tha thứ cũng xuất phát từ trái tim, mặc dù tôi không đoán được chị sẽ xử sự ra sao nếu anh đồng ý chấp nhận cho chị quay về. Tôi không biết chị đã tìm được một tình yêu khác trưởng thành hơn tình yêu lãng mạn và mong manh của thời làm sinh viên mơ mộng, hay chị đang hốt hoảng cuống quýt chợt nhận ra giá trị của những gì sắp sửa vuột xa ngoài tầm tay với. Dù có là gì đi nữa, trong thâm tâm tôi biết chắc là chị không hề dự định chỉ yêu anh Long một thời cho… vui. Tôi thầm đoán, trên một đoạn đường đời đã cùng đi chung bước, như bao nhiêu đôi tình nhân khờ khạo ngu ngơ khác trên cõi đời này, hai người cùng trao nhau bao lời thệ nguyền dài lâu bằng cả tấm lòng thành mà không nhìn thấy trước được những thử thách gian nan, những hố thẳm vực sâu đang chực chờ trước mặt.
Tôi lẩn thẩn nghĩ, cái câu “duyên số tại trời” của má suy ngẫm vậy mà… có lý. Có lẽ cuối cùng thì cũng không phải lỗi tại ai mà chỉ tại… ông trời. Nhưng rồi tôi thấy phân tích lung tung để chứng tỏ mình là người hiểu biết, bao dung và… quân tử là một chuyện, sự thật thì nỗi đau vẫn nằm nguyên đó, là cũng như anh Long, tôi đã mất chị Thuyền. Mất đành đoạn xót xa. Mất bàng hoàng tức tưởi. Khi bị tình phụ thì chắc người quân tử chính hiệu con nai vàng hay người quân tử… tàu cũng đều đau khổ quắt lòng, cũng đòi đoạn tâm can như nhau!..
Tôi ngồi co người ở mép giường với hai tay vòng ôm gối, đầu lắc lư nhịp nhàng theo tiếng mưa rơi gõ đều trên mái ngói, bâng khuâng nghĩ đến chuyện sẽ chẳng bao giờ còn nhận được những lá thư mang nét chữ quen thuộc từ “phố núi cao, phố núi trời gần…” nữa, và tự dưng nghe lòng buồn quá đỗi…

Còn vui không,
trái tim Hà Nội?
Phan Các Chiêu hằng
Trong những giấc mơ dài thảng thốt
Mắt đăm đăm nhìn suốt cuộc đời
Tuổi chưa già sao nghe thấm mệt
Giữa ngày hoang đường lặng im trôi

Vẫn là em ngây thơ, tội nghiệp
Choàng trên vai chiếc áo tình nhân
Ngày xanh như tuổi chưa mười tám
Mộng nghiêng trời, tóc xõa ngang lưng

Trong những giấc mơ dài nhức nhối
Chợt nghe thơm bụi đất nồng nàn
Đong đầy tận cùng hai lá phổi
Hồn nẫu mềm hơi thở quê hương

Vẫn là em thẹn thùng, ngần ngại
Tim trinh nguyên rất đỗi dại khờ
Yêu người nên nghe Thiên Chúa dạy
Tình đầu nào không rộn rả, vô tư
Trong những giấc mơ dài ngóng đợi
Mưa bát ngát thơm gió đêm hè
Đèn vàng hiu hắt bên song cửa
Không đủ nhìn nhau qua sương che

Vẫn là em nhịp chân cuống quít
Đường xôn xao tiếng guốc xuân thì
Làm bụi vương mắt chàng Hà Nội
Ngọt lịm hàng me bên lối đi

Trong những giấc mơ dài ủ rũ
Co ro như cô nhện dại khờ
Nằm tương tư lá hoa vườn cũ
Nhai tơ sầu giăng ngang lối xưa

Vẫn là em môi hồng hé mở
Như lá run rẩy nụ hôn đầu
Từ người xa cuối trời bụi đổ
Lạnh chưa dòng lệ ướt vai nhau?

Trong những giấc mơ dài quay quắt
Còn gì không một chút bâng quơ
Hình như đôi lần nghe nước mắt
Vỗ về trên ngày tháng mơ hồ

Vẫn là em đường ngôi rẻ giữa
Tóc mây trôi nghìn sợi âm thầm
Còn vui không, hỡi tim Hà Nội?
Như tình đầu trong trí nhớ em

Trong những giấc mơ dài rộn rả
Vẫn đôi chân Phật tử ngoan hiền
Theo chàng chiều giáo đường xem lễ
Chúa cũng cười, quên nghe Thánh kinh

Vẫn là em hồn chưa nghi ngại
Tiếng cười dòn tan bên dốc mơ
Còn vui không, trái tim Hà Nội?
Như chút tình duyên của tuổi dại khờ…

Kim Oanh
Gọi mưa về
Nhớ một thuở ngày xưa trên phố nắng
Đôi mắt nai hiền lặng ngó vu vơ
Hồn anh lạc vào cõi vắng nên thơ
Nghe hơi thở tỏa đầy men nhung nhớ

Ta gọi mưa về cho hoa tình đua nở
Giữ bước chân cho giấc ngủ thơm nồng
Cho muộn phiền tan vào chốn trời không
Tìm hương tóc ướp thơm ngày tháng mộng

Nắng hôm nay trốn vào miền gió lộng
Tuyết đông về bến mộng cũng hư hao
Gọi tên nhau nghe tình nhớ ngọt ngào
Đôi vai nhỏ run run trong cơn bão

Hãy quên đi mặc đời nghiêng chao đão
Hãy xóa tan giấc ngủ vướn ưu phiền
Thả hồn thơ vơi những nỗi niềm riêng
Đan hạnh phúc giăng đầy vùng kỷ niệm.

Một lần đến tuổi ngọc ngà diễm tuyệt!
Hoàng hôn về kết tím mộng tình thơ!

Đôi bờ
Nắng vàng trải lụa mênh mômg
Sao nghe nhung nhớ ngập lòng phút giây
Sóng xô tình vỗ mạn đầy
Lòng sầu vạn nỗi vơi đầy bến sông

Thuyền trôi trôi mãi xuôi dòng
Biết chăng bến vắng long đong đợi chờ
Cách chia cũng bởi đôi bờ
Sầu giăng mấy nẻo vật vờ dấu yêu.

Thuyền về bến vắng tiêu điều
Lửa thiêu đốt cả tim yêu cạn dần
Bến xưa vùi lấp xác thân
Giang đầu tiển biệt dương trần còn chi.

Bến xưa
Nơi đây bến vắng đìu hiu
Thuyền đi một bóng cô liêu đợi chờ
Nơi đây bến vắng chơ vơ
Thuyền đi chở mảnh trăng mơ khuất dần

Thuyền đi xa mãi ngàn khơi
Từng dòng nước mắt tuông rơi những chiều
Thuyền ơi! Bến vắng tịch liêu
Biết chăng một bóng quạnh hiu mõi mòn?

Thuyền anh một chuyến quay về
Bến em ngày ấy trăng thề hẹn nhau
Tình xanh dù đã úa nhầu
Chờ nhau – Chờ những cơn đau..dịu dàng!

Song An Châu
Xuân này
gởi cả cho em
Thư gởi em từ nửa vòng trái đất
Chở ngàn thương từ xứ sở đất lành
Qua Đông rồi cây lá nẩy mầm xanh
Xuân hy vọng gởi về cho em đó.

Gởi em vần thơ thơm mùi hoa cỏ
Nắng Xuân về hoa lá trổ đầy sân
Gởi đến em lời thăm hỏi ân cần
Ngàn thương nhớ với đôi lời tình tự.

Gởi cho em hương nồng thay ngôn ngữ
Của yêu thương và nhạc khúc mừng Xuân
Gởi cho em lời thương mến chúc mừng
Trong vị ngọt cùng vòng tay nồng ấm.

Gởi cho em cành hoa Xuân hồng thắm
Tượng trưng tình nồng ấm với niềm vui
Gởi cho em lời thương nhớ không nguôi
Ngàn cánh hoa trong dòng sông tình ái.

Tình khúc cho em Mùa Đông
Trời hôm nay vào Đông lạnh giá
Gió đông về lạnh cả tim côi
Anh xa em đã mấy đông rồi
Nhưng vẫn giữ tình em gái nhỏ.

Điệu valse buồn dìu nhau ngày đó
Không phai nhòa theo bước chân em
Ôm vai em, da thịt em mềm
Làm anh nhớ những chiều mây trắng.

Tay trong tay thầm lặng bước đi
Kề bên nhau không nói năng gì
Từng nhịp bước thả hồn vào mộng
Mơ ngày nào đôi ta chung sống.

Yêu thương nhau dưới một mái nhà
Không sang giàu, nhưng mà nồng ấm
Tình lên ngôi, sắc màu thắm đậm
Suốt cuộc đời tình ái chúng ta.
Anh yêu em như chiều nắng Hạ

Ánh sắc vàng bao phủ thế gian
Như ánh sáng lan tràn khắp lối
Như muôn vì sao sáng vô vàn.

Chiều mưa phố nhỏ
Chiều nay phố nhỏ mưa rơi
Giọt mưa tí tách buồn ơi là buồn!
Bỗng dưng nhớ quá người thương
Nay tôi viễn xứ một phương trời sầu
Em ơi! giờ ở nơi đâu?
Trăm năm vẫn nhớ tình đầu em ơi!
Chiều nay phố nhỏ mưa rơi
Tôi ngồi nhớ lại một thời yêu thương
Khi xưa tưởng đã chung đường
Đâu ngờ trắc trở lại vương mi buồn
Giờ đây mỗi đứa mỗi phương
Anh nay viễn xứ, em nương nơi nào?

Lòng tôi cảm thấy nao nao
Chiều mưa phố nhỏ, ôi! sao quá buồn!

Thương người năm cũ…
Thương em… dù ở cách xa
Nửa vòng trái đất, nhưng mà… vẫn thương.

Thương em… thương cả con đường
Ngày xưa đi học, em thường đi qua…
Nhớ hoài cái thuở chúng ta
Trên đường đi học hái hoa vệ đường.

Anh cài mái tóc… nói “thương!”
Cành hoa ngày ấy vấn vương anh hoài
Bao năm rồi… đến hôm nay
Anh xa quê mẹ vẫn hoài nhớ em.

Nhiều đêm trăng rụng bên thềm
Hương hoa ngày ấy phất lên… hương Lài
Nhớ hương mùa cũ thoáng bay
Mà sao trong mộng ngất ngây hương tình.

Thương em… thương nụ cười xinh
Ngày xưa trong lớp chúng mình bên nhau
Lòng anh cảm thấy dạt dào
Nhưng vì e thẹn không trao lời tình.

Thế rồi, chinh chiến điêu linh
Đâu ngờ đôi ngã chúng mình xa nhau
Giờ em đang ở nơi đâu
Còn thương người cũ… ngày nào không em?

vĩnh tuấn
Thơ hát ru đời
Ta làm thơ hát ru đời
Nhân gian xin gởi vạn lời cho nhau
Thời gian dù có qua mau
Trời trăng mây nước một màu không phai
Ta làm thơ hát ru ai?!
Ru tình-ru bạn-ru người trăm năm.

Cho Phạm tương như

Tương Như đứng giữa vô thường
Rót lời thơ nhẹ tơ vương với đời
Rằng là lỡ nhập cuộc chơi
Cũng xin được chúc “ Tuyệt vời nhân gian”

Nguyễn Lập Đông
HẠT BỤI PHẠM TƯƠNG NHƯ

Bao giờ em hiểu được
Nỗi lòng hạt bụi bay
Đậu trên bông cỏ lạ.

Bao giờ em hiểu được
Nỗi lòng những đám mây
Bay một đời vô định.

Bao giờ em hiểu được
Đêm chập chờn mộng dữ
Toàn hà bá – thiên lôi.

Bao giờ em hiểu được
Ly rượu và nước mắt
Uống tràn qua đêm thâu.

Hoài Hương
Niêm Luyên Lưu Ngọt Ngào
Sáu giờ sáng phố nhỏ chìm trong biển sương mù trắng xóa, khí trời ban mai thoáng mát, tỏa lạnh cùng khắp núi đồi. Thoang thoảng hương bưởi thơm từ ngoài vườn bay vào. Thật dễ chịu.
Mười thức dậy, mở tủ lấy áo lạnh mặc vào, nàng xuống bếp cắm điện nấu nước sôi. Pha cà phê cho anh Khánh uống, (anh đi làm sớm tại Hotel Palace, anh nổi danh là một cây đánh ténnis xuất sắc, anh thường giật cúp vàng, bạc, mỗi khi thi đấu cùng các cao thủ từ Thủ Đô đến dự tranh. Mấy chiếc cúp danh dự đang chưng bày nơi phòng khách. Anh có biệt danh là Tư Cóc. Giới thể thao Đà Lạt và khu xóm nầy, không mấy ai không biết tên anh).
Anh Khánh ngạc nhiên hỏi:
-Saohôm nay cô đặc biệt thế?
Nàng ngại ngùng ghê. Làm sao nói được! Làm sao nói hết những xôn xao trẻ dại của người con gái trước cảnh đời rộng mở hôm nay!
Cả nhà thức dậy khi mặt trời bừng lên ở phương đông. Mười mặc áo dài ”hắc y nữ hiệp”, Mười thích màu tím, màu đen, màu vàng. Không hiểu tại sao thích những màu ấy!? Vừa mặc thêm áo lạnh màu xanh cẩm thạch, chị Khánh gọi:
– Mười à! Ra đây chị biểu cái nầy.
– Dạ.Trống ngực đánh loạn xạ. Nàng hồi hộp lo sợ khi vào nhà kho gặp chị. Chị đang kiểm lại kho lương thực; chị nhìn em từ đầu đến chân, rồi nói:
– Đi đóng tiền huê ngoài cô Ba Chỉ cho chị, lúc về mua một bóng đèn tròn, mua chục hoa hồng. Nhớ chưa?
– Dạ nhớ.
– Tính đi đâu đó?
– Em đi trả phù hiệu cho trường, chị à.
Không nói gì, chị Khánh đưa tiền và giấy tính tiền, chị và nhìn nàng y như lần trước. Lồng ngực bé tí xíu của cô em nổi lên nhịp trống, mạnh đến nỗi em sợ chị nghe thấy, thì phiền lắm. Đây là lần đầu tiên Mười nói dối ngọt xớt.
Ra ngã ba Đào Duy Từ và Yersin, Mười thấy Nam mặc bộ complé, đi tới đi lui ở điểm hẹn, điếu thuốc đỏ gài trên môi. Từng làn khói vờn quanh khuôn mặt vật vờ bay lên. Nhìn thấy nàng, chàng vứt điếu thuốc xuống lề đường, Nam lấy gót giày dậm tắt, rồi tiến về phía nàng, Nam cười vui. Mười hỏi:
– Nam chờ Mười có lâu không?
– Mươi phút thôi, nhưng thấy… lâu ơi là lâu.
– Em đi đúng giờ mà.
– Đồng hồ tự động biết anh sốt ruột. Nên co giản kiểu cao su ấy mà.
– Nó hợp gu với hoàn cảnh của mỗi người. Anh nhỉ.
Nhìn nhau mỉm cười âu yếm, ánh mắt trao đưa nồng nàn. Đón taxi ra phố, Nam nghiêng đầu trên mái tóc nàng, giọng nói êm ái, hơi thở ấm áp len vào tóc nàng:
– Đêm qua, em ngủ có ngon giấc không?
Nàng nũng nịu lắc đầu không nói, Nam tiếp:
– Anh cũng vậy, trằn trọc mãi không sao ngủ được. Khiến hai bạn mất ngủ luôn. Thạch, Trung, dậy trêu phá anh một hồi lâu. Họ pha cà phê uống, hút thuốc. Ra balcon ngắm thành phố mờ ảo, ẩn hiện trong biển sương mù. Bây giờ hai anh đó vẫn ngủ li bì. Mười có biết tại sao chúng mình ngủ không được không. Hả em?
Tại sao? Nàng biết rồi. Biết, nên em nép đầu bên vai anh, e ấp kéo mái tóc dài che bớt bên má hồng, để dấu nỗi thẹn thùng; cho chàng đừng trông thấy. Bởi vì, có nhiều điều quá sức lạ lùng, đến nỗi tim mình như chạm phải dòng phún thạch.
Xe ngừng ở đầu tiệm Vĩnh Hòa, hai người làm công việc chị Khánh dặn xong. Nam mua quyển sách “Kim chỉ nam của học sinh” do Nguyễn Hiến Lê” viết. Mua tờ nhật báo. Mua kẹo, chewing gum. Chocolate. Nam định đón taxi, nhưng nàng gạt đi, sợ anh tốn tiền. Vả lại tản bộ bên nhau thú vị biết mấy. Dù cõng thêm mấy thứ đồ đạc, lỉnh kỉnh lủng củng. Nhất là có cái nón lá kè kè bên hông coi nhà quê nữa chứ! Mặc kệ! Chả sao cả.
Qua khỏi cầu Ông Đạo rẻ về lối Thủy Tạ. Nam vội nắm tay nàng dừng lại chờ chiếc xe hàng qua mặt. Có thế thôi. Phải! Chỉ có thế thôi. Thế mà, đôi bàn tay hai người chợt nóng chợt lạnh, như có dòng điện vút qua. Khiến tay nàng run rẩy trong tay chàng. Dù chỉ có thế thôi. Nam mỉm cười thầm nghĩ: “Từ giờ phút nầy trong tâm tư của anh và em, sẽ luyến lưu ngọt ngào, và chẳng bao giờ lặng yên nữa rồi”.
Hai người thả bộ xuống cuối Thao Trường, họ ngồi dưới chòm thông cao, xanh ngắt, ngút ngàn. Nhìn xéo về hướng phải trước mặt là vườn Bích Câu Kỳ Ngộ bên kia hồ. Thỉnh thoảng Mười bóc chewing gum đưa cho chàng; Nam bóc chocolate đưa nàng. Nam đốt điếu thuốc thơm; vì gió lộng thổi nên chiếc nón lá Mười đội trên đầu bay vù vút vút ra trên mặt hồ. Ô hô! Mất nón rồi, Mười sẽ về nói dối làm sao với chị Khánh đây cho khéo nhỉ?
Mười lấy tờ báo che chiều gió. Điếu thuốc vẫn không cháy, lần nầy nàng lấy chiếc veston của Nam đang vắt trên băng ghế đá, và trùm trên đầu hai người, phía trước vẫn che tờ báo. Đánh hai cây diêm một lúc, chàng cười:
– Lần nầy nếu không có lửa, anh bỏ hút thuốc.
– Anh nói thật nhe.
– Ơ… nghe hù vậy, sợ anh giận, nên gió ngừng thổi, anh đã có lửa hút thuốc kìa. Em có bắt chước gió. Dỗ dành khi anh giận không em?
– Em không thèm dỗ người thích hút thuốc.
– Khổ thật.
Chàng quàng chiếc áo veste lên vai nàng cho đỡ lạnh, Nam âu yếm cụng nhẹ vào đầu nàng. Hơi thở ấm nồng vương trên làn tóc rối, như làn sương mong manh. Chàng cầm tay nàng, Nam muốn nhìn đôi má đào ửng hồng ấy, ngắm hai hàng mi cong cong chơm chớp, bẽn lẽn ngại ngùng ấy, thấy hàm răng trắng bóng đều đặn, e dè cắn lấy làn môi Mười. Nam rất yêu nàng vì nét ngây thơ hồn nhiên, pha chút bối rối thẹn thùng của tuổi thơ ngà ngọc xanh ngát, đôi mắt Mười sáng long lanh chưa vương bụi đời, và Nam yêu nụ cười nàng rạng rỡ làm thắm khuôn mặt. Nhất là Mười thông minh, hiểu Nam, nàng cảm nhận sâu sắc điều mình chưa diễn tả về vấn đề nào đó.
Ôi! Nam yêu Mười như trời yêu đất. Như suối yêu ngàn. Như chim yêu cánh. Như cây yêu cành. Như đồi thông yêu tiếng thông reo. Như dãy trường sơn yêu mây tím lưng trời. Như tinh tú yêu hằng nga. Như sao yêu đêm. Như cá yêu nước. Như Nam từng ngất ngây yêu Mười, như những… “nàng yêu chàng” trên thế gian nầy.
Nam muốn thì thầm khe khẽ nói với Mười điều nầy, nhưng em đừng giận nhe:
– “Phải rồi em ạ! Trên đời nầy, nếu không có em, thì từ nay xin sẽ không còn anh. Chúng ta hãy xiết chặt tay nhau đi hết cuộc đời, có khi phẳng lặng bình an, hay có lần dốc đá cheo leo cách trở. Em nhé. Từ ngày hôm nay, của anh là của em. Tương lai cuộc sống của Nam là của Mười. Đếm được bao nhiêu sao trên trời, anh sẽ gom lại. Trao về em bằng ngần ấy tình yêu tha thiết, nâng niu và trân trọng. Tất cả… Bầu trời, tinh tú, gió mây, sông nước, biển cả, núi non, ao hồ. Trên vũ trụ nầy là của chúng ta. Của muôn người yêu nhau say đắm trên trái đất. Ta theo nhau suốt đời, dù có “ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa”. Cũng đành. Em có muốn anh thổ lộ tâm tư thầm kín trong đáy lòng anh? Hay là em đã biết tỏng tong rồi! Khiến anh cảm thấy ngại ngùng, không dám nói ra”.
Nhìn chiếc áo veste khoát trên vai, Mười nói:
– Tóc em cùng màu với chiếc áo của anh.
– Về nhà nhớ em, anh chỉ biết đem chiếc áo ra nhìn. À, mấy câu thơ nầy trong: “Những Bức Thư Tình Hay Nhất Thế Giới”. Anh đọc lại, em nghe nhé: “Anh nhớ nụ cười, gương mặt, suối tóc, làn môi, Anh nhớ em ngay từ buổi chia phôi. Anh mong mỏi ngày về, gặp gỡ”.
Hai người chụm đầu bên nhau thảo luận một hồi lâu, sau đó cùng làm bài thơ kỷ niệm: Tiễn Anh.
Bàn tay lại tìm nhau vấn vít bàn tay, cho tim Nam tan ra trăm ngàn mảnh, cho lòng dạo khúc hoan ca, mừng vui cuống quýt. Ôi! Đôi mắt ấy quyện hút lòng chàng, soi dọi vào lòng Nam vùng trời tình yêu có hào quang rực rỡ huy hoàng. Nơi ấy hứa hẹn bến bờ hạnh phúc đời mình. Là suối mát, tình yêu bất diệt. Là giấc mơ hoa không lụi tàn.
Mười một giờ trưa, họ dìu nhau trở về trên con đường lộng gió dưới bóng mát hai hàng cây xá lị ven đại lộ quạnh vắng dẫn qua lối Hotel Palace nên thơ. Họ không thấy mỏi mệt, lòng chợt lắng xuống với niềm vui thả bộ. Ôm mấy thứ lỉnh kỉnh, tay kia chàng nắm tay Mười như sợ “em tôi thất lạc” mất. Nam nói:
– Nếu em bị mệt mỏi, vì phải đi bộ nhiều hôm nay. Lát nữa về nhà, em pha khoảng trăm gram muối cho vào nước ấm mà tắm. Hoặc ngâm chân trong xô nước ấm có pha muối. Em sẽ thấy dễ chịu ngay.
Chưa kịp trả lời Nam, chợt Mười nghe tiếng ai gọi tên mình ơi ới sau lưng. Nàng giật mình quay nhìn. Thì ra Nhan chở Nga bằng xe gắn máy, họ chạy về đường Trần Hưng Đạo. Hai cô bạn nhìn Mười và cười tít mắt. Nhan giơ cao nắm đấm dọa nàng. Còn Nga giơ cạnh bàn tay cứa lui cứa tới ngang sau gáy Nhan. Và chỉ về phía Mười. Họ cười ngất.
Mười ngẩng nhìn Nam, thỏ thẻ nói:
– Chết rồi! Bị bắt gặp, mai mốt tha hồ họ làm tội, làm thịt em. Anh à.
– Em có sợ không?
– Ồ! Có chứ. Thầy Đệ còn sợ đám học trò đó. Họ nghịch như “quỷ xứ”. Nhưng… anh có biết, ai là đầu đảng không vậy?
– Chắc là… em rồi.
Mười nhìn anh, phì cười:
– Anh đoán hay thật.
– Nếu anh không hay! Sao ngày đó anh làm quen em được kìa.
Nàng kể nhiều chuyện đùa nghịch trong lớp cho chàng nghe. Họ khoái chí cười to. Lúc đi ngang qua bưu điện, Mười ghé vào lấy thư lưu trữ. Đúng như dự đoán, có thư Nam. Thư Nam gửi trước cả tuần; sau đó chàng mới lên Đà Lạt. Thế mà người đã đến trước thư. Nàng yêu cầu chàng đọc thư cho mình nghe. Nam mỉm cười cặp mấy quyển sách, báo, ở dưới nách, chàng đưa chục hoa hồng, nhờ nàng cầm hộ. Xé thư ra, Nam làm bộ hắng giọng mấy lần lấy hơi, để trêu đùa Mười, chàng bắt đầu đọc:
Sài Gòn, ngày 26 tháng 10 năm l9…
Em Mười thân ái,
Vừa ở thư viện về, thì Toma cho anh biết có thư em. Anh mừng quá định lấy thư xem. Nhưng chú ta không chịu đưa. Nó cầm phong thư chạy lên lầu ba, lên sân thượng. Bắt anh chạy theo năn nỉ nó, bằng cách là anh phải đãi nó một chầu ciné, và ăn cơm ở tiệm Victory. Chú ấy mới chịu đưa thư cho anh. Thế đấy.
Mười ơi! (Em dạ đi) Khỏi cần dài dòng, em biết là anh nhớ em như thế nào rồi. Nhất là buổi chiều trời mây vần vũ trên Đô thành. Con đường Duy Tân xám ngắt như cuộc đời của chàng trai đang nhớ người yêu. Nam nhớ Mười. Anh yêu em. Và lòng anh cố gắng gượng để khỏi thổn thức giữa cơn buồn.
Anh ngồi đây giữa cánh thư màu xanh và những xương hoa, mà em đã ép rồi gửi về anh. Ah ha! Nói đến hoa, anh phải nghĩ đến Đà Lạt. Nhớ đến hoa anh nhớ Đà lạt. Chỉ vì ở Đà Lạt mới có đầy đủ một vườn hoa thành phố núi, đủ mọi loài hoa tuyệt diệu: Từ loài hoa Daisy. Tulip. Pensée. Mimosa. Violette. Forget Me Not. Mãn Đình Hồng. Anh Đào. Mồng Gà đỏ tía. Hoa Mận. Hoa Roi. Hoa Huệ. Hoa Lan. Cả loài hoa phù dung rất đẹp. Hoa quỳ cánh lá tỏa rộng mọc dễ dàng, ở bất cứ nơi đâu. Không cần ai chăm sóc, nó vẫn xanh lá vàng hoa bốn mùa nữa chứ! vân vân…
Tại thành phố muôn hoa đó. Có cả người con gái khá độc đáo. Mà, anh rất yêu. Nàng ưa ép hoa trong trang sách học trò, rồi gửi trao tặng anh. Anh ngồi đây với suy tư chất chồng, qua phong cách em viết thật đặc biệt. Lời lẽ trong thư giàu chất thơ, pha lẫn tính bông đùa tươi trẻ của mạch văn. Khiến người đọc cảm thấy mình sống lại tuổi thơ rong chơi thuở thiếu thời. Em như viên đá lóng lánh chói sáng hơn viên đá quý, mà anh đã gặp. Bởi thế, khi em phân vân hỏi anh:
– “Sao ở nơi xa hoa hào nhoáng. Anh không chọn ai, mà anh chọn em? Em hoang dại vụng về, đơn sơ giữa chốn gió núi mây ngàn nầy thôi?”
(Theo anh nghĩ, đó là một cách nói của người tự biết mình, và biết người nữa. Mười yêu! Trăng đêm nay ở Sài Gòn buồn như ánh đèn vàng vọt ngoài phố. Sao rơi rụng từng mảng u sầu. Mây xám nhạt từng cuộn lang thang trôi. Đại lộ Duy Tân càng về khuya, càng ít người qua lại. Khuya về trắng cả tâm tư anh. Tiếc rằng thiếu một cơn mưa phùn, cho trọn vẹn khúc nhạc thê lương đang trổi trong lòng. Ngồi trên sân thượng, anh miên man nghĩ đến em. Nghĩ đến bóng hình tha thiết bắt anh lo âu chờ đợi, (khi anh chưa nhận thư em. Dư âm đó, bây giờ anh còn thấy sợ. Mặc dù anh vừa đọc thư em).
Nầy nhé! Anh ngắt em một cái, để bắt đền cái tội em bắt anh đi bộ theo em trên con đường mưa phùn. Anh nhéo em hai cái; bắt đền tội em giận anh, không thèm viết thư đều đặn như đã hứa. Cào em ba cái bắt đền (nhè nhẹ thôi mà, hổng đau đâu) vì anh nhớ mong và trông chờ. Cấu Mười . . .
Coi kìa! Sao em giựt cây bút, không cho anh viết tiếp, thì anh giận em thật à. Ta giận nhau rồi, còn ai viết thư để anh len lén đọc thư tình và khúc khích cười? Còn ai ngắm nhìn em cho tình hồng dâng lên sóng mắt? Ai dìu em đi giữa buổi hoàng hôn sương trắng núi đồi? Ai đưa em về trên vũng nhạc, rừng thơ? Hai người cùng che chung một áo mưa, mặc cho gió bão gào thét trên đôi mái đầu!? Ai đón em đi xem thắng cảnh Đào Nguyên thơ mộng của Đà Lạt như: Cam-Ly, Prenn, Liên Khương, Gougah, Pongour, Suối Vàng, Suối Bạc, hồ Xuân Hương, hồ Lãng Ông, hồ Than Thở, Sân Cù, rừng Ái Ân, Thung Lũng Tình Yêu, Đồi Thông Hai Mộ, cùng nhiều con đường mòn ngoằn ngoèo lượn khúc, ẩn khuất uốn quanh sườn đồi có cỏ nâu vàng mịn óng như nhung?!
Mười ơi! Anh yêu buổi chiều Đà Lạt trời mây vần vũ. Anh thích lang thang theo cánh gió lạc giữa phố phường. Anh yêu những cơn mưa phùn thật nhỏ vướng theo gót chân, trên con đường khuya vắng độc hành. Có lúc một mình anh dừng lại giữa lòng thế kỷ, lần mò túi áo kiếm điếu thuốc lá và gài trên môi, anh ngửa mặt lên trời đêm đầy ánh sao, anh thổi ngụm khói tròn như chữ O, làn khói dần tản mạn trong không gian. Anh vuốt mái tóc phiêu bồng, lại lặng lẽ thả gót giày trên phố hoang vắng. Mang theo hoài bão, mộng ước thời mới lớn. Và một bóng hình em bé nhỏ thân yêu canh cánh bên lòng.
Với biến cố lịch sử, qua bi hài kịch trong cuộc đời đã dự kiến. Tất cả… và tất cả… Anh cố tìm nguồn an ủi từ người em nhỏ ở phương xa. Nhưng sao anh không đủ can đảm viết thư. Dù trong thư anh chỉ viết vỏn vẹn có ba chữ: “Anh yêu em”. Hoặc “Anh nhớ Em”. Vì rằng… Mười tiết kiệm ngôn ngữ, keo kiệt bút từ ghê gớm. Khiến anh phải dè dặt. Nhưng rồi… em lại hé mở cho người nhận thư, một khung trời suy tư, mơ mộng, dạt dào cảm xúc. Với hoài vọng và hy vọng. Em có biết cho anh chăng? Hay có thế thôi nào!?.
Vâng! Em chỉ có thế thôi. Em không thể hồi đáp lòng khao khát, mòn mõi nhớ nhung nầy hơn qua ba tiếng: “Mười ghét Nam”, hoặc “Nam dễ ghét”. Nếu em nói “phản nghĩa” ba tiếng trên, thì quý giá biết bao! Em nhỉ!
Cay đắng với niềm xót xa muộn màng, anh vẫn thì thầm bên tai Mười ba dấu: chấm chấm chấm … (tùy em muốn nghĩ gì ở ba dấu chấm chấm chấm nầy thì…) Mười ơi! (Em hổng thèm dạ nữa nghen, em cứ dạ hoài mệt lắm ha). Hôm nào nghỉ lễ, anh và hai bạn tên Ngọc Thạch và Tấn Trung, sẽ lên Đà Lạt quan sát tình hình vài ngày; trước khi anh dự định chọn lên học tại Viện Đại Học Đà Lạt nầy.
Lúc ấy em có chịu cùng anh đi dạo phố phường? Em có vui vẻ chuyện trò với anh? Em có nhớ nhung trong nỗi nhớ nhung tràn ngập cõi lòng anh? Em có vui cho anh cùng vui? Có cười cho anh tận hưởng dung nhan mùa xuân tươi mát? Nơi thiên nhiên cao nguyên Lâm Viên đặc biệt ưu ái đến các kiều nữ có đôi má hồng của xứ hoa đào, em có yêu, một tình yêu hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng mầu lá non không?! Hở em?
Anh mong Mười là gió: hầu thổi về đời anh bao dự định sông hồ của người trai trước ngưỡng đời phiêu bạt. Anh mong em là mây: chở anh bay đến bến sông Ngân Hà ấp ủ nhiều ước mơ và hy vọng. Anh sẽ làm con thuyền yêu vững bền, để đưa nhau ra tận đại dương mênh mông. Nơi ấy có nắng chói, biển cả, bầu trời. Lục địa ở phương xa. Có bến bờ tự do, hạnh phúc vĩnh cữu một đời. Chỉ có Anh và Em – Mười chịu không?
À, em nhớ viết thư đều nhe. Mười không viết thư, (nói nhỏ bên tai em nghe thôi, lỡ các cháu nghe được cười anh, thì anh mắc cỡ, xấu hổ chết được, em à!)… Anh sẽ lên Đà Lạt và khóc nhè ra cho em coi! Em phải dỗ anh mệt nghỉ à nha.
Anh kính lời thăm gia đình chị Khánh, chị Lê, chị Hạnh, Thùy, các cháu. Riêng Mười của anh vui vẻ, mạnh khỏe, trẻ đẹp, vững tiến trên con đường đại học.
Thương nhớ chào em.
Phương Nam.
Thong thả dạo bước trên đường, vừa đọc xong, chàng bỏ thư vào phong bì, cất trong quyển “Kim chỉ nam của học sinh”. Nam nghiêng đầu trên mái tóc Mười, mỉm cười hỏi:
– Còn “ghét” anh. Như em đã viết trong thư không?
– Nếu em nói “phản nghĩa” lại… anh nghĩ sao?
Chàng muốn ôm Mười vào lòng, và hôn nàng giữa lòng đại lộ thênh thang, dù nơi thanh thiên bạch nhật thế nầy. Nhưng, Nam sợ Mười mắc cỡ, sợ nàng dỗi hờn, viền mắt ướt long lanh ngấn thủy tinh tròn bên khóe em yêu. Nam sợ nắng ấm thấp thoáng dưới đôi má ửng hồng, khiến nàng càng e thẹn. Chàng sợ! nên chàng không dám; Nam chỉ âu yếm xiết nhẹ bàn tay, nhìn Mười nồng nàn, nụ cười dịu ngọt biết bao. Nam thân ái nói:
– Chaneolier Oxenstierin đã nói: “Thân thiết mở cửa ái tình, và đóng cửa tình bạn”. Em thấy sao?
– Tình yêu có tình bạn hậu thuẫn. Nhưng, tình bạn không nên kèm song song với tình yêu, thì tình bạn sẽ vô tư, chân thật, bền lâu. Anh nhỉ!
– Đồng ý.
Tay trong tay Nam khe khẽ ca bài “Mộng Dưới Hoa” của Đinh Hùng. Ồ! Thật không ngờ! Nam ca quá hay. Thế mà nàng không biết để bắt anh ta ca hoài cho Mười nghe. Tình xanh nhẹ như hơi thở, mỏng như làn sương, êm ái như nệm cỏ nhung mềm trên đồi, dịu mát như dòng suối quê hương, hồng thắm như cành hoa anh đào hé nở, tô điểm vòm trời Cao Nguyên thêm sắc, thêm duyên, thêm thơ mộng.
Hai người chia tay ở đầu ngõ. Mười vào nhà cất quyển sách, thay quần áo rồi đi lấy nước cắm hoa. Bây giờ nàng mới thấy tờ giấy báo gói hoa hồng, rách te tua. Chục hoa cái gãy lìa cuống. Cái xù cánh rơi lả tả, trơ nắm nhụy vàng. Có búp chưa kịp nở cuống hoa mềm èo, lúc lắc như chiếc răng rụng. Chỉ có năm hoa còn tươi. Nhìn bó hoa thảm hại hết chỗ nói. Mười loay hoay cắm hoa, thì chị Khánh vào phòng khách. Chị dừng lại nhìn, rồi chị la em một hơi dài:
– Trời đất quỷ thần ơi! Con nhỏ nầy, sao ngu quá ta? Mua hoa, phải lựa từng cái. Đem về cắm ngay. Mang xuống hết dưới bếp, đổ đầy xô nước. Ngâm một tí. Rồi cắm vô lọ. Làm ăn như vậy á. Có chết tui không! La cà ở đâu, bây giờ mới mò về nhà, để hoa héo hết trơn vậy! Hả?!
Sợ chị Khánh, nhưng nàng buồn cười khi nhìn bó hoa thật dễ sợ, cái gục đầu, cái xù cánh. Thấy mà ghê. Hoa hồng đi ngao du thắng cảnh với tình yêu. Nó cảm động đến độ “gục gặc”. Xù cả tai cả tóc ra. Thế là nhất rồi. Còn gì bằng!
Buổi chiều, Nam đến chào gia đình. Chị Khánh sai các em hái rổ mận giống Trại Hầm. Chàng ra vườn hái mận giúp nàng. Vừa làm việc, nàng kể lại chuyện “Hoa hồng xù lông nhím” cho anh ta nghe. Hai người cười thật tươi. Quên cả mọi sự trên đời.
Chị Khánh gói hai kí trà La Ba loại bạch mao, gói mận. Gửi chàng đem về làm quà biếu gia đình. Hai “anh chị nhỏ” len lén nhìn nhau mỉm cười. Ra dấu chỉ chỏ về bó hoa hồng như thầm nói:
– “Nếu chúng mình không đi bên nhau. Có lẽ hoa tươi không ủ dột, tàn úa nhanh. Trước thời gian đâu nhỉ!”.
Họ bắt gặp thoáng mắt trong veo liếc liếc nhìn nhìn nheo nheo thật nhanh về phía chị Khánh. Cuộc chia tay thầm lặng, mắt môi đã nói thay lời, họ quên hết mọi chuyện trên đời, quên cả trời choạng vạng. Dù chưa tối, mà nhà nhà đã lên đèn.

—o0o—

Nếp sinh hoạt bình nhật ở Đà Lạt, thành phố trên cao sương mù mỗi sáng mỗi chiều. Đa số người dân sống êm ái hiền hòa, lặng lẽ không huyên náo. Họ quây quần trong nhà, đêm đêm đi ngủ sớm, ít khi la cà ngoài phố vắng. (Trừ người có công kia việc nọ đi sớm về khuya). Nếp sống người dân Đà Lạt hiền hòa như thảo mộc, trắng da dài tóc, mập mạp hồng hào! Trong thị xã ít khi có chuyện “động trời” khuấy động tính hiếu kỳ.
Ngoại trừ những đêm có đoàn cải lương, hay đại hội ca nhạc kịch, thì phố thị huyên náo giây lát lúc vào xem hoặc khi ra về. Sau đó thành phố thơ và mộng được trả về với sự yên tĩnh canh khuya cố hữu đơn điệu ngàn đời.
Khoảng mười giờ đêm thành phố hầu như chìm trong giấc mộng. Thiên nhiên ưu ái đãi ngộ con người. Ban cho khí hậu thoáng mát. Tiết trời thuận lành, man mác, trong veo, vương đọng trên đầu cây ngọn cỏ. Tạo thành một Đà Thành lãng mạn đa tình, thơ mộng, duyên dáng và quyến rũ dường bao. Nên tâm hồn họ cũng có ít nhiều chất thơ. Chất nhạc đầy men tình. Nồng đượm hương yêu.
Buổi sáng nay Mười dậy sớm chui qua phòng chị Hạnh, hai chi em nằm nói chuyện. Chị đi làm thư ký đánh máy, kiêm bán hàng cho nhà sách Họ Nhà Thờ Chính Tòa. Chị hiền lành đôn hậu, chất phác nhất (trong gia đình có mười anh em). Chị dạy bảo em điều hay lẽ phải ôn tồn hòa ái. Không nghiêm khắc, la lối om sòm, như chị Khánh. Ai cũng sợ chị Khánh một phép.
Mặc dù đôi khi cao hứng, chị Khánh kể chuyện vui buồn ngày trước, thuở gia đình còn ở làng quê. Năm 1925, ba má đi khai phá đất hoang ở vùng đất “Hoàng Triều Cương Thổ”. Chị kể những gian truân khốn khó thăng trầm. Từ ngày gia đình thực sự bước vào con đường “vạn sự khởi đầu nan”. Chị kể chuyện lưu loát, duyên dáng thu hút người nghe tài tình. Gia đình ngồi quây quần bên nhau vào lúc “trà dư tửu hậu”. Há hốc mồm nghe chị nói. Chị pha trò khá hấp dẫn. Nhiều lần cười ngất, cười ra nước mắt. Thỉnh thoảng hoàng hậu Nam Phương cho gọi chị vào dinh thự, để chị nhận lãnh phần đan, thêu, may, móc, cho bà và hoàng tử, công chúa. Tay nghề chị ít có ai theo kịp.
Chín giờ sáng, Mười, chị Hạnh đi ra chợ mua hộp dâu tây, trái hồng Đà Lạt tặng Nam. Ngồi trên xe đò thấy chị em Mười đến, chàng vui mừng giới thiệu hai chị em Mười với hai anh: Trung dáng người trung bình. Không mập không ốm, da trắng trán cao, miệng rộng, mắt mí lót hơi nhỏ. Coi như Trung hơi “lù đù”. Anh có mộng ước sẽ trở thành bác sĩ tận hiến muôn điều đã đạt được trong kiến thức, hầu giúp đời. Có thể thành công, vì anh xuất sắc từ mọi lĩnh vực.
Thạch dáng người cao ráo, da ngăm ngăm, vài chiếc răng khểnh trông ngồ ngộ, mỗi khi anh cười. Anh là nhà thơ My Sơn có nhiều bài thơ Mười rất thích như “Viết tên Em” hoặc “Tôi sẽ kể” v.v… Như bạn, Thạch học giỏi, làm thơ hay. Tuy vậy, anh ta thích trở thành một tổng lãnh sự. Một nhà ngoại giao. Một nhà chính trị lỗi lạc.
Nam ước mộng sẽ trở thành phi công giang hồ qua bốn bể, cho phỉ chí tang bồng hồ thỉ nam nhi! Ba người bạn chí thân có sở thích, sở trường, lý tưởng, hoài bão khác nhau. Thế mà họ vẫn hợp ý nhau kinh khủng.
Mặc hai bạn nói với chị về chuyện nắng mưa Đà Lạt. Nam nhìn Mười tần ngần đứng nép bên hông xe nhìn vu vơ lên khoảng trời cao lồng lộng. Chàng thấy nắng yếu vương trong lòng mắt nàng. Gió bâng khuâng ngại ngần tiễn đưa nhau. Có khói lam cuộc tình quấn quít trên bờ môi vụng dại. Nam thầm nghĩ: “Em đứng bên anh, nhưng bẽn lẽn vô cùng, đơn điệu vô cùng. Nhút nhát vô cùng. Bơ vơ vô cùng. Thương em, người yêu đơn sơ bé nhỏ, trước tương lai mù mịt của hai người. Và vì thế, bỗng dưng nỗi buồn se sắt, thấm thía, dâng ngập hồn anh”. Nam gục đầu trên đôi cánh tay đan vào băng ghế trước khá lâu.
Trung ngồi giữa, lấy cùi chỏ húc vào người chàng mấy cái, Trung đá nhẹ hàng mi, mỉm cười thân ái khi Nam ngẩng nhìn. Xe từ từ lăn bánh. Hai anh bạn nói lời từ biệt với chị em nàng. Họ vẫy tay chào. Nam nhìn Mười đắm đuối. Anh ta xiết nhẹ tay nàng, qua tiếng thì thầm:
– Tạm biệt em yêu dấu.
Chàng gục đầu lên thành ghế không nói thêm lời nào. Chị em Mười đứng lại trên lề phố Hàm Nghi, trước cửa cà phê Domino. Nhìn theo lớp bụi nhỏ vướng theo bánh xe lăn. Mây chia ly phủ trên mảnh tim cô gái nỗi buồn nhẹ nhàng đằm thắm.
Mười đã biết ưu sầu từ đó, nhớ nhung từ đó, thiết tha từ đó. Khởi đi từ phiến đàn lòng thứ nhất.
-“Phải rồi Nam ạ! em yêu anh không biết nhân chia trừ cộng, không hề tính toán suy nghĩ thiệt hơn, tình yêu chân thành, hồn nhiên vô vụ lợi. Em yêu anh, từ ánh bình minh đầu tiên bừng lên tia hào quang lấp lánh, xuyên qua kẻ lá chiếu trên đồi cỏ xa xa. Yêu anh khi thành phố tỉnh giấc mộng chuyển mình qua mọi sinh hoạt thường ngày. Yêu anh khi gát chuông giáo đường cao vút tôn nghiêm thánh thót ngân nga mỗi sáng, trưa, chiều, tiếng chuông chùa vặng đưa. Trong vòng tay từ ái, rộng mở của Phật từ bi hỉ xả.
Em yêu anh giữa biển sương mù trắng xóa núi đồi. Yêu anh qua tiếng còi hụ báo hiệu giờ ngọ trên đỉnh nóc phố Khu Hòa Bình. Yêu anh khi tia nắng cuối cùng chen lẫn màu hoàng hôn và màu ven đêm. Khi cánh sao hôm nhấp nháy trên bầu trời bảng lảng. Yêu anh khi đêm sa hẳn trên phố phường, khuya về lạnh buốt, gió lồng lộng thổi quanh dốc núi cao. Con đường mòn chật hẹp bóng láng nằm duỗi mình giữa tháng năm dài, có bước chân ai cô quạnh âm thầm đi về mỗi ngày buồn tênh. Yêu anh qua từng mùa thu lá rụng xào xạc bên suối, khi tiếng mưa dầm rã rích suốt tuôn ngày đêm không biết mệt.
Yêu anh khi tiếng xe thổ mộ đầu tiên lóc cóc đi họp chợ báo hiệu hừng đông. Mặc dù em mỏi mệt, gục đầu trên đôi cánh tay, vòng trên bàn học. Trong giấc mộng thiêm thiếp chập chờn. Em biết ngày ngày qua tháng tháng. Năm rồi lại qua năm. Trong cơn mơ, em vẫn gọi tên anh, và yêu anh mãi mãi …
Tiễn anh về quê mẹ, chưa bao giờ Mười buồn đến thế! Anh đã chia nửa hồn em, mang con tim đi trên lộ trình thiên lý, khuất xa nghìn trùng. Tình yêu nầy đọng lại trên giếng mắt. Trên bờ môi vụng dại nụ cười ngây ngô. Trên đôi bàn tay nâng niu, trang trọng. Tình yêu sống mãi trong tư tưởng, đầy luyến-lưu hồi tưởng trong tiềm thức, Trong hoài niệm của Thương Mươi…”

Trần Yên Thảo
TÓC XANH MÂY TRẮNG.

Buổi sớm hỏi đường mây trắng
Vô cùng mây trắng về đâu.
Tóc xanh hỏi đường tóc trắng
Gậy tre tung vạt áo nâu.

NÚI XANH HOA HỒNG.

Thức dậy hoa hồng chưa thắm
Lối mòn chưa thấy ai qua.
Núi xanh đường còn xa lắm
Ta về hỏi cháu con ta.

TRE TÀN MĂNG MỌC.

Trước gương cạo râu chải tóc.
Bên đường rủ áo thị phi.
Ngàn năm tre tàn măng mọc.
Trăm năm đâu đã hề chi.

CHÂN DIỆN MỤC.

Quê xưa ngút ngàn rừng rú
Đường còn khuất nẻo chiều hôm.
Tìm ta, ta về đất cũ
Quên người khách lạ sau gương.

NÚI VẪN RONG CHƠI.

Núi xanh khẩy cười biển khó
Bon chen để lỡ xuân thì.
Đốt đèn núi về chơi phố
Và khinh kẻ hái rau Vi.

Núi vẫy chào người xuống núi
Tinh si gác lại non Tây.
Đi đâu cũng là cố xứ
Lựa lời nói với cỏ cây.

Cửa lấp sông bồi mấy độ,
Núi xanh chợt vỗ vai mình
Kêu nhau đốt đèn xuống phố,
Trẻ già thấy núi bình sinh.

Bất kể sao dời vật đổi,
Mặc tình biển cả nương dâu,
Thong dong cuối trời vô ngại,
Núi ngồi kể chuyện ngàn sau.

Sự tình ai quên, hỏi núi,
Mấy ngàn năm vẫn xuân thì.
Vỗ ngực núi cười thích chí,
Và khinh kẻ hái rau Vi.

LỜI BỘC BẠCH CỦA ĐÁ NÚI.

Thức dậy mặt trời chưa mọc,
Loay hoay đã xế ngang đầu.
Chuyện đời hơn thua bất tận,
Miếng mồi con cá lưỡi câu.

Từ đỉnh non cao chót vót
Nằm nghe biển gợi tình sầu
Xưa nay chết ruồi mật ngọt,
Há còn chưa biết hay sao.

Phàm phu hơn nhau cái lưỡi,
Quân tử hơn nhau cái đầu,
Thằng khùng hơn nhau mộng lớn,
Thánh nhân nào hơn ai đâu.

Đời còn so tơ chẻ tóc,
Tảo tần bãi mía nương dâu.
Vườn xưa ta về khép cửa
Biết mình cái kiến con sâu.

Nguyễn Tôn Nhan
MƯỜI LÁ BÙA Ở LOSANGELES
(THÁNG BA NĂM 2008)
1.
Ở Cali không có mưa
Cỏ cây xui xẻo trúng bùa của em
Giữa khi anh mở phần mềm.
2.
Gió heo hút thổi Bolsa
Giữa hôm thứ sáu chia xa quay về
Ôi trời bụi réo lạnh tê.
3.
Chia tay ở Tiểu Sài gòn
Biết bao bóng vía không lòn vào đâu
Xa xôi trái đất lạc nhau.
4.
Phần mềm anh mở không ra
Máu me chảy tuột hồn ma lộn lèo
Bùa hương em cột hay treo?
5.
Bùa hương còn thơm hay không?
Giữa đêm ở Los, nổi khùng lùa em
Ồ xa tất cả môi thèm.
6.
Los.Angeles lạ thường
Cái khuôn xen với cái lườn xỏ xiên
Sơ sơ cũng thỏa cơn ghiền.
7.
Lá bùa hay cái lá gì
Mà gân xương cứ muốn tì vào hương?
Phải em làm Mán anh Mường.
8.
Ma tru quỷ khóc trưa nay
Ôm em nửa một vòng xoay lỏng lề
Sài gòn buồn mửa, đành về.
9.
Em ơi khờ dại đã quen
Vuốt ve đã mỏi hồn ghen đã nhiều
Lùa nhau vào cái ngoa điêu.
10.
Ở Bolsa nhớ Sài gòn
Ở giữa cái ấy và con cái này
Lỡ làng cuộc lữ đừ quay.

BÙA HẾT LINH.

Bùa em bỏ khờ câm một kiếp
Bùa hương còn lùa tiếp mới ghê
Chung quanh lạnh tím bốn bề
Làm sao không khỏi ngứa nghề trần gian.

Ồ em ạ cung đàn tắt vội
Còn gì đâu lặn lội hoài hơi
Một hai ba bốn rã rời
Năm và sáu cũng đâm cồi già nua.

Dơ tay thua, anh xin thua
Trời ơi cái cõi bông đùa nghiêm trang
Từ lâu anh đã đầu hàng.

Ngô Nguyên Nghiễm
TỪ THỨC
(Dành riêng Phạm Nhã Dự).

Khoác áo thư sinh xuống núi
Vai đầy hạt bụi phong trần
Đàn trâu lùa qua nội cỏ
Chợt hồn trổ nụ hư không

Vác đời trên lưng đá tảng
Đá vừa trổ dạ hoài thai
Bình nguyên đẻ dài quanh mắt
Một bầy quỷ điểu xâm soi

Năm tháng ngồi quanh hố thẳm
Vô tình thiên tượng rơi đầy
Từng giọt càn khôn khổ hạnh
Bát vàng hứng hết thơ ngây

Nên cuộc hành trình vô tận
Giang hồ che trắng tóc xanh
Quầy quã cõng trăm núi đá
Bùa thiêng dán chặt trên lưng

Nhiều lúc chờ sao xuống thế
Lối về hun hút khói sương
Ngỡ hồn như ngôi miếu cổ
Đèn nhang lạnh lẽo ven đường

Đúng Ngọ, ngập hồn cỏ dại
Nhập vào thiên địa mang mang
Quẳng áo trên đường lục đạo
Chờ xem hoa huyết hóa thân

Huyết hoa mươi mùa nở đỏ
Khách về xõa tóc hiến dâng
Lành thay, mười phương phong thuỷ
Liên hồi trống dục bâng khuâng

Bao phen bước qua tri giác
Lặng nhìn mây gió bay về
Chợt hiểu lòng mình ấm lạnh
Từng cơn biến động sơn khê

Sống giữa vô cùng nhật nguyệt
Lạ gì ngọn cỏ phiêu bồng
Bỗng nhiên phân thân trăm ngã
Trăm đời trăm ngôn ngữ riêng

Giữ chén ngọc xưa đánh vỡ
Ngày về sót bóng tri âm
Thẩn thơ dưới vầng trăng bạc
Giang hồ nặng trĩu gót chân…

HOÁ THẠCH NẰM NGHIÊNG
GIẤC TỬ SINH

Có phải hồn ta là tháp cổ
Ngàn năm phơi bóng dưới trăng nghiêng?
Bỗng nghe gạch rụng giang hồ quá
Động lá vàng rơi xuống gió đêm

Gió thổi thênh thang suốt bãi đời
Hình như lối cũ có sương bay
Cuối vườn thấp thoáng nhà ai đó
Tiếng hót hoàng oanh rót cuối trời

Thánh thót trên đường xuôi cố xứ
Dập dồn trống dục báo điềm sang
Âm thanh vỡ vụn từng hơi thở
Lạ bước hành hương, chảy đá vàng

Khách vẫn trôi dài theo bóng quế
Ôm đời hiu hắt lối sơn khê
Vết thương ma quái như hư thực
Nhức buốt từng cơn gió thổi về

Ai đứng bên đường như cố nhân
Chờ cho trăng mọc đến trăng tàn
Tháng năm âm ấp canh trường mộng
Lặng lẽ vơi đầy bụi thế gian

Mới biết, đường bay không quỷ đạo
Xua đời len giữa bóng tinh cẩu
Ngoại thiên quang quả đầy cơn sốt
Xoáy cuộn vô tình cuộc biển dâu

Cứ đứng quay cuồng giữa bổn thân
Thần kinh một mớ rút đau thương
Trồng lên san sát đời khô héo
Nắng hạn, làm quang cảnh dị thường

Thiên địa ngủ vùi đêm nguyệt tận
Cháy lang thang đóm lửa chiêu hồn
Lửng lơ như bóng ngân hà nhỏ
Cô độc bay vào tận khoảng không

Có phải ngàn xưa lạc đó không?
Sao nghe yên lặng đến vô thường
Máu tim mới nhễu vào chung rượu
Lại chảy về tim quá lạnh lùng

Có phải tiền thân rụng xuống không ?
Sao như âm vọng nẻo tang bồng
Sao như run rẩy từng hơi thở
Tận đáy hồn xanh có gió sương

Có phải từ quy xõa tóc không
Con chim mỏ đỏ của muôn trùng
Ở đâu dấu mặt không gian đến
Gọi báo thân chồng giữa pháp thân

Thôi cũng ngàn năm làm ánh lửa
Vô tình treo ngược suốt năm canh
Cố soi trọn nẻo đương thiên lý
Hoá thạch nằm xuyên giấc tử sinh.

Lê Quang Đông
KÝ ỨC

Tôi ra đi từ ngày ấy…
Qua những đồng xanh mọc tóc dậy thì
Qua những triền sông guộc gầy ngực sóng
Ngược gió lùa nông nổi tuổi đôi mươi.

Tôi đi dọc cổ sơ tìm bóng giống nòi
Gặp lửa thiêng trống đồng huyền thoại
Chạm tóc cha ông trắng mùa bão nổi
Vượt hoàng hôn năm tháng vẫn xanh.

Tôi đi dọc bát cơm đón những ý lành
Hạt gạo trắng đơm hương từ nước mắt
Tôi cám ơn những trâu gầy đã khuất
Góp bao đời gieo thắm máu quê ta.

Tôi đi dọc cõi mơ nhặt lá thi ca
Nghe dân dã khát ru từ mạch đất
Những trái tim khóc cười rung ký ức
Tiền kiếp-vị lai-vinh- nhục-tơ-duyên…

Tôi ra đi phía mắt khát xanh
Mở cửa bình minh gọi nguồn ánh sáng
Nghe sông núi tạc phù điêu chiến thắng
Vỗ ngực mình thốt gặp bốn nghìn năm.

Phan Xuân Sinh
THUỞ ĐẤT TÌNH LÊN NGÔI

(Truyện Lịch Sử)

Ngày cúng thành hoàng làng Nghi An năm đó (1890), tiên chỉ, lão làng đang dâng hương cầu xin quốc thái dân an, nghi lễ cúng bái trang trọng và thành tâm, thì có một thằng bé đứng bên ngoài nói lớn:
– “Quốc thái dân an” là do mình tranh đấu mới có. Cớ sao lại xin xỏ tầm phào như vậy?
Nói xong thằng bé đó bỏ chạy.
Các chức sắc trong làng ngẩn ngơ, không ngờ có người to gan dám nói lên điều cấm kỵ. Hỏi thằng bé đó là con nhà ai mà dám xúc phạm đến uy danh thần linh như vậy. Có một tráng đinh bước lên chấp tay thưa:
– Đó là thằng bé con ông Hương Tân đang có mặt ở đây. Tên hắn là Thái Phiên.

Các chức sắc và lão làng mời ông Hương Tân đến hỏi chuyện về sự ngỗ nghịch của thắng bé. Hương Tân tái mặt, không ngờ thằng con mình làm điều hổn láo như vậy. Mới tám tuổi mà đã đụng đến điều húy kỵ, thì thằng nầy không còn dạy được nữa rồi. Ông chấp tay xin lỗi và hứa sẽ về dạy con. Mọi người trong làng cũng vị nể ông vì dù sao ông cũng thuộc hàng hương mục của làng, một gia đình danh gia thế phiệt, có sự đóng góp đáng kể mỗi khi làng Nghi An cần có sự quyên góp. Ông nghiến răng tỏ vẻ tức giận, sau bữa tiệc cúng làng, về nhà ông sẽ cho nó một trận đòn nên thân. Ông ngồi ăn mà cảm thấy mắc cở với chức sắc và dân làng. Ông cúi đầu cố nuốt trôi miếng ăn cho xong bữa rồi vội vàng đứng lên”kiếu” tất cả mọi người ra về. Ông hầm hầm trong bụng, sẽ đánh thằng con nát thây cho nó chừa cái tội hổn láo, làm nhục gia cang.

Từ đằng xa nhìn về nhà, ông thấy thằng Phiên con ông ngồi nói chuyện với ông nội như có điều gì đắc ý, ông cháu ôm nhau cười, ông càng cảm thấy lộn ruột. Bước vào hiên nhà, ông la lên:
– Thằng kia tới đây cho tao biểu.
Ông nội của Phiên đứng lên, đưa tay như che chở cháu mình:
– Chuyện chi còn có đó, từ từ hỏi cho ra lẽ rồi hãy đánh nó, chưa muộn.
– Hắn phá đám bữa cúng làng hôm nay, cha nghĩ coi có tức không?
Ông nội từ tốn trả lời:
– À, thì ra chuyện nớ. Thằng Phiên có nói lại với tao. Tao khen nó mới chừng đó tuổi mà có chí khí, sau nầy làm được việc lớn.
– Trời đất, cha che chở cho hắn làm bậy?
– Ai bảo là nó làm bậy. Chỉ có những người bậy mới không chấp nhận lời ngay thẳng của thằng bé. Giặc giã hoành hành khắp nước, không lo tìm cách chống trả. Đi lo cái chuyện cúng bái vu vơ, cầu xin những điều không thể thần thánh làm được. Chỉ có con người, chỉ có sức mạnh của con người mới làm được. Thế thì xin xỏ làm chi ở thần thánh vô ích.

Ông Hương Tân giật mình. Ai dạy cho thằng bé nầy cái ý nghĩ sâu xa như vậy? Chính ông cũng chưa nghĩ ra được thì nó đã nói ra điều nầy. Cơn giận dữ của ông tự nhiên tan mất. Mấy ngày nay, ông Tú không để ý câu nó đọc sang sảng trong nhà: “Quốc vinh ngô thân vinh, quốc nhục ngô thân nhục”*. Mới có tám tuổi đầu mà đã biết được “vinh nhục” của đất nước. Những xáo trộn bên ngoài đã nhập tâm vào đời sống trẻ thơ. Ông lẳng lặng vào nhà, trong lòng ông có chút gì như thỏa mãn. Thế nhưng ông biết con người “hiểu biết” sớm quá, biết “lo” sớm quá cuộc đời sẽ khổ. Biết làm sao hơn khi mà con người không thể nào cưỡng lại được với số mạng. Thôi thì vận nước trong thời loạn, ai cũng có trách nhiệm đóng góp dù trách nhiệm đó đi đến chỗ phân thây.

Thái Phiên học hành rất thông minh nhưng cũng rất ngỗ nghịch. Giữa thời mạt vận của chữ nghĩa thánh hiền, ông không đi thi và sau nầy chuyển qua tây học. Ông mau chấp nhận nền học thuật của tây phương và tỏ ra xuất sắc, am tường kim cổ, đông tây nên ông hành xử mọi việc một cách hợp tình hợp lý. Gia đình giàu có mà lại con một, nên ông được cha mẹ chìều chuộng. Ông phải nghe lời cha mẹ lấy bà Trịnh Thị Nhuận khi mới mười sáu tuổi để có con nối dõi tông đường. Ông nổi tiếng ăn chơi trác táng, chuyện gia đình không hề ngó ngàng tới, một tay người vợ đảm đang. Còn cha mẹ ông, sau khi ông lấy vợ vài năm thì cha mẹ qui tiên. Ông càng buồn càng uống rượu và đi đây đó nhiều nơi. Chính cái chuyện đi nhiều, hiểu biết rộng, lại có tấm lòng nên ông lại càng đau khổ cho vận mệnh đất nước. Người ta nghĩ rằng ông không chấp nhận đường lối nào hết để đi theo. Ông cao ngạo không phục ai vì thế ông lại càng đắm chìm trong chén rượu. Thế nhưng ai biết được lòng ông?

Một hôm ông đến Cẩm Lệ, ghé qua một quán rượu bên đường. Người chủ quán là một cô gái mặn mòi xinh đẹp. Vừa uống rượu vừa tán tỉnh, giễu cợt chơi. Thử xem cô gái thuộc loại nào cho biết. Cô gái không trả lời một tiếng, chỉ cười. Ông thấy thái độ của cô gái có chút gì không bình thường, trong đôi mắt của cô có vẻ khinh khi ông. Từ trước tới nay, đi đâu ông cũng được người ta cung phụng, nể nang. Đây là lần đầu tiên ông gặp một người không nể ông dưới con mắt của họ. Ông thấy cô gái nầy toát lên một cái gì đó có một chút kiêu hãnh, một chút hiểu biết thầm kín mà ông cảm thấy quý trọng. Ông không còn có thái độ khinh bạc như lúc mới bước vào, ông trầm ngâm uống rượu và giữ mình không đến độ phải say để đi nghiêng ngã. Ông thấy trong người vừa đủ, ông đứng lên trả tiền rồi ra về.

Ngày nào cũng vậy, từ Nghi An ra Cẩm Lệ đoạn đường cũng xa, thế nhưng ông thấy không có một nơi nào trong vùng có rượu ngon như quán cô gái đó. Vì vậy ông là vị khách thường xuyên của quán. Làm gì mà không có rượu ngon, hay là ông phải lòng cô gái đó cũng chẳng biết. Bao giờ bước vào quán ông cũng có cái cảm tưởng như trút bỏ cái trần tục ra bên ngoài, lòng ông thanh thoát như tiên, như Từ Thức mà gặp phải Giáng Kiều. Ông chọn một góc quán, để có cái nhìn rộng và hình như cũng để quan sát cô gái.

Vợ ông mấy lúc rày trong mình không được khỏe, bà đến nhà người thầy thuốc làng bên để hốt vài thang thuốc. Người thầy thuốc bắt mạch và cho bà biết là mạch của bà yếu và hình như có một triệu chứng khác thường, một chứng bệnh hung hãn đang bắt đầu hoành hành. Bà lo lắng không biết nếu có mệnh hệ nào, không thể sống được thì gia đình con cái ra sao. Người chồng suốt ngày rượu chè với bạn bè, không hề biết một chút xíu những công việc quán xuyến gia đình thì làm sao bà yên tâm. Chính những lo lắng nầy đã làm cho bà càng ngày càng yếu thêm, bà biết là bà đang bị cơn bệnh tấn công sắp đến giai đoạn khẩn trương, sức khỏe xuống rất thấp. Một hôm nghe người làm trong nhà báo cho bà biết, là ông thường đến Cẩm Lệ để uống rượu trong quán của một cô gái. Tự nhiên mắt bà sáng lên, bà nghĩ ngay đến chuyện phải kiếm tìm cho ông một người vợ kế để thay cho bà sau nầy, nếu không may bà mất đi. Người mà ông phải lòng lại càng tốt, sẽ giúp cho gia đình thuận lợi, suông sẻ. Bà chưa gặp cô gái nầy nhưng bà có linh cảm người nầy sẽ giúp được gia đình bà qua cơn nguy ngập.

Bà gọi người xà ích tới nhà để chở bà đi Cẩm Lệ. Bà cho người xà ích biết là bà muốn tới quán rượu mà ông Phiên nhà bà hay lại đó. Người nầy tưởng rằng bà ghen tuông muốn tìm tình địch, nên nói thẳng cho bà hay đây là quán của một cô gái đàng hoàn, ông nhà chỉ uống rượu chứ hai người không có tình ý gì với nhau. Bà gật đầu cười và có vẻ hiểu biết, trên nét mặt hiền từ tươi tắn, không tỏ một chút ghen tương. Nên người xà ích cũng yên lòng chở bà đi. Buổi trưa quán vắng khách, bà bước vào dở nón ra đến ngồi bên góc quán, vô tình bà ngồi vào chỗ nơi ông thường ngồi. Cô chủ quán từ dưới bếp bước ra thấy bà gật đầu chào, bà tươi cười chào lại. Bà xin một bát nước chè tươi và tự giới thiệu là vợ của ông Phiên, người khách thường đến uống rượu ở quán nầy. Cô chủ quán “à” lên một tiếng ngạc nhiên và hỏi bà có gì xin dạy bảo.

Bà ngần ngừ rồi xin cô ngồi xuống cho bà được hầu chuyện. Bà trình bày bệnh tình của bà, một chứng bệnh nan y mà bà nghĩ rằng không thoát được. Bà không thể yên lòng nhắm mắt khi các con còn quá nhỏ, gia đình bộn bề công việc không ai chăm sóc. Bà thực sự muốn tìm một người vợ kế cho ông để bà yên lòng nhắm mắt, người đó được bà trông thấy và biết trước thì lòng bà được bình yên hơn. Khi trông thấy cô, linh tính cho bà biết ngay đây là người đảm đan mà bà tìm kiếm, người ân nhân cho chồng con bà sau nầy, người có thể thay thế bà quán xuyến gia đình trong tư thế tề gia và nội trợ. Bà trình bày hết tất cả ý nguyện của mình và khẩn khoản nhờ cô giúp. Cô chủ quán suy nghĩ vì bất thần quá cô không chuẩn bị kịp. Thế nhưng cô thấy tôi nghiệp cho bà, một người đàn bà sắp chết vẫn còn lo lắng cho chồng con. Dưới mắt của cô, ông Phiên cũng là người có phong cách đặc biệt, người mang nhiều suy tư, chất chứa u uất mà thường thấy ở các sĩ phu khi đất nước lâm nguy. Đây là cơ hội để cô tìm hiểu thêm về con người có chút bí mật nầy.
Cô nắm lấy tay bà, rồi nói:
– Thôi được để rồi tôi định đoạt sau. Thế nhưng còn phải ý kiến của ông nhà, ông ấy có chịu cho tôi về làm vợ lẻ không?.
– Chuyện đó cô khỏi lo, tôi có cách sắp xếp cho ổn thỏa.
Rồi bà từ tạ ra về. Không quên lấy về cho ông mấy bầu rượu.

Vài tháng sau, căn bệnh của bà trầm trọng. Ông phải ở nhà chăm sóc vợ nhưng cơn bệnh ngặt nghèo bà không qua khỏi. Bà mất để lại cho ông mấy đứa con thơ dại. Lúc nầy ông mới hối hận, không giúp vợ trong cuộc sống gia đình. Từ xưa tới giờ ông không làm gì, chỉ biết đi uống rượu, mọi chuyện do vợ quán xuyến. Bây giờ vợ mất ông lúng túng và phải xoay sở để nuôi con. Ông thèm và nhớ đến cái quán rượu nho nhỏ bên vệ đường, gần một tháng nay ông không tới được. Người phu xe thổ mộ trước đây mỗi ngày chở ông ra quán, cũng buồn thiu. Thấy ông người nầy chỉ biết cúi đầu chào, chứ không dám nhắc ông ra quán uống rượu giải khuây. Vợ mới mất, cái tình, cái đạo nghĩa nó không cho phép ông tìm vui trong chén rượu. Ông không muốn để người ngoài chê cười cho cái không biết giữ lễ của mình. Mặc dù ông sống bạt mạng, bỏ ngoài tai những dị nghị, nhưng những cái đó là không tổn hại đến gia đình con cái. Còn đằng nầy nó nằm trong vòng lễ giáo mà ông là người thấm nhuần chữ nghĩa của thánh hiền, ông phải giữ nó cho phải đạo.

Mỗi ngày sau bữa cơm, ông rót ra một chén rượu ngồi nhâm nhi một mình. Hôm nay cũng vậy, ông vừa rót rượu ra chén thì người nhà vào báo cho ông biết có một người khách đến thăm. Một người khách đến thăm vào chạng vạng tối, ông chỉ đoán ra đây là người quan trọng vì những bạn bè chung quanh đây người nhà đều quen mặt. Người nầy phải ở xa. Ông cho người mời vào. Ông đứng dậy đón khách, người khách dỡ nón ra chào lại. Khách thuộc tuổi trung niên, khuôn mặt quắc thước, có một nụ cười cởi mở. Khách nhìn quanh không có ai, rồi thưa:
– Thưa ông Thái Phiên, tôi đường đột tới đây trước là thăm ông, sau có một vài chuyện thưa với ông.
– Thưa, ông chưa cho tôi biết ông tên gì và đang làm việc ở đâu? Trước khi chúng ta bàn qua chuyện khác.
Người khách cười ha hả:
– Ông thật sự muốn biết tên tôi? Thì tôi cũng không giấu giếm ông làm gì. Chắc ông không biết, nhưng tôi vẫn nói, tôi là Trần Cao Vân.
– À, thì ra tên ông không những người dân Quảng Nam thôi, mà cả nước đều biết. Tên ông vang lừng bốn bể. Tại sao ông nghĩ rằng tôi không biết.
Trần Cao Vân lại cười to hơn và cũng nói to hơn:
– Tôi nghe người ta nói ông cao ngạo, không cần biết ai thì cái tên Trần Cao Vân đâu là gì với ông. Thái Phiên cũng cười hả hả, trả lời:
– Đó là đối với bọn sâu dân mọt nước, chứ còn như ông tôi phải cúi đầu.
– Cám ơn lời đối đáp thiệt lòng của ông. Còn ông là người tôi mến phục.
Thái Phiên gọi người nhà làm một con gà nấu cháo, gọi người khác qua nhà người xà ích chạy đi Cẩm Lệ lấy mấy bình rượu ngon đãi khách. Hai người uống rượu, nói chuyện thâu đêm. Trần Cao Vân ở lại đó ba ngày. Không biết đã nói với nhau chuyện gì, sáng sớm Trần Cao Vân lên xe ngựa ra đi, Thái Phiên đến tận xe tiễn bạn mà lòng còn bịn rịn.

Vài hôm sau ông đón xe ra Cẩm Lệ, đến quán và trở lại ngồi vào góc quán thong thả uống rượu. Ông gọi thêm một bầu rượu nữa thì cô chủ quán bảo rằng hết rượu. Ông ngạc nhiên la lớn:
– Quán thế nầy mà không đủ rượu sao?
– Nước mà cạn kiệt, thì rượu làm sao còn.
– Thế thì phải làm sao?
Cô chủ nhìn thẳng vào mặt của ông, đưa hai bàn tay lên, trả lời một cách đanh thép:
– Góp đôi tay thì được tất cả.
Ông sững sờ, trố mắt ra nhìn cô chủ. Không ngờ một người con gái mà có lòng với đất nước như vậy, thì đây không phải là người tầm thường. Cô ta chỉ mang ra cho ông một chén rượu khác để trước mặt, như có lời nhắn nhủ phải để thời giờ lo chuyện khác, nên chấm dứt uống rượu giải sầu.
Cô chủ thấy vắng khách nên đến ngồi trước mặt ông:
– Mấy hôm trước có một người khách lạ đến đây uống rượu. Người đó hỏi tôi về ông. Rồi đến thăm ông.
– Cô biết gì về tôi mà trả lời với họ?
– Tôi không những biết rõ về ông mà còn biết rõ người khách kia là ai?
Rồi cô gái nhìn quanh không thấy ai, nói nhỏ vào tai ông:
– Ông là người tôi ngưỡng phục, ông làm những chuyện to tát mà không ai biết. Ai cũng nhìn ông là thằng nát rượu, không thấy được cái âm thầm theo đuổi việc vì dân vì nước của ông một cách thâm trầm. Ông qua mặt tất cả, chỉ trừ tôi.
– Thế thì cô là ai?
– Trần Thị Băng, Việt Nam Quang Phục Hội.
Thái Phiên đứng dậy hỏi dồn dập:
– Người của ai?
– Lâm Quảng Trung.
– Mấy hôm nay có gì lạ?
– Tiến sĩ Trần Quý Cáp mới bị chém ở tỉnh Khánh Hòa hôm qua.
Ông ngồi xuống thở dài, rồi bưng chén rượu uống một hơi. Nước mắt ông chảy xuống, cô Băng kéo vạt áo lên lau mặt cho ông. Ông chưa ráo nước mắt cho vợ thi bây giờ lại rơi nước mắt cho người đồng chí, chỉ có thế thôi đã hiểu được lòng ông.
– Bây giờ, tôi không còn con đường chọn lựa. Núp trong bóng tối hoạt động lâu nay không thấy kết quả, không giúp gì được nước nhà. Tôi phải ra mặt, tôi phải dấn thân. Nhưng ngặt một điều, vợ mới chết, con còn thơ dại, gia đình đơn chiếc, không ai quán xuyến gia đình, tôi không nỡ lòng ra đi. Mỗi lần nghe bạn bè tôi bị nạn, ruột tôi quặn đau như có ai cắt từng đoạn.
– Thưa ông, nếu có người tình nguyện thay cho vợ ông lo chuyện gia đình để cho ông rảnh tay rảnh chân, không còn nghĩ tới chuyện nhỏ nhoi nầy, ông có chịu không?
– Nếu vậy, tôi phải quỳ lạy cám ơn họ trước.
Cô Băng, suy nghĩ một chút rồi nói:
– Nếu như ông không chê bai tôi quê mùa, thì tôi sẽ tình nguyện làm chuyện nầy giúp ông. Trên danh chánh ngôn thuận, chúng ta phải làm một lễ cưới nhỏ thì tôi mới bước vào cửa nhà ông
được. Còn chuyện vợ chồng thực tế, nếu có duyên nợ với nhau thì hà tất phải thành, không biết trước được. Nhưng trước mắt chúng ta phải lo cho đại cuộc.
– Như vậy thì Phiên nầy có chết cũng hả dạ rồi. Ơn nghĩa của cô dòng họ Thái nhà tôi trả không bao giờ hết được.
Cuộc nói chuyện với Trần thị Băng tại quán rượu sau vài tháng, Thái Phiên cho người dạm hỏi và sau đó lễ cưới được tổ chức trong vòng thân tộc. Trong đêm tân hôn, bà Băng đưa ra cho ông một lá thư của vợ ông gửi cho bà trước khi mất. Trong thư bà gửi gấm chồng bà cho bà Băng chăm sóc, như vậy hai người đã ngấm ngầm thông đồng với nhau mà ông chẳng hề hay biết. Bà Băng về nhà chồng, sống với ông được hai mặt con, bà lo cho cho gia đình và chồng con vẹn toàn. Ông tối ngày đi đây đi đó tiếp xúc với các sĩ phu lo chuyện đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Ông cùng với Trần Cao Vân sát cánh bên nhau đẩy mạnh phong trào cứu nước đến một đỉnh cao, chờ thời cơ hành động.
Năm 1914. Chiến tranh thế giới bùng nổ. Chính quyền Pháp cho bố ráp bắt những trai tráng xung vào lính mang về chính quốc để phục vụ chiến tranh. Phong trào Việt Nam Quang Phục Hội len lỏi vào hàng ngũ thanh niên chống lại việc tòng chinh sang Pháp, các truyền đơn kêu gọi anh em rời bỏ hàng ngũ do Pháp tuyển mộ, được anh em hưởng ứng nhiệt tình.
Lê Ngung thay mặt cho Quang Phục Hội, một mặt gửi thư xin ý kiến với cụ Phan Bội Châu, một mặt gửi thư cho Thái Phiên để khởi binh vì cơ hội đã đến. Chụp cơ hội chính quyền Pháp rối loạn lo chiến tranh bên chính quốc, vùng thuộc địa chểnh mảng. Nhận thấy lỗ hổng quá to, toàn dân nhân cơ hội nầy đứng dậy lật đổ. Thế nhưng mọi thứ chưa chuẩn bị chu đáo, các tổ chức chưa thống nhất, nhân dân còn hoang mang. Một cuộc họp khẩn cấp các thủ lãnh lại để quyết định. Nhận thấy còn nhiều trở ngại cho cuộc nổi dậy, tất cả đồng ý trì hoãn lại một thời gian để tăng cường lực lượng, tổ chức lại thành phần nồng cốt. Để yên lòng dân, mời vua Duy Tân, một người yêu nước gia nhập tổ chức, để tổ chức có tiếng nói chánh trực, để toàn dân tin tưởng.
Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh nhiệm vụ đi gặp đức vua. Dĩ nhiên chuyện gặp riêng nhà vua không phải dễ, vì chung quanh ngài bọn tay sai nhiều quá, nhứt cử nhứt động của ngài sẽ được báo cáo cho quan thầy. Hai người biết là vua Duy Tân chiều thường ra ngồi ở Phu Văn Lâu hóng mát, nhìn sông nước. Chiều nay hai người mang cần câu và một bình rượu ra ngồi đó trước.
Vừa thả cần vừa uống rượu. Khi vua tới thì lính hầu đuổi hai người đi chỗ khác, hai người không chịu đi, cãi lại với lính hầu:
– Sông nước nầy là của chung, không của riêng một mình ai. Tôi câu ở đây có mắc mớ chi tới mấy ông đâu?
Vua Duy Tân thấy hai người nầy ăn nói có chút gì khác thường, nên bảo mấy người lính hầu hãy để cho họ ngồi câu. Nhà vua trầm ngâm nhìn ra sông, mơ màng suy nghĩ.
Hai người nói chuyện lớn giọng, dù không muốn nghe cũng lọt vào tai vua. Họ mượn một câu hỏi và trả lời của người xưa để nói chuyện khơi khơi, thử xem lòng dạ vua thế nào. Nếu vua là người có lòng yêu nước thì thế nào cũng nao núng, phải gặp hai ông. Còn nếu vua là thứ “bù nhìn”, yên phận, không hiểu câu trao đổi của hai ông thì thứ nầy nên cần phải lánh xa, không cần gặp làm gì:
– Tay dơ lấy gì rửa? – Nước.
– Chớ nước dơ lấy gì rửa? – Máu.
Vua giật mình, đây không phải là người tầm thường. Ông lên tiếng:
– Hai anh kia quê mô? Đến đây nói chuyện chơi.
Nhà vua nói với lính hầu:
– Đem rượu ra đây mời khách, rồi tụi bay đi chỗ khác chơi.
Các lính hầu cứ nghĩ đây là hai tay nhà quê câu cá kiếm cơm, nên không thèm để ý.
Hai người tới sụp lạy, rồi nói nhỏ cho vua đủ nghe:
– Thưa hết.
– Việc nước đã đến hồi khẩn trương, như nhà cháy không bệ hạ, hạ thần ở Quảng Nam ra tìm cách gặp bệ hạ, bẩm báo đôi
chữa không được. Xin bệ hạ nghĩ tới dân tộc, nước nhà, tham gia với thần dân đánh đuổi quân xâm lược. Sự có mặt của Bệ hạ cốt để yên lòng dân. Hạ thần đã chuẩn bị chu đáo. Cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc sẽ bắt đầu vào giờ tý, ngày 2 tháng 4 năm Bính Thìn (tức 1giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm 1916). Khởi điểm tại kinh đô Huế. Súng thần công sẽ được bắn lên mở đầu cho cuộc binh biến của toàn dân. Bệ hạ sẽ lãnh đạo toàn quốc nổi lên đánh đuổi quân xâm lược.
Nhà vua ngồi lắng nghe, lòng ông như mở hội. Từ lâu ông không biết cách nào để khuấy động lòng dân, chỉ có cơ hội nầy thôi:
– Chuyện thế nầy rất hợp lòng trẫm. Trẫm có một người thân tín liên lạc với các khanh sau nầy. Hạn chế gặp nhau để tránh tai mắt dòm ngó, hư đi đại sự.
Hai người đứng dậy uống với ông chén rượu, rồi lạy tạ ra về.
Trần Cao Vân lo chỉnh đón thực lực nghĩa quân các tinh, còn Thái Phiên lo liên lạc các nơi để đúng ngày giờ hành sư. Vào lúc 11 giờ đêm ngày 3-5-1916. Vua Duy Tân cải dạng thường dân đi xe kéo ra bến Thương Bạc rồi xuống thuyền, có Thái Phiên và Trần Cao Vân bố trí đứng đợi, Một người có chân trong nghĩa hội làm phản, báo cáo mọi sự việc cho Tòa Khâm Sứ Thừa Thiên biết vua Duy Tân buông tẩu.Lập tức Tòa Khâm cùng với tay sai Nam triều, đuổi theo chiếc thuyền vua Duy Tân và hai ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, bắt lại. Đưa vua trở về kinh thành, còn hai ông giam vào ngục. Một cuộc bố ráp trong đêm để tìm các tổ chức nghĩa quân. Các tỉnh Nam Ngãi, Bình Phú không nhận được tin tức, cũng bị nội gián báo cáo nên các thủ lãnh đều bị bắt. Cuộc khởi nghĩa bất thành. Tất cả những người chủ trương đều lên đoạn đầu đài.

Từ quê nhà Nghi An, Quảng Nam. Bà Trần Thị Băng hay tin chồng bị bắt, bà vội vàng đón xe tìm cách ra Huế để nhìn mặt chồng. Bà may sẵn một bộ đồ tang vì bà biết lấy một nghĩa sĩ trong thời loạn lạc, thì sớm hay muộn không tránh được cái chết. Khi còn trong gia đình thời con gái, bà được cha truyền những môn võ gia truyền để phòng thân. Nhất là các bộ tẩu mã, vi hành, bà rất xuất sắc.
Bà được tin ngày 16 tháng 4 âm lịch (tức là ngày 17-5-1916) các thủ lãnh đêm nổi loạn gồm có: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị chém tại cửa An Hòa, ngoại thành Huế. Bà đến đó trước nghiên cứu đường đi nước bước, để cố làm sao đoạt được thủ cấp của chồng đem về Quảng Nam chôn cất tử tế. Bà cùng với anh em nghĩa quân còn lại, bàn luận để làm sao đoạt thủ cấp một cách an toàn, sắp đặt một chiếc thuyền sẵn vì bà biết nếu đi trên đường bộ thế nào cũng bị phát hiện. Sáng sớm ngày hành quyết một số anh em nghĩa quân và bà Trần Thị Băng có mặt tại pháp trường An Hòa. Các nghĩa quân sẵn sàng trong tư thế ngăn cản nếu có người đuổi theo bà. Mọi chuyện đều do bà định đoạt.
Người đầu tiên lên pháp trường là ông Thái Phiên, ông hiên ngang bước lên, như một tráng sĩ, mặt không chút sợ hãi. Ông nhìn xuống thấy vợ mặc đồ tang, ông gật đầu rồi cười ha hả. Quan chỉ huy pháp trường hỏi ông cần nói gì lần cuối. Ông dõng dạc hô to: “Đả đảo tụi tây và bọn tay sai”. Ông hô to ba lần như vậy, trước khi cúi đầu cho đao thủ phủ chặt đầu. Hành động ngang tàng và dũng cảm của ông đã làm cho những người đứng xem và ngay cả kẻ thù phải thán phục.
Đầu ông vừa rơi xuống, bà Băng phóng tới căng vạt áo tang hứng đầu chồng không cho rơi xuống đất. Rồi bà ôm đầu chồng phóng chạy. Tất cả lính tráng Nam Triều bất thần ngẩn ngơ không trở tay kịp, khi họ định thần chạy đuổi theo bà thì bà đã chạy quá xa, họ không đuổi kịp. Để đánh lạc hướng bà chạy vào rừng, một số nghĩa quân núp sẵn ngăn chận những người đuổi theo. Quân lính phải trở ra vì sợ nghĩa quân trong rừng phục kích. Đến khi tối trời một số nghĩa quân tại địa phương dẫn đường ra bờ sông, chiếc thuyền đang chờ sẵn nhổ neo khi bà bước xuống. Bà xỏa tóc dưới ánh đèn, lấy tóc mình lau sạch vết máu trên đầu chồng, rồi lấy khăn tang bọc đầu chồng lại. Thuyền theo cửa Thuận An ra khơi, hướng về Quảng Nam. Bà không gội đầu ba năm, để những vết máu của chồng trên tóc bà được nằm yên. Một cách thờ chồng, để tang cho chồng mà ai nghe qua cũng đều kính phục.

Thái Phiên, bút hiệu là Nam Xương, sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tại làng Nghi An, huyện Hòa Vang, Quảng Nam, là con trai duy nhất của ông bà Thái Duy Tân và Lê Thị Tý. Ông theo phong trào Việt Nam Quang Phục Hội của cụ Phan Bội Châu, chủ trương đánh đuổi quân xâm lược Pháp ra khỏi bờ cõi. Ông là một trong những lãnh đạo tài giỏi của Phong Trào tại Quảng Nam. Ông bị giặc bắt cùng với Trần Cao Vân trong đêm chính biến 2-4 năm Bính Thìn ( tức là ngày 3-5-1916), tại Huế. Thái Phiên và Trần Cao Vân cùng với hai thủ lãnh khác lên đoạn đầu đài tại An Hòa, Huế sáng sớm ngày 16-4 năm Bính Thìn (tức là ngày 17-5- 1916), lúc ấy ông mới có 34 tuổi.

Nguyễn Đắc Nguyên Khoa
Bóng thời gian
Thấy dáng em qua
Trên hè phố chợ thướt tha diễm kiều
Hồn nghe như đã xiêu xiêu
Ta về chếnh choáng hương chiều gió qua

Chiều xưa
Thấy dáng em qua
Áo vờn trong gió đôi tà phất bay¬¬
Ta về mê mẩn đắm say
Trở trăn giấc ngủ nhớ ai mặn mà

Chiều xưa
Thấy dáng em qua
Tóc thề buông xõa hồn ta rộn ràng
Ta về vương vấn hoang mang
Hoàng hôn sải cánh bóng nàng dần xa
Thế rồi năm tháng trôi qua…

Chiều nay
Thấy dáng em qua
Mái đầu bạc trắng, la đà bóng xưa
Nhạt nhòa màu áo mộng mơ
Nắng chiều phai úa hồn thơ ngậm ngùi

Chiều xưa thật đã xa rồi
Chiều nay còn lại bóng thời gian qua.

Nhặt lá vàng
Thu về em nhặt lá vàng
Nhặt mưa lất phất nhặt làn heo may
Đường về loang loáng lá bay
Nỗi buồn man mác nhớ ai dặm ngàn

Thu xưa em nhặt lá vàng
Nhặt sương diễm ảo nhặt vầng trăng mơ
Hồn nghe vời vợi tiếng tơ
Nào hay tiếng nhạc tình thơ lỡ làng

Thu qua em nhặt lá vàng
Nhặt ngày, nhặt tháng bẽ bàng tình duyên
Lòng đau luống những ưu phiền
Người yêu vắng bóng công viên úa tàn

Thu nay em nhặt lá vàng
Nhặt hờn nhặt tủi ngỡ ngàng tình xưa
Em về lối nhỏ bơ vơ
Lá rơi lả tả lệ mờ hoen mi.

Lê Hữu Minh Toán
Trống vắng buồn riêng
Bóng nắng đổ dài trên vách đá
Chiều nghiêng vàng vọt khói sương giăng
Ừ nhỉ, sao trông mình rất lạ
Nỗi nhớ hằn sâu đọng nếp nhăn

Người ơi, xa nửa vòng trái đất
Một nửa bên đây lặng lẽ sầu
Mây treo đầu gió trăng chìm khuất
Trống vắng buồn riêng chín nỗi đau

Ta đứng bên này ôm bóng nhớ
Chỉ nghe tiếng nói vọng từng đêm
Hai đầu viễn liên chung nhịp thở
Hai nửa địa cầu khắn khít thêm

Mong mõi từng đêm người trở lại
Cùng nhau hong ấm chuỗi tình thơ
Người ơi, dẫu đường đời dâu bể
Vẫn cuối chân trời vẹn ước mơ…

Dáng Xuân
Xuân đuổi Đông về với vũng đêm
Bình minh duyên dáng phơi sương mềm
Ánh dương bừng nở chân trời mới
Sóng biển ngoan hiền say ngủ yên

Hoa Xuân rạng rỡ nằm hong nắng
Chơi giữa ngày Xuân tắm má hồng
Đàn én ngất ngây hương gió thoảng
Nhảy múa hòa ca khúc nhạc Xuân

Mưa Xuân cùng trời đất giao hòa
Tháng Giêng ngọc bích hạt sương sa
Cỏ non vờn nhẹ hồn xanh biếc
Từng cung đàn ngọt lịm lời ca

Đàn trẻ tung tăng khắp xóm thôn
Khoe màu áo mới đẹp xuân nồng
Những cô thôn nữ mơ duyên thắm
Náo nức lên chùa hái lộc xuân

Tình xuân tri kỷ say chưa phỉ
Chúc nhau nâng chén cạn chén đầy
Bếp lửa bập bùng reo điệu lý
Khói pháo vờn lay mây trắng bay

Hương Xuân e ấp cành mai chín
Lúa Xuân ngào ngạt nụ vàng tươi
Người người hớn hở vui Xuân đến
Xuân của quê hương của cuộc đời…

Thái Bạch Vân
Hồn thi nhân chợt khóc
Hãy khóc đi cho cạn nguồn tâm sự
Và lệ ơi! như suối chảy lưng đồi.
Vội khép đi nụ cười vương khóe miệng,
Kẻo nước mắt tràn… thắm mặn bờ môi…

Ngày qua nhanh mà sao ta dừng lại
Dẫm chân hoài trên nốt nhạc đơn côi.
Giữa chốn đông người nghe chừng lạc lõng
Tình thơ một phiến… ngổn ngang bên đời.

Giọt lệ ai hoài trào tuôn không cạn
Như sóng xô ghềnh đổ xuống trùng khơi.
Dường như một hồn thơ đang rụng xuống
Để lòng ta dệt điếu lệ thay lời!!

Chiều màu lam trời thu buồn áo não
Gió đêm về hiu hắt cụm mây trôi.
Sầu dâng vội… hồn thi nhân chợt khóc
Một cánh chim côi lơ lửng ven trời.

Ngậm buồn
Ngập ngừng nửa ở nửa đi
Bởi vui gặp gỡ, phân ly ngậm buồn
Hợp tan, tan hợp lẽ thường
Lòng sao nặng trĩu muộn phiền chia tay

Chập chùng vờn áng mây bay
Nỗi niềm nặng trĩu vun đầy nhớ nhung
Dặm xa sương xuống mịt mùng
Nắng chiều ủ rũ khéo chung mạch sầu

Hoàng hôn sắc tím loang mau
Nhìn chim về tổ dạ đau lạc loài
Người thương giờ ở nơi nao
Bốn phương tám hướng phương nào thấy nhau.

Hương Xuân
Giá buốt qua rồi hết tiết đông,
Mừng xuân ấm áp nắng pha hồng.
Ngàn cây trổ lộc tuôn mầm sống,
Vạn vật hồi sinh trước Hóa Công.

Én lượn hợp đàn đón rạng đông,
Họa mi lảnh lót vọng thinh không.
Muôn hoa khoe sắc chào ong bướm,
Đàn trẻ nô đùa đốt pháo bông.
Hương vị ngày xuân thật mỹ miều,
Khổ đau sầu muộn thoắt phiêu diêu.
Cõi lòng ấm dịu trong dung thứ,
Cảnh trí nhìn đâu cũng đáng yêu.
Một hớp rượu nồng đón chúa xuân,
Trà thơm quyện giọng đẫm hương xuân.
Hoan ca khúc nhạc mừng xuân mới,
Khoảnh khắc trần gian mặc áo xuân.

Vũ trụ ngàn năm vẫn mượt mà,
Bởi xuân luân chuyển giữa tim ta.
Người người mong đươc như xuân ấy,
Tươi mãi như xuân chẳng thấy già.

Mây Ngàn
Pleiku gió mùa
Biển hồ lai láng bụi đỏ mờ
Hạ vàng chói nắng mây giăng tơ
Ta người lữ khách chiều cô quạnh
Phố núi mù sương dạ ngẩn ngơ

Pleiku gió mùa bụi cát tung
Nhà tôn vách lá đỏ mịt mùng
Nhấp nhô triền núi chòi cao vắng
Sơn nữ bâng khuâng mây khói trùng

Sương mai lành lạnh phố cao nguyên
Áo mõng hoàng hôn suối tóc huyền
Bước chân phiêu lãng miền đất lạ
Rực cháy Trường sơn lửa thề nguyền

Nguyễn Thị Thanh Dương
NHỮNG TRANG SÁCH BUỒN.

Đêm chưa ngủ tôi hay tìm đến sách,
Giữa đêm khuya nghe ai kể chuyện lòng,
Có những trang vui, có những trang buồn,
Tôi đã sống cùng với người trong truyện.
Trang sách vui làm cho tôi quyến luyến,
Hạnh phúc kia đang nằm trọn tay mình,
Anh ở trong thơ, trong truyện rất gần,
Như mong ước mỗi khi lòng cô độc.

Những trang sách buồn làm tôi đã khóc,
Giận chuyện đời, tôi chỉ muốn sang trang ,
Sao người đi, không ở lại trăm năm?
Sao hiu quạnh đôi bờ xa cách thế?

Từng trang sách đời anh, tôi đã mở,
Có khoảng trời nắng đẹp với tình xanh,
Con đường vui đã khép lại mong manh,
Anh vẫn bước khúc quanh buồn nghiệt ngã.

Tôi đau giùm anh mảnh hồn đã vỡ
Và tiếc giùm anh những nỗi chia xa,
Nhưng tấm lòng anh rộng mở thiết tha,
Mong anh thấy con đường vui phía trước.

Gấp sách lại. Hình như đêm khuya lắm?
Những trang vui theo vào giấc ngủ mơ,
Duyên kia đã gặp, tình vẫn đợi chờ,
Tôi thanh thản không còn gì vướng bận.

Nhưng trang sách buồn làm tôi vương vấn,
Hồn lang thang tôi vẫn mãi đi tìm,
Anh ở nơi đâu? Đêm đã dần tàn,
Tôi và sách đêm nay cùng mất ngủ..

Cù Hòa Phong
Phỏng Vấn Nguyễn Hữu Nhật
Tác Giả Hoa Đào Năm Ngoái
(Ngọc Hân Công Chúa.)
LTS: Hoa Đào Năm Ngoái, tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Nhật, nhà xuất bản Tủ sách Văn Nghệ Sài gòn Nghĩa thư, Na Uy Oslo 2009; ra mắt lần đầu tại Paris ngày 13 tháng 12 năm 2009, dưới sự bảo trợ tinh thần của “Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tự Do Tại Pháp”, nhà văn Từ Trì và nhà văn Trần Thị Diệu Tâm giới thiệu tác phẩm và tác giả; nhà văn Vân Hải điều hợp chương trình “Ngày Họp Bạn Paris – Hoa Đào Năm Ngoái”. Hoa Đào Năm ngoái, 318 trang, thân chữ (font 10,5), khổ sách 13,8 cm – 21 cm, ấn phí 25 USD. Địa chỉ nxb: Helgesensgt 72 (L-604) – 0558 Oslo, Norway.
saigonnghiathu@hotmail.com;
huongxa@gmail.com,
Tel: (47) 21 38 80 25 & (47) 90 6 0 87 33/

Cù Hòa Phong:
Chào tác giả tiểu thuyết Hoa Đào Năm Ngoái viết về cuộc đời của Ngọc Hân Công Chúa trong bối cảnh lịch sử thời vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn và Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Cảnh Thịnh. Anh cho biết vì sao lại dùng chữ “tiểu thuyết” cho “Hoa Đào Năm Ngoái” thay vì “truyện dài” như thông lệ?
NHN:
Xin chào nhà thơ Cù Hòa Phong. Thưa anh, ở nước ta, các nhà văn hồi đầu thế kỷ 20 thường dùng chữ “tiểu thuyết”, đến cuối thế kỷ 20 lại hay dùng chữ “truyện dài”. Bên phương Tây dùng chữ “novel”, nghĩa là “truyện mới”.
Nói chung, “roman, novel, fiction” đều được phần đông người mình gọi là “tiểu thuyết” hay “truyện dài”, để phân biệt với “truyện ngắn” (short story).
Hoa Đào Năm Ngoái không phải là một “truyện dài”, loại truyện danh nhân, bám sát đời thực, của ai đó, trong cuộc sống. Tiểu sử bà Ngọc Hân, trong chính sử, gom lại không đầy một trang A4, cho dù tôi đã “hư cấu”, mà cuối cùng cũng chẳng là loại “tiểu thuyết lịch sử” hay “tiểu thuyết dã sử”, như “Hoàng Hậu Margot” (La Reine Margot) của Alexandre Dumas (cha) (1802-1870), “Bà Chúa Chè” của Nguyễn Triệu Luật (1903-1946?), “Hồi Chuông Thiên Mụ” của Phan Trần Chúc (1907-1946)… Như “Anh Hùng Lĩnh Nam” của Yên tử Cư sĩ Trần Đại Sĩ… Cũng không phải là Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô gia Văn phái…
CHP:
Có quan niệm cho rằng “Đại thuyết là kinh điển của các thánh nhân viết như Kinh Thư, Kinh Thi…, đó là loại sách tư tưởng, triết học, gần như chân lý, kiểu khuôn vàng thước ngọc…. Trung thuyết do các hiền giả, sử gia thực hiện như Sử ký của Tư Mã Thiên. Còn tiểu thuyết, vốn chỉ những chuyện vụn vặt, đời thường.”
NHN:
Thí dụ tiểu thuyết “Cuốn Theo Chiều Gió” (Gone With the Wind) của nhà văn Mỹ, Margaret Mitchell, “Chiến tranh và Hòa bình” (War and Peace) của nhà văn Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy… Có phải là loại “vụn vặt, đời thường” không? Không rồi!
Truyện Kiều, tiểu thuyết bằng thơ, có thật sự là “mua vui cũng được một và trống canh” không? Ngày trước, ở ngoài Bắc, nhiều người đọc còn “bói Kiều”, coi Đoạn Trường Tân Thanh như cuốn sách thiêng?
Nhưng không ít bạn đọc, mà tôi có dịp tiếp xúc, lại cho rằng “tiểu thuyết” là thể loại truyện “mơ mộng, lãng mạn, xa rời thực tế, nhảm nhí, hoang đường”… Nhẹ hơn, “tiểu thuyết” chỉ để “mua vui, giết thì giờ”!
Tôi dùng chữ “tiểu thuyết” cho Hoa Đào Năm Ngoái vì trộm nghĩ rằng, mình “có một điều gì đó” để “thuyết” trong cái “tiểu” luận “văn chính sử” về cuộc đời của Ngọc Hân Công Chúa. Lịch sử, Chính trị và Văn học luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
CHP:
Anh đã “thuyết” gì trong Hoa Đào Năm Ngoái?
NHN:
Thí dụ, ở bìa sau cuốn sách, tôi đã ghi tóm tắt:
“Bờ Nam, bến Bắc sông Gianh
Năm vua, một nước, tranh giành máu xương
Các quan lớn, nhỏ coi thường
Đời dân với lính trăm đường khổ đau!”
Lịch sử Việt Nam đã ghi rõ, xin tóm tắt:
1/ Cuộc phân tranh lần thứ nhất:
Loạn mười hai sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh và 11 sứ quân khác, từ năm 996 tới năm 998; ba năm,
2/ Cuộc phân tranh lần thứ hai:
Lê-Mạc, nhà Lê và nhà Mạc; từ 1527 tới năm 1592; 66 năm.
3/ Cuộc phân tranh lần thứ ba:
Trịnh-Nguyễn, chúa Trịnh và chúa Nguyễn, từ cuộc chiến đầu tiên năm 1627 tới tới trận đánh cuối cùng năm 1774; 48 năm.
CHP:
Tôi liên tưởng tới Cuộc phân tranh lần thứ tư:
Quốc-Cộng, từ năm 1954 tới năm 1975; 20 năm.
Có cần kể đến cuộc “phân tranh” lần thứ năm một cuộc “Phân tranh Tư tưởng”, tiếp tục giữa người Quốc Gia và người Cộng Sản từ năm 1975 tới…., theo anh bao nhiêu năm nữa?
NHN:
Theo thiển ý, nhanh, chậm, lâu, mau cùng tùy thuộc vào 3 yếu tố: Quốc nội, Quốc ngoại và Quốc tế…
CHP:
Hoa Đào Năm Ngoái dựa vào cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn, 48 năm từ năm 1627 tới năm 1774?
NHN:
Thưa anh, không! Chỉ trong bối cảnh lịch sử từ năm 1786 Ngọc Hân Công Chúa lấy vua Quang Trung tới khi bà mất vào năm 1779, một năm trước khi vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh thắng trận cuối cùng.
Tôi “dựng truyện”, không “chép truyện” cuộc đời Ngọc Hân Công Chúa dù đã cố gắng bám sát các dữ kiện lớn lao của lịch sử Đàng Trong và Đàng Ngoài:
1/ Chúa Trịnh lấn át vua Lê. (1780).
2/ Kiêu binh khống chế chúa Trịnh.
3/ Trương Phúc Loan lấn át chúa Nguyễn.
4/ Tây Sơn “diệt Trương, phò Nguyễn”
5/ Tây Sơn diệt Nguyễn.
6/ Chúa Trịnh chiếm Thuận Hóa.
7/ Tây Sơn chiếm Thuận Hóa.
8/ Tây Sơn “diệt Trịnh, phù Lê”
9/ Tây Sơn gián tiếp diệt Lê.
10/ Tây Sơn Nguyễn Huệ (Quang Trung) đánh nhau với Tây Sơn Nguyễn Nhạc (Thái Đức).
11/ Chúa Nguyễn đánh nhau với Tây Sơn.
12/ Tây Sơn Nguyễn Quang Toản (Cảnh Thịnh), con vua Quang Trung, cướp thành, chiếm đất của Tây Sơn Nguyễn Nhạc (Thái Đức), giết các anh họ.
13/ Tây Sơn suy vong. (1800).
Chưa kể các trận đánh giữa Tây Sơn với quân Xiêm La, Tây Dương, Mãn Thanh… Chúa Trịnh Bồng đánh nhau với vua Lê Chiêu Thống. Mạc Thiên Tứ, con cháu Mạc Cửu chống quân Tây Sơn… Vua Cảnh Thịnh cấm và diệt đạo Thiên Chúa…
CHP:
Với 13 vụ loạn lạc đáng kể như thế, chỉ khoảng ¼ thế kỷ, từ năm 1876 tới 1800, cuộc đời Ngọc Hân Công Chúa hẳn nhiều sóng gió, thăng trầm?
NHN:
Từ một Công chúa triều Lê, tới Hoàng hậu, Hoàng thái hậu nhà Tây Sơn, rồi thành một người tù bị giam lỏng của triều đình Tây Sơn Cảnh Thịnh (Bảo Hưng). Bà Lê Ngọc Hân sinh năm 1770, mất năm 1779 tại Phú Xuân; hưởng dương 29 tuổi; góa chồng từ năm 1782. Hai con bà, Công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và Hoàng tử Nguyễn Quang Đức bị triều Nguyễn Gia Long giết năm 1881, 1882. Dòng dõi Nguyễn Tây Sơn bị tru diệt…
CHP:
Nói đến phân tranh là nói tới chia rẽ. Vì sao người mình thời xưa không đoàn kết được?
NHN:
Thưa anh, phải đoàn kết mới chống giặc ngoài được chứ! Lịch sử đã chứng minh, qua bao đời, về sự đoàn kết giữa vua, chúa, quan, quân, dân. Chỉ hay chia rẽ sau khi đất nước “sạch bóng quân xâm lăng”, hoặc bị”chia để trị”. Chỉ thường không đánh nổi kẻ nội thù, để đất nước hình thành hai giai cấp: Thống trị và nô lệ.
Giai cấp thống trị “chỉ tay năm ngón”, “ngồi trên, ăn trốc”, ngồi mát, ăn bát vàng”, “đục xương, hút máu”, “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”…
Giai cấp nô lệ thì:”Mài sừng cho lắm cũng là trâu”,”thấp cổ, bé miệng”, “con nhà sãi chùa lại quét lá đa”… Như hai câu thơ của Trần Ngọc Thụ thời này:
“Ông lão dưới ruộng đi bừa
Là con ông lão ngày xưa đi cầy”.
Hoặc như bài ca dao:
“Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cầy với ta
Cấy, cầy vốn nghiệp nông gia
Ta đây, trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa trổ bông
Thì còn ngọn cỏ ngơài đồng trâu ăn,”
Hy vọng “cây lúa trổ bông” được ăn thóc; ai ngờ thất vọng, trâu vẫn phải… ăn cỏ, như lúc chưa đi…cầy.
Mối tương quan tàn bạo giữa hai giai cấp: “Mạnh được yếu thua”, “già đòn, non lẽ”, hoặc “cá lớn nuốt cá bé”, “khôn sống, mống chết”, “miệng nhà quan có gang, có thép…”, “còng làm, ngay ăn”… Bởi vua, chúa là con Trời, Thần thánh (Thiên tử, Thiên đăng). Các quan lại là cha mẹ của dân (Phụ mẫu chi dân).
CHP:
Chế độ phong kiến ở nước nào chẳng vậy?
NHN:
Trong cuộc nhân sinh, Chế độ Chính trị chỉ là cành ngọn. Tư tưởng Chỉ đạo mới là gốc gác. Thời nào người mình không tôn trọng Chủ nghĩa Cộng sinh, thời ấy người dân, thuộc giai cấp nô lệ, rất khốn cùng…
CHP:
Thế nào là Chủ nghĩa Cộng sinh?
NHN:
Nền minh triết của dân tộc Việt, Cộng Sinh, gói tròn trong lời vàng, ý ngọc “bầu ơi, thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, thể hiện cái tinh thần “hòa nhi” mọi “bất đồng”? Cộng Sinh từ tư tưởng, ngôn ngữ, chủng tộc, đến giai cấp, nghề nghiệp, giới tính… Dù có “khác giống” vẫn “chung một giàn”. Việt nam Cộng sinh, là phải Cùng Sống, Sống Chung, mới hình thành được cái Đạo Làm Người “kính Trời, thương Người và yêu Đất”, cộng thêm lòng Từ ái của nhà Phật, Nhân ái của Khổng Tử, Kiêm ái của Mặc Tử, Bác ái của Thiên Chúa giáo để… Cùng Chung, Cùng Sống. Đấy là Tình Cảm. Còn Lý Trí? Phải thể hiện được Tinh thần Công bằng của Chúa Jesus và Thân tâm Bình đẳng của nhà Phật, trên nền tảng Nho học: Nhân, nghĩa, Lễ, Trí Tín, hoặc dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”… Khi anh em một nhà, bác cháu một họ không Cùng Sống với nhau được thì nhà Tây Sơn phải bị suy vong vì “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Hoa Đào Năm Ngoái hàm ý nhấn mạnh tới “thuyết “ Cộng Sinh.
CHP:
Anh muốn “lập thuyết” trong “tiểu thuyết” Hoa Đào Năm Ngoái, mà anh gọi là “văn chính sử”?
NHN:
Thưa không, chuyện ấy lớn lao quá so với sức tôi. Tôi chỉ muốn đọc lại lịch sử, tìm tòi xem vì sao mà:
“Bờ Nam, bến Bắc sông Gianh
Năm vua, một nước, tranh giành máu xương
Các quan lớn, nhỏ coi thường
Đời dân với lính trăm đường khổ đau!”
CHP:
Qua Hoa Đào Năm Ngoái, hình như anh muốn chống Tư tưởng Độc tôn, Độc trị, Độc tài, Độc đảng? Các thức “độc” đó xa lạ với Chủ nghĩa Cộng sinh?
NHN:
Anh còn nhớ định luật Murphy không, có từ năm 1949, cho thấy: “Nếu trong nhiều cách, có một cách sai, sẽ có người thực hiện cách sai đó”. Một con người, một dân tộc muốn sống “hạnh phúc”, phải được “độc lập”, phải có “tự do”. Muốn có “độc lập, tự do”, phải có sức mạnh của đoàn kết, vì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “khó bẻ cả bó đũa”. Chắc chắn đó là một định luật. Và một định luật khác: “Độc tôn, Độc trị, Độc tài, Độc đảng là gốc gác của mọi sự chia rẽ” vì những thứ ấy đều được nuôi dưỡng bằng “Chính sách Bạo lực, Ngu dân”. Tệ hại nhất là Chia rẽ Dân tộc. Nói gì lịch sử xa xưa, ngay thời nhà Nguyễn Gia Long đã thống nhất đất nước rồi, mà thi hào Nguyễn Du còn phải kêu lên về sự chia rẽ:
“Mùa thu khói sóng lộng ngời
cát bằng ngóng bãi biển trời nổi trôi
Hai bờ non nước chia đôi,
các triều đại cũ, mốc trôi giữa giòng
Vàng bay lá rụng khắp vùng
cỏ phơi xương lính lấp cùng lũy xưa
Người miền Bắc hết ganh chưa,
ba mươi năm trước ta vừa cùng Châu.”
(Trích “Đọc Thơ Chữ Nho Nguyễn Du” của NHN.)
CHP:
Như vậy chuyện đời Ngọc Hân Công Chúa chỉ là cái cớ để anh ngầm gửi một thông điệp nào đó?
NHN:
Thưa anh, tại sao chúng ta, như dân tộc mình qua bao thế hệ, ở đâu và lúc nào cũng mong muốn “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” mà ít nhất suốt trăm năm qua vẫn không thấy nước mình được “độc lập, tự do, hạnh phúc”? Một câu hỏi thường có nhiều câu trả lời. Nhưng câu trả lời nào được kể là ít sai nhất? Trong khi Ông Bà mình xưa từng dạy:
“Nên ra tay kiếm, tay cờ,
Chẳng nên thi chớ, chẳng nhờ tay ai
Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau!”
CHP:
Trong Hoa Đào Năm Ngoái có nói đến năm vua một nước Việt từ thời vua Lê Cảnh Hưng tới vua Gia Long. Chính sách ngoại giao của các vị ấy với Tàu ra sao?
NHN:
Thời vua Cảnh Hưng Lê Hiển Tông, 1717-1786, việc nội trị, đối ngoại đều do phủ chúa Trịnh nắm giữ. Họ Trịnh giành tước Vương, lập phủ Chúa từ năm 1545 tới năm 1787, 142 năm, sử liệu cho thấy chưa một chúa Trịnh nào tỏ ra ươn hèn trước quân phương Bắc. Khởi từ Thế minh khang vương Trịnh Kiểm, 1545-1570, tới Án đô vương Trịnh Bồng, 1786-1787, gồm 10 vị chúa Trịnh, không khiếp sợ “Thiên triều”.
Nhưng Lê Chiêu Thống, 1786-1787, tức Lê Duy Khiêm hay Lê Duy Kỳ… Thống đã dạy Lê Quýnh: “Ngươi từng dốc lòng với ta, việc nước cũng đã được quá nửa rồi. Vậy nay hãy cố gắng làm cho tròn công trạng trước, đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta, và thiên triều có chỗ quở trách được ta.”
CHP:
Đối ngoại: Đừng để “thiên triều có chỗ quở trách được ta.” Nội trị: “đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta.” Ngày nay thì kiểm duyệt Web, Blog.
NHN:
Chưa hết, Lê Chiêu Thống lại còn nói với Phúc An Khang, sủng thần của Càn Long: “Chúng tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?”
Thua cả cận thần Lê Quýnh, mắng nhà Thanh: “Đòi ta đến ngỡ là để giáp mặt mà bàn bạc, nay té ra lại chẳng bàn bạc gì, mà chỉ toàn bảo gọt đầu, gióc tóc và đổi đồ mặc. Chúng ta đây, đầu có thể chặt, tóc không thể cắt, da có thể lột, đồ mặc không thể đổi!”
Năm Kỷ Dậu, 1789, quân Thanh thua trận ở Thăng Long, Lê Chiêu Thống chạy theo Tôn Sĩ Nghị về Tàu; cố nài xin vua Thanh, nếu không đem quân sang nước ta lần nữa, thì “xin cho lại hai châu Tuyên Quang, Hưng Hóa để thờ tổ tiên, hoặc lẻn vào Gia Định để mưu đồ việc khôi phục, nhỡ có gặp sự bất trắc thì sống chết cũng liều.” Nhà Thanh không trả lại châu nào hết!
CHP:
Đó là dâng biếu không có sắc chỉ, công hàm…
NHN:
Còn vua Quang Trung đối với Tàu? Chiến thắng long trời, lở đất năm Kỷ Dậu, 1789, dẹp tan khoảng 20 vạn quân Thanh, bắt nguồn từ Tinh thần Yêu nước, Giữ nước qua Hịch Truyền Đánh Quân Thanh, quyết liệt:
“Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…” Nhấn mạnh tính chất Tuyên ngôn Độc lập ở chỗ:
Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”
Dân tộc Mãn bị Hán hóa. Còn dân tộc Việt chống Hán-Mãn hóa bằng cách đánh giặc Hán-Mãn để giữ gìn phong tục nước Nam, “nhuộm răng đen, không gióc tóc; để tóc dài, không cạo đầu và không tết đuôi sam”, không theo hủ tục bó chân như Hán Mãn Thanh…
CHP:
Còn vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh?
NHN:
Ngay lúc đang nhờ Tây Dương, nhà vua vẫn nhắc các cận thần: “Hãy đối xử tử tế với người Âu, nhưng phải hết sức tỉnh táo trước các tham vọng của họ.” Nhưng bộ Hoàng Việt Luật Lệ (tức Luật Gia Long hay Quốc triều Hình luật, gồm 22 quyển) đã lấy “gần như nguyên mẫu Luật Nhà Thanh”. Óc nô lệ Tàu khá nặng.
CHP:
Thưa anh, nói về “tính chất” vua chúa trong Hoa Đào Năm Ngoái như vậy tạm đủ. Còn “tính cách” của các vua chúa thì ra sao?
NHN:
Tóm lại;
1/ Thứ nhất, được làm vua, thua làm giặc.
2/ Thứ hai, vua hay giặc đều do mạnh được, yếu thua. “Được làm vua, thua làm giặc.”
3/ Thứ ba, mạnh hay yếu do thủ đoạn cao hay thấp.
4/ Thứ tư, chính và nghĩa chỉ là khiên với mộc, dẫu là kẻ cướp cũng cần nêu cao chính nghĩa.
5/ Thứ năm, chính nghĩa hàng đầu vẫn là nhân danh, ngụy danh.
Tất cả những ông vua đó, kể cả các vua Lê, cũng đều là “chư hầu” của nhà Thanh, bên Tàu, một thứ nhà Chu: “Coi tất cả đất đai thuộc về thần thánh, và họ là những đứa con của thần thánh vì vậy tất cả đất đai và dân cư đều thuộc về họ”. Tồi tệ nhất, là bệnh cậy công, kể công khởi từ ý nghĩ “đất nước này ta không chiếm, thì kẻ khác cũng chiếm”. Chiếm xong, tự coi đất nước như của riêng dòng họ, con cháu, phe cánh, bè đảng. Đúng là: “Giang sơn gấm vóc này không của riêng ai hết!”?
Dù “làm vua” chỉ là làm vương hầu cho các hoàng đế Trung Hoa, hàng năm thường phải triều cống kim thân, người bằng vàng, cùng thợ giỏi, gái đẹp…
Trời cho có nhân tài nào, nước ta phải đem triều cống, thời nào may còn vài nhân tài, đâu vực nổi nước.
Người tài của đất nước, như lúa giống giành cho ruộng đồng, hễ của anh nông dân này, thì anh nông dân khác nhổ sạch.
CHP:
Kể công gì?
NHN:
Công cầm đầu, lãnh đạo đất nước chống ngoại xâm, trong khi công ấy thuộc về toàn dân. Thời nào cũng thế!
Vương triều nào cũng nghĩ mình là chính thống.
CHP:
Anh cho biết rõ hơn về diều ấy?
NHN:
Tệ chính thống, độc tôn, độc đoán bởi “chính sự ở đầu thanh gươm, ngọn dáo”, như đã nói, theo lối mạnh được, yếu thua; cá lớn nuốt cá bé. Ý thức Cách mạng là già đòn, non nhẽ. Tiêu diệt triều đại trước, bằng bạo lực, và bị hủy diệt bằng bạo lực của triều đại sau.
Bạo lực nối tiếp bạo lực; ở giữa là bất công, với máu cùng nước mắt trăm họ. Không triều đình nào biết ơn dân, đã giúp mình, đánh thắng ngoại xâm; trăm họ sống cảnh “dịch chủ tái nô”, hết nô lệ giặc ngoài lại tới nô lệ thù trong. Nhà Lê, các chúa Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn đều vắt kiệt sức lực tinh thần, thể chất của dân, qua các cuộc binh đao, sưu cao, thuế nặng.
CHP:
Nhưng chủ trương của vua Quang Trung là:
“No ấm, đối với dân, là chính nghĩa. Yên vui, đối với nước, là chính danh. Giữ được yên vui, no ấm lâu dài cho dân với nước mới đáng gọi là chính thống.”
NHN:
“Chủ trương” là điều sẽ làm, chưa phải việc đã làm. Nhà vua còn mong muốn: “Thứ nhất, thống nhất bờ cõi; thứ hai, yên kẻ trong, nuôi kẻ ngoài; thứ ba, đưa cõi đời này lên cảnh thái bình.” Chính trị, kinh bang, tế thế, chỉ có ba điều ấy thôi. Tiếc rằng nhà vua mất sớm.
CHP:
Hình như bạo lực đẻ ra chính thống?…
NHN:
Từ khi có sông Gianh, chia đôi hai bờ Nam Bắc, thì nước ta không còn, nói rõ hơn là không còn tính chính thống; hoặc tính chính thống chỉ có trên giấy tờ. Chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều dùng niên biểu vua Lê, nhưng không ai buồn tôn trọng tính chính thống của nhà Lê. Tính chính thống, của các vua ta, do vua Tàu phong cho, cũng như nước “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”; mấy trăm năm, nhà Lê chính thống, triều cống hàng năm, mà nhà Thanh vẫn bỏ rơi Lê Chiêu Thống để chọn nhà Tây Sơn. Khi nhà Nguyễn Tây Sơn đổ, triều đình nhà Thanh lại coi nhà Nguyễn Gia Long là… chính thống.
“Gia Long cho người đem toàn bộ ấn sách nhà Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong vương.”
CHP:
Trong “tâm cảnh” và “bối cảnh” lịch sử thời đó, “tình cảnh” của dân chúng sống chết ra sao?
NHN:
Như đã nói ở trên, chính các ông vua, ông chúa, ông quan, ông tướng hình thành những tập đoàn nhiễm thói “nhà Chu coi tất cả đất đai thuộc về thần thánh, và họ là những đứa con của thần thánh vì vậy tất cả đất đai và dân cư đều thuộc về họ”. Khi nông nghiệp là chính mà nông dân không được quyền làm đất đai, thì điều gì sẽ phải xảy ra bởi “người cày không có ruộng nương”? Ngu, nghèo, đói. Đói, nghèo, ngu. Vòng oan nghiệp!
Chưa kể, nghề cầy, cấy hàng năm tùy thuộc vào trời, đất, mưa thuận gió hòa hay như nhà thơ Bùi Giáng viết:
“Nỗi niềm hè hạn, thu mưa
Là tâm sự của quê mùa nông dân!”
Dân cầy, thợ cấy, lính tráng bao đời trăm cay, nghìn đắng, đói rách tận cùng vì sưu cao, thuế nặng ; mất mùa, thất học, cùng nạn đục xương, hút máu của giới thống trị, mang tên vua, chúa, quan, tướng và quân “có công giữ nước.”? Giai cấp thống trị với mọi mưu thâm, thủ đoạn tàn độc, ác hại đều được dùng cho việc “giành dân, chiếm đất”, kể cả “cõng rắn về cắn gà nhà”.
CHP:
Dân chúng dưới thời Tây Sơn Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản (con vua Quang Trung) sống ra sao?
NHN:
Anh nghe thử vài đoạn của Hoa Đào Năm Ngoái:
“Trong thành Hoàng Đế cũng không đủ ăn. Bên ngoài, mất mùa; bên trong, quan, tướng ăn chặn lương lính; ở giữa, lính thường hay vào làng quấy nhiễu nhà dân; dân nghèo, chưa ngã bệnh, bỏ ruộng hoang, nhà trống rủ nhau đi ăn mày hoặc cướp bóc. Từng xâu dài tù binh đeo gông, đi qua cổng chùa Thập Tháp, nom tựa hồ như những bộ xương, nghe nói là họ sẽ bị đầy lên mạn Tây Sơn thượng, vùng rừng thiêng, nước độc để đốn cây, xẻ gỗ, đóng thuyền chiến và giường, tủ, bàn ghế cho nhà các quan. Nhiều dinh thự đêm ngày trổi nhạc, bắt con gái đẹp từ các vùng về làm hầu thiếp…”
Ngay tại kinh đô:
“Dân quê nghèo khổ rách rưới lũ lượt bỏ làng ra Phú Xuân, bu quanh các bến đò lớn, đông như ruồi. Ngày nào cũng có người chết đói. Trẻ con thiếu sữa khóc như mèo gào. Có người vớt cả bèo ăn, nhai gau gáu.” Nói chung: “Những vùng đất đang chiếm được thì dân tình quá khổ, vua quen xa hoa, quan lại tham nhũng, giặc cướp nổi lên, mất mùa, bão lụt…” Tới nỗi dn âvùng Tây Sơn còn mơ ước: “Bao giờ cho cả gió Nồm. Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra.”, vì đất Tây Sơn bây giờ không còn Tây Sơn Vương nữa!”
Dân chúng dù ở đâu và bao giờ cũng nghĩ:
“Ai làm vua, làm quan họ cũng chẳng cần biết, miễn họ được no ấm thôi.”
CHP:
Nạn tham quan, ô lại ra sao?
NHN:
Mỗi người chỉ mong sao tự cứu được mình; khỏi bị chết oan, khỏi bị bức bách, khỏi bị lăng nhục, tù đầy, khỏi đói khát; thời của quỷ… Triều đình Gia Định và Phú Xuân không cách nào diệt được nạn tham ô, buôn lậu, bóc lột dân… Phần đông vợ con, họ hàng các văn thần, võ tướng âm thầm làm những việc đó; họ đút lót cho bản nha, quan lại, đóng thuế nhiều cho các triều đình; chi cho vua quan, thì phải thu từ dân chúng; ngoài việc mua chuộc lính tráng, dưới tay họ toàn là bọn Ưng Khuyển, lưu manh. Không còn ranh giới “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”, cả hai như nhau, là một; lưu manh phất lên, có tiền, lại mua tước, tậu chức.
Dân của Nguyễn Ánh thì mong Tây Sơn vào cứu; dân của Tây Sơn thì chờ Gia Định ra cứu…
CHP:
Một cổ hai tròng?
NHN:
Khi phe Nguyễn Ánh giành dân, chiếm đất, chiếm được từ Hà Tiên đến Phú Yên; nhưng để dân chạy đi hết thì lấy ai cầy cấy, lấy đâu gạo thóc nuôi quân; lấy đâu người để bắt lính; nên quân Gia Định ra sức đuổi bắt lưu dân; phe Tây Sơn, ở thành Hoàng Đế, dàn quân ngăn chặn lưu dân, không cho vào Qui Nhơn, sợ quân địch trà trộn, sợ dân đói nổi loạn như thời Trương Phúc Loan… Bên đuổi bắt, lại bên ngăn chặn, chẳng bên nào giúp cơm áo, gạo tiền cho họ sống tạm qua ngày.
Dân chỉ biết than trời, oán đất, bồng bế, dắt díu nhau chạy tới, chạy lui… Lưu dân về làng cũ làm sao sống được giữa cảnh đồng khô, cỏ cháy?… Nhà nào ở Diên Khánh, Phú Yên có người trốn đi thì cả nhà còn lại bị trừng phạt theo lối “ngũ gia liên bảo”; chỉ người già mới được cấp thẻ bài, cho phép đi ăn mày; bởi người già không đi đâu được xa… Trái lệnh là bị đánh roi, gông cổ, đi phu, đi tráng đào hào, đắp lũy không công; đàn bà, con gái thì vào đội kiếm củi, thổi cơm, gánh nước hoặc làm trò chơi cho các quân doanh. Bị giết…
CHP:
Những cuộc tàn sát nối tiếp nhau trong Việt sử?
NHN:
Nội trong sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, của Ngô gia Văn phái, người đọc đã đếm được khoảng 150 chữ «giết». Khoảng 148 chữ «giết» trong cuốn Việt sử Tiêu án của Ngọ Phong Ngô Thì Sĩ; một chữ «giết», ít nhất chứa 30 năm, chỉ kể từ năm Tân Mão, 1771, đến năm Tân Dậu, 1801, Tây Sơn dấy nghiệp và suy tàn, ba mươi năm, bao nhiêu vạn người chết? Có tài liệu nói cỡ nửa triệu dân? Còn lính? Nỗi kinh hoàng, đâu chỉ ở số người chết oan, què quặt, mù lòa… chưa thấy sử gia nào ghi nhận, mà ở chỗ: Sau khi sông Gianh nối lại hai bờ Nam Bắc, lòng dân cả nước vẫn chia lìa Bắc, Nam!
CHP:
Anh cho biết thân phận người lính nước ta thời ấy?
NHN:
Trong bối cảnh lịch sử: “Nội nhà Tây Sơn đã ba vua, Nguyễn Ánh ở Nam Hà cũng muốn làm vua, thêm Giám quốc Lê Duy Cận ở Bắc Hà, cũng là một thứ vua. Một nước năm vua. Chỉ dân chúng là cùng khốn. Bắt cả trẻ con mười lăm, mười bảy đi lính. Sưu cao, thuế nặng, đi phu, đi phen liên miên…” … Phần đông họ, lính tráng, ở tuổi mới lớn, phải sống xa nhà lâu ngày; đời lính không biết sống chết lúc nào, đã biến họ thành những con người phần đông yếu ớt mà bề ngoài làm ra vẻ mạnh mẽ… Sự yếu ớt thường lộ ra rõ nét sau thời chiến: Mất lý tưởng Quốc gia Dân tộc, hình thành những Tập đoàn Thống trị, dựa trên bạo lực, cửa quyền, ăn cắp, ăn trộm và ăn cướp được gọi là tham ô, tham nhũng, lãng phí…
Nỗi cô đơn lớn nhất thuộc về dân chúng, bị bức hại trăm bề, không kêu cứu vào đâu được. Thuế má ngập đầu, thêm nạn đi phu, bắt lính, đất đai, gạo thóc bị thu gom, quan tham cùng lính ác múa gậy vườn hoang. Mọi chuyện tham ác đều vin vào cớ vì việc nước. Sức mạnh nằm trên đầu ngọn dáo… Đây là câu nói về vua, quan, lính, đầy tức giận của một ông già ở làng Bồng, ngoài thành Hoàng Đế, “… Lúc chống ngoại xâm thì quá tử tế, sau đó rất đểu cáng, coi dân không bằng gà, chó…”
CHP:
Hình như thời nào cũng có kiêu tướng, kiêu binh?
NHN:
Bởi thời nào cũng chiến tranh! Xin nghe, “ Trịnh Tông than: “Bức bách nhau thế này, thà đừng lập làm chúa còn hơn!” Kiêu binh càng xem vua chúa, quan quyền chẳng ra gì, càng thả cửa bóc lột dân chúng.
Không phe phái nào chịu học hỏi Tôn Võ Tử, ở chiến lược binh thư cao cấp, rằng: «Chiến tranh là sự hao tổn nguyên khí, vì vậy phải chấm dứt càng sớm càng tốt.» Lúc nào và ở đâu “người mình” cũng sẵn sàng đánh năm năm, mười năm, năm mươi năm, đánh tới bao giờ thua, thắng rõ rệt? Cả đất nước trở thành trại lính?
Nguyên khí Quốc gia là gì? Vua Lê Thánh Tông, 1442-1497, thì cho rằng: «Hiền Tài là Nguyên khí Quốc gia.». Chiến tranh giết hại nhiều người hiền tài.
Sự thật là như thế.
“Ai thắng ai” rồi cuối cùng cũng nô lệ giặc ngoài, bởi đất nước vẫn không thoát khỏi cái vòng thù trong: Ác, ngu, nghèo, bẩn. Bẩn nhất là Tâm thức Độc tài!
Cách mạng toàn… bánh vẽ.
CHP:
Có một cuộc Cách mạng Nông dân Tây Sơn không?
NHN:
Chỉ là cướp chính quyền. Bao nhiêu người lính trẻ chết trận. Bao nhiêu người dân lành tan cửa, nát nhà, thác oan để thay thế bằng một Trương Phúc Loan khác, là Bùi Đắc Tuyên, Thái bảo Mân của Tây Sơn, vẫn trò bóc lột, đục xương, hút máu người dân…
CHP:
Tại sao dân chúng trước thì nô nức theo nhà Tây Sơn, sau lại chán chường bỏ nhà Tây Sơn. Anh có thể cho biết về sự sai lầm lớn nhất của nhà Tây Sơn?
NHN:
Thứ nhất:
Khi dựng nghìệp, lấy của cải của nhà giàu phân phát cho người nghèo. Lúc cai trị, lấy của cải của người nghèo củng cố cho nhà giàu. Nhà giàu càng giàu thêm. Nhà nghèo càng nghèo đi.
Thứ hai:
Không thật lòng “phù (chúa) Nguyễn, diệt Trương (Phúc Loan)” và chẵng thật sự “phù (vua) Lê, diệt (chúa) Trịnh”.
Thứ ba:
Trong giòng họ Nguyễn Tây Sơn, cùng lúc, có hai vua: 1/ Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và Vua Quang Trung Nguyễn Huệ. 2/ Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản.
Thứ tư:
Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản trực và gián tiếp triệt hạ Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và hậu duệ. Giết hại các công thần Tây Sơn. Kỳ thị Nam, Bắc hà.
Thứ năm:
Triều đình Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản cấm đoán và tiêu diệt người dân theo đạo Thiên Chúa…
CHP:
Theo luật Hiệu ứng Cánh bướm Butterfly effect, Lý thuyết Hỗn loạn, thì một nguyên nhân này sẽ lan ra những nguyên nhân khác. Tạo thành một chuỗi những hậu quả chồng chéo, đan kết lẫn nhau? Anh nghĩ sao?
NHN:
Vâng, theo nhà Phật, mười hai nhân duyên, ở đời này không có gì đứng biệt lập cả, nhất là lịch sử. Thuyết Butterfly Effect của Edward Norton Lorenz thật đúng, khi nói về “Tính dự đoán được: Liệu con bướm đập cách ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?”.
1/ Vì Tây Sơn không “diệt Trương, phù Nguyễn”, sau khi diệt Trương lại diệt luôn Nguyễn, nên Gia Long Nguyễn Phúc Ánh buộc phải dấy binh báo thù, thế yếu, nhiều phen thất bại, cuối cùng phải nhờ Tây Dương…
2/ Vì Tây Sơn không “diệt Tịnh, phù Lê”, sau khi diệt Trịnh xong, lại diệt luôn Lê; nên An nam Quốc vương Chiêu Thống Lê Duy Khiêm buộc phải chống Tây Sơn, dẫn tới việc cầu cứu nhà Thanh.
3/ Vì một nhà hai vua, nhà Tây Sơn, vua Thái Đức với vua Quang Trung; vua Thái Đức với vua Cảnh Thịnh. Nên lúc nào một mình Tây Sơn cũng bị “đa đầu thọ địch”: Nhà Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, nhà Thanh, Tây Dương, sĩ phu và dân chúng Nam, Bắc hà…
CHP:
Cùng năm vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, vua Thái Đức mất Gia Định về tay Nguyễn Phúc Ánh. Anh cho biết vì sao Lê Chiêu Thống đã chạy sang Tàu?
NHN:
Tây Sơn trên danh nghĩa, không diệt Lê, chỉ đòi khao quân sau khi Tây Sơn có công diệt Trịnh. Khao quân bằng cách nhà Lê phải dâng đất từ Thanh Hoa tới Thuận Hóa. Trong khi Lê Chiêu Thống chỉ xin khao quân Tây Sơn bằng tiền bạc.
Hãy nghe tướng Tây Sơn, Vũ Văn Nhậm, nói với sứ giả: “Vua Lê đã không giữ nổi nước nhà thì các trấn từ Thanh Hoa trở ra, chúng tôi không lấy, người khác cũng sẽ lấy. Nghệ An là một mảnh đất cỏn con, cắt hay không cắt có quan hệ gì đến việc mất còn của nước nhà mà phải đi xa xin xỏ cho mất công trèo non, lội suối. Tôi chỉ e rằng con chim đã lìa tổ, đến lúc bay về lại không có cành để đậu nữa mà thôi!”
Trước đó, Lê Chiêu Thống đã viết một quốc thư, dài, khẩn khoản, có đoạn: “…Vả lại, hồi đó đã vâng lời quý quốc vương dụ rằng: “Quả là đất đai của nhà Lê, một tấc cũng không lấy”. Nay nếu khao quân bằng đất thì không bằng khao quân bằng của. Vậy xin tính số thu nhập hàng năm của đất ấy, dùng làm chi phí khao quân; rồi cứ hàng năm đưa đến biên giới, làm thành định lệ lâu dài. Xa trông quý quốc vương xét cho, để trọn tình hòa hảo của hai nước. Cả nước chúng tôi đều lấy làm may lắm!”. Đã chiếm Thuận Hóa, Quảng Nam, Quảng Bình, lại muốn chiếm tới Nghệ An của nhà Lê?
CHP:
Cầu cứu tới nhà Thanh là điên rồi!
NHN:
Vâng, cơn điên của một người, cha bị giết chết, kho tàng Thăng Long bị vét sạch, cô ruột lấy chủ tướng “giặc lông đỏ” Tây Sơn, chống mình; văn thần, võ tướng phủ của phủ chúa Trịnh, theo Tây Sơn, cùng với quan tướng Tây Sơn lấn quyền vua Lê…
CHP:
Ai vét sạch kho tàng của chúa Trịnh ở Thăng Long?
NHN:
Bằng trung công Nguyễn Hữu Chỉnh, người mai mối cho Nguyễn Huệ lấy Ngọc Hân Công Chúa, than:
“Bao nhiêu vật liệu, khí giới và các báu vật lấy được ở Bắc về, Thượng công đều thu chứa lấy. Vua Tây Sơn sai sứ thần tuyên triệu, Thượng công không chịu về triều. Mọi việc phong quan, ban tước và xử trí này khác, Thượng công đều tự tiện quyết định. Vua Tây Sơn sai người đưa ấn phong Thượng công làm Bắc bình vương và hỏi những thứ của báu lấy được ở phủ chúa Trịnh. Thượng công cũng chống lại không chịu dâng lên. Vua Tây Sơn giận lắm. Vì thế, anh em mới gây ra cuộc binh đao, ở trong một nhà mà đối với nhau còn dữ dội hơn là đối với nước thù địch.”(Hoàng Lê Nhất Thống Chí.)
CHP:
Lê Chiêu Thống tin vào Thiên triều nhà Thanh, sông liền sông, núi liền núi; môi hở, răng lạnh; mà thành Việt gian. Tưởng nhà Thanh chỉ giúp nhà Lê đánh Tây Sơn xong rút quân về Tàu. Anh nghĩ thế nào?
NHN:
Nỗi quốc nhục ấy, bắt nguồn từ câu nói, của Nguyễn Hữu Chỉnh, thưa với Nguyễn Huệ, sau khi vào Thuận Hóa mới là sự thật: “Nay ở Bắc Hà, tướng lười, binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả, ta thừa thế mà đánh lấy, như trong sách đã nói: “Chiếm nước yếu, đánh nước ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong”. Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ!” Hiệu ứng Cánh bướm!
Đằng sau những câu nói đó là tham vọng của những thanh gươm sắc bén về ngôi cao cùng vàng bạc. Nhưng ai cũng phải nói vì nhà vua và trăm họ; theo ý Trời. Đến nỗi Tôn Sĩ Nghị, tướng nhà Thanh, cũng vin vào Trời:
“Nước An Nam từ đời Hán, Đường, là đất phụ thuộc vào nước ta; đến đời nhà Tống, họ Đinh quật cường, mới trở thành nước tiến cống. Trải mấy đời nối theo nhau cho đến ngày nay, lại không thể giữ được nước. Hoặc giả trời khiến nước ấy lại làm quận huyện của Trung Quốc chăng?”(HLNTC.)
CHP:
Thời nào chẳng có Việt gian. Anh nghĩ sao?
NHN:
Xin nghe, An nam Quốc vương Lê Chiêu Thống đã nịnh hót giặc Tàu: “Đội ơn đại hoàng đế, đức cả như trời, không sao hình dung được cho hết. Lại nhờ cụ lớn hạ mình tới đây, khiến cho nước chúng tôi được thấy ánh sáng của áo cừu, đai ngọc, được thỏa lòng ngửa trông sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn. Mối tình vui mừng, kính mến, không sao kể xiết!” Cụ lớn là Tôn Sĩ Nghị.
Trẻ con, ở Thăng Long, đã truyền miệng câu hát:
Hư Cấu
Son sắt tình Việt Hoa,
mừng anh em một nhà.
Môi hở, răng lạnh cắn,
rách nát hết thịt da.
Bởi Tôn Sĩ Nghị đã vỗ về vua Lê Chiêu Thống:
“Chuyến này sang đây, giúp việc kinh lý, trước hết cần bắt cho hết đảng giặc, rồi sau chỉnh đốn quy mô, làm kế lâu dài. Bao giờ mọi việc đều muôn ngàn lần ổn thỏa rồi, bấy giờ mới rút quân, xin chớ lo gì về việc nước nữa.”
CHP:
Anh cho rằng Lê Chiêu Thống chủ trương liều mạng “thà để mất nước, chứ không chịu mất nhà Lê”?
NHN:
Có lẽ, Thống đã tâu:”Ba trăm năm nay, nước chúng tôi nhờ đội oai đức của thiên triều, đời đời giữ chức phiên phong, trong nước yên lặng. Chẳng may vận nước giữa chừng gặp buổi suy vi, vua trước qua đời. Nguyễn Huệ Tây Sơn là rể nước tôi, quên ơn bội nghĩa, nhân khi nguy biến, đánh người trong lúc có tang…»
CHP:
Dòng họ Nguyễn Phúc đã bị Tây Sơn bức bách?
NHN:
Sau khi diệt Trương Phúc Loan, lẽ ra Tây Sơn phải trả lại đất đai cho chúa Nguyễn; nhưng Tây Sơn Nguyễn Nhạc, muốn làm vua, dù đã gả con gái cho chúa Nguyễn Phúc Dương, vẫn thẳng tay diệt chúa Nguyễn, ném cả mồ mả của tổ tiên nhà Nguyễn xuống sông Hương.
Về sau, năm 1800, khi Nguyễn Gia Long thắng, thì:
“Quan quân nhà Nguyễn chú ý nhất là những mồ mả ở trong vùng đất Tây Sơn… Trên bờ sông Côn. Xương cốt đều ném xuống sông!” ongvove.wordpress.com/
CHP:
Nghe nói là mộ của Ngọc Hân Công Chúa cũng bị triều Nguyễn ném xuống sông?
NHN:
Phần “Biệt lục” của tộc phả Nguyễn Đính có ghi thêm, đại khái như sau: “Bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, vợ vua Lê Hiển Tông, thân mẫu của Công chúa Ngọc Hân, thương con gái và các cháu ngoại đều chết yểu nơi xa. Nên vào năm 1804, bà thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt của ba mẹ con rồi cải táng vào giờ Ngọ, ngày mồng Chín, 16-07-1804, tại bãi cây Đại hay bãi Đầu voi ở làng Nành, Ninh Hiệp.”
Năm 1842, dinh Thiết Lâm ở làng Nành, xã Phù Lưu, nay là Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội, “bị phá, nền dinh bỏ hoang thành đất công của làng, nhưng dân vẫn gọi là “Vườn Dinh” và dựng lên đấy một “Miếu cô hồn” kín đáo thờ Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Mộ thật của bà, vì có kẻ tố cáo, nên vua Thiệu Trị “sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy”.
CHP:
Công chúa, Hoàng hậu rồi Hoàng thái hậu Lê Ngọc Hân mà cuối cùng lúc mất đi, lại trở thành… kẻ ngụy! Ngoài dòng lịch sử, chắc anh dựng chuyện về bà Ngọc Hân qua các chặng đời kể trên?
NHN:
Vâng, xin nhắc lại, Ngọc Hân Công Chúa sinh năm 1770, mất năm 1779, hưởng dương 29 tuổi, với hai tác phẩm văn Nôm: Ai Tư Vãn và Văn tế Khóc chồng… Cuộc đời oan khuất với nhiều ngộ nhận. Thí dụ:
1/ Khi bà bằng lòng lấy tướng “giặc lông đỏ”, là Nguyễn Huệ, lại muốn đưa anh ruột là Sùng nhượng công Lê Duy Cận, (em trai Thái tử Lê Duy Vỹ) lên nối ngôi, sau khi vua Lê Hiển Tông mất; nên trong triều đình, đã có người lớn tiếng:
“Tự tôn (Lê Chiêu Thống, con trai Thái tử Lê Duy Vỹ) không được làm vua, thiên hạ ắt loạn. Họ Lê sẽ mất, ấy là lỗi tại Công chúa Ngọc Hân. Công chúa thực đã làm hại đến việc lớn của xã tắc, hãy xóa tên trong sổ họ đi, để cho công chúa về nước Tây Sơn mà yên hưởng giàu sang, họ ta chẳng thiếu gì một con người ấy!”
2/ Gia Long Nguyễn Ánh, sau khi chiến thắng Tây Sơn, đã thu “chiến lợi phẩm” Lê Ngọc Bình (vợ của vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quảng Toản), làm Đệ tam cung, gọi là Lê Đức Phi. Lê Ngọc Bình (em gái của Lê Ngọc Hân) sinh ra hai người con, thứ mười và thứ mười một, năm Gia Long thứ 16, 1781, được phong là Quảng Oai Công và Thường Tín Công. Lê Ngọc Bình còn sinh cho vua Gia Long một con gái, là Công chúa An Nghĩa. Nên dân gian mới truyền miệng câu ca dao, mà nhiều người hiểu lầm là Hoàng hậu Lê Ngọc Hân:
“Gái đâu có gái lạ đời,
Con vua, lại lấy hai người chồng vua.”
CHP:
Tôi nghĩ tới vở kịch “Ngộ Nhận” (Le Malentendu), của nhà văn Pháp Albert Camus. Lịch sử theo anh có phải là một vở kịch lớn, đầy rẫy những hiểu lầm?
NHN:
Câu hỏi khó quá, tôi không thể trả lời rốt ráo được. Trong lúc cố gắng tìm hiểu lịch sử nước ta, tôi thấy có nhiều “án oan”, thí dụ: Trường hợp vua Lê Long Đĩnh.
Lê Long Đĩnh ở ngôi có hơn hai năm, niên hiệu là Cảnh Thụy, 1007-1009, mất năm Kỷ Dậu, 1009, mới hai mươi bốn tuổi; nếu ngọa triều, chỉ nằm, không ngồi được vì bệnh hoang dâm, sao tới sáu lần đích thân làm tướng, cầm quân đi đánh giặc xa, gần hết sức gian khổ?
Lê Long Đĩnh, vị vua đầu tiên ở nước ta đã cho người sang Tàu, thỉnh kinh Đại tạng Phật giáo; trọng vọng các Thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt, cũng như các cao tăng khác. Người như thế mà mang tiếng ác.
Năm Đinh Mùi, 1007, vua Lê Long Đĩnh còn “sai Minh Xưởng và Chưởng thư ký, là Hoàng Thành Nhã, đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin Cửu Kinh và kinh sách Đại Tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả”. Cửu Kinh gồm kinh Dịch, kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Xuân Thu, kinh Hiếu, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ”; chín pho sách báu, mà sau đó nước ta dùng từ đời này sang đời kia; người như thế mà thiên hạ nghe theo lời cánh Lê Trung Tông, (anh của Lê Long Đĩnh), giành ngôi với em, phao tin, đồn nhảm… là “ngọa triều, yếu tới độ không ngồi được, khi thiết triều phải nằm, róc mía lên đầu sư sãi cho bắn máu tươi, bắt họ phải ăn mặn trước mặt mình”…
CHP:
Bịa chuyện hành hạ các nhà sư để kích động quần chúng, phải chăng là Chiến tranh Tâm lý Tôn giáo?

NHN: Gia Long Nguyễn Phúc Ánh cũng khai thác tận cùng việc Tây Sơn Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản: “Giết đạo Tây Dương, bắt các nhà sư đạo Phật đi lính, gieo thù, chuốc oán với dân thì sớm muộn cũng thua.”, “Cảnh Thịnh điên cuồng chống đạo, diệt đạo, lẫn lộn, cho đạo Tây Dương là giặc. “ Vì Tây Sơn thẳng tay bắt bớ, đánh đập, chém giết… Dân theo đạo, không chịu bỏ đạo, đành bỏ nhà, trốn vào rừng…
Mặc dù: “Bà dì của Ba Vua, tức ba anh em Tây Sơn, theo đạo Tây Dương, và thời Tây Sơn Nguyễn Nhạc chưa một nhà tu người nước ngoài nào bị bức hại. “
Việc tàn sát các làng đạo tại Bố Chính, Nghệ An, Thanh Hoa ngoài Bắc, đến độ người theo đạo “bị tẩm dầu vào mười đầu ngón tay hoặc đổ dầu vào rốn, châm lửa đốt; dân đi đạo thường bị treo ngược đầu nếu không chịu đạp chân lên tượng Chúa của họ, mà kẻ tra khảo bảo rằng đó là hình vua Tây Dương.”
CHP:
Thời này cũng chống các đạo nhưng tinh vi?
NHN:
Một hình ảnh đan cử thời “chống đạo”: Những người không chịu chối đạo, chạy trốn, nếu bị bắt, phải lãnh cực hình; chưa kể đến chân xiềng, tay còng, cổ đóng gông, mang đi bêu riếu khắp phố cùng với ảnh tượng và các đồ thờ đạo. Lính đi bên cạnh, luôn tay vung roi đánh đập. Nhiều người nằm chết rũ trên các đường đi. Thường thì họ bị trói giật cánh khuỷu, bẻ quặt hai tay ra sau lưng, liền một ngày nhịn ăn uống. Hoặc bắt đạp chân lên ảnh tượng và nói lớn, đạo Tây là đạo tặc…
Thật ra, việc cấm đạo đã xảy ra ngay lúc đương thời vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, vì nhiều vị cố đạo đã có mặt trong đoàn quân của Nguyễn Ánh. Vua Thái Đức từng khen ngợi “các họ đạo sống hiền. Cấp cả thẻ bài cho những người đi giảng đạo. Chỉ vài năm sau, chính vua Thái Đức lại cho rằng: Người theo đạo không tôn trọng lệnh vua, cũng chẳng tôn kính thần làng.”
Chiến tranh Tôn giáo, giữa Ta và Tây, từ đó mà ra.
CHP:
Có sự quá khích về phía ngoại nhân không?
NHN:
Ở nước ta thời ấy, hẳn có một số người Tây Dương đã đi quá trớn, ngoài việc giảng đạo là tốt; họ làm cho nhiều người theo đạo “nghĩ sai nhất rằng con đường của mình đi là đúng nhất”; họ khơi dậy lòng căm thù của dân đối với triều đình và bài bác cả những niềm tin tưởng trong lòng dân tộc đã sống hàng nghìn năm?
Nghìn năm người mình nô lệ Tàu, nhưng cũng là nghìn năm âm thầm tìm mọi cách để tách ra khỏi Tàu; từ cách đọc chữ Hán cho đến nghĩ ra chữ Nôm; nhuộm răng đen, ăn trầu, mặc váy, áo tứ thân, nón thúng quai thao, ca dao… Nhất là giữ đạo Thờ cúng Tổ Tiên! Chỉ có Tư tưởng Cộng sinh mới là Bản sắc Dân tộc Việt.
CHP:
Bản sắc Dân tộc mình theo Hoa Đào Năm Ngoái là Đạo Làm Người, Kính Trời, Thương Người và Yêu Đất. Anh muốn nói “Đạo” ấy là “Tôn Giáo”, tín ngưỡng, hay “Con Đường” để hòa hợp Thiên, Nhân, Địa?
NHN:
Thưa anh, chữ và nghĩa nước mình mênh mông, sâu sắc lằm. Có ở đâu mà lại: “Chữ Trung anh để thờ cha. Chữ Hiếu thờ mẹ, chữ Hòa thờ em.”?, ca dao, đó là đạo làm con, rồi còn đạo thầy trò, đạo vợ chồng … nữa. Đạo, vâng, là con đường. Song, thờ, đâu phải chỉ là một hướng đi như việc bà Ngọc Hân “thờ chồng, nuôi con”.
CHP:
Theo nhà văn Từ Trì, Paris: „Thơ mộng như “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng, chính xác như “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, nghiêm chỉnh như “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Gia Văn Phái, tác phẩm Hoa Đào Năm Ngoái của Nguyễn Hữu Nhật là chuyện tình tuyệt đẹp giữa một nàng công chúa Bắc Hà và một vị anh hùng gốc nông dân Đàng Trong trở thành một vị Hoàng Đế anh minh.“
NHN:
Tôi may mắn nhận được sự khích lệ kể trên. Cũng như sự khích lệ của nhà văn Trần Thị Diệu Tâm:
“Tác phẩm là một công trình nghiên cứu sâu rộng về lịch sử, chứa đựng nhiều tư tưởng và sự sáng tạo phong phú của nhà văn Nguyễn Hữu Nhật. Đó là một tác phẩm có giá trị văn học và giá trị lịch sử xứng đáng được trân trọng.“
Cuốn sau, “Trong Cõi Người Ta“, tôi viết về truyện đời thi hào Nguyễn Du, chắc sẽ dễ hơn Hoa Đào Năm Ngoái, vì có nhiều sử liệu.
CHP:
Chúng ta có thể nói chuyện tiếp về phần văn chưong của tiểu thuyết Hoa Đào Năm Ngoái?
NHN:
Cảm ơn anh, xin để cho dịp khác; tôi mong ước nhiều Quý bạn đọc sẽ đi vào tâm cảnh của Hoa Đào Năm Ngoái để cảm thương cùng Ngọc Hân Công Chúa.
Quý bạn đọc sẽ thấy vua Quang Trung vui mừng:
“Tôi xin kính lạy dưới bệ hoàng thượng vạn tuế! Ở nơi khe núi hẻo lánh xa xôi tới đây, há dám đường đột như vậy? Bây giờ may sao được bám vào cành vàng lá ngọc, thật là một mối duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Kẻ ở khe núi này xiết bao mừng rỡ.”
Và tìm câu trả lời, cho câu hỏi của vua Quang Trung:
“Vì dẹp loạn mà ra (Bắc), để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không?“ Có tốt không, là tính tình có tốt không, hay là theo nghĩa nào khác?
CHP:
Cảm ơn anh về buổi nói chuyện hôm nay.
NHN:
Xin gửi tặng tới Quý Bạn Đọc và anh bài tứ tuyệt của vua Hồ Quý Ly trong Hoa Đào Năm Ngoái:
“Dục vấn An Nam sự,
An Nam phong tục thuần.
Y quan Đường chế độ,
Lễ nhạc Hán quân thần.“
Và tôi cũng đã tạm chuyển sang tiếng Nôm:
“Người hỏi về nước Nam ư?
Y quan, lễ nhạc cũng như Hán, Đường!“
Văn minh Việt tộc không thua gì Hán tộc.

Hoàng Xuân Sơn
Ngỏ
Ừ! xem
sáu
tám
ngược đời
chữ ngất ngư
chữ
câu đòi đoạn câu
gọi rằng
lục bát nằm lâu
ể mình đứng dậy
thành
câu thơ
rời.

Bài cám ơn trên lưới
Cám ơn, vi vút một đường
tâm tư bằng hữu thắt rường cột ta
rộng thêm chút nữa, giang hà
tươi thêm chút nữa thịt da của đời
xin cám ơn, đẹp nụ cười
trăm câu thân ái ngọt lời ca êm
cám ơn người
cám ơn em
con sông lá thắm xuôi thuyền nhược vong
cám ơn chữ nghĩa một vòng
trăng thiêng cổ độ
hừng đông mặt trời
cám ơn vi tính, lạ đời
hong nhau bếp lửa nhìn khơi tị đào.

Nguyễn Tâm Hàn
Ái ngại
Xuân về tha thướt
Dáng xuân diễm kiều
Thương nàng tiên tóc dài óng mượt
Gót sen hồng tà áo xanh rêu

Hè tươi nắng đỏ
Má hồng thêm xinh
Ta mơ là vầng trăng sáng tỏ
Dìu bước em dạo khúc ân tình

Thu tàn lá phủ
Ngập lối chân em
Ta khô gầy như thân cổ thụ
Không tàn che bóng mát dịu hiền

Đông về tê tái
Theo gió heo may
Ngắm bước em đi về ái ngại
Ngẩn ngơ buồn, ngây ngất men say!

Âm vọng
Anh gọi Xuân về cho hoa trời bừng nở
Để cùng em tô hồng thắm trần gian
Cho hương thơm quyện hơi thở nồng nàn
Gió thoảng mát như lời em hiền dịu

Anh gọi Hè về cho chan hòa nắng chiếu
Để mắt em thêm rực rỡ long lanh
Như thiên hà lóng lánh ngập trời xanh
Ngưòi yêu hỡi . . . mắt nai ngời tinh tú

Anh gọi Thu sang hong tím mầu nhung nhớ
Để hồn anh tưới ngập mắt thu trong
Lá reo vui ôm quyện gót sen hồng
Hồn thoảng nhẹ như tiếng thu vọng lại

Anh gọi Đông sang kéo mầu mây hoang dại
Giăng ngập trời, thả tuyết trắng mênh mông
Ủ tình ta được đẹp đến vô cùng
Nét diễm tuyệt ngự đáy tim lộng ngọc

Anh đòi thời gian những lụa là gấm vóc
Của thuở mình từng bước đón đưa nhau
Trả những đêm cùng ngồi ngắm trời sao
Gió nhẹ thoảng, trăng huyền mơ diệu vợi

Anh bâng khuâng nghe lời tình réo gọi
Xoáy buồng tim, giọng hờn ngập không gian
Âm mơ hồ vọng tự cõi xa xăm
Tiếng réo gọi trả mình thời hoa mộng . . .

Hết Trầm Hương 2