TRẦM HƯƠNG SỖ 4

TRẦM HƯƠNG

Tạp chí văn học nghệ thuật
Năm Thứ 6 . Bộ Mới . Số 4

Chủ nhiệm: Nguyễn Đức Nhơn
Chủ bút: Túy Hà

Thông Tin Liên Lạc
tuyha81@yahoo.com 
doanthachngoc@yahoo.com
Website: http://hoiquantramhuong.net

Trình bày và layout: Nghi Hà
In tại
Mr.Print Ần Quán

THI VĂN ĐÀN TRẦM HƯƠNG THỰC HIỆN

MỤC LỤC

Lối vào (3)
Nguyễn Tôn Nhan thơ – viết về Hoài Nam Tử (8) * Nguyễn Đức Nhơn – Trần Vấn Lệ – Phạm Tương như – Hoàng Xuân Sơn – Du Miên Đà Lạt thơ tưởng niệm Nguyễn Tôn Nhan (18) * Vũ Đăng Lư Dallas chiều thơ nhạc (24) * Đàm Trung Pháp Bút ký (30) * Trần Hoài Thư thơ (35) * Trần Yên Thảo thơ (37) * Hải Phương thơ (39) * Vũ Tiến Lập thơ (41) * Nguyễn Minh Triết biên khảo (42) * Nguyễn Lương Vỵ thơ (52) * Ngô Nguyên Nghiễm thơ (53) * Nguyễn Lập Đông thơ (56) * Trần Văn Lương văn (57) * Lan Đàm thơ (65) * Lãm Thúy thơ (68) * Trần Bang Thạch văn (71) * Như Phong thơ (75) * Kim Oanh thơ (78) * Phan Các Chiêu Hằng văn (80) * Phan Bá Thụy Dương thơ (94) * Dương Thượng Trúc thơ (96) * Lê Hữu Minh Toán thơ (98) * Yên Sơn văn (99) * Cù Hòa Phong thơ (101) * Tâm Thanh văn (102) * Xuân Bích thơ (112) * Kiệt Tấn thơ (114) * Trường Thy văn (116) * Cái Trọng Ty thơ (122) * Trọng Đạt Biên Khảo (124) * Túy Hà thơ (135) * Phan Các Chiêu Hằng thơ (138) * Nguyễn Thị Thanh Dương văn (141) * Dương Quân thơ (147) * Lan Cao thơ (149) * Xuân Du thơ (151) * Nguyễn Thị Thanh Dương thơ (153) * Tình Hoài Hương thơ (155) * Yên Sơn văn (156) * Song An Châu thơ (165) * Lưu Ca thơ (168) * Phan Xuân Sinh văn (170) * Nguyễn Tâm Hàn thơ (179) * Lưu Nguyễn Từ Thức thơ (180) * Chu Thụy Nguyên thơ (181) * Luân Tâm thơ (183) * Tình Hoài Hương văn (185) * Chúc Anh thơ (191) * Mây Ngàn thơ (192) * Nguyễn Khoa Lộc thơ (193) * Song Thy thơ (194) * Phạm Tương Như thơ họa vận (195) * Nguyễn Thế Giác đọc sách (196) * Thái Bạch Vân thơ (202) * Tuấn Đình thơ (204) * Nhật Hạnh nhạc (205) * Thanh Ngọc nhạc (206) .

Lối Vào

Khi chúng tôi ghi lại những lời này thì:
Những ngày đông băng giá đầy cay nghiệt chưa qua, những bất an vẫn còn trên từng khuôn mặt đời thường. Chắc hẳn đa phần đang chia sẻ lo âu. Lo cho cỏ cây khó trở mình đứng dậy, lo mùa đông trở chứng kéo dài, lo xăng dầu leo thang đòi nợ. Lo cho nền kinh tế đang cố lết đi với tốc độ rùa bò. Tất cả những điều ấy trái lại không làm cho chúng tôi lo lắng, vì bên cạnh vẫn còn những người bạn chí cốt, kiên trì bám trụ trong thư phòng nhỏ hẹp của căn mobile home tồi tàn mà chiếc lò sưởi già nua không còn đủ hơi nhả ấm. Nơi ấy là chỗ để thai nghén Trầm Hương.
Nỗi lo riêng của chúng tôi chỉ xuất hiện khi có khá nhiều câu hỏi đến từ thân hữu và đọc giả cùng một nội dung và có thể đúc kết là: Trầm hương có gì trục trặc, có gì thay đổi, mà sao vẫn chưa phát hành theo lịch đã ghi. Những câu hỏi ấy vô hình chung lại mang hai tích cách khác nhau: Lo âu và phấn khởi. Lo vì biết cách nào để trả lời đọc giả, để giải thích với bạn văn sao cho hợp lý hợp tình. Phấn khởi vì tiếng nói của Trầm Hương vẫn còn người quan tâm và hưởng ứng. Như vậy chúng tôi không lẻ loi, chúng tôi vẫn đang khởi hành đúng hướng.
Tiếc thay câu trả lời lại chạm đến điều tế nhị, nhất là đối với giới cầm bút vẫn thường xem tài phú như không và ít khi bàn đến. Tuy nhiên sự thực không vui đôi khi cũng phải nói ra, đó là Tạp chí Trầm Hương mỗi ngày mỗi cố gắng thay đổi chính mình từ hình thức đến nội dung.Và qua kiểm chứng của người đọc, chúng tôi đã nhận được khá nhiều khích lệ, qua sự hưởng ứng đóng góp bài vở của nhiều người viết mới cũng như của những cây viết đã thành danh là chứng tỏ cụ thể nhất.
Thế nhưng, lại vẫn là hai chữ thế nhưng cay nghiệt trước đòi hỏi tự nhiên, thêm bài thì phải thêm trang và như thế đồng nghĩa với việc thêm phần… ấn phí. Trong khi đó sự giới hạn chung về mặt kinh tế khiến cho phần ủng hộ của thân chủ quảng cáo dưới hình thức mạnh thường quân cũng chùn tay giới hạn nghĩa là tài chính đang co lại và vì thế: đến hẹn nhưng vẫn… chưa lên.
Chưa lên nhưng không có nghĩa là không lên, vì anh em Trầm Hương nói riêng và thân hữu nói chung vẫn đang vận động góp sức để kéo Trầm Hương từ nhà in ra. Sự thực là như thế, nhưng Trầm Hương vẫn kiên trì lên đường bằng đôi chân thiếu sức của mình. Cuộc chơi nào mà không phải hao tốn, vận động cho một mong ước nào mà không phải hy sinh. Trong lãnh vực văn học nghệ thuật, sáng tác nào mà không phải đầu tư trí tuệ để góp phần thăng tiến tư duy. Chúng tôi vẫn lên đường.
Và trên đường chúng tôi đi, thông tin thời sự nóng bỏng vẫn không rời, hương hoa Nhài lan rộng từ Bắc phi sang Trung đông và còn nhiều nơi nữa, thế giới Á rập đang lên cơn sốt, chúng tôi kêu gọi sự hưởng ứng của những bạn cầm bút còn tâm huyết và xin được nhắc lại vận động của văn học không tách rời thời cuộc. Thơ văn không chỉ là ngợi ca cái đẹp mà còn phải ngợi ca tính nhân bản trong mọi bối cảnh hiện thực xã hội. Thơ văn không chỉ hiện diện trên những khung cảnh sang trọng mà thường xuất hiện khắp mọi nơi, từ bùn lầy nước đọng, từ ruộng đồng khô hạn hoặc xanh tươi, như hoa mọc khắp mọi nơi. Thậm chí từ những bi thảm như chiến tranh và từ những hoan ca của hòa bình. Thơ văn phải mang thuộc tính quần chúng. Bởi vì từ quần chúng mới có bạn đọc.
Có lẽ Quý bạn đọc đang chờ hương hoa ướp chữ, góp tình trong sáng tác. Và hỡi bạn cầm bút còn chờ gì, đề tài và cảm hứng vẫn đầy dẫy trước mặt ta. Ý nghĩa này thay cho lời cảm tạ bạn đồng hành đang cùng di chuyển trên một lộ trình.Chúng tôi hoan nghênh và chờ đợi nhưng sáng tác mới trên tinh thần ấy. Kính mời Quý vị ghé thăm trang Web của chúng tôi:
www.hoiquantramhuong.net

Trân trọng
Ban Biên Tập.

Lời Tòa Soạn:
Trầm Hương số 4 đặc biệt tưởng niệm cố Thi hữu Nguyễn Tôn Nhan, chúng tôi đăng lại bài Cuộc Đời Tư Tưởng Hoài Nam Tử. Bài này là tựa của tập biên khảo và dịch thuật Hoài Nam Tử, anh đưa bản thảo tận tay tôi tại Sài Gòn, lúc sách vừa đem in.
NĐN

Cuộc đời tư tưởng
Hoài Nam Tử
Nguyễn Tôn Nhan

Tư tưởng triết học cổ đại ở Trung Quốc có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng triết học cổ đại Việt nam. Đó là sự thực không cần lý giải và hầu như ai cũng công nhận. Trong khu rừng rậm tư tưởng triết học cổ đại (nhất là trước đời Tần – Tiên Tần – như cách nói quen thuộc). Bộ Hoài Nam Tử (hay Hoài Nam Hồng Liệt) có giá trị đặc biệt. Rất nhiều lần, trong nhiều dịp trao đổi với học giới (nhất là Hán học giới), chúng tôi lấy làm tiết, một nền văn hóa lớn riêng biệt như Việt Nam mà xưa nay chưa hề tiếp thu bằng cách chuyển dịch toàn bộ thư tịch văn căn bản nhất của Trung Quốc vốn được nước ta kế thừa ảnh hưởng từ lâu.
Tại sao một nền văn hóa vừa Phật vừa Nho (có thể vừa Huyền học Đạo giáo nữa) thâm sâu như văn hóa Lý, Trần của Việt Nam mà chẳng ai quan tâm chuyển dịch những tác phẩm tổng hợp tư tưởng Tiên Tần sâu sắc, cụ thể như bộ Lã Thị Xuân Thu, Hoài Nam Tử?
Tại sao vào thời cận đại khi lớp những nhà Nho học cuối cùng phải bàn giao (miễn cưỡng?) di sản văn hóa tổ tiên lại cho lớp thanh niên Tây học đầu thế kỷ trước, họ chỉ chú ý chuyển dịch sơ sài vài bộ “tứ thư”, “ngũ kinh” (đã qua xác định của Tống Nho) không lưu ý gì đến “chư tử” hết sức quan trọng mà trong một bài ngắn này không thể nhắc đầy đủ hết được.
Là một hậu sinh, lại chỉ có công tự học ít nhiều, chúng tôi lấy làm tiếc khi phải tự nỗ lực đọc lấy từ nguyên tác các bộ kinh điển khó bậc nhất của tư tưởng triết học Tiên Tần. Có lẽ vì tiếc công, hay vì một cơ duyên “tiên thiên” nào đó, từ rất lâu, chúng tôi chìm đắm vào Đạo học Trung Hoa (như từ gần 20 năm trước, chúng tôi đã cho xuất bản Đạo Đức Kinh, Xung Hư chân kinh…)
Từ lâu Hoài Nam Tử đặc biệt quyến rũ chúng tôi, nhưng lại phải đợi đến “cơ duyên” gần đây, chúng tôi mới bắt đầu chuyển dịch bộ sách vô cùng quan trọng và hấp dẫn này. Trong lịch sử tinh thần của người Trung Quốc, thời “chư tử tiên Tần” rõ ràng là một thời đại huy hoàng. Thời đại này được coi là một “thời đại trục tâm” có sức hấp dẫn lớn. Đây cũng chíng là thời kỳ tư tưởng Trung Quốc lên đến đỉnh cao nhất. “Chư tử” sống giữa thời loạn, cảm nhận được mọi sự đau khổ của kiếp nhân sinh, nhưng họ không đủ sức mạnh để quy định vào một dòng “chính thống” mà chỉ có khả năng tự do tư tưởng, từ đó tùy vào điều kiện riêng, tư tưởng của họ phát triển theo nhiều phương hướng để trở thành những học thuyết tư tưởng khác nhau. Giữa các loại tư tưởng khác nhau ấy cũng xẩy ra nhiều cuộc luận chiến kịch liệt, từ đó hình thành nên cục diện tư tưởng “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng) Đó cũng chứng minh cho sự tự do tư tưởng (vì chỉ có tự do tư tưởng mới “đua tiếng” được). Chính ở thời kỳ này, tư tưởng Trung Quốc đã bộc lộ khí chất cơ bản của nó; Khí chất cơ bản ấy là; tâm lý đạo đức được phát huy rất đầy đủ nhưng tâm lý trí thức lại không được triển khai như mong muốn. Đây là dấu ấn tư tưởng nhân sinh của Trung Quốc.
Quay trở lại thời đại huy hoàng này của Trung Quốc , chúng tôi muốn chọn bộ “Hoài Nam Tử” làm đối tượng vì tác phẩm này ra đời trong một xu thế phát triển tư tưởng rất đáng được chúng ta quan tâm. Xu thế này, chính là lúc tư tưởng Trung Quốc đang từ phân tán quay về hợp lưu tổng hợp. Phải chăng xu thế ấy có phần nào tương tự với xu thế ở Việt Nam trải qua “loạn thế” nửa thế kỷ qua?
Tư tưởng Trung Quốc thời kỳ tiên Tần biểu hiện thành “bách gia tranh minh”, đến đầu đời Hán đã được Thái sử công (Tư Mã Đàm, thân phụ Tư Mã Thiên) quy nạp thành sáu nhà (lục gia) Nho gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Đạo gia và Âm dương gia. Đến khi Hán Vũ đế độc tôn Nho thuật, cuối cùng hình thành cục diện cơ bản Nho và Đạo bổ sung, dựa dẫm lẫn nhau. Cục diện ấy kéo dài trong một thời gian dài đến tận lúc Phật giáo du nhập vào và phát triển đủ thành một thế lực, cục diện mới thay đổi biến thành “tam giáo đỉnh lập” (ba tông giáo cùng tồn tại). Sự tổng hợp tư tưởng trong lịch sử Trung Quốc được hun đúc qua tiến trình đại thống nhất cuối cùng được định hình, đó là một tiến trình còn lâu dài nữa. Bộ “Hoài Nam Tử” ra đời giữa thời điểm tư tưởng tổng hợp, chưa tiến tới Nho thuật độc tôn, ra đời vào lúc chế độ đại thống nhất chính trị sắp sửa định hình nhưng chưa xác lập tối hậu, cho nên toàn bộ sách tư tưởng tự do để tiến hành chọn lọc, biểu hiện rất rõ nhiều tư tưởng mâu thuẫn, đưa ra rõ ràng tâm thái lưởng lự giữa “thống nhất thiên hạ” và “giữ phong tục khác nhau”.
Vậy thì, chúng ta hãy tìm hiểu “Hoài Nam Tử” là tác phẩm ra sao? Khái quát đơn giản đặc điểm tác phẩm này, triết học sử Trung Quốc, đại khái thường dùng hai chữ “kỳ” (kỳ lạ) và “tạp” (lẫn lộn, phức tạp) để khái quát. Cho rằng Hoài Nam Tử kỳ lạ, có tới mấy tầng ý nghĩa: một là do số phận đầy bi kịch của tác giả, phủ lên tác phẩm nhiều màu sắc truyền kỳ. Tác giả Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An và các tân khách môn nhân. Giới quý tộc vương giả đầu đời Hán đa số mê say chìm đắm vào thú vui nhan sắc, âm nhạc hoặc săn bắn rông dài, riêng Hoài Nam Vương Lưu An dốc chí vào học thuật, nhún nhường chiêu nạp kẻ sĩ, tỏ ra có tư thái phong nhã cao thượng. Một chư hầu vương cao khiết chí lớn như thế mà cuối cùng rơi vào kết cục phải tự sát, liên lụy đến vài ngàn người phải chết theo. Hoài Nam Vương là vật hy sinh để lịch sử Trung Quốc tiến vào cục diện chính trị đại nhất thống. Cái chết của ông là một bi kịch của lịch sử. Quyền lực của tước vương đầu đời Hán cực lớn , trong nội bộ vương quốc của mình, chư hầu vương có quyền hưởng thụ tiền thuế, quyền phân bổ quan lại, quyền hành chánh , thậm chí có cả quyền phát hành tiền riêng, triều đình chỉ sai một chức “thừa tướng” tới giúp đỡ, có tác dụng giám sát và liên hệ với triều đình, do vậy những “phong quốc” (quốc gia được phong cấp cho tước chư hầu vương) nghiễm nhiên là một triều đình nhỏ. Phong quốc đầu đời Hán tự có hệ thống ghi năm độc lập. Ở Trung Quốc cổ đại, quan niệm về “chính sóc” và màu sắc y phục tượng trưng cho chính quyền, do đó một chính quyền mới lên ngôi, việc đầu tiên là phải sửa đổi “chính sóc” và màu sắc y phục. Các vương quốc đầu đời Hán không tuân thủ cách làm lịch pháp triều đình (“chính sóc” là một khái niệm thuộc lịch pháp) mà tự ghi năm (theo lịch riêng) chứng minh lúc ấy vương triều Tây Hán chưa chính thức hoàn thành được thể chế đại thống nhất. Thế nhưng, bấy giờ đại thống nhất đang là xu thế phát triển của lịch sử, triều đình cũng đang mong muốn dùng sức mạnh thúc đẩy nhanh xu thế này. Nhân vậy, giữa các vương quốc (được phong) và triều đình trung ương xảy ra nhiều cuộc đấu tranh giành giật quyền lực. Các loại đấu tranh xoắn xít với giành giật ngôi đế diễn biến thành nhiều sự kiện trấn áp mưu phản bị buộc tự sát “liên lụy đến chết vài vạn người” (tọa tử giảsố vạn nhân, như sử chép). Đó là sự việc chấn động lớn đương thời. Lúc Hoài Nam Vương biên soạn bộ “Hoài Nam Tử”, ông có ý dâng sách lên triều đình đầu đời Hán Vũ Đế thay cho một kế sách, do đó ông còn tự đặt tên cho sách là “Lưu thị chi thư”: sách của họ Lưu hoặc kế sách (trị nước) của họ Lưu (họ Lưu tức họ đang thống trị triều đình Hán). Tâm nguyện ấy của ông cuối cùng bị lật ngược mặt trái vì kết quả tội mưu phản dẫn tới. Bối cảnh lịch sử như vậy phủ lên bộ “Hoài Nam tử” một màu sắc truyền kỳ.
Mặt kỳ lạ thứ hai của Hoài Nam tử là nó lưu giữ được rất nhiều tư liệu tư tưởng Tiên Tần cho đến lúc bấy giờ. Hoài Nam tử không phải một tác phẩm “trứ tác” theo ý nghĩa hiện đại, nó không phải một “sáng tác phẩm” của Hoài Nam Vương và các môn nhân, mà là sách “biên soạn”, là sách do họ giải thích, chỉnh lý, chọn lộc từ các tư tưởng Tiên Tần. Có người cho rằng bất cứ câu văn nào trong Hoài Nam tử cũng có nguồn gốc xuất xứ sợ rằng hơi quá đáng, nhưng rất nhiều văn cú tư tưởng trong Hoài Nam tử quen thuộc là sự thực quá rõ. Chính nhờ vậy, khá nhiều sách vở thư tịch đã mất mát có thể dựa vào tư tưởng lưu giữ trong Hoài Nam tử mà khôi phục lại. Giátrị sử liệu của Hoài Nam tử rất cao, đó là điều đã được công nhận. Ví dụ tên gọi hoàn chỉnh của 24 tiết khí nông lịch là do Hoài Nam tử xác định sớm nhất. Hoặc hai thiên “Thiên văn huấn” và “Địa hình huấn” của Hoài Nam tử đã bảo lưu nhiều kiến thức về thiên văn, địa lý cổ đại Trung Quốc . Hoặc như thiên “Mậu xứng huấn” bảo lưu tài liệu tư tưởng của học phái Tử Tư, mà không thư tịch nào khác có thể so được.
Điều kỳ lạ hơn chính là khí chất tư tưởng rộng lớn kỳ vĩ của bản thân Hoài Nam tử. Hoài Nam tử có hùng tâm “lung lạc trời đất” (lao lung thiên địa) với ý muốn dung nạp mọi lãnh vực tư tưởng, tri thức vào một bộ sách và tổ chức chúng thành một hệ thống lớn. Có lẽ vì vậy trật tự tư tưởng của Hoài Nam tử tương đối khá hỗn loạn, tạp nhạp. Thế nhưng với tầm nhìn tư tưởng cao xa, với khí thế tư tưởng cao lớn hoằng đại, Hoài Nam tử đủ đạt tới danh tiếng của một bộ “kỳ thư”. Tóm lại đây chính là bộ sách “lạ kỳ” khó hiểu mà từ lâu chúng tôi đã lưu tâm nhưng chưa dám bắt tay chuyển dịch.
Còn mang tiếng là “tạp” (hỗn tạp, phức tạp), ngay từ bộ “Hán thư” phần Nghệ văn chí đã dùng hai chữ “tạp gia” ở dưới tên sách Hoài Nam tử, rồi các sách sử đời sau đều học theo, hoàn toàn đồng ý xếp Hoài Nam tử vào loại “tạp gia”. Hoài Nam tử ra đời đến nay đã hơn hai ngàn năm, vẫn lưu truyền với danh nghĩa “tạp gia”. Nay truy tìm về nguyên nhân tư tưởng hỗn tạp trong Hoài Nam tử, đại khái có thể nhận ra mấy điểm:
Một, văn phong Hoài Nam tử phần lớn dùng câu đối ngẫu, phô trương khoe khoang theo kiểu phú đời Hán, chữ dùng lại hoa lệ trùng điệp nhiều màu vẻ. Nhiều khi câu văn rườm rà có ý vị ẩn dụ nhưng vì vậy, có đôi lúc trùng điệp. Đọc Hoài Nam tử dễ có ấn tượng rực rỡ, đồng thời lại có cảm giác bị hình ảnh rực rỡ nọ làm mờ mịt ý nghĩa. Cách hành văn Hoài Nam tử hình như không theo một con đường tư tưởng duy nhất, mà chỉ dựa vào một ý hướng gần gũi nào đó rồi tưởng tượng phóng túng thêm đồng thời đưa vào nhiều kiến thức khác. Có lẽ phương thức truyền đạt và phong cách ngữ ngôn của Hoài Nam tử là một trong nhiều nguyên nhân tạo nên ấn tượng phức tạp.
Kế đó, về tư tưởng, Hoài Nam tử ôm ấp hùng tâm quá lớn, hầu như tác giả muốn đưa vào sách mọi lãnh vực triết học tri thức. Một bộ sách như vậy cần có trật tự về kết cấu. Về mặt này Hoài Nam tử tỏ ra rất yếu. Chính vì vậy, nôi dung càng nhiều, càng tạo cho người đọc cảm giác càng hỗn loạn. Nếu coi Hoài Nam tử như tài liệu tưởng, có thể gọi đây là một kho tàng quý giá, nhưng nếu coi đó là một hệ thống tư tưởng, chắc chắn Hoài Nam tử khó tránh được tên gọi “tạp gia”.
Sau cùng, lập trường tư tưởng của Hoài Nam tử chuyển biến du di không định hình. Lúng túng giữa truy cầu tự do của Đạo gia mà vẫn muốn bảo vệ trật tự Nho gia là nguyên nhân cơ bản dẫn đến rối loạn của Hoài Nam tử. Hoài Nam tử có ý muốn đứng trên lập trường Đạo gia để định hướng cho toàn bộ sách, điều đó rất rõ, nhất là dựa vào tư tưởng truyền thống của Trang Tử để đi tìm tự do. Hoài Nam tử coi giá trị bảo vệ trật tự Nho gia là gông cùm. Tư tưởng Trang Tử vốn nhiều mâu thuẫn khi ông muốn “tiêu dao du” đạt tới cảnh giới “chân nhân” khi vẫn còn ở trần gian hệ lụy. Hoài Nam tử cũng muốn vậy, nhưng với thân phận một “chư hầu vương”, rất cần trách nhiệm trị an đời, làm sao thoát ra khỏi giá trị về trật tự xã hội do nhà Nho khởi xướng. Khối mâu thuẫn, dù “bất đắc dĩ” đi nữa, dẫn tới nhiều lúc Hoài Nam tử ca ngợi tư do như Đạo gia nhưng nhiều lúc muốn điều hợp giữa Nho và Đạo, lập trường tư tưởng cứ lúng túng giữa hai bên là nguyên nhân căn bản tư tưởng hỗn loạn của Hoài Nam tử.
Sách Hoài Nam tử đại khái hoàn thành vào thời Hán Cảnh đế (ở ngôi từ năm 156 – 141 TCN). Hán Vũ đế lên nối ngôi (ở ngôi từ 140 – 87 TCN), khi được vào yết kiến vua mới, Hoài Nam vương dâng bộ sách lên cho cháu mình (tức Hán Vũ đế), vị hoàng đế mới trẻ tuổi, theo truyền thuyết rất thích văn nghệ tất nhiên vui vẻ nhận sách, “yêu sách nhưng cất kỹ” (ái bí chí như sử chép). Thế nhưng, vừa lên ngôi, Hán Vũ đế đã đưa ra “Thiên nhân tam sách” chứng tỏ đế quan tâm nhất là muốn xây dựng và giữ gìn trật tự đại nhất thống, còn vấn đề trọng yếu Hoài Nam tử đặt ra lại là vấn đề tự do, ấy là việc Hán Vũ đế không quan tâm. Xét về tình huống thực tế phát triển tư tưởng đầu đời Hán, thời đại Hán Vũ đế là một bước chuyển biến, trước đây tư tưởng Hoàng Lão Đạo gia chiếm địa vị chủ lưu, sau khi Hán Vũ đế “độc tôn Nho thuật”, tư tưởng Đạo gia dần chuyển xuống thứ yếu, Nho gia trở thành chủ lưu. Phong cách tư tưởng thời đại thay đổi khiến vấn đề quan hệ xung đột giữa tự do và trật tự trong Hoài Nam tử không được chú ý nữa, đấy là nguyên nhân sách Hoài Nam tử tuy được Hán Vũ đế thích nhưng cất kỹ trong bí các.
Suốt thời Tây Hán, không ai chú ý gì đến Hoài Nam tử, có lẽ vì vấn đề Hoài Nam tử đưa ra bị gác lại, hoặc có lẽ bị ảnh hưởng án ngục của Hoài Nam vương, người ta ngại nhắc tới tác phẩm ông. Phải tới đời Đông Hán, Hoài Nam tử mới trở thành sách thông hành với hai bản chú giải của Hứa Thận và Cao Dụ. Cao Dụ từng lớn lời ca ngợi “người có học mà không luận về Hoài Nam tử tức không biết s6u thẳm của đạo lớn đó” (học giả bất luận “Hoài Nam” , tắc bất tri đại đạo chi nhân dã).
Trên đây, chúng tôi khái thuật sơ qua để giới thiệu một phần diện mạo địa vị của Hoài Nam tử trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, sau bài tựa, chúng ta sẽ còn dịp nghiên cứu kỹ hơn về tác phẩm lớn này. Xin nói thêm, riêng ở Việt Nam, điển cố văn học vẫn thường nhắc tới nhiều câu chuyện xuất xứ trong Hoài Nam tử như “mâu thuẫn”, “trăm sông về biển”, “Tái ông mất ngựa” mà chúng ta đã được biết từ lâu.

Gởi cho cõi im lặng

Rồi người đi tóc bỏ đuôi gà
Tôi lao đao về những sân ga
Chiều hôm hoa nở cành chim chết
Tặng cho người đôi cánh lông khô

Tôi giang hồ như triệu bóng mây điên
Biết về đâu người biết đâu tìm
Đời tan nát cả lòng bia mộ
Mây cũng không mầu mây cố nhiên

Rồi người đi tôi khóc ướt đồi
Mưa xuống cho hồn lạnh chết thôi
Thiên nhiên xanh quá tôi vừa thấy
Cũng đủ cho tôi dại cả đời

Chiều vui trời ướt nhẹp mây gù
Sãi về chùa, tôi sắp theo tu
Người không biết được thầy tăng nhỏ
Đã nhớ người rên suốt đêm thu

Người đâu biết được cụm mây kia
Nhớ run em, nên đã theo về
Nơi tôi có triệu cành vô sắc
Gửi cho người chết ngợp đam mê

Tôi nằm nghe cây chuyển nhựa non
Bóng thiên thâu một mảnh trăng còm
Tôi nhớ vô cùng con dế gáy
Tóc người gầy dãy dụa bay điên.

Một triệu bông mười giờ

Tôi ở lại bên Ni
Nửa ngày cơm gầy guộc
Ni giặt giụa sau nhà
Bóng trôi đầy mặt nước
Ni có hai con mắt
Đựng quá nhiều Như Lai
Ni có hai con ngươi

Ni đựng cả hồn tôi
Trong giường Ni mới dọn
Chăn chiếu vẫn thơ ngây

Ni đựng cả tim tôi
Trong bào thai giá rét
Một triệu bông mười giờ
Nở êm đềm vĩnh biệt

Tôi dại dột biết Ni
Chỉ có hai con mắt
Chỉ có hai con ngươi
Đỏ như hai viên gạch
Một triệu bông mười giờ
nở vô ưu tĩnh mịch

Tôi ghé lại bên Ni
Hồn quạnh hiu vô ngã
Chút điên cuồng cuối đời
Tôi gởi cho Ni giữ
Tôi ghé lại rồi đi

Rừng đầy mưa lạnh tóc
Tôi nhớ mắt Như Lai
Con mắt Ni có hai
Sao ngập trời Tây Tạng
Tôi khóc ướt cỏ đồi
Ngập suốt trời Tây Tạng.

Mùi thiên nhiên

Một nụ hoa thược dược
Chứa đựng cả càn khôn
Long lanh giọt sương nước
Mà dồn dập sóng cồn

Làm sao mà giải được
Ý nghĩa của mất còn
Trăng mọc sau hay trước
Nắng nhạt hay mưa tuôn

Trăng mọc ở đầu non
Mờ đến giờ nguyệt tận
Bèo dạt dưới mưa tuôn
Tử sinh vòng lẩn quẩn

Cành hoa đưa hương phấn
Ngào ngạt mùi thiên nhiên.

Nguyễn Đức Nhơn
Khóc Nguyễn Tôn Nhan

Mới ngày nào
Ở Đất Phương Nam
Vui thật vui
Bốn thằng ngồi tán dóc
Chuyện văn chương
Chuyện giang hồ
Ngang dọc
Vui thật vui
Mi hỡi Nguyễn Tôn Nhan!

Sao hôm nay
Mi vội vã lìa đàn
Tao sửng sốt
Thương mày
Muốn rơi nước mắt
Ở bên này
Xa mi nửa vòng trái đất
Chỉ cầu xin
Mi thanh thản lên đường
Về cõi vĩnh hằng
Nơi không có tai ương
Không phiền não
Không bon chen
Như hạ giới

Tụi tao
Những thằng
Còn ở lại
Thương mày quá đỗi
Nguyễn Tôn Nhan!
Thôi từ đây
Thi hữu
Thi đàn
Thiếu một thằng
Tài hoa hết mức
Thôi Nhan ơi!
Tao thực tình
Muốn khóc
Tiễn mày đi
Mi hỡi
Nguyễn Tôn Nhan!

Jan-31-2011
Nguyễn Đức Nhơn

Trần Vấn Lệ
VĨNH BIỆT NGUYỄN TÔN NHAN

Sài Gòn báo tin hối hả: “Nguyễn Tôn Nhan đã chết rồi!”. Nó chết là nó hết cười một thuở Sài Gòn vội vã. Người ta đụng nó, nó ngã. Người ta đụng nó bỏ đi, nó thì được khiêng đem về Nhà Thương rồi ra Nhà Xác. Không ai nghe tiếng nước mắt rơi trên hè phố Sài Gòn… Người ta chỉ nghe tiếng chuông của một Nhà Thờ gần đó, dĩ nhiên không dành cho nó… Ơi Nguyễn Tôn Nhan dễ thương. Anh đi như chuyện bình thường hôm nào giòn tan phố Mỹ. Hôm nào là đầu Thế Kỷ, bây giờ là cuối đường xa… Nụ cười của anh như hoa, tôi nói với anh, anh nhớ?
Nguyễn Tôn Nhan không còn nợ, anh đi, thong thả anh đi…
Tôi viết mấy câu gửi về, hỡi ơi lòng tôi đẵm lệ. Một lần gặp nhau, không lẽ chỉ còn tái hội Thiên Thu? Phải chi có trái mù u tôi lăn theo dài ngọn lửa. Anh không được cho nấm mộ, cỏ hoa lỗi hẹn văn chương… Anh nằm trong bình tro xương, không co mà còn chút xíu! Sách vở từ nay nhăn nhíu, từ nay bạc phếch thời gian…
Ơ này anh Nguyễn Tôn Nhan, trên bàn để anh cái cốc, nhớ anh không ai đã khóc, rượu như tình rót cho anh…
Rượu như tình, rót cho anh. Biết nói câu nào cho phải? Gặp nhau, với nhau không ngại. Xa rồi, quan tái, Trời ơi!

Trần Vấn Lệ

Hoàng Xuân Sơn
Vẻ trần

(tiễn bạn Nguyễn Tôn Nhan)

Bàng khe. chim quạ đau. nằm
mùa đưa bạn lữ
về trăm năm buồn
hạt chiều
buông một cầu sương
mơ hồ trăm chuyến
vô thường biệt ly
bạn văn
ôm đóa trường kỳ
hồ hoa
mị thảo
tường vi cũng là
rì rào
suối mộ. lăng ba
hường nhan sớm gội
la đà
bướm
ong

Hoàng Xuân Sơn
31.1. 2011

Phạm Tương Như
Thương tiếc
Nguyễn Tôn Nhan

Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Tôn Nhan
Tôi may mắn ở diễn đàn cùng anh
Trầm Hương Văn sĩ, Thi nhân
Việt Nam Âu Á tình thân kết thành
Mới hay định mệnh mong manh
Xuôi tay một kiếp miền xanh anh về
Cũng xa gia quyến, trời quê
Câu thơ ngộ nghĩnh, tứ thi đa tình
Một chàng nghệ sĩ lạ hình
Tóc, râu dáng vóc như khinh mạng đời
Vần thơ ý nhị gọi mời
Câu đầu đọc dẫn tới đuôi, hết bài
Hồn thơ hoa lá mây bay
Cám ơn đời có Thi Tài Tôn Nhan
Nay anh về cõi vĩnh hằng
Hồn thơ gửi lại thế gian hiểu mình
Người tài hoa lại đầy tình
Danh thơm đến ngát còn khuynh đảo đời
Thôi thì về cõi rong chơi
Thi Đàn Thi Hữu khóc lời tiễn anh!

Phạm Tương Như
Houston Tx. 01/02/ 11

Miên Du Đà Lạt
Thế là hết!

Là cát bụi trở về cát bụi,
là chuyện trần gian ta vĩnh biệt
là giã từ tất cả những đau thương
là chia tay với nghiệt ngã vô thường
là thôi tiếc, thôi thương, thôi oán hận
thế là hết,
không còn gì nuối tiếc,
Ôi! Trần gian
là quán trọ giữa đường
Ta, lữ khách
chỉ dừng chân nghỉ tạm,
thế là hết!
như cát bụi trở về cát bụi
như hình hài hóa thể lai sinh
Ôi! cõi diệt sinh, sinh diệt …

Miên Du Đà Lạt
Vĩnh biệt Thi văn sĩ Nguyễn Tôn Nhan

Vũ Đăng Lư
Dallas Chiều Thơ Nhạc

(Trích một vài đoạn và hình ảnh trong bài tường thuật
“Dallas Chiều Thơ Nhạc” của tác giả Vũ Đăng Lư)

Buổi sinh hoạt văn nghệ chiều 16 tháng 5 được dư luận đánh giá là thành công vượt trội so với các buổi sinh hoạt diễn ra trước đây tại địa phương. Số người tham dự khoảng 300 gồm văn nghệ sĩ, chiến hữu, đồng hương, báo chí, truyền thanh, truyền hình (SBTN) tại địa phương và một số văn nghệ sĩ thuộc Văn Bút VNHN đến từ thành phố Houston xa xôi, như Nhà thơ Vĩnh Tuấn, Phó Chủ Tịch, Nhà thơ Yên Sơn , Tổng Thư Ký và Phu nhân, Nhà văn Nguyễn Thế Giác, Chủ tịch Văn Bút khu vực Nam Hoa Kỳ và Phu nhân, các văn thi hữu Túy Hà, Lê Hữu Liệu, và nhạc sĩ Nguyễn Tuấn Chương. Ngoài ra còn có sự hiện diện của Giáo sư Ts. Đàm Trung Pháp, Ts. Walter Nguyễn, Cô Thu Nga, Giám đốc Đài SBTN/DFW, nhà thơ Hồng Phúc (Trưởng Nhóm Hương Thời Gian) và các niên trưởng Nguyễn Hữu Lý, dịch giả thơ song ngữ Việt-Anh, Tôn Thất Yến, Cao Văn Lâm… Trong buổi sinh hoạt, các nghệ sĩ diễn ngâm thơ: Chi Huệ, Ngô Trọng Cát, Tam Quỳnh, Đỗ Toại cũng như các nhạc sĩ đệm đàn sáo: Trúc An, Đỗ Toại, đã tõ ra xuất sắc trong lối trình diễn độc đáo của mình. Đó là một điểm son của ban tổ chức. Quan khách đến dự buổi văn nghệ hôm nay không nhất thiết chỉ là để thưởng thức giọng ngâm, điệu nhạc của các nghệ sĩ trình diễn hoặc những món ăn ngon của nhà hàng trong ngày cuối tuần mà còn để nhận diện những văn nghệ sĩ gốc lính Thủ Đức nữa, hầu biết họ là ai và đã đóng góp được gì cho văn học nghệ thuật Việt Nam tại hải ngoại.
Chương trình buổi văn nghệ được chia làm hai phần: Giới thiệu 3 nhà thơ và 1 nhạc sĩ gốc lính xuất thân từ TSQ/TB/TĐ, và chương trình ca nhạc giúp vui với những ca sĩ tên tuổi ở địa phương. Ông Nguyễn Hân, Trưởng BTC lần lượt giới thiệu ba nhà thơ lên sân khấu. Nhà thơ Nguyễn Đức Nhơn được giới thiệu với quan khách trước tiên. Ông tốt nghiệp Khóa 18 Thủ Đức, đơn vị cuối cùng ông phục vụ là Tiểu Khu Bình Thuận. Đi tù cải tạo 6 năm. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện tị nạn chính trị. Tác giả hai tập thơ : Mùa Gió Bấc, 2005; Giao Mùa, 2007. Ông hiện là Chủ nhiệm Thi Văn Đàn Trầm Hương tại DFW. Tác phẩm “Như Qua Sông Dịch” sau đây được trình bày qua giọng ngâm của Nghệ sĩ Ngô Trọng Các:
Mưa chiều ghé quán ngồi nghe nhạc
Quán vắng nhạc buồn sầu miên man
“Ai lướt đi ngoài sương gió
Không dừng chân đến em bẽ bàng” (Văn Cao).

Guốc ai gõ nhịp trên hè vắng
Từng bước rơi đều qua lối mơ
Nửa chiều vàng vọt mưa và nắng
Ta nghe chừng đâu đó một hơi thơ

Cô bé ơi châm dùm ta điếu thuốc
Cho cõi lòng bớt lạnh lúc chia xa
Ta cũng muốn ngồi đây cho hết kiếp
Ngặt đường đời thì rộng đến bao la

Ta bỏ đi giữa trời mưa gió
Từng giọt rơi buồn trên bến sông
Như tráng sĩ một lần qua sông Dịch
Biết có ai còn trở lại không?

Bến sông vắng lòng người cũng vắng
Khách giang hồ chọn kiếp phù vân
Cô lái ơi! Chở dùm ta qua đó
Nơi cuối trời nơi cuối nẻo bâng khuâng.

Kế tiếp, nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh được mời lên sân khấu. Ông tốt nghiệp Khóa II Trường Võ Bị Địa Phương Huế năm 1951. Từng chiến đấu tại chiến trường Quảng Ngải những năm 64-65-66 trong chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng tác chiến. Đơn vi cuối cùng ông phục vụ 8 năm là Trường Bộ Binh Thủ Đức, nơi đó ông giữ các chức vụ Giám Đốc Huấn Luyện, Liên Đoàn Trưởng LĐSV, Trưởng Khối Huấn Luyện và Yếu Khu Trưởng Yếu Khu TBB / Long Thành vào những ngày cuối cuộc chiến. Ông đi tù cải tạo 8 năm, định cư tại Hoa Kỳ năm 1991. Ông đã xuất bản tập thơ “Chuyện Ngày Xưa” năm 1999, được dịch sang Anh – Pháp năm 2000. Tác phẩm tam ngữ này được giải thưởng “Year 2001 New Works Award” do Sacramento Metropolitan Arts Commission trao tặng. Ông hiện là Hội Trưởng Hội Thơ Tài Tử VNHN. Bài thơ “Đường Trăng” sau đây của ông được nghệ sĩ Chi Huệ diễn ngâm:

Có những buổi tinh cầu lòa một nửa
Ôm con buồn man mác trộm nhìn em
Bước chân nhỏ âm thanh lùa khe cửa
Em diễm kiều quen gánh nước trong đêm

Soi gương giếng dáng Hằng Nga óng ả
Thả gàu sòng sao em múc nàng trăng?
Đêm hối hả nghiêng mình soi bóng ngả
Gánh trăng về em chẳng chút nói năng

Qua lối trúc nỡ nào em chẳng ngó
Anh đỉnh hồn treo lủng lẳng trái băn khoăn
Em gánh nước hay gánh tình ai đó
Để anh buồn quay quắt cả đường trăng

Đường trăng vẫn vô tình em dẫm nát
Xác tim anh tơi tả dấu chân hồng
Bên hiên nhỏ nhánh sầu rơi lác đác
Hỏi đường trăng có thấy nhớ nhung không?

Cuối cùng, nhà thơ Nguyễn Đắc Nguyên Khoa bước lên sân khấu. Ông tốt nghiệp Khóa 14 Thủ Đức, ra trường phục vụ ngành Công Binh. Vượt biên đến Thái Lan và định cư tại Hoa Kỳ năm 1981 dưới diện cựu tù nhân chính trị. Đồng sáng lập Thi Văn Đàn Trầm Hương. Tổng thư ký Hội thơ Tài tử VNHN. Tác giả 3 tập thơ: Ngọc Ngà Xưa (2009), Cho Người Tình, Bằng Hữu và Quê Hương (2001), Tình Ta Nay Đâu Khác Tình Xưa (2006). Bài thơ “Nhìn Cuộc Đổi Đời” của ông đã được giới thiệu qua giọng ngâm của nghệ sĩ Tam Quỳnh:

Ta về nhìn cuộc đổi đời
Quê hương tan tác người người lầm than
Thấy em nước mắt hai hàng
Ta nay lỡ vận ngỡ ngàng xót thương

Ta về thù cũ chưa buông
Bao đòn hiểm ác chờn vờn bủa vây
Ngày đi tù tội trắng tay
Ngày về mang tấm thân gầy héo hon

Ta về thẹn với nước non
Cúi đầu tạ tội mảnh hồn nát tan
Từ khi rã ngũ tan hàng
Trái tim rỉ máu âm thầm lệ rơi

Ta về lỗi với đất trời
Mang thân lơ láo giữa đời đổi thay
Ngày về tay lại trắng tay
Đốt buồn bên chén men cay rã rời

Ta về nhìn cuộc đổi đời
Nước non xơ xác bời bời ruột gan
Thấy em lệ nhỏ hai hàng
Ta thân ngã ngựa bàng hoàng đớn đau.

Ngoài 3 bài thơ được trình bày ở trên, 3 bài thơ khác của tác giả Nguyễn Đức Nhơn, (Sau Mùa Chinh Chiến), Như Hoa Lê Quang Sinh (Thương Nhớ Nơi Này), và Nguyễn Đắc Nguyên Khoa (Tìm Trầm) cũng đã được cử tọa nhiệt liệt tán thưởng.

Đàm Trung Pháp
Tại San Antonio College

San Antonio College là một trường đại học cộng đồng lớn trong tiểu bang Texas, với khuôn viên tọa lạc trong trung tâm thành phố San Antonio trên đại lộ huyết mạch San Pedro Avenue. Dân chúng ở đây gọi tắt tên trường này là “SAC” (phát âm như chữ “sack” vậy). Lúc đó, mùa hè 1976, tôi đã có việc dạy học toàn thời gian cho hãng Northrop trong căn cứ không quân Lackland, nhưng muốn xin vào dạy thêm tại SAC vào buổi chiều để kiếm thêm chút tiền, cũng như để sống lại cái bầu không khí đại học mà tôi đã đánh mất khi phải rời bỏ thành phố Saigon thân yêu vì quốc nạn 1975.
Tôi liên lạc bằng điện thoại vào văn phòng ban Anh văn và được nói chuyện với vị trưởng ban. Ông nhã nhặn lắm, và sau khi biết tôi từng du học tại Mỹ và dạy Anh văn bậc đại học ở Việt Nam, ông mời tôi đến gặp ông tại campus. Tôi như “mở cờ trong bụng” khi ông cho biết khóa học mùa thu 1976 ban Anh văn đang cần thêm một giảng viên (lecturer) buổi chiều để dạy lớp “English composition” cho các sinh viên năm thứ nhất. Ông còn căn dặn tôi nhớ mang theo bản tiểu sử (vita) cũng như phiếu ghi điểm (transcripts) của các đại học Mỹ đã cấp phát văn bằng cho tôi khi đến gặp ông và vị giám đốc các lớp buổi chiều (director of the evening division) ngay ngày hôm sau.
Ngạc nhiên vì sao lại có cả một “evening division” tại SAC, tôi tìm hiểu qua cuốn niên giám của trường thì được biết số sinh viên đi học buổi chiều rất đông, ngang ngửa với số sinh viên đi học ban ngày. Đại đa số các sinh viên buổi chiều là những người đã có công ăn việc làm ban ngày và do đó chỉ có thể đi học sau khi tan sở. Họ không còn trẻ như các cô cậu sinh viên vừa xong trung học là những người theo học các lớp ban ngày. Sơ đồ tổ chức của trường đại học hai năm cấp phát văn bằng “associate” này khá chặt chẽ. Đứng đầu là vị viện trưởng (president). Viện trưởng được sự trợ tá của các vị phó viện trưởng (vice presidents) phụ trách học vụ (academic affairs), sinh viên vụ (student affairs), cũng như của vị giám đốc thâu nhận sinh viên (director of admissions). Dưới quyền vị phó viện trưởng học vụ là các khoa trưởng (deans) của các khoa nhân văn và khoa học (arts and sciences), giáo dục tiếp nối (continuing education), vân vân. Và phối trí việc giảng dạy các lớp học là nhiệm vụ chính của các trưởng ban (chairs) các bộ môn (departments). Nhân viên giảng huấn toàn thời gian mang các tước vị từ thấp lên cao là assistant professor, associate professor, và professor. Những nhân viên giảng huấn khác, đa số chỉ dạy một hay hai lớp mỗi khóa học buổi chiều, được gọi là lecturers. Tất cả đều phải có học vị master trở lên. Các lecturers chỉ được nhà trường trả tiền theo số lớp học phụ trách, không được bảo hiểm sức khỏe, không có văn phòng riêng, và trước mỗi khóa học mới phải ký lại hợp đồng dạy học (teaching contract) nếu nhà trường có nhu cầu dùng họ. Đó là cách để các đại học cộng đồng tiết kiệm ngân quỹ, vì trường nào cũng có khuynh hướng sử dụng nhiều lecturers hơn là các giáo sư toàn thời gian.
Ông trưởng ban Anh văn giới thiệu tôi với ông giám đốc các lớp buổi chiều tại văn phòng của ông giám đốc. Cả hai người đều lịch sự và hòa nhã vô cùng trong buổi “job interview” ấy, một điều tôi ghi nhớ mãi đến tận ngày nay. Họ xem xét bản tiểu sử và phiếu ghi điểm của tôi từ hai đại học Miami và Georgetown, và hỏi tôi vài câu về kinh nghiệm dạy học. Rồi sau khi tôi ký tên vào đơn xin việc để hoàn tất thủ tục tuyển dụng làm lecturer, họ bắt tay cảm ơn tôi đã hợp tác với SAC, tiễn tôi ra về và cho biết trong khoảng hai tuần nữa tôi sẽ nhận được hợp đồng dạy học gửi về nơi tôi cư ngụ. Ông trưởng ban cũng tặng tôi cuốn textbook để soạn học trình (syllabus) cho lớp. Đó là giây phút “lịch sử” nối kết cuộc đời tỵ nạn của tôi với nền giáo dục đại học Mỹ!
Tờ hợp đồng dạy học của tôi được gửi tới nhà y như lời họ hứa. Tôi không thể ngờ mức lương họ trả cho một lecturer lại khá như vậy. Mỗi lớp chỉ học một buổi chiều mỗi tuần trong khóa học, tức là tôi phải dạy 15 buổi, mỗi buổi 3 tiếng đồng hồ. Chỉ làm việc 45 tiếng đồng hồ mà tôi được trả 875 Mỹ kim cho lớp ấy, tính ra là gần 20 Mỹ kim mỗi giờ! Thêm một ngạc nhiên thú vị, vì lúc ấy 20 Mỹ kim có giá trị lắm.
Khóa mùa thu 1976 khai giảng vào cuối tháng 8, và sinh viên học với tôi vào các ngày thứ ba mỗi tuần, bắt đầu từ 6 giờ chiều. Tôi đã soạn một học trình kỹ lưỡng cho lớp này, nắm vững nội dung cuốn textbook, và sẵn sàng “ra quân”! Buổi học đầu tiên cho tôi thấy San Antonio là một thành phố đa chủng tộc. Trong khoảng 20 sinh viên hiện diện thì gần nửa thuộc sắc tộc Mễ tây cơ, số còn lại là da trắng và một hai người da đen. Tôi tự giới thiệu qua loa và gửi lời chào mừng họ, trước bằng tiếng Anh và sau bằng tiếng Tây ban nha. Các sinh viên gốc Mễ tây cơ rất đỗi ngạc nhiên và lộ rõ niềm hân hoan vì tôi biết tiếng nói của họ! Sau khi giải thích cho họ rõ mục tiêu của lớp và những trách nhiệm của họ trong khóa học, tôi chia xẻ với họ về quá trình dạy học của tôi tại Việt Nam cũng như công việc tôi đang làm cho hãng Northrop trong căn cứ không quân Lackland. Phần thời giờ còn lại, tôi yêu cầu mọi người viết cho tôi một trang về cuộc đời của họ, để giúp tôi làm quen với họ. Tiện thể, đấy cũng là phương cách thực tế nhất để tôi lượng giá khả năng viết tiếng Anh của họ. Trước khi cho lớp ra về, tôi còn nhắc nhở họ chịu khó đi học đều đặn và đọc kỹ các chương trong textbook như đã ghi trong học trình. Buổi học đầu tiên thuận buồm xuôi gió.
Khi đọc các trang sinh viên viết về cuộc đời họ thì tôi thấy khả năng viết tiếng Anh của họ không đồng đều chút nào. Vài ba người viết toàn hảo, đa số viết tạm được, và số còn lại viết dở lắm. Tôi biết là tôi sẽ phải để ý đến nhóm sau cùng này rất nhiều vì họ chưa nắm vững cú pháp và còn phạm nhiều lỗi chính tả. Qua những trang họ viết, tôi được biết họ làm nhiều công việc khác nhau để mưu sinh. Họ đều hy vọng khi tốt nghiệp SAC thì nghề nghiệp họ sẽ có cơ hội thăng tiến.
Kinh nghiệm gần một thập niên dạy Anh văn của tôi tại Đại Học Saigon thực đáng giá ngàn vàng! Bao nhiêu “tuyệt chiêu” tôi đều mang ra sử dụng để giúp sinh viên SAC tránh được những lỗi lầm tối kỵ trong khi viết luận văn, như dàn bài lỏng lẻo dẫn đến sự thiếu mạch lạc (lack of cohesion), các câu văn tràng giang không chịu ngừng nghỉ (run-on sentences) vì người viết chưa giỏi cách chấm câu (punctuation), các câu cụt ngủn vì thiếu chủ từ hoặc động từ (fragments), lỗi cú pháp và chính tả (syntactical and spelling errors) gây ra vì cẩu thả, vân vân. Quả thực, tôi đã dùng khá nhiều mực đỏ khi chấm bài của họ! Sau khi trả lại các bài luận văn mà tôi đã chấm và sửa lỗi cho họ, tôi đều có phần tóm lược các lỗi chính và nhắc nhở họ cách tránh những “cạm bẫy” (pitfalls) ấy. Cuối khóa, tôi rất hài lòng với sự tiến bộ của học trò, và hãnh diện là không một người nào bị điểm “D” hay “F” trong lớp ra quân đầu tiên này của tôi!
Sau khi nộp bài thi cuối khóa cho tôi thì đa số sinh viên lặng lẽ ra về. Một vài người nói lời cảm ơn và ca ngợi lối dạy học hữu hiệu của tôi. Người cuối cùng lên nộp bài là một sinh viên Mỹ trắng đứng tuổi có khuôn mặt đầy vẻ phong sương, luôn luôn ngồi ở một góc cuối lớp và chẳng bao giờ lên tiếng trong lớp. Một cách chậm chạp, ông ta nói với tôi đại khái, “Giáo sư Đàm ơi, trước khi chúng ta chia tay, tôi xin ông nhận lời tạ lỗi của tôi. Thú thực tôi đã lấy làm khó chịu với ông lúc khóa học bắt đầu vì ông là người Việt. Tôi là một cựu quân nhân Mỹ phục vụ tại Việt Nam, có bạn bè và thân nhân chết trận bên ấy. Tôi cũng lầm to khi cho rằng một người ngoại quốc như ông thì không thể nào dạy người Mỹ chúng tôi viết luận văn bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi được.” Vừa ngỡ ngàng vừa xúc động, tôi trả lời ông, “Ông không có lỗi gì đâu, nhưng tôi đa tạ tấm lòng thành khẩn rất dễ thương của ông.” Chúng tôi xiết tay nhau thật chặt và chúc lành cho nhau khi giã từ. Trên đường đi bộ ra bãi đậu xe, tôi còn nghe văng vẳng bên tai những lời nói thành khẩn bộc trực ấy của ông. Mắt tôi đã nhòa lệ lúc nào không hay.

(Trích từ tập Hoài Niệm Giáo Dục
của GS Đàm Trung Pháp)

Trần Hoài Thư
Ngày gặp bạn cũ

Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoắt giờ đây: tóc đã điểm hoa râm
Khi gặp lại từ phương này quả đất
Chợt nhìn lên: giờ vầng trán đã nhăn
Trong đôi mắt mỏi mê cùng cơm áo
Có chút gì phảng phất của quê hương
Mây Đèo Cả như hôm nào dừng lại
Chiều Pleiku như buổi nọ mù sương
Thấy như thể trời Bồng Sơn mưa đổ
Chiều cuối năm quân chuyển xuống Đèo Nhông
Đường xe lửa ai ngồi châm điếu thuốc
Áo tơi dầu che khuất dãy Cù Mông
Thấy như thể lon Guigoz cam khổ
Chút đồ ăn còn trộn với tử sinh
Nhai hối hả kịp xuống đồi đột kích
Mưa xóa dầm dề khu trại gia binh
Thấy như thể đêm qua về quận lỵ
Vài ba thằng trải chiếu dưới đêm trăng
Dăm trái ổi và bi đông rượu đế
Con cá khô thiều chia chút tình thân
Thấy như thể mồ hôi và nước mắt
Mặn và đau từ núi nọ rừng kia
Qua An Lão mày tao còn gọi máy
Về Phù Ly hai đứa lại xa lìa
Thấy trở lại những chuyện đời dâu bể
Hôm nào đây miệng hò hét xung phong
Trong chớp mắt, cả cơ đồ sụp đổ
Buồn gì không hỡi thế hệ long đong
Thằng ra Bắc, kêu thầy, thầy bỏ xứ
Thằng vào Nam, gọi bạn, bạn lưu vong
Sông núi ấy bao hồn ma trở dậy
Kéo nhau về, kêu thảm một mùa xuân
Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoắt giờ đây, tóc đã điểm hoa râm
Khi gặp lại từ phương trời viễn khách
Chợt nhìn nhau, sao nước mắt lưng tròng

Trần Yên Thảo
KHÚC TÌNH CA CỦA NÚI

1.
Khi qua suối Mán rừng Mường
thò tay hái nụ vô thường gởi nhau
mình về quên chuyện trước sau
ta đi rồi cũng hao hao như mình.

2.
Cho xong chén cuối quan hà
về thanh thản giữa chiều tà M’Nông
dặn luôn em Thái em Nùng
có xuôi miệt dưới thì đừng rủ ta.

3.
Chào dòng nước mắt mới sa
ta từ gió Mán về qua mưa Nùng
quanh em trùng điệp núi rừng
thì cầm như cũng chưa từng có em.

PHẬT MẮNG

Hồ đồ tách bạch thị phi
sát sinh, âu có khác chi độ đời
hay cho ác thiện rạch ròi
mắt tinh anh, khác chi người mù đui.

RỪNG LÊN TIẾNG

Nửa đời quỵ gót tiêu dao
vực sâu không đáy đỉnh cao không cùng
phơi thân về giữa núi rừng
nằm nghe nhớm gốc trên từng sợi lông.

TIẾNG VỖ CỦA MỘT BÀN TAY

Bát Nhã Ba La Mật Đa
đơn thân hạt bụi phủ qua đại ngàn
tử sinh vừa xếp thành hàng
thoắt nghe tiếng vỗ một bàn tay không.

SINH TỬ KHÚC

Vũ Tiến Lập
heo may

cỏ bồng cánh mỏng ngược đường
chơi vơi giữa đường đang thoái vị
nắp chiều đã đậy
độ phu còn khơi động mái
những con mắt tinh cầu thức giấc
ngoại thành
trăng vặc và tôi
gối tay nhìn trời tịnh độ.

khách trần

gió tru tréo thất thường
xua mùa đông vào cửa áo
thốc từng nỗi niềm nghi hoặc
tháng giên đầy vong đông
cảm giác vỗ về
mơn trớn trên vai khách trần
đêm mặc nhiên và thật nhất
ngoài trừ sự nhận biết không trách cứ

rồi chuyển hóa như con đường
mặc vết lăn nghiền dẫm
giòng sống ảo thuật
đi tìm giấc mơ minh bạch
nhận ra tha lực đã chết khô
nhặt lại một dấu tích cũ
sao đổi trời tắt trên tay.

Nguyễn Minh Triết
NHỮNG NÉT
ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HOÁ VIỆT

Văn hoá là sự kết tinh của tư tưỏng bằng kinh nghiệm sống thực của một dân tộc. Dân tộc Việt Nam trải qua hơn 4000 năm mở nước và dựng nước đã có một nền văn hoá thâm sâu với một cơ sở tư tưỏng triết học vững chắc nhờ đó mà dân tộc Việt đã vượt qua được mọi cuộc thử thách của lịch sử để trường tồn cho đến ngày nay.
Nền văn hoá đó đã đã được hình thành qua những bước tiến của lịch sử dân tộc cũng như đã được kết tụ và lưu truyền qua huyền sử. Trong giai đoạn khởi nguyên của lịch sử, con người còn chưa có chữ viết nên huyền sử đã đóng một vai trò quan trọng trong việc ghi lại và lưu truyền sử liệu từ quá khứ xa thẳm cho đến khi có chữ viết. Lịch sử của các dân tộc từ Lưỡng hà, Ai cập, Hy lạp đến Trung hoa cổ xưa đều có phần huyền sử. Giá trị của huyền sử phải được hiểu một cách biểu kiến qua những hình ảnh ẩn dụ. Gần đây huyền sử đã được các sử gia thừa nhận tánh cách sử liệu của nó sau khi được thẩm định một cách duy lý và gạn lọc các yếu tố không thực. Nhưng huyền sử còn nhằm đi xa hơn và sâu hơn lịch sử vì huyền sử không chỉ nhằm xác định như lịch sử mà còn muốn đi xa ra bên ngoài tầm với của sử liệu và đào sâu vào những ẩn tàng thâm viễn mà sử ký không đủ khả năng truyền đạt. Lich sử chỉ nhằm kể lại những biến cố còn huyền sử mới đi vào được khu vực tâm linh nói đến những khả thể sâu nhứt của con người muôn thuở vượt giới hạn của thời gian và không gian. Do đó, một số nhà tư tưởng lịch sử Việt Nam đã đề nghị dùng danh từ sử thoại thay vì huyền sử để phân biệt giá trị sử liệu của các câu chuyện này đối với các chuyện thần thoại.
Là một dân tộc có 4000 năm văn hiến nên Việt Nam từ ngàn xưa đã có riêng một di sản phong phú về huyền sử. Trước tiên là huyền sử Tiên Rồng hay Một Bộc Trăm Con. Theo huyền sử này thì dân Lạc Việt khởi nguồn từ sự kết hợp của hai giống Tiên và Rồng. Rồng Lạc Long đã kết duyên cùng Tiên Âu Cơ và sinh ra một bọc chứa một trăm trứng nở được một trăm người con trai. Sau đó, cha Rồng nhớ nguồn cội của mình là Thuỷ cung nên chia con ra làm hai, 50 con theo cha xuống biển, 50 con ở lại với mẹ Tiên trên non.
Qua huyền sử Một Bọc Trăm Con này tiền nhân đã truyền cho hậu thế nhiều ẩn ý về nguồn gốc và triết lý của dân tộc Lạc Việt. Tiên và Rồng là hai biểu tượng không có thật nhưng Tiên đã được dùng như hình ảnh của con người đã thánh hoá, siêu thoát, tượng trưng cho sự thanh nhã, khoan ái, trường tồn. Trong khi Rồng biểu trưng cho oai dũng, cho sức mạnh, tính nhẫn nại và tài năng biến hoá vô cùng. Cuộc hôn nhân của Tiên và Rồng là sự kết hợp sinh động của nét thanh nhã hiền hoà với sức mạnh và tài năng thiên biến vạn hoá. Sự kết hợp đó đã tạo nên giồng giống Việt, một giống dân vừa xinh đẹp, dịu hiền, vừa hùng dũng, cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa linh động vừa thường hằng, vừa vật thể vừa siêu phàm. Và đó chánh là ẩn ý mà tiền nhân muốn trao gởi lại cho hậu thế để tự hào về đặc tính của dân tộc Lạc Việt.
Mặt khác, vì cùng sinh ra một lượt trong một bọc nên tất cả đều bình đẳng không có người trước người sau. Với ý nghĩa này, tổ tiên Lạc Việt đã dạy chúng ta là không chỉ giống giồng Tiên Rồng mà tất cả con người đều cùng một nguồn gốc sinh ra và tất cả các giống dân trên trái đất này đều bình đẳng và phải thân thương nhau trong tình ruột thịt.
Sự tích Tiên Rồng cũng thể hiện rõ rệt quan niệm về Đạo của Việt tộc. Đạo bao gồm ba yếu tố là âm, dương và hoá tức âm dương hoà hợp tạo nên Đạo. Bình thường người ta chỉ thấy có âm và dương: âm tán dương tụ. Muốn trở thành Đạo âm dương phải kết tụ, giao hoà để tạo nên mối liên hệ ràng buộc vạn vật với nhau một cách mật thiết. Tiên đã kết hợp với Rồng để tạo nên Đạo sống Việt.
Một huyền sử khác cũng chuyên chở những tư tưởng của tổ tiên Lạc Việt là chuyện Chử Đồng. Chuyện xưa kể rằng tại làng Chử xá có một gia đình nghèo mạt đến nỗi hai cha con chỉ có một cái khố vải, hai người phải thay đổi cho nhau dùng mỗi khi đi ra ngoài. Khi cha chết Chử Đồng không nở chôn cha không khố, vì vậy chàng không có gì để che thân. Trần truồng đói rét, Chử Đồng thường lân la ở các bụi lau sậy dọc bờ sông, xa các nơi có cư dân và câu cá mà sống.
Cùng lúc ấy công chúa Tiên Dung, con gái của vua Hùng Vương thứ 3 tuổi vừa đôi tám, dung nhan diễm lệ, tính tình cao nhã và thích dùng thuyền ngao du sơn thuỷ. Một hôm thuyền của công chúa ghé vào nơi chàng trú ngụ. Sợ hãi Chử Đồng vội vàng trốn vào bụi lau, đào một hố sâu ẩn mình rồi lấp cát lên trên. Không ngờ một lát sau, công chúa lại cho vây màn quanh khóm lau đó để tắm. Khi nước làm trôi cát, Tiên Dung phát giác ra Chử Đồng và hai người cùng nhìn thấy thân hình lồ lộ của nhau. Chử Đồng sợ hãi bày tỏ sự tình nhưng công chúa cho là duyên trời xui khiến nên cùng Chử Đồng kết duyên chồng vợ. Vua Hùng biết truyện lấy làm giận, cấm không cho công chúa trở về cung nữa. Tiên Dung chấp nhận cuộc sống mới đem của cải cùng chồng gầy dựng làm ăn với dân chúng trong vùng và với thương nhân ở các vùng xa. Dần dần nhà cửa phố xá nơi ấy trở nên khang trang đẹp đẽ, cuộc sống của dân chúng trong vùng cũng ngày một phát đạt và sung túc.
Chử Đồng ra biển đi buôn một hôm gặp quí nhân truyền cho phép thần thông và nhờ phép thuật này, Chử Đồng biến khu nhà ở ra cung điện, thành quách nguy nga có kẻ hầu người hạ. Dân chúng hay tin đến dâng lễ vật và tôn xưng hai người làm tiểu vương. Hùng Vương được tin cho là công chúa muốn làm phản nên cho quân đi đánh dẹp. Đến nơi khi quân chuẩn bị tấn công thì phố xá, thành quách bỗng chuyển động mạnh rồi bay về trời.
Qua câu chuyện vừa kể ta thấy đây là một cuộc tình độc đáo và khác thường. Sự khác thường ở đây là cuộc tình này không kết thúc bằng cuộc sống vương giả của Chử Đồng mà lại đem nàng công chúa Tiên Dung cành vàng lá ngọc vào sống với đại chúng. Mối tình của Chử Đồng và Tiên Dung đã nói lên nguyên lý Mẹ hay sự vượt trội của nữ quyền trong văn hoá Việt Nam cổ xưa. Vai nữ Tiên Dung trong sự tích Chử Đồng là một công chúa giàu sang có kẻ hầu người hạ nên dĩ nhiên quen với đời sống đầy uy quyền. Trong khi đó Chử Đồng nghèo kiết xác xơ thì làm sao mà có quyền uy với vợ được. Điều này cho ta thấy rõ ở Việt Nam thời xưa người mẹ làm chủ gia đình. Danh từ “nội tướng” còn lưu truyền đến ngày nay đã phản ảnh điều này và nói lên quyền của người mẹ.
Công chúa đã bỏ thuyền lên bờ, vây màn ngăn cách với đám hầu cận, ngăn cách với giàu sang quyền tước. Nàng lại còn cởi bỏ xiêm y dùng nước gội sạch mọi bụi bậm vướng bám trên người. Kỳ diệu thay, chính dòng nước gội sạch bụi bám trên người nàng cũng rửa hết cát bùn trên người chàng. Và họ đã tìm thấy nhau rõ ràng, lồ lộ, trong một tư thế không còn bị phân cách bởi ngoại vật, bởi quần áo, bởi giai cấp, bởi giàu sang hay nghèo hèn. Họ đã gặp nhau, hai con người đích thực và nguyên thuỷ đã gặp nhau. Họ đã gặp nhau trong bình đẳng và đã nên duyên vợ chồng trong tự do và tự nguyện.
Và phải chăng đấy là những điều tổ tiên muốn ký thác cho hậu thế qua sự tích Chử Đồng? Tình yêu đích thực là tình yêu không giai cấp và những người yêu nhau phải biết tìm đến nhau với tâm hồn trong sáng. Ngoài ra, sự tích Chử Đồng cũng cho ta thấy một quan niệm xã hội rất tiến bộ vào thời bấy giờ là quan niệm tự do luyến ái, sự phân công trong gia đình, và hình ảnh một xã hội bình đẳng và trọng thương. Tiên Dung và Chử Đồng đã tự do lấy nhau bất chấp sự ưng thuận của gia đình là một quan niệm luyến ái rất tiến bộ mà nhiều xã hội mãi đến hậu bán thế kỷ 20 mới chấp nhận.
Một huyền sử khác cũng ẩn chứa nhiều tư tưởng của tiền nhân là chuyện Thánh Gióng của làng Phù Đổng. Vào đời Hùng Vương thứ 6, biết được nhà Ân phương bắc đang tập trung binh mã định xâm lấn nước ta, vua Hùng rất lấy làm lo ngại cho sứ đi khắp nơi kêu gọi người hiền tài ra giúp nước.
Đang khi đó tại làng Phù Đổng có một cậu bé tên Gióng đã ba tuổi mà không biết nói cười đi đứng gì cả. Nhưng khi nghe sứ vua rao tin, cậu liền bật nói nhờ mẹ gọi sứ giả vào để xin sứ tâu vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, một con roi sắt, một áo giáp sắt, và một cái nón sắt để cậu phá giặc. Khi được sứ tâu vua Hùng tin là điềm lành đúng như mộng đã báo nên vua bèn truyền cho thợ gấp rút rèn đủ những thứ Gióng cần. Trong khi đó, biết được tin láng giềng đem cơm gạo vải vóc tới giúp cậu ăn mặc và cậu bé đã lớn như thổi.
Khi ngựa sắt và các thứ đã được đúc xong thì giặc Ân cũng vừa tràn qua biên giới. Gióng liền mặc áo giáp, đội mũ sắt và vươn vai thành người cao lớn. Khi cậu nhảy lên ngựa sắt, lập tức ngựa sắt chồm lên, mũi khịt ra lửa rồi lao vút đi. Chỉ chớp mắt là đã đến chân núi Châu Sơn là nơi đóng quân của giặc Ân. Gióng phi ngựa, vung roi sắt, xông vào quân giặc. Đánh đến đâu quân giặc chết như rạ đến đấy. Khi roi sắt bị gãy, Gióng nhổ những bụi tre bên đường làm vũ khí tiếp tục giết giặc.
Khi đánh tan hết quân giặc Gióng cởi ngựa lên núi Sóc sơn cởi bỏ áo giáp rồi bay về trời. Vua Hùng nhớ công ơn vị anh hùng đã dẹp giặc cứu nước bèn phong cho Gióng tước hiệu Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ.
Qua huyền sử này ta thấy tổ tiên đã nêu lên vấn đề trách nhiệm của tuổi trẻ Việt Nam nói riêng và của toàn dân nói chung khi đất nước bị xâm lăng cũng như trách nhiệm của cấp lãnh đạo quốc gia trong công cuộc giữ nước. Thánh Gióng là hình ảnh tượng trưng cho tuổi trẻ Việt Nam biết dấn thân cho nước cho dân. Khi đất nước lâm nguy, cậu bé không biết nói cười đi đứng bỗng nhiên nói được là hình ảnh của tuổi trẻ thầm lặng lúc bình thường đã ý thức trách nhiệm của mình khi đất nước lâm nguy và đã đứng lên hưởng ứng lời kêu gọi của vua tòng quân chiến đấu giữ gìn bờ cõi. Thánh Gióng cũng nói lên sức mạnh tiềm tàng của dân tộc và hình ảnh mọi người trong làng đem cơm gạo vải vóc tới giúp cậu bé ăn mặc là hình ảnh toàn dân một lòng đoàn kết trong công cuộc chống giặc ngoại xâm. Lúc bình thường sức mạnh tiềm tàng đó rất âm thầm lặng lẽ nhưng khi quốc gia nguy biến sức mạnh đó sẽ vùng lên và lớn mạnh như thổi đủ sức tạo thành những cơn bão táp có thể giật sập tất cả những cuồng vọng xâm lăng của ngoại bang.
Chuyện Thánh Gióng cũng cho thấy sự hữu hiệu của đường lối lãnh đạo quốc gia. Vua Hùng đã sáng suốt cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài đức ra giúp nước chống ngọai xâm chứ không độc quyền yêu nước một mình nên đã đoàn kết được các tầng lớp nhân dân, cũng như giữa vua và dân nên đã thành công trong việc đánh tan giặc Ân. Dựa vào kinh nghiệm sức mạnh toàn dân của tiền nhân mà Hai Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng như Nguyễn Huệ đã để lại những trang sử oai hùng trong việc đánh bại những đoàn quân dũng mãnh của giặc Tàu phương bắc.
Chuyện Thánh Gióng cũng minh hoạ tinh thần coi nhẹ lợi danh và chức tước của kẻ chánh nhân quân tử. Khi đã làm tròn trách nhiệm người lãnh đạo chân chánh biết nhẹ nhàng “cởi bỏ áo giáp” không bon chen trong chốn lợi danh, biết lui về đúng lúc để sống cuộc sống an nhàn bình dị trong lòng dân tộc.
Những nét đặc trưng của văn hoá Việt không chỉ được nêu lên trong các huyền sử vừa kể mà còn bàng bạc trong rất nhiều chuyện tích khác nữa như chuyện Bánh Chưng, Bánh Dầy nói về cách thức chọn người truyền ngôi vua rất là dân chủ, đồng thời bánh chưng có hình vuông tượng trưng cho đất, bánh dầy hình tròn tượng trưng cho trời. Hai hình ảnh vuông tròn này được dùng để chỉ sự quân bình giữa âm dương trong vũ trụ, sự hài hoà trong cuộc sống xã hội, sự kết hợp hạnh phúc trong tình vợ chồng… Trong khi đó, chuyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh nói về lòng can trường của tổ tiên trong việc chế ngự thiên nhiên để dựng nước và mở nước, chuyện Trầu Cau nói về sự hi sinh giữa anh em và vợ chồng, chuyện An Tiêm nói về làng xã tự trị và đường lối xây dựng kinh tế tự túc, chuyện Trong Thủy, Mỵ Châu nói về sách lược giữ nước và chiến pháp quân sự để đương đầu với thù trong giặc ngoài…
Ngoài ra, các đặc trưng của văn hoá Việt còn được tìm thấy trên các di vật cổ đã khai quật được tại các khu vực Hòa bình, Bắc sơn thuộc miền bắc Việt Nam, trên những di vật trong các cổ mộ, hoặc những chứng tích qua các hình thái kiến trúc đình, miếu, chùa chiền, lăng tẩm cũng như qua các phong tục tập quán, lối thờ cúng tổ tiên thể hiện trong cuộc sống hằng ngày của người dân. Trong số các cổ vật đó trống đồng Đông sơn được xem là quan trọng nhứt vì trên mặt trống có ghi lại rất nhiều di chỉ về nền văn hoá Lạc Việt. Những di chỉ nầy cho thấy nền văn hoá Việt cổ là một nền văn hoá nông nghiệp và nền văn hoá đó đã rất tiến bộ so với các nền văn hoá đương thời. Nền văn hoá Lạc Việt nguyên thủy kéo dài khoảng trên 2500 năm suốt từ thời đại đồ đồng cho đến khi nước ta bị nhà Hán xâm lăng vào trước công nguyên. Trong thời gian bị Tàu đô hộ văn hoá nguyên thuỷ của Việt tộc đã bị Hán hoá phần nào. Đến khi dành lại được độc lập, nhứt là trong giai đoạn dưới các triều vua Lý, Trần, Lê nền văn hoá cổ được phục hồi lại song song với sự du nhập các tư tưởng Phật giáo, Khổng giáo, và Lão giáo. Đến thời nhà Nguyễn, tư tưởng Khổng giáo được đưa lên hàng đầu nhưng chẳng bao lâu khi nước ta lại bị Pháp đô hộ, nền văn hoá phương tây đã theo chân người Pháp len lỏi vào đời sống văn hoá của người Việt.
Cho nên có thể nói văn hoá Việt Nam là một tổng hợp của ba nền văn hoá. Đó là văn hoá Lạc Việt, văn hoá Hán tộc và văn hoá phương tây. Quá trình tiến hoá của lịch sử dân tộc cho thấy dù bị ảnh hưởng nặng nề gần 1000 năm bởi nền văn hoá Hán tộc và100 năm bởi văn hoá phương tây, dân tộc Việt vẫn không bị đồng hoá và mất gốc chánh là nhờ vào sức mạnh đặc thù của nền văn hoá Lạc Việt nguyên thuỷ. Nhờ vào sức mạnh văn hoá đó nên không những không bị đồng hoá mà dân tộc Việt còn có khả năng tiếp nhận rồi Việt hoá những nét hay đẹp của các nền văn hoá khác.
Huyền sử cũng như lịch sử cho thấy một nét đặc trưng khác của Việt tộc là dân Việt đã phải sống trong chiến tranh triền miên và chánh cuộc sống trong chiến tranh lâu dài để bảo vệ giống nòi đã hun đúc nên lòng yêu nước và ý thức quốc gia mạnh mẽ nơi mỗi người dân đối với tổ quốc. Tuy nhiên, dù được trui rèn trong chiến tranh giai dẳn nền văn hoá Lạc Việt không mang tánh chất độc ác tham tàn mà rất nhân hậu, thái hoà cũng như rất huyền biến biết dùng nhu để thắng cương trong những điều kiện lịch sử hiểm nghèo để sinh tồn. Những huyền sử thời Hồng Bàng cho thấy sự khôn ngoan cũng như lòng nhân hậu của các vua Hùng mà mấy ngàn năm sau đã thể hiện trở lại qua tư tưởng lấy chí nhân mà thay cường bạo của chiến lược gia Nguyễn Trãi trong bài hịch viết cho Lê Lợi kêu gọi toàn dân đoàn kết chống quân Minh. Sự lãnh đạo đất nước sáng suốt thời Thánh Gióng đã thể hiện lại trong Hội nghị Diên hồng, một hội nghị đã khơi dậy ý thức quốc gia và lòng yêu nước của toàn dân nên đã đem lại cho quân dân nhà Trần một chiến thắng hiển hách trước quân Nguyên và sự vẹn toàn lãnh thổ cho nước Đại Việt.
Theo gương các vua Hùng các vua sau này trong quá trình lịch sử của dân Việt chẳng có vua nào là võ biền, hiếu chiến cả. Chiến tranh của Việt tộc hầu hết chỉ là để tự vệ chớ không phải để thôn tính. Chiến thắng trong chiến tranh cũng đồng nghĩa với sự sụp đổ của bạo lực và tội ác, sự tiêu vong của bất công cho hoà bình và công chính được phục hồi, cho thương yêu và an vui được toả rộng.
Tư tưởng Thái hoà nhân hậu của văn hoá Việt còn bàng bạc trong cuộc sống xã hội. Xã hội Việt Nam từ ngàn xưa cho đến nay là một xã hội không có giai cấp nên nàng công chúa Tiên Dung mới kết duyên với chàng thanh niên không khố che thân Chử Đồng. Trong xã hội đó mọi người đều bình đẳng và có quyền lợi như nhau. Ngoài ra, vì cùng sanh ra trong một bọc nên mọi người coi nhau là đồng bào, là bà con ruột thịt và gọi nhau bằng những tên thân quen như trong gia đình.
Nhờ tư tưởng thái hoà mà dân tộc Việt đã trường tồn hơn 4000 năm dù đã trải qua biết bao thử thách của thiên nhiên, của xâm lăng và đồng hoá. Thái hoà là hoà vào với hai đối cực, nhưng hoà không có nghĩa là cộng lại thành một số lượng lớn hỗn tạp mà hoà là gây ra sự quan hệ hỗ tương, là đi tìm sự sống đồng điệu, là tìm sự sinh tồn trên con đường tiến hoá. Trong môi sinh, bao nhiêu loại thực vật và động vật đã bị tuyệt chủng vì không đủ khả năng biến thể để phù hợp với tình trạng môi sinh chung quanh. Trong khi đó, những giống loại còn hiện hữu là nhờ biết biến thể những sắc tố di truyền trong DNA để thích nghi với bối cảnh sống, tạo thành hành trình tiến hoá nên tồn tại. Do đó, bản thể của sự tiến hoá là thái hòa.
Một nền văn minh, một nền văn hoá muốn tồn tại cũng phải biết sống hợp với nguyên lý thái hoà này tức phải biết đáp ứng nỗi nhu cầu tương hợp và giao lưu giữa hai đối cực. Trong quan niệm triết học đông phương, hai đối cực là hữu hình và vô hình, là trời và đất. Trời là tinh thần, là linh lực siêu vật chất, được thể hiện qua con người dưới dạng ý thức hệ, tư tưởng, chủ nghĩa, và tôn giáo. Trời cũng là Tiên, qua hình ảnh của mẹ Âu cơ. Đất là vật chất, là hệ thống môi trường vật thể chung quanh chúng ta, và cũng là năng lực của khoa học. Đất là Rồng, được biểu hiện bằng hình ảnh của cha Lạc Long. Con người phải hoà với Trời và Đất để sinh tồn và tiến hoá.
Tư tưởng thái hoà của con Người giữa Trời và Đất trong văn hoá Lạc Việt cũng được ghi lại trên mặt trống đồng Đông sơn. Mặt trống hình tròn tượng trưng cho vũ trụ. Mặt trống được chia hai, bên âm bên dương biểu thị bằng số chẵn và số lẻ. Vũ trụ muốn được thái hoà phải có sự tương hợp và giao lưu của âm và dương. Như vậy trống đồng đã xác định lại quan niệm về Đạo của Việt tộc qua sự tích Tiên Rồng. Ngoài ra, mặt trống còn có nhiều vòng tròn đồng tâm. Vòng trong cùng là hình mặt trời đem nguồn năng lượng thiên nhiên cho sự sống còn của vạn vật. Vòng giữa minh hoạ cảnh sống thái hoà của loài người đang múa ca hạnh phúc cùng muôn loài. Vòng ngoài diễn tả trái đất với cảnh gió mưa, sông hồ, nước non lưỡng hiệp.
Con người trong cảnh thái hoà đó không phải chỉ gồm có thể xác mà còn có phần tâm linh. Con người cũng không phải chỉ là một con vật kinh tế, mà còn phải biết ý thức đến một đường lối sống thái hoà, một đường lối sống quân bình, và toàn diện. Đường lối sống thái hoà mang những nét đặc trưng văn hoá Lạc Việt như vừa được trình bày trong bài viết này chánh là đường lối sống đặc biệt Việt Nam tức VIỆT ĐẠO. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân Việt nhờ có một nền tảng tư tưởng vững chắc mà lại uyển chuyển nên đã trường tồn. Lịch sử cũng đã chứng minh là người Việt Nam dù sống ở đâu, miễn không quên lối sống Việt hay Việt Đạo sẽ không sợ bị đồng hóa hay mất gốc. Việt Đạo còn dân tộc Việt sẽ còn.

Nguyễn Lương Vỵ
Thời gian

Bên này biển nhớ bên kia biển
Sóng bạc đầu câu chuyện ngày xưa
Lá khô nỗi nhớ dâng mùa
Niềm thương mận chin dâng mùa tụng kinh

Lời đất trích tấm hình gió lật
Cất trong tim sầu ngất tro than
Trăng suông đỏ hết hồn đàn
Ngàn dâu tím hết non ngàn ngẩn ngơ

Chờ rách mắt câu thơ chưa đến
Gọi mềm môi bờ bến chưa đi
Sông trôi và chảy rầm rì
Núi ngồi và đứng tứ chi rụng rời

Thời mạt thế trời ơi đất hỡi
Bởi vì đâu thế giới tan hoang
Lưỡi lê điếng tiếng cười khan
Hay là tiếng khóc ói tràn mật xanh

Đời quá vắng thôi đành cố cựu
Mái nhà xưa rót rượu dâng hương
Hồn êm bóng mát từ đường
Ừ thôi dâu bể về nương chốn này

Chốn nơi ấy là đây bóng mộ
Bóng thời gian lót ổ ta nằm
Một ngàn thế kỷ xa xăm
Câu thơ ngấn lệ tình thâm tặng người.

Ngô Nguyên Nghiễm
Bỗng nhiên gặp lại bạn xưa
bèn cùng uống rượu truyền âm

Năm mươi năm không gặp
Đời đổi thay đâu ngờ
Áo quàng, chân dính đất
Hồn lạnh đầu bạc phơ

Thời gian như cánh nhạn
Hư ảo (trò gió sương)
Ngũ thập tri thiên mệnh
Chẳng còn gì bâng khuâng

Ngày nào hoa nguyệt lộ
Tang bồng như chim xanh
Bây giờ hai thứ tóc
Nói năng như ngậm tăm

Thế kỷ đang cô đọng
Cứng đôi mày cố nhân
Hay là trong cách cảm
Nói, cũng bằng như không
Nâng ly đi bằng hữu
Mười năm là ngọc châu
Cắm quanh rào dĩ vãng
Môt chút gì, chiêm bao..

Bạn nén dài tiếng thở
Ngó bạt ngàn phương trời
Con chim hoang đang liệng
Như suốt đời, vậy thôi…

Bao năm quên gặp gỡ
Trăm điều như mọi điều
Cất lời không nói được
Hồn ai ngồi quạnh hiu

Bạn, ta – con sóc nhỏ
Nhảy loanh quanh trưa hè
Đọt trăm bầu trước ngõ
Mà lạnh lùng sơn khê

Rượu lạt lẳng lặng rót
Ly cạn lẳng lặng đầy
Mười năm mà đầu bạc
Lẳng lặng, chừa một ai!

Mỗi người một kỷ niệm
(của gia bảo riêng nhau)
Ta nỡ nào đếm xỉa
Vó câu vụt qua mau

Chuyện đời vẫn là vậy
Khoảnh khắc còn nhau đây
Ngày mai ai biết được
Chuyện nào của đám mây…

Ừ thôi, người bạn nhỏ
Bây giờ mình đã già
Sống trăm nền triết học
Như trò đùa hôm qua

Gặp nhau đâu cần nói
Ngôn ngữ lạnh chân trời
Ó vàng và thỏ bạc
Chạm nhau trên đầu môi

Nếu bạn không rót nữa
Rượu cũng là cố nhân
Thì thôi, đầy ly cạn
Rượu sẽ hóa tâm hồn

Mai này ta lại gặp
Dù cũng lại mười năm
Ngậm tăm hai thứ tóc
Tang bồng như chim xanh..

Nguyễn lập đông
rượu

tính là để nhẹ vài ly,
hóa ra quá chén
ly bì cùng đêm.
lại là bí tỉ mình ên.
để cho nước mắt
êm đềm ru mơ

trà

Sáng trời,
sáng đất,
sáng ta.
Thấy lòng khây khỏa
pha trà uống chơi.
T ách đầu
phơi phới mời tôi.
Tách sau
chưa uống đã rơi lệ nhòa.

Trần Văn Lương
Về quê

Hôm đó là ngày thứ năm. Phải, ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11, ngày lễ Tạ Ơn của nước Mỹ. Tôi không phải đi làm, suốt cả ngày hết ăn rồi lại nằm, hết nằm rồi lại xem Ti Vi, cố gắng tận hưởng những giờ phút nghỉ ngơi hiếm hoi ở cái đất nước văn minh cơ khí này. Chợt nhìn đồng hồ thấy đã gần 5 giờ chiều, tôi vội vàng đi thay quần áo để ra bờ biển làm thủ tục chạy bộ hàng ngày. Cách đây mấy tháng, từ lúc bà xã tôi tình cờ phát giác ra cái vòng số hai của tôi càng lúc càng lớn ra và tôi càng lúc càng có triển vọng đoạt giải nhất cuộc thi lực sĩ “bụng nở ngực thon”, thì bà ấy, ngoài việc cấm tôi ăn các đồ béo, lại còn âu yếm ra lệnh cho tôi mỗi ngày: sau khi từ sở làm về, phải ra bờ biển gần nhà chạy bộ ít ra là 4 dặm để tiêu đi bớt mỡ. Tôi kính cẩn tuân lời (các cụ dạy rằng: “Có 3 loại tội bất hiếu, không tuân lời vợ là tội lớn nhất”. Tôi xin chép lại nguyên văn chữ Hán để quý vị tiện đường tham khảo: “Bất hiếu hữu tam, bất tuân thê lệnh vi đại”). Và từ đó, bất kể nắng mưa sáng tối, cứ vào khoảng 5 giờ chiều là những người đi dạo tại bờ biển Newport Beach lại thấy một anh chàng Việt nam ỳ à ỳ ạch bê cái thùng nước lèo của mình từ Newport Pier tới Balboa Pier và trở lại. Đoạn đường chiến binh dài đúng 4 dặm!
Bà xã tôi thấy tôi bước ra cửa bèn nhẹ nhàng bảo:
– Hôm nay là ngày Lễ Tạ Ơn, em cho phép anh nghỉ ở nhà một bữa.
Tiếc công mặc quần áo và thoáng thấy mấy rổ đồ giặt mới lấy từ máy sấy ra chưa kịp gấp, tôi vội vàng vừa đi vừa bảo:
– Thôi em ạ, thể dục phải chuyên cần mới có kết quả. Nghỉ được một ngày thì sẽ nghỉ mãi. Anh ra chạy chừng một tiếng sẽ về ngay.
Bà xã tôi dặn với theo:
– Anh ráng về sớm để ăn cơm với các con.
Tôi hấp tấp gật đầu và dong xe đi ra bờ biển.
Thực tình trong bụng hôm nay tôi cũng muốn ở nhà cho khỏe, nhưng không hiểu có một mãnh lực nào thôi thúc tôi phải cương quyết đi cho bằng được. Chả lẽ… vì bà cụ chăng? Không có lý! Tôi vừa lái xe vừa thắc mắc mà không tìm ra câu trả lời. Có một điều gì đó mà sau này tôi mới hiểu được.
Vừa đặt chân xuống bờ biển, tôi đã thấy ngay bóng bà cụ đổ dài trên bãi cát sát chân trạm cấp cứu số 13. Trạm cấp cứu này nằm giữa đoạn đường chay bộ của tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm, lòng bỗng thấy mừng thầm mà không hiểu tại sao. À, thế là hôm nay bà cụ cũng ra hóng gió.
Không biết bà cụ đã bắt đầu mỗi chiều ra ngồi ở chỗ đó từ ngày tháng nào. Tôi chỉ biết là kể từ lúc tôi thực hiện chương trình thể dục bất đắc dĩ này thì tôi đã thấy cụ ngồi đó rồi. Mỗi ngày cụ đều đến trước tôi, và khi tôi ra về thì cụ vẫn còn ngồi đó.
Đó là một bà cụ Á châu vào khoảng trên dưới 80 tuổi mà tôi nghĩ là người Việt nam. Tôi chỉ đoán thế dựa trên cách ăn mặc của cụ vì chưa bao giờ tôi được cụ mở miệng ban cho một câu, hoặc nhìn một cái. Mỗi ngày lúc chạy ngang qua cụ tôi đều nhìn cụ gật đầu chào, mong có cơ hội làm quen, vì nhìn cụ, tôi lại liên tưởng đến mẹ tôi cũng cỡ tuổi như cụ đang còn ở tại quê nhà. Đáp lại, cụ chỉ lạnh lùng khẽ gật đầu, mắt vẫn đăm đăm nhìn ra xa như muốn tìm kiếm cái gì bên kia bờ Thái Bình Dương. Cái gật đầu thật là nhẹ, phải để ý lắm mới thấy được. Và cũng chưa bao giờ tôi chạm được ánh mắt cụ. Cặp mắt buồn xa xôi dưới vầng trán nhăn nheo luôn luôn hướng ra khơi. Nhiều lúc tôi muốn tìm cách gợi chuyện với cụ nhưng cuối cùng lại thôi vì tôn trọng sự kín đáo của cụ. Mối liên hệ giữa tôi và cụ chỉ có thế, giới hạn trong hai cái gật đầu trong lần đi và trong lần về. Nghi thức xã giao này được lặp đi lặp lại mỗi ngày trong mấy tháng trời qua.
Hôm nay cũng thế, khi đến gần cụ tôi lại nhìn cụ cúi đầu chào, hai chân vẫn tiếp tục chạy.
– Chào cậu!
Tôi nghe như bị điện giật, hai chân khựng lại. Tôi vội quay nhìn cụ và ấp a ấp úng:
– Kính chào cụ. Cụ là người Việt nam?
Cụ nhìn tôi khe khẽ gật đầu, nét mặt vẫn lạnh lùng không lộ chút tình cảm nào. Nhưng khi cụ nhìn tôi, tôi thoáng thấy trong ánh mắt cụ ẩn hiện một chút hóm hỉnh như có vẻ giễu cợt sự ngây ngô của tôi: người ta đã nói “Chào cậu” mà mình lại còn hỏi “Cụ là người Việt nam?”
Tôi lúng túng tần ngần chưa biết phải làm gì thì cụ đã bảo:
– Cậu ngồi xuống đây mình nói chuyện một chút. Hôm nay tôi có ý đợi cậu.
Tôi rón rén ngồi xuống cát, cách xa cụ độ một sải tay. Tôi đi từ ngạc nhiên này qua ngạc nhiên khác, không biết bà cụ đợi tôi có chuyện gì.
Như hiểu ý tôi, cụ ôn tồn bảo, giọng nói đã bớt đi một tí lạnh lùng:
– Cậu ngạc nhiên lắm phải không? Cậu ngạc nhiên là phải vì điều này hơi đột ngột đối với cậu. Tôi muốn gặp cậu chiều nay để từ giã cậu và cám ơn cậu đã chào hỏi tôi trong mấy tháng qua. Hôm nay là ngày cuối tôi ra đây. Mai tôi về quê.
Tôi nghĩ thầm trong bụng, bà cụ có vẻ nhà quê nhưng lại thông minh đáo để và nhận xét người hết sức sâu sắc. Bây giờ mới có dịp quan sát kỹ cụ, tôi bỗng thấy nét mặt cụ có vẻ quen quen, nhưng không nhớ ra là đã thấy cụ ở đâu trước khi gặp cụ nơi bờ biển này. Tôi vội vàng hỏi:
– Cụ về Việt nam?
Tôi lại hỏi một câu ngớ ngẩn nữa. Cụ chậm rãi gật gù, mắt không thèm nhìn tôi:
– Vâng, về quê… về Việt nam… về làng… về Hải Dương… Cậu có biết Hải Dương ở đâu không nhỉ?
Và không đợi tôi trả lời, cụ nói tiếp:
– Hải Dương là quê của tôi đấy. Ngày mai người con cả của tôi sẽ đưa tôi về đấy. Tôi xa quê từ năm 54, bây giờ mới có dịp về. À, cậu trông thấy tôi quen quen phải không? Bà cụ của vợ cậu lúc còn sống thường hay đi chùa với tôi và tôi nhớ hình như có thấy cậu đôi lần lúc cậu lên chùa đón cụ … Ông nhà tôi ngày xưa làm Tuần phủ nên mọi người đều gọi tôi là cụ Tuần, mãi rồi tôi quên hẳn tên thật của mình.
À ra thế. Cụ Tuần. Hèn gì thấy mặt bà cụ quen quen. Và tôi cũng nhớ ra lúc còn sống, mẹ vợ tôi cũng có nhắc đến tên các bà bạn đi chùa của cụ, trong đó hình như có tên cụ Tuần. Tôi bỗng thấy hơi gờm bà cụ. Sao cụ biết tôi thắc mắc như thế mà trả lời? Tôi bèn đưa đẩy:
– Thảo nào mà cháu thấy cụ quen quen. Hóa ra cụ là bạn của mẹ cháu. Thế thì mình là người nhà cả.
Cụ cười nhẹ:
– Chính vì thế mà tôi muốn gặp cậu hôm nay để nói chuyện lần cuối và từ biệt cậu, kẻo mai kia cậu lại thắc mắc không biết cái bà cụ mặt mày lạnh lùng khó đăm đăm kia đi đâu mất rồi.
Tôi đỏ mặt, không ngờ bà cụ lại nói đúng ý nghĩ của tôi. Quả thật trước kia, sau mỗi lần chào cụ và chỉ nhận được một cái gật đầu như gió thoảng của cụ, tôi hay lẩm bẩm trong bụng: sao mặt mày bà cụ lại lạnh lùng khó đăm đăm thế!
Cụ nhìn tôi tiếp tục:
– Tôi theo thằng con cả qua đây năm 75, tính đến nay đã được 20 năm. Ngày mai là lần đầu tiên tôi về quê. Và tôi sẽ ở luôn bên Việt nam, không qua đây nữa. Ấy, cậu đừng hỏi tại sao. Lá rụng về cội. Người già nào cũng muốn được chôn xác ở quê cha đất tổ. Tôi đã muốn về từ mấy năm trước cơ, nhưng vì công việc làm ăn kỳ này con trai tôi mới đưa tôi về được. Muộn còn hơn không…
Rồi cụ thao thao kể cho tôi nghe về gia đình cụ, về cụ ông, về cậu con trai, về đời sống của cụ tại Hoa kỳ, về việc cụ mỗi chiều ra bờ biển vọng về phía bên kia bờ đại dương để nhớ tới quê nhà… Trong câu chuyện, hình như cụ đoán trước được các câu hỏi tôi định đặt ra và cụ đã trả lời trước khi tôi kịp mở miệng. Thành ra trong suốt hơn một tiếng đồng hồ tôi không chen vào được một chữ.
Cụ bỗng chép miệng, thở dài và bảo:
– Thôi trời tối rồi, cậu về nhà đi, vợ con cậu đang chờ cơm. Câu chuyện tôi định kể cho cậu hôm nay chỉ có thế. Chúc cậu ở lại Mỹ mạnh giỏi, mai tôi về quê. Cậu về trước đi. Tôi nán lại thêm một tí rồi sẽ về sau.
Tôi ngỏ ý muốn đưa cụ về nhà nhưng cụ từ chối. Tôi đứng dậy từ giã cụ, miệng lí nhí nói ít lời cầu chúc cho cụ thượng lộ bình an. Nhìn thấy vẻ bùi ngùi lưu luyến của tôi, cụ cười bảo:
– Cậu đừng buồn vì nghĩ rằng sẽ không bao giờ gặp lại nhau. Mọi sự trên đời đều không có gì đi ra ngoài chữ “duyên”. Nếu còn có duyên với nhau thì cậu sẽ có dịp gặp lại tôi, e rằng lúc đó cậu lại không thích.
Cụ đưa tay khoát vẫy tôi đi. Không dám nói gì hơn, tôi nhìn cụ lần cuối và từ từ quay đi về hướng đậu xe, lòng cảm thấy hơi bùi ngùi khi phải chia tay với cụ.
Và kể từ lúc đó, chẳng bao giờ tôi thấy lại bà cụ nữa trong những lần chạy bộ của tôi. Hy vọng cụ sung sướng ở quê nhà.

Một năm sau, cũng vào dịp lễ Tạ Ơn, một người Việt nam mới vào làm chung hãng với tôi có nhã ý mời các đồng nghiệp người Việt trong sở tới nhà để chung vui nhân dịp sinh nhật 16 tuổi đứa con gái đầu lòng của anh. Bà xã tôi vì bận việc nên tôi được phép đi dự tiệc một mình.
Vì tới đúng giờ nên tôi là người khách đầu tiên. Chủ nhà niềm nở đưa tôi vào phòng khách nhâm nhi tí rượu trong khi chờ đợi các vị khách Việt khác điều chỉnh đồng hồ của họ. Căn phòng khách được trang hoàng một cách đơn giản nhưng rất lịch sự và tươm tất. Thoáng ngửi thấy mùi hương, tôi quay nhìn về phía cuối phòng và choáng váng khi thấy bức ảnh trên bàn thờ ẩn hiện sau làn khói mỏng của nén hương. Tôi sững sờ vì rõ ràng đó là hình bà cụ tôi gặp ngoài bờ biển. Vẫn khuôn mặt “lạnh lùng khó đăm đăm” đó, vẫn cái nhìn xa vắng pha lẫn một tí giễu cợt đó, không thể nào sai được. Tôi vội hỏi anh Phong, người chủ nhà:
– Có phải đó là hình của cụ Tuần không?
Anh Phong gật đầu:
– Vâng, đó là hình của mẹ tôi, ở chùa người ta hay gọi cụ là cụ Tuần, vì ngày xưa ông cụ của tôi làm Tuần phủ. Sao anh lại biết mẹ tôi?
Tôi vội vàng nói chữa:
– Tôi biết cụ vì ngày xưa cụ cùng đi chùa với bà cụ mẹ vợ tôi.
– À ra thế! Thì ra mình là người nhà cả, anh hân hoan gật gù.
Tôi chết điếng trong lòng, không ngờ mới gặp nhau năm trước mà cụ đã mất rồi. Tôi lắp bắp:
– Cụ mất lúc nào vậy anh Phong?
– Cũng được hơn 5 năm rồi đó anh.
Câu trả lời của người chủ nhà làm tóc tai tôi muốn dựng đứng hết cả lên. Tôi lặp lại như một cái máy:
– 5 năm…
Không để ý đến vẻ khác lạ của tôi, người chủ nhà kể tiếp:
– Phải, mẹ tôi mất cách đây cũng đã hơn 5 năm, mà mãi đến năm ngoái sau ngày Lễ Tạ Ơn tôi mới có dịp đem tro của cụ về an táng tại quê nhà ở Hải Dương, đáp ứng được nguyện vọng cuối cùng của cụ.
Tôi tái người nhớ lại lần nói chuyện giữa tôi và cụ đã xảy ra vào đúng ngày lễ Tạ Ơn năm ngoái, một ngày trước khi con trai cụ đưa tro cụ về Việt nam.
Chúng tôi hai người im lặng giây lát như để tưởng niệm người quá cố. Chủ nhà chầm chậm ngước mắt nhìn về phía bàn thờ. Và lần này thì đến phiên anh ngạc nhiên hốt hoảng. Anh lẩm bẩm:
– Quái lạ, ai thay bức hình đấy nhỉ ?
Tôi quay đầu lại nhìn bức hình và cũng ngạc nhiên không kém. Rõ ràng là ít phút trước đây nét mặt người trong hình lạnh lùng nghiêm nghị, môi mím chặt thế mà bây giờ trong hình bà cụ đang cười tươi, để lộ gần nguyên hàm răng đen bóng, hai con mắt lá răm hiện đầy vẻ tinh nghịch.
Người chủ nhà hướng về phía vợ đang lui cui trong nhà bếp hỏi lớn:
– Em ơi, có phải em thay hình của mẹ trên bàn thờ không ?
Người vợ lên tiếng nói vọng ra trong khi vẫn tiếp tục làm đồ ăn:
– Em đâu biết hình ảnh gì đâu. Anh là người giữ các bức ảnh mà.
Người chồng hừ nhỏ một tiếng trong cổ, nét mặt đầy vẻ bối rối băn khoăn. Khi mắt anh chạm phải tia nhìn dọ hỏi của tôi, anh vội giải thích:
– Anh biết không, khi mẹ tôi mất, chúng tôi có phóng lớn và làm khung hai bức ảnh của cụ vì lúc đó phân vân không biết chọn bức nào để thờ. Một bức có hình cụ tươi cười như anh đang thấy đây, và bức kia thì mặt cụ nghiêm trang không cười. Sau khi cả gia đình hội ý với nhau, chúng tôi chọn bức không cười để đặt trên bàn thờ và cất bức kia vào tủ. Tôi là người phụ trách bàn thờ và giữ hai bức ảnh vì tôi là con cả. Tôi nhớ là chỉ có chưng bức hình không cười lên bàn thờ mà thôi. Không hiểu tại sao hôm nay lại biến thành bức hình này như thế.
Tôi vội nhìn lên bàn thờ và quan sát kỹ lại bức ảnh. Không biết tôi có tưởng tượng hay không nhưng rõ ràng tôi thấy trong ánh mắt của cụ hiện lên một vẻ tinh nghịch hân hoan đượm nét ngây thơ của trẻ con pha lẫn một chút dịu dàng từ ái của lòng mẹ. Tôi định lẩm bẩm trách thầm cụ trong lòng rằng cụ đã bảo với tôi năm ngoái là cụ về quê thế mà giờ này cụ còn ở đây nghịch phá. Nhưng ý định trách móc vội tan biến ngay khi tôi chợt nhớ lại lời nói cuối cùng của cụ với tôi về chữ “duyên” : “Mọi sự trên đời đều không có gì đi ra ngoài chữ “duyên”. Nếu còn có duyên với nhau thì cậu sẽ có dịp gặp lại tôi, e rằng lúc đó cậu lại không thích”. Tôi vội vã nói thầm lời xin lỗi cụ. Trong khi đó, người chủ nhà vẫn lộ vẻ thắc mắc bất an.
– Anh Phong này….
Tôi buột miệng định kể cho anh chủ nhà biết sự tao ngộ ly kỳ giữa tôi và bà cụ của anh, nhưng vội nín bặt khi thoáng thấy ánh mắt can ngăn của bà cụ trong bức hình.
– Gì thế anh?, người chủ nhà vội hỏi.
Tôi bèn tìm lời khỏa lấp:
– Tôi nghĩ là có thể một lúc nào đó anh đã thay bức hình và quên bẵng đi. Với tuổi tác bọn mình bây giờ, làm trước quên sau là chuyện thường.
Người chủ nhà lịch sự gật đầu đồng ý, nhưng có vẻ không tin tưởng lắm vào lời giải thích.
Những người khách Việt giữ đúng truyền thống giờ cao su đang lục tục kéo đến, và chúng tôi đành bỏ dở câu chuyện để đi chào đón mọi người. Lợi dụng lúc đông người lu bu, tôi chuẩn bị chuồn êm sau khi đã nhờ một người bạn chuyển lời cáo lỗi của tôi tới chủ nhà, viện cớ là bỗng dưng tôi không thấy khỏe. Quả thật là tôi bắt đầu cảm thấy rờn rợn mỗi khi nhìn lên bàn thờ và chạm phải ánh mắt tinh nghịch của người trong ảnh. Không dám nhìn thẳng vào bức ảnh, tôi thầm nói lời từ biệt với cụ và lẳng lặng lách mình ra cổng. Không ngoái cổ nhìn lại, tôi cắm đầu rảo bước như bay đến chỗ đậu xe. Trong tiếng gió thoảng của một chiều cuối thu, mường tượng như có ai nói khẽ vào tai tôi hai tiếng: “Chào cậu”.

Dạo:
Tiếng cười còn đọng bên sông,
Con đò thiên cổ đã giong chốn nào.

Đò Đêm Bỏ Bến

(Tiễn người đã ra đi
trong một đêm về miền vĩnh cửu)

Mây về quẩn bến sông,
Nghẽn tắt nắng chiều đông.
Nhánh rong già trốc cội,
Bối rối đợi bên dòng.

Lung linh ánh điện màu,
Nhạc cũ gói niềm đau.
Nhớ nhung nào thúc giục
Người lục tục tìm nhau.

Nhịp bước nhỏ khoan thai,
Hương ca quyện gót hài,
Vòng tay dài chợt ấm,
Tóc lũ quấn mềm vai.

Đêm rộn rã tiếng cười,
Rượu mời chửa kịp vơi,
Bóng ai đà vội vã,
Lén từ giã cuộc chơi.

Đò thiên cổ chực chờ,
Người bước xuống bơ vơ,
Lệ đôi bờ tuôn đổ,
Đường cố thổ mịt mờ.

Lành lạnh gió âm ti,
Ai oán khúc từ ly,
Não nề câu vĩnh biệt,
Thê thiết lúc phân kỳ.

Nhàn nhạt phấn trăng treo,
Đò khuya lặng lẽ chèo.
Cánh bèo xuôi nẻo giác,
Ngơ ngác bến nhìn theo.

Trần Văn Lương
Cali , 1/2011

Lan Đàm
Lục bát mùa xuân

Minhkha

Con cho đời nửa miệng cười,
Vàng thêm màu cúc, xanh ngời sắc lan.
Vườn nhà hoa bướm hân hoan,
Chào mùa sang để trần gian lụa là.

Bảominh

Con chân sáo bước nhịp ba,
Ngày bình minh, tiếng chim hòa suối reo.
Mười ngón nhỏ, mắt trong veo,
Ngẩn ngơ hàng phím, đàn theo tay người.

Bạt

Thì xuân, vẫn của đất trời,
Thì ta, hạnh phúc đã mời cõi riêng.

Xuân thì, em

Sáu mươi, ừ, nhắc mà chi,
Để ta vẽ lại xuân thì em xưa.
Ngày con gái, mắt đong đưa,
Thơm môi, đỏ má đủ vừa hồng nhan.
Chiều tan học, bước rất ngoan,
Có trăm khách lạ trần gian, thẫn thờ.
Người yêu, em hiện trong thơ,
Ngẩn ngơ trang sách, hững hờ áo bay.
Đêm thục nữ, giấc ngủ say,
Những cơn mơ, tháng năm đầy bướm hoa.

Sáu mươi, ừ, cũng vừa xa,
Xuân thì em, để mình ta giữ gìn.

Rượu, nửa chai

“Rượu còn nửa chai đời cũng vậy”
Long Ân

Ừ chai rượu quý còn đây,
Nửa vơi sao vẫn thấy đầy nơi ta.
Ngày mùa xuân, người đi xa,
Thì thôi, lầu cũ chiều qua rất buồn.
Ly nghiêng đỏ, đậm hoàng hôn,
Men say độc ẩm lạnh hồn cố nhân.
Rót thêm, người nhớ mấy lần,
Ta dường quên, suối phân vân đợi chờ.

Nửa chai, rượu lẫn trong thơ,
Lời nào tử biệt cuối bờ sinh ly.

Túy hành vân

Ừ về phủ cũ tịch liêu,
Núi xưa đỉnh biếc mây chiều còn say.
Phá hoang khói sóng dâng đầy,
Cát ôm đá lạnh thêm dầy hoàng hôn.
Ừ về phủ cũ rất buồn,
Trong heo may có tiếng hờn từ ly.
Phố tìm lại bước người đi,
Đã rêu mái xám, xuân thì dấu phai.

Ừ về phủ cũ miệt mài,
Nghe hồn thông gọi đêm dài ngẩn ngơ.
Biển khuya con nước xô bờ,
Trăng sao cũng lạ, sương mờ bóng nai.

Ừ về phủ cũ trang đài,
Em phôi pha- để ta ngoài lênh đênh.

Không về

(Gửi Chị Hồng Phượng)

Người không về xuân này
Sớm, bình minh rất lặng
Bầy sẻ nhỏ ngũ say
Khu vườn xưa quạnh vắng

Người không về xuân này
Chiều, hoàng hôn xuống vội
Cánh vạc lẻ loi bay
Hàng thông già sương gội

Người không về xuân này
Đêm hồng hoang mấy độ
Chiêm bao đầy heo may
Gối chăn đâu ấm chỗ

Người không về xuân này
Khóm lan gầy quên nở
Phố núi, rượu vừa cay
Cũng thôi, thiên đường lỡ

Lãm Thúy
Đọc thơ Phan Thị Ngôn Ngữ

Mở trang thơ, thấy khói sầu
Bay trong một cõi tình đau bời bời
Thấy niềm vọng tưởng khôn nguôi
Cháy thiên thu ngọn lửa vùi tro than.
Thấy trời cát trắng Nha Trang
Biển xanh vỗ sóng, dã tràng cuốn trôi…
Thấy người tự thuở nằm nôi
Câu ca dao đã ngọt lời mẹ ru
Thấy xưa bóng ngoại nhân từ
Câu Kiều lẫy mãi, lòng như suối đàn
Có cô thiếu nữ dịu dàng
Góp trăng sao lại về đan mái tình
Có niềm tưởng tiếc mông mênh
Trải thiên thu mộng đời trên phiến sầu
Vườn ai còn thoảng hoa Ngâu
Chân ai còn vọng bên cầu tử sinh
Buộc trăm năm một sợi tình
Sao hoang vu, bóng với hình. Cô đơn
Có bao nhiêu những hoàng hôn
Thả trôi những vệt nắng buồn về đâu?
Hoa sim, hoa khế một màu
Tím như lòng bậu qua cầu thuở xưa!
Sang sông dù lỡ chuyến đò
Câu thơ còn đọng ngày thơ ngập ngừng
Mẹ người buôn gánh bán bưng
Mẹ ta ruộng mạ, tảo tần sớm khuya
Đời như những nhánh sông chia
Nước đi, nguồn cạn; lá lìa, cành đau
Nghe ra cũng một tâm sầu
Cô đơn, hoài vọng, thương đau, ngậm ngùi
Chúng ta một lứa bên trời (*)
Cái tâm khắc khoải, cái đời tang thương
Cũng con sông nước biệt nguồn
Thân trôi viễn xứ, hồn vương quê nghèo
Trưa hè, nhịp võng buồn hiu
Tiếng ru còn vọng muôn chiều thiết tha
Thơ người nói hộ lòng ta
Trúc tre ngõ cũ, chiều tà vọng âm
Đèn khuya, bóng mẹ âm thầm
Canh tàn, bấc lụn, dài năm tháng chờ
Cũng niềm thắt thẻo, xót xa
Lòng riêng canh cánh, nhớ nhà, nhớ quê
Chim bay còn có tổ về
Chiều tha hương, một mình, thê thiết buồn
Quê người, giục mối hoài hương
Vời trông cố quận, mờ sương khói chiều
Vầng trăng xế bóng quê nghèo
Có nghe ta cũng hắt hiu phận người
Chúng ta, hai đứa lạc loài
Để mẹ mòn mỏi bên trời cố hương
Trang thơ xếp lại, còn buồn
Nỗi chi đọng lại trong hồn. Xót, chua!
——————————————
*Ý thơ Tỳ Bà Hành – Bạch Cư Dị
“Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân”Phan Huy Vịnh dịch:
“ Cùng một lứa bên trời lận đận”

Trên núi Sugarloaf

Lên rừng ngắm lá mùa thu
Nhân gian nghe cũng mịt mù dưới xa
Phút giây lánh cõi ta bà
Ngang trời gió thoảng, tưởng ta thoát trần
Tưởng đời như ánh phù vân
Cõi bon chen chợt tần ngần ngó lui.
Bước lên lòng rộng theo trời
Núi cao đá dựng, bồi hồi cảnh tiên
Dường quên hệ lụy ưu phiền
Như sương dưới nắng, tan triền núi xa
Đứng trong trời đất bao la
Thấy ta – hạt cát giữa Hằng hà thôi!
Sá gì với những buồn vui
Những trăn trở của kiếp người. Phù sinh
Sá gì tiếng nhục, lời vinh
Mai rồi cát bụi lại thành tro than
Có chi trường cửu vĩnh hằng
Gói hành trang cuối cũng ngần ấy thôi.
Phân vân ta giữa đất trời
Nửa cao hồn núi, nửa ngùi sắc thu
Nửa lòng thoát tục, vô ưu
Nửa xa xót cảnh đời như chiều tà
Nghe mùa tàn rụng phôi pha
Ngẫm ra một kiếp người là… phù du.
Rừng chiều lá rực nắng thu
Vàng ươm sợi nhớ, nghe như cội sầu
Đành lòng với nỗi thương đau
Trách sao gió lạnh cho màu lá phai
Trách sao gió cứ rung hoài
Để cây buông lá. Xót ngày tàn rơi!
Ngắm thu. Hỏi làm sao vui?
Đời người như lá, vàng rơi vô chừng
Nhưng trong vô ngã mịt mùng
Dường nghe còn nặng nợ: lòng trần ai
Chân quen lại bước về đời
Lại nghe cơm áo một trời nhiêu khê.

Lãm Thúy

Trần Bang Thạch
Bông hồng đỏ
Bông hồng trắng

Ngày Vu Lan Báo Hiếu người ta gắn trên áo mình 1 hoa hồng đỏ hay 1 hoa hồng trắng. Màu đỏ tượng trưng cho niềm vui còn mẹ. Màu trắng nói lên nỗi buồn mất mẹ.
Trong đời tôi chưa hề nhận được 1 bông hồng đỏ hay 1 bông hồng trắng nào. Điều đó có quan trọng lắm không khi cha mẹ còn sinh tiền mình chưa lần nào cầm tay cha mẹ, âu yếm nhìn vào mắt Người mà nói rằng: Con yêu thương cha mẹ. Người ta cho mình một vật dù bình thường mình biết nói : “cám ơn”. Cha mẹ đã cho mình hình hài, trí óc và khó nhọc trăm chiều nuôi mình khôn lớn, có mấy ai, trong cử chỉ thân tình hay trang trọng, quỳ trước 2 bậc sinh thành mà nói rằng: “Con cảm ơn cha mẹ đã cho con thành người”. Tình yêu thương và lòng biết ơn cha mẹ đã có sẵn trong lòng mỗi người. Có lẽ người mình ít khi bộc lộ tình cảm của mình đối với song thân chớ không phải mình không nghĩ hay không muốn nói ra những lời ấy. Tự nghĩ nếu có thêm 1 lần làm con, chưa chắc tôi nói đuợc lời này, dù biết đó là điều nên nói, sẽ làm cha mẹ vui cả ngày đêm, vui hơn ai cho vàng cho bạc.
Tháng Bảy Âm lịch sắp đến rồi. Ngày 15 tháng Bảy là rằm Trung Ngươn, còn gọi là Trung Ngươn Thắng Hội, nguyên thủy là ngày Thánh Quân Đại Hiếu là vua Thuấn, một vị vua huyền thoại thời Trung quốc cổ đại nằm trong Ngũ Đế, nổi tiếng là minh quân, nhân từ, hiếu tử, đã thay trời xá tội cho các vong hồn nơi Địa Phủ. Vua Thuấn còn được tôn vinh là Địa Quan xá tội. Qua câu chuyện hành giả Mục Kiền Liên, chúng ta còn biết rằm tháng Bảy còn là Lễ Vu Lan Bồn. Ngày các con báo hiếu cha mẹ đời này và bảy đời trước bằng cách cúng dường chư Phật và chư Tăng để hồi hướng công đức cha mẹ hiện tiền và Cữu Huyền Thất Tổ.
Công ơn cha mẹ lớn lắm. Chúng ta đã nghe những lời ca quen thuộc từ nhạc phẩm Lòng Mẹ của Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình” hay câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn” . Thử đưa ra vài con số cho vui chuyện. Thái Bình Dương rộng hơn 165 triệu cây số vuông, hay là 64 triệu miles vuông, lượng nước bằng 50% lượng nước trên toàn địa cầu, chiếm 28% bề mặt trái đất, rộng lớn hơn tất cả đất đai của trái đất gọp lại. So với nước Mỹ thì biển Thái lớn gấp 15 lần. To lớn như vậy nhưng ngày nay người ta vượt Thái Bình Dương là chuyện nhỏ. Cho nên biển Thái tuy lớn nhưng không thể vượt được lòng mẹ bao la vô bến vô bờ. Núi Thái Sơn ở trung bộ tỉnh Sơn Đông bên Trung Hoa cao chỉ có 1500 thước tây, thua xa độ cao 8850 thước của núi Everest trong dãy Hi Mã Lạp Sơn. Tưởng Thái Sơn cao lắm, nhưng chỉ cần bước lên 7000 bậc đá, trung bình mỗi bậc mất một giây, vừa đi vừa nghỉ thì trên dưới 2 tiếng là ta lên tới đỉnh núi Thái Sơn rồi, nào có cao lớn hùng vĩ gì đâu! Chắc chắn núi Thái cũng không thể so sánh được với công cha. Thực tế là không ai lấy thước mà đo được lòng cha mẹ. Kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: Nếu ta suốt đời cõng mẹ 1 bên vai, cõng cha 1 bên vai, từng giây săn sóc miếng ăn, giấc ngủ, nâng niu, đấm bóp… dù cha mẹ có vãi tiểu tiện trên vai, thì nếu ta có sống tới trăm năm cũng không trả hết công ơn cha mẹ.
Có một người thợ điện bên Ấn Độ không biết có đọc những lời trong Kinh Tăng Chi I trên đây hay không nhưng anh đã có hành động tương tợ như vậy ở thời điểm bây giờ. Tin tức này tôi vừa đọc trên net sáng nay. Anh thợ điện ở New Delhi tên là Sanjay Kumar, 42 tuổi, đã thực hiện lời tự hứa là sẽ phụng dưỡng cha mẹ suốt quãng đời còn lại của mình. Cha 95 tuổi, mẹ 80 tuổi. Cha mẹ anh ước muốn đi tắm nước sông Hằng ở Haridwar, anh để cha mẹ nặng tổng cộng 115 kg lên 2 đầu quang gánh thực hiện chuyến hành hương đường bộ gập ghềnh, trơn trợt dài 216 cây số. Nếu anh Kumar trên đây không đọc kinh Tăng Chi I thì quả là anh có tâm Phật.
Công ơn cha mẹ vô cùng trọng đại nên thực hành chữ hiếu chính là làm điều thiện, và sự bất hiếu chính là điều ác. Kinh Nhẫn Nhục có mô tả:

“Cùng tột điều thiện, không gì hơn hiếu,
Cùng tột điều ác, không gì hơn bất hiếu”.

Cũng có người dưỡng nuôi cha mẹ, nhưng tính tháng tính ngày:“Mẹ nuôi con quản chi ngày tháng, con nuôi mẹ tính tháng tính ngày”. Vế thứ hai tưởng như là chuyện không hề có! Thật trớ trêu!
Người không biết lấy chữ hiếu làm đầu thì dù người có làm hàng trăm việc tốt thì cũng như không: “Nhơn sanh bách hạnh hiếu vi tiên”.
Nhớ ngày trước học Nhị Thập Tứ Hiếu, nghe chuyện ông Ngô Mạnh Tông thấy ông nầy thật là đại hiếu nên hâm mộ ông mà học thuộc bài này cho đến nay còn nhớ: Ngày đông tháng giá, ngài Mạnh Tông nằm trên đất khóc cho đến khi đất ấm nứt ra mụn măng non để dâng lên mẹ đang yếu đau mà thèm canh măng. Nay hiểu ra thì lòng hiếu thảo ấy cũng chưa đi đến đâu so với tình mẫu tử của Ngô lão bà:
Giữa bình địa, phút giây bổng nứt
mấy rò măng, mặt đất nõn xanh
Đem về nấu được bữa canh
Ăn rồi bệnh mẹ, lại lành như xưa
Cho hay hiếu động cao dày
Tình sâu nên khóc, cỏ cây cũng tình…
May mà ngài Mạnh Tông còn mẹ để báo hiếu. Trên đời nầy có biết bao người đã lỡ dịp; khi nhớ lại thì đã quá muộn. Mẹ già như chuối chín cây, gió lay mẹ rụng, con thì mồ cô. Mồ côi tội lắm ai ơi, đói cơm, khát nước con thời cậy ai” hay: “ Còn cha gót đỏ như son, mất cha đi sớm về hôm một mình”. Ca dao đã ràng ràng như vậy. Tục ngữ cũng nói rằng: “Con có cha như nhà có nóc”. Có một chuyện đạo nói về công cha nghe thật thấm thía. Chuyện kể một anh chàng thua lỗ nợ như chúa chõm, khi chết Diêm vương cho làm con trâu để trả nợ, hắn không chịu làm trâu mà muốn làm cha người chủ nợ. Diêm vương thắc mắc, hắn trả lời: Làm trâu đời sống chỉ có chín mười năm, không đủ để trả nợ. Xin để con phải làm cha ông ấy để chăm sóc ông ấy đến già, rồi tiếp tục lo từ cái ăn, cái mặc, dạy dỗ điều hay lẽ tốt cho con cháu ông ấy; cho đến hết đời cũng chưa chắc trả hết nợ. Câu chuyện cho ta thấy người cha hết lòng lo cho con rồi lo cho cháu, chắt… Công ơn ấy lấy gì mà so sánh được.
Dù có biết mà tận tụy báo hiếu cũng không khi nào đủ. Phật đã dạy:
“Có 2 người trên đời mà ta không bao giờ trả ơn được, đó là cha mẹ”. Người con hiếu chỉ có thể thi ơn nhưng không thể trả hết được. Càng nghĩ đến công ơn đấng sinh thành mà càng thương, càng nhớ:
Tám mươi năm Má sống với đời
Nhận tân khổ, dành sướng vui cho con cháu
Gang chân nứt, da nhăn nheo, rướm máu
Bàn tay chai, khô sạm, sần sùi
Lưng gập cong, da mặt trổ đồi mồi
Bao thay đổi dồn lên màu tóc Má.
(“MÁ TÔI”, Lê Cần Thơ)
Dù Mẹ đã ra đi nhưng cái dịu dàng, đằm thắm của Mẹ vẫn ẩn tàng trong sắc hoa màu tím để mỗi lần nhìn hoa tím là thấy Mẹ đang ở bên mình:
Bao giờ trong quảng đời hiu quạnh
Bãi cỏ đời tôi lúc úa vàng
Mẹ tôi như sắc hoa màu tím
Lẩn vào vạt cỏ buồn mênh mang
(“Mẹ tôi hoa tím giữa mùa Xuân”,thơ Nguyên Nhung)
Không có đóa hoa hồng nào trên áo, nhưng trong lòng tôi, mỗi mùa Vu Lan, mỗi ngày Mother’s Day, hay ngày Father’s Day… tôi có cảm nghĩ hiện giờ màu đỏ, màu trắng của hoa hồng pha trộn nhau thành cầu vòng rực rỡ ẩn hiện những nụ cười, lòng thương yêu, sự hy sinh, tính cần cù, nhẫn nại, chịu khó… của cha mẹ tôi trộn lẩn với niềm hạnh phúc của tôi đã được một lần làm con của các Người. Cho nên qua thời gian, tôi đã dần dần nhạt đi nỗi buồn mất cha mẹ, nhưng lòng tiếc nuối thì không trôi đi mất vì không còn cha mẹ để phụng dưỡng. Càng đi cuối đường đời, càng thấm thía với mấy câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân:
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn
Con sẽ không đợi một ngày kia có người cài lên áo cho con
Một nụ hồng bạch
Mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ.
Mùa Vu Lan nầy, cũng xin đốt nén trầm hương nhớ ơn Cha Mẹ của mình và của người.

Mùa Vu Lan 2010
Trần Bang Thạch

Như Phong
Mùa lá chết

Cành khô
sương trắng
sân đầy lá
mây xám ngang trời
mưa bụi bay
em ngồi hong lại vùng tóc rối
ta nhấp ly sầu
trắng bàn tay
Đêm nay
lá rụng sao nhiều quá
rụng xuống cuộc đời
theo gió bay
môi em run run màu của lá
trời đất giao mùa
buốt trên vai
Đêm nay
gục xuống đời
trăn trối
nữa trái tim khô
bỗng nghe đau
ngoài sân xào xạc
mùa lá chết
ta trắng mắt ngồi…
vẫn còn say

Em ơi!
Sao vẫn xót xa

Ngẫn đầu nhìn
nửa vầng trăng khuyết
đứng soi gương
khuyết nữa đời ta
mới hay
đời thoáng qua như mộng
trăm năm
sương khói
mưa sa
ta giủ phong trần trên vai áo
mộng vỡ bao lần thuở hoa niên
đã từng lập chí ngàn năm
vung ba thước kiếm
dời non
lấp biển
thì ra ôi!
mộng giữa ban ngày
chén rượu nầy
ta mời bạn cùng say
và đêm nay
ta mời trăng đối ẩm
có buồn chăng nữa mảnh trăng già
mà ta thấy buồn rơi trên tóc
còn sân si chồng chất
làm sao đến được núi Phổ Đà
đã biết rằng
tới đây ở tạm
mà em ơi!
Sao vẫn thấy xót xa

Lộn ngược

ngẫn đầu
nguyệt khuyết treo ngang
nâng ly đối ẫm
ngỡ ngàng nhìn nhau
em từ thượng giới
trắng phau
ta
từ tục địa
nhuốm màu tục nhân
càn khôn còn mãi xoay vần
nên khi lộn ngược
trắng
đen
vẫn là
co mình nằm giữa Ta Bà
phân hai ranh giới
cũng là
âm
dương
gát chân
nói chuyện yêu đương
thì cho hợp lẽ vô thường đó thôi
nên ta
dốc hết một đời
yêu em cho kịp
kẻo trời nổi cơn
nắng mưa
chuyện của càn khôn
yêu em
trút bỏ thần hồn của ta

Kim Oanh
Nhạc tàn thơ chết đời hoa

(Cảm tác Nhạc Đàn Thơ Hát Đời Hoa
của tác giả Phạm Tương Như )

Chưa tiễn ai đi thuyền vội nhổ
Hồn sầu lòng mảnh vỡ chìm sâu
Tình chưa mới âm u nguyệt lộ
Nhờ ai kia chôn hộ tình đầu
Cung ý nhạc chưa khơi sao lạc?
Mực chưa hòa tím lịm màu hoa
Tay không ấp trôi chiều mây giạt
Phiếm dường chùng giọng bạc lời đau
Chim vụt bay không nơi nương náo
Áo trắng màu ngơ ngáo tình vôi
Đời lặng côi, suốt mùa giông khó
Bó đời chân dặm gió nổi trôi!…
Tay cố nắm nhưng làm sao tới
Huyệt mộ sâu bóng tối mênh mông
Hương cố ôm áo nhòa chới với
Ngày dần qua dáng mới long đong
Đời hát ca! Nụ cười lợt lạt
Nhạc trổi cao khao khát trời hồng
Rượu thơm nồng hương lòng phiêu bạt
Rơi lũng sầu … dáo dát…. hư không!

Rừng lá thu mưa

Lá kia rơi rụng đi mô?
Phủ đầy trên những nấm mồ xa xưa
Chừ nghe rừng lá thu mưa
Ai ơi có tiếc tình vừa vụt bay?
Dưới lòng cỏ lạnh sương mai
Hồn miên man ngủ vùi say bạc đời
Bình minh ló dạng mây trôi
Hồn lay theo gió lên đồi Thiên Thai

Trạm nhớ đầu

Anh vẫn nhớ mùa thu năm cũ
Chuyến xe lam đưa khách qua cầu
Câu hỏi nàng trong dạ khắc sâu
Sao nỡ để tình đầu lỗi nhịp?
Xe lăn bánh đi xuôi về ngược
Trời chợt mưa, nắng chẳng hề đâu
Anh vô tình trời đổ mưa Ngâu
Nên duyên thắm hai đầu Ô Thước
Trách ai làm tình nhạt phai màu
Trạm nhớ đầu… xe lam một chuyến
Tơ không giăng dây đàn chùng phím
Gõ cung sầu… tri kỷ về đâu???
Anh phiêu bạt cuộc đời mây gió
Em âm thầm vàng võ chiều thu
Anh tung bay vào chốn sương mù
Em về đâu? Đường đời muôn ngõ
Em chờ đợi bao mùa mưa đổ
Nẻo sơn khê mong bước anh về
Dòng đời thay đổi, lìa xa quê
Quanh em sông núi bốn bề…
Ngổn ngang!

Phan Các Chiêu Hằng
Những mùa trăng tan

Lúc đến quầy của hãng hàng không để lấy vé máy bay và gửi hành lý, tôi ngần ngừ do dự được năm phút. Năm phút ngắn ngủi phù du. Năm phút là thời gian dài nhất mà lý trí tôi chịu vươn vai ngóc đầu ngồi dậy làm việc, kể từ ngày tôi yêu chàng.
Cô thư ký sau quầy tươi cười niềm nở. Một dấu hiệu tốt. Kể từ ngày tôi yêu chàng, tôi cũng đâm ra hay để ý đến những “dấu hiệu”, như để trấn an hay thuyết phục chính mình là mọi việc rồi sẽ êm xuôi tốt đẹp, xuôi chèo mát mái. Cô thư ký hỏi:
Cô có thể cho tôi xem bằng lái xe?
Tôi móc bóp, lục soạn, lôi ra bằng lái xe cũ mèm của mình. Cái hình có dễ hơn mười năm. Tuổi mới qua hai mươi môi hồng mắt sáng. Mười năm qua tôi lái xe cẩn trọng giữ gìn, không hề bị một tờ giấy phạt, không gây tai nạn lớn nhỏ nào, nên vẫn chưa phải khăn gói đi thi bằng lái trở lại. Cứ vài năm tôi nhận được giấy báo, gửi đi cái chi phiếu vài đồng là an nhiên tự tại. Lái xe thì tôi ngó trước ngó sau, cẩn thận đàng hoàng như vậy đó, mà sao tôi lèo lái cuộc đời tình cảm của mình như kẻ say rượu ngất ngư. Cứ đụng vào bên phải, tông qua bên trái, leo lên lề cao, nhào xuống hố sâu. Đường xa lộ thênh thang thẳng tắp tôi không thèm đi, cứ hiên ngang chui đầu vào mấy ngõ cụt, đường cùng, nên không trầy trụa mình mẩy vì len lách thì cũng u đầu sứt trán vì đâm sầm vào tường vách, nhà phố. Tôi đã nỉ non than thở với chàng:
Anh ơi, em biết rồi mình sẽ cùng anh nắm tay rơi xuống chín từng địa ngục. Vậy mà sao em cứ tần ngần đứng đó. Bỏ không được, đi không đành…
Chàng cười, phân tích:
Ừ, thì tại em hiền lành thương người. Em sợ anh cô đơn. Em mà bỏ anh thì em sẽ được lên thiên đàng. Còn anh thì chắn chắn phải xuống địa ngục. Địa ngục và thiên đàng xa xôi cách trở nhau lắm, cưng ơi. Không có điện thoại. Không fax. Không modem. Không email… Đúng là mịt mù tăm tích.
Rồi chàng vuốt tóc, xoa đầu tôi, tỉ như tôi vẫn còn là con bé con ngây thơ, ngoan ngoãn năm nào.

Cô thư ký trao trả lại bằng lái xe, đưa cho tôi giấy vé máy bay trong phong bì, cười tươi tắn:
Cô đến cổng A6. Giờ bay là 1 giờ 6 phút. Chúc cô đi đường bình an.
Tôi mỉm cười cám ơn, bỏ giấy tờ vào ngăn ngoài của sắc tay. Một giờ sáu phút. Tôi vẫn hay tự hỏi cách sắp xếp giờ giấc của hãng hàng không. Cái gì mà một giờ sáu phút, hai giờ mười hai phút, ba giờ mười tám phút. Chỉ làm cho mọi chuyện có vẻ thêm lộn xộn và khó nhớ. Trong khi đó, theo kinh nghiệm của tôi, nếu máy bay cất cánh trong vòng một giờ đồng hồ như họ dự định là cả một chuyện đáng mừng.
Tôi xuống cổng A6, tìm một chỗ ngồi. Đồng hồ trên tay chỉ mười hai giờ rưỡi. Chắc sự chờ đợi cũng không lâu. Tôi vẫn yêu không khí nhộn nhịp ở phi trường, nhất là nhìn ngắm cảnh thân nhân đi đón nhau. Những nụ cười. Những vòng tay ôm. Những giọt nước mắt mừng tủi. Tôi và chàng đã sống qua nhiều bận đón đưa nhau như thế này trong mười năm qua. Vậy mà cũng không sao làm quen được với những tâm trạng bồi hồi níu kéo.
Tôi nhìn ra phi đạo. Nắng trưa oi nồng như bốc khói. Những người phu đang chất hành lý lên phi cơ, cử động nhịp nhàng một cách máy móc. Tôi mở tờ báo ra, cố đọc nhưng rồi vẫn nuốt không trôi chữ nào. Những hàng chữ mực đen nhập nhòa hỗn độn. Tin về cuộc khủng bố nơi một thành phố bên Trung Đông. Nạn đói kinh hoàng ở Phi Châu. Chuyện khai thác rừng thừa thãi ở Nam Mỹ. Tôi xếp báo lại. Toàn những tin không may làm mình thêm chán đời.
Lúc này tôi hay thở ra thở vào. Chàng gọi tôi hôm qua, giọng ân cần lo lắng trên điện thoại:
Dạo này em làm sao vậy? Sao lúc nào cũng có vẽ buồn buồn. Em vẫn ăn ngủ đều đặn chứ?
Tôi cười méo mó:
Em cũng không biết nữa. Anh thấy em buồn thật sao?
Chàng nói ừ, rồi hai đứa bỏ lửng ngang đó. Câu chuyện chấm dứt một cách vô duyên. Tôi kêu thầm trong lòng. Anh ơi, anh hỏi làm chi khi anh không sẵn sàng nghe câu trả lời của em. Có phải anh sợ nếu chờ thêm lâu chút nữa, em sẽ lôi ra trăm ngàn lý do đã khiến nụ cười em ngày thêm gượng gạo héo hon, mà lý do nào cũng dính liền một tên anh trong đó? Tôi lục đục ra vào trong căn nhà nhỏ của mình những đêm không ngủ được. Tôi ca hát nghêu ngao một mình, nhai đi nhai lại một điệp khúc cũ mèm “pour un regards, tu as voulu partir…”, đến đỗi Thư phải la lên:
Mi không ngủ thì để cho người ta ngủ nghê một chút. Muốn than trách ai thì tìm người đó mà than trách. Tại sao ta cứ phải chịu làm nạn nhân của những cơn mất ngủ của mi?…
Nói hung hăng như vậy nhưng Thư luôn luôn là người bạn tốt. Hai đứa đã thân thiết với nhau từ ngày còn ở trung học, từ ngày còn tóc bom-bê ngắn ngủn, xúng xính trong chiếc áo dài trắng đầu đời. Thư “già” hơn tôi ba tháng, và lùn hơn tôi nguyên cả một cái đầu. Nó hay gọi tôi và nó là Lý Toét, Xã Xệ. Tôi ghét cái tên này, chê nghe không thơ mộng, lãng mạn chút nào. Thư trề môi nhiếc mắng tôi:
Xí. Tối ngày cứ thơ với mộng như mi nên mới khổ đời.
Tôi và Thư cái gì cũng trái ngược nhau. Tôi sống mơ mơ màng màng bao nhiêu thì Thư thực tế bấy nhiêu. Thư thích nấu nướng nhưng không để ý đến chuyện trang hoàng nhà cửa. Còn tôi mà không có Thư ở chung thì chắc chỉ có nhà cửa đẹp đẽ vén khéo, cây cảnh tươi mát, mà bếp núc thì lạnh tanh ám khói. Thư hứa hôn với một anh chàng cũng hiền lành tẩn mẩn như nó. Tôi dám chắc hai người đã vạch ra luôn chương trình mai mốt sẽ cho con đi học đại học nào. Thư vẽ một đường thẳng băng tiến đến tương lai, rồi cắm cúi bước tới không thèm ngó ngang ngó dọc. Tôi khâm phục cái nhìn rõ ràng của Thư, nhưng không muốn sống cuộc đời đầy qui củ như Thư. Dù tôi cũng không biết mình muốn gì. Cuộc đời tôi xoay quanh quỹ đạo của chàng. Vui buồn theo con nước ròng nước lớn của hành tinh chàng. Chắc tại vậy nên càng ngày tôi càng mất ngủ thường xuyên.

Tôi không nhớ mình bắt đầu để ý đến sự hiện diện của chàng từ lúc nào. Mà chắc lúc đó tôi phải còn nhỏ lắm, cỡ sáu bảy tuổi là cùng. Chàng là bạn thân với ông anh lớn của tôi, bạn đâu từ hồi mới vào trung học. Nhà chàng cách nhà tôi một con đường. Trong tỉnh lỵ nhỏ bé mà tôi đã sinh ra và lớn lên, một con đường có nghĩa là cách nhau vài trăm thước. Nhưng mà trong thế giới trẻ con của tôi, vài trăm thước là xa xôi lắm, xa xôi như mười hai năm cách biệt giữa tuổi tôi và tuổi chàng. Chàng hay đến nhà tôi học hành, đàn địch, tán dóc với các anh của tôi. Tôi để ý đến chàng vì chàng có vẻ chịu khó chiều chuộng tôi nhất, trong đám con trai mới lớn đó. Mổi lần đến nhà, chàng hay khom lưng xuống, mời mọc:
Hạ có muốn hái ổi hay trứng cá thì leo lên lưng anh, khỏi mất công leo cây làm chi cho kiến cắn.
Một lần chàng bắt gặp tôi ngồi trên thềm nhà tấm tức khóc, chân cẳng sưng vù vì leo cây bị kiến vàng cắn. Hết chuyện cho tôi nhảy phóc lên lưng chàng để hái mận, hái ổi. Chàng lại vuốt tre làm một cây lồng xinh xắn cho tôi:
Khi nào không có anh thì lấy cái này mà thọc hái mận ổi. Đừng leo cây nữa. Con gái không nên leo trèo, vừa bị kiến cắn, vừa rách quần rách áo.
Những ngày luyện thi tú tài, chàng gần như ăn ngủ ở nhà tôi. Ba má tôi thuộc vào hàng hiếu khách, lại chiều chuộng con cái, nên nhà tôi lúc nào cũng tấp nập bạn bè thức đêm ròng rã để học thi, uống hết ly cà phê này đến ly cà phê khác. Khuya, nhiều khi muốn đỡ căng thẳng thần kinh, các anh lại rủ nhau ra sân đàn hát một hồi. Tôi đã đắm chìn vào những giấc ngủ chập chờn trong tiếng đàn hát lênh đênh ngọt ngào đó. Những Sérénade, những Célèbre Valse lãng đãng trôi vào đêm sâu mịt mùng, hóa thân thành những cọng rêu xanh bám đầy trên ghềnh thác chập chùng của đường tìm về ký ức sau này.
Rồi chàng và anh tôi cùng lên thành phố, tiếp tục vào đại học. Những mùa hè trở về tỉnh để học thi, chàng vẫn tìm đến túc trực ở nhà tôi như năm nào, cùng quây quần học hành với những người bạn cũ. Các anh hay rủ nhau ra vườn sau, trải chiếu nằm học dưới tàn cây măng cụt lao xao hoa nắng. Tôi cũng chiếm một góc chiếu, mượn viết màu xanh đỏ tím vàng của chàng để tô tranh, vẽ hình. Chán, tôi lại lang thang đi hái hoa ngâu, hoa lài về trải đầy trên chiếu. Đôi khi tôi mệt mỏi ngủ quên, tóc tai vướng đầy những cánh hoa úa nhầu tơi tả. Chàng gọi tôi là “cộng chúa ngủ trong vườn”. Nhà tôi trồng nhiều hoa ngâu, hoa lài để hái bán cho tiệm trà của người Tàu dưới phố. Tôi không biết uống trà, nhưng mê hoa ngâu, hoa lài từ dạo đó. Những nhánh hoa ngâu óng ả vàng tươi, mỏng manh như chùm trái lạ. Những nụ hoa lài trắng muốt thơm ngát hương về đêm. Tôi hay lẽo đẽo theo ba ra vườn lài mỗi chiều sau khi những công nhân hái hoa đã về hết, lựa chừng đầy một nắm tay những đóa hoa còn hơi bum búp. Tôi bắt chước ba, cũng bụm tay lại, đi tới lui, vừa đi vừa hít thở mùi hương nhẹ nhàng trong tay, rồi mang hoa về phòng để lên đầu giường ngủ mỗi tối. Khoảng nửa đêm, hoa lài bắt đầu hé nở, tỏa hương thơm nồng nàn khắp phòng. Hương hoa lài, hòa lẫn với mùi hương dạ lý thoảng nhẹ bên ngoài cửa sổ phòng tôi từng đêm, là những mùi hương quen thuộc ủ đầy trong giấc ngủ tuổi thơ của tôi ngày đó. Tôi đã chăm chút lựa những nụ hoa tươi tắn nhất để tặng chàng, dặn dò:
Anh đem về tối để bên gối nằm. Nhớ nghe. Thơm lắm đó…
Chàng mở lòng bàn tay nhận hoa, cười cám ơn:
Bé có tin là bông thơm thì hay có…ma? Biết đâu có cô ma xinh đẹp nào sẽ hiện về thăm anh tối nay, nhờ lòng tốt của bé.
Tôi mở to mắt nhìn chàng, nghi ngờ:
Làm gì có ma. Nếu có ma thì ba đâu có cho em để trong phòng. Ba biết em sợ ma…
Ừ, anh nói xạo đó. Ba phải biết nhiều hơn anh là cái chắc rồi.
Tôi gục gặc đầu lặp lại lời chàng:
Đó là cái chắc rồi!
Mùa hè năm sau nữa, chàng quen với chị Trà Mi. Và tôi bỏ ngang thói quen hái hoa lài để cạnh bên giường mỗi tối. Không có ma quỉ nào hiện ra quấy phá giấc ngủ của tôi, ngoài những nỗi buồn không tên tuổi, không rõ nét bắt đầu lởn vởn vây quanh. Những mẩu chuyện vụn vằn trao đổi giữa tôi và chàng lại có tên người khác xen vào:
Bé thấy chị Trà Mi ra sao?
Tôi dấm dẳn:
Ra sao là làm sao?
Thì bé thấy chị có dễ thương không? Đẹp không?
Thì cũng… đường được. Bộ anh thấy chị Trà Mi đẹp lắm hả?
Tôi nhìn chàng soi mói. Chàng không trả lời tôi mà ôm cây đàn guitar vào lòng, khải từng tưng, “chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng, có nàng thiếu nữ đẹp như trăng, mắt xanh là bóng dừa hoang dại…” Chàng hát say sưa. Tôi ngẩng đầu nhìn mặt trăng tròn vành vạnh trên đầu, lầm thầm. Mặt trăng mà đẹp nỗi gì, đặc biệt nỗi gì, tháng nào không có! Còn mắt mà như bóng dừa hoang dại nghĩa là làm sao? Vườn nhà tôi có hàng hàng lớp lớp những ngọn dừa đủ loại, đủ cỡ. Tôi có bao giờ nhìn ngọn dừa mà tưởng tượng ra được đôi mắt của ai bao giờ. Người lớn sao mà rắc rối khó hiểu! Tôi lượm một cành khô, vẽ vời lăng quăng trên đất. Có một cái gì đó gặm nhấm trong hồn tôi. Tôi nhìn bóng mình đổ dài trên nền gạch, coi nhỏ xíu và buồn thiu bên cạnh bóng của chàng. Vậy đó, mà biết bao nhiêu năm về sau tôi vẫn bị ám ảnh bởi phút giây này, qua từng mùa trăng oan nghiệt. Mỗi lần nhìn trăng, tôi lại gợi nhớ về một góc hồn sâu thẳm của chàng mà tôi không bao giờ có thể với tay chạm đến. Có phải vì chàng đã hát “có nàng thiếu nữ đẹp như trăng…” mà tôi thừa biết rằng chàng không bao giờ gửi gấm lời hát đó cho mình?

Tiếng gọi vang trên loa, mời hành khách lên phi cơ. Tôi bỏ tờ báo vào túi xách, theo đuôi đoàn người đi vào lòng phi cơ. Chuyến bay sẽ đến Chicago trong khoảng hơn ba tiếng đồng hồ. Đổi máy bay. Thêm hơn hai giờ bay nữa là tôi sẽ gặp chàng. Sẽ có với nhau vài ngày trong thành phố ồn ào nhưng hoa lệ đó. Chàng đã nói:
Anh đã dặn nhà hàng xong rồi. Sáng thứ bảy anh vẫn còn buổi họp, nhưng sau đó mình sẽ thong thả đi ăn cơm tối ở Tavern On The Green trong Central Park, đúng theo ý thích của em.
Chìu tôi không được ở những chuyện to tát lớn lao, nên chàng cố gắng chuộc lại những săn sóc nhỏ nhặt. Nào khác gì ngày xưa. Anh cho người ta cả một trái tim nồng nàn tình yêu thắm thiết, mà chỉ dành được cho em một khoảng lưng cong, một bờ vai đầy trong vài giây phút để em trèo lên đó hái mận, hái ổi, để em hong vội những ước mơ hoài vọng đầu đời. Anh thề hứa trao dâng cả một cuộc đời cho người ta trong khi em không đi được cùng anh một đoạn đường chung cho đúng nghĩa. Tôi thở dài. Mình lại bắt đầu suy nghĩ lung tung lang tang. Bởi vậy nên đêm nào cũng loay hoay trằn trọc. Có đêm Thư chịu khó mò dậy, lò dò theo tôi ra ngoài phòng khách:
Mi có muốn nói chuyện không?
Chuyện gì?
Trời đất! Chuyện gì thì mi biết rồi, đừng làm bộ ngây thơ cụ với ta. Rán thức theo mi đến lúc nửa đêm về sáng như vầy là ta đã thương mi quá sức rồi.
Tôi cười, nhìn mớ tóc dài rối rắm xõa đầy trên vai Thư:
Thôi thì rán chịu khó, để đức lại cho con cái sau này. Ta cho phép mi lấy tên ta đặt tên con đầu lòng cho mi tha hồ kêu rêu chửi rủa.
Thư đặt tách cà phê xuống bàn:
Lấy tên mi đặt cho con ta, lỡ nó lớn lên cũng điên điên khùng khùng, cũng mơ mộng tào lao như mi thì ta lại càng thêm mất ngủ nửa. Lúc đó, mới thiệt là nợ đời. Thôi, ta xin can. Chuyện mi và người ta ra làm sao nữa rồi? Có giận hờn gì nhau không đây?
Thì cũng vậy vậy. Làm gì có chuyện giận nhau. Chỉ có ta giận đơn phương hay không mà thôi, mi biết rồi…
Thư hớp một ngụm cà phê, dịu giọng:
Vậy thì chừng nào mi mới giận có đối tượng đàng hoàng đây? Hay muốn suốt đời làm người có trái tim từ bi quảng đại, tiếp tục yêu kiểu tình cho không, biếu không?
Tôi nhìn Thư cười méo mó:
Nếu ta tính được chuyện đó thì đã không bị mất ngủ dài dài. Chắc có cái đinh ốc nào lỏng lẻo trong cái tim ta. Nên bộ óc của ta thì nói một đường, trái tim ta cứ đi một ngả. Nó cứ kêu tích tắc, tích tắc, chàng ơi, chàng ơi…
Thư cười, lắc đầu:
Nhà cháy đến nơi mà mi còn giễu được. Cũng là một điều hay cho mi.
Trước khi trở vào phòng, Thư đứng lại hồi lâu ở ngưỡng cửa nhìn tôi bằng đôi mắt ướt mềm:
Ta chỉ muốn cho mi biết là khoa học gia đã chứng minh người ta yêu bằng khối óc chứ không phải bằng trái tim đâu, nhỏ ơi… Mi không biết gì hết, hèn chi mi cứ lộn xộn hoài.

Chị Trà Mi xinh đẹp và hiền hậu. Ai cũng nói như vậy. Ai cũng nói chàng và chị Trà Mi xứng lứa vừa đôi. Chị đi học trên thành phố, trường Luật. Trường đại học nên thơ của “con đường Duy Tân, cây dài bóng mát…” Trong khi đó tôi đã vào trung học, ngày ngày đi bộ dang nắng đến trường mà tìm hoài không ra con đường nào có cây dài bóng mát. Chỉ có những cửa hàng, phố xá, nhà cửa nối tiếp theo nhau. Mỗi ngày tôi qua lại hai lần, in trong óc những cảnh trí trên đường mình qua. Tòa giám mục. Ty cảnh sát. Bệnh viện. Nhà bưu điện. Đài chiến sĩ. Thương xá. Rồi trường học. Tôi đếm được đúng bốn cây sao già cao ngất, ngưởng cửa trước ty cảnh sát, rồi thôi. Tự dưng tôi đâm ra… mất cảm tình với cái nơi chôn nhau cắt rún của mình. Tôi thua thiệt đủ điều. Thì chị Trà Mi cũng lớn lên trong tỉnh lỵ này như tôi thôi. Nhưng chị may mắn đã sinh ra trước. Khi chị thành thiếu nữ duyên dáng yêu kiều thì tôi vẫn là con bé con khờ khạo với đầu tóc khét nắng, đầy vẻ rừng rú man khai. Khi chị yểu điệu thướt tha làm sinh viên đại học thì tôi và Thư chiều chiều vẫn rủ nhau leo lên cây trứng cá bên bờ lạch sau nhà, ăn một bụng thỏa thuê, rồi phân tích chuyện… tình yêu. Khi chị và chàng đổi trao thư tình nồng mặn thì tôi bị liệt vào hàng ngũ bị… sai vặt:
Hạ ơi, bé đưa dùm anh cái thư này cho chị Trà Mi nghe. Có thưởng.
Em đâu cần anh thưởng.
Tôi xụ mặt cầm lá thư, đạp xe đến nhà chị Trà Mi. Chị dọn về ở bên nội, trong ngôi nhà xưa rộng lớn và âm u, lành lạnh làm sao. Nhưng nụ cười của chị thì lúc nào cũng ngọt ngào ấm áp:
Anh chị làm bé mất công quá. Vô nhà chơi, chị có cái này cho bé.
Chị Trà Mi bắt chước chàng, gọi tôi là bé. Không lẽ tôi cấm chị không được gọi mình là bé, nhưng tiếng gọi vẫn làm tôi muốn co rúm người lại với cái giận dữ không đâu. Tôi lí nhí:
Em phải lại nhà nhỏ bạn. Thôi em về…
Tôi quay đầu xe lại, tất tả đạp ra khỏi cổng nhà chị. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh chàng đã gò lưng ghi chép bài vở cho chị sau khi nhà chị bị cháy tan hoang hôm tết vừa qua. Ngay cả trong sự mất mát, chị Trà Mi cũng vẫn may mắn hơn tôi. Nước mắt đâu đó bỗng thầm lặng ứa ra. Em đâu cần gì kẹo ngọt bánh thơm của chị. Em đâu cần gì chị phát cho chút thức ăn mọn hèn mỗi lần em làm công tác đưa thư. Thứ em cần, chị đã vô tình cướp mất mà không biết, không hay. Em đã mất những đêm ngủ vùi yên bình trong mùi hương hoa lài ngây ngất. Em đã mất những mùa trăng thơ mộng từ ngày trăng mang hình ảnh chị trong mắt chàng. Nghe ngược ngạo biết chừng nào chưa, là em cảm thấy đã mất mát những gì mà em chưa hề có.

Năm tôi vào lớp mười, chàng học xong bằng tiến sĩ và bàn chuyện cưới hỏi với chị Trà Mi. Ngày cưới của hai người, tôi bỏ về quê thăm ngoại. Tôi biết mình không có tài đóng kịch, nên không dám ở lại nhà để chờ đến giờ chót mà giả vờ ngã bệnh, xin cáo lui. Tôi càng không thể xum xoe quần áo, ăn diện bảnh bao như các chị của tôi để đi dự đám cưới của chàng. Chị Tố Lan cằn nhằn:
Con này kỳ cục. Anh Nguyên cưng chiều mày bao nhiêu năm nay, mà giờ tới ngày đám cưới anh mày lại đùng đùng đòi về thăm ngoại.
Chị Như Bích tỏ ra thông cảm hơn:
Thì nó lớn rồi, nó muốn đi đâu thì đi chớ. Hơn nữa, ngoại cũng đang bệnh, thôi để nó về quê hú hí với ngoại vài ngày.
Nó về dưới đó nhõng nhẽo với ngoại thì có. Nó sẽ bắt ngoại nấu một trăm thứ chè cho coi. Con này là chúa nhõng nhẽo mà!
Buổi sáng đám cưới của chàng và chị Trà Mi, tôi nằm lì trên võng ngoài sân nhà ngoại, kẽo kẹt đưa võng cả ngày, lơ đãng ngắm nhìn lũ thằn lằn đuổi nhau trên trần nhà. Tôi cố không nghĩ đến những buổi tối tràn ngập tiếng cười đùa, ca hát trong sân nhà năm nào. Tôi cố không nghĩ đến những bụm tay nâng niu hoa lài trắng muốt mang tặng chàng. Tôi chìm vào giấc ngủ trưa nặng nề trong cái tịch mịch của đồng quê, trong tiếng xào xạc của những tàu lá chuối bên hiên nhà. Trong chiêm bao, tôi thấy mình lớn hẳn, dịu dàng là lượt trong áo dài gấm đỏ lắc rắc những chữ thọ màu vàng óng ả, tóc búi cao giấu vào trong khăn hoàng hậu kim tuyến lóng lánh quấn ngang đầu. Tôi cười tươi như hoa hồng ngậm sương buổi sớm, ngập ngừng bước đến với chàng. Tôi run run ngẩng nhìn vào đôi mắt chàng hân hoan chào đón. Nhưng sao khuôn mặt chàng cứ nhòa nhòa như chìm vào trong sương, không mang hình thù nào rõ rệt. Rồi đôi mắt chàng chợt nhòe nhoẹt loãng tan, dần dà biến hút vào màn sưong đục mờ ảm đạm. Chỉ còn khuôn mặt trống không, chập chờn hư ảo. Tôi chới với kêu gào. Nguyên ơi, Nguyên ơi…

Ba năm sau, tôi nghe tin gia đình chàng vượt biên. Tàu bị đắm khi vào gần đến bờ biển Nam Dương và chị Trà Mi chết không tìm được xác. Chàng thoát được vào bờ với đứa con nhỏ ôm trong tay. Tôi không biết như vậy là chị Trà Mi may mắn hay bất hạnh. Chị chết vì chị hiền lành nên sớm dứt nợ đời, hay chị bị định mệnh tàn nhẫn ra tay cướp đi những ngày hạnh phúc chưa kịp đến. Tôi đã cố tình không muốn biết tin tức gì về gia đình chàng, sau khi chị Trà Mi theo chàng rời tỉnh lỵ về nhận nhiệm sở ở một thành phố khác. Nên tôi không biết tình yêu đó có đưa đến một cuộc hôn nhân hạnh phúc như trong truyện cổ tích. Hoàng tử cưới công chúa trong một ngày hội hè linh đình trọng đại, rồi hai người sống đời đời hạnh phúc bên nhau, con cái đầy đàn, đứa nào cũng học giỏi, ngoan hiền, chăm chỉ. Hoàng tử không hề theo bè bạn rủ rê ăn nhậu. Công chúa không hề biết giận dữ cau mày, không đập ly, ném dĩa. Hoàng tử luôn ngọt ngào tình tứ.
Công chúa luôn dịu ngọt tươi cười…
Tôi gặp lại chàng vài năm sau, trong một cuộc họp mặt vào ngày sinh nhật ông anh lớn của tôi. Anh Tâm ra vẻ bí mật khi nói chuyện qua điện thoại:
Hạ sẽ có một ngạc nhiên lớn…
Mà tôi ngạc nhiên thật. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại chàng sau bao nhiêu
năm. Vẫn nụ cười ấm áp hiền lành. Vẫn lối nhìn xoáy hút vào hồn tôi. Đuôi mắt chàng có vài vết nhăn mơ hồ. Mái tóc chàng có vài sợi bạc lấm tấm. Nhưng trái tim tôi vẫn đập hối hả, rối nhịp. Tay chân tôi vẫn luống cuống, thừa thãi như ngày nào khi đứng xớ rớ bên cạnh chàng. Nhưng bây giờ, ít nhất, tôi đã biết nguyên do. Chàng đứng trước mặt tôi, nghiêng đầu cười dịu dàng:
Bé Hạ của anh đây phải không? Em lớn mau thật. Anh không ngờ…
Bảy năm rồi, không lẽ anh bắt em nhỏ hoài…
Nhưng em vẫn có lối nói chuyện với anh giống hệt như ngày xưa. Có nhắm mắt lại anh cũng nhận ra giọng nói, lối nói chuyện đặc biệt của em bất cứ lúc nào.
Hình như đó là câu khen. Tôi cười lúng túng. Chung quanh là bao nhiêu khách khứa lạ, quen, mà hốt nhiên tôi bỗng thấy như chỉ còn mình mình trơ trọi. Với chàng. Chàng níu tay tôi, hỏi han:
Đời sống của em bây giờ ra sao? Tâm nói em mới dọn về đây…
Em mới học xong thì tìm được việc làm ở đây. Sẵn có gia đình anh Tâm, anh ấy kêu em về ở gần cho có anh có em…
Buổi tiệc kéo dài đến khuya. Tôi lãng đãng đi trong sương mù từ nhà trước đến nhà sau, từ phòng ăn qua phòng khách. Không quen uống thứ gì khác hơn ngoài trà và nước lạnh, chút xíu champagne ngọt nồng cũng làm đầu óc tôi vật vờ ngầy ngật. Tôi bỏ đám đông, tìm lối ra sau vườn, ngồi thu người trên cái băng gỗ kê dưới gốc cây già sum sê cành lá. Mặt úp trong tay, tôi lắng nghe cơn say dịu dàng len lõi vào từng mạch máu nhỏ li ti trong người mình. Cảm giác thật bềnh bồng dễ chịu. Chàng tìm ra tôi trong tư thế đó, gọi khẽ:
Hạ, anh đây…
Chàng ngồi xuống cạnh tôi. Có chú chim nào đó vừa giật mình tỉnh thức, hốt hoảng bay đi làm xô động những cành lá lao xao trên đầu. Tôi ngẩng lên, nhìn vào đôi mắt chàng long lanh trong bóng tối nhàn nhạt vây quanh. Chàng thở nhẹ:
Nhìn thấy Hạ đêm nay, anh bỗng nhớ nhà kinh khủng. Anh nhớ những đêm thức khuya học bài với Tâm. Anh nhớ mùi hoa lài trong tóc em…
Tôi lao đao, chực ngã. Mùi hoa lài trong tóc em. Tức là chàng có nhớ. Dù chỉ một thoáng nào đó thôi, nhưng chàng có nhớ. Hay có lẽ chàng vẫn nhớ nhiều hơn tôi hằng tưởng. Và tôi cũng nhớ mãi đến nhiều năm về sau, lúc khuôn mặt quen thuộc của chàng ghé xuống cận kề, hơi thở chàng ấm nồng gây gây trên má, và đôi môi chàng ngọt ngào áp nhẹ lên môi tôi. Nụ hôn cuống quít mà dịu dàng, xôn xao mà đầm thấm. Tôi nhớ toàn thân mình đã run rẩy, bàng hoàng, tê điếng trong vòng tay siết chặt của chàng. Giọng nói chàng chìm hẫng vào đêm sâu mơ hồ, vướng víu đâu đó trong dòng tóc buông, đậu khẽ đâu đó trên đôi môi mềm:
Hạ ơi, Hạ ơi…
Tôi biết chàng đã có gia đình khác. Tôi gặp vợ chàng vài lần trong những buổi họp mặt tiệc tùng ở nhà anh tôi. Người đàn bà da trắng, tóc vàng, đôi mắt xanh lơ màu thủy tinh trong suốt. Tôi trò chuyện với vợ chàng vài lần, không thân mật vồn vã, cũng không hoàn toàn lạnh lùng khách sáo. Tôi chỉ muốn giữ một khoản cách nào đó để có thể gạt ngang hình ảnh của người ấy ra ngoài trí nhớ những khi tôi nằm trong vòng tay chàng, thì thầm nói chuyện yêu đương.
Tôi và chàng không thể gặp gỡ nhau thường xuyên, ngoài những cuộc điện đàm, thư qua thư lại hàng ngày trên computer. Một năm vài lần, chàng báo tin:
Anh sẽ đi họp ở Las Vegas (hay New York, paris, London, Zurich…) vài ngày. Em có thể thu xếp để gặp anh bên đó hay không? Anh sẽ dặn vé máy bay cho em…
Hết chín mươi phần trăm là tôi lại xin phép đi nghỉ hè, lại lui cui ôm hành lý ra phi trường và bay đến một thành phố nào đó trên thế giới. Chàng sẽ đón tôi ở một phi trường xa lạ, ôm tôi vào lòng, vùi mặt trong tóc tôi thì thào, “nhớ em gần điên cuồng…” Tôi và chàng lại có vài ngày giả vờ làm vợ chồng khắng khít yêu thương. Như thế, kéo dài đã gần mười năm. Thư sốt ruột nhìn tôi đắm chìm nổi trôi trong mối tình không định hướng với chàng. Chị Tố Lan thắc mắc:
Sao không thấy mầy quen với ai. Tính tới chừng nào mới chịu lấy chồng cho ba má yên tâm đây. Ai cũng đâu vô đó. Còn có mỗi mình mày!
Tôi cười cười, lạy trời cho ba má tôi sống thọ trăm tuổi. Hy vọng tới ngày đó tôi sẽ biết cuộc đời mình đi về đâu. Tôi trả lời với chị kiểu huề vốn:
Em còn trẻ măng. Ở đây sáu, bảy chục tuổi người ta còn yêu nhau, còn làm đám cưới rình rang tưng bừng, mặc áo đầm trắng đàng hoàng. Tình yêu đâu cần biết đến tuổi tác già trẻ. Thân xác có cằn cỗi tới cỡ nào đi nữa, thì trái tim muôn đời cũng vẫn biết rung động yêu thương. Có gì đâu mà gấp gáp…
Chị Tố Lan kêu trời:
Con này ăn nói lãng xẹt như bà khùng. Chỉ tại ba má cưng mày là đứa út ít trong nhà, nên bây giờ mày mới kỳ cục không giống ai.
Vậy chớ tới ba đứa con gái trong nhà, mà chuyện gì em cũng phải làm giống như hai chị thì còn gì là… thay đổi không khí?
Chị Như Bích lại ra tay can gián:
Thôi, cho tao xin. Đời đứa nào nấy sống cho êm nhà êm cửa. Con Lan muốn vui vẻ hầu chồng hầu con thì tự tiện. Con Hạ muốn thành gái già nhong nhỏng ăn chơi thì cho nó nhong nhỏng ăn chơi. Cái gì mà phải cãi cọ um sùm.
Chỉ có vợ anh Tâm là nhìn tôi cười ý nhị. Bà chị dâu này tinh tế và hiểu biết. Có thể là chị đoán già đoán non được điều gì đó, nhưng tế nhị nên không bao giờ đá động hỏi han đến chuyện đời tư cá nhân của tôi. Lâu lâu, chị ân cần nhìn tôi:
Cô Hạ vẫn vui vẻ đó chứ?…
Trời, tôi đâm ra ưa giọng nói Bắc kỳ dịu ngọt săn đón của chị làm sao. Tôi không dám thố lộ với ai khác trong gia đình về chàng, vì không tin tưởng vào sự cảm thông của người nào. Nhưng bà chị dâu của tôi đã từng làm eo làm sách khi gia đình chị không muốn gã chị cho anh Tâm. Ba me chị ở tận ngoài Đà Nẵng đã càu nhàu:
Thiếu chi người để lấy, mà đi chọn chi cái thằng ở mãi tận trong Nam xa tít mù…
Chị dọa bỏ nhà theo anh Tâm, nên ba me chị phải giơ tay đầu hàng cô con gái rượu. Cái con người lãng mạn trong tôi vẫn thầm phục những kẻ hiên ngang, dám cãi lệnh cha me, dám… sống chết vì tình yêu như chị.

Tavern On The Green buổi tối vẫn là khung cảnh tuyệt vời như trong trí nhớ. Trăm ngàn bóng đèn điện nhỏ xíu, lấp lánh như sao giăng được mắc đầy trên những tàn cây cổ thụ bao quanh khuôn viên nhà hàng. Vách tường và nóc nhà đều là những khung kiếng lớn, trong suốt, luôn làm cho tôi có cảm tưởng như mình đang ở giữa trời cao, lửng lơ bay bổng trong vũ trụ bát ngát mở rộng chung quanh. Buổi tối ở Central Park, ít nhất là trong vùng này, luôn luôn có một vẻ lôi cuốn quyến rũ thật kỳ quặc đối với tôi. Những chiếc xe ngựa lộc cộc gõ đều trên mặt đường nhựa, thầm lặng qua từng lối đi giữa vũng sáng đậm nhạt trong công viên. Những bóng lá chao động nhẹ nhàng, khép nép.
Buổi chiều, tôi và chàng đã ngồi trong taxi, đi một vòng thành phố. Lúc ngang qua khu Broadway, tôi bỗng nghe buồn bã đến thẫn thờ. Tôi đã biết hí viện Schubert không còn đó nữa, nhưng vẫn ngoái mắt trông tìm. Tưởng như còn thấy dáng dấp ngơ ngác khờ khạo của mình trong ngày sinh nhật thứ hai mươi hai, áo quần là lượt, môi cười rạng rỡ, mắt sáng reo vui, đứng bên chàng đâu đó dưới tấm marquee của A Chorus Line. Tôi nhớ đêm sinh nhật thứ hai mươi hai ngồi quấn quít bên chàng ở Window On The World, nhìn mây trắng la đà đùn thấp chung quanh. Hai đứa kiên nhẫn ngồi chờ một chút cửa mây mở hé, để tôi được nhìn tòa Empire State Building uy nghi sáng rỡ trên nền trời đêm. Rồi cửa mây cũng mở. Tôi cũng nhìn được tòa nhà lộng lẫy tắm đẫm ánh đèn vàng rực rỡ chói chang, như nhìn thấy thiên đường trong chiêm bao. Chàng cười hồn nhiên, hớn hở ôm vai tôi:
Thấy chưa, anh đã nói em sẽ có một ngày sinh nhật hoàn toàn. Happy birthday!…
Những ngụm champagne nồng nàn. Những môi hôn nồng nàn. Đêm sinh nhật thứ hai mươi hai, tôi trao tặng mình món quà tôi đã kiên nhẫn chờ đợi bao nhiêu năm trời. Tôi nằm ngoan ngoãn trong vòng tay chàng đêm đó, với những giọt nước mắt sung sướng long lanh lăn tròn trên má, thì thầm nói lời cám ơn chàng. Tôi bắt đầu uống cạn những men say ngọt ngào của hạnh phúc. Và nếm vội những mặn đắng của tình yêu.

Trên đường ra khỏi nhà hàng, chàng ghé qua cửa hàng nhỏ bên cạnh, mua cho tôi cái ly thủy tinh bé xíu với hàng chữ Tavern On The Green, viết bằng nét bút mềm lả lướt. Chàng cẩn trọng bỏ gói giấy vào sắc tay tôi:
Để em làm kỷ niệm.
Tôi nghe vai mình bỗng nặng nề, trái tim mình bỗng nặng nề. Có phải vì tôi cứ đeo mang bao nhiêu thứ kỷ niệm ngổn ngang trong lòng từ ngày yêu chàng, và vẫn còn tiếp tục gom góp kỷ niệm dọc theo đường đi? Người ta sống. Người ta yêu. Còn tôi là con nhỏ suốt đời chỉ đi nhặt nhạnh kỷ niệm, ấp ủ tàn tích. Nên thấy trĩu nặng đôi vai. Tôi bỗng nhìn thấy mình như tấm gương soi đang ở trước mặt. Tôi bây giờ có khác gì tôi bao năm về trước. Tôi chỉ đánh đổi những chùm hoa ngâu, những bụm hoa lài bằng bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh khác. Ly rượu thủy tinh để nhớ một cuối tuần của mùa thu New York. Bức tranh màu nước của đường phố Paris để nhớ buổi chiều trên Mont-martre cùng chàng ngồi nhìn thiên hạ qua lại từ những bậc thềm dài trước Sacré Coeur. Mặt dây chuyền hình trái tim xinh xắn để nhớ buổi sáng viếng thăm San Marino cổ kính u trầm nằm giữa những núi đồi và thung lũng của vùng biển Adriatic. Tôi nghe tiếng mình chầm chậm thở dài. Chàng kéo cái khăn quàng bằng len, âu yếm choàng qua vai tôi:
Em làm sao vậy? Lại suy tư đến chuyện gì rồi?
Tôi im lặng, vì biết chàng chỉ hỏi, nhưng không chờ đợi một câu trả lời. Chàng không thật sự muốn biết những gì đang xâu xé trong lòng tôi. Hay có lẽ vì chàng đã biết quá nhiều. Như bao nhiêu năm về trước. Nhưng không thể nói được gì hơn bởi vì có những điều chắc tôi không muốn nghe, chẳng hạn như những mùa trăng yêu thương trong hồn chàng đã chết theo người thiếu nữ năm nào.

Phan Bá Thụy Dương
Tình khúc
nếu mai em về
1.
nếu mai em có về xóm biển
thả gió về trời cho mây bay
bên con suối ngọc mơ màng ngủ
cho tóc em nồng hương cỏ may
nước mắt mẹ –
có rơi dài đêm tối?
nỗi niềm cha –
còn u ẩn tháng năm?
em – em đó sầu dâng mấy độ
ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm
2.
nếu mai em có về quê cũ
đánh thức dùm tôi nhánh ô môi
đang rủ sắc buồn bên song cửa
với giàn bông giấy đắm sương mai
có băng qua bãi,
băng qua suối
theo tiếng thì thầm trong khói mưa
mặc gió hững hờ rung tà áo
đã quên sầu,
hết xót xa chưa
3.
nếu mai em có về xóm biển
hãy thắp dùm tôi mấy nén nhang
cho bạn bè trên đường bỏ xứ
lỡ trầm mình dưới đáy đại dương
thắp thêm nhiều nén trên bia mộ
cho thân bằng quyến thuộc anh em
đã ngã gục qua lằn tên mủi đạn
thủa chiến chinh chia cắt đôi miền
4.
nếu mai em có về quê cũ
đọc lại tình thư đã nhạt màu
mà dư lệ đã lem nhòa trang giấy
với muộn phiền chất ngất lao đao
đò qua xóm vắng ai xuôi ngược
có chở đầy trời thương nhớ không
mộng hồn nào vấn vương tóc rối
gót chân sen em có động chiều hồng?

Dương Thượng Trúc
Chén rượu ngậm ngùi.

Nghiêng chai dốc hết ra từng giọt…
Ta uống đêm này cho thật say.
Đất ngả trời nghiêng, ta quên tuốt.
Quên luôn số kiếp kẻ lưu đầy.
Hãy nói nữa đi, thằng bạn cũ,
Nói về ngày tháng lắm gian nan,
Gạo sấy, lương khô mà thấy đủ,
Ầm ầm pháo địch vẫn cười vang.
Những đêm say khướt trong nhà thổ,
Đốt tuổi thanh xuân, chén rượu nồng
Rồi mai ngất ngưởng trên trận địa.
Thét gào man rợ tiếng xung phong.
Nhắc lại những đêm nằm gối súng,
Nhìn trăng mơ bóng Giáng Kiều xinh.
Đầm đìa sương lạnh, vai ướt sũng.
Mà ấm trong tim, một chút tình.
Còn nữa… những khi về dạo phố,
Em cười e ấp, dáng hiền ngoan.
Ôi! Bước chân son còn bỡ ngỡ.
Sao hồn ta lạc chốn địa đàng.
Đời của chúng mình, người lính chiến.
Một thời ngang dọc, giữ quê hương.
Giờ mang thân phận thằng lưu lạc.
Nhìn lại non sông luống đoạn trường.

Tình này
xin gởi khói mây

Chiều về, nắng tắt ven sông,
Một người vời vợi ngóng trông một người.
Tìm đâu cá nước chim trời.
Mong chi hạnh phúc giữa đời hỗn mang?
Yêu thương giờ cũng ngỡ ngàng.
Hẹn thề thôi cũng giữa đàng gió bay.
Ngọt ngào đâu? Chỉ đắng cay
Tình này xin gởi khói mây hững hờ.
Nhịp đập nhỏ nhoi
Bởi yêu em anh mơ thành thi sĩ.
Tập gieo vần với hai chữ tình yêu.
Để từng đêm hồn chìm trong mộng mị.
Mơ dáng hình em tha thướt mỹ miều.
Bởi yêu em anh muốn thành nhạc sĩ.
Dệt cung tơ ru giấc ngủ em nồng.
Âm thanh nào hát lên lời chung thủy.
Để ngàn sau anh vẫn mãi chờ mong.
Bởi yêu em anh mong thành văn sĩ.
Trải tình mình trên trang giấy trinh nguyên.
Những câu văn thêm ngọt ngào hương vị.
Để tình anh như giọt nước Cam Tuyền.
Bởi yêu em anh muốn làm tất cả.
Chỉ vì em và chỉ có em thôi.
Dẫu tim em có lạnh lùng băng giá.
Anh sẽ làm một nhịp đập nhỏ nhoi.

Dương Thượng Trúc
Thủy Gia Trang
Wichita KS – 2010.

Lê Hữu Minh Toán
Em cứ đi

Ừ thôi, em đi có sao đâu
Lời phân bua nước chảy qua cầu
Trăng sặc sụa co ro đáy nước
Chút vô ưu vọng động nỗi đau.

Em giận ta bảo em nhún nhảy
Đâu khác chi ví với ngựa trời
Ta vốn thật không cần đưa đẩy
Có gì đâu, chua ngọt một đời.

Mưa tháng giêng ướt mềm tóc rối
Em cuối trời đắm đuối môi hôn
Ta đưa em, hồ sầu chới với
Những tình xa, tình nhớ, tình buồn.

Em cứ đi và cứ quay về
Không níu kéo cầm bằng níu kéo
Nếu em còn vương chút đam mê
Bờ tục lụy có ta cuối nẻo…

Chỗ nối đường vui
Vui để sống

Ngồi buồn suy gẫm chuyện hên xui
Sướng khổ trên đời cũng tại tui
Tranh chấp hờn ghen toàn vị đắng
Thứ tha nhẫn nhục ngát hương bùi
Nghe điều xằng bậy tai vờ điếc
Thấy chuyện thị phi mắt giả đui
Hãy cố yêu người vui để sống
Sầu đau oán hận bệnh không lui…

Yên Sơn
Lâu rồi
đời người cũng qua

Xin cười với nhau nụ cười độ lượng
Để làm hành trang khi phải ra đi
Cuộc sống hèn sang ngẫm lại ích gì
Sau khi bước chân qua cầu sinh tử.

Xin cười với nhau nụ cười thân thiện
Để khỏi đau lòng, hối hận về sau
Đời sống mỏng manh cũng sẽ qua mau
Lắm lúc xuôi tay không hề báo trước.

Xin cười với nhau nụ cười hỷ xả
Khó khăn ích gì chỉ bận lòng thôi
Lấy lượng từ bi ngăn giọt lệ rơi
Xóa thù hận bằng khoan hồng tha thứ.

Tưởng tiếc

Ai không muốn một đời chim soãi cánh
Tung tăng bay cùng đất rộng trời cao
Đêm vô cùng, đêm huyền hoặc trăng sao
Ngày tiếp nối ngày, bốn mùa mưa nắng

Có ai muốn sống một đời thầm lặng
Ở quê người mục rã với cỏ cây
Quê hương thân yêu rên xiết từng ngày
Dưới ách thống trị của loài quỷ dữ

Ba mươi sáu năm làm thân lữ thứ
Bóng thời gian ôi nghiệt ngã, vô tình
Nhớ quê hương rồi soi lại chính mình
Mắt trĩu nặng cho trái sầu rụng xuống

Thế là đã gần một đời… oan uổng
Chí làm trai! Nợ cơm áo xứ người
Nhớ bầu trời xưa, tưởng tiếc, ngậm ngùi
Cánh đã gãy, vết thương còn mưng mủ.

Yên Sơn

Cù Hòa Phong
Kỷ niệm quê hương

Quanh đây trời nắng ban trưa
Vắng em vắng cả cơn mưa ban chiều
Dấu chân anh bước đìu hiu
Houston nắng hạ nhớ chiều lá thu.
Bổng dưng nhiều gió, âm u
Cơn mưa lũ tới đếm từ dấu xưa.
Em yêu viết mấy cho vừa
Đêm này bên đó là trưa nắng vàng.
Gọi em tiếng gió ngân vang,
Đậm tình non nước, xóm làng quê hương.
Thương nhau nhớ cả con đường
Em đi dấu đất còn vương ân tình
Quê hương kể chuyện chúng mình
Sông Kôn nước biếc in hình bóng ai.
Một thời chân đất thở dài
Bước lê trên ruộng tìm vài bữa ăn.
Ngày đêm gió hú trở trăn
Thương hình bóng cũ mượn văn tả đời.

Tâm Thanh
Đám mây bên kia hồ Mjosa

Tôi không dám nhìn lâu vào đôi mắt của Gunnar, nó khẩn khoản quá. Tôi phải nhìn sang bên kia hồ Mjosa, nơi có dẫy núi phủ mây trắng, dường như quanh năm. Mỗi lần có điều khó nghĩ tôi thường nhìn sang bên đó, dù đó là thắc mắc của đứa bé bảy tuổi không biết viết thư cho Ông Già No-en phải gián tem bao nhiêu, có bớt giá cho con nít không hay câu hỏi của một đứa con gái dậy thì nên mua cái áo hở ngực tới đâu.
Vấn đề hôm nay không phải là con tem, cái áo, mà tình yêu, hạnh phúc – Gunnar hỏi cưới, tôi phải trả lời ra sao. Gunnar đang tình cờ ngồi đúng cái ghế da mà ba tôi ngồi hôm đó, và tôi thì lại tình cờ ngồi đúng cái ghế da chị Lên ngồi, cái hôm kỳ cục đó. Chính ba tôi hôm đó, tại đây, đã gieo trong tôi nỗi nghi ngờ về tình yêu. Trong bao nhiêu năm nỗi nghi ngờ ấy ám ảnh trong người tôi, miên kỳ như mùi ngai ngái trên da bò.
Thế này:

Lên là chị em con dì với tôi, con lớn của dì Hoa. Chị có thân hình như một nữ lực sĩ bơi lội. Mỗi lần theo ba má tới thăm gia đình tôi, việc đầu tiên là chị tung tôi lên trời ba lần. “Nữa đi!” tôi cười khanh khách nói. Và chị tung ba lần nữa. Sau đó chị lên phòng khách ngồi nói chuyện với ba trong khi mẹ và dì Hoa vào thẳng bếp chuyện trò và nấu phở. Những người khác, như chồng dì Hoa và mấy anh chị lớn, ngồi trong phòng TV nói chuyện, uống bia, uống nước ngọt, trước cái tivi mở để không.
Tôi nhảy vào lòng chị Lên, hóng chuyện, mặc dù không hiểu lắm ba và chị Lên nói gì. Thì thường là chuyện học hành và tập aerobic của chị Lên, chuyện báo đăng chó sói ăn thịt cừu, chuyện một tên cướp ngớ ngẩn, đánh cắp bưu điện để người ta tóm cổ tại chỗ.
Có lần hai người tranh luận con bò có răng hay không, ba nói bò không răng, chị Lên nói có răng… Tôi thầm đồng ý với chị Lên rằng con bò có răng mới gặm cỏ được, nhưng tôi im lặng, nghe sau lưng thân hình nẩy nở và rắn chắc của chị, khác hẳn thân hình nhỏ và mềm của mẹ.
Trong số những người bà con bên mẹ tôi, ba tôi không thích nói chuyện với ai cả; ba chê họ nói tiếng Na-uy dở quá, mà lại hay nói to, điếc cả tai; ba chỉ thích nói chuyện với chị Lên.
Tôi để ý lúc nói chuyện với chị, ba tươi tỉnh khác thường. Chị Lên hay vuốt tóc khiến tôi buồn ngủ, tai lơ mơ nghe tiếng nói đều đều của hai người xen kẽ với tiếng cười vang trong lồng ngực to của chị Lên.
Có lần tôi nghe loáng thoáng ba đề nghị để ba tập lái xe cho chị Lên, và chị rất hào hứng, hai người hẹn ngày giờ nơi chốn. Lần khác ba khen chị Lên đẹp. Chị nói chị chẳng có cái gì đẹp. Ba nói bữa nào đi hồ tắm với ba, ba sẽ chỉ cho coi chị đẹp chỗ nào. Chị cười khanh khách nói “Có vợ rồi mà còn nói nhảm.” “Mặc kệ, giết vợ để lấy Lên tôi cũng sẵn sàng,” ba trả lời. Tôi nói hôm đó là cái hôm kỳ cục là vì thế.
Sau đó, chị Lên có đi hồ tắm với ba và có đi học lái xe với ba hay không, tôi không rõ. Chỉ biết có lần vợ chồng dì Hoa tới nhà tôi nói chuyện gì, với vẻ rất trầm trọng. Không có chị Lên. Mẹ và dì Hoa to tiếng với nhau rồi cùng khóc. Tôi chỉ hiểu một chút tiếng Việt, và chỉ nghe người lớn nhiều lần nhắc con Lên thế nọ con Lên thế kia.
Còn chữ “ông ấy” tôi hiểu là ba.
Từ đó chị Lên đi biệt tích. Gia đình dì Hoa không tới nhà tôi nữa. Tôi nhớ chị lắm, ngày tôi chịu phép Thêm Sức chị không tới dự, tôi hỏi chị đâu thì người lớn trả lời chị đang ở bên Mỹ. Nhiều năm về sau, khi bắt đầu có bạn trai, tôi mới tình cờ biết rằng chị Lên đi Mỹ thật, nhưng chỉ chừng nửa năm lại quay về, cặp với một người Thổ.
Chị sang Thổ-nhĩ-kỳ ở một năm, được một đứa con trai. Chị bị gia đình chồng ngược đãi, phải nhờ tòa đại sứ Na-uy can thiệp giải cứu về lại Na-uy. Cũng nhờ tòa đại sứ can thiệp chị mới mang được cả đứa con về.
Tôi gặp lại chị trên xe điện ở Oslo, cùng với một đứa con trai tóc quăn tít và ngổ ngáo (lúc mới gặp nó lè lưỡi nhát tôi, đến khi quen, nó giựt đứt sợi dây ngọc trai của tôi, may mà ngọc trai giả). Chị kể về mười năm luân lạc, không bi thảm lắm so với những điều tôi đã nghe qua dì Hoa hoặc người ngoài kể. Nhưng rất sôi nổi. Gặp cuộc đời sôi nổi như thế, chắc chắn tôi không chịu đựng nổi. Thấy tôi chăm chú nhìn vào cái bụng dềnh dàng, chị cho biết bây giờ chị đang ở với một ông người Bosnia cư trú bất hợp pháp; cái bầu là của ông này. Chị không nhắc gì tới ba. Tôi không hỏi ngoài thằng bé tóc quăn đang ngồi bên cạnh và đứa con trong bụng, chị còn đứa con nào nữa không.
Về nhà tôi không nói với ba má việc tình cờ gặp chị Lên ở Oslo. Ba mẹ vẫn sống chung, ăn uống chung, đi xe chung… Tôi không muốn nếp sống ấy đổi khác đi, trở ngại việc học hành của tôi. Nhưng ba càng làm ra không có việc gì xảy ra, tôi càng thấy lợn cợn trong lòng. Trong trái tim tôi. Cử chỉ lời nói của ba đối với chị Lên khiến tôi nghi ngờ tình yêu.

—o0o—

“Cecilia! Em có nghe anh nói không?” Gunnar kéo tôi về thực tại.Tôi rời ánh mắt khỏi dẫy núi bên kia hồ, quay lại nhìn Gunnar. Anh vẫn nhìn tôi chờ đợi.
“Dạ, em nghe,” tôi trả lời.
“Sao em không đáp?”
Phải, lẽ ra tôi phải vui mừng đáp “Dạ” ngay khi Gunnar ngỏ lời hỏi có bằng lòng cưới anh không. Chúng tôi quen nhau từ cuộc cắm trại chuẩn bị lễ Thêm Sức, rồi thân thiết trong nhiều năm; trong bụng tôi vẫn mong chờ giờ phút anh ngỏ lời. Nhưng tại sao khi anh ngỏ lời, lòng tôi không thể vui mừng như mong đợi?
“Gunnar! Em bối rối lắm,” tôi đáp. “Anh tha lỗi cho em, em không trả lời bây giờ được.”
“Tại sao? Có điều gì trở ngại?”
“Dạ không, hoàn toàn không.”
“Em có yêu anh không, Cecilia?”
“Anh biết là em yêu anh.”
“Vậy tại sao em không trả lời ngay mà lại bắt anh chờ đợi?”
“Em cần thời gian suy nghĩ.” Tôi vớ được một lý lẽ xem ra vững chắc. “Chúng ta phải xét xem hai đứa đã sẵn sàng kết hôn chưa.”
“Chỉ cần em hứa một lời, rồi bao giờ đám cưới cũng được,” Gunnar nói xong, ngả người ra sau. Mái tóc nâu vàng tươi của anh chạm vào chùm hoa hồng vân trắng, loài hoa mà mẹ lấy giống từ Pháp về và đặt tên là hoa ti-gôn. Bạn bè Việt Nam của mẹ có vẻ thích cây hoa này lắm; còn ba thì cười vì mấy bà Việt Nam chỉ khéo thần thoại hóa một loài hoa vô danh.
Gunnar nghiêng người về phía trước, cầm ly cà-phê.
“Cà-phê nguội rồi,” tôi nói. “Để em rót mới cho anh!”
Anh không từ chối. Tôi vào bếp đổ cà-phê cũ và rót mới cho anh. Anh uống một hớp nhỏ, hình như nóng quá, đặt tách xuống nói, giọng trở lại bình thường:
“Mình đi dong thuyền buồm nghe em?”
Tôi nhìn ra ra hồ nói thẫn thờ
“Hôm nay sao nhiều buồm vậy?” Rồi tôi lẩm bẩm “Tình yêu không thể coi thường được.” Anh ngơ ngác, vì không nghe hoặc nếu nghe thì không hiểu hai câu nói không ăn nhằm gì với nhau và không trả lời vào câu hỏi của anh như thế. Hồi này tôi hay như vậy, anh cũng biết.

—o0o—

Bề ngoài tôi chỉ có vài nét giống mẹ – vành môi chúm và ngón chân cái to khác thường. Còn màu tóc nâu, màu mắt xanh, nước da trắng tôi giống ba. Tuy nhiên mẹ tôi thường hãnh diện nói với bạn bè, “Nó Việt Nam lắm!”.
Còn tôi lại lo sợ giống mẹ, sợ chung số phận đàn bà với mẹ.
Tôi ghét sự cúi đầu chịu đựng của mẹ. Đáng ghét nhất là tôi cảm thấy đúng như mẹ nói – tôi có tâm hồn Việt Nam (Việt Nam là cái gì thì tôi chưa xác định được).
Dì Hoa kể mẹ tôi là cô gái đẹp nhất trong số những người tị nạn Việt Nam đầu tiên tới Na-uy. Mẹ đẹp và dễ thương tới nỗi có một ông thuyền trưởng ngày nào cũng mang quần áo, thực phẩm tới trại tạm cư để được nhìn mẹ, nói vài câu tiếng Pháp với mẹ. Hôm nào mẹ đi học tiếng Na-uy về trễ, ông cứ ngồi trong phòng khách, bồn chồn chờ đợi.
Có lần cô giáo đưa cả lớp đi coi nhà bảo tàng rồi đi picnic, ông chờ lâu quá, buồn tay, đem cái giỏ mây của mẹ đan giở ra nghịch.
Bây giờ mẹ và dì Hoa cứ còn tiếc nuối cái thời người Na-uy quí người tị-nạn Việt Nam như vàng, con nít ra đường họ cho tiền, người lớn lên xe công cộng đôi khi họ cho đi miễn phí, các hội từ thiện thay phiên nhau tới ủy lạo. Ông thuyền trưởng buồn tay đan hết mấy cái giỏ mây mà hội Hồng Thập Tự bày ra cho các bà các cô trong trại làm để có thêm chút tiền túi; bắt đầu bằng cái giỏ của mẹ, rồi sang mấy cái của các bà khác.
Các bà về thấy thế, cười ré lên, các cô hát bài “Anh là thủy thủ”. Ông không hiểu tiếng Việt nhưng biết bị chế diễu, mắc cỡ, nói với nhân viên trực trại “Xin lỗi, tôi quên!” Các bà các cô chưa tha, hỏi “Quên cái gì?”, rồi lại cười ré lên. Nhưng không bao giờ ông quên mẹ.
Sau khi mẹ lấy ba, ông vẫn chưa lấy vợ. Vài người quen Việt Nam tò mò hỏi, ông trả lời thẳng “Tôi chỉ yêu Hương thôi.” Hương là tên mẹ tôi. “Vậy chứ sao hồi đó ông không nói sớm?” một người cắc cớ hỏi ngay trong đám cưới mẹ. Ông trả lời “Tôi tưởng tình yêu không cần nói bằng lời.” Lại có người hỏi “Hồi đó sao ông biết cái giỏ nào là của Hương?” Ông trả lời “Biết chứ, nó thơm và đẹp.”
Vậy mà hai người không lấy được nhau – chỉ vì một người ít lời một người giữ ý. Ba tôi thì dư lời.

—o0o—

Ba tôi gặp mẹ lần đầu khi mẹ đi lãnh tiền ở ngân hàng mà quên đem căn cước. Mẹ đứng năn nỉ với cô nhân viên ngân hàng “Bây giờ tôi về lấy giấy căn cước trở lại thì ngân hàng đóng cửa mất tiêu rồi. Xin cô tin tôi một lần đi. Tôi là người lương thiện mà!” Sự kiên nhẫn của cô ngân hàng chỉ làm cho cuộc nói chuyện kéo dài thêm, chớ không cho phép cô vượt qua thể lệ. Bỗng một người đàn ông từ văn phòng đi ra, thấy mẹ, dừng lại nghe cuộc đối thoại. “Ông ơi!” mẹ kêu cứu. “Có việc gì vậy, thưa cô?” ông hỏi. Mẹ nói “Ông! Ông làm ơn bảo đảm cho tôi là người lương thiện được không?” Ông mặc đồ lớn đó nghe mẹ nói, bật cười, đưa bút ký tắt vào ô “Căn cước” trên tờ ngân phiếu. Mẹ lãnh tiền xong, nhìn vào trong, thấy ông mặc đồ lớn còn đứng ở cửa văn phòng nhìn ra, gật đầu mỉm cười. Mấy tháng sau, tình cờ, trong một buổi tiệc hội Lion khoản đãi người tị nạn Việt Nam, ông giám đốc ngân hàng gặp lại “cô gái lương thiện” lộng lẫy trong chiếc áo dài. “Trên đời tôi chưa thấy ai đẹp như cô. Tôi muốn cưới cô,” ba nói sau nửa giớ nói chuyện.
Sau khi chị Lên bỏ nhà ra đi một thời gian ngắn (lúc đó tôi
bắt đầu học lớp năm tiểu học), ba tôi quen bà Bodil mà ba bảo tôi phải kêu bằng tata.
Không có một thỏa thuận nào, dù thầm kín, nhưng tôi vẫn coi những buổi đi chơi nhà tata là việc hoàn toàn riêng tư giữa ba với tata, không liên quan gì tới mẹ, không cần kể với mẹ.
Nhà tata lại hấp dẫn hơn, sẵn đồ chơi, nhiều phim hoạt họa, và có con chinchilla. Khi tata mua thêm con nữa thì hai con làm chuyện trống mái tự nhiên trước mặt mọi người.
Một lần, vuốt ve bồng bế con chinchilla mềm mại lù đù mãi cũng chán, tôi định xin ra ngoài đạp xe với lũ trẻ trong xóm. Mở cửa phòng ngủ, tôi thấy ba nằm chung giường với tata. Tata một tay kéo mền che ngực, tay vẫy tôi lại, mi một cái, rồi xua ra ngoài. “Người lớn không khác gì mấy con chinchilla,” tôi nghĩ trong khi thả xe phăng phăng xuống giốc.
Khi tôi thành con gái lớn, ba ít rủ tới chơi nhà tata, nhưng tôi biết hai người vẫn đi lại mật thiết. Tôi cũng bắt đầu cảm nhận ra rằng mối liên hệ giữa ba và tata là một việc thầm lén, nhưng không có cam đảm mách mẹ, sợ mẹ rầy sao không nói sớm. Tôi bỏ qua câu chuyện một bên luôn.
Ông nội tôi rất giầu, có để lại cho ba một hòn đảo riêng, trên có hai cái nhà nghỉ mát, có bến tầu riêng. Ba nói sẽ chia đôi, cho tôi một nửa, một nửa cho hai người anh cùng cha khác mẹ của tôi. Mùa hè năm đó, ba hỏi mẹ có ra đảo chơi không, mẹ bận đi ăn thôi nôi con một gia đình Việt Nam. “Vậy anh đi với con Cecilia,” ba nói, và sửa soạn lên đường ngay. Ba hối hả quẹo xe lên đón tata cùng đi.
Tôi thấy tata làm tóc mới và diện quần áo đẹp, trông trẻ trung như một cô gái. Đi hơi vội, nên mặc dầu mẹ có chuẩn bị đồ ăn cho cha con, nhưng lại quên nhét theo cái áo thung của mẹ. Tôi có cái tật phải kề mũi vào cái áo cánh có hơi mẹ mới ngủ được, dù đã mười lăm mười sáu tuổi đầu.
Tối hôm đó, không có cái áo cánh, tôi nằm trằn trọc hoài, nghe con thuyền va kềnh kệch vào cầu tầu. Mặt trời không chịu lặn, mấy con hải âu cũng không chịu đi ngủ, cứ kêu réo ngoài ghềnh.
Cuối cùng tôi nghĩ ra một điều: tôi đổi sang cái phòng ngủ bữa trước mẹ nằm, có thể còn hơi mẹ. Phòng này sát vách phòng ba và tata. Qua vách gỗ, tôi nghe rõ hai người trửng dỡn bên kia và trong những lời trửng dỡn có câu nói của ba “Giết vợ để lấy em, anh cũng sẵng sàng!” Tôi khóc nghẹn ngào.

—o0o—

Gunnar cột giây buồm, lại ngồi bên tôi, nói:
“Nếu không lấy được em, anh thà chết dưới hồ này!”.
Hai người đàn ông quan trọng nhất trong đời tôi, người thì đòi giết vợ để đi phiêu lưu, người thì đòi chết nếu không được gắn bó. Bề nào chăng nữa, tình yêu của họ là giông bão, hủy diệt. Lòng tôi không yên ổn.
Một lần nữa tôi trì hoãn:
“Vậy mình sang bên kia hồ đi, Gunnar nhé!”
Tôi nhích sang bên, nhường tay lái cho anh. Dẫy núi bên kia thấp nhô trên đám mây như con tầu khổng lồ trôi trên sóng bạc.
Thuyền buồm băng qua hồ và trở về bình an; như thường lệ. Sự bình an này trước nay tôi không để ý. Thấy tôi về, mẹ ôm chầm lấy mà khóc:
“Con đi đâu vậy? Ba bị bệnh vô nhà thương rồi!”
“Ba bị gì vậy, mẹ?” tôi hoảng hốt.
“Mẹ không biết. Ba mẹ đi phố về, ba kêu mệt đi nằm. Mẹ làm bếp xong vào phòng coi ba thì nghe ba ú ớ, rồi im luôn, mẹ hỏi, lay không trả lời. Mẹ kêu xe cứu thương…”
Chúng tôi vào nhà thương, thấy ba đã tỉnh, nhưng sút hẳn người đi, như bệnh từ nhiều tháng nay. Mẹ khóc, vuốt vuốt những chấm đỏ trên mu bàn tay ba, nói:
“Bác sĩ nói sao, ông?”
“Ung thư máu.”
“Ông ơi! Ông đừng chết nghe!”
Nhìn ánh mắt mẹ khi đút xúp cho ba, nhìn nụ cười của mẹ khi cắt móng chân cho ba và đưa bàn chân ông lên mũi hửi, tôi thương mẹ quá, và hối hận xưa nay coi bà Bodil là tata.
Bà Bodil cũng biết tin dữ. Bà ngang nhiên vào thăm ba như một người thân. Mẹ hỏi ba:
“Ai vậy, ông?”
“Người quen.”
“Quen ra sao? Sao chưa bao giờ tôi gặp mặt?“
Mặt ba sượng trân, trông rất kỳ cục, tránh nhìn mẹ, quay sang tôi, như cầu cứu. Tôi không hiểu sự cầu cứu đó có nghĩa gì – tôi nói ra sự thật giùm ba hay giấu biệt.
Cuối cùng, chán ngán sự giả dối, tôi kể hết sự thật cho mẹ nghe khi chỉ có hai mẹ con ở nhà. Mẹ nghe một cách bình tĩnh khiến tôi phát sợ.
Tôi giấu không nhắc câu nói “Giết vợ để lấy em anh cũng sẵn sàng”. Bởi vì tôi biết nếu tôi nói ra mẹ có thể chết được, không cần ai giết.
Hôm sau chúng tôi lại chạm mặt bà Bodil trong nhà thương. Mẹ nhịn nhục không nói gì. Ngược lại bà Bodil còn khiêu khích:
“Ở đây dư một người đàn bà!”
Mẹ không mau mồm miệng như người ta, không biết trả lời sao cả. Lúc đó bà Bodil ngồi trên ghế kê sát giường bệnh, mẹ đứng cuối giường, tay xách giỏ đồ ăn. Tôi nắm tay mẹ để xác định tôi đứng về phe nào.
“Người dư là bà!” tôi gằn từng chữ.
Mẹ xiết chặt tay tôi hơn nữa. Bodil không ngờ phản ứng của con bé mà lâu nay bà tưởng đặt lòng trung thành nơi ‘tata’ hơn người mẹ da vàng.
“A! Thì ra rau nào sâu nấy!” Bodil nói giọng khinh khỉnh, tay nắm tay bệnh nhân, tay vuốt mái tóc hoa râm của ông.
Tôi cho rằng chỉ mẹ tôi mới có quyền vuốt tóc ba. Tôi định tiến tới kéo tay Bodil ra, nhưng mẹ biết ý, trì tay tôi lại, nói:
“Để cho ba con yên!”
Rồi mẹ kéo tay tôi ra ngoài hành lang, ngồi chờ. Chờ cho tối mịt bà Bodil vẫn không ra, mẹ xách giỏ cơm đi về.
Sáng hôm sau, xảy ra một điều không bao giờ mẹ chờ đợi – ba yêu cầu mẹ ký giấy xin ly dị. Mẹ và tôi theo Công giáo, ba theo Quốc giáo Tin lành. Hơn nữa mẹ tôi là người đàn bà Việt Nam xưa cũ. Tôi biết rằng mẹ dễ dàng chấp nhận cái chết nhưng không bao giờ chấp nhận và tưởng tượng có ngày mình phải ly dị. “Chồng bỏ mình cứ bám lấy, bỏ được sao?” Mẹ lý luận như thế đó.
Mặc dù thống kê nói cứ một trăm cặp lấy nhau thì có gần năm chục cặp thôi nhau, mẹ thường nói rằng năm mươi phần trăm đó rơi béng đi nơi khác, không bao giờ rơi vào giữa mẹ với ba.
“Ly dị à?” mẹ ngẩn ngơ. “Sao ông không chờ khỏe đã?”
“Bà thông cảm cho tôi,” ba thiểu não.
Mẹ cầm cây bút có huy hiệu quen thuộc ngân hàng của ba.
“Mà tôi đã làm gì nên tội?” mẹ khóc.
Tôi cực kỳ bối rối. Vừa thương mẹ vừa thương ba. Nhưng hình như tôi lo sợ ba chết quá đến nỗi quên nỗi đau đớn của mẹ, quên tức cho sự khờ dại nhu nhược của mẹ. Và dường như chính mẹ cũng quên nỗi đau đớn của mình, hoặc không lường được tầm quan trọng của ngòi bút sắp sa xuống. Như một cái máy, mẹ nức nở đặt bút xuống tờ giấy:
“Xưa ông đã ký bảo đảm cho tôi là người lương thiện!”
“Kìa ba! Kìa má!” tôi rên rỉ, trong tuyệt vọng.
Ba làm như không nghe, không thấy. Ba quay mặt vào tường. Dường như ba cũng đau lòng, nhưng không đau lòng đủ để đổi ý, cản má lại. Tôi tưởng tượng nếu bây giờ má đau lòng mà chết, ba cũng lừng lững mà đi con đường của mình. Có phần nào thật trong câu nói ghê gớm của ba. Của đàn ông!
Má ký xong, oà khóc chạy ra ngoài, tôi theo dìu má ra xe.
“Mẹ để con lái xe cho,” tôi nói.
Trên đường về, tôi cứ bị ám ảnh vì câu nói của ba “Giết vợ để lấy em anh cũng sẵn sàng”. Người như ba, nhu nhược ngay trong tình yêu, chắc không dám giết ai; nhưng ông giết niềm tin của tôi vào tình yêu.
Suốt thời gian ly thân, mẹ như sống trong mơ, cứ tưởng ba sẽ đổi ý. Lâu lâu mẹ lấy quần áo sạch của ba đem giặt, ủi, xếp ngay ngắn. Mẹ làm chả giò bỏ tủ đá chờ ba về bất ngờ. Đêm mẹ không khóa cửa, ngày đi làm để chìa khóa nhà trong thùng thư. Mỗi tối mẹ bắt tôi quỳ trước bàn thờ cầu nguyện, xin Chúa can thiệp soi lòng soi dạ cho ba hồi tâm. Nhưng ba không quay lại. Ba nhất định ly dị.
Ly dị xong, ba làm lễ cưới với Bodil liền. Trên giường bệnh. Lễ cưới xong, Bodil không tới nhà thương nữa.
Một tuần sau, ba chết trong tay mẹ.
Bà quả phụ Bodil chỉ xuất hiện để nghe luật sư công bố chúc thư. Theo di chúc, hòn đảo của gia đình chia hai, một nửa phía nam với nhà nghỉ mát trên đó thuộc hai người anh cùng cha khác mẹ với tôi, nửa phía bắc cũng có nhà nghỉ mát và bến tầu thuộc về người vợ chính thức hiện tại, Bodil. Biệt thự mà ba mua để ở với Bodil trong những tháng cuối đời thuộc về bà, đương nhiên, vì đứng tên bà. Mẹ con tôi được tiếp tục ở và làm chủ ngôi nhà bờ hồ.

Ba mất được ba tháng thì bà Bodil đi lấy chồng khác, nghe đâu hôn lễ cũng cử hành trên giường bệnh. Người hằng ngày ra thắp nến trước mộ ba, là má. Tôi giận ba, không thắp nến.
Má giảng giải “Ở Trên Đó cái lòng người ta không như dưới dương thế này nữa đâu con ơi.”

—o0o—

Mẹ định để tang người chồng phụ bạc ba năm. Trong thời gian để tang, mẹ không son phấn, và dè dặt tối đa trong việc giao thiệp với đàn ông.
Mỗi lần ông thuyền trưởng tới, mẹ bắt tôi ngồi cạnh. Lần đầu tiên thấy mặt người đã đeo đuổi mẹ mình trước khi mình ra đời, tôi có cảm giác rất lạ. Như là tôi nằm trong bụng mẹ mà dòm ra thế giới. Lạ lùng hơn nữa là tôi thấy gần gũi ông ngay, như một người cha.
Tôi bưng cà-phê ra, ông nhìn một cách thân ái, nói cám ơn. Cái nhìn của ông dành cho tôi khác hẳn cái nhìn trước đây ba dành cho chị Lên, mặc dù tình cờ ông ngồi đúng cái ghế da ba ngồi. Còn mẹ ngồi trên cái ghế chị Lên ngồi hôm đó. Tôi định bỏ vào bếp thì bị mẹ kéo lại ngồi kề bên. Miễn cưỡng tôi phải chứng kiến cho một lời tỏ tình:
“Tôi sắp về hưu,” ông ngập ngừng. “Ước nguyện duy nhất của tôi là được nắm tay bà đi vòng quanh thế giới những năm còn lại.”
Tôi nhìn hai bàn tay ông đan nhau để trong lòng, và mường tượng hai mươi lăm năm trước chúng đan ‘cái giỏ thơm’ để chờ đợi. Tưởng chờ vài tiếng mẹ đi học về đã đủ, lại chờ một phần tư thế kỷ. Bây giờ ông vẫn đan tay chờ đợi.
Mẹ lặng đi hồi lâu, mặt đỏ hồng không son phấn. Tay mẹ vò chéo áo. Mẹ cố lấy giọng bình thản:
“Ông đi đây đi đó cả đời chưa thỏa sao?”
“Đi một mình có tới đâu đâu…”
Thấy câu chuyện tới hồi đậm đà, tôi gỡ tay mẹ, khoác áo ra khỏi nhà. Tôi xuống bờ hồ ngồi trên tảng đá quen thuộc nhìn sang bên kia. Đám mây thiên thu như xây bằng cẩm thạch. Tôi biết mình sẽ phải nói gì với Gunnar.

Xuân Bích
Về đây

về đây thành phố buồn
trong cơn mưa hoàng hôn
bóng người ngơ ngác đứng
trên đường mòn cô đơn

khoanh tay lặng nhớ đời
ngập ngừng trong mưa rơi
ô hay chiều thứ bẩy
một mình ta xa xôi

về đây giữa hàng cây
lá vàng theo gió bay
da trời hâm ý nghĩ
bụi mưa giăng vơi đầy

một mình như năm xưa
như những đêm giao mùa
như chưa bao giờ thế
để thấy vẫn là chưa

mùa này nắng lấy chồng
em ngày cũ buồn không
bao giờ thêm gió lạnh
chắc thấu tình mùa đông

hôm nay là bây giờ
ngày qua như giấc mơ
mai sẽ là hiện tại
em và ta bao giờ

trên ven đồi dại điên
một tình yêu say thiền
bên cây đời hoang phế
cho nụ cười bình nguyên

xin mãi là

xin nhau cứ mãi thờ ơ
dường như ai cũng giả vờ khi yêu
nếu như ta nói thật nhiều
người nghe chắc cũng chẳng liều tin ngay
giữ cho nhau một vòng tay
hơn là chiếc nhẫn trong ngày thành hôn
khi yêu gán cả linh hồn
để mua chỉ một mồ chôn vô hình
xin ai cứ mãi làm thinh
để cho giọt lệ một mình rơi hoang
thế gian đâu phải địa đàng
mà sao trái cấm mọc sang bên này

xin ai đừng đến nơi đây
để riêng ta một vòng vây ơ hờ
nếu như đau khổ là thơ
thì ta vẫn hái những hờ hững xanh
mấy khi gương vỡ lại lành
thì sao nỡ đập tan tành bóng xưa
đôi khi ta cũng dối lừa
tìm quen trong dáng lạ chưa gian tà
xin tình yêu cứ mù lòa
để ta sờ soạng đường ra một chiều

xin nhau vẫn mãi người yêu
để ta vẫn thấy nhớ nhiều hơn thương
sáng nay thành phố mù sương
trong ta trắng lạnh một phương sông hồ
chia tay rồi có bao giờ
nhìn trong trống vắng chiều ngơ ngác chiều.

Kiệt Tấn
em về

hạ vàng hạ vàng nắng
chiều qua chiều qua mau
đường quanh đường quanh vắng
ngõ đón ngõ đón chào

tà áo tà áo trắng
vờn lao vờn lao xao
trời im trời im ắng
én vù én vù cao

đường hiu đường hiu gió
lá xạc lá xạc xào
gót son gót son nhỏ
bước về bước về mau

sông tĩnh sông tĩnh lặng
dòng nao dòng nao nao
chuông chùa chuông chùa vẵng
mưa rạt mưa rạt rào

trúc thưa trúc thưa vắng
gió thổi gió thổi ào
đường không đường không nắng
chiều nôn chiều nôn nao
mây chìm mây chìm lặng
trời mưa trời mưa rào
giọt trĩu giọt trĩu nặng
em về em về mau

ngày phai ngày phai màu
chiều xanh chiều xanh xao
trời mưa trời mưa nặng
em về em về mau
em về em về mau.

nghe đời trống trơn

hoàng hôn đã khuất sau đồi
còn đâu đêm nữa em ngồi bên ta
còn đâu giọng nói thiệt thà
còn đâu mùa cuối nguyệt tà liễu xanh
một mùa mưa đã tan tành
phai hương dạ lý khuất vành trăng khuya
quạnh hiu sương xuống đầm đìa
xua hơi buốt giá chia lìa đông tây
paris đó đà lạt đây
mai kia mốt nọ vẫy tay biệt mù
cuối đêm tình đã tạ từ
thôi em ở lại riêng tư góc trời
ta về lặng tiếng im hơi
vai co đầu cúi nghe đời trống trơn.

Trường Thy
HUẾ, một quê hương tình tự

Huế, một quê hương miền Trung nước Việt, nằm giữa hai vựa lúa gạo – đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Thuở niên thiếu, khi còn ngồi trên ghế nhà trường chắc chúng ta vẫn thường nghe trong giờ Sử Địa, khi nói về hình thể nước Việt Nam vẫn từng ví giải đất dài và hẹp của miền Trung như chiếc đòn gánh, hai đầu là hai bồ lúa, gạo. Kinh thành Huế, một công trình kiến trúc kéo dài hàng mấy chục năm dưới thời vua Gia Long.
Trên bình diện lịch sử mở mang bờ cõi, hình ảnh người công chúa đời Trần, đã vì đại nghĩa gác lại tình riêng cho quê hương có được giải đất thần kinh mà ngày nay mỗi khi nghe khúc hát tâm tình “Nước Non Ngàn Dậm Ra Đi…” ai mà không thấy ngậm ngùi thương mến người con gái Việt Nam da vàng, Huyền Trân Công Chúa. thậm chí cho đến ngày nay, sau bao nhiêu năm trường, chúng ta vẫn nghe và vẫn nói về cuộc tình Việt-Chàm ấy. Có người như Tiêu Vũ Vi, khi viết về “Tình Sử Huyền Trân” cũng đã khơi nguồn cảm mến qua những vần thơ:
Đất Vìệt nghìn thu bia sử xanh
Hai châu Ô, Lý một Huyền Trân
Má hồng thương nước thân nào quản
Chiêm quốc Đồ Bàn biệt cố nhân!

Giờ xin tạm gác lại những tích sử của cố đô Huế để mường tượng lại giải đất quê hương với Huế đẹp, Huế tình và Huế thơ. Huế với cái tên thật ngắn nhưng lại thật nhiều ý nghĩa và thật dài nhớ nhung. Tản mạn một chút về chữ HUẾ, một từ gồm 3 mẫu tự: H, U, Ê; theo triết lý Đông Phương thì nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vô cực (vạn vật), như vậy con số 3 có nghĩa là nhiều lắm, nhiều như ý, tình của Huế vậy. Trong truyện Kiều cụ Nguyễn Du nói đến niềm nhớ của Thúy Kiều hướng về Thúc Sinh (Thúc Kỳ Tâm) đã dùng thiên nhiên dể vẽ lên chữ “Tâm” trong đó cũng chỉ nói có 3 sao:
Đêm khuya gió lọt song đào
nửa vầng trăng khuyết ba sao giữa trời.
Ngoài ra chữ H xin là mẫu tự đầu của chữ HƯƠNG, sông Hương, chữ U có thể là u buồn hay u trầm, sau cùng mẫu tự E bắt đầu cho chữ EM, bởi nói đến Huế mà thiếu Em là mất đi một phần của Huế. chẳng thế mà từ xưa, từ lâu lắm rồi thì phải, trong dân gian đã có câu:
Học trò trong Quảng ra thi
thấy cô gái Huế chân đi không đành.
Thiết nghĩ chẳng cứ gì học trò xứ Quảng mà có lẽ học trò hay chẳng là học trò đi nữa và ở bất cứ phương trời nào trên giải đất hình chữ S nói riêng, thậm chí các bậc vương tôn, công tử cũng đã từng mang “trái tim không ngủ yên” một khi mái tóc thề phủ trên vai áo trắng dài thướt tha trên hè phố, qua nhịp cầu Tràng Tiền, hay vành nón che nghiêng nơi cổng trường Đồng Khánh đã nhập vào hồn khách một cách vô tình hay cố ý. Để chứng minh điều ấy, trong dân gian cũng đã có lần ghi nhận:
Cô gái Kìm Luông đẹp mỹ miều
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi.
Ngoài ba mẫu tự nói trên, dấu mũ trên chữ E tượng trưng cho chiếc nón, nón trên đầu em, và nói đến Huế không thể không nói đến “Nón Bài Thơ”, rối dấu sắc (’) hẳn là ngầm ý Huế Đẹp. Huế không phải chỉ là Hương mà còn là Sắc nữa.
Với Huế, cảnh đẹp, cái đẹp của thi ca, của tâm hồn hơn là cảnh sắc bề ngoài. Huế với những địa danh đầy gợi cảm cho các hồn thơ trong sáng tác cũng như cảm xúc, nào là: Hồ Tịnh Tâm, Thôn Vỹ Dạ, Bến Văn Lâu, Lầu Tàng Thơ, Dòng Hương Giang, Cầu Tràng Tiền v.v., nữ sỹ Bích Khê viết về cảnh Huế qua dòng sông Hương đã để lại cho tao nhân mặc khách nhiều ấn tượng sâu xa:
Dòng Hương in gái nguyên lành
Lá thuyền du khách thanh thanh tiếng đờn
Nhà thơ miền Nam, Đông Hồ, vào năm 1939, một lần đến Huế cũng đã để lại những dòng cảm xúc thật trữ tình, vừa đẹp, vừa thơ, vừa rất Huế:
Dòng nước sông Hương chẩy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ.
Thi hào Nguyễn Du khi làm quan ở Huế lại nhìn Hương giang với đôi mắt đầy u uẩn như chứa chan nỗi buồn thương tiếc của người vừa trải qua một cuộc bể dâu, một thời hưng phế:
Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
(Hương giang trăng một mảnh
Lai láng sầu cổ kim)
Huế, cái nôi của bao cuộc tình đằm thắm, ai đã từng ở Huế, đã từng đến Huế, đã từng có những đêm trăng với Huế, và đã từng thao thức với Hương giang, hẳn đã từng bùi ngùi, xao xuyến với những câu hò như rót vào hồn khuya:
Bên chợ Đông Ba tiếng gà gáy sáng
Bên làng Thọ Lộc tiếng trống sang canh
giữa dòng Hương tiếng sóng khuynh thành
đêm khuya một chiếc thuyền tình ngửa nghiêng
Huế còn là nơi ấp ôm những sử tích nên có những ngòi bút đã ru hồn lịch sử vào kho tàng văn học như nhà thơ đất thần kinh, Ưng Bình Thúc Giạ Thị trong mấy câu hò mang đầy sầu nhớ:
Chiều chiều trước Bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
thuyền ai thấp thoáng bên sông.
Và cho đến hôm nay có những người thơ còn thương cảm, trải lòng mình trên những sóng quê hương trôi dạt vào qúa khứ để khêu gợi lòng ái quốc như một ước mơ tình sử, đốt nén hương trầm nghi ngút dâng lên hồn dân tộc qua những vần thơ “Tưởng Nhớ Vua Duy Tân”:
Ước chi tới bến sông Hương
đốt nhang mà lạy nắm xương lưu đầy
thế là đã trở về đây
một con người tận chân mây cuối trời
tấm thân phiêu bạt quê người
linh hồn vẫn ở lại nơi quê nhà
ngai vàng vừa cũ vừa xa
ánh vàng vương miện cũng là hư không
mặt trời vẫn mọc đàng Đông
lăng minh quân vẫn dựng trong lòng người
bao triều vua phế đi rồi
người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ.
Mấy nhà thơ Mới như Hàn Mặc Tử, thế Lữ, Văn Cao, Nguyễn Bính v.v. cũng đều đã cảm Huế, viết về Huế. Huế đẹp và tình tứ, gợi cảm đến độ Hàn Mặc Tử phải thắc mắc như giục giã, như sợ ai đó mất đi dịp may thấy Huế:
Sao anh không về thăm thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
vườn ai mướt qúa xanh như ngọc
lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Huế với Nguyễn Bính, chỉ “Vài Nét Huế” song lại là những nét tiêu biểu mà hầu như ai cũng nhớ, cũng nhắc đến mỗi khi nghĩ tới hay nói về Huế, những sắc mầu, những dáng vẻ đượm tình giai nhân:
Ở đây áo tím riêng mầu
Bài thơ nón mỏng che đầu mỹ nhân
Loanh quanh xóm vắng đường gần
ấy ai làm dáng phi tần với ai.
Đến Huế rồi lại xa rời Huế, có người thầm yêu và nhớ Huế để rồi những phút “tha hương ngộ cố tri” sao có thể cầm lòng được mà không có Huế trong những câu tâm sự, ôn lại kỷ niệm xưa; có người lại buông trải niềm nhớ nhung ấy trên những trang giấy, trong làn phát tuyến. Đó là điều đã hiển nhiên, song Huế thơ mộng và tình tứ, quyến rũ đến độ có người như nhà thơ quân đội Hoàng Ngọc Liên đã cảm Huế và yêu Huế, viết về Huế ngay lúc còn ở Hà Nội, chưa biết Huế, đã nói về “Mưa xứ Huế” từ năm 1953, hai ngàn năm trăm năm mươi lăm ngày trước khi đến Huế lần đầu (1960):
Nghe em nói về xứ Huế
Mơ màng biết hẹn tìm đâu
Em kể: sông Hương man mác
thuyền trôi dòng nước nao nao
……………………………………..
Sau nhiều mùa thu xa em
Tôi được đến thăm xứ Huế
Chân bước trên cầu Tràng Tiền
thời gian sao qua mau thế!
để rồi:
nhìn em khuất sau cửa Thượng
mờ mờ xứ Huế mưa rơi!
Huế, những gì còn lại của Huế, người đi vẫn thấy nhớ về; những gì không còn nữa, chưa hẳn đã quên ngang, bởi nó vẫn tồn tại trong ký ức người đi cũng như người ở lại. Điển hình như Bến Đò Thừa Phủ mà nhà thơ Vô Tình đã có lần nhắc đến:
Bến đò Thừa Phủ sông Hương
Ai người xứ Quảng vấn vương bến này.
Hình ảnh bến nước ấy một thời đã in sâu trong tâm tưởng mà một người thơ, dường như là Tô Kiều Ngân, đã viết lên nỗi niềm tiếc nuối “cây đa bến cũ con đò xưa”, những tà áo trắng bay bay trong gió chiều v.v., tất cả chỉ còn trong ký ức. Thời gian và nhu cầu của con người đã xóa đi những hình ảnh đầy tình tự như một hài hòa giữa thiên nhiên là (sông nước, bóng cây, mây trời) và những gì là nhân tạo như (con đò qua lại, mái chèo khua nước, tà áo nữ sinh v.v.)
Bến đò Thừa Phủ không còn nữa
gốc cây đa mất dấu bên bờ
những tà áo trắng đi đàng khác
vắng tiếng cười sông nước cũng tương tư.
Thơ là thế, những vần cho Huế đã nhiều vô kể thì nhạc, những khúc ca mang tình yêu Huế cũng ngập tràn trên sóng tình giai điệu dành cho Huế. Nhớ về
Huế, nỗi niềm sầu lắng khi xa Huế. Nói về Huế thì Huế đẹp và thơ, người con gái Huế thì “nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Nhạc sỹ Minh Kỳ “Thương về xứ Huế” đã ca lên: “Huế đẹp ơi…” và “Huế là thơ…”; trong nhạc bản “Thương nhớ cố đô” Võ Tá Hân viết:
Người em gái mái trường Đồng Khánh
mắt vương buồn trong những chiều mưa
nhớ thương biết mấy cho vừa
còn đâu những lúc đón đưa hẹn hò
rồi một Vũ Thành An với những cánh nhạc bay vào tình yêu, một cõi vừa xa xăm vừa gần gũi, lãng đãng, e ấp như niềm riêng dấu kín, song lại như một “im lặng lớn vang trong trời rộng” nơi khoảng hồn con gái:
một tiếng nói lặng thinh
một ánh mắt ẩn dấu tình
ấp yêu một mình…

Cái đẹp và thơ nói chung thật miên man, thật bao la, bút mực nào, lời nào tả cho cùng. Chỉ riêng với Huế đã vô vàn những ngôn từ cho Huế, cho tình yêu với Huế, và cho những cảm nghĩ về Huế.
Không phải chỉ nơi phố thị hay hoa viên mới đẹp, mới nên thơ mà rừng núi cũng ươm đầy thi ảnh, cũng lãng mạn tình đời, cũng vi vu lời gió, ướt át mầu trăng… và cũng lưu lại trong tâm hồn kẻ đến người đi những nhớ nhung sâu lắng. Quê hương Việt Nam không phải chỉ có Huế mà dọc theo chiều dài đất nước, từ đồi nương Sapa, rừng Lạng Sơn với lối giốc, nhà sàn…ta vẫn nghe: “Đường Lạng Sơn âm u…gà bình minh kêu lơ thơ, rừng êm ái thức giấc trong sương mờ, đồi núi vươn vai, vừa mới tan cơn mê say. chợt nghe thấy tiếng chim hót vang trời…” rồi nữa “đồi nương xanh xanh núi xanh lơ, rừng cây xanh xanh lá bên hoa, mầu áo chàm phất phơ trong mây mờ. Nhà sàn cao tuy mái thô sơ, người dừng chân bên suối nên thơ…” và những “Nụ cười Sơn cước” cũng từng chiêu say lòng người trong khúc ca trữ tình sông núi vậy:
Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi
Mây mờ buông xuống núi đồi
Và trong lòng mưa hơn ở ngoài trời
cỏ cây hoa lá thương nhớ mãi người đi
và dâng sầu lên mi mắt người về…
về đến Hà Nội với những mùa thu lá bay, 36 phố phường, năm cửa Ô v.v., Đà Lạt, thành phố cao nguyên như một cô gái mang vẻ đẹp Tây phương pha dáng dấp liêu trai của núi đồi; Nha Trang, miền thùy dương cát trắng, sóng nước xô bờ trong những đêm trăng; Sài Gòn, thành phố đã từng được mệnh danh “Hòn Ngọc Viễn Đông” với những chiều “… em tan trường về…trời mưa nho nhỏ…”, “áo trắng loang sân trường sẽ trắng bao phố phường…” rồi xuôi Nam, ai mà chẳng từng nghe những câu thơ, khúc nhạc hát về Tây Đô, hát cho Hà Tiên v.v.
Nói về cái đẹp, cái tình của miền đất quê hương thật không sao kể hết. Mỗi miền có dung nhan, tình tự riêng tư và độc đáo, phải chăng vì giới hạn của ngôn ngữ so với cái bao la không cùng của thiên nhiên, và cái hạn hẹp của tâm trí của con người so với công trình sáng tạo của Hóa Công.

Cái Trọng Ty
Đêm uống rượu
nghe “Biên cương hành”

(Gửi Phạm Ngọc Lư)

biên cương hành
chí ngươi hồ thỉ
ngôn ngữ trong thơ di lụy một đời
ngươi về một cõi nhà tan nát
tâm tư ưu uất tháng năm trôi
ngồi đây mời bạn chung rượu đắng
kẻ sĩ Biên cương giày cỏ qua sông
đã bao năm một ngày thoáng gặp
gió phi trường Bình Định cát bay bay
vội vàng tay vẫy không hẹn lại
thưở ấy bụi đường lấm tai ương
tôi theo trận mạc về An Phú
thời Xuân Thu
sớm biển chiều rừng
bước đi lửa tình như muốn cạn
nhìn lại bóng mình rách rưới tang thương
Bạn tôi chí lớn như gươm bén
chảy máu đời Thơ buổi chợ tàn
ai hiểu cho ngươi đời thất chí
chén rượu này đối ẩm cùng ai
đêm xưa gác trọ vài ba đứa
vui một phùa sãng khoái tan hàng
nay hong bếp cũ lò than lạnh
nhìn đăm đăm vách lá chơ vơ
chỉ thấy tháng ngày trôi lớp lớp
thấy đời mình quạnh quẽ vào ra
thấy bóng mình đen
đêm không sao mọc
nhớ bạn đêm về đau như cắt
vết thương xưa dao nhọn cứa vào tim
ta qua cầu nhìn lại sông khập khiểng
máu theo sông chảy nhịp luân hồi
đêm nay ngâm lại giòng Biên trấn
ngôn ngữ trong thơ mọc ở phương Đông
Thơ tràn trên những đồng hoang hóa
hoa quỳ cô đơn nở giữa núi ngàn
mây thành kìn kịt từ đất khổ
vó ngựa biên cương bốc bụi mù
cung đàn xưa ai người tri kỷ
trên chiếu bạc đời
nỗi đắng cay
buồn bã đêm xuân đành rơi bút bạc
giông bão đời xoay
tâm muốn sụm
trang thơ khép vội
khúc oan tình
hình như gió thổi qua liếp cửa
vi vu nghe tiếng gọi trùng khơi
gọi ai nơi tận cùng sơn thủy
ai người khách lạ gió muôn phương
ta về bạn hỏi từ đâu lại
thấy khói tàn tro phủ tượng đài
thấy rơi giọt lệ sôi trên bếp
dấu giày thô đời ở trọ quê nhà.

Trọng Đạt
TIÊU SƠN TRÁNG SĨ

(Tiểu thuyết dã sử nổi tiếng của Khái Hưng).

Tiêu Sơn Tráng Sĩ, viết 1940 (có tài liệu nói 1936), là tác phẩm dài nhất của Khái Hưng, trên bốn trăm trang và cũng là tác phẩm công phu nhất của ông, nó đã làm sống lại một giai đoạn lịch sử cách đây hai trăm năm, thời Lê mạt Nguyễn sơ, dưới triều Cảnh Thịnh năm thứ năm (1797), tức Nguyễn quang Toản lên ngôi 1792.
Tiểu thuyết dã sử dựa theo sử viết thành truyện đã có cách đây hàng nghìn năm tại Trung hoa như Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc. Mặc dù chịu ảnh hưởng hoàn toàn của văn học Trung Hoa, trong nền văn học Hán Nôm Việt Nam, chúng ta không thấy thể loại này, có chăng trong nền văn học mới gần đây như Nguyễn Quỳnh với Chuông Nhà Hồ, Đội Cấn Khởi Nghĩa. Tiêu Sơn Tráng Sĩ được coi như truyện dã sử nổi tiếng nhất của nền văn học nước nhà.
Đây cũng là một trong những tác phẩm thành công nhất của Khái Hưng, nó đã diễn lại bằng những hình ảnh hào hùng về tổ chức và hoạt động của đảng Tiêu Sơn phò Lê, chống lại triều đình Tây Sơn với những tráng sĩ gan dạ, anh hùng như Phạm Thái, Nhị Nương. Tác phẩm ra đời trong lúc tình hình quốc tế đang có biến chuyển, nước Pháp bại trận đầu hàng. Khái Hưng dấn thân vào công cuộc cách mạng dành độc lập, ông gia nhập Đại Việt Dân Chính do Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký, thành lập 1940, lợi dụng các biến chuyển quốc tế để hoạt động chống thực dân, áp bức. Tiêu Sơn Tráng Sĩ với trên bốn trăm trang giấy là nơi mà tác giả gửi gấm tâm tình của ông, Khái Hưng ca ngợi những chiến sĩ gan dạ, sả thân vì đại nghĩa vì sự nghiệp cách mạng để khơi dậy trong tâm hồn giới thanh niên một tinh thần hy sinh, ái quốc.

Sơ lược truyện.

“Bối cảnh lịch sử thời Hậu Lê: Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc đánh đuổi quân Thanh, Lê Chiêu Thống cùng Tôn Sĩ Nghị chạy sang Tầu, Nguyễn Huệ lên ngôi trị vì được năm năm, mất1792 Nguyễn Quang Toản lên thay, hiệu Cảnh Thịnh, truyện diễn ra dưới thời Cảnh Thịnh năm thứ năm, tức 1797.
Nhân vật chính gồm: Trần Quang Ngọc con Trần Quang Châu, trung thần nhà Lê. Phạm Thái con quan cựu thần Thạch Trung Hầu, Nhị Nương con gái quan bộ binh thượng thư Nguyễn Đình Giản, cựu thần, Lê Báo… họ đều là giòng giỏi cựu thần nhà Lê, Trần Quang Ngọc, hai mươi lăm tuổi, đảng trưởng, Phạm Thái phó đảng, Nhị Nương, Lê Báo đều ở lứa tuổi đôi mươi.
Quang Ngọc, Phạm Thái, Lê Báo khoác áo cà sa, nương nhờ chùa Tiêu Sơn để che mắt quan quân Tây Sơn, ba người kết nghĩa anh em cùng mưu đồ đại sự, lập đảng Tiêu Sơn phò nhà Lê chống triều đình Tây Sơn.
Bà Hoàng phi họ Nguyễn trốn tránh bảy tám năm, nay bị bắt, Quang Ngọc và đồng đảng âm mưu giải cứu bà Hoàng phi nhưng Đào Phùng cũng giòng giỏi cựu thần đã giải thoát cho bà. Các tráng sĩ Tiêu Sơn tưởng là bọn cướp bắt bà đem đi bèn vào rừng Đình Bảng đuổi theo chúng, gặp Đào Phùng và bà Hoàng phi mới biết Đào Phùng là giòng giỏi cựu thần nhà Lê, đồng chí hướng. Đào Phùng bị bắt, viên quan chỉ huy cho lính tra tấn dã man, Đào Phùng không chịu hé răng khai. Các tráng sĩ Tiêu Sơn giả làm bọn mãi võ đến múa kiếm ca hát rồi giải thoát cho Đào Phùng.
Đào Phùng mới thoát ngục ra đã đi in những tờ hịch, truyền đơn hô hào nổi dậy chống nhà Tây sơn. Chùa Tiêu Sơn làm lễ dâng sao, khách thập phương kéo đến rất đông, các tráng sĩ lấy cớ làm lễ để tụ họp, tan lễ họ đóng cửa chùa, mấy trăm sư giả tụng niệm kinh sám hối, đảng trưởng Quang Ngọc cho biết lực lượng đảng có năm mươi cây súng hỏa mai và đạn dược, mấy nghìn giáo mác, một nghìn quân nhưng đảng chưa muốn hành động chờ Nguyễn Ánh khởi sự ở phía Nam.
Nhị Nương cùng Phạm Thái đưa Hoàng phi lên Lạng Sơn ẩn náu, đi đò qua sông lại gặp Đào Phùng làm lái đò. Đến Lạng Sơn tại chùa Tam Thanh, họ được Phổ Mịch cho biết vua Lê Chiêu Thống đã mất mấy năm ở bên Tầu.
Thanh Xuyên Hầu Trương Đăng Thụ, con quan Kiến Xuyên Hầu, trấn Sơn Nam. Thời nhà Lê, Đăng Thụ làm Hiệp trấn Lạng Sơn, Tây Sơn để Thụ nhậm chức cũ và còn được cất lên Trấn thủ nhưng không còn binh lực trong tay, viên hiệp trấn mới là tướng thân tín của Tây sơn, Thụ chán nản, vãn cảnh chùa Tam Thanh, tâm sự với nhà sư Phổ Mịch và gia nhập đảng Tiêu Sơn.
Lê Báo, Trịnh Trực ra tay giết giặc, Lê Báo còn trẻ nóng nảy cho người nhốt mình vào cũi đem nộp viên phân xuất, giả làm Phạm Thái, quan quân Tây Sơn rượu chè mừng rỡ, quân lính của đảng Tiêu Sơn giả làm phường chèo, ca hát rồi tuốt gươm giết quan quân Tây Sơn, mở cũi cho Lê Báo tháo chạy.
Triều đình tức giận đem quân khám chùa Tiêu Sơn. Lê Báo, Quang Ngọc, Trịnh Trực trốn xuống đường hầm. Nhị Nương giả làm ma hiện hồn lẻn qua cửa hầm đem đồ ăn cho các tráng sĩ .
Phạm Thái lên chùa Tam Thanh gặp Thanh Xuyên Hầu bàn việc đại sự: đem quân về triều hỏi tội gian thần rồi cùng hơn nghìn quân Tiêu Sơn lật đổ nhà Tây Sơn. Sáng hôm sau Thanh Xuyên Hầu bị quan hiệp trấn đầu độc chết, Phạm Thái vô cùng căm giận.
Kiến xuyên phu nhân cùng con gái (Trương Quỳnh Như) đi lễ chùa Non Nước. Trịnh Nhị một công tử giầu có nhất trong vùng, biết phu nhân và Quỳnh Như đến chùa bèn thuê thuyền tới, ăn mặc sang trọng làm thơ để lấy lòng người đẹp, phu nhân muốn kén Trịnh Nhị làm rể nhưng Quỳnh Như chê chàng kém chữ nghĩa.
Trên thuyền về nhà, giữa sông gặp thuyền Phạm Thái và Long Cơ (vợ Thanh Xuyên Hầu) Thanh Xuyên Hầu là con Kiến Xuyên Hầu, là anh của Quỳnh Như. Kiến Xuyên Hầu đoán Phạm Thái là giòng hào kiệt, giả tu.
Phạm Thái gặp Quỳnh Như mê mẩn trước sắc đẹp của nàng. Long Cơ, vợ lẽ Thanh Xuyên Hầu treo cổ tự vẫn, Phạm Thái trèo lên cây gỡ xuống cứu mạng Long cơ, gia đình Kiến Xuyên Hầu biết ơn Phạm Thái. Quỳnh Như nói với cha (Kiến Xuyên Hầu) Phạm Thái giả sư, cha nàng tin vậy, đãi tiệc Phạm Thái cùng bàn bạc văn thơ, sáng hôm sau, Phạm Thái ra đi, Quỳnh Như ngầm sai người đem ngựa đến cho chàng. Phạm Thái đi bốn hôm tới Bắc Thành (Thăng Long).
Tại các phố Bắc Thành nay rất náo nhiệt vì kỳ thi tuyển cống sinh sắp bắt đầu. Quang Ngọc và Nhị Nương bị truy nã trốn lên Bắc thành mở quán Bạch Phượng. Nhị Nương bán trầu nước. Nhị Nương dụ các thầy khóa, thí sinh phản đối kỳ thi và cả viên quản cơ cũng theo Nhị Nương, bại lộ, quản cơ và bốn viên đội bị xử trảm. Nhị Nương trốn thoát ra ngoại thành giả làm thầy bói, gặp Phạm Thái.
Phạm Thái đi quyên giáo trấn Xuyên Nam mấy tháng rồi quay về Thanh Nê gặp Kiến Xuyên Hầu và Trương Quỳnh Như. Kiến Xuyên Hầu nhờ Phạm Thái dạy mấy đứa cháu học, chàng bắt đầu thoái chí, muốn nán lại đây nghỉ ngơi ít lâu. Phạm Thái và Quỳnh Như cảm mến nhau, trao đổi thư từ, văn thơ, chàng soạn truyện “Sơ Kính Tân Trang” để mô tả thiên tình sử hai người. Kiến Xuyên Hầu (Trương Công) và phu nhân chưa ngờ vực gì hai người.
Gia đình Trịnh Nhị nhờ người mai mối hỏi Trương Quỳnh Như, phu nhân ý muốn gả vì Trịnh Nhị giầu nhất phủ.
Kiến Xuyên Hầu đãi tiệc Trịnh Nhị và cả Phạm Thái. Quỳnh Như tái mặt suýt chết giấc vì biết Trịnh Nhị dốt nát lại sắp thành hôn phu, trong tiệc Phạm và Trịnh làm thơ đối đáp, Kiến Xuyên Hầu thấy Trịnh Nhị dốt nát, Phạm Thái học rộng tài cao.
Quỳnh Như bị ép duyên tự vẫn, Kiến Xuyên Hầu muốn gả cho Phạm Thái nhưng phu nhân đòi gả cho Trịnh Nhị, Phạm Thái về thăm mộ nàng khóc vật vã.
Hai năm sau Quang Ngọc gặp Nhị Nương ở tửu quán bên đường, họ nói chuyện Phạm Thái mê gái. Về việc đảng, chưa gặp vận, các đồng chí tan tác cả. Phạm Thái thất tình say rượu”.

Tiêu Sơn Tráng Sĩ là tác phẩm dài và công phu nhất của Khái Hưng, để viết truyện này ông đã nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử, địa lý, phong tục, thi ca, văn chương nước ta thời Tây sơn, nghiên cứu những danh từ cổ xưa để dựng lại cả một xã hội phong kiến xa xưa y hệt như một nhà làm phim ảnh vậy. Có thể nói nó là một trong những cuốn tiểu thuyết dã sử công phu nhất của văn học Việt Nam cận đại và hiện đại.
Chúng ta không thấy tác giả đề cao triều đại nhà Lê, cũng không thấy kết án Tây Sơn mà chỉ diễn tả ca ngợi tinh thần cách mạng, chí khí anh hùng của các tráng sĩ trong đảng Tiêu Sơn, những chiến sĩ gan dạ, mưu lược quả cảm coi cái chết nhẹ tựa lông hồng để mưu đồ đại sự, khôi phục lại triều đình nhà Lê. Các nhân vật Quang Ngọc, Phạm Thái , Nhị Nương gợi lại cho chúng ta hình ảnh những vị anh hùng hào kiệt xa xưa như Kinh Kha, Lưu Bang, Hạng Võ, Tống Giang, Triệu Cái trong Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng và Thủy Hử Truyện
“Quang Ngọc đỡ lấy thanh kiếm ném mạnh lên giường, rồi cười nhạt, đi đi lại lại vừa nói dằn từng tiếng:
-Chết! hừ! chết! ngày xưa đời Trần, Trần Bình Trọng chết vì nước… bị bắt thì tìm cách tháo thân để đánh nữa, đánh mãi cho đến khi được, hay chết. Mà không có cách gì tháo thân thì chết ngay. Đời làm tướng chỉ có ba cái kết quả: Được trận, thua trận, chết trận…
… …Hơn một trăm năm sau… đấng Thái Tổ nhà Lê khởi nghĩa ở Lam Sơn, một lần vua bị khốn ở Chí Linh, khó phá vòng vây mà trốn thoát được. Bấy giờ có ông Lê Lai… liều thân vì nước, xin nhà vua cởi áo ngự bào ra cho mình mặc, rồi cưỡi ngựa ra trận đánh nhau với quân giặc. Quân Minh tưởng đó là Bình Định Vương thật, xúm nhau vây đánh giết đi… Đó là một cái chết anh hùng, mãnh liệt, có suy xét… cái chết không có không xong. Vĩ đại thay những hành vi kín đáo, nhún nhường, xả kỷ dù hành vi ấy là sự bại trận, sự thắng trận hay chỉ là cái chết”

Đảng Tiêu Sơn có một nghìn quân, đầy đủ gươm đao và súng hỏa mai, nhưng còn quá yếu so với hàng vạn tinh binh của triều đình Tây Sơn. Đảng chưa lập được thành tích lớn lao đáng kể ngoài việc cứu được bà Hoàng phi, giải thoát Đào Phùng, Lê Báo và Trịnh Trực nóng tính xuất trận giết một viên tiểu quan và một bọn quân lính địa phương. Nhị Nương âm mưu xúi giục nổi loạn tại Bắc Thành thất bại nhưng đảng đã thể hiện được lòng trung thành, chí khí can trường quả cảm của nhũng tráng sĩ mưu đồ đại sự. Tác giả ca ngợi tinh thần dấn thân của các đảng viên, không chịu khoanh tay phục tùng thiên mệnh.
“Phạm Thái thở dài bảo Đào Phùng:
-Người anh hùng cứu quốc khi nào lại chịu phục tòng số mệnh? chỉ biết một việc là hành động, hành động cho tới giờ cuối cùng… tránh sự gian nguy mà mình biết chắc chắn đương đợi mình, để được an nhàn ở một nơi dật lạc, không bận trí đến việc đời, việc nước, hạng ấy người ta cho là bậc ẩn sĩ, nhưng tôi, tôi chỉ cho là phường ích kỷ, ham sống có đáng kể chi.
… Tài lực của đấng anh hùng phải cố đoạt nổi số mệnh; bằng không thì chết mà chết như thế còn có nghĩa lý hơn cái chết dần mòn của kẻ ẩn sĩ trong só tối…
… Nhị Nương yên lặng đứng nghe từ nãy tới giờ. Bỗng nàng mỉm cười bảo Đào Phùng:
-Bậc hảo hán không bao giờ chịu đợi thời thế”

Tác giả ca ngợi tinh thần dấn thân, nhập cuộc, cho đó là việc quan trọng.
“Nhưng ai nấy ngừng bặt, vì vừa thoáng nhìn thấy hai má Hoàng Phi đẫm lệ. Chưa kịp hỏi duyên cớ thì bà đã lau nước mắt, buồn rầu nói:
-Nếu quả thực vận nhà Lê hết rồi thì các em nên thôi đi, đừng hành động nữa mà mất công vô ích.
Phạm Thái cúi đầu đáp:
-Tâu lệnh bà, đời kẻ tráng sĩ chỉ có một nghĩa là hành động. Còn sự thành bại cùng sự sống chết, không nên để trí nghĩ quá”

Tiêu Sơn Tráng Sĩ cũng là tác phẩm của tình yêu, Khái Hưng đưa vào những tình tiết éo le lãng mạn để thu hút đám đông, rồi diễn đạt tâm tư cách mạng của mình. Cuộc tình của Quang Ngọc, Nhị Nương thật là hào hùng cao đẹp và mối tình Phạm Thái Quỳnh Như yếu hèn uỷ mị. Cũng y như Tolstoi trong Anna Karenine đã đưa ra hai mối tình để diễn đạt quan niệm về hạnh phúc của mình: cặp Anna và Wronsky đắm đuối trong tình yêu tội lỗi, cặp Levine, Kitty êm ấm hạnh phúc bên nhau.
Cuộc tình Quang Ngọc Nhị Nương thật lý tưởng, hai người lập đảng Tiêu Sơn, yêu thương nhau nhưng đại sự cách mạng vẫn là trên hết:
“Ngừng một lát Ngọc lại nói tiếp:
-Chính nàng đã cùng ngu huynh lập nên đảng Tiêu Sơn. Nàng đã giúp đảng được nhiều việc lắm, ấy là không kể cái công cứu sống cho Ngọc đây.
Lê Báo cười sằng sặc:
-Thế mà hai người không yêu nhau thì cũng lạ!
Quang Ngọc buồn rầu đáp:
-Nói kính trọng nhau thì đúng hơn. Đương lúc theo đuổi công cuộc lớn lao, còn bụng đâu nghĩ tới ái tình. Vả lại nhị đệ hiểu cho rằng, tuy mình không thực bụng tu hành, song đã nhờ cái áo cà sa để trốn tránh thì cũng không nên làm nhem nhọ nó.
Phạm Thái mỉm nụ cười ngờ vực, ngồi im. Quang Ngọc lại nói:
Nàng cũng bảo ngu hữu rằng khi nào việc lớn xong xuôi đã, hai người mới cùng nhau đi chu du khắp nước Nam như Phạm Lãi Tây Thi đời xưa chứ nay còn ở thời kỳ nằm gai nếm mật, nghĩ chi tới hạnh phúc êm đềm của tình ái. Lời vàng ấy, ngu hữu đây đã khắc ở bên lòng, thề không bao giờ dám sai.
Lê Báo bông đùa một câu:
– Nghĩa là hai anh chị còn tạm là đôi bạn cầm kỳ để chờ ngày trở nên đôi bạn cầm sắt chứ gì?”
Chính Nhị Nương cũng đã tâm sự với bà Hoàng Phi về tình cảm của nàng với Quang Ngọc:
“Rồi một ngày đảng một đông, một ngày em thêm mến phục Quang Ngọc, mến vì nết phục vì tài. Nhưng xin thú thực với chị rằng, ngoài sự mến phục ra không có gì nữa Quang Ngọc coi em như một đảng viên… còn em thì mải mê trong cuộc hành động… em không bao giờ để lòng em…
… Em xin tự xử làm sao cho xứng đáng lòng tin cậy, lòng quý mến của Quang Ngọc, của đảng trưởng. Thưa chị em nhất định không bao giờ chịu để cho Quang Ngọc đoán biết tâm sự của em. Biết đâu ngạn ngữ nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản lại không đúng nghĩa với cả những hạng người theo đuổi việc lớn như Quang Ngọc”
Khái Hưng gợi cho độc giả sự cảm thương và khâm phục Nhị Nương, Quang Ngọc qua mối tình cách mạng, cả hai đã kềm chế lòng mình khi cùng theo đuổi sự nghiệp của đảng Tiêu Sơn.
“Quang Ngọc không dấu nổi sự sung sướng, âu yếm đứng mỉm cười nhìn Nhị Nương… đã hơn hai tháng, ngày ngày chàng vẫn áy náy mong đợi tin tức nhất là tin Nhị Nương, khi ở gần nhau chàng không cảm thấy chàng yêu, nhưng khi xa nhau chàng mới rõ hết nỗi khổ tâm của kẻ thương nhớ, dù có công việc đảng luôn luôn chiếm đoạt ý nghĩ của chàng”

Tại chương cuối cùng “Trên đường thiên lý”, hai năm sau một buổi chiều trời đông, một tráng sĩ cưỡi ngựa rong ruổi về Nam, chàng ghé vào tửu quán nhắm rượu, gặp Nhị Nương… đôi bạn hàn huyên kể lể … đảng Tiêu Sơn đến lúc suy tàn, các bạn đồng chí tan tác, Trịnh Trực bị hành hình, Đào Phùng bị bắt, Lê Báo nay mộ đạo như một nhà chân tu, cho tới lúc chia tay họ vẫn giữ được mối tình cao đẹp.
“Sáng hôm sau hai người từ biệt nhau: Nhị Nương ngược Bắc thành, Quang Ngọc xuôi Nam thành, hẹn một ngày kia sẽ hội ngộ.
Nhị Nương kìm cương ngựa hỏi với một câu:
-Nhỡ không hội ngộ?
-Cũng chẳng sao! vì linh hồn chúng ta bao giờ cũng ở bên nhau, một người trong bọn ta làm việc trái với bổn phận, đã tưởng nghe rõ tiếng thống trách của bạn, đã tưởng nhìn thấy cặp mắt nghiêm nghị của bạn . Mà khi ta có việc đáng thi hành ngay, ta đã tưởng trông thấy cái gật biểu đồng tình của bạn rồi. Vậy thì chúng ta có ở xa nhau đâu? tình bằng hữu của chúng ta đã thành một sự thiêng liêng.
Nhị Nương chấp tay vái:
-Vâng tình bằng hữu của đôi ta!…
Rồi nàng rẽ cương quay đi”

Cuộc tình Quang Ngọc, Nhị Nương cao đẹp chừng nào, thiên tình sử Phạm Thái, Quỳnh Như tầm thường yếu hèn chừng nấy: hồi chàng mới đến dinh cơ của họ Trương lần đầu, nàng khuyên chàng nên dấn thân vào sự nghiệp cách mạng, chàng cảm phục Quỳnh Như:
“-Thực ta đoán không sai, nàng là bậc cân quắc anh hùng, nàng khuyên ta làm việc lớn, rong ruổi bước đường gió bụi, chờ lúc hát khúc khải hoàn trở về, nàng ước hẹn cùng ta. Âu yếm biết bao! phòng tiêu đầm ấm rạng ngày xanh”
Chàng nhớ lại thời kỳ theo Nguyễn Đoàn gian nan nguy hiểm, cưỡi con ngựa hồng, xông pha tên đạn, giáo, gươm, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng và khi giã từ họ Trương, chàng cho là thoát nạn:
“chàng coi như vừa thoát được tai nạn ghê gớm hơn cả những tai nạn trong rừng gươm dáo ‘Trời ơi mình mà chìm đắm vào bể tình, thì bao giờ báo đền được ơn vua, trả thù cho nhà cho đảng?”
Và rồi được đảng trưởng giao cho đi quyên giáo trong trấn Sơn Nam, chẳng tìm được bậc chí sĩ nào, Phạm Thái lại quay trở về nhà họ Trương làm thầy đồ chờ thời vì nay Tây Sơn còn mạnh, kỳ thực chàng nhớ đến đôi mắt mỹ nhân:
“Thực ra đó chỉ là một câu nói, một ý nghĩa của kẻ anh hùng đã bắt đầu thoái chí, đã bắt đầu hơi chán nản thời thế. Thường họ tự an ủi như thế. Rồi dần dần họ quên việc lớn, trong chén rượu nồng hay trong lòng một người thiếu nữ. Trời ơi! cái tuổi ngoài hai mươi, hăng hái thì hăng hái thực. Nhưng đến lúc nguội lạnh thì nguội lạnh hơn tro tàn. Lúc bấy giờ họ sẽ đem chủ nghĩa yếm thế vẩn vơ ra mà che đậy một tâm hồn hèn yếu”
Chàng ta và Quỳnh Như lại lén lút gửi thư cho nhau, chàng cho biết tình thế của đảng khó khăn, quỹ ngày một cạn, sự thất bại gần kề. Sự thực chàng nói dối, cái dáng mỹ nhân thấp thoáng trong hoa, giọng nói du dương văng vẳng chốn khuê phòng khiến cho tráng sĩ hóa ra mơ mộng.
“Mơ mộng đến nỗi viết nên những bài thơ đầy tình uỷ mị như bài thơ độc vận sau này:

Chơi hoa nay đã biết danh hoa,
Nhưng nghĩ tình hoa thẹn với hoa,
Rắt réo chiều xuân oanh hót liễu
Càng thêm ngao ngán khách tìm hoa

Ý tứ bài thơ trên không tả một chút tâm trạng gì gọi là tâm trạng một nhà sư hay tâm trạng một danh sĩ có chí khí. Đó chỉ hoàn toàn là tâm tình một anh chàng mê gái”

Và rồi Quỳnh Như cũng lộ chân tướng: một tiểu thư dạt dào tình cảm, chẳng bao lâu chàng và nàng yêu nhau, say mê nhau, trao đổi văn thơ xướng họa:
“Lúc ấy còn đâu là chí phấn đấu, còn đâu là tình khuyến khích”

Chàng soạn xong một thiên tiểu thuyết bằng thơ “Sơ Kính Tân Trang” để tặng khách má hồng. Khái Hưng lấy truyện xưa tích cũ để nhắc nhở các chiến sĩ cách mạng như sau:
“Cho hay ái tình có sức mạnh đến thế. Xưa kia theo đuổi việc lớn, Phạm Thái chưa làm nổi một công trình gì có kết quả mỹ mãn như việc soạn sách này.
Truyện Sơ Kính Tân Trang đã làm cho tên Quỳnh Như bất hủ. Nhưng nó se mãi mãi răn bảo những bậc anh hùng ái quốc rằng chớ nên tạm bước vào vòng tình ái để cố quên hay an ủi một sự thất bại ái tình sẽ chiếm lấy cả tâm hồn ta, không nhường cho việc lớn ta đang theo đuổi một chỗ cỏn con”

Một hôm mưa to gió lớn, sấm chớp đầy trời, Phạm Thái nhớ tới thời oanh liệt, nghĩ tới các anh em đồng chí đang dấn thân xông xáo tìm cái chết, cái chết thì xa, tình yêu ngay bên cạnh, nó dỗ dành an ủi dẫn dụ chàng vào cõi mộng. Chàng cũng biết tội bỏ đảng của mình và biết xấu hổ:
“Rồi chàng giật mình kinh hãi, nhẩm ôn lại những điều lệ nghiêm khắc của đảng Tiêu Sơn đối với các đảng viên. Phải, bị triều đình Tây Sơn truy nã thì còn có thể trốn tránh được, chứ bị đảng Tiêu Sơn kết án thì chỉ có một việc chờ chết.
Hôm nay Phạm Thái càng lo sợ và toan bỏ đi ngay. Chết chàng không quản. Nhưng vì một người con gái mà sao nhãng chí lớn, dù sao nhãng trong một thời kỳ ngắn ngủi, chàng lấy thế làm xấu hổ với lương tâm”

Quỳnh Như treo cổ tự vẩn vì bị ép duyên ngay hôm ăn hỏi, Phạm Thái phi ngựa Đến cạnh mồ, nằm vật ra khóc thảm thiết. Tác giả nhìn Phạm Thái bằng cái nhìn rẻ rúng như sau:
“ -Người ấy là Phạm Thái, cựu quân sư của Nguyễn Đoàn, phó đảng trưởng kiêm chức quân sư của đảng Tiêu Sơn. Người ấy đã bao phen xông pha trong rừng gươm dáo, nay chỉ còn là một kẻ tầm thường không còn một chút nghị lực để phấn đấu.
Vì người ấy yêu.
Nằm khóc một hồi lâu, Phạm Thái ngồi dậy lau nước mắt, mở đẫy lấy hương và sáp ra thắp. Rồi quỳ bên mồ đọc bài điếu văn sau này:
Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? oan thác bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẫn trăng
rằm……………………………………………….
……………………………………………………………………
nay qua nắm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sùi sụt hai hàng tình lệ, giải bày một bức khốc văn; đốt xuống tuyền đài tỏ cùng nương tử”

Lúc cuối truyện, Nhị Nương, Quang Ngọc ra chiều khinh miệt Phạm Thái, Nhị Nương đưa cho Quang Ngọc truyện Sơ kính tân trang và nói :
“-Đây tác phẩm của anh chàng mê gái mà ngu hữu đã sưu tầm được, tuy hãy còn khuyết điểm nhiều.
Quang Ngọc đọc sơ một lượt, rồi buồn rầu, giận dữ ném tập thơ xuống giường”

Từ đấy Phạm Thái chán đời, say rượu, thất tình lang thang câu cá, có lần chàng thốt lên:
“Ha! Ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượu!
Nghĩ một lát chàng lại nói:
… Ha! Ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ nhân!”

Tiêu Sơn tráng sĩ, một tác phẩm cách mạng được viết năm1940 khi Khái Hưng dấn thân vào đảng Đại Việt tranh đấu giành độc lập, tự do, ông lấy truyện xưa che mắt bọn thám tử thực dân để khơi dậy lòng yêu nước của các thanh niên và cũng đưa ra hình ảnh Phạm Thái sa ngã vào bể tình yêu để họ thấy cái gương xấu mà tránh xa.
Câu “Than ôi! Chí lớn trong thiên hạ đong không đầy đôi mắt mỹ nhân” đã được truyền tụng sâu rộng trong dân gian như một danh ngôn bất hủ vì người ta cảm thương cho tâm sự của kẻ thất thời lỡ vận.
Nhưng dưới ngọn bút nghiêm khắc của Khái Hưng, một nhà cách mạng đáng kính, Phạm Thái chỉ là kẻ yếu hèn không còn nghị lực, nhân cách. Từ một tráng sĩ anh hùng đã một thời ngang dọc, làm quân sư, phó đảng, đã từng múa gươm trên lưng ngựa vào sinh ra tử giữa chốn ba quân, sông pha rừng gươm, đao, tên, đạn, giữa tiếng chuông trống rầm trời, bụi bay mù mịt…
Nay chán đời, thất tình, say rượu, bỏ đảng, giã từ vũ khí, bỏ hết tất cả mọi lý tưởng cao xa, báo đền ơn vua, trả thù cho nhà cho đảng, bỏ hết mọi sự nghiệp lớn lao chỉ vì ĐÔI MẮT MỸ NHÂN.

Túy Hà
Tuyết trắng đường Xuân.

Mùa Xuân lạnh ngắt phương này
Quê nhà nắng ấm, có đầy bát cơm?!

Ba mươi họp bạn chiều hôm
Nâng ly cạn hết lại ôm nhau cười
Trong làn nước mắt đang rơi
Đắng thêm vị rượu đầy vơi xứ người.

Thì ra Tết đến trong đời
Lưu vong xa xứ cuộc chơi ngậm ngùi
Làm sao cho trọn niềm vui
Khi quê nhà Mẹ thiếu người thân quen.

Nhìn Xuân mưa tuyết buồn thêm
Nhớ ngày nắng lụa nhớ đêm quây quần
Làng xa cho đến xã gần
Râm ran tiếng pháo dòn tan tiếng cười.

Quê nhà không tuyết trắng trời
Chỉ là mưa bụi rớt rơi ghẹo người.
Lạnh chút thôi, ấm một đời
Xuân xa vạn dặm ngàn khơi nhớ hoài.
Lại thêm một tuổi lạc loài
Mai Lan Cúc Trúc Huệ Lài kém tươi
Ở đây thiếu vắng nụ cười
Từ trong chân thật của người thiện tâm.

Chỉ là những lỡ với lầm
Chỉ là hào nhoáng gói âm thầm buồn
Bánh chưng vuông bánh dầy tròn
Tàn theo ký ức, không còn như xưa.

Như người từ thôi cày bừa
Chia tay ruộng lúa bóng dừa quê ta
Sang sông theo bến bờ xa
Nhuộm màu tóc mới thay da đổi đời.

Lại còn đổi luôn cuộc chơi
Trái tim lạc hướng bỏ rơi phận mình.
Tưởng rằng ngày sáng bình minh
Đâu ngờ đêm tối rập rình bước chân.

Riêng tôi từ thuở chia phần
Nỗi đau mất nước. đón Xuân khóc thầm
Trời nước Mỹ dưới độ âm
Thương về Quê Mẹ thăng trầm còn nguyên.

Thôi thì lời chúc bình yên
Mong người tâm tịnh, Tân Niên bảo hòa
Còn đời gian dối điêu ngoa
Tôi xin lãnh trọn, hương hoa tặng người.

Mùa Xuân hoa tuyết lại rơi
Nỗi buồn đông đá, khóc cười lưu vong.

Song hành

Người về từ núi hoang vu
Ta về từ biển ngất ngư rã rời
Người-ta, như thiệt như chơi
Sắc không vô tướng nói lời gì đây
Người mây trôi, ta gió bay
Cũng là nghiêng ngả mê say một thời
Người mây lạc bốn phương trời
Còn ta gió nổi tả tơi lâu rồi
Phong vân hội ngộ tiếp hơi
Cùng nhau gầy lại cuộc chơi chưa tàn
Cho dù đã từng tan đàn
Hay là rả nghé cũng cần có nhau.
Bên trời gác kiếm phong đao
Chung thân biệt xứ ba đào nổi trôi.
Còn nguyên dấu ấn một thời
Nam chinh bắc chiến cùng bơi ngược dòng
Đã là phận nước long đong
Ngựa hồ nhớ ngọn bắc phong cảm hoài.
Người và ta nợ trần ai
Trên đầu nhật nguyệt chung vai gánh đời
Nhất bộ tam bái không lời
Tụng kinh vô tự tứ thời nhập tâm.

Anh hùng bản sắc phân thân
Âm binh ngạ quỷ thắng Thần được sao
Gió đưa câu hát đồng dao
Mây còn lùa nước đổ vào ruộng ta
Sợ gì trời gần đất xa
Còn sông còn núi còn người thương nhau
Còn tự hào trước như sau
Là còn giữ được sắc màu dân ta.
Cám ơn ngày tháng phong ba
Cho ta hiểu được chính tà là đâu
Đã qua bao cuộc bể dâu
Quê hương vẫn giữ được câu tự tình.

Người về từ cõi ba sinh
Ta về hương lửa thắp tình quê hương.
Song hành cho hết đoạn trường
Lưu danh góp máu tình vương ý đời.

Phan Các Chiêu Hằng
nhắc chi hoài trăm năm

nhìn trăng treo cuối phố
nhớ màu trăng năm nào
trăng này là mấy nữa
héo tàn trên hư hao

nhìn đêm sâu trăn trở
nhớ gối chăn ban đầu
đêm nay là mấy nữa
chìm hẫng xuống lao đao

nhìn tay thon ngón nhỏ
nhớ tay trên phím đàn
đâu rồi tay một thuở
lùa trong tóc em ngoan

nhìn gương soi mắt đỏ
vẫn long lanh kiếm tìm
gương ơi, còn đâu đó
hình hài trong đáy tim

nhìn mưa qua buổi nọ
che kín lối trăng vàng
trăng ơi, thôi đã lỡ
nhắc chi hoài trăm năm.

buổi sáng

sáng rảnh rang, ra chiều mơ mộng
ngồi tập tành uống cà phê đen
sắt se cong đôi vành môi ấm
chợt bàng hoàng nhớ khói hương quen

sáng ngẩng nhìn lá vàng lười lĩnh
chưa chịu lìa cành, đứng ngó nghiêng
tháng mười bàng hoàng trong trí tưởng
xao xuyến về khóc giữa lặng thinh

sáng ra nhìn trời thu man mác
bỗng nghe thèm làm thơ Việt Nam
mưa tháng mười rơi không ướt mặt
sao hồn ta mù mịt sương giăng

sáng lôi gương ra, ngồi soi bóng
nghe tim đau một chút giả vờ
mai già cỗi, ta xin cầu khẩn
tim vẫn còn sót mấy vần thơ…

Đi chùa

Hình như nắng sớm ngủ quên
Cho mây len lén về trên vai nàng
Em đi giữa lối hoa vàng
Tháng hai giũ lụa trên tàn lá cao

Áo em đôi vạt xôn xao
Lượn bay trước cổng xuân chào mùa sang
Nhắn người phương ấy về ngang
Bên sân chùa lắng nghe hàng thông reo

Lời kinh chìm giữa quạnh hiu
Ru em từng tháng ngày đều đặn qua
Bướm ơi, xin nhớ hồn hoa
Hẹn mai chết dưới hiên chùa tịnh tâm

Khi môi thơm khép nghìn năm
Tàn hơi thở muộn khóc lần chia phôi
Bướm gom mộng chở về trời
Làm mưa rơi ấm trên đời người thương

Em đi chùa tóc mây buông
Lời kinh cầu gửi người ngàn năm xa
Em quỳ, nghiêng xuống hư vô
Khói hương che khuất đôi bờ thiên thu…

Nguyễn Thị Thanh Dương
Mùa Xuân
Trên Cây Sầu Đông

Tôi đã thức giấc nhưng vẫn lười biếng cuộn mình trong chăn ấm, chưa muốn rời khỏi giường. Thời tiết giữa mùa Đông lạnh, dù máy sưởi nóng lúc nào cũng chạy cho đủ ấm trong nhà, mà tôi vẫn cảm thấy hơi lạnh từ ngoài không gian đang len lén thấm vào qua từng khe cửa.
Hôm nay là thứ Bảy, và vì tôi đang buồn nên có quyền hư một chút, dậy sớm cũng chẳng biết làm gì, cơm nước thì đã có mẹ tôi lo. Nhưng nằm mãi cũng chán, liếc nhìn đồng hồ trên tường đã 9 giờ sáng, tôi tung mền ngồi dậy, ra kéo màn cửa sổ lên.
Ngoài trời, hàng cây mùa Đông không lá trơ cành héo khô đứng im buồn trong màu trời u ám, đã từ lâu tôi vẫn gọi những cây này là “Cây Sầu Đông”, vì nó chỉ vui tươi ra lá khi trời hết lạnh, khi gió Xuân về.
Tôi dỗi hờn nghĩ tới những mùa Đông lạnh như thế này trong đời, “Cây Sầu Đông” đã cho tôi những nỗi buồn nên thơ lãng mạn. Hôm nay cũng chính hình ảnh ấy lại cho tôi một nỗi buồn… thê thảm, vợ chồng tôi đang giận nhau, gay go lắm, chồng tôi bỏ về nhà cha mẹ anh ấy, tôi cũng chẳng vừa, cuốn gói về nhà cha mẹ mình sau một cuộc cãi vã to tiếng, và ngôi nhà của hai người bỗng… trở thành vô chủ.
Gia đình đôi bên ở cùng thành phố, chúng tôi lấy nhau tưởng rằng sẽ thuận tiện đi về nhà cha mẹ sum họp mỗi cuối tuần hay những ngày lễ nghỉ, nào ngờ, lại là nơi trú ẩn cho mỗi người, trở về mái nhà xưa không hào hứng vui vẻ gì, và cũng chẳng được cha mẹ chờ mong đón tiếp.
Khi vừa thấy tôi đứng trước cửa với cái valy quần áo to lù lù, mẹ tôi đã xụ mặt xuống, gay gắt:
– Lại cãi nhau, giận nhau với chồng hả?
– Vâng, mẹ cho con tạm trú vài ngày cho bớt căng thẳng…
Dĩ nhiên mẹ tôi không thể quẳng valy của tôi ra ngoài như người chủ nhà tống khứ kẻ thuê nhà không có tiền trả. Bà cằn nhằn:
– Đáng lẽ con không nên bỏ đi, bất cứ giá nào người vợ cũng phải ở nhà, rồi sóng gió sẽ qua đi. Ngôi nhà vẫn là tổ ấm.
– Nhưng anh ta là người bỏ đi trước, con chẳng dại gì ôm lấy cái tổ một mình cho lép vế.
Mẹ tôi lo lắng hỏi:
– Nhưng vợ chồng con đã xảy ra chuyện gì?
Tôi kể tội chồng:
– Anh ta đã tự ý đóng góp tiền với gia đình để gởi về cho những thân nhân còn lại bên Việt Nam nhân dịp Tết sắp đến này mà chẳng hỏi ý kiến con lấy một câu, con phát hiện ra cằn nhằn thì anh ta nói con ích kỷ, hẹp hòi với nhà chồng, có mấy trăm đồng bạc mà cũng bắt chồng phải khai báo, còn hơn là hải quan Việt Nam hạch họe Việt Kiều khi về nước.
Mẹ tôi thở phào:
– Mẹ tưởng chuyện gì to tát, chuyện ấy có đáng gì, nó nói thế là đúng rồi, nó làm ra tiền cũng có quyền tiêu xài riêng chút đỉnh, hơn nữa để làm quà cho người thân ở Việt Nam nhân dịp Xuân về. Nhà nào cũng thế con à, cuối năm cũng thu vén tiền bạc gởi về làm quà cho người thân vui Tết, chồng con có lừa tiền dối bạc cho gái hay hoang tàn ăn nhậu đâu mà con nổi nóng lên.
– Nhưng đáng lẽ anh ta phải nhẹ nhàng giải thích cho con hiểu, đằng này anh ta to tiếng trước, mắng con trước…
Rồi tôi oán trách:
– Sao ngày đó chính mẹ đi coi tướng số nói hai đứa con hợp tuổi nhau, trên thuận dưới hòa, và chọn “ngày lành tháng tốt” tổ chức đám cưới. Hai năm sống chung đã cãi nhau mấy lần rồi. Con không tin vào thầy bói, tướng số nữa đâu, bạn con trước ngày cưới cả hai bên gia đình cũng xúm vào coi tuổi, và chọn “Ngày lành tháng tốt” mà bây giờ đang li dị đó.
Mẹ tôi khuyên:
– Con ạ, vợ chồng trẻ, nên động một tí là tự ái rồi cãi nhau, nếu không biết nhường nhịn thì dễ đổ vỡ một cách oan uổng. Mai này có con cái sẽ ràng buộc nhau, biết nhường nhịn nhau hơn.
Mẹ tôi lôi quá khứ ra chứng minh:
– Mà con cũng chẳng vừa, tính nết con vừa kiêu vừa hay lấn lướt người khác, hồi còn bé đã lộ ra rồi, chuyên ăn hiếp chị, xí phần cuà chị, cái gì cũng đòi trước, đòi hơn. Người ta đã nói: “ Giang sơn dễ đổi, tính nết khó dời” là thế. Còn cái chuyện “Ngày lành tháng tốt” vẫn đúng với nhiều người chứ con, “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” mà.
Tôi lôi hiện tại ra chứng minh:
– Chợ búa, hàng quán của người Việt Nam cũng chọn “ngày lành tháng tốt” để khai trương. Nhưng thử bán hàng vừa dở vừa mắc xem có đông khách không? Hay là sập tiệm sớm? Còn chợ Mỹ, khỏi cần chọn ngày giờ khai trương, cứ bán hàng rẻ là đông khách, như chợ Wal-Mart, còn chợ Tom Thumb gần nhà mình đó, trái cây, rau ria, xếp thật đẹp, nhưng giá cả trời ơi, mắc hơn các chợ khác nên chẳng ai sờ tới, chợ vắng như chùa bà Đanh.
Đang nghĩ lan man đến đây thì tiếng mẹ tôi gọi vào:
– Con ơi, dậy chưa ra ăn bánh cuốn nóng với mẹ …
Công nhận mỗi lần giận chồng về nhà mẹ mình được nuông chiều sướng thật, đỡ “vất vả” hơn sống với chồng, phải phục vụ anh ta mà có khi còn chưa vừa lòng, vẫn bị chê canh mặn, cơm khô.
Tôi ngồi vào bàn với đĩa bánh cuốn nóng mà mẹ vừa làm. Vừa ăn tôi vừa nghĩ đến chồng, chắc anh ta cũng đang được mẹ cưng chiều như tôi, điều này tôi biết từ trước khi lấy anh, mẹ chồng tôi thương con đặc biệt, lúc nào cũng bày ra các món ăn ngon cho con mình, đến nỗi khi về ở riêng với tôi, chồng tôi còn luyến tiếc ước ao:
– Giá mà mẹ ở chung với chúng mình.
Tôi đã phải vùng vằng:
– Anh muốn ở với mẹ thì đừng lấy em nữa.
Mẹ chồng tôi có tài nấu ăn ngon, bất cứ món nhỏ món lớn gì bà đều làm thành món tuyệt vời, chỉ mấy con cá đù tầm thường dưới bàn tay ảo thuật của bà đã trở thành món cá kho ngon lạ miệng, miếng cá se cứng, thấm gia vị đậm đà ăn hoài không thấy ngán, hay đơn giản như món sương sa mùa hè bà hay làm, ăn đến đâu thơm mát đến đó, và mát vào cả tới tim gan phèo phổi.
Cho nên mỗi khi vợ chồng cãi vã giận hờn anh ta lại về nhà mình, vừa làm cao với vợ, vừa nhân thể được ăn ngon để … bù đắp lại những thiếu sót, vụng về của vợ.
Làm con dâu một bà mẹ chồng giỏi bếp núc, tôi đã vụng về, lại càng trở nên vụng về hơn bao giờ hết.
Mẹ tôi nhìn tờ lịch trên tường và khuyên:
– Còn một tuần nữa là Tết âm lịch, vợ chồng nên bảo nhau làm huề cho vui nhà vui cửa, và đón Tết theo truyền thống ông bà cho phải phép.
Được mẹ chiều, cho ăn ngon vừa ý, chắc là chồng tôi sẽ… quên mất ngày về “đoàn tụ” với vợ, và tôi sẽ “ăn nhờ ở đậu” với mẹ tôi lâu hơn, Tết nhất thì có nhằm nhò gì. Tôi tự ái:
– Không cần mẹ ạ, con sẽ ăn Tết với mẹ, còn anh ấy ăn Tết với mẹ anh ấy. Thế là cả hai cùng… vui.
– Con nói thế sao được, vợ chồng là phải có nhau chứ.
Tôi chạnh lòng vì câu nói của mẹ, bỗng dưng thấy nhớ nhà, nhớ những khung cửa sổ đang khép kín, vắng hơi người, im tiếng nói tiếng cười của đôi vợ chồng trẻ. Đáng lẽ giờ này những cánh cửa sổ nhà đã mở, mùi cà phê buổi sáng anh pha thơm trong gian bếp, và tôi với anh sẽ đứng bên một khung cửa sổ nào đó cùng nhìn “Cây Sầu Đông”, mà mơ mộng, bâng khuâng, tay anh âu yếm quàng qua vai tôi, sẽ ấm cúng biết bao.
Tôi vào phòng thay quần áo, mẹ tôi ngạc nhiên:
– Con đi đâu sớm thế? Sao không ở nhà đợi chồng con đến đây? mẹ có linh cảm là hôm nay nó sẽ đến tìm con làm huề đấy.
– Con về nhà lấy thêm vài món đồ cần dùng mẹ ạ.
– Giời ôi, con tính ở đây lâu dài hả?
Tôi nói dối mẹ vì lòng tự ái của tôi cao như mây trên trời, làm sao tôi dám nói với mẹ rằng tôi cũng nhớ nhà, nhớ chồng, và đang tha thiết mong gặp lại anh? Đã 2 ngày qua, tôi nguôi giận và thấy mình cũng có lỗi trong chuyện cãi vã này.
Tôi lái xe về nhà, ngạc nhiên thấy từ xa những khung cửa sổ đã mở. Thì ra anh đã về nhà trước, khi tôi bước vào là lúc anh đang pha một ly cà phê thơm phức như tôi vừa tưởng tượng lúc nãy. Ôi, khung cảnh quen thuộc, mùi thơm quen thuộc… đây mới chính là nơi chốn của tôi.
Hai vợ chồng nhìn nhau, cả hai như cùng được điều khiển bởi một mệnh lệnh vô hình, chạy tới ôm chầm lấy nhau cùng một lúc:
– Em tha lỗi cho anh nhé?
– Anh cũng đừng trách em nhé?
Anh cương quyết nhận lỗi:
– Không, anh mới là người có lỗi, đáng lý ra anh bàn bạc với em trước về việc góp tiền cùng gia đình gởi về quà Tết cho thân nhân, họ hàng bên Việt Nam thì hay hơn.
Tôi cũng cố tranh dành:
– Em mới là người có lỗi, đáng lý ra em nên nhẹ nhàng từ tốn hỏi anh thay vì cằn nhằn sưng xỉa thì tốt hơn. Làm hai vợ chồng mình giận nhau, làm mẹ em và mẹ anh đều buồn và tốn công phục vụ cơm nước cho hai đứa mình.
– Tại anh mà!
– Tại em mà. Thôi thì tại mỗi người một nửa anh nhé? cuộc sống ngắn lắm, mình giận hờn nhau là đã bỏ phí đi một khoảng thời gian vô giá để yêu thương nhau rồi đấy.
– Anh vừa buồn vừa nhớ em vô cùng, nên quay về nhà, tính uống xong ly cà phê sẽ sang nhà mẹ đón em về.
– Thì ra mẹ em đoán chẳng sai tí nào…
Tôi nồng nàn úp mặt vào vai anh:
– Em cũng thế, cả buổi sáng nay cứ thấy lòng bâng khuâng, thấy nhớ nhà và nhớ anh nên em trở về. Nãy đứng bên cửa sổ nhà mẹ nhìn “Cây Sầu Đông” mà em buồn muốn khóc.
Rồi tôi trêu chọc:
– Thế anh không muốn ở lại nhà mẹ lâu hơn để được nuông chiều với các món ăn ngon lành nữa sao?
Anh thì thầm âu yếm:
– Thà ăn dở mà được gần em vẫn hơn. Mẹ anh cũng như mẹ em, nói là em đang mong chờ anh về. Anh nhớ em, anh cần em, anh cũng nhìn “Cây Sầu Đông” bên cửa sổ nhà mẹ anh mà nhớ em muốn điên cả người, vì anh biết em thích mơ mộng với hình ảnh ấy, nên chỉ mong sao có em đứng bên cạnh. để anh được mộng mơ cùng.
Giọng anh vui hẳn:
– Bên mẹ đã mua sắm chuẩn bị cho những món ăn Tết cổ truyền Việt Nam, mẹ nói Tết năm nay mình sang bên mẹ ăn Tết cho vui.
– Nhưng em muốn mình vẫn có cái Tết của riêng mình, tại nhà mình.
– Vậy chiều nay vợ chồng mình đi mua đồ sắm Tết, tới ngày Tết mình sẽ làm một bữa mời cha mẹ hai bên cùng vài người bạn thân, sau đó sẽ lần lượt đến ăn Tết bên anh, bên em để cho hai bà mẹ yên chí, ăn ngon ngủ yên.
– Vâng, anh tâm lý thật, mỗi lần thấy em xách va ly về nhà là mẹ em lo buồn lắm. Làm như em là của nợ đời.
– Còn mẹ anh thì bồn chồn, chỉ muốn tiễn anh về nhà sớm. Không phải lúc nào vòng tay mẹ hiền cũng mở rộng đón con thân yêu đâu nhé em.
Tôi nũng nịu:
– Anh phải chở em đi farm để mua gà tươi sống, em sẽ nấu món miến gà cúng chiều 30 Tết thật ngon cho anh ăn. Cái món mà anh vẫn thích mẹ anh nấu ấy. Hi vọng món miến gà của em sẽ “cạnh tranh” được với miến gà của mẹ anh.
Chồng tôi rối rít khen:
– Không ngờ em lại giỏi đến thế.
– Vì em thấy anh khen mẹ anh hoài nên em “tự ái” phải lo học hỏi bạn bè để biết nấu món như người ta, bảo đảm món miến gà sẽ làm anh vừa lòng, nước lèo thơm ngon, sợi miến trong dai, thịt gà luộc vừa chín tới, xé nhỏ, rắc tí tiêu và hành ngò lên thì không thua gì món nhà hàng cao cấp nhé.
– Nhất định anh sẽ để bụng đói để ăn món miến gà chiều 30 Tết của em. Thôi, để anh ra uống ly cà phê kẻo nguội mất…
Anh mang ly cà phê đến bên tôi, chúng tôi đứng bên khung cửa sổ. Giọng anh êm đềm như gió Xuân từ nơi đâu thổi về:
– Em ơi, mùa Xuân của quê hương mình đang về, nên dù ở đây là mùa Đông mà vẫn ấm lòng em nhỉ?
– Anh chỉ nói đúng một nửa thôi, một nửa còn lại là vì chúng mình vừa làm lành với nhau, biết tha thứ cho nhau, nghĩa là vẫn yêu nhau tha thiết.
Ngoài kia những “Cây Sầu Đông” vẫn chìa bao nhiêu là cành khô màu nâu nhạt, hiu hắt, khẳng khiu giữa nền trời mây xám giăng giăng và lạnh đầy. Nhưng kỳ diệu thay, tôi không thấy u buồn nữa, mà chỉ thấy một mùa Xuân tươi thắm đang rực rỡ trên những “Cây Sầu Đông” của tôi .

Dương Quân
Khúc tình buồn

Đã qua rồi, vàng thu bay lá rụng
Hoàng Gia ơi! Công Chúa ngủ trên rừng
Ta nhớ mãi, biển hoàng hôn gió lộng
Người về đâu? sương khói phủ rưng rưng.
Người về đâu? gót son mờ thảm ngọc
Nét dung nghi kiều diễm rợp thềm hoa
Xiêm áo mỏng, xua hồn ai ngây ngất
Tòa thiên nhiên cong vút vóc thân ngà.
Ta chợt thấy ta như người chết đuối
Hoàng Gia ơi! xá tội kẻ thần dân
Xin cung hiến trái tim này chuộc lỗi
Và bài thơ thổn thức mộng phai tàn.
Sao thê thiết, buồn mênh mông lặng lẽ
Công Chúa ơi! có còn ngủ trên rừng?
Người về đâu? để nhạt nhòa nhân thế
Ta đầm đìa giấc ngủ chiếu chăn đơn.
Ta nhớ lắm! ngất ngây, hồn cháy bỏng
Thuở vàng thu, mây trắng, biển tương tư
Xin hái cho ta cành hoa Tuyệt Vọng
Ta sẽ chờ dưới nấm mộ hoang sơ.

Nhớ nắng

Bây giờ chắc đã vào xuân
Mà sao vẫn lạnh như gần cuối thu
Vẫn mây trũng thấp, sương mù
Vẫn thương nhớ lắm, vẫn tương tư nhiều.
Vì đâu đình đổ, quán xiêu
Thế nhân bỗng chốc tiêu điều xác xơ?
Hỡi ơi! biển nhớ vô bờ
Xuân thu nhạt nắng, dật dờ khói mây.
Hỏi em, đơn giản câu này:
“Bây giờ bên ấy bàn tay ai cầm?”
Ngọt ngào gọi tiếng tri âm
Nắng xuân chắc đã từ tâm trở về.
Tiếng ai đang thốt lời thề
Nửa hồn tỉnh táo, nửa mê luân hồi
Nhặt lên giọt nắng vừa rơi
Tìm trong thu cũ có người ngủ quên.
Ngổn ngang một gánh ưu phiền
Chắc gì xuân đến ngoài hiên nắng mừng
Chắc gì đã thật vào xuân
Vì sương tuyết nhuộm mấy tầng hoàng hôn.
Thì ra: Nhớ nắng mỏi mòn
Mà sao xuân vẫn mãi còn phiêu lưu?

Lời ru mùa xuân

Ru em về ngủ bên hoa
Màn sương giăng mỏng, trăng tà lung linh
Ru em tròn giấc yên bình
Cho môi em mọng, cho tình em say
Cho nhô triền núi cao đầy
Cho rừng ven suối cỏ cây chập chùng
Ru em bờ bãi mênh mông
Triều dâng sóng vỗ ngợp vòng bình nguyên
Xuân nồng dài tiếng ru em
Gối đầu tựa cánh tay mềm thon von
Mai này xuân dẫu phai mòn
Tình em vẫn thắm khi còn cội hoa.

Lan Cao
Bóng tình yêu

Đêm thủy tinh rơi
Cô gái tóc vàng tĩnh lặng
Tương tư người yêu, sa mạc mặt trời
Từng phút sống, canh chừng phút chết
Hơi thở vào không kịp nuốt buồn vơi.

Ngoài vườn hoa hồng nở
Mắt nàng đăm chiêu
Dãy phố già ngủ say trong mộ tuyết
Heo hắt đèn khuya
Tóc xỏa bóng linh hồn yêu khao khát
Đuổi giấc mơ, xin chân thật quay về.

Tiếng gió tri trô
Cây lá khóc, hạt buồn nhỏ xuống
Nàng cũng khóc
Góc lòng rớm máu bóng người thương
Vòng tay hụt hẫng
Tuổi đang yêu, chưa kịp trẻ miên trường.

Tiếng bom tự sát
Vở trái hồn đôi trẻ hẹn chờ nhau
Mùa chín ngọt, vườn môi ân ái
Lạnh lùng như mây trôi
Gió lòng nổi loạn
Bóng hình nào! Ôi hạnh phúc ngàn sau.

Cảm thấy đời

Đời như khúc gỗ mục
Trôi trên biển thiên tai
Trong dòng đời bão tố
Nấm mộ ôm thi hài.

Đời vàng như đốm lửa
Chợt tắt trên thây người
Em quỳ lên sám hối
Mở trang Kinh nghẹn lời.

Đời như hoàng hôn tím
Khiêng nặng một linh hồn
Leo lên đồi dốc đá
Hụt hơi trong đêm buồn.

Đời bức tranh cát bụi
Lõa thể với trăng sao
Anh nghe thầm viên mãn
Gió hư không gọi vào.
Đời sinh ra đã khóc
Nằm xuống trắng hai tay
Viết tình yêu vào mắt
Bài thơ đời chua cay.

Xuân Du
Vẫn như xưa

mấy ông
chừ bảnh quá chừng
còn tôi
thì vẫn lừng khừng
như xưa
một đời
đá cá
lăn dưa
sáu mươi lăm tuổi
còn chưa ra hồn
cũng may
cái xác này còn
sáng
lên núi ngủ
chiều
lon ton về…

Nhớ quê

chiều lên
buồn nhớ
quê hương
nhớ con dốc nhỏ
em thường thường qua
nhớ vầng ráng
nắng
chiều pha

nhớ đàn cò trắng bay
và nhớ em
chiều lên
con phố im lìm
bỗng dưng
nhớ tiếng
chim bìm bịp kêu
bỗng dưng
nhớ buổi cơm chiều
dưới giàn hoa lý
gió dìu dịu đưa
chiều lên
ngồi
ngó vu vơ
ngó
con dốc nhỏ
nằm
chờ xe qua
bỗng rưng rức
nhớ
quê nhà
nhớ
bầy đom đóm
lập lòe
đêm đông
chiều lên
ngồi nhớ hương đồng
nhớ bờ tre
tiếng
chim còng cọc kêu
nhớ đêm
nghe tiếng sáo diều
Nhớ hàng so đũa
lá đìu hiu rơi.

Nguyễn Thị Thanh Dương
CHỢ CHIỀU 30 TẾT.

Tôi đã thấy chợ chiều ba mươi Tết,
Buổi chợ cuối cùng trong suốt một năm,
Kẻ bán người mua vội vàng hấp tấp,
Để kịp về nhà sửa soạn đón Xuân.

Vài con gà nhốt trong lồng trơ trọi,
Chắc đang buồn vì xẻ lứa tan bầy?
Giá đắt rẻ không như lòng mong đợi,
Người cần mua hay cần bán chiều nay.

Bà bán hàng thịt heo đang thu xếp,
Những miếng thịt ôi lặng lẽ nằm chờ,
Đã bao bàn tay cầm lên đặt xuống,
Đến bây giờ vẫn chưa có người mua.

Vẫn kiên nhẫn đợi chờ người khách cuối,
Không có tiền nên sắm Tết cận ngày,
Miếng thịt ế hay con gà mua vội,
Cũng đón Xuân về dù chẳng bằng ai.

Nhà nghèo con đông mua thêm chục trứng,
Thịt kho tàu ăn dưa giá cũng ngon,
Nải chuối xứ xanh trên bàn thờ cúng,
Hộp mứt dừa, trái dưa hấu hai bên.

Những người bán hàng chiều ba mươi Tết,
Muốn kiếm thêm tiền nhân dịp cuối năm,
Để trang trải món nợ nần vay mượn,
Hay có chút tiền tiêu lúc ra giêng.

Những kẻ mua hàng chiều ba mươi Tết,
Bằng đồng tiền ít ỏi cực trăm bề,
Mong mua rẻ món hàng vào phút chót,
Kẻ bán người mua cùng nỗi nhiêu khê.

Chiều dần tàn, chợ cũng dần thưa vắng,
Bước chân người mua bán đã về đâu?
Những chậu hoa Xuân bây giờ thành rác,
Những lá rau tàn vương vãi, hồn đau?

Tôi đã thấy chợ chiều Ba Mươi Tết,
Buổi chợ cuối cùng trong suốt một năm,
Bỗng như thấy cảnh chợ đời mỏi mệt,
Thấy quanh mình buồn hiu hắt gió Xuân.

Tình Hoài Hương
Chuyện non nước
và chuyện chúng mình

Mộng hải hồ anh vui đời lính chiến.
Em tiễn anh tre nghiêng bóng ven đường.
Giếng mắt u hoài chợt sáng niềm thương.
Con đê uốn khúc gập ghềnh đây đó.

Xin cái hẹn đến người em bé nhỏ.
Dẫu tháng ngày cuộc chiến có điêu linh.
Nắm tay nhau ta nguyện ước chung tình.
Kề vai dạo bước trăng thanh thân ái.

Có nhau rồi đời nên thơ biết mấy!
Sóng thuyền yêu gió lướt đẩy mây đưa.
Dìu nhau hò hẹn những buổi sớm trưa.
Lòng son sắt như người xưa vườn Thúy.

Tình thắm thiết đôi ta hằng chung thủy.
Yêu quê hương anh vui mộng công hầu.
Đừng để tháng ngày xa cách dài lâu.
Chuyện non nước, chuyện cùng nhau nguyện ước.

Đường xa trải khi anh hùng mỏi bước.
Dừng gót giang hồ nghỉ phép thăm em.
Dưới giàn hoa thiên lý mộng trăng thềm.
Anh hồi hộp… nắm tay em hôn nhẹ.

Yên Sơn
KHÚC KHUỶU DÒNG ĐỜI

Buổi sáng thứ Tư trong tuần mà điện thoại trong phòng làm việc của hắn reo liên tục, vừa hết cú này sang qua cú khác! Trong lúc hắn đang tìm mọi cách để giải quyết trục trặc hệ thống server của một khách hàng “nặng ký” qua điện thoại thì thằng Quản Đốc tới bảo là lên văn phòng gặp hắn sau khi giải quyết xong vấn đề của khách. Hắn giật mình nhưng đang nói chuyện với khách nên gật đầu ra dấu “nhận hiểu” và tiếp tục cuộc điện đàm.

Gác máy điện thoại xong, hắn ôn lại cuộc điện đàm vừa qua để kiểm soát thử mình có nói điều gì vi phạm “guideline” của hãng hay không. Chuyện “lỡ lời, thiếu kiên nhẫn, mất bình tĩnh” với các ông bà nội khách hàng cứng đầu, ta đây, mất lịch sự vẫn không tránh khỏi mặc dù công ty đã có những biện pháp nghiêm cấm nhân viên làm mất lòng khách hàng ở bất kỳ hoàn cảnh nào, khía cạnh nào hoặc hình thức nào. Tất cả các kỹ sư trong Technical Depatment này đều được cấp trên tặng cho những “sản phẩm” làm bằng mủ nhẹ, để “hả giận” nếu gặp nhằm những khách hàng khó ưa, xấc láo. Dù vậy, chuyện các “ngài kỹ sư” đá thùng rác, dộng bàn, dộng vách, hoặc những tiếng kêu trời sau khi “mute” đầu dây điện thoại, rồi vò đầu bứt tóc, than vãn như bọng vẫn xảy ra trong “khu phố” như cơm bữa… Gọi là “khu phố” vì mỗi giám thị trông coi một khu, có khoảng chừng 20 văn phòng lỡ (partition) nằm sát vách nhau. Công ty có “auditting department” để kiểm soát tất cả các cuộc điện đàm của nhân viên với khách hàng. Rất nhiều khi giám thị hoặc quản đốc cũng theo dõi nhân viên dưới quyền tại văn phòng của họ. Việc Giám thị hoặc Quản đốc bỗng nhiên xuất hiện mời lên văn phòng cũng không phải là điều xa lạ gì đối với nhóm kỹ sư trong department này. Bản thân hắn cũng đã vài lần bị sao quả tạ. Nhất là có một lần thằng khách hàng trời đánh gọi hắn là “stupid Chinaman”! Vốn liếng tiếng Mỹ của hắn đâu có tệ nhưng có lẽ nước mắm đã ướp đầu lưỡi hắn cứng cáp hơn nên dù có sửa đổi cách mấy cũng không thể qua mặt những người sành sõi âm giọng ngoại quốc. Ngoài ra, lâu lâu cũng có đồng nghiệp chửi khách hàng thẳng tay, chửi luôn cấp trên xong tự động ra về nghỉ việc. Ôi! Cái thời buổi thị trường Computer cạnh tranh nhau một cách gắt gao; thời buổi mà các công ty điện toán đua nhau đưa “job” ra nước ngoài để có thể cắt giảm chi phí tối thiểu, để có thể hạ thấp giá thành sản phẩm tối đa mong bảo tồn market share, quả thật vô cùng chua cay cả cho chủ lẫn người làm. Ôi! Quả là thời buổi gạo châu củi quế!
Dò đi dò lại không thấy có vấn đề gì rong những cuộc điện đàm từ sáng tới giờ, hắn yên tâm logged out, đứng lên đi về phía văn phòng. Vừa đi vừa suy nghĩ lung tung. Không biết có chuyện gì đây, không lẽ được báo tin nghỉ việc?!? Không thể thế được mặc dù công ty đang dần dần sa thải nhân viên! Không thể có chuyện sa thải hắn trong lúc department còn quá nhiều đồng nghiệp “non tay ấn”, nhiều nhân viên có tiếng lười biếng, hoặc có thành tích “con rùa”! Hắn nghĩ là hắn sẽ phải là nhóm người ra đi cuối cùng của department nếu việc cắt giảm nhất định phải xảy ra. Hắn tự tin lắm vì ngoài tài giải quyết vấn đề cho khách hàng nhanh chóng, giải quyết nhiều vụ khó khăn mà nhóm kỹ sư “tiền tuyến” đầu hàng. Hắn lại có thâm niên công vụ nữa, đã từng được nhiều tưởng thưởng từ cấp trên với thành tích siêng năng – không bao giờ từ chối làm giờ phụ trội, làm cuối tuần; tình nguyện làm ngày lễ hoặc có ai yêu cầu làm thế – Hơn thế nữa, hắn đã từng được tuyên dương là “nhân viên xuất sắc của tuần, của tháng” – mặc dù cũng có vài lần bị giám thị bắt gặp quả tang hắn đang ngồi miệt mài viết email riêng tư mà không bị khiển trách. Trên tất cả những điều như đã kể, hắn còn hơn đồng nghiệp về tính tình vui vẻ lẫn chuyên môn. Luôn sẵn lòng giúp đỡ đồng nghiệp khi họ gặp khó khăn dealing với khách hàng! Hắn đã có trong tay những chứng chỉ đòi hỏi trong ngành nghề; đặc biệt nhất, hắn đã lấy xong bằng MCSE (Microsoft Certified System Engineer) tháng rồi, sau hơn một năm dài miệt mài vừa học vừa ngủ gục sau giờ tan sở. Hắn hãnh diện lắm vì hắn là một trong số bảy người có bằng cấp này trong cả technical support department hơn hai trăm mạng. Trời ơi, thi xong bảy cái test khác nhau của cấp bằng này là cả một cố gắng phi thường cho một người vừa làm toàn thời gian, vừa đi học chứ phải dễ dầu gì đâu. Cả tháng nay hắn vẫn trông chừng bao giờ được tăng lương mặc dù có sự cắt giảm nhân viên đang xảy ra! Chỉ cách năm bảy năm trước, ai có được bằng MCSE cũng được bảo đảm số lương tối thiểu là sáu chục xấp. Dù bây giờ có phổ thông đi nữa, giá trị của nó cũng còn là niềm hãnh diện và phúc lợi cho người sở đắc trong lãnh vực điện toán. Hắn tự trấn an “không thể nào đâu” khi bước vào văn phòng Quản đốc.
Trong văn phòng đã có thằng Giám thị khu vực của hắn ngồi đó. Quản đốc lịch sự mời hắn ngồi đối diện với thằng Giám thị, xong tự đứng lên đóng cửa văn phòng. Dù việc đóng cửa văn phòng bao giờ cũng xảy ra để giữ riêng tư cho cuộc thảo luận, nhưng bỗng nhiên làm hắn hồi hộp lạ thường, nhất là không khí nghiêm trọng trong văn phòng lúc này. Hắn ngước mắt nhìn gương mặt của thằng Giám thị rồi hướng về phía người Quản đốc! Trong đầu hắn bỗng nhiên mất cả tự tin “không thể như thế được!” Anh chàng Quản đốc là một người Mỹ trắng khoảng 40 tuổi, bình thường nói năng nhã nhặn, lịch sư, tính tình phóng khoáng và vui vẻ. Từ lúc anh chàng về làm Quản đốc department này đến nay, cũng đã hơn bốn năm rồi, dường như hắn chưa bao giờ thấy anh chàng nghiêm nghị như hôm nay. Lòng hắn xao xuyến khi nghe anh chàng hỏi:
– Anh nghĩ là chúng ta sẽ nói chuyện gì hôm nay?
– Chắc chắn không phải tôi có vấn đề gì với khách hàng phải không?
– Cứ đoán đại thử (take a rough guess)!
– Tôi được tăng lương?
– Không! – anh chàng Quản Đốc tránh ánh mắt hắn.
– Các anh đừng nói với tôi là tôi sắp phải ký giấy nghỉ việc đó nha!
– Thật là điều không may mắn, nhưng đó là sự thật! – anh chàng Quản đốc nghiêm nghị. Hắn mở to mắt như không nghe, không tin điều hắn vừa nghe:
– Tôi hy vọng các anh không đùa dai với tôi đấy chứ?
– Rất tiếc! – anh chàng nói giọng đưa đám – Chúng tôi cũng ngạc nhiên như anh!
– Tại sao? – hắn cao giọng như muốn gào lên.
– Lệnh của cấp trên và không có giải thích
– Là Quản đốc, là Giám thị các anh hẳn phải biết họ cho nhân viên nghỉ việc dựa trên căn bản nào chứ?
– Chúng tôi ao ước có được câu trả lời thỏa đáng cho anh! Nhưng tôi biết chắc một điều anh cũng biết là department này sẽ dần dà đóng cửa. Việc chúng ta đang làm sẽ là việc của một công ty bên Ấn Độ mà anh đã giúp huấn luyện cho họ từ mấy tháng qua.
– Thì ra là vậy! Nhưng sao tôi lại là người đi sớm?
– Anh biết mà! Lương bỗng của mỗi người chúng ta bằng lương của năm, bảy ngườy kỹ sư bên Ấn Độ làm cùng công việc!
– Tôi thật sự không tin là tôi bị nghĩ việc vì lương cao. Các anh biết đó, tôi đã hoàn tất văn bằng MCSE mà vẫn chưa được tăng lương tương xứng!
– Nếu anh được giữ lại chắc là người ta phải trả lương tương xứng. Tôi chỉ đoán vậy thôi nha, và nên giữ điều đối thoại này tại văn phòng này.
– Tôi hiểu rồi!!! Department này trước sau gì cũng đóng cửa và người ta không muốn có thay đổi gì trong ngắn hạn?
– Không ý kiến!
Vừa nói, chàng Quản đốc vừa đưa ra xấp hồ sơ và chỉ cho hắn ký vào những nơi cần ký. Hắn ngỡ ngàng như người đi trong mộng, e dè cầm bút mà trong đầu vẫn tự hỏi tại sao. Vừa ký giấy vừa hỏi cả hai tên những câu hỏi không ai có câu trả lời. Liệu hắn có bị đối xử bất công, hay bị kỳ thị chủng tộc hay bị phân biệt tuổi tác gì không? Hắn chỉ là một trong hai người kỹ sư Việt Nam trong department này, mà anh bạn kia đã bị cho nghỉ cả tháng rồi. Sau cùng, cả hai ông xếp bắt tay và chúc hắn may mắn. Cho hắn biết là hắn từ từ dọn văn phòng, hắn vẫn được trả lương cho đến thứ Sáu. Chiều thứ Sáu, trước khi ra về, giao chìa khóa văn phòng và công việc cho Giám thị. Và còn nói thòng một câu:
– Nếu anh tin rằng anh bị đối xử không công bằng thì cứ liên lạc với sở lao động!Điều phải đến đã đến!
Ai cũng biết chuyện gì tới sẽ tới, nhưng thường “những sự tới” hay xuất hiện bất thình lình, rất đột ngột làm người ta hụt hẫng, chới với, bàng hoàng và không biết phản ứng ra sao hết! Bước chân ra khỏi văn phòng, hắn đã thấy có vài cặp mắt nhìn hắn như dò hỏi. Hắn thản nhiên bảo đồng nghiệp là việc gì chúng ta lo sợ xảy ra thường xảy ra rất mau, thế thôi! Về lại văn phòng, hắn gieo mình xuống ghế, đầu óc nặng trĩu những u hoài. Một vài người bạn sát bên qua thăm hỏi và chia buồn với hắn. Hắn trực nhớ lại những tiếng xầm xì, thương hại cũng có, phiền trách chê bai cũng có của một số đồng nghiệp về một đồng nghiệp khác bị nghỉ việc vào đầu tuần (anh ta ký giấy nghỉ việc rồi về văn phòng đập phá sau khi khóc lóc là mới mua nhà, mua xe… bị an ninh của hãng còng tay dẫn đi), hắn quyết định chọn thái độ phớt lờ, nói cười tự nhiên dù trong lòng là những tơ vương trăm mối. Không trăm mối sao được khi kỹ nghệ điện toán càng ngày càng sa thải nhân viên, khi những kỹ sư trẻ ra trường rất khó khăn để tìm được một công việc trong ngành nghề này, nhất là hardware; nếu có được thuê mướn cũng chỉ được đồng lương không tương xứng! Không trăm mối sao được khi ngành hardware điện toán được các hãng xưởng đua nhau đem ra nước ngoài! Dù có MCSE, nhưng bao nhiêu kinh nghiệm của hắn đều thuộc hardware! Không bi quan sao được khi tuổi đời đã quá giới hạn để cạnh tranh công việc với sinh viên mới ra trường với số lương tối thiểu; hoặc can đảm nào để “làm lại từ đầu”! Nghĩ tới bốn chữ này tự nhiên hắn rùng mình! Từ ngày qua Mỹ tới nay, 28 năm có dư, hắn đã phải năm lần bảy lượt “làm lại từ đầu”!? Khi còn trẻ người ta không ngại lắm, nhưng ở Mỹ, qua tuổi bốn mươi rất khó bon chen, huống hồ chi… Dù không một hãng xưởng nào đặt điều kiện tuổi tác khi thuê mướn nhân viên (nghiêm cấm là đằng khác. Ở Mỹ, luật sư nhiều tương đương với kỹ sư, bác sĩ… ở một đất nước mà hở ra một chút là có thưa có kiện, dễ đáo tụng tiền đình), nhưng luật bất thành văn ai ai cũng hiểu, cũng áp dụng. Kinh nghiệm này hắn học được qua các khóa Quản Trị sơ cấp và Trung cấp của hệ thống nhà hàng hamburger Wendy’s International khi làm supervisor rồi manager cho một nhà hàng ở miền Bắc California. Cũng như trong các khóa Quản trị nhân viên, khi làm International Sale and Marketing Assistant Director cho hãng Schwan’s Asian Foods.
Hắn muốn gọi điện thoại cho vợ để thông báo tin buồn, nhưng nghĩ đi nghĩ lại là không nên làm nàng phiền muộn trong lòng đang khi làm việc. Hắn ngồi thừ người suy nghĩ hết chuyện nọ đến chuyện kia, đầy những âu lo, và bấp bênh trước mắt! Không âu lo sao được khi cả hai đứa con lớn đang học đại học, đứa nhỏ đang ở cấp trung học! Không âu lo sao được khi hai vợ chồng đều phải đi làm tất bật mỗi ngày để thanh thỏa cuộc sống vật chất với hàng trăm thứ nợ, để con cái khỏi phải vay mượn tiền học, tránh được cho con những số nợ khổng lồ sau khi ra trường. Thế mà bây giờ chỉ còn lại một người! Liệu với số tiền dành dụm lâu nay và số bồi hoàn nghỉ việc sẽ chống đỡ được bao lâu. Đời sống của hắn chắc chắn sẽ vô cùng xáo trộn. Nhưng trên tất cả, câu hỏi vẫn lởn vởn trong đầu “rồi mình sẽ làm gì, đời sống sẽ ra sao”?! Hắn không đủ tự tin là sẽ dễ tìm được việc làm trong ngành nghề này. Càng suy nghĩ càng tức và tiếc. Khổ công chăm chỉ sách đèn cả năm trời, vừa thi đậu đã thành vô dụng! Nếu biết thế, tội gì!
Nếu biết thế, tội gì! Hắn bỗng bật cười! Dường như câu này rất ư thân thuộc, nhất là ngày bỏ nước ra đi! Khi bỏ nước ra đi để lại một người nguyện ước trăm năm mà hắn vẫn trân quý, yêu mến, giữ gìn sau bao nhiêu tháng năm thân thiết. Nếu biết là sẽ chạy thục mạng thì đêm trước đó hắn đã bỏ sở chạy ra Saigon đón nàng cùng đi. Khi bỏ nước ra đi, trong nhà băng hắn để dành hơn nửa triệu bạc. Hắn đã phải giới hạn chi tiêu tối đa, dè sẻng từng đồng để dự định với nàng một đám cưới cho rỡ ràng với bạn bè hai bên! Chưa kể “nếu biết thế” đã rất nhiều lần đến với hắn trong những thăng trầm cuộc sống tha hương
Hắn bước ra khỏi văn phòng tính đi lấy café. Hắn vẫn uống café cả ngày đó mà, nhất là sau những cú phone hóc búa! Đồng hồ đã chỉ 3giờ chiều, hắn sực nhớ là hắn đã bỏ cơm trưa mà không thấy đói. Hắn tự hỏi “mình ở lại làm gì, mình đã là free man rồi mà, đâu có ai bắt buộc mình phải tiếp tục làm việc khi đã được thông báo cho nghỉ việc!” Hắn thu xếp rời văn phòng sau khi chào thằng giám thị.
Con đường dài cả tiếng đồng hồ với tốc độ trung bình 70 dặm một giờ đã đưa hắn đi về mỗi ngày hai bận, ròng rã hơn 5 năm qua, hôm nay xe cộ dường như thưa thớt! Thói quen nghe nhạc trên đường cũng trở thành ồn ào khó chịu. Hắn tắt máy, mở toang các cửa sổ cho gió lộng ào ạt vào xe. Dù là tháng cuối cùng của mùa xuân ở Houston, Texas nhưng khí hậu đã có vẻ oi nồng như đầu hạ, không như ở vùng “Thung Lũng Hoa Vàng” phía bắc, hoặc Orange County phía nam của California – những nơi mà hắn đã từng ở qua. Hắn cố không nghĩ tới chuyện không vui hôm nay, nhưng không thể nào đẩy lui những ưu tư đang dày xéo trong tâm thức được! Không biết gia đình hắn sẽ phản ứng ra sao! Nhất là gương mặt sầu não của “con gái rượu” – nó vẫn gọi nó là daddy’s girl. Nhớ lần thất nghiệp trước, con bé mới có 14 tuổi mà đã cảm nhận được nỗi vui buồn của bố nó. Nó cứ quấn quít một bên, khi nào gặp hắn ở nhà, sau giờ học về mỗi ngày. Nó cứ nói: “bố đừng buồn nghe bố, bố sẽ tìm được việc sớm mà”. Hoặc: “con sẽ không đòi học lái xe khi con 16 tuổi, con sẽ không đòi mua xe mới, con sẽ học giỏi, sẽ rất ngoan, sẽ không đi học đại học xa nhà…” Mới đó mà nó đã học năm thứ ba rồi, vẫn như ngày còn bé, vẫn là con gái rượu, vẫn loanh quanh chuyện trò với bố những vui buồn hàng ngày, đã giữ lời hứa chỉ học lái xe để đi học đại học trong thành phố, đã không vòi mua xe mới khi ra trường “top ten”. Hắn thật sự không sợ vợ hắn buồn mà chỉ lo con gái!!!
Hắn lắc đầu thật mạnh, cố xua đuổi hình ảnh không vui làm tay lái chao đảo. Chiếc xe lạng qua bên trái một chút, tiếng bóp kèn cùng với tiếng va chạm đụng xe… Hắn điếng người, tìm cách tấp nhanh vào lề phải cùng lúc với chiếc xe kia. Người tài xế là một anh trung niên da màu, mặt mày giận dữ, dùng tiếng Đức xả láng với hắn khi hắn vừa bước xuống xe. Thấy tài xế không việc gì hắn thật hú vía, ngỏ lời xin lỗi! Hắn nói là hắn có bảo hiểm, đề nghị trao đổi chi tiết không cần chờ cảnh sát nhưng tên tài xế không chịu, nhất định gọi cảnh sát. Trong khi anh chàng gọi cảnh sát, hắn có dịp quan sát cả hai xe. Ở cửa sau bên trái của xe hắn đã như chiếc bánh tráng nhúng nước trong khi đầu bên phải xe anh chàng cũng bể hết đèn và móp thật sâu. Cả hai xe đều là xe Nhật Bản! (người miền nam nước Mỹ rất chuộng xe Nhật Bản trong khi dân miền bắc bao giờ cũng rất bảo thủ, 90% người dân chỉ mua xe Mỹ).
Nỗi bực bội càng thêm bực bội khi nắng chiều vẫn còn rọi xuống chang chang. Đứng ngoài nắng chờ cảnh sát tới biên phạt quả là không thể không phiền! Mãi tới gần tiếng đồng hồ sau mới lãnh xong cái giấy phạt về tội bất cẩn (reckless driving). Càng phiền não hơn khi sực nhớ là xe mình chỉ có bảo hiểm một chiều! (khi có tai nạn mà mình là người có lỗi thì hãng bảo hiểm chỉ đền cho người ta). Chao ôi nào là đóng tiền phạt, tiền sửa xe, bảo hiểm sẽ tăng giá… và sự bất an của gia đình trong những ngày tháng tới!!!
Đang ngủ ngon giấc thì con bé vào gọi dậy ăn cơm tối. Nhìn đồng hồ thấy đã 8g. Trên bàn ăn có đông đủ mọi người, nhất là thằng con trai lớn rất ít gặp. Rất ít gặp vì nó đi chơi với bạn bè nhiều hơn ở nhà. Học bao nhiêu năm rồi mà vẫn chưa tới đâu, trong khi bạn bè trang lứa của nó đã xong đại học, đứa học thêm, nhiều đứa đã đi làm! Ít gặp vì khi nào gặp cũng bị hắn la rầy nên tránh mặt! Đang muốn hỏi chuyện nó nhưng thấy tia nhìn khác lạ của vợ khiến hắn chợt nghĩ lại thân phận mình! Hắn im lặng ngồi xuống, cảm nhận như có điều bất thường.
Xong bữa cơm, đang khi mấy mẹ con dọn bàn, thằng con lớn mời mọi người ngồi lại vì nó có chuyện muốn nói. Hắn ngạc nhiên lắm, không biết chuyện gì mà trông nó nghiêm trang chưa từng thấy. Trực nghĩ tới vẻ mặt nghiêm trang của thằng Quản đốc hôm nay ở sở, hắn nhột nhạt trong lòng, ngồi yên lặng. Hắn đã tính khi mẹ con dọn bàn xong thì hằn sẽ nói về chuyện hôm nay, chưa kịp lên tiếng thì thằng con đã làm hắn lên ruột:
– Thưa Ba Mẹ, con xin lỗi đã làm phiền lòng Ba Mẹ từ mấy năm nay, con không thể nào chú tâm vào sách vở được! Những điều con sắp nói ra đây, hy vọng không làm Ba Mẹ và các em thất vọng. Con đã suy nghĩ nhiều về đề nghị của Ba Mẹ năm trước là nếu con không thể học được thì nên đi vào quân ngũ một thời gian! Lúc đầu con rất buồn lòng Ba Mẹ, nhưng càng ngày con càng thấy là con không còn lối thoát nào hơn! Con đã lén Ba Mẹ nộp đơn vào quân đội, muốn làm pilot như Ba hồi xưa nhưng họ nói con cao quá (6 feet 5), vì thế con làm đơn xin gia nhập Bộ Binh từ nhiều tháng nay. Con đã hoàn tất việc khám sức khỏe và xong phần điều tra lý lịch cá nhân. Hôm nay con nhận được giấy báo trình diện nhập ngũ. Con phải đi ngày thứ Bảy tới này. Con sẽ đi về ngành thẩm vấn điều tra Quân đội. Đó là tất cả những gì con muốn nói hôm nay. Một lần nữa con xin lỗi Ba Mẹ đã không học hành thành đạt như Ba Mẹ mong ước!
Thằng con nói một hơi, nửa Việt nửa Mỹ, nhưng mạch lạc, rõ ràng. Mẹ nó với nét mặt âu lo và phảng phất buồn, hỏi chương trình huấn luyện ra sao, ở đâu? Nó cho biết là 3 tháng huấn nhục (boot camp) và căn bản quân sự ở Fort Sil, Oklahoma; 4 tháng tiếp học ngành chuyên môn ở Fort Huachuca, Arizona; xong sẽ về trường Sinh Ngữ Quân Đội ở Monterey, California để học tiếng Trung Hoa 2 năm. Sau đó sẽ được bổ nhiệm đi Châu Á!
Hắn ngồi yên lặng từ đầu tới cuối, lòng đắm chìm trong những buồn vui lẫn lộn, mắt ngó thằng con chăm chăm. Vui vì cuối cùng nó đã thấy được những lỗi lầm và có thể tự quyết định điều đúng đắn. Nhưng buồn ơi thấy con như chim chưa đủ lông cánh đã bay vội vào giông bão cuộc đời! Mặc dù cả năm qua ít thấy mặt nó ở nhà nhưng dù sao nó cũng còn đi đi về về, chỉ ham chơi hơn sách vở chứ không có rượu chè hút xách gì cả. Hắn thấy như có chút hụt hẫng, mất mát!
– Anh nghĩ sao mà không nói với con một lời như vậy? – Mẹ nó hỏi. Không hiểu sao hắn lại trả lời cụt ngủn:
– Thì dù gì nó cũng đã tự quyết định rồi mà!
– Ba không giận con chứ? – thằng con e dè phân trần – Con chỉ muốn surprise Ba Mẹ và các em thôi chứ không cố tình dấu diếm Ba Mẹ đâu!
Mẹ nó vội đỡ lời:
– Thì mấy năm trước anh đã không khuyến khích nó đi Quân Đội là gì?!
– Ba không có gì để nói, chỉ muốn mọi sự tốt lành cho con! Ba không giận con nhưng thấy không được vui trong lòng, cảm thấy có cái gì mất mát!
Nói xong hắn đứng dậy rút vào phòng đọc sách. Không muốn nói gì thêm trong lúc này khi thấy mặt mấy mẹ con buồn dàu dàu và không khí khá buồn tẻ! Một ngày thôi! Một ngày ngắn ngủi mà có bao nhiêu là điều oan trái xảy ra! Dù sự nhập ngũ của con trai lớn không hẳn là sự mất mát nhưng sao cảm giác cứ bùi ngùi! Dù sự mất việc không là một điều mới mẻ trong tình trạng kinh tế chung hiện nay, nhưng kéo theo tai nạn đụng xe quả nhiên là một đại họa trong lúc này! Nếu người ta hay ví “Sông có khúc, người có lúc” thì đây quả là một khúc khuỷu nguy hiểm của dòng sông, là một trong những lúc khó khăn nhất trong đời tỵ nạn của hắn vậy!

Song An Châu
Tình anh vẫn mãi đậm đà

Mong em về lại quê nhà
Tình anh vẫn mãi đậm đà như xưa
Dù rằng sớm nắng chiều mưa
Lòng anh tạc dạ, tình xưa vẫn còn.
Dù em góc núi đầu non
Mong em ngày tháng mõi mòn nhớ nhung
Chừng nào trở lại miền Trung
Nhớ về quê cũ tương phùng anh mong.
Sông Hương nước chảy theo dòng
Giờ đây hết lũ, tiết đông không hàn
Nhưng anh đau xót vô vàn
Thương em xứ lạ có gian nan hề.
Bây chừ nặng gánh sơn khê
Nặng tình phụ mẫu trăm bề lo toan
Mần răng hết nỗi cơ hàn
Đổi đời anh sốc, bàng hoàng lâu nay.
Dù cho mù mịt đường bay
Nhớ về gói trọn tình này nghe em
Trăng khuya đã xế bên thềm
Hương xưa ngày cũ dáng em xuân thì.

Em về tìm lại những gì
Mà em đã mất lúc đi xa nhà
Tình anh vẫn mãi đậm đà
Mong rằng muôn kiếp đôi ta chung đường.

Vui xuân thái hòa

Hoa Xuân nở rộ bên thềm
Sao lòng chẳng thấy ấm êm chút nào
Xuân về lòng lại nao nao
Nhớ quê, nhớ mẹ dạt dào tình thâm.
Bỏ quê, xa mẹ bao năm
Nay thân viễn xứ đêm nằm lệ tuôn
Giờ đây là khách viễn phương
Quê người tạm trú, tạm nương náu nhờ.
Chờ cho quê mẹ bao giờ
Đêm dài bừng sáng dựng cờ đón Xuân
Nước non một mối ăn mừng
Toàn dân đoàn kết vui xuân thái hòa.

Xuân này em có vui không

Xuân này em có vui không?
Em có mua được pháo hồng mừng Xuân
Mua hoa quả bánh để chưng
Ngày ba mươi Tết đón mừng tổ tiên
Xuân này nếu em có tiền
Mua dùm anh chút oan khiên trong đời
Cho người dân được thảnh thơi
Cho muôn người nở nụ cười ngày Xuân
Xuân này anh cũng chúc mừng
Em vui đón Tết, mừng Xuân thanh bình
Vui Xuân phải nhớ quê mình
Mấy Xuân chưa được hồi sinh ngày nào
Xuân này mình phải làm sao
Chia vui xẻ đắng đồng bào mình thương
Bao năm gánh chịu tai ương
Sống trong nghèo đói trăm đường khổ đau
Vui Xuân em nhớ năm nào
Lìa xa Tổ Quốc còn đau đớn lòng
Xuân này mẹ đợi em mong
Bạn bè dăm đứa cũng trông mình về
Mừng Xuân vui Tết nơi quê
Cả nhà đoàn tựu trăm bề vui Xuân.

Chiều xuân đất khách

Chiều 30 Tết, con nơi đất khách
Đốt nén hương, vọng bái quê nhà
Mùa xuân nữa, không về thăm mẹ
Bao năm rồi, chưa viếng mộ cha.
Nay lòng con buồn không thể tả
Nỗi niềm riêng chan chứa sầu thương
Ngày ra đi, nuốt hận lên đường
Con đâu muốn giã từ Tổ Quốc!
Ngày cuối năm, sầu lên chất ngất
Nhìn quanh. Ồ! Đất địa người ta
Nương thân cho ngày tháng trôi qua
Đâu phải thiên đàng hay đất hứa!?
Tuy xa cách, lòng con luôn nhớ
Quê hương mình là nước Việt Nam
Chiều nay cuối năm, nơi đất khách
Đốt nén hương, cầu cho đất nước:
– Được BÌNH AN!

Lưu Ca
Tình buồn

Sương thu che khuất núi đồi,
Sao không phủ kín giùm tôi nỗi buồn !
Chiều thu lặng ngắm mưa tuôn,
Sóng thu biền biệt xa nguồn thân yêu,
Lá thu vàng úa tiêu điều,
Bao nhiêu xác lá, bấy nhiêu cơn sầu.
Đêm thu tình cũ còn đâu,
Hương thu gợi nhớ, ngàn dâu thẫn thờ,
Khói thu lơ lửng chơ vơ,
Sắc thu vàng võ như chờ đợi ai,
Mây thu lạc hướng bay bay,
Tiếng thu da diết bi ai não nề,
Nhạc thu tình khúc lê thê *
Lắng nghe nửa đoạn đã tê tái lòng,
Tình thu lỡ tiễn sang sông,
Đôi bờ ngăn cách, đôi dòng châu rơi.

(* Les feuilles mortes)

Sáo bay

Tôi không đem sáo sang sông
Mà sao sáo vẫn sổ lồng sáo bay!

Sáo vù ra khỏi tầm tay
Cho tôi khắc khoải đêm ngày ngóng trông
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Nhìn nam ngó bắc chờ mong sáo về

Cách xa nghìn dậm sơn khê
Sáo ơi có nhớ thương về cố hương?
Đi tìm, áo nhuốm bụi đường
Giày mòn, chân mỏi, phong sương gọi sầu

Đêm nay thức trắng canh thâu
Nghe tim nhói buốt, dòng châu sắp tràn
Sáo bay, buồn chiếm không gian
Bặt tăm tin sáo, ngỡ ngàng phận tôi

Từ khi sáo đã bay rồi
Ngày ngày tôi ngắm mây trời cuối thu
Mơ màng nỗi nhớ chơi vơi
Dường nghe tiếng sáo, bời bời niềm đau

Nửa khuya nhớ lại ngày nào
Sáo theo hoàng hạc khuất vào chân mây.

Phan Xuân Sinh
THƯ TÌNH,THỜI ÐI HỌC

Trong thời còn là học sinh, ai cũng có những mối tình. Có thể thương thầm nhớ trộm, có thể có một chút tình ý với nhau, có thể tiến xa hơn là hai bên đã phải lòng với nhau. Từ xưa cho đến nay tình yêu bao giờ cũng tiến triển tuần tự theo các giai đoạn đó. Thời trước như thế nào thì tôi không biết, chứ thời học sinh của thế hệ tôi, chỉ chừng hơn ba mươi năm trước thôi, tình yêu lúc ấy sao cũng còn lắm rào cản của định kiến chi phối. ..
Nhất là những thành phố nhỏ ở Miền Trung thì lại càng có nhiều điều cấm kị. Trai gái ra phố cầm tay nhau tung tăng, đùa giỡn , đã là điều gai mắt cho nhiều người. Hôn hít nhau thì phải tìm chỗ kín đáo không ai thấy. Hẹn hò nhau thì phải ở nơi vắng vẻ. Chuyện tỏ tình bao giờ cũng dùng cái phương tiện “thư tín”, nên thường gọi là “thư tỏ tình”, để khởi đầu cho một cuộc tình. Nói thế chứ vẫn có những cách khác, tuy nhiên nó không nên thơ, và dễ thương bằng dùng thư để nói lên nỗi lòng của mình. Nó còn đượm tính chất văn hóa hơn, và tránh đi trường hợp khó xử của người nữ hoặc người nam, nếu họ không thuận tình.
Ðúng ra trong thời chiến tranh, sống vội vàng, yêu cũng vội vàng. Thế mà lúc ấy chúng tôi lại chậm chạp trong vấn đề nầy. Từ khi quen biết, cho đến khi tỏ tình, yêu nhau. Tiến qua biết bao nhiêu giai đoạn chông gai, gập ghềnh. Ngồi nhớ lại mà thấy tức cười và tội nghiệp cho những thằng con trai mới lớn thuở ấy. Bây giờ nhìn các con tôi tình yêu đến và đi sao mà nó dễ dàng quá. Ôm nhau, hôn nhau tại chỗ đông người chẳng có chi ngượng ngập. Những cử chỉ âu yếm nó cũng mạnh bạo hơn, điêu luyện hơn, tự nhiên hơn. Làm gì có cái chuyện thư từ phiền phức như hồi đó. Mới hay thời đại tân tiến tình yêu cũng bắt kịp theo sự nhanh nhẹn của khoa học.
Trường hợp của bọn tôi lúc ấy cũng theo những thông lệ đó. Nghĩa là tuần tự trải qua những giai đoạn liếc mắt đưa tình, hồi hộp đợi chờ, hẹn hò tình tự. Tuổi choai choai cũng biết đi “cua gái”. Phải nhịn ăn để lo mặc cho tươm tất, chưng diện để se sua với gái. Trước khi ra khỏi nhà là phải chải chuốt kỹ lưỡng, áo quần thẳng nếp. Cua gái thì cũng phải có bộ mã coi cho được. Trước hết, bên ngoài phải tỏ mình lịch sự. Sau, mới tới tướng tá đẹp trai. Tôi không thuộc loại điển trai, nên phải cần chú ý thận trọng cách ăn mặc, chứ không thể xuề xòa được. Lớp học của tôi nổi tiếng có nhiều gái đẹp, sau nầy có người thành Á Hậu Việt Nam đó là chị Kim Uyên (vợ của Nhà Thơ Trang Châu sau nầy). Gái đẹp trong lớp chẳng có ai thèm ngó đến thứ ba trợn như tụi tôi, các chị nầy dành cho các anh lớp lớn. Cỡ tuổi tụi tôi thì phải cà rà mấy em ở lớp dưới. Nhưng chỉ thực hiện lúc tan trường ra về, bày đặt dở hơi cua gái trong trường thế nào cũng bị tóm cổ. Vì trường tôi theo học là một trường Công Giáo ở Ðà Nẵng nên các Cha, các Thầy rất khắt khe. Lớp học của tôi thuở ấy có nhiều anh lớn tuổi, có anh đã có vợ con mà vẫn còn đi học.
Một hôm đến giờ ra chơi, anh Tính chận tôi ở cửa lớp. Nói là bạn học cùng lớp chứ anh ấy lớn hơn tôi chừng năm tuổi. Anh đề nghị tôi viết giùm một lá thư tỏ tình, nội dung “phịa” thế nào cũng được miễn sao cô bé anh thương phải xiêu lòng là được. Tiền công anh thuê tôi viết giá là một gói thuốc Ruby. Tôi thấy mối nầy có lý nhưng khó nuốt trôi, vì hồi nào tới giờ tôi chưa hề mang tâm trạng nầy, nên có thể sự diễn tả của tôi vụng về sẽ làm mất đi sự thuyết phục. Tôi còn đang suy nghĩ, thì ảnh động viên tinh thần tôi: “Mi giỏi Việt văn thì ăn thua chi thứ ni, xem như làm một bài luận, viết huyên thuyên mà không sợ lạc đề.”. Tôi miễn cưỡng nhận lời. Tối đó về nhà tôi ngồi vào bàn viết, cắn bút mãi chẳng biết mở đầu ra sao. Tôi viết một đoạn xem lại, rồi xé bỏ. Cứ như thế mà giỏ rác phòng tôi đầy ắp giấy pelure, thức trắng đêm mà không viết được chữ nào.
Sáng hôm sau đi học người tôi rã rượi, tôi chưa biết yêu mà tưởng chừng như nếm mùi khổ lụy vì tình. Gặp tôi, anh Tính chạy lại hỏi vồn vã: ” Sao, được đoạn nào chưa mi? Cho tau xem thử có hay không? ” . Tôi lắc đầu, mỏi mệt trả lời: “Tôi không viết nữa, anh thuê người khác viết đi”. Mặt anh thộn ra đờ đẫn thật tôi nghiệp. Tôi nhìn anh mà lòng tôi cũng đau điếng. Nếu cô “bồ” anh thấy cái thất vọng nầy của anh, cô ta sẽ yêu anh ngay. Tôi không dám nhìn anh nữa mà lặng lẽ bỏ đi nơi khác. Vào lớp tôi nhìn qua bàn anh, thấy mặt anh buồn thiu và thẫn thờ như người mất trí. Thật tội nghiệp, tôi không cầm lòng nổi nên nguyện trong lòng, đêm nay bằng mọi cách tôi phải cố gắng viết xong lá thư tỏ tình giùm cho anh. Ðến giờ ra chơi anh tìm tới tôi, giọng nói anh ngọt ngào cầu khẩn: “Mi cố gắng viết giúp cho tau đi, vài gói thuốc tau cũng chịu được”. Tôi vỗ vai anh an ủi: “Bây giờ không phải là chuyện mặc cả. Lúc đầu tôi nghĩ thật đơn giản, nhưng khi cầm bút tôi thật sự không biết mình đương viết gì. Tôi còn nhỏ, chưa có chút yêu thương nào, nên không biết thế nào mà diễn tả. Ðể tối nay tôi cố gắng thử lại xem sao”. Anh trả lời với tôi: “Thôi được rồi, tối nay tau với mi ra bờ sông, tau sẽ nói cho mi biết lòng tau. Nhưng tuyệt đối không nói cho ai biết”.
Ăn cơm tối xong, tôi vừa ra đầu ngõ, thì thấy anh dựng xe đạp đứng chờ tự hồi nào. Anh chở tôi ra bờ sông, hai đứa tìm chỗ ngồi, rồi anh thong thả rút trong túi gói thuốc Ruby mới mua ra mời tôi, anh cũng lấy một điếu trịnh trọng đặt trên môi, châm lửa rít một hơi dài. Mắt anh đăm chiêu, điếu thuốc trên môi vẫn cháy đều, gần tàn mà anh vẫn chưa mở đầu kể cho tôi nghe câu chuyện rạo rực của lòng anh. Lúc ấy tôi mới mười lăm tuổi mà anh thì trên hai mươi. Tự nhiên tôi thấy tình yêu sao mà nó dễ sợ quá vậy. Nó đày ải, hành hạ con người một cách đau đớn như vậy sao. Nó là cục đường nghẹn ngang cổ họng, nuốt không trôi mà nhả ra cũng không được, thấy ngọt ngào mà lại trả một giá quá đắt. Anh hút đến điếu thuốc thứ ba, mà cũng chưa mở miệng được, để mô tả những gì mà lòng anh chất chứa. Mắt anh nhìn ra sông mà sao thấy diệu vợi như kẻ thất thần. Nói cho tôi biết anh đang nghĩ gì về cô bạn của anh, yêu thương, nhung nhớ như thế nào mà anh còn thô? không ra lời, huống gì tôi là người ngoại cuộc thì làm sao hiểu hết nội tình để giúp anh. Ngồi với tôi cả giờ mà anh chẳng biết nói thế nào với tôi, thì làm sao anh có thể mở miệng để nói chuyện với cô bạn của anh. Tôi đứng dậy và bảo anh chở về với một lời hứa an ủi cho anh yên tâm: “Ngày mai anh sẽ có một lá thư tỏ tình tuyệt vời”. Tôi định tối nay sẽ lấy các tờ báo Tiếng Chuông của ông Ðinh Văn Khai, Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, ra đọc các chuyện tình lâm li của các tác giả Bà Tùng Long, Dương Hà, để lấy cảm hứng và theo đó tán đại ra cho dài, chẳng cần cân nhắc gì cả. Nghĩa là viết cho thật kêu, cho thật ướt át, cho thật mùi mẫn.
Chở tôi về anh cho biết người yêu của anh là con bà chủ nhà trọ. Cô ta cũng liếc mắt đưa tình với anh nhiều lần. Như vậy, xem như cô ấy đã chịu đèn với anh rồi, chỉ còn thủ tục “tống tình” nữa là xong ngay. Tôi bảo với anh tại sao anh không lựa lúc nào vắng người, đè đầu hôn đại. Như vậy tránh bớt thủ tục rờm rà nhiêu khê như hiện nay. Cái trực tiếp lại không làm, mà lại làm chuyện lòng vòng. Anh lắc đầu cho tôi là thứ con nít không hiểu chuyện người lớn, chuyện đại sự mà giải quyết đơn giản theo suy nghĩ của trẻ con thì hỏng mất. Tôi thấy trong lời nói của anh, tỏ vẻ rất tôn trọng người mà anh đã yêu. Anh còn cho tôi biết, nếu như cô không chấp nhận lời tỏ tình trong thơ của anh, thì anh phải tức tốc dọn đi nơi khác. Con người của anh có vẻ hiền từ, đến độ khù khờ như vậy mà tình yêu sao nó hừng hực, bốc cháy mãnh liệt như thế. Tôi còn suy nghĩ xa hơn, nếu anh thất bại trong mối tình nầy, có thể anh cùng quẫn và liều lĩnh làm những việc rồ dại khác , nguy hại đến tính mạng. Anh không quên dúi vào tay tôi bao thuốc lá còn lại, để trong đêm nay, tôi mặc sức phì phà khói thuốc cho ra được cảm hứng, viết một lá thư tình quan trọng cho anh. Trước khi thả tôi xuống đầu ngõ anh còn căn dặn, cố gắng giúp anh. Tối hôm đó ngồi vào bàn, hình ảnh thiểu não của anh lại xuất hiện. Tự nhiên tôi thấy thương anh hơn, và tôi phải có bổn phận giúp anh, phải hoàn thành công việc anh đã tin tưởng giao phó. Tôi cũng không hiểu lúc ấy có sự trợ giúp nào mà tôi viết một cách ngon lành, trôi chảy. Dòng mực tím của tôi trên mười trang giấy pelure mỏng ngày hôm sau, đã làm cho anh phải sững sờ thán phục. Những gì trong lòng anh đang mong muốn, tôi đều nói lên vanh vách. Trang giấy hình như có chất chứa toàn những thứ ướt át, chờ mong, khổ lụy v.v… Ðọc tới đâu đôi mắt anh sáng rực tới đó. Ðây cũng là lá thư tình tôi viết đầu tiên trong cuộc đời ô trọc nầy, nhưng không phải là của tôi, mà chính là nỗi lòng thầm kín của anh.
Giờ ra chơi, anh rủ tôi ra gốc soài nằm khuất ở góc sân. Anh trịnh trọng mở lá thư ra đọc. Khuôn mặt của anh tươi tắn lạ thường, anh rất thỏa dạ những gì trong lá thư tôi viết. Tâm trạng của tôi lúc ấy rất hãnh diện, rất tự mãn. Tôi đã hoàn thành xuất sắc một công việc quan trọng mà anh đã đặt hết tin tưởng. Hai đứa đang ngồi trao đổi những lời khen tặng một cách hí hửng, hứng thú, thì bất chợt, thằng Tâm núp ở phía sau gốc soài, nghe lén chúng tôi nói chuyện. Nhanh như chớp, nó chụp lá thư trên tay anh Tính chạy mất. Tâm là một đứa nghịch ngợm, phá phách nhất trong lớp tôi hồi đó. Anh Tính đứng dậy chạy đuổi theo nhưng không kịp, nó luồn lách đâu mất. Anh sững sờ, lặng người. Chúng tôi biết lá thư vào tay nó, thì không thể lường được tai họa, cũng như mọi thứ xui xẻo sẽ xẩy ra.
Ðến giờ vào lớp chúng tôi cũng không tìm thấy nó. Nó chỉ xuất hiện phía sau lưng Thầy Nguyễn Tàu – giáo sư Việt văn của lớp tôi – khi thầy vào dạy. Nó nhìn tôi và anh Tính cười một cách ngạo mạn. Tôi ghét cay, ghét đắng cái mặt ngổ nghịch của nó, muốn tới đấm một cái cho vỡ mặt nó để hả cơn giận. Tôi biết thế nào rồi sấm sét sẽ ụp trên đầu chúng tôi. Cái thằng cô hồn nầy đùa thì không ai chịu nỗi, nó bất kể chi là danh dự của người khác. Tôi thì không sao, nhưng anh Tính là người lớn tuổi nhất trong lớp, làm sao anh chấp nhận cái đùa của thằng trời đánh nầy. Thầy Tàu giở sách giảng về “Cung oán Ngâm Khúc” của Nguyễn Gia Thiều, đến cái đoạn:
Bóng gương lấp loáng trong mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,
Thầy nói về sắc đẹp của người đàn bà, cái sắc đó đã làm cho cỏ cây cũng động tình, chim thì sa, cá thì lặn. Thầy đang thao thao bất tuyệt nói về nhân dáng cốt cách, nói về lời ăn tiếng nói, về bước đi thế ngồi v.v… các mỹ nhân Trung Hoa thời xa xưa. Thì thằng trời đánh Tâm giơ tay xin có ý kiến. Tôi như muốn đứng tim, tai họa sắp sửa trút xuống đầu tôi rồi. Tôi không biết nó chuẩn bị giở trò gì ra đây, tôi len lén nhìn qua nó và chắc rằng bộ mặt của tôi méo xệch, xìu như bánh bao chiều, trông thật thảm thương. Cái nhìn của tôi có ý năn nĩ van lơn, nhưng nó chẳng thèm để ý. Nó dõng dạc đứng lên một cách kiêu hảnh, với một khí thế đằng đằng sát khí, quyết quật ngã tôi cho tới cùng: “Thưa Thầy, Em không đồng ý cái lối tả mỹ nhân của Nguyễn Gia Thiều trong “Cung Oán Ngâm Khúc”. Lối mô tả như vậy không xác thực, kiểu cọ và quá tầm thường. Em thích cái lối mô tả mỹ nhân của anh Xuân hơn. Người đẹp mà ảnh trình bày thật lộng lẫy, kiêu sa và hấp dẫn hơn nhiều”.
Thầy Tàu ngơ ngác, chẳng biết thằng trời đánh nầy ăn nói huyên thuyên kiểu gì đây. Thầy ngạc nhiên hỏi: ” Ủa, anh Xuân làm gì có tác phẩm mà tả mỹ nhân. Anh có đùa không?”. Nó lễ phép và trịnh trọng: “Thưa Thầy, Em không dám đùa đâu, tác phẩm của anh Xuân đây ạ”. Nó rút trong túi quần ra một xấp giấy pelure nhàu nát. Chết tôi rồi trời ạ. Tôi điếng hồn, không biết thằng dở hơi nầy bày trò chi đây. Nó quyết hạ nhục tôi, nó quyết không cho tôi một lối thoát. Xấp giấy mà tôi trịnh trọng xếp trong tập thẳng tưng, nắn nót từng chữ, không có một vết dơ. Thế mà khi qua tay thằng khốn nạn nầy, nó thành một thứ bùi nhùi, dơ bẩn.
Tất cả con mắt của các bạn trai gái lớp tôi đều đổ dồn vào nó. Nó đọc lên, tôi nghe như từng tiếng sét đánh ngang tai mình: ” Liên yêu dấu,” . Một sự trùng hợp lạ lùng, người yêu của anh Tính tên Liên, trùng tên với cô bạn gái học cùng lớp, thường đến nhà rủ tôi đi học, tên là Mai Thị Liên. Tất cả đều cho rằng tôi viết thư tỏ tình với Mai Thị Liên, nên họ đều “ồ” lên một tiếng. Không ai chịu hiểu cho rằng thằng bé con mới 15 tuổi chưa biết yêu là gì, phải gánh chịu một thứ “tình yêu” nặng ngàn cân đè trên vai mình. Mai Thị Liên gục đầu trên bàn xấu hổ, tôi thì mặt cắt không ra một giọt máu. Làm sao tôi giải thích cho mọi người hiểu nỗi oan ức nầy của tôi.
Tôi nhìn qua anh Tính, mặt của anh ngơ ngác, thất thần. Tâm trạng của anh lúc ấy cũng chẳng kém gì tôi, anh như đang ngồi trên đống lửa, gan ruột của anh nóng sôi lên. Tội nghiệp cho anh, thằng khốn đó đã làm cho anh mất đi một cơ hội hiếm có. Tôi cũng thầm trách anh sao lại lơ đễnh đến vậy. Anh săm se đọc tới đọc lui nhiều lần làm gì, để bây giờ phải ra nông nổi nầy, làm khổ thân cho anh, cho tôi và cho cái con nhỏ Mai Thị Liên vô tội ấy. Tại sao anh không đem thư về nhà, đóng cửa phòng nằm ngửa mặc sức mà đọc, mặc sức mà nghiền ngẫm. Nôn nóng làm chi để bây giờ phải mắc cỡ, thẹn mặt với mọi người.
“… em có biết rằng, sắc đẹp của em đã làm tê tái lòng anh hay không? Em có biết rằng, đôi mắt em là vì sao đã thu hút hồn anh hay không? Ô, làm sao anh mô tả hết những nét lộng lẫy, kiêu sa của em, bóng dáng mỹ miều, thanh lịch của em. Anh chỉ còn biết quỳ dưới chân em, để xin em bố thí cho một chút tình yêu để sưởi ấm và ấp ủ đời anh. Anh nguyện sẽ làm tên nô lệ , thuần phục em suốt đời…” Cứ cái giọng thật là “ma-ri-sến” như thế nầy, “cải lương” như vậy, mà tôi đã tưởng tượng viết ra được mười trang giấy pelure cũng không phải là chuyện dễ dàng. Lúc đầu thằng Tâm mới đọc, cả lớp còn cười chế nhạo. Ðến lúc sau cả lớp im phăng phắc như để từng câu, từng chữ , thấm dần trong huyết mạch. Cái lạ là, càng nghe tôi lại càng không thấy ngượng, mà ngược lại tôi thấy hãnh diện cho văn chương lưu loát của mình. Tôi nghe như có lời thỏ thẻ thật êm tai, chứ không còn chút âm thanh chan chát như trời giáng lúc ban đầu. Mặt tôi không còn đỏ, sắc diện trở lại bình thường. Tôi cũng phải công nhận rằng, giọng đọc ra rả Bắc kỳ của thằng Tâm thật duyên dáng, thật hấp dẫn lạ lùng. Nó đã dẫn dắt mọi người đi vào thế giới yêu đương mùi mẫn lúc nào không hay. Ðến lúc chấm dứt lá thư, cả lớp vỗ tay vang dội. Thằng Hạnh ngồi cạnh tôi, nắm lấy tay tôi đưa lên như thể hiện một sự chiến thắng lẫy lừng.
Tôi nhìn nét mặt của thầy Tàu để xem ông có ý phiền trách gì tôi không, ông nhìn lại tôi với đôi mắt thật hiền từ và nói với cả lớp: “Hôm nay tôi đang giảng về “mỹ nhân”, thì lại được nghe anh Xuân đã tả một cách đầy đủ về người đẹp. Từ cổ chí kim, từ đông sang tây quan niệm về cái đẹp của người đàn bà tuy có khác nhau, nhưng chung quy họ cũng chỉ làm cho bọn đàn ông chúng tôi khốn đốn, điên dại. Tôi mong rằng các chị có nhan sắc trong lớp nầy, phải có cái nhìn mã thượng hơn, hãy đối xử với bọn đàn ông bằng trái tim chứ không phải bằng tính toán những con số. Bài học về Mỹ Nhân đến đây chấm dứt” . Cả lớp lại vỗ tay một lần nữa cho ông thầy dạy Việt văn chịu chơi.
Thầy Tàu bảo Tâm đưa lá thư đó cho thầy. Rồi thầy gọi tôi lên hoàn trả lại, với lời dặn dò hiền hòa: “Lo học đi, chứ đừng viết bậy bạ nữa”. Tôi cũng nói nhỏ với thầy rằng đây là lá thư tôi viết giùm cho anh Tính. Thầy vò đầu tôi cười.
Bắt đầu từ đó, các anh lớn trong lớp tôi có chuyện rắc rối về thư tình đều tìm tới tôi nhờ vả. “Văn ôn, võ luyện” , thư tình viết nhiều càng ngày càng tiến bộ. Viết thư tình cho mấy anh ấy, sau nầy tôi không cần phải đắn đo suy nghĩ. Nắm được sự thể của câu chuyện, là tôi đặt bút viết ngay. Tôi cũng là người biết được thâm cung bí sử, mọi diễn tiến những mối tình gay go của hầu hết các anh lớn trong lớp. Các anh các chị trong lớp thương yêu nhau tha thiết nhưng bề ngoài không thấy gì, làm mặt lạ, tôi đều biết hết trơn. Sau nầy lại kèm thêm cái mục làm chim xanh, đưa thư giùm qua lại cho những người yêu nhau. Tôi lại thấy mình có thêm một chức quan trọng. Tất cả những giận hờn, yêu, ghét, thù hận, ghen tương, trước khi tới tai người yêu của họ, là họ đổ xối xả lên trên đầu tôi trước nhất. Tôi đã chứng kiến bao nhiêu chuyện tình xum họp, cũng như chia ly. Tôi đã vui trong cái vui của họ và cũng buồn trong cái buồn của họ.
Năm tôi học đệ nhị, thì anh Tính cưới chị Liên. Bấy giờ anh là một giáo viên tiểu học ở Quảng Nam. Sau khi đổ trung học, anh theo học một khóa sư phạm cấp tốc ở Huế. Anh chị đến nhà mời tôi dự đám cưới. Lúc nầy tôi mới nhìn được dung nhan thật sự của một người, mà trước đó ba năm tôi đã viết thư tỏ tình giùm cho anh Tính. Sự ca ngợi trong trí tưởng tượng của tôi về sắc đẹp của chị, bây giờ nhìn lại quả thật không ngoa chút nào. Hèn gì mà lúc ấy anh Tính không mê mệt đờ đẩn. Anh kể cho chị Liên nghe về lá thư tỏ tình bị thằng Tâm đọc oang oang cho cả lớp thưởng thức. Chị cười hiền hòa và công nhận lá thư đó thiệt hay. Tôi cúi mặt giấu nụ cười, lá thư nghe ra ngô nghê, sáo rỗng, lượm nhặt trong các chuyện tình lâm li đăng tải trên các nhật báo thời đó, thế mà chị lại khen. Tôi nghe chị nói mà lòng tôi ấm lại, vui biết mấy. Tôi đã làm được cái chuyện mở đầu cho những mối tình, và chính nó đưa tới vấn đề hôn nhân cho các anh chị sau nầy.
Thời nầy mà nói đến cái chuyện thư tỏ tình kiểu đó, thì cũng giống như ta đang nói về thời kỳ đồ đá. Trai gái bây giờ gặp nhau thấy “bắt mắt” là nhào tới cặp kè ngay. Chuyện phòng the, được công khai giảng dạy trong lớp học, chứ không còn là thế giới riêng tư của hai người. Thế nhưng tôi không bao giờ quên được những chuyện lẩm cẩm như thế nầy. Nó đã bén rễ trong tôi, mỗi lần nhớ lại những hình ảnh xuất hiện như mới đây, thật dễ thương, thế mà đã vài chục năm rồi. Bây giờ các cặp trai gái tiến tới tình yêu, sao thấy đơn giản và nhanh chóng quá chừng. Làm gì có cái chuyện nước mắt ướt đẩm tiển nhau trên sân ga, phóng xe solex đuổi theo đoàn tàu chở người yêu mình đi xa. Những hình ảnh thơ mộng đó làm sao tìm được bây giờ nhất là trên đất nước Hoa Kỳ nầy.

Lưu Nguyễn Từ Thức
ĐIỆP KHÚC CHO NHAU

Cho nhau hạnh phúc tình cờ
Cho nhau nửa ánh trăng mơ cuối trời
Cho nhau giọt lệ buồn rơi
Cho nhau giấc ngủ nửa đời chiêm bao
Cho nhau ngày tháng xanh xao
Những cơn mộng mị rơi vào bờ mê.

Cho nhau ngày tháng não nề
Cho nhau sương khói lê thê nhạt nhòa
Cho nhau mặn đắng xót xa
Cho nhau gió thảm mưa sa trùng trùng
Cho nhau duyên kiếp não nùng
Một lầm hai lỡ lạc vùng đau thương.

Cho nhau chớp biển mưa nguồn
Cho nhau những giọt tình buồn tuôn rơi
Cho nhau thương nhớ bồi hồi
Cho nhau ghềnh thác một đời miên man
Cho nhau nửa ánh trăng tàn
Con tim héo úa võ vàng thâu canh.

Cho nhau một kiếp phong trần
Cho nhau ngày tháng phù vân ngậm ngùi
Cho nhau bao nỗi buồn vui
Cho nhau dòng nước trôi xuôi qua cầu
Cho nhau tình đã úa nhàu
Rưng rưng ánh mắt một màu hoang sơ…

Chu Thụy Nguyên
Đến Cali chợt
gặp lại mùa Xuân

Nắng tàn, lửa nhạt
rừng the
Thâm sì môi tái
le te những chồi
Cỏ đêm
sương mặn chìa vôi
Nằm ôm mộng cũ
lăn trôi xuống đèo
Hây hồng
chỗ thắt đáy eo
Lửa liu riu cháy
xì xèo mộng du
Trí toan tạp niệm
rối mù
Đèn khêu bấc lụn
bóng phù du tan
Xa quê lâu
bỗng ngỡ ngàng
Nhìn xuân xứ lạ
bàng hoàng cúc mai….

Đám cháy

Đám cháy đốt bữa qua
Những tàn tro của lá
Những tàn tro của đời
Về đất bay lả tả

Đám cháy đốt uất hờn
Hay tự tình rong ruổi
Hay bè bạn ba lơn
Chụm đầu nhau cháy rụi

Đám cháy đốt trận cười
Ngữa nghiêng bàn tiệc rượu
Thở khè những tanh hôi
Của tháng ngày phẫn nộ

Đám cháy đốt si mê
Rướm máu cơn tuyệt vọng
Đi chẳng biết ngày về
Đầu bốc cháy khét khê

Đám cháy thiêu hy vọng
Chẳng mong thấy bình minh
Trời vẫn chưa tận thế
Sao phận người điêu linh?

Đám cháy thiêu rụi tình
Trong ngăn tim dự trữ
Hóa bụi tro ba sinh
Chẳng thấy ta đâu cả

Đám cháy thiêu rụi ta
Và linh hồn cháy nám
Khóc như kẻ mất nhà
Bay tứ phương hạt bụi…..

Luân Tâm
Cành khô

Buồn đông treo nặng cành khô
Lá xanh đi vắng sương chờ bóng chim
Mịt mờ trời đất không tim
Dấu chân kỷ niệm nổi chìm bể sâu
Tuyết chôn bóng lạnh trễ tàu
Xác xơ trăng áo bạc màu tha hương
Nhà xưa không dấu đoạn trường
Nhện già treo xác cuối vườn tuổi thơ
Vui hư buồn thực tình cờ
Trăm nghìn con nước quay tơ bọt bèo
Mồng tơi giậu đổ bìm leo
Đội mồ dế khóc cỏ nghèo thương vay
Tàn tro bếp lạnh thở dài
Rêu phong lối cũ ăn mày bóng ma …

Chẳng còn thơ

Nếu chẳng còn em chẳng còn thơ
Hết hoa hết bướm hết mộng mơ
Anh như tan rã như khô héo
Trả lại đường xưa dấu bụi mờ

Anh sẽ lang thang đến kiếp nào
Tìm em tìm lại bóng chiêm bao
Lần đầu gặp gỡ như sương khói
Tà áo thẹn thùng chân bước mau

Trở lại trường xưa hai đứa mình
Nắng chiều thương nhớ nắng bình minh
Con đường quen thuộc thèm hương áo
Lớp cũ còn đâu giữ bóng hình

Anh không còn xác không còn hồn
Không tỉnh không say sao chập chờn
Như khói hương xưa còn phảng phất
Bên mồ hoang nhuộm bóng hoàng hôn

Anh gọi tên em hết bốn mùa
Chỉ nghe ly biệt tự nghìn xưa
Dâng đầy trong cỏ khô rêu úa
Trên lối ghen hờn bóng đón đưa

Lang thang mòn mỏi bốn phương trời
Rừng lạ núi quen chẳng đáp lời
Tình si lận đận thuyền không bến
Cuối nẻo mịt mờ bong bóng trôi

Đường đến thiên thai đã không còn
Mênh mông hư ảo lạ nước non
Tiếng buồn hay tiếng mưa ngày cũ
Còn chút lòng đau cũng mỏi mòn

Đêm tối quanh co không lối về
Thì thôi… mặc kệ người khen chê
Gục đầu trên cánh hoa tàn úa
Giọt lệ thiên thu lỗi hẹn thề…

Đội mồ dế khóc cỏ nghèo thương vay
Tàn tro bếp lạnh thở dài
Rêu phong lối cũ ăn mày bóng ma …

Tìnhhoàihương
Phiêu lãng tình trần

Đêm Noel! Đêm về thật sâu lắng. Sương muối hạt to to mòng mọng tròn tròn lung linh là đà rơi đầy trên thành phố trầm lặng mà huyễn hoặc, nên thơ thi vị và mơ mộng. Cái lạnh xoáy buốt se se thịt da mà ăn sâu vào lòng người buốt giá vô cùng. Từng bè mây trắng xóa bay bay về cuối đồi. Gió lồng lộng lũ lượt thổi qua vườn thông sau đồi nhà, nghe lao xao, rì rào vi vu bất diệt. Bầu trời tỏa lạnh cùng khắp mạch núi rừng hoang dại. Nhạc thông reo vi vu. Mây phiêu lãng cuộn thành từng lọn trắng, bồng bềnh nhấp nhô lờ lững trôi trên không trung tan loãng sương mù. Phố núi Lâm Viên chìm sâu xuống giấc mộng đào nguyên muộn màng, nhưng đầy thi vị và hữu tình biết bao! Bất giác lòng tôi se lại qua khe rèm hở giữa hai cánh cửa chớp. Mùi thơm muôn hoa trong vườn, quyện lẫn mùi nhựa thông thoang thoảng đưa vào, khiến tôi hồi tưởng không biết bao nhiêu buồn vui xếp lớp lăn tăn, và nhịp tim dập dồn đập mạnh cuồng quay trong những phím loan.
Sau khi các bạn đã đi rồi. Tôi tỉnh ngủ nhưng vẫn leo lên giường nằm đắp mền kín cổ. Tôi nhìn mấy con thạch sùng cắn đuôi nhau chạy quanh ánh đèn néon. Lòng cảm thấy trống trải, ưu phiền, bâng khuâng vô ngần. Chen lẫn nỗi buồn chán tiếc nhớ vẩn vơ, nghẹn ngào muốn ứa lệ. Tôi không thể hiểu tôi cần gì, muốn gì!? Bây giờ… Có thể “người ta” đang vui, tưng bừng rộn rã đón mừng đêm Noel, đang hòa mình vào làn sóng người lượn trên phố như trẫy hội. Chứ chả ai ngu dại chi nằm đắp mền lên tận cổ, trầm mình vào nỗi cô quạnh không cùng như tôi. Tôi hiểu rằng: Từng nầy cảm xúc, buồn phiền, tủi hờn, có thể quật ngã một con người khỏe mạnh, vui tươi nhanh chóng như vậy! Ừ nhỉ! Lẽ ra mình không nên “ác” với Phú trước mặt các bạn anh. Không nên diễu cợt tình cảm với Nam đến thế! Để làm gì? Tất cả những thứ đó chỉ là đùa trò trẻ con và lố bịch. Vì những tha thiết mặn nồng yêu thương chân thật, tôi có thể tìm thấy ở Phú (nếu không phải là người xưa, hay là ai khác). Thế nhưng, tại sao tôi lại chối từ Phú? Sao tôi nỡ lòng quay lưng ngoảnh mặt, “tự dày vò làm khổ nhau” đến vậy không biết?! Tại sao? Hay chả còn bao lâu nữa, tôi sẽ lạnh lùng quay mặt về hướng khác, vứt bỏ sau lưng quãng đời dài thân thiết nhất? Dù những chuyện đó sâu thẳm như thung lũng tình yêu. Hấp dẫn đầy ắp như chân trời hứa hẹn một tương lai tươi sáng đang bừng tỉnh?
Bỗng chú kiến lửa cắn vào cổ tôi đau nhói. Tôi nhăn mặt xuýt xoa, vụt ngồi dậy. Tung mền ra, tôi quay quắt chà xát vào chỗ đau nhiều lần. Sợi dây chuyền (ngày xưa “chàng” trao tặng) vướng vít vào ngón tay, bị đứt lìa ra hai đoạn. Sợi dây chuyền nầy vào dịp Noel năm xưa, chàng đã ưu ái đeo vào cổ tôi, ân cần nói những lời âu yếm nồng nhiệt yêu thương xiết đỗi. Kỷ vật đó suốt tháng năm tôi mang trong cổ qua bao giông tố thời gian vẫn không rời. Tôi ngẩn người cầm hai đoạn dây chuyền đưa ra ánh đèn xem xét, lòng mình cảm thấy tiếc ngẩn tiếc ngơ. Dường như tôi vừa đánh mất một cái gì quý giá nhất đời: hầu như tôi vừa đánh mất một cánh tay, một bàn chân, một nhịp thở lỗi nhịp, một mãnh tim vỡ hay một chéo mộng quan hoài. Trời! Xin đừng nhắc lại làm gì chuyện cũ, để vết thương lòng thêm héo hắt hơn. Bởi vì chuyện chia xa nầy rất phi lý là: chính tôi đoạn tuyệt mối tình nên thơ êm đẹp rất trong sáng, mặc dù cả hai người đối với nhau thì chẳng hề có lỗi lầm nho nhỏ nào! Do lỗi tại tôi tự ý “từ biệt”… muốn như thế thì đừng khêu to đống tro tàn bên lò sưỡi. Đừng đốt thêm ngọn bạch lạp bên góc phòng xưa. Dư vị quá khứ đắng cay đọng trên lệ nến nầy. Và, khung ảnh gỗ xinh xinh lồng tấm ảnh bán thân của chàng ngày ấy, nay còn trống chỗ vẫn ở trên mặt bàn lạnh từ bao năm.
Bản tính muôn thuở của tôi vốn dĩ không thích thay đổi, tôi rất mến yêu kỷ niệm, thủy chung. Kỷ vật đã yên ổn an vui trong vị trí tôi đặt để: Lọ hoa mầu huyết dụ còn cánh nhung hồng héo úa gục đầu đơn lẽ. Bàn viết. Ghế dựa. Sách vở, bút viết, tạp chí, giấy trắng với bình mực tím vơi cạn. Những phong thư bạn bốn phương nằm im trong hộp đựng. Tủ quần áo, giường nệm độc thân y chỗ cũ. Chúng lẵng lặng nhìn chân dung bột màu do Kim Oscar vẽ hình tôi rất đạt, đang ủ dột thẩn thờ treo trên bức tường vàng lạnh lẽo. Tôi tin rằng mình không sai lầm khi con búp bê đã đặt trên giá sách, búp bê Mỹ do anh Vinh gửi từ Mỹ về biết cười nói khi tôi vui. Cạnh ô cửa là chú mèo lông xù của Thắng. Bên đàn gà mẹ gà con lít chít của Đan. Phía dưới là chú nai tơ xinh xắn của Phú ngơ ngác nhìn khi tôi buồn rầu đau đớn. Cạnh đó là chú gấu đen của Nam bừng giận lúc tôi chán chê cuộc đời. Trên tường là ống sáo đồng của Sanh. Mấy cành hoa giấy đỏ đỏ của Yến Nga. Lọ thủy tinh của Trúc. Hộp kính đựng cô gái Phù Tang của cô bạn tên Nghi cúi đầu rơi lệ khi tôi khóc. Những món quà vô tri vô giác nhưng thiết tha trìu mến vô ngần: Chúng đã từng theo gót chân tôi phong trần đi đó đây suốt quãng đời dài. Chúng có thể lẵng lặng “đồng cảm” vui buồn thương giận, đã yêu và đau khổ không thốt nên lời chăng!? Sáng, trưa, khuya, chiều, sớm, tối; “chúng” đã lặng câm chia sẻ nỗi niềm cùng tôi. Chúng nhìn trân trân nhưng tôi vẫn say đắm trong cơn mê. Chúng muốn nhắn nhủ tôi điều gì!? Gợi lên lòng mình những bài học đã bị vùi quên vào dĩ vãng xót xa. Chúng nhìn tôi như thầm trách bao điều không thể nói được. Vì thế, chúng lạnh lùng câm nín giận dỗi giương đôi mắt nai tơ chối từ thân thiện. Tôi yêu chúng vì chúng đã tận hiến cho tôi bao kỷ niệm đắm say, yêu kiều dịu ngọt lẫn vò xé nỗi đớn đau tận cùng. Chúng trọn vẹn tận hiến cho tôi một lần duy nhất trong cuộc đời vô tri, rồi lặng lẽ xếp đời vào niềm vui kỷ vật lăn lăn sóng gợn.
Còn đây, bên gần khung cửa sổ là những kỷ vật của “người xưa”: sợi dây chuyền vàng có hai chữ H là quà tặng đính ước của hôn phu đêm giáng sinh, đã nói với tôi điều gì!? Tôi thấy trước mắt là những đợt sóng ngầm lạnh lùng xô bờ, vùi dập tan biến hình ảnh người yêu đã mất hút tầm nhìn vào vùng kỷ niệm những ngày qua. Dù nay đã xa rồi, nhưng bừng sống lại trong đêm nầy, khiến tim tôi đau thắt và sợ hãi kinh khủng. Cùng với sự giận dữ vô cớ bừng bừng dâng cao, phản ứng vô tình chớp nhoáng, nhanh hơn nhịp đập tim co giật trong lồng ngực cuồng quay. Tôi nhảy phóc xuống giường, chạy đến mở cửa sổ, mạnh tay quăng hai khúc dây chuyền vào đêm tối, xa thật xa khu vườn thông rợp bóng đêm. Gió lạnh ùa vào phòng tê buốt khiến toàn thân tôi co ro, cúm rúm, mặt mày dúm dó, tái méc, tay chân mình nổi ốc trâu sần sùi, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Tôi bàng hoàng, xúc động, run rẩy ngẩn ngơ tựa lưng vào tường, đăm đăm nhìn giá sách mập mờ đong đưa kỷ niệm vàng son một thuở.
Tại sao thế nhỉ?! Nhất cử nhất động hôm nay, là để bước lại những bước chân quá thuộc lối trên nẻo đường mòn hôm qua. Ở mỗi lối ngoặt trong cơn lốc đều hiện rõ từng nét mặt thân thiết, ân cần mời gọi, nhớ nhung, mơ hồ, hay tuyệt vọng. Cho dù sóng thần có cuốn phăng đi chân dung người tình, và gió bão ùa về xua mây mù che khuất nẻo. Thì cái thế trong tôi vẫn không nao núng cơ mà!
Tất cả kỷ niệm xa xưa về cuốn phim đó ẩn hiện chập chùng trên sóng nhấp nhô, bừng sống trong khoảnh khắc, nhưng rõ đến nỗi tôi nhìn trân trân vào bóng tối, mà hình dung có bước tình ai rón rén bên hiên nhà, có tiếng ai thì thầm rất khẽ lời tỏ tình mùa đông!

—o0o—

Bầy dế reo hoan ca hát trong đêm muôn trùng, chúng quay cuồng bay lượn, bu quanh trên những ngọn đèn đường vàng vọt trước cổng nhà. Vòng bay mỗi lúc một nhanh. Khi chúng bay tỏa rộng ra, khi thì thu nhỏ lại, rồi bất thần rơi phịch xuống đất. Ngay chỗ tôi đứng, con cánh cam từ đâu bay vù vù vào khung cửa kính, nó đập đầu vào ô cửa kêu cái cộp. Nó có lớp vỏ cứng, bóng láng, ánh lên màu biếc xanh, trông rất đẹp, nó xòe đôi cánh, bên trong lộ ra hai cánh nâu mỏng te có nhiều sợi gân nổi trên lớp cánh mềm mại, xinh xinh khéo léo uyển chuyển khép dần coi thật gọn ơ. Tôi mở cửa sổ ra, len lén thò tay bắt con cánh cam, và cúi xuống nâng niu trong hai bàn tay khẽ khàng bụm lại.
– Hương Thụy! Làm gì mà ngẩn ngơ ra vậy? Em?
Giật bắn người khi ngờ ngợ nghe Cảnh gọi, tôi bàng hoàng nhìn ra đường ngơ ngác tìm kiếm anh trong bóng đêm mà run run. Cứ tưởng người đứng dưới cánh cổng cao dày kia là kẻ trộm. Con cánh cam thừa lúc tôi sơ hở không bụm chặt tay, nên vuột ra khỏi lòng bàn tay tôi, nó bay đi mất dạng. Những giọt sao đêm Noel qua ô cửa lấp lánh nghiêng mình vẫy gọi tôi bước xuống lầu. Tôi đi trên lớp sỏi trắng nghiến lạo xạo dưới đôi dép da dọc theo khu vườn hoa đã thắm đẵm sương đêm, dẫn ra cánh cổng sắt rất to và cao lút đầu người. Tôi ngỡ ngàng giây lát, do dự chào Cảnh, và tới gần cổng ngoài lách cách mở ổ khoá cho chàng vào. Anh nhìn tôi mỉm cười, rồi e dè hỏi:
– Trong nhà đi lễ hết rồi sao? Em!
– Dạ vâng. Chẳng còn ai.
– Anh đến bất ngờ. Xin lỗi em.
– Ư hừ…
– Em dám ở nhà một mình?
– Sao lại không.
– Ghê ha.
– Lẽ là… người thì xa lạ. Còn ma quỷ cũng sợ em chẳng dám tới đây quậy phá.
– “Yên hùng” hơn anh rồi.
Cười tít mắt, cùng anh bước vào phòng khách, tôi trêu ghẹo Cảnh:
– Anh thì không sợ gì bằng… sợ bị ký củ ngày thứ Bảy, Chủ Nhật. Nên anh thấy em “yên hùng” hơn anh. Ha.
– Em nhảy vô trong tim đen của anh rồi còn gì…
Tôi cười, nụ cười ngọt hơn mía lùi. Cảnh ngồi vào chiếc ghế bành da. Tôi loay hoay chút xíu dưới bếp, để pha cho anh ly cà phê sữa bốc hơi nóng thơm phức.
Bưng ly cà phê ra đặt trên bàn, tôi mỉm cười mời anh. Cảnh mồi diêm hút thuốc, anh nhả khói thuốc thành từng vòng chữ O uốn khúc bay lượn lên trần nhà. Dường như anh gắn chúng với dòng suy nghĩ, đắn đo nào đấy. Tôi lại trở vào bếp làm cho anh hai miếng bánh mì kẹp thịt nguội quết ba tê. Tôi khệ nệ bưng dĩa bánh ra, vui vẻ ngồi xuống ghế đối diện Cảnh. Chúng tôi cùng nhìn nhau mỉm nụ cười vu vơ. Tôi cũng ăn lát bánh lạt phết chút đường và bơ. Bất ngờ tôi nghe anh nói:
– Ngày lễ trọng đại, vui vẻ vậy, mà em không đi chơi đâu sao?
– Biết đi đâu bi giờ! Anh!
– … Anh được trường cho phép đi ra ngoài phố. Nên cố ý đến thăm em, mà anh cứ do dự và lo lo, thắc mắc riết. Anh đi qua đi lại ngoài đại lộ nầy, mấy vòng rồi. Anh thấy nhà tối đen, ngỡ là không có ai ở nhà. Nào ngờ có em. Vui quá và may mắn thật.
Bây giờ tôi mới để ý thấy trên góc kệ, cạnh cái bàn tròn có gói quà nho nhỏ thắt nơ hồng. Cảnh để xuống đó từ lúc nào.
– Anh có món quà mọn nầy gửi tặng em.
– Anh đến thăm em, dù bất ngờ… nhưng vui rồi, quà bánh làm gì anh.
– Em vui là anh mừng húm.
Tôi mỉm cười nhìn Cảnh giả vờ trợn mắt lên, rồi nheo nheo lại. Cảnh cũng không vừa, anh đá lông nheo kịch kịch. Chúng tôi cười to.
– Hương Thụy nghĩ sao về việc chúng mình được quen biết nhau?
– “Được” quen biết nhau?!
– Chính vậy.
– Nếu anh nói “được”, thì em phải trả lời “rất hân hạnh”. Còn anh nói “bị”, thì em thành thật trả lời “không có chi”.
– Một câu đáp lễ sâu sắc.
– Còn anh, anh nghĩ sao khi hỏi em câu đó?
– Sau bóng mây đen cùng cơn gió lộng, sẽ có trận mưa dầm mà ấm áp mát mẻ như trời Đà Lạt luôn trong lành thoáng mát ấy em à.
– Chưa hẳn thích.
– Bởi vì chưa quen. À… Ngày mừng Tết Dương Lịch, anh xin có nhã ý mời em vào trường Võ Bị dự buổi dạ tiệc. Hen!
– Sao anh lại mời em? Em thiết nghĩ chị Dung, bạn ấy thân anh hơn em nhiều.
– Thân không có nghĩa là thương. Thương lại chưa hẳn là yêu. Nhất là Dung kia không phải là Hương Thụy nầy.
– Em chịu thua.
– Như vậy, có nghĩa là em từ chối khéo ha?
Tôi cười cười, vui vui nhìn Cảnh giả lả:
– Anh nghĩ sao về việc em vừa nói?
– Dễ thương đến thế là cùng.
“Dễ thương” theo nghĩa của Cảnh nói, khi vang lên nghe hay hay thế nào ấy! Nó ẩn chứa cái gì đó vừa hờn mát trách yêu, lẫn dịu ngọt ân cần vẫy gọi nhau thân thiết. Như tiếng nước suối giao hòa rì rào, se sẻ chảy qua bờ bụi lau lách. Như vết điêu khắc thần tiên sống động của nghệ nhân tài ba tạt trên đá. Không có nét “dễ thương” thì bức vẽ sẽ vô cảm, vô hồn.
Tuy thế tôi không thể dễ dàng, tự do, nhanh chóng đường đột nhận lời Cảnh đi vào trường Võ Bị ngay. Vì; đây là lần đầu tiên tôi trực diện Cảnh, cùng trao đổi chuyện trò với người thanh niên mới quen biết vài tháng trước, trong căn nhà vắng lặng đến rợn người và… khuya khoắt hoang sơ thế nầy, cũng là điều quá đáng lắm rồi.
Chúng tôi ngồi nói chuyện về gia đình cha mẹ, các em của anh, Cảnh là anh Hai, trai trưởng mà! Tôi cũng nói về gia đình cha mẹ, anh chị, các cháu của tôi. Chúng tôi vui cười về vài sự kiện nào đó. Tếu tếu với nhau những câu vớ vẩn, không thân mà chẳng nhạt, đôi khi đắt ý về vài vấn đề nào đó lại nhìn nhau khúc khích cười.
Chuông giáo đường rộn ràng ngân vang báo hiệu giờ tan lễ nửa đêm Noel. Từ giã tôi, Cảnh ra về và anh tạm nghỉ ở nhà của anh chị bạn ngoài đường Phan Đình Phùng.

Chúc Anh
CHIỀU NHỚ NHUNG

Một giọt nắng
ngóng trông ai
tàn nhạt phai .
Mòn ánh mắt

Mây lãng đãng
giăng sợi buồn
sợi vương vương .
Rưng rưng lệ

Bóng xưa lặng
hạt mưa ngâu
gõ phím sầu .
Hoàng hôn tím

Giọt sương nhỏ
đến bao giờ
hết bơ thờ .
Mờ ảo ảnh

Ngày mai hỡi
gieo nắng vàng
chuỗi lạc quan .
Sưởi góc hẹn

Người phương ấy
thấu nơi này
gió bụi bay.
Nhớ vô tận

Mây Ngàn
Bể sầu

Phảỉ chi đời không bể sầu
Đêm đêm đứng đợi bên cầu nước trong
Từ ngày em bỏ theo chồng
Vườn hoa trước ngõ cánh hồng héo khô
Bao năm hò hẹn cơ hồ
Như dòng nước chảy biết mô mà tìm
Người đi để lại con tim
Hằng trăm mảnh vụn máu bầm tím đen
Hơi sương dấu kín mùi hương
Bàn chân bước vội con đường em qua
Cỏ cây chứng tích xóa nhòa
Đò qua bến lạ xót xa tình sầu
Đi đâu em đã về đâu
Phấn hương mùi tóc chìm sâu đáy lòng.

Nguyễn Khoa Lộc
Đố em

Em hốt hoảng nhìn ta trong bở ngở
Hiệp sĩ say quay mặt bước tinh cầu
Nhìn vũ trụ nổ tung ngàn tinh tú
Có quá nhiều ôm trọn một mình ta.
Ta lặng lẽ nhìn em trong pháo nổ
Tiếng cười vang chúc tụng bước vu quy.
Viết tên em Thiên sứ giặc trời uy
Thiên sứ ấy cười- say, em có biết!

Thầm lặng

Thảnh thơi đón gió đầu Xuân
Mai cằn- trúc lạnh- quây quần vợ con
Khói nhang quyện lấy bóng hình
Con say giấc ngủ – vợ sâu giấc tình
Có chăng phép lạ riêng mình
Thoát cao nhìn xuống u-minh-cười khà
Tái sinh ơn mãi xin chờ
Hùng anh hẹn gặp thiên cơ dựng cờ.
Chờ Xuân trăng lặn sao mờ
Hừng đông rực lửa đợi chờ tới đâu.

Song thy
Mưa Buồn

Rồi một ngày mưa làm ta rơi lệ
Cơn mưa ngày dai dẳng đến mưa đêm
Khóc cho ai hay chỉ khóc riêng mình
Thương thương quá! Giọt mưa buồn lệ thắm!

Chiều qua đi gọi mời mưa nán lại
Tí tách rơi giọt nhớ chảy về đâu?
Lệ tuôn rơi qua ngấn mắt âu sầu
Ta sũng ướt vì mưa hay vì lệ . . .

Rain or Tear!

Oh! A rainy day makes me cry
It drags on till night
And I cry for someone or for myself
Love it, love so much! A rain drop as my sad tear

An evening invites rain to stay
Rain dripping carrying my memory to elsewhere
Keep crying, tear filling my sad eyes
I’m soaking wet because of rain or of tears . . .

Phạm Tương Như
(họa vần)

MƯA BUỒN

Mưa rơi hay trời gửi ta sợi lệ
Nỗi nhớ lòng anh kể lể thâu đêm
Nước mắt ai hay anh khóc một mình
Dòng tâm sự lăn lung linh hạt thắm

Em bỏ đi rồi ! Cơn mưa ở lại
Tóc ướt thuở nào, áo ướt về đâu
Ta lắng nghe ta tí tách giọt sầu
Để thương nhớ thành mưa ngâu thay lệ

RAIN OF TEARS

Oh! Raining or the sad nature cry
Flowing my sorrow into the night
Who else sob and shed tears but myself
My soul weeps and rolls as crystal tear

Oh! Lover has gone; left the rain to stay
Your wet long hair and soaking silk dress gone elsewhere
You left yourself in my soul and eyes
All our memories have fallen to become the rain of tears

Written by Pham Tuong Như

Nguyễn Thế Giác
Nghĩ gì về Thi Tập Thắp Đời
Của Nhà Thơ Lan Cao

Đọc thơ Lan Cao vào một ngày Đông đến muộn, những bông tuyết lay bay, trên cành cây trụi lá, dưới khung trời Houston buốt giá, mờ mờ ẩm đục, lòng người co ro bỗng dưng ấm lại, như một sự mầu nhiệm nào đó, thì ra cái thể thơ Lục Bát quái ác, làm tôi ngơ ngác trước sự cấu trúc quá ư tài tình, của anh chàng Kiến Trúc Sư chữ nghĩa có tầm vóc.

Thể thơ dễ thực hiện, nhưng nghe khó xuôi tai này, đã làm tôi ít khi dám đặt bút, nay có kẻ nghiễm nhiên đứng trên đầu gió chiến thắng, tha hồ bày biện, khéo léo sắp xếp những con chữ vô tư, rồi truyền thần hết sức mạch lạc, khác nào phả vào một lời trần tình ngoạn mục, ưu ái cũng như san sẻ niềm suy tư, cho kẻ cùng tâm cảm, dìu nhau bước lên diễn đàn văn học.
Nghĩ lại, tôi đắn đo mãi, chỉ vì Lục Bát dễ làm như cho tay vào túi lấy tiền, nay đã được người bạn vong niên, chẵng chút gì ngần ngại phóng tác, ngòi bút cứng cáp như cây tùng cây bách, cho tôi khiêm nhường tuyên dương, với danh xưng: Lan Cao là nhà thơ Lục Bát Lục Chi Bảo! Thật vậy, càng đọc thơ sáu, tám của ông, làm nhớ đến Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên vô cùng!
Chịu khó lục lại chuỗi thời gian dài dằng dặc, ngày… tháng… lênh đênh nỗi nhớ, trong bầy ký ức mông lung, chập chùng thương tiếc. Thế là nỗi thống thiết, lẫn niềm vui chồng chất lên nhau, không biết bao nhiêu mảnh vụn cuộc đởi, từ hăm hở của một thuở thiếu thời, đến âm thầm nghe chiều chầm chậm rơi, trên mái tóc vội vã ngã mầu.
Mới đây, dòng thời gian chảy xiết, làm sao quên được cơn đại hồng thủy trái mùa, đổ dập lên nửa phần đất nước thương đau, nền văn học bất hạnh có thừa nhân bản của quốc gia cả đời tự vệ, bị vùi sâu dưới mấy tầng địa ngục đa đoan, do kẻ chiến thắng mưu toan dùng mọi ưu thế điêu ngoa trù dập, anh em văn nghệ sĩ của bên này vĩ tuyến mười bảy, sống âm thầm như hòn cuội lăn lóc giữa bầy trớ trêu nghiệt ngã. Tuy nhiên, vẫn có kẻ cố gắng nuôi mãi lý tưởng sống còn, vực dậy một nền văn học dưới đống gạch vụn ngổn ngang hận thù, nhưng biết chắc lần lữa cũng sẽ bị xoi mòn, khi thời gian bặt thiệp, nhìn lưu lượng của con sóng vô tình dồn dập, mà đau lòng không ít.
Trước xu thế thời đại, ngậm ngùi soi lại bóng bóng mình, chú học trò năm xưa đã giã từ mớ tuổi trinh nguyên, ngót mấy thập niên rồi đó, cố ngoái nhìn cái dáng hồn nhiên vương lên, như lộc non cành biếc của Mùa Xuân năm nào, qua chiếc áo thiên thần, nhưng than ơi, tất cả cũng đã âm thầm chắp cánh bay cao, trả lại một vùng trời ăm ắp kỷ niệm.
Đăm chiêu thả mắt vào dòng thơ lúc mềm mại lúc óng ả, đưa hồn mơ màng lên khoảng không gian vô tận, miệt mài nhìn đến thân phận của người cầm bút, thứ xao xuyến luyến lưu trong im lặng, có khác gì một kẻ bất lực, đã lẫm đẫm đi vào vùng miên viễn xót xa nào đó, mà người xưa thường bộc bạch, như lời tự thán dễ thương trước sự xâm thực của thời khắc không ngừng vuốt ve: Lão giả an chi!
Thế là mọi chuyện thế gian ngổn ngang cũng xin gác lại, cho tâm tư lắng động đôi chút, giữa cảnh phồn hoa đô hội không ngừng thôi thúc. Nhưng, chẳng thể nào làm ngơ trước một hiện tượng, tâm hồn vốn dĩ ưu tư văn chương chữ nghĩa khá sâu đậm, nên cũng khó lòng làm ngơ cho được, khi bạn mình ưu ái trình làng đứa con tinh thần, vẫn biết trong lúc chợ chiều văn học hải ngoại, làm rục rữa ánh tà dương rót muộn, trên bước đường lưu vong.
Tôi thiết nghĩ, nhà thơ Lan Cao nếu không là nghiệp dĩ quấn quít lấy đời ông, thì cũng khó lòng can đảm đến thế, chỉ vì thời buổi gạo châu củi quế, đã làm tiêu tán cả nghị lực còn lại. Dễ hiểu thôi, sách vở bây giờ chẳng còn mấy ai thiết tha, giữa lúc con người đang ở vào thời kỳ thong dong trên siêu xa lộ tin học, điện toán thu ngắn địa cầu và khoa học thực tiễn xé nát biết bao huyền thoại dễ thương, nên văn chương đã không trừu tượng ra nổi những gì, mà mình muốn ký thác.
Bạn tôi bất chấp mọi nghiệt ngã, vô tư lự đứng trước sự dửng dưng vây hãm, như chấp nhận thách thức người cầm bút bản lĩnh. Dĩ nhiên, nhà thơ của chúng ta chả cẩn đo lường đến nỗi thiệt thòi, e làm tiêu tán nghị lực chăng? Có điều thử hỏi, dù thế hệ trẻ có quan tâm đến quốc gia dân tộc cách mấy đi nữa, nhưng tiếng Việt đã không là nhu yếu phẩm thực tiễn, dẫu cố tâm vùng vẫy, nhưng cuối cùng gần như đi vào vùng quên lãng, sớm muộn gì cũng trở thành một ngoại ngữ hiếm hoi, không ảnh hưởng nhiều đến xã hội của người dân bản xứ, thì làm sao con cháu mình được cơ hội nuốt trôi một tác phẩm văn học có tầm vóc giữa chợ đời bôn ba hải ngoại.
Dĩ nhiên, đối với tôi không ngần ngại chia xẻ ngọt bùi, khi tiếng mẹ đẻ còn có kẻ vun quén, vùng vẫy muốn thoát ra khỏi cái kén bất lực. Nếu ý nghĩ nhắm mắt trước cảnh đời văn chương chữ nghĩa mạt vận, là phụ lòng một người có tâm hồn chất ngất niềm tự hào, ưu tư không ít đến thế hệ mai hậu. Cuối cùng, phải chăng là vô tình thiêu rụi nguồn sống của một nền văn học vừa hồi sinh, được chắt chiu sau cuộc đổi đời bi đát.
Tôi đọc ngấu nghiến, nuốt trôi thi tập Thắp Đời của nhà thơ Lan Cao. Nhất là nghiền ngẫm lối vào cửa ngõ Lục Bát. Phải thành thật mà nói, ông đã thành công mỹ mãn về thể thơ này. Có lẽ, chỉ vì người thơ của chúng ta đam mê chữ nghĩa không ít, còn cố tâm trừu tượng hóa hiện vật, thành những hình dung tự dễ thương, mới nghe qua từng cung bậc của âm thanh, tưởng chừng ông đã phong phú hóa trường phái, tinh anh như loại văn chương bác học.
Càng đi sâu vào vào vườn hoa chữ nghĩa, khi người thơ cố tâm thổi vào một luồng sinh khí, thế mới biết Lan Cao của chúng ta bất chấp mọi thua thiệt về vật chất đe dọa, ngang nhiên đứng lên trên mọi gièm pha nếu có, cho dù của những kẻ khó tính, chỉ biết phê bình mà chẳng cần đi sâu vào vườn hoa văn học có tầm vóc kích thước.
Đọc đi đọc lại, cho thơ ông nhè nhẹ đi vào hồn mình, để nghe ít nhiều trăn trở của người cầm bút. Lan Cao vẫn ung dung trên con đường nghệ thuật, không một chút gì ngần ngại, cũng như nao núng đến lời phẩm bình cho dù của nhiều bậc uyên thâm, lão luyện về thể thơ Lục Bát trước kia, lúc nào cũng dè dặt nói với thế hệ cầm bút tương lai:
Thơ Lục Bát dễ làm nhưng khó hay, không khéo rơi vào Ca Dao hoặc vè chẳng hạn.
Nhà thơ của chúng ta với tinh thần khai phóng, tôi tin rằng một kẻ bản lãnh có thừa. Thế là ông đã thành công với ngón nghề này. Tôi vẫn đinh ninh khẳng định, dường như ai đam mê những gì mà mình mong muốn, sẽ gặt hái trọn vẹn như một sự tất nhiên.
Lan Cao, lão luyện thể loại Lục Bát, là một đắn đo tuyệt vời, cứ nghe bốn câu thơ dưới đây, mới thấy một sự thành công đáng kể:
Ngày mai biển gọi người về.
Ngày mai nào được cận kề hôm nay.
Hát lên rượu rót cho đầy.
Hát lên tình khúc, môi say tình đời.
Thì ra mới biết thứ vô vi Lão Trang đã âm thầm diễn đạt qua cuộc sống đầy an nhiên và tự tại, làm mình cũng dửng dưng, tưởng chừng, để cho linh hồn được bình thản, trước sự xâm thực của thời gian vô tư mặc nhiên đến với con người.
Hẳn biết, đất tạm dung đã cho ông vẫy vùng triết lý sống còn của kẻ lưu vong, dù ánh sáng cuối ngày cũng điểm diện trên vuông chiếu văn học. Thế nhưng, trong lòng hải ngoại thứ phù vân thi ca chẳng thiếu, đã làm mai một ý chí người làm văn học chân chính với chữ nghĩa thênh thang!
Tôi đọc thấy nhà thơ Lan Cao cũng thao thức không ít đến lâu đài văn học bị vùi sâu dưới mấy tầng ký ức đa đoan, đau trong niềm đau mất mát, tuy biết còn chút tư duy vụn vặt, cố Thắp Đời mong sao giọt nắng cuối cùng, đi vào từng nhiễm thể văn chương chữ nghĩa, không ngoài những ước ao gói ghém tâm sự mình qua cung bậc của dòng Lục Bát phá thể, để nghe tiết tấu của thơ vang lên trong tâm hồn bình dị, làm nhẹ nhỏm tinh thần của người cầm bút ưu tư không ít đến tiền đồ.
Con người ưu tư đến nền văn học lưu vong, Lan Cao tưởng chừng vẫn long đong không ngớt với vận mệnh, tôi đọc thấy trong thơ ông như có cả một trời hoài vọng, đang quấn quít bên người.
Lý nào nhà thơ của chúng ta không nhận chân đến sự thật hẫm hiu của nền văn chương hải ngoại? Dĩ nhiên, dù muốn dù không, trước sau gì cũng bị đào thải, khi bánh xe thời gian miệt mài lăn trong tâm hồn bỏ ngỏ. Bởi thế, thơ ông nhiều khi yếm thế không kém, có lúc nghiễm nhiên trên dòng văn chương bác học, làm người đọc chưa ra khỏi cái bình dân mộc mạt, lại leo lên ghềnh thác đầy suy tư, cho nên không kịp diễn đạt sự thẫm thấu trong hồn.
Cố lội ngược con sông đời, của một thời hồn nhiên, nghe lưu lượng còn chút âm ba bên bờ ký ức, bất động soi cả hình hài của chính mình, trong xao xác của nghĩ suy, cũng muốn rửa tay gác kiếm, ngỏ hầu vui thú điền viên, thứ vô vi Lão Trang như an bài cho một đời người, trước dỏng cuồng lưu miệt mài xâm thực cuộc sống.
Nhưng, luyến tiếc không ít những gì đã vụt khỏi tầm tay, còn thơm mùi mực, cho dù vụng về bằng hành động, vùng vẫy nhảy qua vũng lầy định mệnh khắc khe. Có lẽ, mình thấy chưa đủ niềm vui cho tuổi già định nghĩa sống còn chăng? Ngoảnh lại vẫn còn quan ngại, vừa hối tiếc cho dĩ vãng, rộn ràng chút hy vọng, quyến luyến không ít đến tương lai, cho tay vội vã chụp lấy thi tập Thắp Đời của nhà thơ Lan Cao, lại đọc tiếp một lần nữa, cứ thế làm nhiều lần, nhai bầm dập những mẫu tự mềm mại, lắng tai đón nghe từng tiếng thì thầm của thơ, rón rén đi qua đời thường, để sống lại một thời trai trẻ, không dám dối lòng mình, trước sự xâm thực khó hiểu của thơ, mới biết mình cũng đã từng da diết yêu bộ môn văn học nghệ thuật này, nhất là thơ của Lan Cao, chỉ vì nàng thơ quyến rũ tâm hồn mình tự hồi nào, còn bắt tôi tìm chỗ đứng trọng vọng trong trái tim đoan hậu, chưa hết thế mà ra sức hành hạ kẻ đam mê, suốt cả một chiều dài thời tiết bất thường đổ về tới tấp.
Đành vật lộn với chữ nghĩa chứ biết sao hơn, nhưng rồi tin chắc đến lúc nào đó cũng no nê, trước ngọn sóng thi ca âm thầm phả lên miền suy tư, mầu mực tím ngày nào, tưởng chừng cũng nhạt phai theo thời gian, bụi phấn không còn đong đưa trước mặt. Thế nhưng, hình ảnh ông Thầy Giáo già trường Giòng phụ trách môn văn chương, dõng dạc nói với lũ học trò chúng tôi, vẫn cỏn sừng sững trong trái tim kính mến một thời, qua lăng kính bỗng dưng hội tụ.
Ngày ấy, Thầy tôi bước lên… bước xuống… bục giảng, vẻ mặt hưng phấn thấy rõ, Thầy thao thao bất tuyệt, như đã chuẩn bị sẵn tư duy, biết chắc Thầy cả quyết một điều gì, khi đã hội đủ tư tưởng. Cuối cùng rồi cũng khẻ giọng với lũ học trò yêu văn chương, thi phú. Cứ nhìn qua đôi mắt đăm chiêu của Thầy, biết nhà mô phạm muốn nhồi nhét thêm kiến thức vào môn đệ người, hẳn nhiên Thầy đoán được lũ học trò cũng đam mê tha thiết những tinh túy của hồn nước, Thầy dõng dạc:
-Các con nên nhớ rằng ai nói đến thơ, thể nào cũng phải nhớ đến quân bình và nhạc luật. Muốn có một bài thơ hay và truyền cảm, tác giả lại không thể nào bỏ quên những yếu tố đó, dầu thơ mơi hay thơ cũ chăng nữa.
Nhớ lời Thầy, tôi chợt nghĩ ngay đến Lan Cao, ông là chưởng môn thượng thừa về đủ cả loại thơ. Duy Lục Bát tôi phải cúi đầu ngưỡng mộ trước sự chẻ thơ tài tình, làm người đọc tưởng thể thơ phá thể nào đây, mà ông đã có công sáng tạo một trường phái mới.

Thái Bạch Vân
Một thoáng
tương phùng

Một thoáng anh về một thoáng thôi
Bỗng dưng ngọt lịm cả vành môi.
Ngày xưa áo tím em chung lối
Ước hẹn bên anh suốt một đời

Một thoáng anh về một thoáng thôi
Bỗng dưng nồng đượm chén khai bôi
Những mùa thu cũ vòng tay ấm
Tình vẫn đong đầy mộng chẳng vơi

Một thoáng anh về một thoáng thôi
Bỗng dưng rào rạt nhạc lòng ơi!
Nhớ nhung thoáng mất bên song cửa
Chất ngất tình ta phút tuyệt vời.

Anh có về dù một thoáng thôi
Để lầu hoang vắng hết đơn côi.
Cho hoa thắm sắc, rừng thay lá
Cho mộng đong đầy tựa biển khơi.

Một thoáng… anh ơi! tận cõi trời
Nhìn nhau phút chốc dạ khuây nguôi.
Tương phùng mộng mị… như sương khói
Tỉnh giấc lệ tràn đọng khóe môi!

Chào nghiêng bờ hạnh phúc

Cơn buồn dâng vời vợi
Thương yêu rót ngập thềm
Hiên ngoài sương xuống lạnh
Nỗi nhớ mòn vũng đêm

Đèn khuya hiu hắc bóng
Trăn trở bao nỗi niềm
Âm thầm hàng lệ chảy
Ai lưu dấu ngõ về

Sau lưng từng hạt sõi
Dấu chân buồn lê thê
Đường mòn in rõ lối
Ngõ nào tìm ước mơ

Đom đóm chiếu lập lờ
Sa mù buông trước mặt
Lối nào cho tình Thơ
Lời nào lên men đắng

Chợt mộng tình bơ vơ
Chao nghiêng bờ hạnh phúc

Xuân hoài niệm

Xa cách muôn trùng… dệt ước mơ
Mùa xuân hoài niệm chẳng lu mờ
Mai vàng hé nụ khoe duyên thắm
Nắng óng vờn sương cảnh như thơ.
Thuở ấy nghe lòng sao ấm áp
Giờ đây thấy dạ chợt bơ vơ
Xuân về xứ lạ… thêm khao khát
Vườn cũ… quê xưa… mõi đợi chờ!

Xuân nơi xứ lanh
Thái Bạch Vân

Tuấn Đình
Hoài niệm

Lang thang hạt bụi bên đường
Lênh đênh tàn tạ nỗi buồn truân chuyên
Âm thầm giọt nhớ ưu phiền
Xôn xao lá rụng bên triền cỏ may
Ngậm ngùi khói nhạt mây bay
Bên trời trăng gió hàng cây lặng lờ
Trái sầu rơi rớt hồn thơ
Bên bồi bên lở vật vờ dòng sông
Hắt hiu gió lượn ngoài sân
Nhớ cây xưa, đã mấy lần tàn hoa
Thoáng nhẹ nhàng thêm thiết tha
Bờ rêu nắng mỏng la đà hương đưa
Bên vườn hoa thắm giậu thưa
Bềnh bồng tình mộng ngày xưa êm đềm
Chút liêu trai, bờ môi em
Nụ hôn hò hẹn, tay tìm vòng tay
Chìm đáy mắt, hồn đắm say
Chùm hoa hoài niệm trời mây cũng tình
U hoài non nước điêu linh
Quê xa dặm nhớ nợ tình mù khơi
Tấc lòng theo gió mây trôi…

Thi Văn Đàn TRẦM HƯƠNG
Chân thành cảm tạ Quý Văn Thi Hữu
Quý Bạn Đọc và Quý Mạnh Thường Quân đã góp bài vở,
Động viên khuyến khích và nhất là Quý vị ủng hộ tài chánh.

TRẦM HƯƠNG SỐ 3 – Bộ Mới

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                    TRẦM HƯƠNG

Tạp chí văn học nghệ thuật

NĂM THỨ 6 . BỘ MỚI . SỐ 3
Chủ nhiệm: Nguyễn Đức Nhơn
Chủ bút: Túy Hà
Thông Tin Liên Lạc
Tuyha81@yahoo.com
doanthachngoc@yahoo.com
Website: http://hoiquantramhuong.net
Trình bày và layout: Túy Hà
In tại Mr.Print Ần Quán

THI VĂN ĐÀN TRẦM HƯƠNG THỰC HIỆN

MỤC LỤC
Lối vào (3)
Nguyễn Minh Triết Tản mạn văn học (6) * Hải Phương thơ (12) * Trần vấn Lệ thơ (12) *Ngô Nguyên Nghiễm thơ (17) * Đàm Ttrung Pháp tham luận (19) * Trần Yên Thảo thơ (23) * Cái Trọng Ty thơ (26) * Lưu Nguyễn Từ Thức thơ (29) * Trần Trung Tá thơ (31) * Trọng Đạt khảo luận (32) * Lan Đàm thơ (53) * Hoàng Xuân Sơn thơ (55) * Phan Bá Thụy Dương thơ (58) * Vũ Linh Điểm thơ (59) * Lan Cao thơ (66) * Phan Các Chiêu Hằng thơ (69) * Kiệt Tấn thơ (72) * Trần Bang Thạch truyện ngắn (74) * Xuân Bích thơ (79) * Kim Oanh thơ (82) * Trường Thy tạp ghi (85) * Như Phong thơ (92) * Phạm Văn Nhàn điểm sách (94) * Vũ tiến Lập thơ (103) * Ái Ưu Du truyện ngắn (105) * Lãm Thúy thơ (115) * Lê Nhiên Hạo thơ (118) * Phan Xuân Sinh truyện ngắn (119) * Phạm Tương Như thơ (127) * Dương Quân thơ (130) * Nguyện Tôn Nhan thơ (131) * Yên Sơn truyện ngắn (132) * Dương Thượng Trúc thơ (140)* Nguyễn Thị Thanh Dương thơ – truyện (142) * Thái Bạch Vân thơ (150) * Tuấn Đình thơ (152) * Uyên Sơn ký (155) * Song An Châu thơ – tùy bút (167) * Lê Hữu Minh Toán thơ (171) * Túy Hà thơ (173) * Luân Tâm thơ (175) * Song Quang thơ (178) * Nguyễn Đức Nhơn văn – thơ (180) * Tam Quỳnh thơ (186) * Miên Du Đà Lạt thơ (187) * Trần Văn Lương thơ (189) * Đoàn Thạch Ngọc đốt lò hương cũ (192) * Lã Mộng Thưởng- Song An Châu thơ nhạc (203).

Lối vào
Nắng lửa gió Hè rát thịt da vẫn là sức cản vô hình làm chậm đi những sinh hoạt đời thường.
Ngược lại đây là cơ hội tốt để cho người cầm bút ngồi vào bàn viết. Có thể là trong căn phòng mát dịu với máy điều hòa không khí, cũng có thể viết trên laptop trong những quán cà phê Starbuck vắng người.
Riêng ban biên tập chúng tôi ngồi soạn bài lay out trong một trailer cũ kỹ, chút hơi mát thoát ra từ một máy lạnh window đã có tuổi thọ trên 10 năm với sức chứa 6000UB khiêm tốn.Mồ hôi muối mặn lại có dịp thoát ra nhơm nhớp trên da thịt mỗi người. Thời sự chiến tranh vẫn đưa tin máu đổ, thì trên chiếu văn làm sao không có mồ hôi. Chấp nhận cuộc chơi có nghĩa là bằng lòng thua thiệt. Nỗi đam mê nào mà không phải trả giá riêng của nó.
Mở lại Trầm Hương số cũ để tìm khuyết điểm hầu kịp thời điều chỉnh cho số mới, thì vẫn còn nguyên lời mời gọi: Thi văn hữu gần xa sống vui sáng tác mạnh để lui tới với Trầm Hương và đọc giả thân thương góp thêm chút lửa cho lò Trầm tiếp tục tỏa hương.
Vui thay lối vào rộng mở, gió lạ hương đời đã vãng lai liên tục vực Trầm Hương đứng dậy từ những lo âu. Sáng tác gởi về càng ngày càng phong phú. Đọc giả lại thường xuyên thăm hỏi đến TH. Điều ấy quả là một khích lệ không nhỏ cho những người “Ăn cơm nhà đi vác ngà voi”.
Viết lách là một nghiệp dĩ đã vướng vào thì khó thoát ra, vì thế giới ngôn ngữ là mênh mông không giới hạn. Thậm chí các khoa học gia đang miệt mài truy tìm để giải mã ngôn ngữ ý tình của những nền văn mình ngoài trái đất. Như vậy chữ nghĩa khác nào thảo mộc nó có hơi thở riêng của nó và sức sống tiềm tàng khó lòng hủy diệt. Từ đó văn hóa thế giới tồn tại và ý thức hệ của con người vẫn được tô bồi mỗi ngày mỗi thêm sung mãn, giúp cho nền văn minh càng ngày càng thêm tiên tiến.Người cầm bút với những sáng tác tim óc của mình cũng đã góp phần không nhỏ cho văn hóa nhân loại.
Ban Biên tập Trầm Hương không dám đao to búa lớn vì tự biết sức mình, nhưng chúng tôi vẫn mạnh dạn lên đường tiếp tục cuộc hành trình bất chấp chướng ngại. Ai cũng biết, ai cũng hiểu bây giờ và tương lai là thời đại của internet toàn cầu, với vô số những trang báo điện tử phong phú, sáng tác không giới hạn, hình ảnh tuyệt vời là thế giới tự do cho người thưởng ngoạn.
Thế nhưng chúng tôi tin chắc rằng người cầm bút không thể nào quên màu giấy trắng mực thơm.Và người đọc cũng không thể thiếu một tờ Tạp chí khi cần thư giản hoặc giết thời gian trên những phương tiện di chuyển công cộng. Nhất là những người đã đi quá nửa đời này, thường dị ứng với những gã máy tính mặt vuông. Đọc không phải xướng lên mà còn đọc bằng đôi mắt của chính mình. Khó ai có thể suốt ngày đối diện với màn hình muôn sắc để đọc hết một trang báo điện tử. Thông thường chỉ lướt qua tìm xem tin tức trong một khoảng thời gian nhất định. Mà thị lực của con người luôn có giới hạn, nếu phung phí quá độ e rằng sẽ không còn thưởng thức trọn vẹn một dáng hoa vừa nở ngát hương, một buổi sáng trong lành bình minh rực rỡ, một ánh trăng ngà trải lụa sông mơ. Nếu thế chắc chắn sinh thú của đời người giảm đi không ít.
Vì một vài lẽ nhỏ nêu trên trong muôn ngàn lý lẽ, chúng tôi vẫn quyết tâm mời gọi Quý Văn Thi hữu trong ngoài, Quý đọc giả còn yêu chữ nghĩa tiếp chúng tôi thêm chút lửa đừng để tro tàn. Nghĩa cử này chính là Quý vị đang góp phần tô bồi Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại. Mà văn hóa là điều kiện ắt có và đủ cho dân tộc sinh tồn.
Ngoài kia thời tiết đã dịu lại, những cơn mưa rào rơi rớt đã làm giảm đi cái nóng thiêu người của mùa Hè nghiệt ngã. Những vạt cỏ vàng khô lại vươn mình trổi dậy mang theo nguồn diệp lục cho đời thêm xanh mát. Bốn mùa vẫn mãi giao hòa thì mong thay từ những hổ trợ âm thầm của Quý đọc giả giúp Trầm Hương thách đố với thời gian. Và vẫn mong thay Quý văn thi hữu không vì những dị biệt đời thường mà buông tay không góp gió cho Trầm Hương.
Ngoài quyết tâm đẩy mạnh Tạp chi Trầm Hương đi tới và mỗi ngày mỗi cải tiến, chúng tôi cũng không thể lơ là với sự phát triển kỷ thuật thông tin đại chúng. Vì vậy với một ít kinh nghiệm khiêm tốn Trầm Hương cũng đã cố gắng để thực hiện một trang WEB trên diễn đàn Internet ngỏ hầu giới thiệu đầy đủ đến Quý đọc giả những sáng tác phẩm của các tác giả đang cộng tác với Trầm Hương.
Kính mới Quý vị ghé thăm qua địa chỉ:
www.hoiquantramhuong.net
Thân kính chúc Quý vị những ngày tới mát lành, an bình hạnh lợi.

Trân trọng
Ban Biên Tập.

Nguyễn Minh Triết
TẢN MẠN VỀ VĂN HOÁ VÀ VĂN HỌC

Văn học luôn chiếm một địa vị quan trong đời sống của người Việt Nam. Qua bao ngàn năm kẻ sĩ bao giờ cũng được trọng vọng và văn chương thi phú được coi là phương tiện để bước lên bậc thang xã hội vì tài năng văn chương được đồng nhứt với tài kinh bang tế thế. Tuy ngày nay vai trò của văn học có đổi thay nhưng tình yêu đối với văn chương của quảng đại quần chúng vẫn vậy vì nếp sống này đã in sâu vào văn hóa dân tộc. Nhưng khi đề cập đến văn hóa, văn học, văn chương, …rồi văn minh, văn hiến, văn vật nhiều người thường hay lẫn lộn ý nghĩa của các cụm từ này.

A. Trước hết, văn minh và văn hoá là gì và khác nhau ra sao? Thông thường nhiều người cho hai cụm từ này đồng nghĩa với nhau, nhưng thực ra là hai khái niệm khác biệt. Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa nhưng tựu trung văn hoá được dùng để chỉ trình độ học thức và sinh hoạt chung của một dân tộc, một lối sống hay đẹp của một cộng đồng, một xã hội. Theo Đào Duy Anh văn hoá có một ý nghĩa rộng lớn hơn và chỉ chung tất cả các sinh hoạt của loài người từ những phong tục tập quán tầm thường, đến những sinh hoạt kinh tế, chánh trị, xã hội, tín ngưỡng và ngay cả các học thuật tư tưởng của loài người. Hay nói một cách khác, văn hóa bao gồm ba lảnh vực là văn hóa vật chất được biểu hiện qua khía cạnh kinh tế, khía cạnh vật thể như phương tiện sống, phương tiện sản xuất…, văn hóa tinh thần được biểu hiện qua khía cạnh tôn giáo, khoa học, khía cạnh văn học nghệ thuật… và lối sống là những thói quen, tập tục sống được hình thành theo thời gian. Vì bao gồm rộng lớn như vậy nên có thể nói văn hoá là một khuôn mẫu toàn vẹn của nhân phẩm và những sản phẩm của nó thể hiện trong tư tưởng, lời nói, và hành động.

Dân tộc nào cũng có văn hoá riêng, chỉ khác nhau ở trình độ cao thấp mà thôi. Trong khi văn hoá luôn hàm chứa bề dầy của lịch sử, là một sản phẩm của một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ thì cụm từ văn minh chỉ đề cập đến trình độ phát triển của xã hội ở từng giai đoạn. Văn minh là một sản phẩm của văn hóa mà đặc điểm là một tình trạng không còn những hoạt động bán khai, man rợ nữa. Con người đã xử dụng tài tình những phương tiện vật chất, tinh thần để phục vụ đời sống và con người đã thích ứng hóa với khuôn mẫu sinh hoạt xã hội. Nói đến văn minh, người ta thường nghĩ đến những tiện nghi vật chất trong khi văn hoá bao gồm cả những giá trị vật chất lẫn tinh thần. Khi nói đến văn hoá là nói đến tánh cục bộ, văn hoá mang tánh dân tộc như trong cách nói văn hoá Việt Nam, văn hoá Khmer…, trong khi văn minh lại có tánh quốc tế mang đặc trưng cho một vùng rộng lớn vì vật chất dễ phổ biến và dễ lây lan như nói văn minh tây phương, văn minh vùng Lưỡng hà…

Ngoài văn minh, hai từ khác cũng dễ bị lầm lẫn với từ văn hoá là văn hiến và văn vật. Theo định nghĩa văn hiến là truyền thống văn hoá lâu đời, là tổ chức đời sống theo những tiêu chuẩn văn hóa nhứt định, còn văn vật là truyền thống văn hoá biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử. Như vậy, văn hiến và văn vật cũng là những khái niệm bộ phận của văn hoá nhưng khác với văn hoá ở độ bao quát của các giá trị. Văn hiến là văn hoá thiên về các giá trị tinh thần (truyền thống lâu đời), còn văn vật thiên về các giá trị vật chất (nhân tài, di tích, hiện vật). Do sự phân biệt này mà ta thường nói nước Việt Nam có 4000 năm văn hiến, nhưng lại nói đất Thăng long ngàn năm văn vật.

Nói chung, văn hoá là cái gốc, cái hồn của một con người, một xã hội, một dân tộc. Trong cuộc sống con người hành động theo những tập quán đạo đức và văn hoá, Những tập quán này chi phối hoạt động của con người bằng vô vàn những hành vi cụ thể, nhỏ nhặt mà chánh con người có hành động cũng không ý thức được. Văn hoá cũng liên quan mật thiết đến tình cảm và tâm hồn của con người là những cái rất khó nhận biết và không thể một lúc mà có được. Văn hoá là một quá trình hình thành bền bỉ và kiên trì. Văn hoá không những thể hiện ở các giá trị vật chất mà còn là những giá trị tinh thần được thể hiện qua những truyền thống tồn tại trong nghệ thuật, trong phong tục, và trong lối sống được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Nói cách khác, văn hoá là chỗ dựa cho một cá nhân hay một dân tộc trụ bám vào mà vượt lên trong những tình huống khủng hoảng, những hoàn cảnh gian nguy để không những tự đánh mất mình, không bị mất gốc mà còn vững vàng phát triển và tồn tại. Chánh nhờ những giá trị tinh thần tốt đẹp từ ngàn xưa thấm nhuần trong truyền thống văn hoá Việt tộc đã giúp cho dân tộc ta vượt qua được vô vàn thử thách của một ngàn năm Bắc thuộc và hơn một trăm năm Pháp thuộc để tồn tại cho đến ngày nay.

Ngoài ra, văn hoá còn là diện mạo, là bản sắc của một dân tộc. Mỗi nền văn hoá đều có những sức hấp dẫn riêng, những nét đẹp riêng khiến văn hoá của dân tộc này không thể lẫn lộn được với văn hoá của dân tộc khác. Mỗi nền văn hoá đều có những nét hay đẹp độc đáo và do đó không có vấn đề nền văn hoá này cao hơn nền văn hoá khác. Điều quan trọng là mỗi dân tộc phải biết bảo tồn bản sắc văn hoá của mình. Riêng đối với người làm văn hoá, công việc bảo tồn văn hoá dân tộc phải là công tác chánh. Trước hết là phải biết giữ gìn truyền thống dân tộc, vun xới cho cái đã có và đang sinh sôi, đồng thời phải biết ngăn chặn, hạn chế các tác động của các yếu tố ngoại lai, để đảm bảo được cho bản sắc văn hoá của dân tộc không bị nhạt phai hay bị đồng hoá. Khi nói giữ gìn truyền thống dân tộc, người làm văn hoá cũng nên nhìn rộng để không những chấp nhận những cái đã thành truyền thống mà còn phải chấp nhận cả những cái đang và sẽ trở thành truyền thống vì dân tộc không chỉ tồn tại ở quá khứ mà dân tộc cũng tồn tại ở hiện tại và trong tương lai nữa.

Nói đến truyền thống, thiết tưởng cũng nên phân biệt giữa hai thuật ngữ truyền thống văn hoá và văn hoá truyền thống. Truyền thống văn hoá là những giá trị văn hoá đã trở thành truyền thống, đã được thời gian trui luyện để trở thành những giá trị trong toàn bộ những hoạt động sản xuất và tinh thần của dân tộc cũng như những giá trị trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, và lối sống. Trong khi đó văn hoá truyền thống lại có nghĩa hẹp hơn và thường ám chỉ các loại hình sinh hoạt văn học, nghệ thuật cổ truyền đã được bảo tồn qua nhiều thế hệ.

Môn học chuyên nghiên cứu về văn hoá của các dân tộc được gọi là môn Văn hoá học. Tuy văn hoá đã có từ lâu đời nhưng môn văn hoá học chỉ thực sự được thừa nhận từ sau khi quyển cách The Science of Culture của L White ra đời vào năm 1949. Riêng tại Việt Nam ngay từ năm 1938 tác giả Đào Duy Anh đã viết một quyển sách về văn hoá rất có giá trị là Việt Nam Văn Hoá Sử Cương. Sau đó, vào thập niên 1950 nhà văn Lê Văn Siêu đã tiếp nối với một quyển sách nói về nền văn minh Việt Nam có nhan đề là Việt Nam Văn Minh Sử Cương. Hai quyển sách không thể thiếu cho những ai muốn tìm hiểu hay học hỏi về nền văn hoá và văn minh của Việt Nam.

B. Một trong các bộ phận quan trọng khác của văn hoá là văn học. Văn học có vai trò góp phần giữ gìn bản sắc của dân tộc, giữ gìn những sản phẩm tinh thần của dân tộc. Một dân tộc chỉ thực sự định hình khi có được một nền văn hoá và văn học riêng biệt. Một cách chung, văn học là tổng thể những văn bản được sáng tạo bằng thứ ngôn ngữ của một cộng đồng văn hoá. Hai cụm từ văn học và văn chương đôi khi cũng có ý nghĩa lẫn lộn. Thực ra, văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng nên Phan kế Bính đã cho văn chương là lời nói rực rở, bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp, vẻ sáng. Văn chương cũng còn được hiểu như một kỹ thuật dùng ngôn từ để tạo nên các tác phẩm văn chương. Trong khi đó, văn học được hiểu như là một khoa học nghiên cứu về văn chương như trong cụm từ văn học sử chẳng hạn. Kết quả của kỹ thuật dùng ngôn từ là văn bản. Hay nói một cách khác, văn bản là tất cả những sáng tác dùng ngôn từ để diễn đạt, biểu hiện tư tưởng của người viết. Nhưng tất cả những văn bản đó lại rất khác biệt về phương diện giá trị nghệ thuật, giá trị về cách vận dụng những kỹ năng, những phương tiện một cách có ý thức và sáng tạo để biểu tỏ ý tình trong liên quan đến cái đẹp, đến tính thẩm mỹ.

Trước tiên, văn bản có thể là những tài liệu ghi lại những diễn biến thực dụng hay để chuyển đạt những thông tin cần thiết như các thông cáo, công văn, những biên bản, những sách chỉ dẫn, những tuyên ngôn..v.v… Tất cả những văn bản này không mang tính thẩm mỹ và nghệ thuật nào, do đó không phải là những tác phẩm văn chương đích thực.

Văn bản muốn được gọi là một tác phẩm văn chương như truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ phú… phải là một tác phẩm nghệ thuật tức phải là một công trình sáng tạo bằng ngôn từ của nhà văn theo những quy luật thẩm mỹ cao. Tác phẩm văn chương phải biểu hiện được tánh cách đẹp đẻ của ngôn từ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, và bố cục. Tác phẩm văn chương phải là một thế giới nghệ thuật được nhà văn tạo dựng lên để chuyên chở những nhận thức, những khám phá, đồng thời cũng là tiếng nói tình cảm, là thái độ của nhà văn đối với cuộc sống.

Tác phẩm văn chương còn là những sản phẩm của trí tưởng tượng, của hư cấu. Trong một tiểu thuyết từ kết cấu của câu chuyên đến nhân vật và tất cả tình tiết đều là bịa đặt, cho dù một vài chi tiết có dựa vào hiện thực đi nữa. Nếu không phải là hoàn toàn hư cấu thì tiểu thuyết sẽ trở thành một bài phóng sư. Về phía người đọc cũng có một thái độ khác nhau khi đọc một bài phóng sự và một tiểu thuyết. Người đọc thích đọc tiểu thuyết hư cấu vì chánh họ yêu thích sự bịa đặt. Bịa đặt làm cho con người khoái cảm hơn sự thực, nó kích thích cảm giác và đưa con người bay bổng vào vòm trời mơ ước mà hiện thực của cuộc đời không đem lại cho họ được. Chánh vì nhu cầu này mà các chuyện chưởng hư cấu của Kim Dung đã làm say mê không biết bao nhiêu triệu người đọc khắp các quốc gia miền đông và đông nam châu Á.

Ngoài văn bản, một nền văn học còn bao gồm các tác phẩm thuộc các loại hình văn học khác như âm nhạc, hội họa, điêu khắc, ca kịch, điện ảnh.v.v…và được gọi chung là nền văn học nghệ thuật của một dân tộc. Nền văn học nghệ thuật nói chung phải là tấm gương phản chiếu hình ảnh sống động của cuộc đời và giúp cho cuộc đời bớt khô cằn, buồn tẻ. Văn học nghệ thuật phải mang đến cho con người niềm vui và tiếng cười để quên đi đau buồn và nước mắt trong cuộc sống. Văn học nghệ thuật giúp con người biết nghi ngờ, biết tin tưởng cũng như biết nhìn đời sâu sắc hơn, lọc lõi, từng trải hơn nhờ vào những kinh nghiệm sống của các tác giả ghi lại trong những tác phẩm văn chương. Văn học nghệ thuật cũng làm cho mỗi sự kiện trong cuộc sống như có ý nghĩa hơn, những vật vô tri giác bỗng nhiên như có hồn: “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Không những thế, văn học nghệ thuật còn là niềm vui lớn có tác dụng mở rộng tâm hồn, tạo nên muôn ngàn nối kết ta với người và ngưòi với thế giới chung quanh. Văn học nghệ thuật giúp con người vượt qua những hạn chế của không gian, thời gian để bước qua ngưỡng cửa của bao nhiêu cuộc đời khác, cùng vui buồn, cùng ước mơ, hoặc cùng khổ đau với niềm đau chung của tập thể hay cùng vững tin vào niềm tự hào của dân tộc. Qua tác phẩm nghệ thuật, con người như được giải thoát khỏi mọi ràng buộc của cuộc sống giới hạn để

Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu tán
Phá vòng vây bạn với kim ô…

Tóm lại, văn học nghệ thuật giúp con người đi được giữa ước mơ và hiện thực, nâng hiện thực lên ngang tầm với mơ ước, kéo mơ ước trở về với hiện thực. Nhờ phối hợp ước mơ với hiện thực, văn học nghệ thuật giúp đẩy lùi mãi những giới hạn trong cuộc sống, và giúp mở rộng đến vô cùng những ước vọng và khả năng vươn tới của con người. Và đó chánh là sự đóng góp của văn học vào việc bảo tồn và phát triển nền văn hoá dân tộc.

Hải Phương
Guốc con gái bước
vui hè phố xưa
Rũ em
chiều xuống phố chơi
ly cà phê đợi
giọt rơi
đêm dài.
Rũ em
xuống phố sớm mai
áo con gái mỏng
nắng cài
gió thưa.
Rũ em
chiều xuống phố xưa
mái hiên chờ tạnh
cơn mưa
thì về.
Rũ em
ngày xuống phố nghe
guốc con gái bước
vui hè
phố xưa.

Liềm trăng
đôi guốc gỗ qua cầu
Bữa hôm trước
trăng khuya về trú ngụ
phiêu bồng đêm
nhú nụ mái hiên em
miếng môi đắng phủ phê cơn mê thiếp
thềm đá xanh rung nhẹ ngũ âm mềm
bờ vai mỏng lênh đênh
treo chiếc võng
ta đong đưa
trí nhớ sớm mai thèm
bữa hôm trước bữa hôm qua và buổi đó
bữa hôm nay là bữa nọ theo về
mấy bữa nữa
là bữa kia xếp lại
sớm hôm em
là nếp gấp rộng rinh lề.
Buổi đó là bữa hôm nay ghép lại
mép tồn sinh mấy bận mở ra nhìn
phần đời lạ
tro than thời thạch động
nét son ngời ngói gạch mắt môi em
Bữa hôm nay
trăng treo trên đỉnh núi
thôi non ơi
non ở với cây cùng
tầng đá biết bước chân tìm bữa nọ
em khuya lơ
rây nhẹ lớp sương rừng
mây trầm tích dòng phù vân ẩn dụ
cho dẫu sau xưa
đá nổi
nhánh rong chìm
con sông ấy xa nguồn ngơ ngẩn nhớ.
Bữa hôm mai
là bữa hôm nay chưa tới
mưa lưu vong cuồng lũ nhánh quê nhà
trăng cổ tích xói mòn thềm ký ức
ta lang thang
du mục một đời em
đôi guốc gỗ qua cầu khua bước nhẹ
thế kỷ sau chan chứa cõi đi về.
Buổi bắt đầu
là buổi sau cùng bữa trước
chiều xuống phố qua cầu đôi guốc gỗ
gõ nhịp vang rền thế kỷ em
cũng đủ thơ ta rịn mùi vô thức
cũng đủ liềm trăng lơ lửng mái hiên thềm.

Nhánh sông bữa trước
trôi buồn dòng xưa
Rũ em chiều xuống phố chơi
rốn phơi thế sự ngực cời càn khôn
chân đi hiu quạnh ngữ ngôn
dấu hưng phế mở cửa hồn rụng rơi.
Rũ rê em hát trên đồi
bỏ quên dưới biển chỗ ngồi tiền thân
rũ ra rũ rã trời gần
đất se dấu bụi phong trần dặm tuôn.
Rũ ra rũ rã cội nguồn
nhánh sông buổi trước trôi buồn dòng xưa.

Trần Vấn Lẹ
Thư riêng
Bác đi trong lúc tuổi già (*)
Cũng vui Bác nhỉ! Coi là cũng vui!
Nói chao ôi! Khóc hay cười?
Còn chung trà cũ, mất người ngày xưa…

Ngày xưa..Đà Lạt, trời mưa
Bác mời tôi đọc bài thơ mới làm
Tôi khen, Bác mặt rỡ ràng
Tay nâng quản bút ký ngang một đường:

“Tôi làm thơ tặng người thương
Anh trong tiếng gọi từ hồn tôi vang
Ngày xưa Giả Đảo lỡ làng
Nay tôi có bạn một bàn ngồi chung!”

Ba mươi năm trước, mịt mùng
Ba mươi năm, nhớ, tôi rùng mình, đau
Bác đi rồi? Bác đi sao?
Tôi không tin, lệ cứ trào, tự nhiên!

Bác Triếp à, Bác hãy quên
Tôi đi xa lắm, còn trên xứ người
Bác đi, nhang đốt cho Trời
Tôi tay bụm mặt, nhớ rồi… có quên?

“Viết cho người bức thư riêng
Gửi đi, ai nhận, tôi bèn xé thôi!
Còn nhau, cuối biển đầu trời
Mất nhau trong cái tuyệt vời Âm Dương!”

———————
(*) Việt Trang là bút hiệu của ông Phạm Gia Triếp, nguyên Ty Trưởng Thông Tin Đà Lạt suốt thời Đệ Nhất Cộng Hòa, sau cuộc đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ được làm Phó cho tới 3-1975. Ông rất thanh liêm, đi bộ hay xe đạp đi làm công chức. Ông có nhiều Thơ viết về Đà Lạt và bè bạn, Thơ Ông có đăng trên báo Thế Kỷ 21 và Người Việt tại Mỹ. Thỉnh thoảng thấy thơ Ông có treo ở quánthơ.net. Ông mất tại Đà Lạt ngày 24-7-2010. Trong số hơn mười người con của Ông, có ba đứa từng là học trò của tôi

Ngô Nguyên Nghiễm
Sơn Khê
Trắng mắt nhìn ra trời viễn xứ
Màn đêm lồng lộng kín chân mây
Ráng xa có cố mong manh thở
Cũng đỏ mơ hồ một khóm cây

Như bếp mùa đông nhen nhúm khói
Tro than tàn lụn thật vô tình
Nếu không đứng dưới trời giông bão
Đâu nghĩ ra mình ngọn cỏ hoang

Dửng dưng xuôi ngược đường nhân thế
Chiếc lá nào bay quá ngẩn ngơ
Mấy đợt sơn ca rung rúc gáy
Gọi người nghiêng ngửa kiếp xơ rơ

Ai muốn im lìm trong định số
Mặc tình con nước đuổi xô về
Cầm bằng một cánh phù dung nở
Hốc đá hoang tàn không khách qua

Mấy phen cố dựng trên sơn đỉnh
Thạch bản lung linh dưới nắng chiều
Soi mỗi đời người một bản vỗ
Bản nào phong thổ giống ta đâu?

Bởi suốt tháng năm đầy tiếng trống
Giục vào tiềm thức chút hư không
Đáy lòng nhè nhẹ xoay con trốt
Bay thẳng ra ngoài giấc mộng trung

Thế giới trong ta không cửa đóng
Khói mây mù mịt góc vườn xưa
Những đêm thức giấc như trong mộng
Thản thốt canh tàn rụng gió mưa

Tai vẫn lắng nghe từng điệu nhạc
Mơ hồ ngọn cỏ lớn theo trăng
Lần theo gậy trúc lùa sương gió
Sương gió lùa ta không nói năng

Thản nhiên rũ áo giang hồ bạc
Cát bụi ra hoa lạnh bốn bề
Ai sống âm thầm trong xó tối
Mà không heo hút bóng sơn khê?

Ngơ ngác bước trên bờ núi nhỏ
Nhìn quanh rờn rợn nét phong ba
Ai xô ta xuống giòng sông lạnh
Lãnh khí soi vào giữa giấc mơ

Hôm nay sóng nước về tăm tắp
Cổ thụ nằm ven con bến trưa
Lặng đứng chờ qua năm bảy kiếp
Vẫn chưa thấy được bóng chim xưa

Ngàn sau sử chép rằng cô khách
Đập nát cây đàn dưới miễu hoang
Ôm đá lạnh lùng lên chót núi
Hú dài theo tiếng đá lăn nhanh.

Đàm Trung Pháp
“CHÂN DUNG” CỦA MỘT HỌC VIÊN
NGOẠI NGỮ HỮU HIỆU

Sau nhiều năm quan sát, ghi nhận và chia xẻ, giới nhà giáo ngôn ngữ chúng tôi đã có thể phác họa ra “chân dung” của một học viên ngoại ngữ hữu hiệu qua một số đặc trưng. Tôi xin giải thích về những đặc trưng đó để quý bạn đọc nào đang học ngoại ngữ tự lượng giá, và nếu thấy mình thiếu hụt thì có thể làm thêm được những gì để có thể thành công hơn trong nỗ lực ấy. Vì chúng ta đang sống tại Hoa Kỳ, tôi xin đưa ra những thí dụ bằng tiếng Anh trong bài viết này.
Dưới đây là “chân dung” của một học viên ngoại ngữ hữu hiệu, qua các đặc trưng được mô tả vắn tắt cùng với các thí dụ liên hệ làm sáng tỏ vấn đề.
Người học viên ấy:
Sẵn sàng đoán ý nghĩa của một chữ mới gặp lần đầu, căn cứ vào ngữ cảnh (context) của chữ mới ấy. Điều này rất hữu lý, vì đâu có phải lúc nào học viên cũng có tự điển trong tay? Khi nghe hoặc đọc một đoạn đề cập đến một “obese man” nặng trên 300 pounds đang thở hổn hển leo cầu thang, thì học viên đoán được ngay ý nghĩa của chữ “obese” phải là “mập phì” rồi. Sau đó khi có thì giờ, người học viên sẽ tra tự điển để phối kiểm ý nghĩa, cách phát âm, cũng như chính tả của chữ “obese”cho chắc ăn.
Luôn luôn tìm kiếm cơ hội đàm thoại với người bản xứ và “coi như pha” những lỗi lầm về phát âm hoặc văn phạm của mình. Đành rằng lối phát âm tiếng Anh lôi thôi lắm, văn phạm cũng phiền hà nữa, nhưng nếu cứ e ngại sợ người Mỹ cười thì chẳng bao giờ dám phát ngôn, chẳng bao giờ nói được tiếng Anh! Không ai có thể chinh phục được một ngoại ngữ mà không phạm lỗi phát âm cũng như lỗi văn phạm nhiều lần trong khi học tập. Sự nhút nhát này rất tai hại, vì nó sẽ cho phép các lỗi ấy ngủ yên và cuối cùng biến chúng thành chai đá (fossilized) vô phương sửa chữa sau này. Người học ngoại ngữ hữu hiệu thường là những cá nhân có tính tình cởi mở, thân thiện, thích nói chuyện, và có cảm tình với ngoại văn, ngoại ngữ nói chung. Họ cũng không bao giờ bị trằn trọc, áy náy suốt đêm vì ban ngày họ đã phạm các lỗi phát âm hoặc văn phạm tiếng Anh!
Tận dụng mọi cơ hội để thực tập các chức năng ngôn ngữ (language functions) đã học được nhưng dùng chưa nhuyễn, trong cả hai lãnh vực nói và viết. Mỗi chức năng ngôn ngữ là một phương tiện để truyền thông và có một cấu trúc và từ vựng đặc thù. Thí dụ như chức năng “tạ lỗi” thường dùng động từ “apologize for” cho cái hành động mà nay mình hối hận, được diễn tả bằng mô thức [having + past participle của động từ đã gây ra hành động đáng tiếc ấy] như trong câu “I apologize for having ignored you at the party last week.” Quả thực, mức thông thạo (proficiency level) về một ngoại ngữ của một cá nhân có thể được đánh giá qua tổng số các chức năng mà người ấy đã thủ đắc được trong ngoại ngữ ấy.
Thực tập cách phát âm những chữ khó sau khi đã nghe người bản xứ, nhất là các chữ chứa đựng những âm vị (phonemes) không có trong tiếng mẹ đẻ của mình (như “think”, “judge”, “church”), hoặc các chữ mà âm tiết nhấn mạnh (stressed syllable) nằm trong vị trí bất thường (như “melancholy” và “industry” đều được nhấn mạnh ở âm tiết đầu tiên). Sự thực tập phát âm này có thể âm thầm, có thể lớn tiếng. Nỗ lực này thực tế lắm, vì người Mỹ thường không hiểu chúng ta khi chúng ta phát âm trật một âm vị trong chữ hoặc nhấn mạnh trật âm tiết trong một chữ.
Lắng nghe lối nói người bản xứ để học hỏi cách phát âm, cách dùng chức năng ngôn ngữ, và nhất là cách dùng những đặc ngữ (idioms) như trong các câu “Mary went through the roof when she heard she had been fired” hoặc “We only see them once in a blue moon.” Vì ý nghĩa của các đặc ngữ “go through the roof” (nổi cơn tam bành) và “once in a blue moon” (năm thì mười họa) rất khó đoán trúng, học viên phải hiểu cho rõ bằng cách lưu ý chúng rồi tra cứu ý nghĩa qua tự điển hoặc nhờ người bản xứ giúp đỡ.
Để ý đến những sắc thái tế nhị của ý nghĩa trong từ vựng và cú pháp. Thí dụ, người Mỹ thường không muốn dùng động từ “die” nghe quá phũ phàng, cho nên họ dùng những chữ thanh lịch hơn như “pass away” hoặc “depart.” Cú pháp cũng cho thấy thái độ của người sử dụng là lịch lãm hay cọc cằn, chẳng hạn như sự khác biệt giữa câu “Would you mind closing the window?” và “Close the window!”
Chú trọng đến hình thức của ngoại ngữ đang học hỏi, nào là viết chữ cho đúng chính tả (spelling), nào là chấm câu (punctuation) cho chỉnh, nào là chia động từ (conjugation) cho phân minh, vân vân. Nỗ lực này đòi hỏi sự chú tâm quan sát, ghi nhận, và thực tập đều đặn, vì tiếng Anh không phải là thứ tiếng dễ viết dựa vào lối “đánh vần” (hai chữ “key” và “quay” cùng phát âm như nhau), vì quy luật chấm câu trong tiếng Anh rất chặt chẽ (nếu không cẩn thận với dấu phết, người viết sẽ phạm vào các “trọng tội” như “comma splices” hoặc “run-on sentences”), và vì tiếng Anh có hàng trăm động từ bất quy tắc (sắp xếp theo mẫu tự từ “arise/arose/arisen” đến “wind/wound/wound”). Đây là lối tiếp thu văn phạm nghiêm chỉnh của một cá nhân học ngoại ngữ hữu hiệu để dẫn đến mức thông thạo hàn lâm (academic proficiency).
Không bứt rứt vì chưa hiểu rõ một cấu trúc nào đó của ngoại ngữ mình đang học hỏi, mà kiên nhẫn chờ đợi trong khi tìm hiểu thêm và chấp nhận đó là một phần tự nhiên của tiến trình học hỏi. Câu “Had John studied harder, he might have passed that tough exam” chắc chắn từng làm nhiều học viên tiếng Anh thắc mắc vì cấu trúc khác thường của nó. Hiển nhiên, cấu trúc này rất cần được tìm hiểu và thủ đắc vì nó diễn tả một sự giả dụ trái với sự thực trong quá khứ, đồng nghĩa với “If John had studied harder, he might have passed that tough exam.” Sự thực là John đã chẳng học chăm hơn tí nào và chàng đã rớt kỳ thi khó khăn đó rồi.
Dùng kiến thức tiếng mẹ đẻ để hiểu thêm về ngoại ngữ đang học. Người Việt chúng ta không may mắn bằng những người nói tiếng Tây Ban Nha khi học tiếng Anh, vì giữa tiếng Việt và tiếng Anh không hề có những chữ cùng gốc (cognates), nhưng cả chục ngàn những chữ cùng gốc đó tồn tại giữa tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Vì vậy người Mễ Tây Cơ sẽ hiểu ngay câu tiếng Anh sau đây chứa đựng vài chữ lạ lùng, khó đoán nghĩa cho người Việt chúng ta: “A coward osculated a taciturn damsel.” Trong khi người Việt thấy các chữ “coward, osculated, taciturn, damsel” lạ hoắc thì người Mễ hiểu chúng ngay rồi, vì “coward” cùng gốc với “cobarde” (kẻ hèn nhát), “osculated” cùng gốc với danh từ “ósculo” (nụ hôn), “taciturn” cùng gốc với “taciturna” (lầm lỳ), và “damsel” cùng gốc với “damisela” (thiếu nữ). Về cú pháp, người học viên hữu hiệu sẽ lưu ý tới những nét khác biệt đáng kể giữa ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ đang học hỏi, qua tiến trình “nâng cao ý thức” (consciousness-raising) để không phạm vào các lỗi lầm do sự “nhiễu nhương” (interference) – tức là không để cú pháp ngôn ngữ mẹ đẻ ảnh hưởng tiêu cực đến cú pháp ngôn ngữ đang học. Chẳng hạn, khi một câu phức tạp tiếng Việt bắt đầu bằng mệnh đề phụ sử dụng một trong các liên từ “vì/tuy/nếu” thì mệnh đề chính thường bắt đầu bằng một trong các “từ quân bình” (balance words) “nên/nhưng/thì” như trong các thí dụ sau đây: (1a) Vì nó kiêu ngạo, nên nó không có bạn. (2a) Tuy họ nghèo, nhưng họ rất hạnh phúc. (3a) Nếu anh yêu tôi, thì anh phải cưới tôi ngay! Nếu vô tình để khía cạnh cú pháp này của tiếng Việt ảnh hưởng lối viết tiếng Anh, chúng ta sẽ viết ra các câu bất cập sau đây: (1b) Because he is arrogant, so he has no friends. (2b) Although they are poor, but they are very happy. (3b) If you love me, then you must marry me at once! Người học viên hữu hiệu sẽ tinh ý dẹp bỏ ngay các “từ quân bình” không cần thiết “so/but/then” trong các câu (1b), (2b), và (3b).

Trần Yên Thảo
Lỗi nhịp
Sông đi hụt hẫng giang đầu
buổi hồng hoang lỡ bắc cầu vô chung
ta từ mộng mị lung tung
nhịp Nam Kha rớt vào cung Nghê Thường.

Soi gương thấy giặc
Sơn khê phá vỡ mạch nguồn
từ khi khói bếp rẫy ruồng nồi niêu
vỏ sò chứa chấp ruột nghêu
đường tơ kẽ tóc đã phiêu dạt rồi.

Chiếu trăng
Tiếng cười xé lụa đầu non
tan trong vô lượng hãy còn vọng âm
mảnh trăng tơ rọi chiếu nằm
chưa nghe đá nói ngàn năm còn chờ.

Hành tinh không Thái dương
Sãi tay nằm giữa hai bờ
con giun độn đất qua gò Kim Sa
một ngày trên xác thân ta
dường như trái đất quay ba bốn vòng.

Bên đường
Ghé qua trái đất tìm em
hay ra phần số đã lem luốc rồi
bên đường ghé tạm chiều ngồi
ngắm son phấn cũng đã đời mắt xanh.

Mộng Trang Sinh
Cựa mình, hạt bụi chơi rong
hóa thân con bướm vờ trông nhau cười
mang râu đội mũ về đời
nằm mơ chung giấc với người đang mơ.

Cuộc chơi chiến quốc
Người Chiến Quốc đã già nua
đơn thân múa gậy trong mưa chờ thời
gầy sòng tái diễn cuộc chơi
mặc cho sông núi qua đời đã lâu.

Lặng thinh cát đá
Chớp đôi cánh mỏng vàng hoe
giữa rừng thu, một tiếng ve lạc đề
lời phàm ý thánh vụng về
lâu nay cát đá chưa hề bận tâm.

Hạt bụi
Cá nằm trên cạn chờ mưa
Vũ môn đã quá còn chưa thành rồng
ngờ thương em bậu khóc ròng
hóa ra hạt bụi giữa tròng con ngươi.

Canh bạc dương gian
Trận cười lem lấm bi hài
vui chơi cốt chỉ một vài canh thua
rùng mình, cắn phải khế chua
tôi khoanh tay lại, kính thưa loài người.

Cát sông và dấu rùa
Sông trôi lắp kín Hà đồ
gió vi vút cuốn mịt mờ Thái hư
Rùa bò,
xóa dấu Lạc thư
trong mong quạnh ấy
dường như có người.

Nụ cười đắc đạo
Chuồn chuồn lượn bến sông đầy
bung thùa kẽ tóc bỏ ngoài chân tơ
sóng khoan nhặt, chèo bâng quơ
nhà sư đắc đạo lẳng lơ cười tình.

Cái Trọng Ty
Em về Phan Lý Chàm
một ngày qua sông Lũy
đền xưa vương quốc Chàm
dấu mờ bụi thời gian
những mùa khô úa tàn
xa nhau cùng khổ nạn
gặp lại em ngậm ngùi
đường về quê thăm thẳm
trong mắt Hời xa xăm
em về Phan Lý Chàm
mắt một trời tháp cỗ
chút lửa tình hiu hắt
cùng lạc mất quê nhà
anh qua đây gặp em
nghe tiếng rừng tuyệt vọng
nghe hồn xưa Cổ Lũy
bạc đời bóng tà huy
đồng chiều mùa nước dậy
đi suốt cõi lưu đày
những phận người thê thảm
nhìn mưa giọt lệ rơi
mây tầng bay lờ lững
chiều đã khuất sau rừng
một thời nơi quan ải
gọi nắng buồn qua sông
Theo gió mùa phai
tôi ngồi bên sông
quán chiều ẩm ướt
cầu lênh đênh
mờ khuất một ngày mưa
em về muộn
xe lăn tròn bọt nước
gió thổi áo em bay
mưa dài lụa bạch
em co ro ướt sũng môi mềm
mưa chiều ấm ngọt
phượng bên đường theo nước về đâu
em là gió
tà tà bay quấn quýt
là ngất ngây từ đôi mắt kiêu kỳ
là cháy ngầm sóng về trên mắt biếc
ở trong mơ xa
anh phạm tội trước dung nhan
chiều qua đây tình cờ gặp lại
chợt bàng hoàng dáng lụa chiều xưa
hạ xuân lan cung đình một thuở
màu kiêu sa nhan sắc từ trời

chút sắc hòa hoàng bay
nhẹ về tháp nắng
nghe ngậm ngùi mất mát bóng trăng trôi
nghe gợn chút tình bâng khuâng sóng vỗ
mà áo lụa mùa phai đã thu qua
hàng mù u vẫn một đời lăn mãi
những trái buồn rớt lại đêm mưa
nắng nhuộm cho vừa
màu chiều trong mắt
giữa tàn xanh màu nắng rớt lạnh lùng
chiều xa lắm em về mang nắng xoáy
mà say mềm môi thiếu phụ hôn mê.

Lưu Nguyễn Từ Thức
Cổ lai hy
Thoắt đó mà đã cổ lai hi
Nhìn đời thêm thẹn tiếng tu mi
Trăm năm hư ảo vầng mây trắng
Sẽ để lại gì lúc ra đi?

Mỗi độ Đông về cây trụi lá
Tuổi đời thêm nặng gánh quan hà
Giấc mộng trị bình thời trai trẻ
Còn đây tóc bạc đượm sương pha.

Bao năm ấp ủ lo mài kiếm
Nào hay xã tắc đến đường cùng
Đêm đêm xứ lạ nhìn trăng khuyết
Mơ những đường gươm giữa muôn trùng.

Ngày tháng qua lá úa trôi sông
Trầm luân chìm nổi kiếp bềnh bồng
Đường về quê cũ xa thăm thẳm
Bút mực cùn, hận nước mênh mông.

Ôm hận ngàn thu đời lang bạt
Ngược thời gian ảo ảnh mù khơi
Tìm lảng quên trăng chìm đáy cốc
Thương cho thân phận lạc bước đời.

Đường trần quạnh quẻ trời ký ức
Ai người chia sớt nỗi lòng nầy
Bao nhiêu công sức rồi tay trắng
Bỗng dưng thấy đời như bóng mây.

Bốn mươi năm cuộc đời tha hương
Bảy mươi năm lạc chốn đoạn trường
Ôm trọn niềm riêng sầu lắng đọng
Ôi! đời người một kiếp vô thường!

Trần Trung Tá
Bài thơ hai nửa
Đã tháng Tám rồi.
Hơn nửa năm.
Thời gian không thấy chạy bằng chân, hình như giờ khắc đang bay lượn bứt lá vàng Thu rải xuống sân?

Đã tháng Tám rồi… nước ngập sông. Những cơn mưa lũ kéo ra đồng ngắm nhìn ai vậy quần trên gối. Một Việt Nam tôi khổ quá chừng!

Mộ Mẹ mồ Cha không khéo mất. Mưa tầm mưa tã, mưa mưa mưa… Áo tơi không phủ qua đầu được. Dông gió xé lòng đã đủ chưa?

Tháng Tám, giục tôi buồn nhắc nhớ quê nhà em vuốt mặt chiều hôm. Than cời, tro nguội, xanh um khói. Hai mắt cay sè. Em nấu cơm!

Tháng Tám ở đây, trời rất đẹp. Lá vàng báo hiệu đã mùa Thu. Có mưa phơ phất vài ba trộ không lạnh như xưa tôi ở tù…

Tháng Tám, mở ra tờ giấy mới, bài thơ tôi chứa nửa quê nhà, nửa còn lại chứa lòng xa xứ, nghe trái tim mình ai xẻ ba:

Một góc mồ Cha và mộ Mẹ, một phần em đó áo tơi mưa. Còn phần còn lại đang co thắt: tôi tuổi tàn rồi, em biết chưa?

Tháng Tám
Ai xui mà lảm nhảm! Thơ nào hạt bụi, ý nào mây? Chùa xa chuông vọng nghe hồi sớm, đâu nụ bình minh hương phấn bay…

Trọng Đạt
KHUYNH HƯỚNG CHÍNH
TRONG VĂN NGHIỆP THẠCH LAM

Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Vinh sinh năm 1910 tại Hà Nội, là người con thứ sáu trong gia đình Nguyễn Tường. Ông bị bệnh lao mất tháng 6 năm 1942 tại một ngôi nhà tranh làng Yên Phụ cạnh Hồ Tây.
Các tác phẩm gồm.
1-Ngày Mới, tiểu thuyết 1937
2-Gió Đầu Mùa, tập truyện ngắn 1937.
3-Nắng Trong Vườn, tập truyện ngắn 1938.
4-Theo Giòng, nghị luận văn chương, 1941.
5-Sợi Tóc, tập truyện ngắn, 1942.
6-Hà Nội 36 Phố Phường, tùy bút, 1943
Ở đây chúng tôi xin đề cập đại cương về những đặc điểm, những khuynh hướng chính trong văn nghiệp của Thạch Lam qua các truyện ngắn, truyện dài, tùy bút. . Chúng tôi thu về những điểm chính sau đây: Khuynh hướng Xã hội, Nhân bản, Hiện thực, Tâm lý, Bi kịch và một số khuynh hướng phụ khác. Tìm hiểu về những khuynh hướng này cho ta thấy một cái nhìn tổng quát về văn nghiệp của Thạch Lam.
Trước hết xin nói về:

XÃ HỘI

Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, Thạch Lam cũng không nằm ngoài tôn chỉ chung của văn đoàn là soạn những cuốn sách có tư tưởng xã hội để làm cho con người và xã hội ngày một hay hơn lên, đa số các đề tài trong truyện ngắn, truyện dài của ông thuộc về khuynh hướng xã hội. Nhưng khác với Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo chủ trương cách mạng triệt để theo mới, đả phá đến tận gốc rễ nền tảng văn hoá phong tục cổ hủ, Thạch Lam với lối trình bầy thầm lặng tế nhị hơn khiến người ta có cảm tưởng như ông chỉ nhìn xã hội bằng cặp mắt khách quan không liên hệ gì với cuộc cách mạng xã hội mà những bậc đàn anh của ông đã đề xướng lên.
Tôi đồng ý với ông Phạm Thế Ngũ về nhận xét Thạch Lam như một nhà văn có khuynh hướng xã hội song tôi không thể đồng ý với ông trong đoạn dưới đây.
“Ông lấy làm nhân vật những người tầm thường trong xã hội. . . Ông thường để ý vạch vẽ cuộc đời của họ, những tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền trực tiếp hay gián tiếp tư tưởng cách mạng xã hội”.
Trong truyện ngắn cũng như truyện dài, Thạch Lam hay mô tả kỹ lưỡng tâm lý và hoàn cảnh của những người nghèo nàn, địa vị thấp kém, mạt hạng trong xã hội hoặc những người cùng khổ, diễn tả những thảm cảnh của một giai cấp là đã gián tiếp cho người đọc chú ý đến thực trạng hoàn cảnh của họ cũng như để mong có một lối thoát nào đưa họ ra khỏi hoàn cảnh đó, chẳng lẽ chỉ tả tâm lý, xã hội để người đọc giải trí chơi cho vui thôi?
Trong một số truyện ngắn của ông ta cũng thấy phảng phất cái không khí luận đề xã hội của Khái Hưng, Nhất Linh mặc dù không mạnh dạn nói ra như trong Một Đời Người (Gió Đầu Mùa) nói về hậu quả tai hại của hôn nhân gả ép, hoặc trong Hai Lần Chết (Gió Đầu Mùa) về sự gả bán con gái.
Một Đời Người là truyện một cô gái (Liên) không lấy được người yêu (Tâm), vâng lời cha mẹ theo đúng cái hủ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy để lấy một người mà nàng không yêu (Tích) để rồi phải cắn răng cam chịu sống trong một địa ngục, người chồng vũ phu đánh đập nàng tơi tả, mẹ chồng cay nghiệt chửi rủa hành hạ nàng đủ điều. Bẩy năm sau gặp lại người yêu, chàng đổi vào Sài Gòn và rủ nàng trốn theo, bị chồng đánh đập tàn nhẫn nàng nhất quyết theo người yêu ra đi tìm tự do để rồi hôm sau lại đổi ý, nàng ẵm con ra sân ga tiễn người yêu lên xe hỏa vô Nam đem theo cái hy vọng cuối cùng của đời nàng, Liên nhìn hạnh phúc chạy ngang qua trước mắt mình trên chuyến xe lửa vô Nam, đạo đức luân lý đã không cho phép nàng bỏ chồng theo trai, nó chẳng khác nào như một sợi dây xiềng định mệnh buộc chặt lấy nàng để tiếp tục sống cuộc đời nô lệ.
Hai Lần Chết là truyện một người con gái tên Dung, không được cha mẹ yêu thương, gia đình trước thuộc gốc quan lại nay nghèo nàn sa sút, Dung không được đi học, gầy gò ăn mặc lôi thôi đi đánh đáo với bọn trẻ nhà nghèo. Bà cụ buôn bán, Tết nhất anh chị có áo đẹp, Dung chỉ mặc quần áo cũ, lên mười sáu bà mẹ gả bán Dung cho một bà nhà giầu, tiền thách cưới rất lớn. Nhà chồng giầu có nhưng keo kiệt, bắt con dâu phải làm việc đồng áng, nhổ cỏ tát nước, đầu tắt mặt tối, chồng Dung loắt choắt cả ngày chỉ đi thả diều… Dung trốn về quê với mẹ nhưng bà mẹ chồng đến tận nơi bắt nàng phải trở về, Dung nhẩy xuống sông cho rảnh nợ đời, được cứu sống cô lại theo mẹ chồng về nhà tiếp tục cuộc đời lam lũ, lần này mới đích thực là chết, chết không ai cứu gỡ được. Cũng như trong Một Đời Người, tác giả cũng cho ta thấy cái xấu xa tàn nhẫn của tục gả bán và thân phận cay đắng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến mẹ chồng nàng dâu, thật chẳng khác nào như truyện Đoạn Tuyệt thu gọn lại.
Trong Cô Hàng Xén, một cô gái xinh đẹp nổi tiếng cả một vùng một mình gánh hàng ra chợ bán, nàng vừa è cổ gánh vác giang sơn nhà chồng lại phải giúp cho các em ăn học, cuộc đời của nàng chỉ toàn là hy sinh gánh vác. Phải chăng ý nghĩa hy sinh cao đẹp của xã hội nho phong xa xưa lại đưa đến tấn bi kịch thân phận con người, một sự tương phản mâu thuẫn giữa ý nghĩa hy sinh cao đẹp của nền luân lý cổ và chủ nghĩa cá nhân về hạnh phúc con người.
Trong các truyện ngắn, cũng như Nhất Linh, Thạch Lam hay đề cập đến thân phận người phụ nữ, có khác chăng nhân vật của Nhất Linh là những người trong các gia đình trưởng giả như bà thông, bà phán. Ở Thạch Lam là những người bình dân, hoặc nghèo khổ khốn cùng như Nhà Mẹ Lê, chị Sen. Trong Nhà Mẹ Lê, Đứa Con ta thấy tác giả đưa ra cái biên giới phân chia giai cấp: bọn cường hào và những người cùng khổ bị áp bức bóc lột. Bất công xã hội dưới ngòi bút Thạch Lam được diễn tả linh động tự nhiên nhưng cũng mang tính xây dựng như ở Nhất Linh, Hoàng Đạo: Trong Nhà Mẹ Lê cho thấy sự tàn bạo của bọn cường hào, và trong Đứa Con, tội ác bóc lột xương tủy người nghèo của bọn bất nhân như ông đã nói trong phần Lời Nói Đầu của truyện Gió Đầu Mùa.
“Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Trong phần đề tựa Gió Đầu Mùa Khái Hưng viết.
“Rồi ta sẽ thấy trong những tác phẩm của Thạch Lam, rất nhiều nhân vật có cặp má phính và cái bụng xệ. Thạch Lam sẽ trút lên đầu họ hết cả sự căm tức, oán trách một xã hội trưởng giả, bất công, tàn ác đối với những người khốn khó đáng thương, mà Thạch Lam tha thiết bênh vực và an ủi”.

NHÂN BẢN

Văn chương Thạch Lam thể hiện tình thương bao la như tính công bằng bác ái Thiên Chúa Giáo, như lòng từ bi hỉ xả của Thích Ca Mâu Ni, hoặc dạt dào và rộng rãi bao la như tình yêu nhân loại, chẳng thế mà trong Lời nói đầu của Gió Đầu Mùa ông viết.
“Trước ngọn gió đầu mùa, tôi cũng không khỏi ngăn được những cảm giác sâu xa và mới lạ. Tôi đem tâm nghĩ ngợi đến những cơn gió đột khởi ở lòng người. Tôi lại nghĩ đến những người nghèo khổ đang lầm than trong cái đói rét cả một đời, gió heo may sẽ làm cho họ buồn rầu lo sợ, vì mùa đông sắp tới, mùa đông giá lạnh và lầy lội phủ trên lưng họ cái màn lặng lẽ của sương mù và lòng tôi se lại, khi nghĩ rằng chỉ một chút âu yếm, một chút tình thương cũng đủ nâng đỡ an ủi những người khốn cùng ấy”.
Vũ Bằng, một nhà văn tiền chiến sống cùng thời với Thạch Lam đã nhận xét như sau trong bài Thạch Lam, Một Nhà Văn Yêu Người Như Yêu Mình (Giao Điểm, Sài Gòn 1972)
“Trong nhóm Phong Hóa, Ngày Nay, Hoàng Đạo là người lý thuyết, Nhất Linh là người thực hành, Khái Hưng là người đả phá nếp sống cũ để tiến tới một đời sống mới, tựu chung đều là thương người, yêu người cả, nhưng muốn nói đến một người tôn thờ nhân bản thực sự, một người thương yêu xót xa đồng bào từ tâm, can, tì, phế thương ra thì người ấy chính là Thạch Lam. . . . . . . . . . . . . . . Gió Đầu Mùa là bằng chứng cụ thể chứng tỏ điều tôi vừa nói.”
Thực vậy tác phẩm đã được viết ra như một chút tình thương yêu để an ủi những kẻ lầm than đói rét trong cơn gió lạnh: Truyện Nhà Mẹ Lê như một chút tình thương cho thân phận những kẻ ngụ cư khốn cùng, truyện Đói thể hiện tấn bi kịch trong một gia đình nghèo nơi thành thị và thân phận người đàn bà bất hạnh vì thương chồng phải sa xuống hố sâu tội lỗi, truyện Người Lính Cũ khiến ta không khỏi bùi ngùi cảm thương cho những kẻ thất thời lỡ vận lâm vào bước đường cùng: Một người trước đây đi lính cho Tây từ lúc mới hai mươi, bốn năm làm bếp, có tiền, có cô đầm, cuộc đời huy hoàng, uống rượu, nhẩy đầm, sau mãn lính về nước, có ruộng nương nhưng bị mất mùa mấy năm, gia tài khánh kiệt, nay ho ra máu, thân tàn ma dại, vô gia cư, sống vất vưởng ở một cái quán bên đường.
Một Cơn Giận, truyện một thầy ký chỉ vì trong một phút nóng giận sai lầm đã khiến cho anh phu xe tan nhà nát cửa, nhưng khi hồi tỉnh vô cùng hân hận anh đã đến nhà nạn nhân đền một số tiền lớn như để chuộc lại tội lỗi của mình, truyện như để diễn tả và ca ngợi tính bản thiện của con người.
Trong Ngày Mới, cuốn tiểu thuyết duy nhất của ông và Bóng Người Xưa (Nắùng Trong Vườn) Thạch Lam dùng lối kết thúc happy-ending thể hiện ý nghĩa nhân bản của tác phẩm, hai truyện cùng môt đề tài người chồng tàn nhẫn phũ phàng với vợ, sau ân hận, khi tính bản thiện của con người sống lại, họ đã trở về với hạnh phúc gia đình, một thứ hạnh phúc tràn đầy tình nghĩa vợ chồng.
Trong Tiếng Chim Kêu, một cậu chuyện nhẹ nhàng ngây ngô tưởng như vô nghĩa nhưng cũng là một tác phẩm của tình người, của kẻ ở trong căn phòng ấm cúng đối với những người lạnh lùng ngoài sương gió và ngay cả với loài chim muông nhỏ bé.
Nhất là trong Gió Lạnh Đầu Mùa, tình người ấm áp như chiếc áo mùa đông đã này nở trong lòng hai đưa trẻ: Hai chị em Lan, Sơn mặc áo ấm ra chợ chơi với bọn trẻ nhà nghèo thấy Hiên con bé hàng xóm co ro bên cột quán mặc manh áo rách tả tơi bèn chạy về nhà lấy áo bông cũ đem cho nó mặc. Mẹ Lan thấy nhà Hiên nghèo khổ bèn cho mẹ nó mượn năm hào may áo. . .
Tấm lòng chia sẻ ân cần của Thạch Lam đã vượt khỏi biên giới quốc gia và thể hiện một tình yêu nhân loại rộng rãi bao la trong Người Đầm (Nắng Trong Vườn): Tác giả gặp một bà đầm dễ thương nhã nhặn trong một rạp hát rồi đem lòng thương mến một người ngoại quốc có lòng nhân từ rộng rãi và tình cảm dạt dào, ông ao ước mọi người Pháp đều tốt như bà để hai giống người sẽ hiểu biết, thân nhau như anh em trong một nhà, một câu chuyện giản dị , sáng sủa tràn đầy tình yêu nhân loại rộng rãi bao la giữa các giống người trên trái đất này.
Nhà phê bình Văn Giá đã nhận xét về nhân bản của Thạch Lam như sau.
“Nhưng tạng Thạch lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, không có cái sức mạnh của những cú đánh, mà là tiếng lòng của sự chia sẻ ân cần mang vẻ đẹp của lòng bác ái, Cơ Đốc Giáo, trầm ẩn sâu xa vào từng kiếp phận nhỏ bé, thầm lặng là lòng say sưa cái Tuyêt Thiện, Tuyệt Mỹ”.
Thạch Lam, Văn Chương Và Cái Đẹp, nhà xuất bản Hội Văn Hà Nội 1999.

HIỆN THỰC

Văn chương là phản ảnh của xã hội, con người cũng như tư tưởng tâm tình của họ, tự nó đã có giá trị hiện thực. Từ những truyện tiểu thuyết dã sử xa xưa hằng nghìn năm như Thủy Hử đã thể hiện cho ta thấy những sinh hoạt của xã hội như đình chùa, chợ búa, tâmtình, mưu mẹo của con người thời ấy. Thạch Lam luôn ca ngợi cái thực trong văn chương, ông cho rằng tiểu thuyết của Anh, Nga linh động như cuộc đời nhưng không thấy ông dẫn chứng những tác giả nào, những truyện nào gần với cuộc đời, với sự thực.
Văn chương Nga hay Anh thế kỷ 19 chưa hẳn đã đi vào hiện thực nhưng đã gần với cuộc đời hơn các khuynh hướng luân lý hoặc lãng mạn như trong Chiến Tranh Và Hòa Bình (1869), Annna Karenine (1877) của Léon Tolstoi, tác giả đã làm sống lại thế giới quí tộc ông hoàng bà chúa đôi khi cả những cái giả dối của nó, để rồi hơn 20 năm sau với Ressurection (1899) ông đã chuyển dần sang địa hạt hiện thực để diễn tả những cảnh khốn cùng thê thảm của người dân Nga, những người bị trị dưới sự áp bức bóc lột của giai cấp quí tộc ăn trên ngồi chốc, chỉ trích nặng nề nền tư pháp, Giáo Hội, chế độ Nga Hoàng. . .nhưng cũng phải đợi gần nửa thế kỷ sau văn chương mới thực sự đi vào tả chân để diễn tả đầy đủ những khía cạnh của cuộc đời, của con người.
Với Sông Don Thanh Bình một tác phẩm vĩ đại viết xong 1940, Sholokhov đã làm sống lại cuộc chiến đẫm máu giữa Hồng Quân và người Cosaques sông Don nổi dậy giành quyền tự chủ một cách tàn bạo. The Grapes of Wrathes của John Steibeck viết 1939 đã nói lên số phận cay đắng của những người nông dân bị truất hữu đất đai phải tha phương cầu thực dở sống dở chết tại miền đất hứa Cali và Giờ Thứ Hai Mươi Lăm của Gheorghiu viết 1950 đã phơi bầy cho ta thấy sự tàn phá khủng khiếp của nền văn minh cơ giới, nó đã hạ giá trị con người xuống hàng số không.
Tả chân hiện thực của tiểu thuyết cận đại và hiện đại đã trở thành một tiêu chuẩn nghệ thuật quan trọng của văn chương trước sự thay đổi quan niệm của người thưởng thức, độc giả muốn được thấy cuộc đời, tâm tình con người gần gũi sống thực hơn, quan niệm của người làm nghệ thuật cũng từ đó mà thay đổi theo. Cảnh chiến trận được mô tả bằng những vẻ tuyệt đẹp như trong Chiến Tranh và Hòa Bình với những cụm khói xanh như khói lam chiều trên bãi cỏ non xanh rợn chân trời dưới bầu trời xanh thẳm nhưng với Sông Don Thanh Bình nó đã được Sholokhov tả chân bằng những nét sống thực qua hình ảnh những đường gươm của kỵ binh Cosaques hay của Hồng quân giáng từ trên xuống đầu kẻ địch vỡ làm đôi đánh “cóc” một tiếng , hoặc qua những cảnh chém giết tù binh man rợ. Chiến tranh phải được diễn tả tàn bạo phũ phàng mới đúng ý nghĩa của tả chân hiện thực.
Không riêng văn chương các nghệ thuật khác như điện ảnh cũng đã chuyển dần sang tả chân hiện thực nhất là trong những thập niên 50, 60 trở lại đây, người Ý có khuynh hướng coi hiện thực là tiêu chuẩn quan trọng nhất của điện ảnh và bây giờ nhà đạo diễn Trung Hoa lục địa Trương Nghệ Mưu đã thành công rực rỡ với hai giải thưởng sư tử vàng Đại Hội điện ảnh Venice qua hai cuốn phim xã hội tả chân hiện thực: Thu Cúc Đi Kiện (1993) và Không Thiếu Đứa Nào (1999) .
Trở lại Thạch Lam, qua các truyện ngắn truyện dài và cuốn nghị luận văn chương Theo Giòng của ông người đọc thấy tác giả chú trọng vào sự thật như tiêu chuẩn hàng đầu của văn chương nghệ thuật của ông vì thế ông đã có những nét khác biệt với Khái Hưng, Nhất Linh, các bậc đàn anh này thiên về luận đề và khuynh hướng lãng mạn, trong bài Nhìn Lại Những Quan Niệm Về Văn Học Của Thạch Lam Nguyễn Thành viết.
“Mặc dù là người của Tự Lực Văn Đoàn mà khuynh hướng chung của nhóm là theo trào lưu lãng mạn, nhưng Thạch Lam lại rất gần với các nhà văn hiện thực tiêu biểu cùng thời, không chỉ thể hiện đậm nét trên nhiều tác phẩm mà còn trong quan niệm về văn chương”.
Thạch Lam- Văn Chương Và Cái Đẹp, nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội 1994
Khái Hưng trong phần đề tựa cuốn Gió Đầu Mùa đã viết.
“Thành thực, đó là đức tính không có không được của nhà văn. Ở Thạch Lam, sự thành thực lại trở nên sự can đảm. Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự thành thực (những đoạn tả trong truyện Ngày Mới)”.
Ngày Mới là cuốn truyện dài duy nhất của Thạch Lam, cốt truyện lặng lẽ âm thầm và tẻ nhạt coi như không thành công so với Khái Hưng và Nhất Linh nhưng nó kéo lại được nhờ giá trị hiện thực, Thạch Lam có những nhận xét tế nhị sâu sắc. Những đoạn tả trong Ngày Mới mà Khái Hưng ca ngợi nếu tôi không lầm là những cảnh cùng túng của bọn dân nghèo thành thị, lối sống và tâm tình của họ trong thế giới tiểu thuyết của ông như những cảnh dười đây.
-“Đằng chú thím Trường hình như dạo này cũng túng. Vừa hôm nọ, thím ấy có đến hỏi vay con” Nàng nói thêm “Nhưng con làm gì có tiền mà cho vay”
Bà Phán cuời.
-Vợ chồng nó thì kêu túng cả đời. Đi làm được ba chục bạc lương thì sao đủ.
Hoặc
Nghe mẹ nói đến tiền, Trường sực nhớ đến cái mục đích của mình khi về thăm nhà. Chờ lúc mọi người không ai để ý, chàng ra hiệu cho chị rồi đứng dậy bước ra cửa. Dung theo ra, Trường hỏi nhỏ:
-Thế nào chị? Chị đã nói với mẹ hộ em chưa?
Dung lắc đầu đáp:
-Chưa, vì tôi biết hôm nọ mẹ cũng chả có. Tôi đã có hỏi vay riêng mấy người chị em bạn cho chú, nhưng không được”.
Và những đoạn tả chân dưới đây cho ta thấy nhận xét của Thạch lam rất tinh tế có vẻ trội hơn các cây viết khác trong văn đoàn.
“-Anh đưa tiền cho tôi, còn cho em nó mượn bây giờ.
Xuân lẳng lặng thò tay vào túi áo lấy tập giấy bạc. Chàng đếm riêng ra một tập, bỏ chỗ còn lại vào túi, rồi để tập bạc trên bàn, trước mắt Trường. Bà Phán với tay cầm lấy, ngửng nhìn hỏi Xuân:
-Chỗ này là bao nhiêu đây?
-Hơn ba chục.
Bà Phán để tập giấy bạc xuống bàn dịu dàng nói:
-Anh đưa thế này sao đủ tiêu. Tiền nhà, tiền ăn, trăm thứ đều trông vào anh cả, mà chừng này thì sao đu”û.
Và những đoạn còn độc đáo hơn nữa như.
“-Anh chỉ biết nghĩ đến anh thôi. Vợ con anh ở nhà không nhìn gì đến, con anh nó ốm anh cũng mặc, chỉ đi chơi bời suốt ngày đêm, rồi đem tiền cung phụng cho người khác. Anh không biết mấy tháng nay tôi đâm công mắc nợ bao nhiêu. Nhưng anh cần gì.
Xuân vung tay giận dữ, bước tới cửa, quay lại đáp.
-Ồ, bà nói tôi khó chịu lắm. Không để cho người ta yên một chút nữa!
Chàng sập cửa đánh sầm một cái, bước vội ra ngoài.”
Trong cuốn Theo Giòng, Thạch Lam nói sự thành thật là then chốt của người nghệ sĩ, nó là yếu tố quan trọng cho sự thành công của tác phẩm, quan sát tỉ mỉ chân thật đóng vai trò then chốt trong sự sáng tác của Thạch Lam mà các cây bút khác ít ai có được như trong Cô Hang Xén, một nhân vật điển hình của xã hội nho phong đang lúc suy tàn, cái xã hội đã đặt hết cả mọi hy sinh gánh vác trên đôi vai nhỏ bé của Tâm, nàng vừa è cổ gánh vác giang sơn nhà

chồng lại phải giúp đỡ các em ăn học, lén lút gửi tiền về cho cha mẹ. Nhưng cái nền nếp nho phong cao đẹp ấy dưới cái nhìn của chủ nghĩa cá nhân ngày nay chỉ là sự ngược đời vì nó vi phạm quyền sống của con người.
Tả một đôi vợ chồng cường hào gian ác chuyên nghề cho vay lãi nặng, những nhân vật quái đản của xã hội dưới ngòi bút của Thạch Lam có những nét độc đáo khác thường, thành quả của những nhận xét tinh vi tế nhị mà ít ai có.
“Hai vợ chồng ông Cả trước kia cũng nghèo hèn, sau nhờ cho vay lãi, lãi rất nặng, mà trở nên giầu có. Nhưng bà kiệt ác lắm. Một tay bà Cả đã tịch ký không biết bao nhiêu ruộng nương của người ở trong vùng. Những người vay nợ, bà bắt phải biếu xén, nên trong nhà bà lúc nào cũng có gà vịt, gạo hay chân giò. Nhưng hai ông bà hà tiện không dám ăn, gà vịt đem bán ở chợ, còn chân giò phơi khô để dành. Bữa cơm chỉ có một ít vừng rang thật mặn, một ít thịt kho dim và một đĩa rau”.
Ông bà không có co người ta thường bảo “không biết kiệt như thế rồi giữ của để cho ai”
Những mẫu người gian ác keo kiệt độc đáo nhất của xã hội mà chúng ta có cảm tưởng như chỉ có một mình Thạch Lam khám phá ra được. Trong sáng tác cũng như những bài tiểu luận văn chương (Theo Giòng) Thạch Lam thường nhấn mạnh đến tiêu chuẩn hiện thực như một yếu tố quan trọng hàng đầu của giá trị văn chương tác phẩm.
“Một nhà văn không thành thực, không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị.”
Hoặc
“Sự thành thật mới là cái then chốt của nhà nghệ sĩ: muốn viết một tác phẩm bất hủ mà giá trị không theo thời, ta phải để hết nỗi rung động trong tác phẩm đó.”
Trong bài Nhìn Lại Những Quan Niệm Về Văn Học Của Thạch Lam (Văn Chương Và cái Đẹp), Nguyễn Thành viết.
“Như vậy, có thể khẳng định rằng, tính chân thật của nghệ sĩ và cá tính chân thật của văn học được Thạch Lam coi như một vai trò quan trọng, quyết định giá trị của tác phẩm.”

TÂM LÝ

Dostoievsky (1821-1881), nhà văn hào Nga thế kỷ 19 đã đưa lối tả
tâm trạng nhân vật tới tận cùng trong toàn bộ văn nghiệp của ông nhưi Tội Ác Và Hình Phạt (Crime et Châtiment 1866), Thằng Ngốc (1868), Anh Em Nhà Karamazov (1880). . . Mới đầu ông bị dư luận các nhà phê bình đương thời chỉ trích dữ dội, Léon Tolstoi cho tác phẩm của ông không thực chút nào, George Moore nói đó chỉ là những vở cải lương rẻ tiền pha chút mắm muối tâm lý (a cheap melodramatic novelist with psychological sauce) nhưng sau này và cho tới bây giờ, các thế hệ kế tiếp đã nghiên cứu văn chương Dostoievsky và đã ca ngợi ông không tiếc lời, nhiều người đánh giá ông là nhà văn hào vĩ đại nhất thế giới từ trước tới nay, nhưng trên thực tế tác phẩm của ông ít người đọc và cũng ít người hiểu được ông.
Ở đây tôi không luận bàn về giá trị văn chương Dostoievsky mà chỉ đề cập đến ông như một trong những nhà tiểu thuyết gia đi tiên phong trong lãnh vực hướng nội, mô tả tỉ mỉ những trạng thái tâm lý của con người, ông đã ảnh hưởng rất nhiều trên văn đàn thế giới trên địa hạt tâm lý này.
Tự Lực văn đoàn đã chịu ảnh hưởng Dostoievsky trong đó Thạch lam chịu nhiều nhất, trong cuốn Theo Giòng ông đã từng ca ngợi Dostoievsky, nhà văn hào cổ điển Nga này là tiểu thuyết gia hay nhất của thế kỷvà trên hoàn cầu.
Qua các tác phẩm cũng như các bài nghị luận văn chương, ông đặt tả tâm trạng vào tiêu chuẩn hàng đầu cùng với hiện thực như đã trình bầy ở phần trên. Ông quan niệm nhà văn phải nhìn sâu vào tâm hồn mình để tìm những tính tình cảm giác thành thực, nhà văn phải suy xét tâm hồn mình rồi mới hiểu tâm trạng những người khác, trở về với chính tâm trạng của nhà văn mới chính là phản ảnh trung thực của tâm hồn, của cuộc đời.
Ngay cả khi đứng trước cành hoa đào nở rực rỡ, một cành tre trước gió người nghệ sĩ cũng phải thấy được cả những tâm hồn của cỏ cây, hoa lá.
“Khi thấy các lá tre gió thổi vút một chiều, tôi cảm thấy một vang động âm thầm và kín đáo trong tâm hồn. Hình như một cảm giác gì thanh thoát và lạnh lẽo, một cái gì vừa cứng cỏi lại vừa chua sót, vừa tha thiết lại vừa lãnh đạm”

THEO GIÒNG

Nhiều nhà phê bình về Thạch lam đã đồng ý trên quan điểm ông
có những nét độc đáo riêng so với Khái Hưng, Nhất Linh, tôi cho là ở kỹ thuật tả tâm trạng mà ông xếp vào sự quan trọng hàng đầu, thật vậy Khái Hưng cũng chịu ảnh hưởng của Dostoievsky như trong Hồn Bướm Mơ Tiên đã diễn tả sự phấn đấu bên trong nội tâm một cô gái trẻ đẹp xuất gia thoát tục hay đúng hơn một cơn bão lòng , sự tranh đấu giữa tình yêu và lòng mộ đạo, Nhất Linh trong Đôi Bạn cũng chú trọng về hướng nội và sau này trong Xóm Cầu Mới. Nhưng khuynh hướng lãnh mạn của Khái Hưng và Nhất Linh bao giờ cũng nổi bật lên và ngược lại Thạch Lam có con đường đi riêng của mình, đối với ông hướng nội là tiêu chuẩn quyết định cho tác phẩm nghệ thuật vì vậy màvăn chương của ông, truyện ngắn truyện dài đều được sáng tác trong vòng ảnh hưởng nặng nề của kỹ thuật tả tâm trạng con người.
Trong Sợi Tóc, truyện một anh chàng bị một cái ví tiền cám dỗ chỉ trong tích tắc là anh phạm tội ăn cắp, Thạch Lam đã dẫn dắt ta đi sâu vào tâm hồn con người để nhận rõ sự dằng co vừa gay go, vừa quyết liệt giữa nhân tính và lòng tham, giữa thiện và ác. Sự cám dỗ của số tiền lớn làThành mờ cả mắt nhưng lý trí của anh đã đàn áp được cám dỗ. Cách thuật sự của Thạch lam thật là tuyệt diệu nó đưa người đọc vào chỗ chơi vơi bềnh bồng giữa thực và mộng để ta chứng kiến được cái biên giới mong manh giữa thiện và ác, giữa ăn cắp hay không ăn cắp cái biên giới chỉ mong manh như sợi tơ sợi tóc.
Truyện Một Cơn Giận (Gió Đầu Mùa) là sự phân tích tỉ mỉ tâm trạng của một người phạm tội đối với lương tâm, nhận xét vô cùng tế nhị của tác giả cũng đi sâu vào tận tâm hồn nhân vật (Thanh) từng giây từng phút để cân đo lòng hối hận của anh khi cơn giận đã qua.
“Lòng hối hận không để tôi yên. Hình như có một cái gì nặng nề đè nén trên ngực làm cho tôi khó thở, và lúc nào hình ảnh người phu xe cũng hiện ra trước mắt”.
Ở Thạch Lam hướng nội và tả chân cũng có thể đồng hóa làm một, ông đã nói trong Theo Giòng, người nghệ sĩ phải quay về tìm tòi trong tâm hồn mình rồi mới thấu nhập được những ý nghĩ, tâm trạng của người khác, ta không thể chối cãi được nghệ thuật tả hướng nội của Thạch Lam luôn luôn sâu sắc và hiện thực hơn các cây bút khác của Tự Lực văn đoàn.
Trong Cuốn Sách Bỏ Quên (Nắng Trong Vườn) Thạch Lam diễn tả chân thực tâm trạng một người cầm bút, cũng có thể chính là ông, nó cho thấy cái biên giới vô cùng tàn nhẫn giữa thực và mộng, mộng vàng tan vỡ làm trăm mảnh khi đụng phải thực tế phũ phàng: Đó là truyện một anh nhà văn mang đầy mộng đẹp, mơ tưởng đến sự thành công huy hoàng của cuốn sách của anh mới vừa phát hành. Nhà xuất bản cho biết tác phẩm không được ai hoan nghênh cả, thất vọng ê chề nhưng rồi niềm hy vọng lại dâng lên, nó chẳng khác nào một dòng suối chảy không bao giờ cạn.
Truyện Đứa Con (Nắng Trong Vườn) cho thấy nhận xét và quan sát của Thạch Lam vô cùng tế nhị về tâm trạng một mụ cường hào gian ác, giầu có nhưng lại hiếm hoi, thèm thuồng một đứa con, có lẽ chỉ ông mới nhận xét tinh vi, hiện thực như dưới đây.
“Bác Nhiêu chép miệng nói khéo.
-Nhà thì túng, một đồng một chữ không có, mà cứ phải lo thuốc cho con thật là đến khổ.
Nhưng bà Cả hình như không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra như đang theo đuổi một ước vọng xa xôi; bà đang nghĩ rằng không bao giờ bà được biết những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà được bồng đứa con trên tay, được nâng niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ. . . Giá bà được đánh đổi tất cả của cải để lấy một đứa con”.
Người Bạn Cũ, có lẽ do người khác kể lại, truyện một anh viên chức tỉnh nhỏ xưa đã từng tham gia cách mạng, bỗng một hôm có cô đồng chí hướng cũ trước đây nay sa cơ thất thế bơ vơ giữ chợ đời, đến nhờ chàng giúp đỡ. Anh chàng chẳng giúp được gì và tự bào chữa cho mình thật khéo léo nào là sợ bà xã ghen vì hiểu lầm, nào tiền đâu mà giúp cô ấy và cuối cùng chàng tự hỏi:
“Rồi tôi băn khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh người thiếu niên hăng hái và hình ảnh người trưởng giả an nhàn, cái hình ảnh nào thật là của tôi?”
Thạch Lam diễn tả nội tâm một anh chàng cách mạng hèn nhát, bằng cách đặt câu hỏi cho người đọc nhưng thực ra ông cũng ngầm biết câu trả lời, một người cầu an nay mất hết cả nhuệ khí phủ nhận cái quá khứ anh hùng của mình mà không dám tự nhận mình là kẻ hèn nhát. Hơn ai hết Thạch Lam đã lột tả được hết cả tâm trạng ê chề của một con người tiêu cực mất hết cả phí khách anh hùng.
Truyện Một Đời Người, một bi kịch, đúng hơn là một thảm kịch về người đàn bà bất hạnh bị chồng vũ phu đánh đập tả tơi, nhất quyết trốn theo người yêu để rồi sáng hôm sau lại đổi ý định, nàng ôm con ra sân ga tiễn chàng lên xe lửa vô Nam, chỉ có một buổi tối thôi, sáng hôm sau mọi điều dự định tiêu tan như mây khói, cái biên giới tâm lý của con người ở đây cũng mỏng manh như một sợi tóc và có lẽ chỉ Thạch Lam mới nhìn ra được.
Truyện Cô Hàng Xén là sự dằng co, day dứt nội tâm của một thiếu phụ quá nhiều trách nhiệm, một cổ hai chòng vùa è cổ gánh vác giang sơn nhà chồng lại vừa phải lo giúp đỡ các em ăn học, tâm trạng của nàng là sự triền miên lo âu khắc khoải, phần sợ gia đình chồng dằn vặt, phần sợ các em giận dỗi.
Ngày Mới, cuốn tiểu thuyết duy nhất của Thạch Lam được dư luận coi là không thành công nhưng ít ra nghệ thuật hướng nội của ông ở đây luôn luôn hiện thực và sâu sắc cho thấy cái biên giới phũ phàng tàn nhẫn giữa thực và mộng y như trong Hạnh, một tác phẩm bất hủ của Khái Hưng.
Ngày Mới cho thấy nghệ thuật tả tâm trạng của Thạch Lam công phu, tỉ mỉ nhưng có lẽ vì quá công phu mà người đọc đã có cảm tưởng nhàm chán vì quá ít động tác, đó là truyện một anh chàng bỏ lỡ cơ hội, đã từ chối một đám giầu để lấy một cô gái nghèo, người yêu lý tưởng của anh để rồi khi yên bề gia thất, đụng phải thực tế phũ phàng, lâm vào cảnh cùng túng anh lại đâm hối tiếc đã không chịu lấy cô giầu để nay phải chịu nghèo sơ nghèo sác, anh chàng cáu kỉnh với vợ luôn sau hối hận thương vợ và tìm lại được hạnh phúc gia đình.
Mặc dù cốt truyện nhạt nhẽo song Ngày Mới cho thấy kỹ thuật hướng nội của Thạch lam vững vàng ý nhị hơn trong các truyện ngắn của chính ông, nó cho người ta thấy sự day dứt, dằn vặt, đau khổ luôn luôn ngự trị trong tâm trạng của con người.
Nhà phê bình Bích Thu trong bài Thạch LamVà Kiểu Nhân Vật “Tự Thức Tỉnh” đã nhận xét như sau:
“Cách đây hơn nửa thế kỷ, trong cảm quan nghệ thuật của mình, Thạch Lam đã có ý thức đi sâu vào thế giới nội tâm của con người. . . . . . . . . . . . ..Đi theo khuynh hướng này, sáng tác của Thạch Lam không bị lỗi thời bởi những thị hiếu và xu thế chính trị thời thượng. . . . . . . Sáng tác của Thạch Lam có sức thu hút người đọc ở mọi thời điểm, chính vì cái nhìn từ bên trong, với nghệ thuật phân tích một cách tinh tế, sâu lắng những diễn biến tâm lý phức tạp, những ăn năn day dứt về tinh cảm, về đạo đức một cách bản năng hay ý thức để tự “thức tỉnh”phẩm chất người trong mỗi con người”.
Thạch Lam-Văn Chương Và Cái Đẹp, nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội 1994.
Thạch Lam chỉ trích lối sáng tác dừng lại ở quan sát bề ngoài mà không chịu đi sâu vào thế giới nội tâm, người nghệ sĩ phải khám phá ra những bí ẩn của đời sống bên trong để diễn tả cho người đọc thấy những diễn biến thầm kín của tâm tư con người. Khái Hưng, Nhất Linh cũng đi sâu vào thế giới bên trong qua Hồn Bướm Mơ Tiên, Đôi Bạn nhưng Thạch Lam có những nét độc đáo và tỉ mỉ hơn,ông đã dẫn dắt chung ta đi sâu vào tận đáy tâm hồn nhân vật để được chứng kiến những ưu tư khắc khoải của họ trước cuộc đời, về nhân sinh hay tội lỗi để cuối cùng lại quay trở về với tính bản thiện cố hữu của con người.

BI KỊCH

Theo tôi biết đây là một khuynh hướng riêng đã khiến cho văn nghiệp Thạch Lam có những cá tính độc đáo khác biệt hẳn so với Khái Hưng, Nhất Linh. Khái Hưng ít trước tác bi kịch, Anh Phải Sống là một đoản thiên bi thảm hiếm hoi của ông, Nhất Linh ở một số truyện dài như Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng và truyện ngắn như Đầu Đường Xó Chợ, Bóng Người Trên Sương Mù cũng cho thấy ông có khuynh hướng bi kịch nhưng phần lớn sự nghiệp văn chương của Khái Hưng, Nhất Linh có những nét giống nhau ở chỗ cùng khai thác triệt để khuynh hướng yêu đương lãng mạn ngõ hầu làm phương tiện thu hút người đọc để lồng vào đó những luận đề xã hội.
Các nhà phê bình trong nước đa số chú trọng vào đề tài bi kịch xã hội của ông, họ cho rằng Thạch Lam thường hướng ngòi bút của ông về phía những người cùng khổ và cái thế giới bần hàn mà họ phải đeo hết kiếp này sang kiếp khác. Bi kịch chiếm gần hết truyện Gió Đầu Mùa, chủ đề nổi bật nhất qua Nhà Mẹ Lê, Một Cơn Giận, Đói, Hai Lần Chết, Một Đời Người, Người Lính Cũ, Người Bạn Trẻ, Người Bạn Cũ, Gió Lạnh Đầu Mùa.
Ta có cảm tưởng như Thạch Lam chịu ảnh hưởng sâu xa của những tư tưởng yếm thế của Thích Ca Mâu Ni về những nỗi khổ không cùng của đời người, nhân vật của ông đã thể hiện thân phận của những kẻ cùng mạt xã hội nhưng cái nhìn của Thạch Lam còn vượt xa hơn bình diện trần thế của xã hội, con người, nó là cái nhìn cao hơn về thân phận con người theo một ý nghĩa nhân sinh, một thứ triết lý bi quan nhuốm màu yếm thế.
Trong Nhà Mẹ Lê tác giả kết luận.
“Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ đeo đuổi mãi không biết bao giờ hết”.
Và như vậy cái chết thảm thương của bác Lê – một ngườøi cùng đường sông vào chỗ chết để hy vọng kiếm chút gạo nuôi con – lại là một sự giải thoát và những người còn ở lại vẫn ngụp lặn trong bể khổ mênh mông.
Trong Một Cơn Giận, tác giả phân tâm lý một người hướng thiện nhưng điểm then chốt vẫn là cảnh lầm than đọa đầy dơ bẩn của con người.
“Lần ấy là lần đầu tôi bước vào một chỗ nghèo nàn, khổ sở như thế , các anh thử tưởng tượng một dẫy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn vào cả đến thềm nhà.
Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn, những người gầy gò, rách rưới, như những người trong một cơn mê”.
Truyện Đói diễn tả tâm lý một người đói, Thạch Lam đưa ra vấn đề sức mạnh của vật chất đối với tinh thần nhưng tác giả chú trọng vào tấn thảm kịch gia đình nhiều hơn, một anh chồng thất nghiệp bị cái đói dầy vò thể xác và một nỗi khổ tâm khác sâu sé tâm hồn anh khi được biết người vợ phải bán thân để cứu đói cho mình.
Cái tên truyện Một Đời Người (Gió Đầu Mùa) đã mang đầy ý nghĩa về kiếp nhân sinh ở đây cũng là tấn thảm kịch không bao giờ dứt như trong Nhà Mẹ Lê. Định mệnh cay nghiệt khiến cho Liên lấy phải người chồng vũ phu, mẹ chồng cay nghiệt, họ đánh đập, chửi rủa nàng tàn nhẫn, gia đình nàng là một địa ngục, người yêu cũ (Tâm) sắp đổi vào Sài Gòn đem lại cho nàng một lối thoát khỏi cuộc đời thê thảm ấy, chàng rủ Liên trốn theo. Liên bị chồng đánh đập tả tơi nhất định hôm sau trốn theo Tâm nhưng hôm sau mọi dự định tiêu tan hết cả, nàng đổi ý ẵm con ra ga tiễn người yêu lên xe lửa vô Nam mang theo cái hy vọng cuối cùng của đời nàng.
“Khi đoàn xe đã khuất, Liên thấy bao nhiêu nỗi đau khổ trỗi dậy ngập lòng, nàng quay đầu vào chiếc cột sắt rồi òa lên khóc”.
Và rồi Liên lại tiếp tục cam chịu cuộc đời cay đắng đau khổ như mọi ngày, tác giả kết luận.
“Cái mộng cuộc đời sung sướng với Tâm, Liên buồn rầu như là những vật tốt đẹp mà nàng thấy bầy trong tủ kính các cửa hàng, những vật quí giá mà tưởng không bao giờ có thể thuộc về nàng được”.
Thạch Lam ở đây có quan niệm bi quan về hạnh phúc, một cái nhìn mới mẻ trái với quan niệm lạc quan của Léon Tolstoi về hạnh phúc trong Chiến Tranh Và Hòa Bình, hạnh phúc bao giờ cũng ở trong tầm tay, bao giờ cũng có, nhưng dưới con mắt Thạch Lam hạnh phúc chỉ là mơ tưởng xa vời, Liên đứng nhìn hạnh phúc chạy ngang trước mắt nàng trên chuyến xe lửa vô Nam mà không sao bắt lại được, hạnh phúc đối với nàng y như những món hàng bên kia tủ kính. Có thể là luân lý không cho phép Liên bỏ chồng theo trai hoặc nàng không đủ can đảm để lao đầu vào một cuộc phiêu lưu nên đành cam chịu với số phận đắng cay. Nhưng có điều là cái nhìn bi quan về hạnh phúc của ông ở đây lại trái ngược với ý nghĩa của hạnh phúc lạc quan trong Ngày Mới viết cùng năm 1937 với Một Đời Người (Gió Đầu Mùa), một anh chàng vì yêu đương mơ mộng bỏ một đám giầu, lấy một cô gái nghèo để rồi lâm vào cảnh bần hàn túng thiếu cáu kỉnh với vợ con, thèm thuồng sự giầu sang, uất ức và đau khổ để rồi sau những ưu tư dằnvặt cuối cùng lại thấy cái xấu xa của sự giầu sang và yên phận với cái nghèo, tìm ra được hạnh phúc, hạnh phúc luôn ở quanh ta chỗ nào cũng có. Vấn đề đáng nói ở đây là trong cùng một năm 1937 hai tác phẩm, một truyện ngắn, một truyện dài đã thể hiện hai quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau về hạnh phúc, một bi quan, một lạc quan, ta có thể nói đây là sự nhầm lẫn đáng kể của Thạch Lam khi trong cùng một khoảng thời gian ông có thể đổi quan niệm nhanh đến thế, người ta có cảm tưởng tác giả không có lập trường về hạnh phúc con người.
Truyện Người Lính Cũ, cốt truyện giản dị, đơn sơ quá cho thấy lối thuật truyện của ông có phần thua kém Nhất Linh vì nó quá sơ sài nhưng lại diễn tả được một cách phong phú tấn bi kịch của đời người, cuộc đời y như cơn ác mộng.
Người Bạn Trẻ, một thanh niên bị xã hội dồn đến bước đường cùng phải tự kết liễu cuộc đời bằng sợi dây oan nghiệt.
Trong Tối Ba Mươi (Sợi Tóc), Thạch Lam dành nhiều cảm thương cho những kẻ bất hạnh phải sống bên lề của xã hội đã ý thức đượïc thảm cảnh của mình, những nỗi cay đắng, cô đơn của họ giữa lúc tiếng pháo giao thừa nổ vang.
Mặc dù Thạch Lam không đề cập trong Theo Giòng, bi kịch cũng là một tiêu chuẩn hiện thực để diễn tả một khía cạnh cay đắng thấm thía, của xã hội, của con người.

NHỮNG KHUYNH HƯỚNG KHÁC

1. Lãng Mạn

Thạch lam có vị trí đứng riêng trong Tự Lực văn đoàn so vói Khái Hưng và Nhất Linh ở nhiều phương diện ngay cả yêu đương bay bướm. Ông không theo cái khuôn sáo tình yêu lý tưởng, yêu nhau trong tâm hồn, những mối tình câm lặng kín đáo, yêu không nói ra, yêu cao thượng, yêu nhau không bao giờ đụng tới nhau. Khuynh hướng hiện thực bao trùm toàn bộ văn chương Thạch Lam: xã hội cũng như tâm lý và cả ở đây, lãng mạn. Cái lãng mạn bay bướm của Thạch Lam ở Nắng Trong Vườn, Bên Kia Sông, Bắt Đầu, Đêm sáng Trăng, Tình Xưa, Ngày Mới… đã được diễn tả chân thực nhẹ nhàng thi vị, những mối tình trong văn chương Thạch Lam ngây thơ chân thực của những chàng trai mới lớn, những cô gái trong trắng ngây thơ, nó hiện thực hơn văn chương lãng mạn Khái Hưng Nhất linh ở những cái ôm hôn thắm thiết.
Dư luận các nhà phê bình và dư luận độc giả hầu như không ai chú ý đến văn chương lãng mạn Thạch Lam, người ta nghĩ rằng truyện tình của ông đơn giản và thực quá không diễn tả được không khí lãng mạn bay bướm khả dĩ rung động được người thưởng thức như Hồn Bướm Mơ Tiên, Đôi Bạn, Hai Buổi Chiều Vàng của Khái Hưng, Nhất Linh hay nói khác đi không khí lãng mạn của ông không có gì đáng nói so với các bậc đàn anh trong Tự Lực văn đoàn.
Dư luận có thể đúng song tôi nghĩ ta không thể phủ nhận hoàn toàn văn chương yêu đương bay bướm của Thạch Lam. Ông luôn tỏ ra có một phong thái, bút pháp khác biệt so với văn đoàn: truyện Dưới Bóng Hoàng Lan tẻ nhạt nhưng phải công nhận không khí lãng mạn thi vị, nhẹ nhàng của nó đáng được xếp vào hàng đầu trong chủ đề lãng mạn của văn đoàn.
Chúng ta không thể nào bỏ quên truyện Bên Kia Sông, một truyện tình tuyệt vời nhất của Thạch Lam của Tự Lực văn đoàn , ta tưởng như lạc vào không khí bay bướm của Ivan Tourgueniev trong truyện Mối tình Đầu. Truyện một cậu học trò lớp ba mười mấy tuổi yêu một thiếu nữ hơn mình năm, sáu tuổi, chị của cậu bạn cùng lớp. Thiếu nữ quí mến vuốt ve cậu như một đứa em bé bỏng nhưng có ngờ đâu một tình yêu ngây thơ non nớt trong lòng cậu nổi dậy dạt dào thay thế cái tình chị em cao quí ấy. Cậu theo gia đình dọn lên Hà Nội, thế mà mười năm sau cậu còn tìm về cái huyện nhỏ bé để tìm người đẹp nhưng than ôi! Mối tình ngây thơ chân thật của chàng nay chỉ còn là một kỷ niệm đẹp trong lòng.

2. Thi Vị

Nhiều nhà phê bình ca ngợi những trang văn tả tình tả cảnh của Thạch Lam tao nhã, thi vị. Đây cũng là một trong những nét đặc sắc của văn chương Thạch Lam mà Khái Hưng, Nhất Linh không thấy có, trong Dưới Bóng Hoàng Lan, ta thấy những con đường lát gạch Bát tràng rêu phủ , những mùi lá non phảng phất trong không khí, những giàn hoa thiên lý thơm dịu, những búp hoa lý non thơm phảng phất, cây hoàng lan cao vút với những cành lá rủ. Ta có cảm tưởng như cảnh trí trong một bức tranh thủy mạc của Tầu, một bài thơ tuyệt diệu.
Truyện Ngày Mới, một truyện dài được coi như không thành công nhưng ta không phủ nhận được những trang văn tả cảnh tả tình tuyệt diệu của ông khi nói đến cậu học sinh về thăm quê cũ ở huyện An Lâm với những tấm thảm lúa xanh thẫm dưới làn gió nhẹ nổi lên những làn sóng bạc, những dẫy nhà thấp thoáng sau lũy tre xanh, những cơn gió nhẹ đem lại hương vị dễ chịu của mùa đất ải, hơi mát lạnh của sông Tiên bốc lên thấm thía vào cảnh vật, mùi thơm của lúa cỏ.
“Tất cả giác quan như chờ đợi những cái thú và hương vị của cánh đồng quê mà chàng sợ không được hưởng hết”.
Độc giả cũng như nhà phê bình không ai có thể quên được những trang văn tao nhã tuyệt diệu nhất của Thạch Lam diễn tả cái thanh cao thi vị của cốm trong Hà Nội Băm Sáu Phố Phường, món ăn dưới ngòi bút đầy chất thơ của Thạch Lam đã được diễn tả thật là thanh cao thi vị. Văn chương Thạch Lam độc đáo ở chỗ tìm ra được những cái đẹp trong những sự vật tầm thường nhất như món ăn chẳng hạn.
“Cơn gió mùa thu hạ lướt qua vùng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết”.
Một bài tùy bút về món ăn tự nhiên đã trở thành một áng thơ tuyệt vời với những mầu sắc, ý vị vô cùng tao nhã: mầu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non cái mùi thơm ngát của lá sen già ướp lấy từng hạt cốm.

“Chúng ta có thể nói rằng trời sinh lá sen để bao bọc cốm, cũng như trời sinh cốm nằm ủ trong lá sen”
Những vẻ đẹp đầy chất thơ ấy nay đã trở thành vang bóng một thời như nhận xét của Dương Nghiễm Mậu dưới đây.
“Thời của Thạch Lam đã trôi qua, và bây giờ tìm đâu bóng dáng một Thanh, bình thản sung sướng với lúc trở về và lúc ra đi, tìm đâu một giàn hoa lý, tìm đâu cho ra một cây hoàng lan, và nữa đâu cho thấy một cô Nga với mối tình nhẹ nhàng chung thủy. Như viên ngọc quí cho thời đại chúng ta để thấy một người nào còn được sống trong sáng như thiên thần, còn biết hương hoàng lan, còn thấy được vẻ đẹp của một bông hoa dại gài trên mái tóc. . . Bây giờ là thời của những ra đi vội vàng, trở lại chua xót, là những hoa nhựa cắm trong chậu, thời của đời sống tất tưởi. . . Trong cảnh huống đó, người đọc Thạch Lam hôm nay còn ai thấy mình được sống trong hạnh phúc”.
Giao Điểm số 1, SàiGòn 1972.
3. Tàn Bạo

Các nhà phê bình thường chú trọng đến những áng văn nhẹ nhàng thanh thoát, tao nhã, những trang văn tả cảnh thi vị của Thạch Lam mà quên một cá tính khác của ông khi phải tả những cảnh hiện thực phũ phàng. Đây cũng là điểm khiến ông có một chỗ đứng riêng trong Tự Lực văn đoàn. Ở một vài đoạn ông đã xử dụng đến lối văn diễn tả tàn bạo theo kiểu Sholokhov để tả chân cái thú tính gớm ghiếc của con người mà ta ít thấy trong văn Khái Hưng, Nhất Linh, người nghệ sĩ như Thạch Lam nói, phải can đảm nhìn vào sự thực.
“Bàn tay như sắt bóp chặt cổ nàng lại. Liên thấy giáp mặt mình, cái mặt ghê sợ của Tích, hai con mắt đỏ ngầu. Cái giận dữ làm tiếng hắn run lên.
-Con đĩ
Rồi nàng ngã gục xuống dưới những cái đấm đá nặng nề. Lòng ghen ghét làm sức khoẻ thêm lên. Hắn nghiến răng lại đánh túi bụi. Hắn thấy ghét nàng đến cực điểm. Không phải vì nàng không yêu mà hắn căm tức. Nhưng nàng lại đi yêu một người khác, như đâm vào lòng tự ái của hắn. Sự ấy không bao giờ hắn tha thứ được.”
Một Đời Người (Gió Đầu Mùa)
Các nhà phê bình hay chú trọng đến những cái đẹp trong văn chương Thạch Lam, ca ngợi những trang văn xanh mầu cốm non, những áng văn hướng nội mô tả những ưu tư khắc khoải… mà quên không nói tới tính chất tàn nhẫn phũ phàng khi ông muốn diễn tả chân thực thân phận đọa đây khốn khổ của giới bình dân, bần cùng trong xã hội như truyện Nhà Mẹ Lê.
“Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác của cậu Phúc, con chó Tây nhe nanh chồm đến.”
Trong phần lời nói đầu truyện Gió Đầu Mùa, Thạch Lam đã nói văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, đó là loại văn chương tranh đấu chống lại sự tàn bạo của con người, lối viết phũ phàng tàn nhẫn của ông để chống lại thế giới tàn ác như đoạn trích trong truyện Đứa Con dưới đây.
“ Chị Sen ở với bà Cả được ngót một năm. Bữa hôm ấy, thấy tiếng bà Cả quát tháo đã lâu, tôi chạy sang. Chị Sen đang cúi đầu vào đống rơm khóc. Tôi hỏi tại sao, chị nức nở đáp.
– Tôi lỡ tay đánh vỡ một cái chén, ông ấy đánh tôi đau quá.
Chị Sen thâm tím cả mình mẩy, một vết roi ấy qua môi làm rướm máu. Chị vừa xoa bóp vừa than thở:
-Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế này”
(Nắng Trong Vườn)

Lan Đàm
Tiểu truyện Tiêu Sơn
Bài Trương Quỳnh Như

Ta còn rượu chỉ vắng người,
Bài thơ họa dở, tình ơi sao buồn.
Kinh kỳ lạnh những hoàng hôn,
Lối quen, lầu cũ bước dồn – sợ đau!
Tiêu Sơn cách mấy giang đầu,
Xa thêm – người đã thay màu áo xưa.
Khuê phòng trằn trọc tiểu thư,
Rừng hoang cổ tự thiền sư ngậm ngùi.
Nến hồng lửa ngọn chẳng vui,
Vườn khuya trăng cũng ngủ vùi trong mây.
Sương đêm mờ mịt sông đầy,
Vạc kêu, ta nhớ vừa say một mình.

Bài Phạm Thái

Từ muợn nâu sồng che kiếm bạc,
Mười năm gió núi lộng thư phòng.
Rượu cạn, bình khô, chiều nắng tắt,
Nhớ người, tê buốt ngọn thu phong.

Thao thức nghìn khuya Tiêu Sơn lạnh,
Nửa đời mộng lỡ, nhạt chờ mong.
Cổ tự mưa sương chìm cô quạnh,
Kệ buồn, tráng sĩ để sầu đong.

Gươm báu vẫn nằm yên trong vỏ,
Ngựa chồn soi bóng lặng suối trong.
Những sớm rừng hoang vang tiếng mõ,
Trông vời, xa cách mấy Thăng Long.

Thôi trả dọc ngang cho thiên hạ,
Tình ơi chuyện cũ xót xa lòng.
Khóe mắt giai nhân tàn chí cả,
Chùa nghèo, trà đắng, nhện đầy song.

Đoạn cuối Tiêu Sơn
Trương Quỳnh Như

Nhớ người chợt tỉnh cơn say,
Thành đô đêm lạnh, trăng gầy mông lung.
Gọi tên âm nghẹn thanh chùng,
Tiêu Sơn xa đã vô cùng tình ơi.

Phạm Thái

Dọc ngang thôi trả cho đời,
Tương tư xin gửi lại người, Quỳnh Như.
Câu kinh, thay tiếng tạ từ,
Chiều sương chùa vắng, thiền sư nghẹn ngào.

Bạt

Giai nhân, hề, vẫn chiêm bao,
Giang sơn, hề, biết chốn nào dung thân?

Hoàng Xuân Sơn
Ba lá
Bao la em
đồng cỏ tôi
xuồng trăng ba lá
sụt
trồi
tâm thanh
rằm yên
mặt nước khuynh thành
ở ba vạn kiếp
hùng anh một giờ
tôi chào em “say hello!”
vẽ chi tiếng lạ đuôi cờ vẫn nheo
con mắt xưa
cháy rực đèo
phải chi núi lở
còn theo sông về
thâm xuyên em
thọ tư bề
quyển tôi mạt rệp
còn che nỗi gì?

Dựa cột
Một lần
dựa cột nằm nghe
chim trời
cá nước
gọi về hư không
trăng sao
tưởng để trong lòng
ai ngờ
vãn lục phai hồng thế kia
buộc vào
một nhánh sương khuya
chờ mai nắng lửa
tan lìa
nguyệt hư.
Áo xuân xưa
Vịn hờ
vạc áo em
xưa
ngỡ chòm mây trắng bay qua
vực hồng
có đôi chim vợ chim chồng
hót tràn khe lãnh
rừng thông
nắng trào
ửng mùa xuân
tới non cao
du hồn tiểu lụy
hóa vào đại ân
chín rồi
quả mận trầm luân
áo em trắng giữa muôn phần
cỏ
cây.

Tím chiều
Mây hoe trời tím giải
chiều
lượng tâm ở ngón phù điêu
huyền cầm
tiếng hồ
vỡ đại tòng lâm
hiu hiu trầm tử
vết chàm dung nhan
ngồi nhây sợ nước lan tràn
suối khô cốc đã lầm than mấy mùa
mấm mồng
thua được được thua
ngoài thiên nan đã cuộc cờ khổn vây
ngồi nhây
không chóng thì chầy
đỏ hoe mắt tượng
khíu ngày thanh thiên
tím chiều trơ trất bình yên
thèm nghe một chút mưa hiền
thở than.

Phan Bá Thụy Dương
Nói với thiên khách
Cánh hạc nào bay trong triền nắng sớm
tiếng hót xa xăm
như tận cõi trời
sao u trầm chất ngất khách thiền ơi
xin nhẹ bước trên lối mòn tỉnh lặng
Rừng cô tịch có gì đâu tra vấn
lửa Chân Như có đủ ấm linh hồn
đất bùn nào còn in lại dấu chân
tâm vô niệm đường xa gần đi mãi
Có phải người đang quay về bến đợi
gom lá vàng gỗ mục dưới trăng trong
về đi thôi
đêm lạnh giá mênh mông
áo nâu mỏng sao che mưa đỡ gió
Chim thức giấc cất lời ru thật lạ
ngươi phong trần qua mấy độ truân chuyên
thấy gì chưa
tự ngã với uyên nguyên
hay ngần ngại chia xa lòng thung lũng
Từ tiềm thức đã lạc quên long trượng
đâu đây chừng thấp thoáng ánh vô ưu
thiền khách này
thiền khách đã về chưa
xin trả lại cho ta quê, tình cũ.

Vũ Linh
Lời tòa soạn:
Để tưởng niệm cố Nhà văn Vũ Linh, Tạp chí Trầm Hương đăng lại bài này như một nén hương lòng cầu nguyện anh sớm về cõi vĩnh hằng.

Đọc lục bát Hoàng Xuân Sơn
Họa sĩ Đinh Cường từ Virginia đến Houston triển lãm tranh lần thứ ba, lần này ngoài anh còn có Họa sĩ Nguyễn đình Thuận đến từ Nam Cali. Cả hai đã để lại cho giới thưởng lãm địa phương những ấn tượng sâu sắc về nghệ thuật sáng tạo và sử dụng màu sắc trong mỗi tác phẩm. Một già một trẻ cùng một trường phái nhưng mỗi tác giả có cách suy nghĩ và màu sắc riêng qua những bức tranh sơn dầu đã trưng bày tại Houston. Tại đây tôi cũng được hân hạnh gặp Hoàng Xuân Sơn và không ngờ anh và tôi có chung một người bạn Đinh Cường. Cái đáng quý ở anh, từ Quebec Canada bay sang để gặp gỡ và hổ trợ bạn bè trong cuộc triểm lãm vì rằng ngoài tài làm thơ, anh còn là một ca sĩ, một nhạc sĩ đã chơi đàn và hát chung với Khánh Ly trong đêm khai mạc phòng tranh tại Viet Art Gallery Houston ngày 19/01/2008.

Buổi đầu gặp gở, trong cái bắt tay tự giới thiệu về mình, tôi cứ mãi ngờ ngợ về cái tên Hoàng Xuân Sơn của anh, hóa ra anh chẳng xa lạ gì, là một trong số “mấy con ngựa” ở Thư Quán Bản thảo mà tôi quen biết và cũng mấy lần đọc thơ anh trên Tạp chí này. Mãi đến lúc cầm tập thơ “Lục bát Hoàng Xuân Sơn” do anh tặng, tôi có hơi ngạc nhiên và nhìn anh thêm một lần nữa. Sau mấy cái chớp mắt, tôi lật vội mấy trang, ngoài động thái lịch sự khi tiếp nhận một tăng phẩm, hơn thế nữa lại là một tặng phẩm chữ nghĩa. Một lẽ khác hay đúng hơn hai chữ “Lục bát” to đùng đứng trước tên Hoàng Xuân Sơn, nó đã làm cho tôi lúng túng và thầm khâm phục sự can đảm của tác giả mà tôi vừa quen biết. Vì rằng hơn năm mươi năm trước, tôi cũng tập tành làm thơ và thể loại tôi cho là khó làm được một bài thơ hay đó là Lục bát. Cho đến thời điểm này, ngoại trừ Nguyễn Du tiên sinh, một số thi sĩ tiền chiến cũng như về sau vẫn có những bài thơ lục bát hay xuất hiện nhưng vượt trội hơn cả, tôi nghĩ chỉ có Nguyễn Bính. Điều này rất có thể chỉ là cảm nhận của riêng tôi và với Hoàng Xuân Sơn tôi cũng chỉ ghi lại cảm nhận của mình sau khi đọc tập thơ do anh tặng chứ không hề làm công việc phê bình.

Nhìn một cách chung chung, văn học nghệ thuật nước ta kể từ sau 1954 cả hai miền đất nước có nhiều biến đổi. Ngoài Bắc xóa bỏ gần như hầu hết giá trị văn học nghệ thuật theo lề lối cổ xưa. Họ chủ truơng văn học theo chiều hướng mới, văn học nghệ thuật nhằm phục vụ cho chế độ, cho con người mà đảng của họ đang nặn ra và hướng tới. Trong khi Miềm Nam cởi mở và tự do hơn, chấp nhận giá trị truyền thống cổ xưa đồng thời cũng sẵn sàng tiếp nhận những nhóm chủ trương đổi mới, sáng tạo trong lảnh vực văn học nghệ thuật, trong đó hội họa và thơ là rõ nét nhất. Cho đến sau 1975 những Văn nghệ sĩ Miền Nam lưu vong tiếp tục làm công việc đó và dường như những năm gần đây trong nước cũng có những biến chuyển đáng kể trong lãnh vực này. Tuy nhiên cho dù trong nước hay hải ngoại đã và đang làm cái công việc đổi mới trong lãnh vực văn hoc nghệ thuật nhưng đa số chủ trương một bài thơ, một bản nhạc và đặc biệt trong lãnh vực hội họa, tác giả sáng tác với cảm xúc, bằng suy nghĩ của riêng mình trong mỗi tác phẩm. Nhà phê bình cũng như những bậc thầy các trường phái, chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của nó nếu không được sự diễn giải của chính tác giả, cho dù mỗi trường phái đều có những qui ước chung để đi vào thế giới của họ. Bởi thế, người thưởng ngoạn tác phẩm nghệ thuật bây giờ, không đơn thuần chỉ nhìn hay sờ mó mà cần vận dụng đến sự suy nghĩ nhiều hơn, óc tưởng tượng phong phú hơn, may ra mới bắt gặp những điều tác giả muốn nói trong tác phẩm.Trở lại với tập thơ Lục bát Hoàng Xuân Sơn, phần mở đầu tác giả ngỏ: Ừ! xem sáu tám ngược đời/ chữ ngất ngư chữ câu đòi đoạn câu/ gọi rằng lục bát nằm lâu/ ể mình đứng dậy thành câu thơ rời
Lời ngỏ này chẳng khác gì qui ước để đọc những bài thơ của anh và được tác giả minh họa ngay ở lời ngỏ bằng những “câu thơ rời” hay cũng có thể nói chữ ngất ngư chữ câu đoài đoạn câu:

Ừ! Xem
sáu
tám
ngược đời

chữ ngất ngư
chữ
câu đòi đoạn
câu
gọi rằng
lục bát nằm lâu
ể mình đứng dậy
thành
câu thơ
rời

Chúng ta được Hoàng Xuân Sơn trao cho chìa khóa để mở cửa đi vào thơ của anh. Bên cạnh đó, chúng ta còn bắt gặp những cái dấu chấm nữa đời nữa đoạn như:

Cám ơn em, chiếc cổ tròng
vô thân áo. ấm. chút nồng nàn. Xưa
cám ơn em vạt trời mưa
nước hắt lưng. trộm. vai đùa cợt. hương

– – – – – – (Cám ơn, trang 67)

Hay như là:

Nghiêm. đi qua đó. mặt buồn
mà trăng sáng rở đêm. khuôn hạ vàng
óng mềm hệ lụy đa đoan
thương vương mấy cõi xanh. toàn vẹn. im
thơ khúc mắc. dấu chấm. ghìm
cơn rung hối hả nghe lìm lịm. trôi
đừng nói. đừng. thêm nặng lời
mặt nghiên qua đó
buồn khơi lạc dòng

– – – – – – – – (Hạ tuyền, trang 108)

Những dấu chấm như thế rải rác trong khắp thơ anh và 141 bài thơ lục bát, không có một dấu chấm nào đuợc sử dụng một cách bình thường cũng như không bài thơ nào có dấu chấm câu. Bên cạnh đó, anh còn dùng ký hiệu thay cho chữ (trang 40, 55 …) và còn trình bày một bài thơ theo một hình thể nào đó (trang 10, 31, 49, 67…) mà chỉ có anh mới giải thích được. Tại sao ư? Tất cả những dòng thơ vặn vẹo, rơi rớt, bất thường này của Hoàng Xuân Sơn đã được một người “chữ nghĩa bề bề” Cao Vị Khanh, tác giả “Lệ từ nét ngang” giải mã trong lời bạt cuối tập thơ.
Chúng ta cứ tạm thời chấp nhận lời giải của Cao Vị Khanh trong nhóm Thư quán Bản thảo, vì anh là người gần gũi nhất với tác giả và có thể hiểu được Hoàng Xuân Sơn (Cùng ở Canada và làm việc chung sở) Tuy nhiên 141 bài thơ trong Lục bát Hoàng Xuân Sơn, ít ra anh cũng còn giữ được 15 bài “y như hồi nào tới giờ”, thế là thế nào đây Hoàng Xuân Sơn và Cao Vị Khanh?
Mọi việc xin hãy tạm để đó. Chúng ta đi xa thêm một chút về Hoàng Xuân Sơn, ngoài việc làm thơ anh còn sử dụng đàn, chơi nhạc cổ điển và hát những bài tình ca của Pháp, Anh…. Từ đó, tại sao chúng ta không nghĩ “những câu thơ rời” là một lối “viết hoà âm” của những anh sành nhạc? Ở đây có thể dành cho nghệ sĩ ngâm, biết đâu mai này nó còn dành cho những bản nhạc được phổ từ thơ của anh!

Thật ra, nếu ta sắp xếp lại những câu thơ rời của 126 bài thơ viết theo lối “Soạn hòa âm” và 15 bài có sẵn thì Lục bát Hoàng Xuân Sơn vẫn “y như hồi nào tới giờ”!
Hình thức Lục bát Hoàng Xuân Sơn là như vậy đó, còn nội dung thì sao?
Như phần nhận định trên, đọc- xem- nghe- nhìn một tác phẩm bây giờ không thể không động não, nếu đơn thuần là “thơ Hoàng Xuân Sơn” thì không có gì để nói. Đằng này chọn “Lục bát” tức là Hoàng Xuân Sơn chọn một thể thơ có nguồn gốc của nó, có những luật lệ riêng của nó. Ngôn ngữ, vần điệu làm cho những câu thơ dễ nhớ, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người nhưng nếu chỉ đơn thuần chỉ có thế nó sẽ không hẳn là một bài thơ lục bát. Cái hay của lục bát là ở chỗ đó, cái hay của Truyện Kiều cũng ở chỗ đó, cái tài tình của Nguyễn Du cũng ở đó. Và nếu ngày xưa, điển tích có một vị trí nào đó để làm nên thể thơ lục bát trong Truyện Kiều thì nay “lập thể, trừu tượng, siêu thực” là những thứ không thể thiếu trong một bài thơ hay một bức tranh của những tác giả hiện đại. Nhưng nếu vận dụng quá đáng hình thức trên, nhiều người cho đó là thơ văn thuộc loại “cõi trên”, chỉ có tác giả và thượng đế may ra mới hiểu được. Truyện Kiều trước đây đã đưa vào chương trình giáo dục ở Miền Nam, điển tích trong truyện đã làm cho người học nó mất ăn mất ngũ trong lúc thi cử. Cái khó của Lục bát là chỗ đó và Lục bát mãi mãi là Lục bát cũng ở đó, cho dù Hitler có lập thêm mấy ngàn lò thiêu thì người Do thái vẫn còn, nước Nhật có phải gánh chịu thêm mấy trái bom nguyên tử thì nước Nhật vẫn của người Nhật. Và cho dù có trải qua bao thế kỷ nữa thì thể thơ lục bát, Truyện Kiều Nguyễn Du vẫn “y như hồi nào tới giờ”!

Hoàng Xuân Sơn có lẽ cũng đã nhận ra lý lẽ này nên dù “thơ khúc mắc, dấu chấm ghìm” nhưng nếu sắp xếp lại nguyên thể, chúng ta vẫn thấy những câu 6-8 mượt mà thân quen dể hiểu và dể nhớ:

Sáng nghe chim nhạn kêu bầy
mới hay biển động mùa cây lá tàn
không chừng mây bão lần sang
níu chân người ở lang thang dặm về

– – – – – (gọi bầy, trang 11)

Lòng anh muốn nói đôi khi
nhìn con nắng hẹn nhớ gì mây bay
đêm trăng đồi hú gọi bầy
sói hoang đồng nội nhớ ngày đi rong
lòng anh cũng muốn khóc ròng
sông xanh quê ngoại nắng hồng ngõ mai
sợi giăng tơ nhện u hoài
con chim sẻ nhỏ cùng thời lớn khôn.

– – – – – – ( tin thơ, trang 46 )

Và bây giờ chúng ta thử lấy một bài thơ viết theo lối “hòa âm” của tác giả, sắp xếp lại theo trật tự của nó:
Buồn buồn cõng chị đi chơi

bế em ra ngõ nhà người nói thơ
hát cho đỡ tủi cơ đồ
trăm câu thân ái ru bờ bụi hoang
đầy thơ cho đựng bát vàng
nghiên trăng nhân loại bình an rót về
vịn em thơ đứng giữa hè
thắp tình chị sang mù mê bụi hồng

(Chị em thơ, trang 52)
Bài thơ chỉ có tám câu nhưng được sắp xếp lại, có ai nói đây không là bài Lục bát hoàn chỉnh với đầy đủ ý nghĩa của nó?

Thơ Hoàng Xuân Sơn chuyên chở tình người, tình bạn, sự rung động trước thiên nhiên và lay quay trong kiếp trầm luân. Tuy có thổn thức, có dâng trào, có nức nở qua những cái dấu chấm đứt đoạn chia lìa, những con chữ rơi rớt nhưng cũng chỉ là những bước fantasy của một điệu nhảy, vừa cổ điển vừa hiện đại của một nghệ sĩ chơi đàn và hiểu biết về âm nhạc.

Trong bất cứ lãnh vực nào sự sáng tạo và đổi mới cũng là điều cần thiết. Riêng lãnh vực Văn học nghệ thuật nước ta cũng đã làm những công việc này từ thế kỷ trước, rõ nét nhất là trong 2 lãnh vực thơ văn và hội họa. Tùy theo quan niệm về nghệ thuật để trả lời cho câu hỏi sự sáng tạo và đổi mới đó đã thuyết phục hay được chấp nhận đến mức độ nào. Nói gì thì nói, một thế kỷ cũng đã qua vẫn chưa có tác phẩm nào thay thế cho Truyện Kiều của Nguyễn Du và thế giới cũng chưa có họa phẩm nào khả dĩ hấp dẫn nhiều người như Mona Lisa của Vinci. Chính vì thế những người làm Văn học nghệ thuật vẫn phải tiếp tục tìm tòi, sáng tạo và đổi mới.

Tóm lại Lục bát Hoàng Xuân Sơn tuy hình thức mới lạ, mang tính sáng tạo và hẳn anh cũng đã hiểu bên cạnh sự sáng tạo bao giờ cũng có sự đào thải, sẵn sàng ngồi chờ. Có lẽ vì thế, không ít thì nhiều anh vẫn giử lại cái truyền thống của Lục bát, một loại Lục bát Hoàng Xuân Sơn với những âm điệu dễ nhớ, lời thơ dễ hiểu hay nói cách khác “vẫn như hồi nào tới giờ”!

Lan Cao
Vùng tưởng
hàng mi ngủ say
bất động
da thịt mùa đông
hơi thở đứng trên môi khô khát
bút rơi
bài thơ tình dang dở
tôi nhặt lên viết tiếp vần sau
trong tiếng nấc chạy vòng hốt hoảng
để lại cho đời
“quê hương ngàn dặm”
thơ
truyện
Anh Vân
từng trang tĩnh lặng
xếp gầy thời gian
một thời áo lính
điếu thuốc xẻ mười
ru nhau giấc nhỏ
trong chiến trường địa ngục
thơ học trò vừa chạy vừa xem
chừ
trong lòng đất
tiếng dế khóc cầu hôn
tôi đứng lặng tiễn nụ cười vô tận
người bạn thơ văn

cúi đầu
ngôi sao xa lấp lánh đón: Anh Vân

Chiều mơ
chiều mùa hạ
nắng Houston vàng dịu
nỗi lòng mình thêm nhớ trải tình mong
cây đổ bóng
về Đông Phương gởi gắm
Sài Gòn ơi! ta tâm sự chất chồng
chừ vạn dặm
buồn vươn cao hơn núi
núi nằm yên, sông cuộn xoáy sân lòng
chiều sẽ tắt
nắng trườn qua đỉnh thác
mắt vương theo, vách đá đuổi quay về
em chờ đợi
sân ga chiều nắng nhớ
nắng như tàu, đi đến thế mà thôi
anh quay quắt
hoàng hôn về vội vã
mong làm sao cho kịp chuyến em chờ
mình gặp lại
tóc em vui chẻ nắng
ôm tuổi đời, ta vẫn trẻ như thơ.

KHÔNG CÓ EM
không có em
anh chỉ là một tên say khờ dại
sống lang thang trong vô nghĩa cuộc đời
lửa mặt trời, hồn đốt cháy tả tơi
thàng đá cuội, phơi sương buồn rã rượi
không có em
mùa xuân ai chờ đợi
trái đất này cát bụi phủ màu tang
cả gối chăn, băng giá cũng dâng tràn
anh như một A Đam thời đất hứa
không có em
nhân loại đâu còn nữa
sách viết gì? ngôn ngữ nói điều chi?
cả thơ anh, thơ cũng chẳng biết gì
tim rả nát trôi hoang vào núi lửa
không có em
mắt anh đâu cần nữa
mắt làm gì khi chẳng được nhìn nhau
kẻ đui mù còn bớt được niềm đau
hơn ánh sáng mà tìm em chẳng thấy.

Phan Các Chiêu Hằng
Chiều trên đồi suối bạc
ta nằm giữa đất trời
trên đỉnh đồi suối bạc
chiều nhạt bóng thu phơi
lệ sương đau nhánh tóc
ta nằm nơi phố lạ
nghe năm tháng mịt mùng
bới tìm bao thương nhớ
niềm đau soi mắt trong
ta chờ mãi mùa thu
về qua chân gõ nhẹ
trên phiến đời hư vô
phơi ngày xanh hoang phế
ta nằm đây nhớ lại
những bờ bến vô tình
chiều nay trên dốc núi
đời mệt nhoài lênh đênh
ta trú trong động khô
ôm trái tim sủng ướt
ngoài kia trời đổ mưa
mùa thu âm thầm chết
chiều lên đồi suối bạc
nghiềm ngẫm đời hôm qua
biết còn hay đã mất
áo lộng dưới trăng tà …
hóa là thiên thu
mùa xuân như mới về ngang
để rơi lại cánh hoa vàng làm tin
ngõ về dốc đứng chông chênh
trái tim bình thản bỗng hình như đau
nhớ xưa nắng trãi lụa đào
vườn ai hoa cúc tỏa ngào ngạt hương
đường lên chùa hai bên đường
có con bướm ngẩn ngơ vờn cánh bay
em từng bước nhỏ trang đài
dáng nghiêng thềm nắng hình hài bỗng xa
bàn tay vẫy chào hôm qua
tưởng trong giây phút hóa là thiên thu.
mai về phương ấy không
hư không là mấy cõi
mà hồn chia trăm đường
mắt cười công chúa nhỏ
còn gợn bóng mây buông
xa xôi là mấy thuở
hương còn thắm giữa hồn
môi mềm công chúa nhỏ
vẫn ấm một lần hôn
biển xa là mấy dặm
còn âm vang sóng cuồng
quanh tim công chúa nhỏ
trói mấy vòng tơ vương?
núi cao là mấy ngọn
nghiêng bóng xuống nghìn trùng
bước chân công chúa nhỏ
mai về phương ấy không?
ở một buổi tình cờ
gặp nhau cười nhắc chuyện xưa
nghe man mác lạnh hơi mưa ngõ về
hỏi nhau còn nhớ những gì
chút êm đềm thuở hẹn thề vu vơ
chút bâng khuâng, chút dại khờ
chút xôn xao buổi đợi chờ đón đưa
hỏi tình thơ nhẹ bay chưa
về theo mây trắng cuối mùa hoa niên.

đời sau
(gửi C.)

xin tay còn nuối vòng ôm
xin môi còn ấm nụ hôn ban đầu
xin yêu lần nữa, đời sau
ta về
dỗ giấc chiêm bao
đợi người

Kiêt Tấn
áo đỏ cầu tàu
chiều chiều ra đứng cầu tàu
ngó mong lụa áo rực màu đỏ tươi
nụ đâu chẳng nở môi cười
sao em nỡ để bùi ngùi dạ anh
bờ sông anh đứng một mình
chờ xe em đạp thình lình hiện ra
nối xe anh đạp tà tà
xe em quẹo trái anh rà rà theo
một cơn gió lốc bay vèo
thuyền hương em thả anh chèo mải mê
“dù em lạc sở sang tề
thì em nhớ gởi thơ về anh hay”
biết không em anh ngóng hoài
an thành làm chứng miệt mài cù lao
lục bình dù có ra vào
lòng anh thề chẳng phai màu đợi em.

cầu lộ cầu lầu
an thành vườn tược tốt tươi
bắc qua đò lại rộn người chợ đông
cổ chiên ồ ạt tuôn dòng
cù lao trồi ngó vĩnh long đất liền
bốn bề sông nước tràn biên
cầu gần cầu lộ cầu thiềng đức xa
cầu lầu cái cá bắt qua
chờ cho đêm xuống để ta thăm nàng
sân em có cội mai vàng
đường anh xanh mát hai hàng me tươi
tan trường vang guốc rộn vui
anh ra cửa sổ lui cui đánh đờn
sáu dây phiếm cũ đã sờn
tình si em rạng nguồn cơn chăng nào.

Trần Bang Thạch
NGƯỜI MỸ CHUNG TÌNH

Gặp một người Mỹ chung tình trong cái xã hội văn minh, tiến bộ, giàu vật chất này thì khó quá phải không? Vậy mà tôi đã gặp một người. Có thể nói là tôi đã “sống” với ông hơn mười năm nay, thời gian chắc đã đủ để xác nhận ông là người Mỹ chung tình. Tôi đã muốn viết về ông từ lâu, nhưng tôi muốn chờ thêm, vừa để có thêm thời gian thử thách cái chung tình của ông, vừa để chờ một kết cục có hậu cho câu chuyện. Đến nay thì tôi không thể chờ thêm được nữa. Bài viết phải hoàn tất để đọc cho ông nghe trước khi ông hoàn toàn mất trí.

Khi tôi sang tiệm rượu tại khu thương mại này thì ông là khách hàng đầu tiên của tôi. Hôm đó ông tự động đi đến góc trái, phía trong cùng của tiệm, mở nắp thùng bia ướp lạnh, lấy lon bia đầu bò 18 oz. đem đến quày tính tiền, không cần hỏi giá, ông đưa ngay cho tôi 1 đồng tám mươi chín xu, đa số là các đồng 25 xu; và với một cử chỉ rất thành thạo, không cần nhìn, ông vói tay lấy bịch giấy để nơi hộc tủ phía dưới quày tính tiền; bịch giấy lớn vừa đủ cho ông gói kín lon bia, bỏ vào túi áo bành tô mang ra khỏi tiệm. Hôm đó tôi nhớ ông cúi đầu chào tôi và nhà tôi rất là lịch sự, hình như có một chút mỉm cười. Còn tôi thì trong lúc ngỡ ngàng trước các hành động có vẻ quen thuộc của ông đối với cửa tiệm này nên không có với ông một lời nào, không có cả cái gật đầu đáp lễ.
Tôi không biết khu thương mại Á đông mọc lên tại vùng cực bắc Atlanta này từ bao giờ. Người ta nói ông Mỹ này có mặt từ những ngày đầu. Người ta chú ý đến ông vì ông là người Mỹ lạc loài trong số khách Á Đông tới lui khu thương mại không mấy sầm uất này. Ông là người không nhà, một homeless, sống bằng các đồng tiền lẻ của người qua đường. Tôi thì chú ý đến ông không phải vì ông là khách hàng quen thuộc, mà trước hết là vì hai tấm giấy cứng luôn luôn có mặt với ông nơi ngả tư xa lộ I-45 và Cordell. Một tấm kê tựa vào cây trụ đèn, lớn vừa đủ cho ông viết ngoằn ngoèo mấy chữ: Want a beer. Why lie. Đại khái có nghĩa là: Chã cần phải giấu diếm gì cả, tớ đang thèm bia đây, cho tí tiền lẻ nhậu chơi! Xin tiền mà nói huỵch toẹt như vậy thì thật là hết chỗ nói! Kỳ thật hắn đang cần bia, thuốc cho đã cơn ghiền. Có ai dám nói thật những điều này để mà đói meo? Người bảo thủ hay đạo đức thì chẳng muốn nhìn tới cái mặt của ông: không lo ăn mà chỉ có say với sưa, chè với chén! Tấm bảng này có những thuận lợi và bất lợi. Người qua đường thích nói thật, những ai gọi là cấp tiến, thì biết tỏng là tiền ông có được chỉ đi vào cái mục rượu, thuốc; thấy ông chịu chơi vì đã nói thật nên cho ông nhiều tiền; không như những homeless khác cứ than nào là vợ đau con yếu, nào là mới vừa thất nghiệp, v.v…Hay có anh sòng phẳng hơn, cầm tấm bảnh ghi: Work for food. Nhìn bộ dạng ốm tong, mặt mày hì hợm, môi mắt thâm sì đố ai dám rước về nhà để cho ảnh work! Thôi thì cho chút ít đặng yên ổn cái lương tâm.… Tấm bảng kia nhỏ hơn, máng trên cổ, thòng trước ngực, trên có vẽ lá cờ thoạt nhìn có dáng vẻ lá cờ VNCH, cũng 3 sọc đỏ, nhưng 3 sọc đỏ được viền bằng màu xanh lục và chạy dọc theo nền cờ hình chữ nhật không phải màu vàng mà là màu cam sậm. Thấy lá cờ trên ngực ông lần đầu tiên, tôi đâm ra khó chịu, một phần vì mình đã quen thuộc với màu sắc và hình ảnh lá cờ của mình, nay thấy những cái khác thường này tôi chỉnh ông ngay:
“Ông có muốn mang cờ của chúng tôi thì tôi xin biếu ông 1 cái, chứ đừng mang lá cờ lầm lẫn lôi thôi như vậy”.
Thoạt nghe chắc ông không hiểu tôi muốn nói gì; sau một phút, ông nghiệm ra:
“Cảm ơn ông đã chú ý. Nhưng đây là cờ của tổ chức Vietnam Veterans Association. Tôi là thành viên mà”.
Tôi chữa thẹn:
“Ồ, vậy thì xin lỗi nghe. Tôi cứ tưởng ông mang quốc kỳ của tôi”.
“Lúc tôi mới vào nghề đứng đường này, tôi có mang trước ngực lá cờ VN nền vàng 3 sọc đỏ hẳn hoi. Sau có mấy người VN không bằng lòng, họ nói làm vậy không được. Tôi nghĩ cũng đúng thôi: lá cờ linh thiêng của cả một đất nước, một dân tộc mà nằm trên bộ áo hôi thúi của kẻ ăn xin này thì vô cùng phạm thượng. Nên tôi thay bằng cờ hiệu của hội chúng tôi, hội của những cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh VN”.
“À thì ra ông có tham chiến ở Việt Nam. Tại sao ông muốn mang lá cờ của chúng tôi?”.
“Bàn tay trái của tôi đã để lại trên quê hương đó. Cho đến giờ này, tôi không thấy một chút tiếc nuối nào, trái lại tôi còn có nhiều lý do khác để thấy yêu mến đất nước này hơn”.
“Tôi cảm ơn và trân trọng sự hy sinh của ông và các đồng đội của ông. Nhưng chính các ông đã bỏ chúng tôi mà!”
“Điều này thì không sai. Cho nên khi biết Miền Nam hoàn toàn sụp đỗ và rất nhiều đồng bào ông sang được các quốc gia Tự Do, ngay từ đầu năm 76, tôi cùng một số chiến binh cũ vận động với chánh quyền Mỹ cho treo các lá cờ vàng 3 sọc đỏ tại các trung tâm thương mại có nhiều người Việt. Tiếc là cuộc vận động bị bỏ dở”.
Tôi bất ngờ về điều ông tiết lộ. Thì ra đã có những người Mỹ từ hai chục năm trước đã vận động việc treo cờ quốc gia VN.
“Lý do nào mà các ông không được thành công?”
“Có lẽ lúc ấy tình hình bang giao còn quá mới, và khối các ông có lẽ cũng chưa sẵn sàng để tham gia cùng nhóm nhỏ của chúng tôi.”
Càng nói chuyện với ông Mỹ già vô gia cư này tôi càng thấy thú vị, tiếc là hôm ấy tôi không có thì giờ để nói chuyện thêm với ông, nhưng tôi biết qua câu chuyện vừa rồi, ông đã gợi tánh tò mò của tôi, nên chắc chắn tôi sẽ có thêm nhiều lần chuyện trò với ông hơn nữa.
Quả thật như vậy, sau đó chúng tôi có biết bao nhiêu câu chuyện trao đổi trong suốt hơn mười năm quen biết nhau. Nói là mười năm là nói cho gọn, chớ thật sự trong khoảng thời gian đó có khi tôi vắng ông đôi ngày hay cả tháng. Có nhiều lý do để ông vắng mặt nơi khu thương mại này. Chẳng hạn như thay đổi địa bàn làm ăn: ông buồn chân ngứa cẳng đi đến ngả ba, ngả tư nào quanh đó rồi lười biếng đi về chỗ cũ. Thật ra thì đối với kẻ không nhà thì đâu chả là nhà! Hay có khi gom đủ ít tiền hoặc có người tốt bụng cho quá giang, ông đến tiểu bang khác tìm người tình cũ. Đến đây thì câu chuyện của ông lính già này có chiều hướng rắc rối rồi đây vì nó đụng chạm đến chuyện tình, lại là chuyện tình cũ. Người lính già vô gia cư, bữa no bữa đói, sớm say chiều xỉn mà đèo bồng chuyện mười năm tình cũ thì đáng cho tôi viết về ông lắm chớ, phải không?
Thú thật cho tới giờ này tôi cũng không biết đích xác ông tên gì. Từ những ngày đầu, ông bảo tôi gọi ông là Triệu Lý, cái tên trăm phần trăm Việt Nam. Sợ tôi nghe nhầm, ông còn viết hẳn ra giấy cái tên Việt Nam này. Ông cũng phát âm tên này rất là Việt Nam, đúng hơn là rất Huế, đúng giọng người Huế. Những tiếng Việt mà ông biết ông cũng nói giọng Huế chính cống. Điều này thì không lạ vì ông có quá nhiều ràng buộc với Huế. Ông nói ông đến Huế khoảng giữa năm 1966, làm tài xế trong toán Dân sự vụ. Lúc đó ông đã ba mươi tuổi. Toán của ông đi qua nhiều làng mạc ở Huế; trạm cuối cùng hồi đầu năm 1968 là làng Triệu Lý. Ông nói định mệnh của ông đã được đặt để ở đó khi điều may và điều không may đến với ông cùng lúc. Nếu không có trận Mậu Thân 68 thì ông không gặp được người yêu của ông ở làng Triệu Lý. Ông nhớ như in buổi sáng mùng một, toán Dân sự vụ gồm hơn hai mươi người của ông bị đánh tan tác, mạnh ai nấy chạy. Lúc ông sắp kiệt sức trong một khu vườn rậm vì nhiều ngày đói khát thì ông được một người dân trong làng đưa vào nhà cấp cứu. Đó là nhà của HL. HL cùng ba má cô đã cất giấu ông trong hầm phía sau nhà và đã tận tình săn sóc ông. Hai ông bà quê mùa chất phác mà có tình thương người vô cùng to lớn, không sợ hiểm nguy. HL là một cô gái phi thường, đã nhiều lần can đảm, khi thì che chở, lúc thì nói dối để đánh lạc hướng những kẻ đi lùng sục từng lùm cây bụi cỏ tìm những kẻ trốn tránh. Thời gian này Thừa Thiên đã có chủ mới. Nỗi kinh hoàng có mặt từng giờ từng phút tại cố đô Huế. Bao nhiêu người vô tội đã bị chôn sống. Sự can đảm của HL không hề suy giảm. HL chăm lo cho ông từng miếng ăn thức uống. Hơn một tháng bên nhau, một tình yêu đã nảy nở, và một đêm trong hầm tối người chiến binh Mỹ và cô thôn nữ làng Triệu Lý đã thệ nguyện thành vợ chồng. Ông nói ông không bao giờ quên được những giọt nước mắt của HL rơi trên vai ông sau đó. Ông biết đó là những giọt nước mắt tuyệt vọng, đau khổ và âu lo. Những giọt lệ của người con gái lần đầu thất tiết và lần đầu đối diện với bức tường thành lễ giáo, nhất là nền lễ giáo ở đất Thần kinh. HL nói ba má nàng sẽ không bao giờ tha thứ cho hành động của nàng. Tình yêu này trước mắt xã hội ở đây là tội lỗi, là điếm nhục gia phong. Nàng nói nàng rất thương yêu ông, nhưng với mối tình không được ai chấp nhận này nàng muốn lấy cái chết để tránh phiền lụy cho mọi người. Ông còn nhớ ông đã khuyên lơn nàng rất nhiều, đã hứa hẹn bao nhiêu điều với HL. Trong bóng đêm, HL cứ tựa vai ông mà khóc. Cơn binh biến rồi cũng đi qua. Ông trở về đơn vị cũ và phải theo đoàn đi ngay ra Quảng Trị. Trận phục kích giữa đường đã làm ông mất một cánh tay. Ngay sau khi rời bịnh viện ở Sài Gòn, ông bay ra Huế thì HL đã bỏ nhà đi đâu mất. Ba má nàng nói họ không chấp nhận đứa con xấu xa như vậy. Ông đã dò tìm khắp nơi, cuối cùng thì ông phải về nước. Từ xa xôi, ông vẫn không ngừng tìm kiếm. Người ta cho ông hay căn nhà cũ vẫn còn đó nhưng người ở thì không. Sau biến cố 75, với nhiều đợt người VN đến Mỹ, ông nuôi nhiều hy vọng. Ông bỏ cả công ăn việc làm, tích cực đi đến các trại tị nạn, rồi đến các nơi có nhiều người VN cư ngụ. Đăng báo và dán các mẫu giấy tìm người nơi các siêu thị Á đông. Càng lang thang, đời sống của ông càng thêm cùng cực. No, đói bất thường. Buồn vui bất chợt. Lắm khi buồn nhớ người yêu, ông mượn rượu để tiêu sầu. Nhiều lúc thoáng thấy người đàn bà VN đi qua, ông vội vàng chạy theo chận trước mặt, thấy không phải, ông khóc rống lên như người điên. Gặp ai ông cũng hỏi han về làng Triệu Lý, về người yêu của ông; người ta không biết, ông tỏ vẻ vô cùng buồn khổ. Người ta càng tránh thì ông càng đói. Càng thấy ít người đàn bà VN đi vào khu thương mại ông càng buồn, càng chán nản. Ông trông đầu này, ngóng đầu nọ. Người yêu vẫn bặt hơi tăm cá mà ông thì vẫn cứ lang thang kiếm tìm.

Hơn ba mươi năm đi tìm người yêu dấu, há chẳng phải là chung tình lắm sao?!
Tôi biết với tinh thần và sức khỏe càng ngày càng sa sút như thế này, không bao lâu nữa ông sẽ quị. Người Mỹ già chung tình tên là Triệu Lý này sẽ mang hình ảnh thương yêu của một người con gái VN về nơi chín suối, chắc chắn là như vậy.

Xuân Bích
Chiều mưa sooner*
chiều rơi theo mưa trên thành phố
ướt lá cây xanh ướt mảnh đời
những vạt nắng cuối mầu cỏ úa
lịm dần như chết dưới chân trời

chiều treo trên không gian mờ xám
chợt thoáng mơ hồ giọt nhớ xa
nhớ những cơn mưa nhòa góc phố
tay che niềm ướt dáng em qua

đêm nay có thể trời mưa nhỏ
em có nghe trong tình khúc xưa
cánh cửa lâu đài xanh kỷ niệm
khép hờ như ngại vướng đong đưa

tay nương giọt nước nhìn tan vỡ
ướt cả mầu da ướt cả hồn
cơn gió vô tình hong mắt lạnh
làm khô hoài vọng đã hao mòn

khi xưa ta phủ đời sương gió
bằng lá thư em viết nửa chừng
những nụ hôn tay bay vào nắng
sao giờ còn lạnh những “không nhưng…”

* Sooner: Biệt danh của Tiểu bang Oklahoma.

tiếng khuya
gió khuya về cuối đêm sao
ta nghiêng giấc ngủ cho trào mộng xanh
tiếng khuya sùng sượng âm thanh
dòn như môi nắng đành hanh dở mùa
bóng chim hờn dỗi song thưa
hồn đơn ướt cánh nên vừa ngủ quên
tiếng khuya leo lét bên đèn
tiếng chim uyên rót say miền trở trăn
bốn mươi năm ước đêm gần
cây vàng rụng nhớ trong màn sương thơ
quê hương lãng đãng sông hồ
tình yêu ở giá bây giờ dại ngây
em nghe tản mạn vòng tay
sao không dẫn độ một ngày tình tang.

vu vơ
người tình không dung nhan
từ một thoáng xoay vần
vào hồn ta hoang đảo
gặp nhau đêm phân trần

người tình hai chân dung
nên cứ thế lưng chừng
một ngửa vui thai nghén
một nghiêng buồn tượng trưng

người tình xưa quen mau
rồi như mãi về sau
xa hay gần vẫn nhớ
ừ nhỉ…chuyện đâu đâu

người tình yêu vu vơ
gần nhau nơi bến bờ
và vẫn nhiều mâu thuẫn
giận nhau như học trò
người tình không tương tư
không hò hẹn thư từ
nhưng quê hương hình bóng
vẫn cùng nhau riêng tư

chuyện tình giờ như men
chưa bao giờ có tên
vì hàng đêm nhân chứng
vẫn chỉ là ngọn đèn

người tình vui như mưa
nhưng thường hay biếng đùa
và không chiều nỗi nhớ
như ngày y-a-ua (yaourt)

người tình se môi hờn
hay tựa bóng hoàng hôn
nhìn trang đời viễn xứ
mắt cay chuyện mất còn

Kim Oanh
Cô Phụ
Thạch sùng chắc lưỡi đêm thâu
Hay lòng cô phụ gối đầu thở than
Lung linh dưới ngọn đèn vàng
Giọt sầu nhoè nhoẹt mờ trang sách đời

Bóng ai xa tình vời vợi
Gom mây ngàn phiêu bạt gợi hình xưa
Âm vang lắc rắc giọt mưa
Gục đầu trên sách đời chưa cạn tình

Nghẹn ngào cung oán biệt ly
Sờn vai áo mỏng người đi nghìn trùng
Rừng sâu đồi núi chập chùng
Bóng ai ẩn khuất trong khung cửa lòng

Nỗi lòng cô phụ dõi trông
Hương yêu ấp ủ chờ mong bóng người
Người từ đầu non diệu vợi
Có thấu lòng cô phụ đợi chờ ai

Thời gian dù có tàn phai
Bên song cô phụ đợi hoài bóng xưa.

Hương cỏ may
Mộng mơ về tình trần thơm ngát
Gió ân tình dào dạt tiếng yêu
Đôi mắt huyền tợ ánh lửa khiêu
Đốt cháy bỏng rực tim khao khát

Dời bước nhé vào vườn thơ nhạc
Dưới trăng thề nhấp chén đam mê
Hôn môi khô rượu ướt tràn trề
Thơm hơi thở men say hồn lạc

Sương tan rơi vết đời dịu mát
Ôm vai gầy hương tóc cỏ may
Tình bên nhau quên hết lưu đài
Khép hờ mắt hồn ngây ngất dại

Đêm qua chưa khoảnh trời mờ nhạt
Đất với trời xoáy lạc thiên nhiên
Xiết vòng tay bôi xóa vết phiền
Đan nhịp thở thiêng liêng màu nhiệm

Bóng người đi
Chờ đợi mãi sao ai chẳng đến
Hạ nồng đốt cháy đóa hoa xinh
Người đi xa theo bước đăng trình
Ai không đến tim mình vụn vỡ

Chờ đợi mãi đường dài xa hút
Bóng người đi từ lúc tiển nhau
Bao mùa đông tuyết trắng một màu
Phủ nhân ảnh mờ theo ngấn lệ

Mưa giăng giăng đất trời hoang phế
Thấu cho lòng bao nỗi ủ ê
Hình bóng xưa khuấy lòng xao động
Từ mịt mù ngàn dặm sơn khê

Bên song đợi bóng gầy lặng lẽ
Bên rèm the mờ khuất sương mù
Nửa gối chiếc trăng buồn chia sẻ
Nửa đến người tình nhớ ngàn thu

Tím không gian
Em đến bên tôi một buổi chiều
Lá thu rơi nhẹ gió hiu hiu
Diễm kiều áo tím ươm mơ mộng
Trời lộng tóc dài kết hương yêu

Dìu bước thu đi gót đông sang
Lá khô vỡ nát phút ngỡ ngàng
Đôi vai đẫm ướt làn sương mỏng
Che dấu tim nồng… đếm thời gian

Tôi vẫn chờ em cuối dốc ngàn
Vai mang đông xám bám hồn côi
Dòng đời trôi…giá mùa chẳng đổi
Mơ hoài áo tím… tím tình tôi.

trường thy
NÓN LÁ QUÊ HƯƠNG

Nói đến quê hương là nói đến niềm nhớ, nhất là những ngày xa xứ, lưu vong trên đất lạ miền xa. Trong những nhớ ấy, mỗi quê hương mang một mầu nhớ, và ngay trên đất mẹ mỗi miền lại xanh um những hoài niệm tình quê riêng rẽ. Ai mà không từng chép miệng tiếc nuối những hương vị ngọt ngào đã thấm đượm hồn người đến đậm đà mỗi khi nghe nhắc tới:
dưa La
cà Láng
nem Báng
tương Bần
nước mắm Vạn Vân
cá rô Đầm Sét
hoặc nhớ đến những nông phẩm, đặc sản của vùng Ninh Bình chẳng hạn qua câu ca:
lúa Đồng Vông
bông Đồng Gàng
khoai lang Đồng Bội.
Những nhớ ấy thật vô vàn, thật miên man, có khi rạo rực, có khi âm thầm. Trong trái tim con người nếu đã nồng nàn yêu thương thì cũng không tránh khỏi nhớ nhung ngập lòng. Một khi đã nẩy sinh nguồn tình yêu thì cũng đã cấy trong đó những mầm luyến nhớ, và khó, thật khó, vạn lần khó khi phủ nhận những kỷ niệm trong đời. Tình yêu thì bao la, vượt không gian, vượt cả thời gian, và niềm nhớ cũng vô bờ bến, hầu như không có mức độ để đo lường bởi nó lây lan từ tình yêu.

Nói đến những nhớ nhung ấy là đi vào thế giới đầy phức tạp và không cùng. Nơi quê hương từ cánh chim, tiếng sáo diều, hương hoa, mầu lá, đường xưa, lối cũ, mưa bụi bay trong mùa xuân Hà Nội, câu hò mái đẩy trên Hương Giang, nắng vàng Đà Lạt, mưa Sài Gòn v.v. và v.v. , nói sao cho cùng, bao giờ cho hết. thôi thì trong phạm vi hạn hẹp này thiết tưởng chỉ xin tản mạn đôi chút về “NÓN LÁ QUÊ HƯƠNG”.

Từ những ngày xa xưa, nón lá đã là một trong những trang phục cần thiết của người dân, đặc biệt là phái nữ. Nón lá dù đã rất quen thuộc và gần gũi với chúng ta, song ngày nay nơi hải ngoại hầu như đã mất đi hay là hiếm thấy những hình ảnh duyên dáng với nét đẹp độc đáo của sắc thái dân tộc trên dung nhan mềm mại, kín đáo nhưng đầy quyến rũ của cô gái Việt trong tà áo dài và chiếc nón lá. Ta thử mường tượng xem hình ảnh ấy đẹp biết bao qua câu hát:

– Em là cô gái Bắc Ninh
– Em nghiêng vành nón mái đình nghiêng theo!

và ngày nay, một Trầm Vân cũng không quên được nét mỹ miều nên thơ ấy đến độ phải thốt lên qua mấy câu “Trong Tình Thầm Lặng Chập Chờn Vần Thơ”

– Ai qua mấy nhịp Tràng Tiền
– gót hồng nhẹ thả nón nghiêng nghiêng chiều!

Quả thật vành nón mỏng manh mà làm chao nghiêng cả vũ trụ người đến độ sóng tình quê hương xô dạt cả một trùng khơi ý nghĩ, gom về hai nửa:

– nón xưa nghiêng ngả đình thờ
– nón nay nghiêng cả ngẩn ngơ lòng chiều.
(xuân bích)

Nón cũng nhiều loại như ta có:
Nón Dấu (dành cho lính thú ngày xưa)
– Ngang lưng thì thắt bao vàng
– đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
(Ca Dao)
Nón Rơm (làm bằng rơm ép cứng)
Nón Gõ (làm bằng tre ghép, dành cho lính ngày xưa)
Nón Lá Sen, còn gọi là Nón Liên Diệp
Nón Thúng (làm bằng lá, hình tròn và bầu, giống cái thúng)
Nón Gò Găng, còn gọi là Nón Ngựa (làm bằng lá dứa, sản xuất ở Bình Định.
Nón Bài Thơ (làm bằng lá trắng và mỏng có ghép hình và mấy câu thơ, xuất xứ từ Huế)

Cũng như chiếc quạt giấy, nón lá là vật không xa lạ gì với chúng ta; tuy nhiên có lẽ ít ai để ý đến để thấy nón có 16 vành từ nhỏ đến lớn, tượng trưng cho tuổi trẻ, tuổi “trăng tròn lẻ”, trăng 16 vậy. Lá làm nón, theo tác giả Nguyễn Qúy Đại, có tên là Bồ Quy Diệp, lá mỏng và mềm mại.

Ở Huế có nhiều nơi làm nón có tiếng như Nam Phổ, Kim Long, Tân Mỹ, làng Chuồn, cạnh dòng sông Như Ý, thuộc Phú Vang, Thừa Thiên, sản xuất nón bài thơ trông rất thanh nhã với tranh chùa Linh Mụ, cầu Tràng Tiền v.v., và những câu thơ được ghép vô nón thường mang tình tự xứ Huế như:

– Sông Hương lắm chuyến đò ngang
– chờ anh em nhé, đừng sang một mình!
(Ca Dao)

Nón không những dùng để che nắng che mưa mà còn là yếu tố đưa đẩy đến duyên tình lứa đôi:
Nón này che nắng che mưa
Nón này để đội cho vừa đôi ta
(Ca Dao)
Suốt chiều dài đất nước, người con gái Việt Nam đội nón, che nón, hay cầm nón, cũng đều đã gieo đầy tình tự mang dấu ấn văn hóa nhân bản của truyền thống dân tộc, vừa tình tứ, vừa duyên dáng, vừa lãng mạn, nên thơ.
Trích đoạn trong thi phẩm “Bài Thơ Hà Nội”, nói về 36 phố phường của Hoàng Anh Tuấn, ta nghe:
…………………………………………
Hàng guốc trưa hè gõ nhịp bình an
Khi hàng nón quay nghiêng che mắt thỏ
Anh lúng túng cả Đồng Xuân xấu hổ
Gió mơn man hàng quạt áo đong đưa.

Trong cử chỉ khéo léo, khép nép, có phần vờ vĩnh ấy, phải chăng đây là bản tính của người con gái nói chung, nên đã mượn vành nón để ngụy trang cho cái nhìn “chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay”, và nhà thơ Vô Tình đã ‘bật mí’
các cô – kín đáo – liếc nhìn
nghiêng vành nón lá – ai mình biết ai?

Đến với miền Trung, xứ Huế, xứ của nón bài thơ, Lang Liêu chắc cũng đã có lấn bắt gặp đâu đó bên bờ sông Hương chiếc nón nghiêng vành; không hiểu, mà ai hiểu được tại sao nón lá lại cứ hay nghiêng vành. chắc chắn ở đây không phải là nón không quai như trong Ca Dao có câu:

tròng trành như nón không quai
như thuyền không lái như ai không ch…!

Và Lang Liêu đã viết:

bài thơ chiếc nón bài thơ
bài thơ ngày ấy bây giờ chưa quên
bởi :
– mỗi lần vành nón em nghiêng
– bài thơ lại hiện trên nền nón thơ

rồi nữa, thêm một lần nữa, miền sông Hương núi Ngự lại gợi cho ta cái thời hoàng kim qua tà áo với gió và chiếc nón quai lơi:

gió cầu vương áo nàng tôn nữ
quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ.

À! thì ra lần này do quai lỏng, song cũng có thể là do người ấy thả lỏng quai chăng. Hẳn là chúng ta cũng đồng ý chiếc nón nghiêng vành nói lên nhiều ý nghĩa và dường như cũng để làm tăng thêm cái duyên dáng của người phụ nữ. Chẳng thế mà cho đến bây giờ một Trầm Vân của hôm nay vẫn thấy ‘’Vành Nón Nghiêng Duyên’’ và viết lên lời tri ân chiếc nón:

nón kia em lỡ bỏ quên
cho anh nhặt được cầm lên đem về
hương thơm ngan ngát tóc thề
bay quanh nhà thả bùa mê vào lòng
sáng mai trả chiếc nón cong
bỗng tương tư cặp má hồng lúm duyên
——————————————-
trăm năm giờ đã nên duyên
cám ơn chiếc nón chiều nghiêng ngày nào.

Qua những vần thơ trên ta thấy nón đã âm thầm mang những lời tình đến cho người yêu như TBT&Nguyệt Xưa đã cảm nhận qua câu hỏi:

có gì trong lá trong nan
mà em để lại cho chàng hở em?

Trở lại với vùng đất Quy Nhơn, nón vừa là sứ giả của tình duyên vừa là sính lễ của duyên tình. Cũng trong Ca Dao, kho tàng văn chương truyền khẩu nói về cưới hỏi, chàng trai nào đó hứa hẹn:

– giúp em quan tám tiền cheo
– quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Riêng chàng trai An Thái đất Bình Định rất đơn sơ nhưng đầy tình ý, bởi nón là để đội trên đầu như trong bài thơ cổ “Thơ Cái Nón” đã có câu:
– vòi vọi ngồi trên ngôi thượng đỉnh
nên sính lễ của chàng chỉ là đặc sản địa phương:

– cưới nàng đôi nón Gò Găng
– xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn.

Qua hình ảnh nón lá nghiêng che dường như đã cho ta ý nghĩa của nghiêng lòng, của mung lung hoài tưởng, của viễn tượng chờ mong, của một ước mơ vời vợi, và Trầm Vân một lần nữa trong “Mưa Khuya” đã mường tượng:

– áo dài mỏng mảnh trắng trong
– nghiêng vành nón lá qua lòng chiêm bao.

Vành nón lá quê hương một khi mai mối đưa duyên thì cũng có lúc nghiêng che như để tránh né điều gì. Dầu vậy nghiêng che hay che nghiêng cũng không che dấu được bối rối, bồi hồi, bâng khuâng và lúng túng như Thu Nhất Phương đã có lần gạn hỏi:
– sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón?
Và giả như:
– nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước
– thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau
– nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào
– đôi chân bước… anh nghe chừng sai nhịp.

rồi ở một khía cạnh nào đó, người con gái xưa có thể là e lệ, nhún nhường, song cũng có thể là khéo léo từ chối một cách êm đềm, tế nhị, đều nhờ đến chiếc nón trên tay:

– nón em nón bạc quai vàng
– thì em mới dám trao chàng cầm tay
– tiếc rằng vì nón quai mây
– nên em chẳng dám trao tay chàng cầm!

Nón lá quê hương đã âm thầm mang theo tình tự dân tộc đi vào văn học dân gian như dấu ấn tuyệt vời của văn hóa Việt. Ngày nay nét đẹp duyên dáng ấy không còn hay ít thấy xuất hiện trên đường phố thênh thang hoặc trong những ngày lễ hội mà chỉ còn may mắn bắt gặp trong một chương trình văn nghệ nào đó có lồng vô những màn dân ca như Quan Họ Bắc Ninh chẳng hạn hay những mục trình diễn y phục truyền thống dân tộc mà thôi. Dầu vậy hình ảnh người con gái Việt Nam trong tà áo dài với chiếc nón lá xuất hiện nơi đâu, bất cứ lúc nào – trên đường phố, bên giáo đường, trong sân chùa, hay trên sân khấu đại nhạc hội v.v., vẫn là những hình ảnh độc đáo, mang đậm mầu sắc quê hương, tuyệt vời bản sắc dân tộc và còn là biểu tượng của Văn Hóa Rồng Tiên vậy.

Như Phong
LỜI THƠ THEO LÁ VÀNG BAY

Đả qua bao mùa thu rồi nhỉ
Trong mắt em vàng uá bao lần
Hàng phượng vĩ bao mùa thay lá
Mấy thu buồn chất ngất trong tâm

Mùa thu nào bỏ phố đi xa
Giọt sương buồn đọng trên mái tóc
Trăng cũng buồn cho buổi chia ly
Đêm tiển nhau hai ta cùng khóc

Phố cũ em vẫn còn trằn trọc
Xứ người ta trải nặng thương đau
Mỗi độ thu về lòng thổn thức
Ta thèm nghe tiếng gọi tên nhau

Gió ơi, gió ơi!!
Nhờ ngươi mang về giùm ta nhé
Lời buồn trong chiếc lá đang bay
Ta gởi tặng em bên vườn cũ
Lời tự tình theo gió heo may

Mấy thu rồi ta vẫn còn say
Hương môi em thơm nồng ngất ngây
Dù đả bao mùa thu thay đổi
Trong ta, em chất ngất men say

THU VỀ

Đêm qua heo may cơn gió lạ
Sáng nay sương đọng biết Thu về
Bàng bạc mây trời trôi lãng đãng
Mong manh giọt nắng rớt sau hè

Theo cánh nhạn gởi hồn xa xứ
Sầu đong đất khách buồn quạnh hiu
Nhặt chiếc lá vàng ghi tủi phận
Thả hồn trôi dạt chốn cô liêu

Dằng dặc ly sầu ta nốc cạn
Ngẫn nhìn tóc bạc rụng đã nhiều
Ngơ ngác nhìn lá Thu lác đác
Xót xa thân lạc xứ tiêu điều

Lãng đãng mây trời tan rồi tụ
Mòn mỏi chân lữ khách lỡ đường
Đã bao Thu rồi lòng khắc khoải
Hẹn thầm mai trở lại cố hương.

Phạm Văn Nhàn
Đọc thơ
Nguyễn Đức Nhơn
1.
Vào giữa tháng tám, năm 2006, nhà thơ Nguyễn Đức Nhơn gởi đến tôi tập bản thảo thơ văn hợp tuyển Mùa Gió Bấc nhờ tôi viết bạt.
Có lẽ, anh nghĩ, giữa tôi với anh có sự quen biết từ lâu khi còn ở quê nhà, nhất là sau tháng 4 năm 1975, khởi đầu cho một cuôc đời “nghiệt ngã” mà tôi đã gặp anh trong trại Cà Tót:

“đêm về lạnh lẽo đêm Cà Tót
hiu hắt mưa khuya tạt chiếu nằm
núi rừng vây hãm người thua cuộc
hì hục quanh tôi tiếng hổ gầm”

Địa danh Cà Tót là một khu rừng già nguyên sinh chưa bao giờ có dấu chân người đến. Núi rừng bao phủ, với những cây to bóng lớn nằm sâu trong tỉnh lộ 8 đường lên Lâm Đồng. Với 4 câu thơ trên trong bài: Sau Mùa Chinh Chiến tôi trích ra từ tập thơ văn hợp tuyển Mùa Gió Bấc của anh như để nhắc đến ngày đầu tiên chúng tôi bị đưa lên mật khu Cà Tót: núi rừng vây hãm người thua cuộc.
Để rồi bao nhiêu lần chuyển trại trong những năm nghiệt ngã của tôi và anh. Đi đâu rồi cũng: cái gô và chiếc quần bao cát. Nó lại theo tôi đứng giữa trời…!! (anh nhắc giùm cho chúng tôi)
Nhiều khi tôi muốn quên đi những năm tháng ấy. Nhưng tập thơ văn anh gởi đến như gợi lại trong tôi những hình ảnh như mới ngày hôm qua. Nhớ lại những năm tháng ấy, anh sống thật lặng lẽ, ít nói. Cứ lầm lũi mà đi trong lao động. Thỉnh thoảng tôi thấy anh “lảm nhảm” như nói cho chính anh nghe. Ừ, phải rồi, tôi nghĩ, có lẽ anh đang lập lại những câu thơ mới thoáng hiện trong đầu… Cũng có thể lắm; vì giấy chẳng có. Mực cũng không. Mà nào ai dám viết! Chỉ còn viết trong tư tưởng phải không Nguyễn Đức Nhơn? Nhiều bạn bè “cùng khổ” trong đội sản xuất cứ gọi anh là “ông đạo”. Có lẽ vì cuộc sống “thanh bần, lạc đạo” của anh. Gọi như thế, anh vẫn cười.

Vâng, có như thế, sau những năm tháng thăng trầm ấy, bạn bè gặp lại, ngồi nhắc chuyện xưa thấy vui và cũng thấy tủi buồn cho cái thân phận “người tù” sau tháng 4 năm 1975 ấy.
Với anh, tôi biết đã lâu. Vẫn một đời nặng nợ với thơ văn… thì trong cái bối cảnh nghiệt ngã đó anh “lảm nhảm” đọc lại những câu thơ mới làm trong tư tưởng để quên đi:

“những bước chân đi thật não nề
mây mù giăng kín nẻo sơn khê
bao nhiêu chiếc bóng vô hồn ấy
sáng sớm ra đi chiều lại về”
(Sau Mùa Chinh Chiến)

Thời gian: sáng sớm ra đi chiều lại về làm tôi nhớ những bạn bè, đồng đội đi âm thầm như bóng ma, gầy gò trong bộ áo quần rách nát mà anh đã viết rất đúng, rất thật:
“cái gô và chiếc quần bao cát/ nó lại cùng tôi đứng giữa trời”.
Muốn quên mà không quên được phải không Nguyễn Đức Nhơn? … Nhiều khi nhắc lại càng thêm tủi. Nhưng khổ nỗi, khi đọc lại những dòng thơ mang theo những hình ảnh “ảm đạm” ấy, kỷ niệm lại hiện về.

Thế rồi những năm tháng lận đận cũng qua đi. Và anh và tôi rồi cũng chia tay nhau trở về quê nhà như người khách lạ. Trong bài thơ “Khách Lạ” đọc đoạn thơ nào cũng thấy hay. Anh viết thay cho tôi và, có lẽ thay cho những bạn bè cùng “bên trời lận đận” chữ của nhà văn Trần Hoài Thư. Lận đận không phải còn ở trong trại mà lận đận ngay cả ngoài đời. Khi mà:

“khách về đây sông nước ngại ngùng
con thuyền nhỏ chở đầy sóng gió
trở về neo trên bờ bến lạ
thuyền bập bềnh giữa bến chiều hoang”
hay:

“khách băn khoăn chân bước ngập ngừng
từng nhịp thở gõ đều trên nỗi nhớ
kìa ai lạ? khách sửng sờ hỏi nhỏ
ai ngồi kia xỏa tóc im lìm?

khách bàng hoàng nghe máu ứa về tim
hàng dương liễu cũng gục đầu thổn thức
khách lặng lẽ quay về sông nước
bến chiều xa khói cũng mơ hồ!”

Trích vài đoạn trong bài “khách Lạ” của anh, đọc mà thấy thấm đẫm trong lòng. Khách lạ, vâng, đúng vậy. Con phố cũ, ngã tư đường, xóm làng xưa, con đê đó… lạ lẫm đối với người tù cải tạo trở về. “Lạ và sợ” tất cả. Bởi vì: “con thuyền nhỏ chở đầy sóng gió” cho một cuộc sống mới đầy âu lo.

2.
Sau bao nhiêu năm trôi dạt trên xứ người, tôi gặp lại anh. Và mời anh đến với chúng tôi qua tạp chí văn học Thư Quán Bản Thảo. Mà tôi nghĩ trong bài: Cảm Ơn anh đã nói lên cái gần gũi, bao dung của người cầm bút, bạn bè như những năm trước 1975. Dù có cầm súng ngoài mặt trận, hay trở về phố với bao nỗi buồn cô đơn như bài thơ anh viết:

“có những buổi hoàng hôn êm ả
ta thẫn thờ trên bến Vân Lâu…”

Tôi nghĩ chỉ có bạn bè khi đến với nhau – thật tình – vẫn còn cái tình, cái mến:

“cảm ơn đời đã cho tôi
cuộc chơi chữ nghĩa niềm vui bạn bè
cảm ơn tôi biết đam mê
cảm ơn tôi biết hả hê khóc cười”

Vâng! Chỉ có bạn bè mới hiểu được nhau đến thế.

Tháng 8, chỗ tôi ở nóng, có ngày lên đến cả 100 độ F. Tập thơ: Mùa Gió Bấc của Nhơn đến làm dung hòa được giữa cái nóng thực bên ngoài, và cái lạnh của mùa đông qua tựa của tập thơ văn hợp tuyển của anh. Cho nên khi đọc xong, tôi thấy ấm lòng với những con chữ thật giản dị và rất gần gũi với tôi qua 95 bài thơ và 10 truyện ngắn trong Mùa Gió Bấc.
95 bài thơ vừa ngắn có, vừa dài có. Nhưng không quá dài để cho người đọc “ngán ngẩm” mà còn ngược lại thích thú khi đọc thơ của Nhơn. Quả như vậy; vì những con chữ trong thơ anh không cầu kì, giản dị nữa là khác. Những ngôn ngữ trong thơ anh không cần phải đi tìm kiếm, hay mang một ẩn dụ nào khó hiểu, nó hiện thực trong đời sống bình thường như chính cuộc đời của anh: trầm lặng và giản dị. Sự giản dị của anh đến nỗi có bạn bè cho anh là “lập dị” nhưng tôi thì không nghĩ như thế.
Khi còn trong trại, anh ví anh như con ngựa già:

“con ngựa già đuối sức
Ta thấy lòng quặn đau”

Con ngựa già ấy đã một lần và vĩnh viễn:

“ta lột giầy vất kiếm
ném mũ cởi chiến bào”

Rồi cũng có lúc tâm trí thảnh thơi, anh lại nghĩ con đường đã đi qua. Mười năm trong nghiệp binh đâu phải ít ỏi. Thế mà, mới đó đã thoáng qua mau:

“chiều nghe loáng thoáng màu thu
lá xanh níu
lá vàng đu trên cành
ta ngồi tiếc lá màu xanh
nhớ xưa trót lỡ tành hanh với người”

Lúc ấy anh đã trở về lại quê cũ. Ở đâu? Một miền quê: “đồng khô một dải mù sương khói” ấy để anh cứ nghĩ: ừ thì dầu gì cũng đã mười năm. Nay cứ ôm ấp cái mộng thanh bình để an ủi cho thân phận. Cứ vui bên mái tranh. Cứ nhìn ngọn Xã Thô đứng chơ vơ

bao nhiêu lần mây trắng phủ. Trong khung cảnh buồn ấy, người lính già – anh cứ cho như thế – để an vui với đàn gà:

“mười năm ôm ấp mộng thanh bình
trả súng đạn về bên mái tranh
gọi đàn gà nhỏ về mở hội
dưới bóng me tàn ươm lá xanh”

Và:

“mười năm rồi lại mười năm nữa
mái tóc phai dần theo tháng năm
trả súng đạn về nương xóm cũ
người lính già buồn nhớ xa xăm”

Với nỗi buồn “cô đơn” ấy. Ta lại nghe anh tâm sự:

“chiều buồn ra hiên ngồi khọn
mắt mờ chẳng thấy được xa
chỉ thấy con ruồi con muỗi
đánh mùi bu lại quanh ta”

Bốn câu thơ trên nghe thân phận người lính già NĐN buồn quá đỗi. “Ngồi khọn” ngôn ngữ trong thơ anh rất “đặc trưng” nơi miền quê của tôi. Nó không biến dạng qua ngôn ngữ thơ mà nó vẫn hiện diện một cách rõ nét ngoài đời, “ngồi khọn” là ngồi một mình, buồn vu vơ. Có thể nói ngồi trong cái cảnh rất là “cô đơn”. Ngoài ra những hình ảnh trong thơ của anh cũng thật gần gũi với tôi, như: cười ngất ngư/ đàn gà con/ đàn vịt rỉa lông/ giàn bầu giàn mướp… mà chắc rằng nơi phố thị khó mà tìm thấy được những hình ảnh đó: lặng lẽ quay về sông nước/ bến chiều xa khói cũng mơ hồ đó mà.

3.
Phải nói là những con chữ trong thơ của anh không mang một ẩn dụ nào khó hiểu. Nhưng nó (con chữ) vẫn nhẹ nhàng như khói như sương như những giòng lục bát anh làm trước 1975. Như:

“mưa còn rơi
buốt giòng sông
lênh đênh
một chiếc đò không mái chèo
đò em
tôi lén gieo neo
giữa khoang
một chiếc đèn leo lét buồn”

hay:

“trăng tàn, bến Ngự mù sương
nửa đêm nghe tiếng dòng Hương trở mình
bao nhiêu nước bao nhiêu tình
đàn ai trổi khúc Nam Bình nỉ non”

Trước 1975 tôi biết anh đang công tác ở vùng 1 chiến thuật. Chỉ thấy núi với rừng. Như trong bài thơ: Mây ngàn. Có lẽ qua bài thơ này để tôi biết được người lính trẻ NĐN chân ướt chân ráo mới đổi ra miền Trung. Anh thấy gì nơi ấy: Mây và núi chập chùng. Đời lính của anh cũng bắt đầu từ trong những dãy núi chập chùng ấy:

“bóng chiều vương cánh sắt
lạc lõng giữa trời Trung
mây ngàn mây lãng bạc
núi gợn núi chập chùng”

Để rồi, hơn mười năm trong đời binh nghiệp, anh được gì? Cuối cùng người lính già NĐN rồi cũng trở về quê cũ, nhìn ngọn Xã Thô mây đùn quanh năm ấy để mở hội chơi với đàn gà, đàn vịt. Để rồi người lính già NĐN ngẫm nghĩ mà ngộ ra:

“cũng bày trò chiến quốc
cũng hợp tung liên hoành
bủa vây trùm trời đất
trò chơi còn mới toanh”

Cái đáng nói ở đây: “ trò chơi còn mới toanh” đó, chỉ còn kết quả là:

“con ngựa già đuối sức
ta thấy lòng quặn đau
con ngựa già ngã gục
ta nát cả tâm bào

ta lột giầy vứt kiếm
ném mũ cởi chiến bào
một mình trên đường vắng
ta và ta dìu nhau”

Dìu nhau đi đâu hả Nguyễn Đức Nhơn? Những con chữ trong câu thơ trên thật bình thường. Nhưng sao nghe lòng đau quá đỗi. Anh, tôi và còn nhiều người nữa làm sao quên được khi chiều xuống trong khu rừng rậm nguyên sinh Cà Tót? Âm khí bốc lên làm hao mòn từng thân xát của mỗi con người. Mới thấy hôm nay, sáng hôm sao đã thấy: bao nhiêu chiếc bóng vô hồn ấy.
Đọc bài: Sau Mùa Chinh Chiến của anh mà ngậm ngùi

“chiều hun hút giữa rừng thiên nước độc
đêm uy linh nhờn nhợn tiếng ma Hời
từng giọt máu căng phồng bầy muỗi đói
tôi bỗng sờn da, bỗng rợn người”

Phải nói, với anh, thơ không là “một phương tiện” để anh hận thù trong những năm gian khổ trong trại cải tạo; mà anh làm thơ viết văn như để trang trải tấm lòng cùng với bạn bè, trong lúc mà những bạn bè anh như: “những đám mây chiều trôi lãng đãng” thì tại sao lại không:

“cái thú điền viên
hai thằng đầu bạc
bê rượu ra sân
chén tạc, chén thù
ngửa mặt lên trời
cười đến ngất ngư”

“Cười ngất ngư” để quên đi cái cảnh hợp tung của thời xuân thu chiến quốc ( chữ thường)… để rồi khi trở về làng cũ với mảnh đời rách nát, đi đâu cũng thấy mình là khách lạ, may còn một ít bạn bè hiểu anh để “ngất ngưởng bên nhau nói chuyện bao đồng/ khi trở về có lội suối, qua sông/ nhớ chống gậy mà dò sâu, cạn…” (đọc và hiểu ý của anh qua câu thơ trên)

Viết về NĐN qua tập “thơ văn hợp tuyển Mùa Gió Bấc”, chưa đủ để nói hết về con người của anh qua 95 bài thơ và 10 truyện ngắn. Sống trên xứ người ở cái tuổi xắp xỉ bước qua 70 mươi (chỉ còn vài năm nữa thôi) mà anh lúc nào cũng nhớ đến “chốn xưa làng cũ” dưới chân núi Ông. Có ai định vị đươc núi Ông ở quê tôi? Chắc là không, chỉ nghe nơi đó:

“đêm nằm nghe tiếng ếch kêu
râm ran giữa chốn đìu hiu núi rừng
đôi bờ mắt chợt rưng rưng
lời thơ buồn cũng ngập ngừng trên môi
chập chờn trong cõi đầy vơi
như con nước lững lờ trôi giữa dòng
trong cơn chìm nổi phiêu bồng
tôi mơ về lại cõi hồng hoang xưa”

Và hiện tại nơi anh đang ở. Cõi hồng hoang xưa đó dù gì cũng đủ để anh “chập chờn” trong giấc ngủ để mơ về một cõi xa. Còn hơn, hôm nay:

“Lọm khọm bước lần theo lối nhỏ
Ra ngồi trước cửa nớt sinh hôm
Ông lão nhớ một thời trai trẻ
Mộng đời ươm kín bờ môi thơm”

Có lẽ không lâu đâu, tôi hay anh rồi cũng thế.

Vũ Tiến Lập
Ảo hóa
chỉ còn lời thầm thì của lá
luồng nước vỗ ngập bờ
cảm xúc đê mê rồi khép chặt
cánh cửa mở trong an bình
ngày xanh đang phai mầu tuyệt đỉnh
con chim ngậm hoa về phố thị
xóa những bước chân cuồng
hoàng hôn thong dong điệu nhạc rời
Jazz ở bao la
như kẻ say giữa gió xuân sắp chín
trên khuy kèn thắm thiết uốn âm vang
rụng thắm cả rừng chiều
đợi cánh nhung đen về ôm tuyệt tích
ảo hóa là thời gian chuyển động
bấm sâu vào hạnh phúc mù lòa
gió chẳng bao giờ một định hướng
mây nào tìm được chốn ẩn thân
tiều phu cũng lìa rừng.

Lời huyễn
em lộng lẫy như loài chim xanh
bay suốt vào ký ức tôi kỳ bí
mạch sống ngan ngát nỗi cô đơn
mùa giông trù phú thêm viễn mộng
chẳng còn lời huyễn nào thay thế
ngoài âm thanh mật
độc đăng thức giữa ngày tráng lệ
thời gian không thực có
khoảng cách mãi mãi là bây giờ
trí nhớ nguyên vẹn
chân tình vỡ vụn hư hao
đồ tễ bày mộng thực
thách thức bên lề gánh xiếc
những bước thầm theo nỗi chết
chuyện đời là giòng sông
em dẫn sông về biển cả
hạnh phúc của kẻ ra khơi
lượn trên vùng đá ngầm
cánh buồm cuộc gió
mãi xa

Dạ khúc xuân
ừ thì xuân với mộng
ta với người đổi bóng đuổi theo trăng
đổi cho ra bao ngàn xuân năm trước
một duyên thề một mái tóc bôn ba

Chiều cuối năm gởi Yến
chiều cuối năm đơm nồng mùi gió mới
lạnh nẩy mầm xanh mộng cũ đong đưa
thiết tha tôi nhớ em thêm vội vã
chuyến xe về mong cho kịp tối nay

Hoài Hương
Chuyện áo quân
của phụ nữ Việt Nam
Mẹ của Hoài từ Huế ngồi xe đò vào Đà Nẵng thăm các con. Ngay lúc nầy, Hoài gặp lại bầy chim nhỏ ở chốn cũ, tiếng đàn chim hót líu lo vang vọng lại từ tận quê nhà tít tắp xa mù xa, nghe sao mà thương lạ thương lùng!
Mẹ lấy hột sen, khoai lang, sắn mì, chuối già hương, tiêu, ớt bột, bánh bột lọc nhưn tôm thịt, vân vân… đem đặt trên bàn. Nay, có bao nhiêu quà bánh nhặt nhạnh tom góp ở trong vườn, chắc chắn là cha mẹ không dám ăn, mà bòn mót tha đi hết làm quà cho con cháu, cho lối xóm rồi đa. Tấm lòng mẹ rộng mở, chất phác giản dị đầy khoan thứ. Nhất là tính mẹ nhân hậu, thương người, không riêng gì mẹ thương gia đình, mà mẹ thương hầu hết bà con, xóm làng cơ cực. Hễ ai kêu than, xin xỏ cái gì, nếu có khả năng là cha mẹ cho đi không ngần ngại, chả hối tiếc. Mẹ cho hậu hỉ, xứng đáng, tốt lành. Chứ không bao giờ mẹ cho của thừa mứa. Ui chao! Cha và mẹ sao xứng đôi về lòng nhân ái đến vậy không biết! Đó là kết quả tốt đẹp do sức cần lao nhẫn nhục của cha mẹ sớm chiều vất vả ngược xuôi bên vồng sắn nương khoai, mà có.
Thắng đến nhà. Ô! Bất ngờ ghê. Thắng vào chào mẹ nàng, rồi chàng lên phòng khách. Mẹ mỉm cười đôn hậu, nhìn chàng chăm chú, như thể… mẹ muốn cân nhắc. Đôi má Hoài hây hây, nàng chột dạ quýnh quáng rù rì bên tai mẹ:
– Không có chi. Mạ đừng ngó rứa, con mắc cỡ nì.
– Chi lạ hì. Ai nói chi mà lo xa, rào đón rứa con.
Mẹ cười, nguýt yêu con gái. Mẹ lúc nào cũng vui, khuôn mặt mẹ thật thà, hiền lành đôn hậu. Thắng đá lông nheo với Hoài, anh ta cứ chớp chớp mắt cười cười:
– Các anh kia tính rủ mấy em đi loanh quanh.
– Loanh quanh? Anh không muốn em bị đòn chứ.
– Ơ. Anh em đi phố, mà bị đòn gì! Em đi với anh Đan mới sợ ăn đòn, à em.
– Ấy. Anh Đan thì thật là đồng hương, đồng hội, đồng thuyền à nha.
– Coi chừng đấy. Có ngày nổi máu xung thiên lên, anh canh cả giàn trọng pháo, bắn vào nhà Tổ, thì tan nát hết họ hàng nhà mình bây giờ!
– Trời ơi! Anh học đâu cái cảnh… nồi da xáo thịt vậy không biết. Anh em chúng ta bồ tèo nhau cả. Khó dễ nhau gì vậy? Điên rồi. Em ớn anh quá.
Hai xe jeep đang chờ ngoài cổng, Trúc chạy vào năn nỉ mẹ cho phép Hoài đi chơi tí. Hoài dúi mái tóc thơm mùi bồ kết vào lòng mẹ, một tay nàng mò tìm vú mẹ. Mẹ cảm thấy nhột khi nào con xin phép mẹ cái kiễu ấy. Mẹ hất tay Hoài ra, nguýt yêu con gái, liếc nhìn Thắng, mẹ nhỏ nhẹ nói:
– Ừ. Cho con đi xí thôi nà.
– Dạ, con cám ơn mẹ.
Hoài cùng các bạn đi ra cửa. Xe chạy mấy vòng quanh đường Độc Lập, rồi quẹo qua Phan Chu Trinh. Các anh đổi ý muốn đi câu cá trên sông Hàn. Tám người thuê hai chiếc thuyền nhỏ, nhẹ khua mái chèo, neo cặp sát thuyền bên nhau, họ thả lỏng tay câu. Thuyền lững lờ trôi trên sóng lăn tăn.
Chiến ngồi chung với Thu, Hoài. Anh nói:
– Đi câu, mà Hoài và em mặc áo dài lướt thướt, coi bất tiện làm sao à!
– Anh nói đi phố, đi xem ca nhạc. Bây giờ anh còn kêu la nỗi gì hử?!
Hoài giận hờn, cầm hai tà áo dài cột vào giữa háng, coi y như đóng khố. Nàng tinh nghịch ghê. Thế là các anh chị nhao nhao lên về chuyện áo mí quần:
– Ối giời. Áo mí khố. Nè, coi thằng Quang ngồi trong lu nước quen rồi, cứ đánh bố nó cái quần sọt, thì có chết con cá nào đâu nà.
Hồng lên tiếng:
– Giá biết trước là đi câu, em sẽ mặc áo quần tây, là xong. Hay… húi luôn đầu trọc với cái váy cụt, cho anh Chiến vui lòng hỉ!
Chiến cười khoái chí:
– Các cô nào có biết, việc cắt tóc ngắn, mặc quần áo ngắn, được đồng bào ta hưởng ứng nhiệt liệt ấy nhe: Thời kỳ bọn thực dân Pháp đối đãi ác nghiệt với dân tộc mình, bon họ hà khắt ghê gớm. Pháp dùng chính sách trực trị kềm chế, khủng bố, đàn áp gắt gao. Các cô biết không? Ngày 19 tháng 9 năm 1903, lính chiến đấu của ta, mà Pháp gọi là Khố Xanh, Khố Đỏ ấy. Tức là lính mặc quần xanh quần đỏ, mà họ kêu là “khố”, để tỏ vẻ khinh bỉ miệt thị dân An Nam mình đó. Pháp bắt dân mình ở trần, mặc xà lõn, đóng “khố” hầu chạy cho nhanh, vì sợ mặc quần dài có hai ống vướng víu. Khiến sự bất mãn về cuộc sống, gian khổ, và mối thù giai cấp tăng cao, làm thức tỉnh người dân hồi ấy đã vùng lên mạnh mẽ. Tuy vậy, tôi rất thích đàn bà thời ấy ăn mặc rất kín đáo, nhất là cái yếm thắm nửa kín nữa hở, mà tính tình họ đoan trang.
Anh Tùng móc mồi xong thả xuống nước, tủm tỉm cười:
– Để tôi nói cho các bạn nghe chuyện ăn mặc ở Việt Nam hồi đó như thế nào nhé: Tự ngày xưa, dân An Nam có truyền thống ăn mặc gọn gàng, kín đáo, và đẹp mắt. Điệu ăn mặc nầy trước tiên phát xuất ở ngoài Bắc: đàn bà con gái khi trời nóng và ở trong nhà, thì họ đeo yếm thắm (đủ màu) cột bốn dải thắt ra sau gáy và lưng. Nếu ra ngoài hoặc đi đâu xa, họ mặc thêm cái áo dài the tứ thân. Váy đen dài khiêm tốn chấm tới mắt cá, mang guốc mộc, đội nón lá hay nón quai thao, khooát tay nải. Phụ nữ Việt Nam hay lam hay làm, vì mặc “khố” dài lướt thướt, rộng thùng thình, đi đứng có phần vướng vít, trở ngại, khó khăn. Nên họ cắt bớt “khố” cho ngắn bớt lên mắt cá chừng gang tay. Rồi thì… phụ nữ mặc chiếc váy mới, thấy dài không ra dài, ngắn không ra ngắn, họ cảm thấy dị dị kỳ kỳ, khó coi, khó chịu sao ấy. Nên các bà các cô tân thời bèn làm một cuộc cách mạng nữa: Họ mặc “khố” ngắn tới đầu gối cho nó… gọn.
Các bạn nhìn nhau cười cười. Tay nầy trầm ngâm, thâm trầm ngầm ngầm mà đấm chết voi, chắc là có vấn đề gì đây. Anh Tùng thủng thẳng nói tiếp:
– Tưởng như vậy là yên thân chiếc “khố đầm”. Nào ngờ, đời Vua Lê, Càn Vương hay Chiêu Thống gì đó. Tôi quên mất. Đại khái là đời vua Lê. Mỗi lần Ngài ngự giá, hay thân chinh đi đó đây thăm dân cho biết sự tình, thì vua thấy “liềng bà con cấy” ở ngoài đường, ngoài chợ, không mấy kín đáo, người nào người nấy cũng đưa hai ống quyển (“lem dem” mốc mốc ít gợi cảm, đen sì không ra đen, trăng trắng không ra trắng). Hai ống quyển cứ mông mốc màu tro xám. Đôi khi vua thấy họ ngồi chò hỏ ngoài ruộng, ngoài rẫy, họ vô tình bỏ quên “cái sự đời em ra” phơi nắng phơi mưa. Mà thật tình họ lo lam lo làm, không hay biết, để gió lùa vào. Vua lo cho sức khỏe của bá tánh, thấy họ không giữ ấm thân thể, mà vua thương… đứt ruột!
Tiến tiếp lời:
– Khà khà! Anh Tùng nói đúng. Hồi đó có ai biết mặc “xì níp” đâu. Hê hê!
– Tôi nói đến đâu rồi nhỉ? À, à… Phụ nữ nước ta xưa nay đa số vốn nổi tiếng là đoan trang, nết na thuỳ mị, ăn mặc kín đáo. Bỗng dưng cái “khố” nay “hớt” lên đầu gối, thì họ ngượng ngùng, coi cũng khó chịu ha. Nhất là khi vua ngự giá đó đây, thì họ càng lo lắng sợ sệt, bẽn lẽn, run lập cập; vì sợ, vì đói, vì rét, hay vì e thẹn? Tôi chả biết. Họ cứ té lăn chiên đổ đèn, giơ hai cẳng chân khẳng khiu quơ quơ lên trời. Rồi thì ngọn gió vô tình lại tốc ngược chiếc “khố đụp” lên quá… bẹn. Tô hô tơ hơ “cái sự đời em” ra rõ mồn chẳng có xì líp xì lơ gì
Mặc các bạn cười chảy nước mắt, họ nghiêng ngã người trên thuyền. Vương Gia Tùng bác sĩ “đẹp giai” nhà ta thì tỉnh queo không cười. Nhìn ảnh không cười, họ càng mắc cười kinh khủng. Tùng ung dung và duyên dáng kể tiếp:
– Vua Lê là người khá hào hoa, thanh lịch, văn nhã và đầy nghệ thuật vị nhân sinh, ngài nhìn cảnh trái tai gai mắt đó nhiều lần, coi cũng dị hợm nhột nhạt chướng quá đi, nên vua đã xuống chiếu nghiêm cấm “liềng bà con cấy” không được mặc “khố đụp”. Không mặc váy! Á à… tôi quên. Ngài không dùng tiếng “khố” miệt thị, càng không nói tiếng “váy” văn chương tân thời, mà Ngài nói:
– Phải “mặc quần không có hai ống”, (nghe văn nhã hơn).
– Thế là phụ nữ bắt đầu mặc quần không có hai ống dài xuống mắc cá chân.
Ngừng một lúc, anh Tùng liếc nhìn các bạn:
– Có yên đâu. Phải rồi! Chưa yên. Tôi nhớ có lẽ không lầm, đúng một trăm sáu mươi ba năm sau. Vua Minh Mạng thứ 9 đã ban một chiếu dụ khác, trái ngược lại là cấm chỉ “liềng bà con cấy” không được mặc “váy đụp” tổn hổn tển hển như thế. Mà phải mặc quần phải có hai ống hẳn hoi. Thế là “quần có hai ống” ra đời từ đó. Nào, bi chừ các cô thích mặc thứ gì? Mặc “khố”, “quần có hai ống”, hay là mặc “váy đụp”… Hỉ?
Hoài liếc liếc nhìn các anh chị, vui vẻ thảo luận:
– Về “Chuyện Áo Quần” đúng như thế đấy ạ! Dạ vâng! Ngày xưa phụ nữ trang phục như vậy, âu cũng là đài các quý phái lắm rồi. Thế mà sau nầy họa sĩ Cát Tường (Lemur) còn đề xướng ra một “mốt tân thời” khá hấp dẫn khác: (chiếc áo tứ thân, khăn mỏ quạ, váy xồi guốc mộc…) đã được thay vào những chiếc áo dài của phụ nữ, cho thêm phần duyên dáng hấp dẫn và xuất sắc hơn. Áo dài có đủ kiểu: áo dài cổ truyền có hai vạt, có nếp ôm vào thân, áo dài khi ngắn lên qua nửa ống quyển, khi dài chấm gót chân, lâu lâu có thay đổi xí. Áo dài hồi xưa may có bâu lót viền quanh cổ áo (nhưng bây giờ phụ nữ ít thấy ai mặc, còn áo dài dành cho ông già vẫn có bâu). Tà áo khi hẹp khi rông, khi thấp khi cao theo thời trang. Thường là thay đổi cổ áo: kiểu tròn, cổ áo kiểu áo bà Nhu, cổ áo kiểu trái tim, cổ áo kiểu hở vai hơi xệ trước đầu ngực, hai vai phồng. Như bây giờ Hoài đang mặc đây là áo dài cổ cao đến nỗi quay qua quay về bị cấn. Thợ may còn luồng một sợi dây nhỏ ở ngay eo, thắt rất chặt, để siết tà áo vô hông theo vòng eo, cho nhỏ xíu lại. Trên tà áo gắn kim tuyến, hay thêu đủ hình hoa hình phượng tuyệt đẹp. Kèm vào áo dài là chiếc quần dài màu trắng rộng loe dưới ống (hoặc màu đen, có hai ống hẳn hoi) loại vải quần mong mỏng, mịn màng.
Anh Đức (quân y) tủm tỉm cười:
– Chuyện nầy hỏi Hoài thì rõ nha.
– Dạ thưa… Chuyện Áo Quần 1 nè (thời trang theo từng thập niên) thì: Trước tiên đã được du nhập vào Việt Nam từ thời Trung Hoa {(mà thuở ấy dân ta gọi là Tàu) đô hộ nước ta 1.000 năm}. Thưa, như quý vị đã thấy là: Chiếc áo Thượng Hải của Tàu dựa trên hình thức kiểu mẫu đã có từ lâu, thẳng thắng trung thực mà nhìn, thì chúng ta thấy nó không khác gì tà áo dài Việt Nam là mấy ạ. Cũng kiểu cổ áo, kiểu nút gài từ giữa cổ, có vạt hò bên trong, có hàng nút thắt từ cổ chéo qua ngực và nách, rồi hàng nút ấy buông xuống một bên hông phải. Còn một bên hông trái không có hàng nút, thì họ may bít xuống tới dưới bắp đùi, quá đầu gối, hoặc xuống tận gót chân; phía dưới từ đầu gối trở xuống là áo xẻ cao một bên tà áo. Khác một vài điều là: áo Thượng Hải không có hai tà áo rời hẳn ra từ hông; (như hai tà áo dài của phụ nữ Việt Nam); mà họ may bít một bên hông, may bít từ bên hông trái xuống tận gót chân, na ná như áo đầm bó thân bên trời Tây. Nôm na gọi là “bên kín bên hở” hay là “nửa kín nửa hở”… Họ thường may các loại áo vải hơi dày như nhung, gấm, nĩ, nên kiểu áo Thượng Hải phụ nữ Tàu coi cứng đơ. – Áo Thượng Hải có loại áo dài tay. Có loại áo sát nách (không có tay).
2.- Trong khi đó thì phụ nữ Việt Nam mặc áo dài có hai tà rời từ hai bên hông trở xuống. Thế nên mỗi cử động của phụ nữ Việt Nam đều nhịp nhàng uyển chuyển, tha thướt, duyên dáng, hấp dẫn theo từng bước chân; hai tà áo dài e ấp nép vào đôi ống quần mong mỏng nhè nhẹ bay bay trong gió. Trông ai mặc áo dài cũng tha thướt, uyển chuyển, khả ái, xinh lịch và quyến rũ. Hình ảnh ấy tuyệt đẹp, phải không xin thưa quý vị?
3.- Vào thập niên 30 ở thế kỷ 20 – Người “An Nam” ông cha chúng ta còn hãi hùng chìm đắm trong chế độ cai trị của Tàu. Sau đó họ sợ hãi bởi ách đô hộ của thực dân Pháp, do toàn quyền Đông Dương tên Pierre Pasquier cai trị. Trong bối cảnh lịch sử nói chung, đầu tiên nhờ có nhóm Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có tư tưởng cải cách tiến bộ, ông đã mạnh dạn đứng lên làm một cuộc cách mạng, bao gồm: Xã hội, giáo dục, nghệ thuật &… Le Romantisme Révolutionnnaire (lãng mạn cách mạng, truyện của nhóm TLVĐ). Sau đó, nhóm TLVĐ xin giấy phép lập Hội Ánh Sáng, để thực hiện ước mơ “tân trang” một xã hội lành mạnh (nhưng vẫn lưu giữ những hình ảnh đẹp trong tinh hoa cổ truyền). Thế là họ thành công… & có họa sĩ Cát Tường: là họa sĩ đầu tiên vẽ đủ thứ kiểu: từ nhà cửa, bàn ghế, cho đến bóp đầm, giày dép…v.v… Trong đó có kiểu áo dài Việt Nam.
Anh Tâm đã hất hàm hỏi anh Đức bên Quân-y:
– Dựa trên cái gì để vẻ mẫu, hoạ kiểu cho các mùa thời trang, anh Đức hỉ?
– Câu hỏi nầy thật là hóc búa xin thưa quý vị?! Theo thiển ý của tôi thì thế nầy: vẫn dựa theo sự chuyển mình tất yếu của lịch sử, sự tiến hóa không ngừng “cải cách”, và sự giao mùa của từng dân tộc. (Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung). Theo đà tiến hóa không ngừng trên vũ trụ nầy, thì con người ở mỗi quốc gia ngày càng trở nên thông thái, phát huy, có óc sáng tạo tinh vi. Họ không ngừng tự nghĩ ra những “kiểu mẫu” để minh họa cho các mùa, thời trang tuyệt hảo phải phù hợp theo mỗi chu kỳ của quả đất, thích hợp cho dân tộc họ, có thể cho cả thế giới đấy ạ. Tôi tài hèn sức mọn, biết chút chút đến đâu thì xin chia sẻ cùng quý vị đến đó; ngỏ hầu học hỏi thêm. Ngoài ra không dám gì hơn ạ. Dẫu sao thì tôi cũng có chút kinh nghiệm về chuyện nầy. Khách hàng may đồ bảnh nhất là mấy bà sồn sồn hoặc có tuổi, họ dư dả tiền bạc, thích se sua chưng diện, mỗi lần họ may cả chục áo đủ kiểu, đủ màu. Hơn nữa thân hình của họ lại hơi “phì nhiêu”, nên áo dài mau chật, họ cũng hiếm khi may áo ôm sát (lòi mỡ còn gì!!) nên thợ dễ cắt may, mà ăn tiền ngon lắm. Nhưng mấy cô nhí đâu có tiền dư, lâu lâu mới may được một vài cái áo dài. Vả lại trẻ tuổi eo co, thích mặc ôm sát thân, ngực nở, lại độn thêm cái bra gọng thép chần dần. Nếu thợ may cắt không khéo, là nhăn áo. Đức tôi kể thêm một chuyện vui nghề này, hầu quý cụ nghe nhé: Có một khách hàng trẻ, dân Bắc đến may aó tiệm má tôi, cô đòi:
– Anh làm thế nào mà “ôm”, nhưng không “nhấn” cho em nhé? (nghĩa là áo ôm sát vào thân, nhưng không nhấn ben eo…).
Đức tôi ỡm ờ trả lời:
– “Ôm” mà không cho “nhấn”, thì làm sao làm ăn khớp được! Vậy ôm làm chi.
Các bạn trai khoái chí cười ha ha ha…
– Theo tôi nghĩ: thời trang là những gì thể hiện cái đẹp theo cách nhìn và cảm nhận của thời đại, vì thế có rất nhiều dòng thời trang khác nhau trên thế giới, tùy theo mỗi dân tộc, nhóm người, giống phái nam nữ, già trẻ… Tuy nhiên có khi sự cảm nhận, suy nghĩ lệch ra, khác đi, thì thời trang của họ thể hiện cũng khác đi. Ví như bây giờ đòi hỏi nam nữ bình đẵng, nên có thể do đó mà thời trang nam nữ gần giống nhau. Quan trọng khi chọn lựa thời trang là kiểu dáng, màu sắc, hoa văn… phù hợp lứa tuổi, vóc dáng của mình, và quan trọng là để mình mặc vào dịp nào? Ăn diện thì hợp nhất với ăn chơi, tiệc tùng, party, dancing, kéo theo các đồ phụ tùng khác cho thích hợp, rồi phấn son nước hoa… Về đề tài thời trang, quần áo thì mênh mông, có chiều dài bằng lịch sử con người, cho nên Đức tôi chỉ xin nói về một ít mà tôi đã trải qua, cũng như sự suy nghĩ riêng. Theo tôi điểm chính yếu để tạo ra thời trang nói chung là để tăng thêm sự hấp dẫn, nét đẹp của trang phục thì người phụ nữ là nhiều nhất, cũng từ ý tưởng đó và tùy theo thời đại, xã hội… nếu ý thích của đa số là vẻ đẹp mong manh, liêu trai, mềm mại, thì thời trang áo quần, tóc tai, trang sức cũng theo chiều hướng đó. Nhưng vào lúc khác, cái đẹp là mạnh khỏe, sexy, nóng bỏng, thì thời trang ở trong thời gian đó cũng thay đổi như thế. Nói chung là quan điểm bây giờ về sự hấp dẫn, có thể là thiên về sex nhiều hơn, như bây giờ là các kiểu quần xệ, áo hở vai, lưng, ngực… Nếu nhà tạo mẫu nào nắm bắt được xu hướng sắp tới, thì họ đi trước một bước, đưa ra kiểu, dáng, màu sắc, hoa văn… rồi tung ra quảng cáo là ăn chắc. Trong thời gian trước, hầu như thiết kế thời trang của Việt Nam đa số bị gò bó, cổ hủ, cứng ngắc, bắt chước, lệ thuộc, hiếm có những nét đặc thù riêng cho người Việt mình.
Lan vui vui bắt chuyện hỏi anh Đức:
– Anh là quân y đã đành, bộ anh có học nghề may, hay sao, mà rành sáu câu quá vậy!?
– Hà hà… vì má tôi là chủ tiệm may. Đúng… Hồi ấy tôi cũng thích ngắm người đẹp, rảnh rỗi có theo học nghề với một ông thầy may đồ đầm từ thời Pháp là ông Ba Cao, ông có một câu nói cho đệ tử nhập môn là:
– “Muốn giỏi và tiến trong nghề đồ đầm phụ nữ, là phải có máu dê trong người, ai không dê, là không theo nghề được”! Lúc đầu tôi cho là ông nói giởn chơi. Nhưng sau này nghĩ lại đúng như vậy, có máu dê, thì mới ưa thích nhìn ngắm, tìm hiểu về thân hình phụ nữ, thấy được cái xấu, đẹp, mới làm ra cái skirt, long dress, áo dài… phô trương cái đẹp và che bớt cái xấu của khách hàng. Nói chung là yêu nghề, nghề may và nghề Y giống nhau điểm này: hạ một mũi kéo, hay rạch một vết dao mổ bệnh nhân, thì phải biết dưới tay mình là gì, lơ mơ cắt trúng động mạch, nerve… là toi mạng. Cái giống thứ hai cắt may khác ngành y là: dùng cái kéo lớn, kéo nhỏ, phục vụ khách hàng khác nhau. Tôi làm nghề Y là thấy thương bệnh binh mặt mày đau đớn nhăn nhó, lem luốt máu me, họ hy vọng tin tưởng và năn nỉ mình. Còn nghề may thì “khách” đẹp đẽ, thơm phức khiến mình ưa “dòm”, nhưng mình cầm kéo là chìu theo ý thích của họ! Một điều quan trọng nữa là môn cơ thể học cũng áp dụng được trong ngành may, nhờ đó mà tôi biết rõ “đối phương” là già, trẻ, người ấy là dân miền Nam hay miền Bắc. Từ đó tôi gia giảm rộng hẹp, vân vân… ăn tiền là ở chỗ đó, (cũng có khi tổ trác, ổng lo đi rờ mó chi chi, nhưng ít khi bị lầm).
Hoài gật đầu tán thành:
– Anh nói rất chí lý. Bây giờ em thấy họ mặc áo dài mốt mới raglan anh à.
Đức gật gù:
– Áo dài raglan may cho đẹp, ôm sát thẳng thớm đã khó, mà kiểu cổ thuyền (cổ áo bà Nhu) còn khó hơn, nhìn áo chưng bày trên tượng đẹp vậy, mà mặc vào thì chưa chắc. Về áo dài Raglan: Theo tôi được biết thì người sáng chế ra kiểu áo dài này là do ông chủ tiệm may Dung ở vùng Dakao, Tân định, gần chỗ rạp Casino-Dakao). Thời thập niên 60, tiệm Dung nổi tiếng về cắt may y phục phụ nữ̃ nổi tiếng cho tới bây giờ. Tôi thọ giáo nhiều nơi dành cho các chủ tiệm theo học, để up-grade nghề nghiệp. Có cô khách nhí may áo dài cổ thuyền, cô ta bảo làm giống như áo mẫu chưng ở tủ. Tôi cắt cho thợ may đâu đó xong xuôi, cô nhí đem về nhà, không biết ở nhà cô ta có ý kiến ý cò sao đó. Hôm sau cô nhí ôm áo lại, chê sao khoét cổ rộng quá, mặc hở ngực ra coi kỳ. Tôi bảo mặc thử xem sao, thì đúng là hở hang, đưa ngực ra coi hấp dẫn lắm. Nhưng cổ áo đã khoét rồi, làm sao thu nhỏ hẹp lại, giống như đã hớt tóc ngắn, cao, thì làm sao cho tóc dài ra liền được! Năn nỉ hoài mà “cô nhí” cứ làm khó dễ. Tôi đánh liều nói:
– Cổ áo khoét rồi giờ đưa lên cao không được. Nhưng tôi có thể làm… cho ngực em xệ xuống được… ”Con gà mái ghẹ” của tôi nó trợn mắt xù lông lên liền… Ha ha ha… Nhưng thưa các bạn, trong ngành may cũng giống như nhiều ngành khác, người Việt mình giống như người Á Châu dấu nghề ghê lắm, tệ trạng này kéo dài tới bây giờ, cho nên các quảng cáo ghi là: (bí truyền, gia truyền!) đó là sự ích kỷ, không thể tiến bộ được. Nói về kinh nghiệm thì đa số có thể do kiến thức không cao, không phong phú, chỉ biết do làm lâu năm, thấy gia giảm như thế… là tốt đẹp, thì từ đó họ coi đó là kinh nghiệm gia truyền. Khác với sự suy luận, kinh nghiệm có thể 10-15 năm tạo thành. Nhưng suy luận có thể trong 15 phút, là biết tại sao và phải làm thế nào. Công thức cắt áo của bà già (má tôi) tôi sửa lại gần hết, vì má tôi dùng công thức xưa quá, theo lối cũ, rườm rà, khó hiểu, không thực dụng. Bây giờ nhìn những áo dài thời trang hiện nay tôi mê lắm, giới trẻ học trường lớp đầy đủ kiến thức, không như mình là “học đại”! Khi nào người mình không còn tính ích kỷ, gia truyền, bí truyền… thì người Việt mới tiến bộ như đám Tây, đám Mẽo được.
-* Khi nhìn vào một người đẹp mặc áo dài, đầu tiên là phần ngực, chân cổ ôm sát, không nhăn, tới phần nách tay, phần eo và bên hông, hai tà áo úp vào, khoảng hở eo cao thấp, nhìn hấp dẫn, rồi tới phần hoạ tiết, hoa thêu… Quan trọng nhất vẫn là điểm hai đầu ngực cao thấp, khoảng cách, và xuôi vai… Người thợ chịu khó và chú ý, cẩn thận, thì làm cho khách hàng đẹp thêm, che dấu bớt những khuyết điểm, họ thoải mái tự tin khi mặc chiếc áo dài, là thợ may thành công.
-* Về áo dài nhung, bạn may nên chú ý: chọn tuyết nhung (lông) ngược, khi ra nắng sáng óng ánh đẹp. Nhưng mau cũ và phai màu. Tuyết nhung xuôi thì giữ màu lâu, rờ tay vào thấy mịn màng mềm mại. “Nghề chơi” cũng lắm công phu, mà bàn thêm nữa… tôi bù trất, chỉ muốn xông vô mà “ôm nàng cho đã…”
Các cô quê xệ che mặt cười khúc khích. Còn các cậu thì khoái chí lêu lêu các cô và cười ha ha ha thả thuyền câu theo dòng nước. Các bạn chuyện trò vui vẻ, họ kể nào là chuyện Đại Đế Napoléon Bonaparte. Chuyện Ludwigvan Beethoven nhà soạn nhạc lừng danh; họ lại chuyển qua chuyện Michael Faraday, nhà bác học lỗi lạc. Kể cả những chuyện tiếu lâm khôi hài vui hết biết.
Hoài mỉm cười xin thầm hỏi:
– Chuyện áo quần “tiế́u lâm” có thật, và chuyện đại đế Napoleon Bonaparte lừng danh như thế. Quý vị thích nghe chuyện nào. Thưa quý vị? Còn Hoài thì … ỏn ẻn thỉ thủ tự thú nhận: Em chả… “thíc” đại đế đại điếc chi cả; mà em chỉ thích mặc “quần không có hai ống” thôi đấy ạ!!!

Lãm Thúy
Mưa chiều nhớ mẹ
Mẹ ơi! Chiều nay sóng vỗ
Con sông có trắng mưa dài…?
Biết ai chở giùm nỗi nhớ
Mang về cho Mẹ, chiều nay….

Mấy ngày mưa như bão rớt
Trời buồn, tựa buổi đưa tang
Mưa ướt trong hồn ủ dột
Nhớ nhà. Sầu cũng mênh mang

Ở đây, lạc loài viễn xứ
Mưa chiều, sầu mấy ngả chia
Con đứng bên trời, ủ rũ
Nghe thèm khói ấm chiều quê

Nhớ bữa cơm nghèo đạm bạc
Thuở còn đông đủ – quây quần
Nhớ hiên nhà xưa, gió tạt
Đói no, ấm lạnh, chung cùng.

Bây giờ: người xa, người khuất
Đau lòng Mẹ. Nghĩ mà thương
Con biết: Chiều quê tịch mịch
Mẹ ơi! Mưa, nắng cũng buồn

Tha hương. Chiều mưa, nhớ Mẹ
Nhớ mưa trắng xóa sông dài
Mẹ ơi! Mưa nguồn, chớp bể
Lòng riêng một hướng, trông hoài

Tạ ơn đời gìn giữ
Biết Mẹ vẫn chờ nơi quê cũ
Lòng con bất chợt rộn niềm vui
Ngước mắt. Tạ ơn đời gìn giữ
Hạnh phúc chờ con ở cuối trời
Nhưng rồi nghĩ lại tim đau xót
Một góc trời xa Mẹ vẫn mong,
Mà con nhớ Mẹ, sầu như nước
Sóng dồn lên sóng, lệ mênh mông…
Làm thân lữ thứ , đời lưu lạc
Cách nửa vòng quay cố quận xa
Nắng sớm cũng xui lòng tan nát
Đâu chỉ hoàng hôn mới nhớ nhà!
Thương Mẹ quê xa mòn mắt đợi
Đếm ngày , đếm tháng , ngóng tin về
Không dám cất lên lời kêu gọi
Sợ bận lòng con chốn cách chia!
Con tạ ơn đời: còn có Mẹ
Nhưng mà hạnh phúc quá mong manh
Lá vẫn cứ rơi, dù gió khẽ
Chỉ đành ơn nguyện: Mẹ trường sinh.

Dấu ấn trên vai
Nàng có hai con còn rất nhỏ
Đứa vừa hơn tuổi, đứa lên ba
Lũ trẻ như thiên thần: Hớn hở
Đâu biết gì sinh tử, chia xa
Những lúc nàng ôm hai đứa trẻ
Nước mắt dường như nuốt tận lòng
Nàng gục đầu vào vai nhỏ bé
Niềm đau – Tôi nghĩ – Chắc vô cùng!
Nàng rất yêu chồng – Tình thắm đượm
Quyết sống cùng nhau đến bạc đầu
Mà lại phải tìm người rộng lượng
Thay mình, đi hết đoạn đời sau!
Cơn bệnh nan y như tiếng sét
Tử thần nung dấu ấn trên vai
Quá trẻ để nói về cái chết
Đời nàng còn cả một tương lai
Vô cùng rực rỡ và duyên dáng
Nàng như hoa mới nở, xinh tươi
Nào ai nghĩ thời xuân quá ngắn
Cuộc đời chưa quá tuổi ba mươi!
Nàng đau. Tôi biết. Nhưng không hỏi
Không biết làm sao để sớt chia
Tuyệt vọng lời cầu xin cứu rỗi
Chúa. Phật. Xin đưa tay độ trì!
Nàng can đảm sống, không than thở
Chuẩn bị âm thầm một chuyến đi
Tôi biết: Trong tim nàng, máu nhỏ
Từng giờ, từng phút sợ phân ly.
Cái câu tử biệt đau thương ấy
Nàng không muốn nói, chẳng cam lòng
Nhưng có một điều tôi cảm thấy
Nàng sẵn sàng cho phút mệnh chung!
Và tôi là Mẹ. Trời ơi! Mẹ
Cứ mỗi ngày trông con mỗi xa
Lời nguyện cầu chìm trong suối lệ
Ruột thắt từng cơn – Không nói ra!

Lê Nhiên Hạo
Tờ giấy nhăn
Đôi khi tôi gục trên trang giấy. Đó, một câu đầu, viết, đã lem! Em nói em đi vài tiếng gọi. Trưa rồi. Rồi xế. Chuông không reng…

Đôi khi tôi biết thơ-như-vậy, đâu phải thơ, mà, tại xót xa! Nhưng nếu ngồi im tôi cũng gục. Tàn đời người Lính cuộc can qua!

Tàn đời, mà ngộ, sao tôi lại thả chút hồn thơ ấu rất xưa? Thả chút hồn thơ sương khói quyện, cái duyên còn sót chắc duyên thừa?

Em ơi bất chợt em mà đọc được nhỉ bài thơ rất vụng về, em sẽ làm sao? Cười khúc khích? Hay là nheo mắt, nói: Em chê!

Em chê, đâu phải đây lần trước, cũng chẳng lần sau, chẳng một lần! Chữ nghĩa của anh toàn đá sỏi để vào sàng sảy rớt ra sân!

Tôi chỉ làm thơ lúc một mình. Lúc không ai cả hiện chung quanh. Một em-duy-nhất còn xa vắng. Tôi thả hồn bay khắp biển xanh…

Ôi biển! Biển, em chìm mất xác. Biển, con trăng lặn cuối cù lao. Câu em hứa hẹn tôi hồi nãy để tối khuya này nhấp nháy sao…

Đôi khi tôi gục trên trang giấy, ngủ thiếp, nhàu, nhăn, nát trái tim. Non nước và Em: từng mảnh vỡ, thức tôi ngồi nhặt sợ mai quên…

Bài thơ này cũng là trang ký, giữ mãi như lòng tôi nhớ ai…

Phan Xuân Sinh
Tình đã ngủ say
Khi người đụng trái tim ta
là bao nhiêu mộng vỡ òa theo nhau
khi tình ta mãi lún sâu
là lòng người nhạt sắc màu yêu thương
PXS

Từ khi chúng tôi chia tay nhau cho đến bây giờ đã gần 40 năm rồi, hơn một nửa đời người. Nhưng mỗi lần nghĩ tới Sách tôi đều cảm thấy đau nhói, không phải vì tôi còn “yêu” Sách, mọi chuyện đối với tôi nó đã chết theo thời gian. Không ai còn chung tình vớ vẩn như vậy, tất cả chúng tôi mỗi người đếu có một cuộc sống riêng, con cháu đầy đàn, hồn ai nấy giữ. Thế nhưng mỗi lần gặp lại tự nhiên tôi cảm thấy ray rứt, nhìn Sách thật tội nghiệp với một cuộc sống kham khổ, hạnh phúc bị tước đoạt, con người héo hon trong u uất. Tôi tự hỏi Sách chịu đựng một hoàn cảnh sống như thế nầy cho đến bao giờ? Chúng tôi đã từng đến với nhau, đã từng gặp gỡ sau những ngày dài khi chia tay. Chúng tôi vẫn giữ với nhau ở một vị thế mà không bị xé rào hay sự đòi hỏi làm chúng tôi mờ mắt. Chúng tôi quý mến nhân cách của nhau mặc dù không cần thiết như vậy. Thế nhưng cái đó đã thể hiện ý thức tôn trọng, một rào cản chắc chắn chúng tôi không nên vượt qua để vi phạm. Cuộc đời của đứa nào cũng te tua bầm giập, còn gì đâu để còn phải giữ gìn.
Tôi nhớ năm 1976, sau khi tôi lấy vợ được vài tháng thì Sách từ Đà Nẵng vào Sài Gòn thăm tôi. Lúc nầy người chồng đầu tiên của Sách vừa mới mất (tại mặt trận Pleiku 1975) trước ngày hòa bình chừng hai tháng. Tôi ngạc nhiên là Sách cùng đi với Ngọc Bích, người bạn gái của tôi sau nầy. Ngọc Bích có một người anh trai là bạn cùng khóa Không Quân với chồng của Sách. Vì thế Ngọc Bích và Sách quen nhau bởi dây mơ rễ má như vậy, chứ một người ở Đà Nẵng và một người ở Sài Gòn làm sao quen nhau. Tôi mời hai người ra ngoài quán café để dễ dàng nói chuyện, vì trong sở làm việc của tôi ồn ào, người ra kẻ vào nhiều gây trở ngại trò chuyện của chúng tôi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp lại Sách kể từ ngày Sách đến thăm tôi tại Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng mùa hè 1972, khi tôi bi thương từ mặt trận được trực thăng chở về.
Trong suốt câu chuyện tôi không hỏi gì về cái chết chồng của Sách, vì tôi không muốn cho Sách hiểu lầm rằng tôi quan tâm vì để thỏa mãn lòng tự ái. Tôi chỉ ngồi nghe hết chuyện nầy tới chuyện khác mà trong những câu chuyện, Sách tin tưởng rằng người chồng vẫn còn sống, có thể bị bắt học tập cải tạo đâu đó, hoặc đang sống tại nước ngoài chưa tiện liên lạc được với vợ con. Tôi cũng mừng thầm mong rằng sự tin tưởng của Sách là sự thật, một ngày nào đó gia đình Sách được đoàn tụ dù ở bên nầy hay bên kia đất nước. Ngồi nói chuyện, tôi chú ý từng hành động, từng cử chỉ của Sách. Sách không còn như xưa. Cái liến thoắng lanh lẹ, cái trì chiết đanh đá mà sau khi có chồng, va chạm với cuộc sống thật ngoài đời, đã dạy cho Sách những kinh nghiệm chống chọi. Tôi không ngạc nhiên điều đó, cái ngạc nhiên nhất của tôi là được Sách dài dòng kể lể về cái hạnh phúc trước đây đã sống với chồng con, cái hạnh phúc ngắn ngủi nhưng rất tuyệt vời nầy đã làm vết thương cũ của tôi dậy lên và cảm thấy nhức nhối. Cũng bắt đầu từ đó tôi khinh Sách, nhìn Sách với con mắt không mấy thiện cảm. Đúng ra khi gặp lại tôi, một người tình đầu đời của Sách, Sách phải tỏ ra có một chút hối tiếc, một chút đau đớn, vì khi chia tay nhau, tôi không có một lầm lỗi nào với Sách, thì không lẽ gì Sách kể những chuyện hạnh phúc để trả thù tôi. Cái ấn tượng gặp gỡ lúc ban đầu, đã làm cho tôi có thái độ phủi tay lánh mặt. Không cần phải nhớ đến trước đây mình có một con “bồ” đang sống trong kham khổ hiện thời, Có ai đó bên quê nhà nhắc tới Sách, tôi tìm cách tảng lờ như không biết. Bởi vì tôi không thể chấp nhận một người tình trước đây đi lấy chồng, và khi gặp lại nhau không có một câu hỏi han nào về cuộc sống của tôi, chỉ ba hoa kể về cái hạnh phúc đã trôi qua của mình. Đó là một loại người vong tình, không có đầu óc và tôi không cần phải nhớ tới làm gì cho uổng công.
Có một năm vợ chồng tôi về Đà Nẵng ăn Tết, khi tôi đến thăm cậu mợ bà con bên ngoại thì mợ Tâm khuyên tôi cố gắng đến thăm Sách. Mồng ba Tết để vợ ở nhà, tôi một mình đến thăm Sách theo sự yêu cầu của bà mợ. Trong câu chuyện trao đổi tôi có nói với Sách là nếu có tái giá hãy tìm một người đàn ông rộng lượng, vững vàng trong cuộc sống có thể cưu mang thêm hai đứa con, để chúng nó có cơ hội học hành. Tôi bảo với Sách là bây giờ phải hy sinh cuộc đời mình cho con, hãy gạt ra ngoài tai những lời tán tỉnh bóng bẩy, phải tìm một người đàn ông biết thương yêu con của vợ như con ruột của mình. Còn nếu không thì nên sống độc thân buôn bán nuôi con. Thế nhưng vài năm sau tôi nghe Sách tái giá, lấy một người chồng nghèo. Mang hai đứa con về quê ở Túy Loan giao cho bên nôi. Tự nhiên trong lòng tôi thấy xót xa, một việc làm điên rồ, mờ mắt thiếu suy xét. Cái ấn tượng không tốt về con người nông nổi của Sách lại càng làm cho tôi thất vọng. Tội nghiệp cho hai đứa bé đã mất cha, bây giờ coi như thêm một lần mất mẹ. Từ câu chuyện nầy tôi suy luận viễn vông, một con người như vậy thì làm sao đòi hỏi họ chung tình với ai. Mang đầu óc không thiện cảm, tôi nhìn Sách cay nghiệt hơn và thú thật trong lòng tôi càng khinh Sách hơn.
Tôi nhớ một lần ở Huế, Sách từ Đà Nẵng ra thăm tôi. Chúng tôi ở với nhau trong một căn phòng nhỏ hơn một tuần lễ. Tôi có hỏi Sách lý do tại sao ra thăm tôi mà không báo trước, Sách làm thinh không nói dù tôi đã gặn hỏi nhiều lần. Sau đó thì Thê (vợ của Đức, bạn tôi) là bà con với Sách ra Huế tìm, tôi mới biết Sách giận gia đình nên bỏ nhà ra đi. Giận về chuyện gì thì tôi cũng chưa hề nghe Sách nói. Tôi bảo là Sách nên ra về với Thê, vì tôi không muốn mang tiếng dụ dỗ con gái gây ra sự hiểu lầm cho gia đình Sách, mặc dù chúng tôi chưa hề vi phạm, giữ sự trong trắng, tôi tôn trọng đời con gái của Sách. Nhưng có ai biết điều đó, khi mà đôi tình nhân sống chung với nhau ngày nầy qua ngày khác, mà không xẩy ra điều đáng tiếc? Cái khắt khe giáo dục của gia đình, cái ý thức trách nhiệm nặng nề về tinh thần, đã thắng sự đòi hỏi nhục dục của tôi. Tôi trở thành một người thánh thiện.
Sách về Đà Nẵng chừng vài tháng thì tôi nghe tin Sách sắp lấy chồng. Thú thật nghe tin nầy tôi rất bàng hoàng, tôi muốn gặp Sách để hỏi cho ra lẽ. Và khi đó tôi tiếc là không phá đời con gái của Sách cho thỏa mãn lòng tự ái của tôi. Lạy trời, cũng may mà tôi không làm điều đó, chứ nếu đã xẩy ra thì chắc tôi ân hận suốt đời. Cho đến bây giờ Sách vẫn còn kính trong tôi về chuyện nầy, hơn ai hết Sách biết tôi không muốn phá hoại đời con gái của Sách. Khi về Đà Nẵng tôi gặp Sách vài lần, tôi không thèm hỏi về chuyện lấy chồng của Sách. Tôi xem như đó là một chuyện không đáng cho tôi quan tâm, và từ đó tôi tránh gặp mặt dù tôi đã nhiều lần về lại Đà Nẵng thăm nhà. Tối một mình đi uống café thiếu Sách bên cạnh, tôi cũng cảm thấy buồn và cô đơn, nhưng tôi không thể làm gì hơn khi người ta muốn quên đi dĩ vãng, muốn quên sự hiện diện của tôi. Trong lúc nầy ở Huế tôi cũng có một người bạn gái cao ráo và đẹp hơn Sách, học trường Bồ Đề Thành Nội. Lúc đó tôi nghĩ có một ngày nào đó tôi phải đứng trước một sự chọn lựa giữa Sách và Nguyện, thế nhưng không ngờ rằng chính tôi là người bị gạt ra trước cuộc sống tình cảm của Sách. Tôi rất bực bội nhưng nghĩ cho cùng, cũng giúp cho tôi một lối thoát mà không mang tiếng phụ tình với Sách. Sau nầy, tôi cũng quyết định chia tay với Nguyện.
Ngày tôi bị thương nằm điều trị ở Tổng Y Viện Duy Tân thì Sách có đến thăm. Lúc đó Sách vừa mới sinh đứa con đầu lòng. Tôi thấy Sách khóc mà ngược lại tôi rất dửng dưng. Tôi cho rằng giọt nước mắt của Sách là vui mừng đã tránh được một tai họa. Nhiều đêm nằm nghĩ về Sách, tôi tự hỏi tại sao tôi nặng nợ với Sách nhiều vậy. Về phương diện thẩm mỹ thì nhan sắc của Sách không so bằng những cô bạn gái của tôi trước hoặc sau Sách, về phương diện tình cảm thì Sách là người hời hợt, không thâm trầm và phụ tình một cách trắng trợn, thế nhưng để lại trong đời tôi nhiều vết chém nhất mà vết sẹo nào cũng sâu và đau. Mỗi khi nghĩ lại thấy nó nhức nhối khó chịu nhất. Có lẽ Sách và tôi đến với nhau lâu dài, có nhiều kỷ niệm khó quên. Chính vì lẽ nầy nên gây ra chấn động ầm ỹ trong lòng tôi mỗi khi nghĩ tới. Tôi chuẩn bị đi Sài Gòn, thì Đức đến nhà cho tôi biết là chồng của Sách bị tử thương trên mặt trận Pleiku, và Sách chuẩn bị mang hai đứa con nhỏ về Đà Nẵng. Nghe tin nầy, thú thật lòng tôi không có chút xúc động vì từ bao nhiêu năm nay tôi gạt Sách ra hẳn mọi suy nghĩ của tôi. Tôi cho đây là chuyện thị phi không cần phải quan tâm tới. Thế nhưng khi ngồi trên máy bay tự nhiên hình ảnh Sách hiện lên trong đầu: Một người đàn bà góa bụa còn rất trẻ với hai đứa con thơ, nhào ra cuộc đời đầy sóng gió, đầy nhiễu nhương như vậy, thì làm sao chen lấn trong cuộc sống nầy cho nổi.
Tôi quên đi sự phản bôi của Sách, quên đi sự lọc lừa và trí trá thuở nào. Tự nhiên những thứ nầy xóa mất trong tiềm thức của tôi. Đọng lại trong lòng tôi là sự thương hại, tôi thầm cầu nguyện cho Sách vượt qua tất cả để sống trong bình yên, ổn định tâm hồn để nuôi con khôn lớn. Tôi không còn trách móc ai cả, tôi cho đây là một sự nhầm lẫn của tuổi trẻ mà không ai biết trước được. Tôi và Sách cũng chỉ là nạn nhân của chiến tranh, tôi bị thương trong cuộc chiến và vẫn còn hiện diện trên đời, mặc dù mất một phần thân thể. Còn chồng của Sách xem như xóa sổ vĩnh viễn trong cuộc sống. Hơn ai hết tôi hoàn toàn thông cảm cho cái đau rưng rức trong người của Sách phải gánh chịu. Cho đến bây giờ, khi tôi ngồi viết lại dòng hồi ký nầy, tôi xem Sách vẫn là người tình thuở nào, một người bạn thân thiết và là một người em gái đáng thương nhất của tôi.
Vài năm sau đó, tôi có dịp về Đà Nẵng thăm nhà. Tôi nhờ Đức, một người bạn cùng xóm thân thiết nhau từ nhỏ, chở tôi bằng xe honda lên Nam Ô thăm gia đình Sách. Chúng tôi đến bất thần vào bữa cơm trưa, bữa cơm thật đạm bạc. Cơm ghế khoai, một tô canh rau và vài con cá mặn. Vợ chồng con cái ngồi quanh mâm cơm hì hụp thật tôi nghiệp. Tôi nhìn Châu, người chồng của Sách sau nầy, thua tôi chừng vài tuổi, một thanh niên dễ coi và hiền hậu. Tôi yên tâm là Sách có thêm một gia đình cũng tạm ổn, mặc dù sự hối tiếc và trách móc của tôi về Sách vẫn còn mang trong đầu, chưa xóa được. Vài ngày sau, tôi có mời vợ chồng Sách ra nhà hàng dùng cơm, tôi thấy họ xứng đôi và tôi nghĩ chắc họ được hạnh phúc. Nhưng khi dùng cơm ngồi đối diện với Châu, tôi nhận ra một điều là Châu mang một mặc cảm vì nghèo, vì thua thiệt. Chính vì cái nghèo, cái thua thiệt đó mà phải lấy một người đàn bà có con, vợ mình là gái “nạ dòng”. Những điều nầy thì làm sao Sách biết được, Sách là một loại người chỉ biết hình thức, suy nghĩ hời hợt, không biết sâu thẩm trong lòng của chồng mình. Trong đầu óc của Châu khi sống với vợ có tôn trọng vợ không? Mà vợ chồng sống với nhau lâu dài, chỉ giây phút nào đó nhá lên ý nghĩ thua thiệt của mình, tại sao mình là thằng con trai lớn lên lại lấy một người đàn bà có con. Ngồi nói chuyện nhưng tôi nghĩ miên man, tôi nghiệp cho hai người sống trong một hoàn cảnh u uất, không ai chịu bày tỏ sự thật của lòng mình. Tôi là đàn ông nên tôi hiểu tâm trạng của Châu, cái u uẩn trong lòng mà không ai biết được. Đến một lúc nào đó không còn chịu đựng được, sợi dây tình lận đận kia sẽ bung ra. Khi còn ở Sài Gòn, tôi có gặp Thanh (em gái của Sách), có kể cho tôi nghe về chuyện gia đình Thanh không thích người chồng trước của Sách, chính Sách chọn lựa chứ không có gia đình xía vào chuyện nầy. Hình như trong ngày cưới có một chuyện gì đó xẩy ra đáng tiếc cho Sách, (tôi chỉ nghe Thanh kể mà không chú ý lắm, một phần cũng lâu ngày quá rồi nên chi loáng thoáng nhớ lại). Và người chồng sau nầy cũng không được gia đình đồng ý, nhưng không có cách nào ngăn cản lại được. Hơn nữa con gái mình cũng lỡ thời, nên không còn con đường nào khác chọn lựa. Thanh có nói thêm (hình như là để an ủi tôi chăng?) gia đình em thích anh hơn.
Tôi qua California thăm người chị bà con mới từ Úc qua. Chị cho tôi biết là vừa rồi có về Việt Nam thăm nhà, chị mới nghe tin Sách đã ly dị với người chồng sau, chị hỏi tôi có biết tin nầy chưa? Tôi lắc đầu. Không biết tại sao tôi không ngạc nhiên về chuyện nầy. Từ lâu tôi nghĩ rằng Sách sẽ không được hạnh phúc với người chồng sau nầy. Tôi có cảm giác như vậy, còn lý do vì sao tôi mang ý nghĩ nầy thì quả thật khó giải thích. Tôi nghĩ trong đầu Sách sẽ khổ hơn, sẽ gặp rắc rối hơn khi tiếp tục sống với nhau. Thà như vậy, đường ai nấy đi để giải thoát những bế tắc cho nhau mà không nói ra được. Sách đúng là người đàn bà cao số. Sau khi nghe tin tức không may của Sách về chuyện gia đình, tự nhiên tôi thấy thương Sách hơn. Suốt một cuộc đời lao đao với chuyện chồng con, chỉ có nước mắt âm thầm trong đêm, khóc cho người chồng nầy rồi khóc cho người chồng khác. Gần cuối cuộc đời sống trong lẻ loi cô quạnh. Đời một người đàn bà chỉ có một lần có quyền được chọn lựa, sơ sẩy xem như đi đong không thể trở lại. Sách nằm trong trường hợp nầy. Nói thế không phải vì Sách không chọn tôi nên mới gặp những trường hợp đáng tiếc xẩy ra. Biết đâu khi chọn tôi trường hợp xẩy ra còn thê thảm hơn thì sao? Cuộc đời dài lắm và cũng ngắn ngủi lắm, làm sao biết được chuyện gì sẽ xẩy ra.
Tôi đi Mỹ (1990) không có cơ hội gặp được Sách. Hình như tôi có gửi cho Sách một vài lần tiền nhờ người quen mang về. Nhưng sau đó thì bặt tin, tôi không liên lạc được do mất địa chỉ vì tôi dọn nhà đi nhiều lần. Gần hai mươi năm sau tôi mới có dịp gặp lại Sách khi tôi trở về Việt Nam thăm nhà vào dịp tết 2008. Không biết ai báo tin cho Sách tôi mới về. Một buổi tối sau khi dùng cơm với gia đình xong, tôi ngồi ở phòng khách xem tivi, thì đứa em vào báo có một chị bạn tìm tôi. Tôi nhìn ra ngoài hiên, ánh đèn mờ quá tôi không nhận ra Sách, mà thú thật Sách đổi khác nhiều quá. Bao nhiêu tai ương ụp xuống đời một người đàn bà, cộng với sự nghèo khổ, chăm lo cho gia đình và các con, đã làm cho Sách héo hon, tiều tụy. Sách khép nép nhìn tôi, trong một giây phút bất thần tôi không nhận ra được. Sau đó thì Sách cười tôi mới nhận ra. Nụ cười của Sách rạng rỡ tôi không bao giờ quên được. Vì mới gặp nhau chúng tôi chỉ trao đổi những thăm hỏi, khi đụng tới chuyện gia đình thì Sách bảo là buồn lắm để khi khác sẽ kể cho tôi nghe. Quả thật Sách không biết ở Mỹ, tôi đã biết về chuyện ly dị của Sách trước đây mấy năm.
Trong thời gian vào dịp Tết, tôi cũng bận rộn nhiều chuyện. Lâu ngày mới về nên phải đi thăm bà con chỗ nầy chỗ kia, đi thăm bạn bè. Thì giờ đi thăm thì không tốn mấy, nhưng sau khi gặp nhau thì uống với nhau vài ly rượu, sa đà vào chuyện nầy không còn thì giờ đâu để làm chuyện khác. Tôi có gặp Sách vài lần ngắn ngủi, những lần gặp nhau tôi chú ý tới một điều là Sách đã thay đổi tính tình rất nhiều. Đăm chiêu và nói chuyện cay đắng hơn. Có lẽ những đau đớn về chuyện đổ vỡ gia đình, đã cho Sách những bài học muộn màng về tình người, sâu sắc trong cuộc sống, thận trong trong giao tiếp. Đúng ra bài học nầy Sách phải biết trước đây vài chục năm, thì chắc rằng đã cứu vớt cuộc đời của Sách sau nầy. Không bị lún sâu trong những quyết định bồng bột, non nớt, để phải trượt chân trên đường đời một cách thê thảm như vậy. Mà cũng chính sự đau khổ nầy cho Sách nếm qua cái mùi “bội bạc” của người khác dán lên đầu mình, nặng hơn ngàn cân mà mình phải gánh chịu. Cái gì của Sách đối đãi với tôi ngày trước, bây giờ Sách nhận lấy cái hậu quả đau đớn gấp trăm lần mà tôi đã chịu. Những lọc lừa, dối trá, mà trước đây Sách đã dùng để đối xử với tôi, bây giờ người ta cũng dùng “chiêu” nầy để đối xử với Sách mà tàn nhẩn hơn, khốc liệt hơn. Ngày đó tôi yêu Sách thật, nhưng song song với Sách tôi cũng có người yêu khác. Mất Sách tôi cũng buồn nhưng tôi có Nguyện. Tuổi trẻ chuyện bồ bịch đến hay đi cũng bình thường, buồn một thời gian rồi quên ngay.
Một buổi tối tôi mời vợ chồng Đức và Sách đi ăn cơm và sau đó đi uống cà phê. Tôi ngồi nghe Sách kể về lý do ly dị với người chồng sau. Một lý do đơn giản là Châu đi chơi đâu đó, gặp một người đàn bà khác. Sau một thời gian ngắn thì Châu tuyên bố chia tay với Sách, về sống với người đàn bà kia. Sách nói với tôi là rất ngạc nhiên về chuyện nầy vì vội vàng và nhanh chóng quá. Thế nhưng khi nghe xong chuyện, tôi không ngạc nhiên. Chuyện Châu quyết định bỏ Sách cho đến thời điểm đó thì đã quá muộn, đúng ra chuyện nầy đã xẩy ra sớm hơn. Sách không nhìn rõ để thấy chuyện nầy. Lấy Sách nhưng lòng của Châu bao giờ cũng nhìn đi nơi khác, trông chờ có cơ hội sẽ buông tay với Sách ngay. Từ lâu nhìn Châu tôi đã thấy được chuyện nầy. Nhưng thôi đây chỉ là dự đoán của tôi, tôi mong rằng không đúng. Tuy nhiên Sách phải hiểu rõ một điều thực tế. Một người con trai khi lớn lên lấy vợ, ai cũng mong rằng người vợ của mình còn trong trắng. Nếu người vợ không dành cho chồng cánh hoa tươi rói đó thì người chồng có cảm giác mình bị cắm sừng. Huống gì đây người vợ đã có vài mặt con thì trong lòng họ cảm thấy bị thiệt thòi biết mấy. Châu ở vùng quê mùa, đầu óc không thoáng lắm, còn quan niệm lỗi thời và còn bị ràng buộc bởi gia đình cổ hủ. Tôi nghĩ khi Sách về làm dâu nhà nầy đã nghe tiếng chì tiếng bấc về chuyện nầy. Sở dĩ hai người có con với nhau nên nhẹ bớt đi cái chuyện xỉa xói của gia đình.
Đúng ra Châu nên có tấm lòng bao dung, hiểu được hoàn cảnh đau thương của vợ, mình lấy họ tức là mình đã cứu vớt cuộc đời của họ, phải sống với nhau bằng tình thương yêu. Nếu thấy rằng lòng mình không rộng lượng như vậy, thì từ đầu mình nên rút lui, để đừng gây thêm đau khổ cho mình và cho người khác. Sách thì không chịu hiểu cái điều thâm sâu bí hiểm đó, nên đau khổ và trách móc đủ thứ.
Trước khi tôi rời Đà Nẵng, Sách đến thăm tôi lần cuối. Có lẽ là lần đầu tiên tôi mới nghe Sách nhận xét về tôi. Sách nói trong nghẹn ngào: “Cuối cùng rồi em mới thấy được, không có ai yêu thương em bằng anh”. Tôi nhìn Sách và thầm nghĩ rằng: “Anh cũng không được như vậy, chỉ có chính em mới thương em”. Đến một cái tuổi nhìn cuộc đời trải qua những bon chen, danh lợi. Những tranh giành, hơn thua. Rồi đến một lúc nào đó ta thấy tất cả chỉ là trò hề. Chỉ còn đọng lại chút tình còn sống lại trong lòng. Hãy sống với nhau bằng thủy chung, chân thật. Tôi biết Sách cay đắng với đoạn đường đã trải qua, những nghiệt ngã giáng xuống đời một cách cay nghiệt, cũng bởi vì khi còn trẻ không trân trọng sự chân thật, chạy đua để nắm bắt được danh lợi, nên phải trả một giá rất đắt bằng chính cuộc đời của mình. Không ai có đủ quyền năng can thiệp được những chuyện nầy, nên khi nhận thức được thì đã muộn màng. Trước khi lên taxi ra về, Sách chạy đến ôm tôi, tôi cúi xuống hôn lên trán Sách rồi Sách lầm lũi lên xe. Đức và Thê đứng nhìn cảnh nầy cũng ngậm ngùi, rưng nước mắt. Tôi biết Sách khi lên xe sẽ khóc, nhưng biết làm sao hơn khi chính mình định đoạt cuộc sống của mình, thì mình phải lãnh hậu quả của sự quyết định đó.

Phạm Tương Như
Biển đêm
Có mối giao tình giữa biển êm
Da em trắng ngọc ánh trăng mềm
Thoảng mùi hương tóc thơm trong gió
Bàng bạc mù sương rớt nửa đêm
Ai nhốt sao trời trong mắt xinh
Cho anh lạc hướng ngõ tim mình
Em như triền sóng theo cơn gió
Anh thả thuyền trôi giữa lặng thinh
Em thủy triều lên giữa biển khơi
Có hay bèo giạt cánh hoa trôi
Bóng mây tan nát chìm theo sóng
Bọt sóng trùng dương tận bến trời
Có phải tình em, hải đảo hoang
Tim em thiên sứ giữa mây ngàn
Anh mãi thì thầm bao sóng vỗ
Vách đá vô tình bọt nước tan
Biển lặng hồn anh đêm sáng trăng
Tình yêu lai láng khắp mây giăng
Em như biển vắng xa xôi quá
Có giữ hồn anh bóng nguyệt tan?
Anh sẽ là sao lặng lẽ rơi.
Hồng dương tỉnh mộng ở chân trời
Đêm mãi luân hồi muôn vạn kiếp
Tình tự dạt dào tựa biển khơi

Quán rượu tương phùng
Chiều buồn tàn úa đóa phù dung.
Chén giao bôi mừng phút tương phùng.
Ta và em, một trời luân lạc.
Em lạc đời, ta lạc tình chung.
Đêm chưa tàn sao nhạt phấn hương.
Rượu chưa say sao nát y thường.
Ly thứ nhất chào em nhan sắc.
Rượu đời em đắng những tan thương.
Cụng ly đầy hay cụng chân không.
Em mời ta uống cạn biển lòng.
Rượu em rót có pha nước mắt.
Và nụ cười đục bến nước trong.
Phà khói thuốc thả vòng mây trắng.
Làm sao em cột chặt đời mình
Lời em hát, chuyện tình cay đắng.
Bài ca buồn giọt lệ lung linh.
Đêm tương kiến cũng là tương biệt.
Rót đầy ly cụng chén hồng nhan.
Uống cho cạn mảnh đời hơn thiệt.
Rượu quên sầu hay nát tim gan.
Tay em lạnh ngả màu trăng lạnh.
Lời hát buồn khóc cuộc tình xa.
Ta hôn em trốn đời hiu quạnh.
Hay trốn chính mình một đêm qua

Diễm tình
Anh gởi thương qua tầng mây nhung nhớ.
Khi mây về anh thương nhớ em thêm.
Gió cứ miên man, mộng mị êm đềm.
Đời rất đẹp, nhưng hồn thơ bỡ ngỡ.
Anh nhớ em qua khung trời phiêu lãng.
Biển mây trôi như lượn sóng vỗ bờ.
Vùng tóc em, mây tóc thoáng bơ vơ.
Trong sâu thẳm mắt em trời xanh biếc.
Tâm thương nhớ không có đời sinh diệt.
Nên nhớ thương tuổi lớn cả ngàn năm.
Nhớ khôn nguôi vì cách trở xa xăm.
Ngoài nỗi nhớ chắc là anh sẽ khóc.
Muốn trả em phần hồn thơ côi cút.
Những diễm tình, duyên dáng giữ bao lâu.
Sợ hồn thơ không kham nổi niềm đau.
Sợ tim vỡ những bờ trăng tan tác.
Anh yêu em bỗng thấy đời thơm ngát.
Dù trái ngang là chuyện của đời thường.
Dung nhan tình là diễm lệ yêu thương.
Diễm tình ấy là hồn thơ sinh diệt.
Anh nhớ em với tấm lòng tha thiết.
Ngày sắp tàn đưa tiễn bóng chiều phai.
Dòng thời gian anh ôm giữa đôi tay.
Đời giao động những nhịp tim rất lạ.

Dương Quân
Thư viết trong mưa
Trời làm mưa gió sụt sùi
Nhớ em mấy bữa ngủ vùi trong chăn
Mưa buồn từng giọt miên man
Vẳng nghe tiếng gọi tiền căn vọng về
Hỏi lòng đang tỉnh hay mê?
Sao nghe đau nhức bốn bề không gian
Lối nào lên được thiên đàng
Mà chân rối mãi muôn ngàn tơ vương
Trầm luân hết cõi vô thường
Rã rời tim óc, bi thương xác phàm
Bao giờ huệ nhãn, huệ tâm
Hẹn nhau về chốn cao thâm cõi Thiền
Xét mình nghiệp chướng còn nguyên
Câu kinh nào giải nhân duyên luân hồi
Mưa chan tội, phúc đầy vơi
Giọt vào tiềm thức, giọt rơi vũng sầu
Giọt nào rửa sạch cơn đau
Giọt nào hóa đá ngàn sau vĩnh hằng?
Cuộn tròn nỗi nhớ trong chăn
Gởi em thơ viết mấy hàng trong mưa
Ví dầu mưa tạnh hay chưa
Cội tình cũng đã xác xơ nhánh buồn.

Nguyễn Tôn Nhan
Chiều chiều
Sáng hôm nay mặt trời xanh
Nàng giữ trên môi bông tuyết nhỏ
Lá trong vườn từng lưỡi dao găm
Nàng giữ trên tay bông tuyết đỏ
Chim không bay đến mái hồn tôi
Nơi cô đơn rêu ngàn năm đã phủ
Nơi vinh diệu của nhửng kẻ u buồn
Nơi sáng hôm nay của tôi của nàng
Của hai kẻ đem phơi hồn ủ rủ
Chiều tôi trở về trên đồi cây
Dưới cành khô có bóng nàng treo cổ.

Một chùm bông
Nắng nằm trên nóc nhà ga
Chim có kinh rơi giọt máu nhỏ
Bay về đâu bay về đâu tôi chiều nay
Chim có kinh suốt mùa thu ngủ
Tôi nằm trên nóc nhà ga
Tôi chụp bông nắng khô vỡ
Con chuồn chuồn
Tôi ngạt thở
Tôi nằm thu hiện nóc nhà ga
Chim bơi trong chùm bông nắng khô
Chiều đẻ tôi ngạt thở.

Yên Sơn
Những khởi đầu
của một gã tha hương
Hắn cứ sống với sức sống vươn lên trong cái ảo tưởng, mơ hồ như một người khách lại. Hắn luyến tiếc quá tuổi thanh xuân cho nên rất ít khi hắn công nhận là hắn đã đứng bên kia một nửa cuộc đời! Hắn không sợ già nhưng hắn không muốn chấp nhận. Chưa làm được việc gì nên trò nên trống mà đã già rồi nghe thê thảm lắm! Hắn vẫn thường nói đùa với bạn bè, người quen là hắn sẽ không bao giờ quá 50 tuổi! Ai nghe qua cũng ngơ ngác trước khi hắn cười hiền giải thích: “kế tiếp 50 sẽ là 49 đến 48, 47… 40 rồi quành lại 41, 42… và cứ thế!
Có thể trong chiến tranh khốc liệt xưa kia, hắn đã không thể sống hết mình, sống buông thả như bao nhiêu người khác. Hắn đã sống một cuộc sống mà người đời thường cho là mẫu mực, nề nếp vì hắn tự nguyện đánh ván bài “được ăn cả, ngã về không”, có nghĩa là nếu số phận an bài cho hắn sẽ làm được gì trong đời thì nhất định không thể chết bất tử được. Hắn lo xây dựng tương lai trước sự ra đi vội vã của bạn bè hàng ngày; hắn cố bồi đắp cho tương lai trong những hoang tàn, đỗ nát, khốc liệt của chiến tranh…
Hắn đã nghĩ “nếu có chết cũng nên chọn cái chết oai hùng trong sự thanh bạch bản thân để trả ơn tác tạo của mẹ cha, và để lại cho những người thân yêu niềm thương mến và hãnh diện”. Thế nên ở đơn vị nào, bay loại máy bay nào hắn cũng xông pha, cũng tình nguyện. Hắn không bao giờ từ chối khi có bạn bè nhờ đi bay thế khi bận chuyện riêng tư, chuyện gia đình… dù ở đâu, lúc nào hắn cũng nghe kháo là “đi bay thế rất dễ lên bàn thờ”.
Rất điển hình, có thằng bạn cùng tên khác họ với hắn, ngày xưa cùng chung đơn vị, đang ở gần đây. Bạn bè lâu lâu tụ tập lại với nhau để biết là còn có nhau. Bao giờ cũng thế, chuyện mới chỉ là chuyện áo cơm, rất ít; chuyện cũ ai cũng thuộc lòng, nói hoài vẫn như mới! Người bạn bao giờ cũng tìm dịp nhắc lại cho người chung quanh biết là ngày xửa, ngày xưa, khi nó mê đắm vợ nó bây giờ thường hay nhờ vã hắn bay thế… Và cứ thế, tuổi thanh xuân của hắn cứ ngày một ngày hai phiêu bồng với mây, với gió, với nắng, với mưa trên khắp vùng trời miền Nam nước Việt…
Ôi những toan tính rốt cuộc cũng bất chợt chạy bạt mạng theo đoàn người di tản buồn, không một lời từ giã; không biết mình đi đâu, về đâu vào buổi trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975 giữa tiếng bom đạn vang rền, giữa những hổn loạn cùng cực! Bất chợt đến nỗi không kịp mang theo người yêu dấu chỉ ở cách phi trường 45 phút chạy Honda! Cũng may là “ngã nhưng chưa về không” mà “ngã” cho hắn thêm nhiều cay đắng, đau thương hơn khi nhận ra mình phải sống đời tha hương, viễn xứ, để lại sau lưng một quê hương nghiệt ngã, rách nát; để lại sau lưng bao tình thâm, nghĩa trọng, bao ơn nợ bạn bè! Những chặng đường hắn đã đi qua từ khi tan đàn sẫy nghé thật lắm gian truân. Hắn may mắn một cách nhiệm mầu bốc theo được hai đứa em trai đang theo học ở Saigon – hai đứa rủ nhau chạy tìm anh ở khu cư xá độc thân, trong phi trường, từ chiều hôm trước – mà tiếng Anh của cả hai khi giao thiệp lại rất mỏi tay!
Sau vài tuần lễ trong trại tỵ nạn Eglin AFB ở Florida, anh em hắn được bà già nuôi người Mỹ, ở San Antonio, bảo lãnh ra khỏi trại tỵ nạn vào một trưa thứ Bảy cuối tháng 5/1975.
Bà già nuôi là vợ của một cố Trung Tá Không Quân Mỹ thời đệ nhị thế chiến. Bà chia sẻ tuổi già với đứa con trai trung niên, ly dị vợ con, trong một căn nhà gạch cũ. Lợi tức của hai mẹ con là tiền cho thuê mấy mẫu nông trại cộng với tiền hưu bỗng ít ỏi! Ở bà, hắn thấy bà giàu nhất ở tấm lòng quý hiếm. Hắn đã gặp và thân quen với bà từ những ngày vỗ cánh tập bay trên đất nước này vào mùa Thu năm 1969, giữa những háo hức tuổi trẻ và bầu nhiệt huyết tràn đầy mà tương lai và mộng ước ngập tầm tay, với niềm tự hào là một trong những đứa con tuyển chọn của đất nước Việt Nam. Tình cảnh bây giờ hoàn toàn trái ngược! Gặp lại bà trong thân phận một gã tỵ nạn, một thằng chiến bại với những ước mơ cùn lụt, lụi tàn!
Hắn đã cúi đầu rơi nước mắt với những dòng suy tư hụt hẫng đó. Hắn là người cứng cỏi, hay ít nhất cũng làm ra vẽ, rất ít khi rơi nước mắt vô nghĩa; thế mà từ dạo cuối tháng tư đến nay, nước mắt ở đâu cứ chực tuôn trào! Hắn nhìn bà đầy mặc cảm pha trộn quý mến, cùng lúc thoáng trong tâm tư muộn phiền của hắn có chút cay đắng nghĩ về những người bạn đồng minh đã đành lòng ngoảnh mặt, quay lưng với dân tộc hắn! Trên đường từ phi trường về, hắn nhận ra những lối cũ thân quen, cũng những xa lộ tròng tréo lên nhau, với I.10 chạy mịt mù về miền viễn tây nước Mỹ xa xăm như cuộc đời vô định của anh em hắn mở ra trước mắt! Chốc chốc hắn lại thở dài, vũng buồn trào dâng mênh mang như những đại dương bao la dưới cánh phi cơ trên những chặng đường tỵ nạn! Hắn ao ước có cái cớ gì để hắn có thể bật khóc cho vơi bớt những u uất trĩu nặng trong tâm hồn!
Sáng Chủ Nhật, anh em hắn theo chân bà già đi lễ nhà thờ! Bà bảo sẽ giới thiệu với người trong họ đạo có thể sẽ được mướn đi làm! Mặc dù hắn đã chuẩn bị tinh thần để bắt đầu cho cuộc sống mới từ trong trại, nhưng vẫn ngỡ ngàng khi nghe bà nói ba chữ “mướn đi làm”. Từ hồi nào tới giờ hắn chỉ quen với các cụm chữ “đi chơi, đi học, đi lính, đi bay”. Bây giờ cũng là chữ “đi” quen thuộc nhưng chữ “mướn” ở trước và chữ “làm” theo sau! “Mướn đi làm”! Cụm chữ đối với hắn như là một xác nhận đau đớn! Trong thâm tâm hắn có cái gì lạ lẫm lẫn bàng hoàng! Hắn than thầm: “thế là hết thiệt rồi một đời ngang dọc!” Nước mắt hắn lại chực rơi! Ôi quê hương tổ quốc! Ôi những người thân thương! Suốt buổi lễ hắn ngồi nghiền ngẫm trận chiến nội tâm, thỉnh thoảng lẩm bẩm ba chữ “mướn đi làm” như một gã điên! Hai đứa em, bốn mắt nhìn lạc lõng!
Lễ đã xong mà sao anh em hắn vẫn ngồi yên một chỗ, dường như có nhiều cặp mắt bám chặt anh em hắn. Hắn triền miên chao đảo và không biết hai đứa em nghĩ gì! Cả ba lúng túng, vụng về chưa biết xoay trở làm sao thì bà già tiến đến với một trung niên da trắng, tóc vàng. Bà giới thiệu hai bên ngập ngừng bắt tay tay bắt để cuối cùng biết rằng, kể từ sáng mai, Mike sẽ tới nhà bà đón hắn đi phụ việc bảo trì nhà cửa.
Mike bảo hắn yên tâm, chỉ làm thợ vịn và học được chút gì hay chút đó; hắn chỉ làm part time và được trả $2/giờ! Bà già mừng rối rít, còn hắn thì lí nhí cám ơn, bộ điệu ngập ngừng không ra thể thống nào cả! Số là trong đầu óc máy móc của hắn những con số đang chạy rì rào: “$2/giờ vị chi $16/ngày, hay ít nhất cũng $320/tháng nhân cho khoảng 1.000 tiền Việt Nam cho mỗi đô la… whoa! Con số hắn chưa từng có suốt đời học trò cũng như lương sĩ quan phi công Việt Nam một trời ngang dọc!” Hắn thấy chát đắng trong miệng, mắt chợt mờ câm! Nhìn lại các em và chính bản thân hắn với bộ áo quần duy nhất của mỗi người đã mặc theo trong lúc chạy loạn, dường như chỉ một thoáng thôi niềm vui chợt đến rồi vội đi!
Ở trại tỵ nạn người ta cũng phát đồ cũ, anh em hắn cũng lựa được vài ba bộ khả dĩ nhưng vẫn thùng thình; thế nên khi nào có dịp cho bảnh bao thì vẫn phải mặc bồ đồ Việt Nam duy nhất, dù đã cũ nhưng vô cùng thân thiết! Bà già thấy hắn lúng túng vội đỡ lời, nói với Mike chắc là hắn “shy” (mắc cỡ) và vốn dĩ ít nói!
7 giờ sáng hôm sau là một ngày mới, một cuộc đời mới của hắn. Hắn ngoan ngoãn làm tất cả những gì thằng Mike biểu làm; hắn làm ngon lành, mau lẹ dù có lúc hắn thật sự rơi nước mắt – Chỉ một tháng thôi mà đã nghìn trùng xa cách, mà đã voi chó đổi đời! – Từ quét rác, lau cầu tiêu, cắt ráp kính cửa sổ đến sơn quét… đủ cả! Cái gì nó chỉ là hắn làm được ngay, nó có vẻ hài lòng lắm!
Buổi chiều trên đường về, thằng Mike đưa ngón tay cái lên trước mặt hắn rồi nói: “you are good, you are number one!” (mày hay quá, mày số một!) Hắn gượng cười cám ơn trả lễ nhưng trong thâm tâm hắn, hắn sôi nổi nghĩ rằng: “máy bay mà tao còn lái đủ loại sá chi công việc không cần đầu óc này!” Hắn xoay người ra cửa sổ như mải mê với cảnh vật chung quanh nhưng cốt để dấu đôi mắt đỏ mọng nước! Hắn bắt đầu thấy giận hắn sao mau nước mắt, sao trở nên ủy mị quá chừng!
Để tránh buồn phiền, hắn bắt đầu tập võ ở vườn sau mỗi chiều đi làm về. Một hôm, John đề nghị đưa hắn đi thăm trường dạy võ gần nhà. Hắn hăng hái đi liền. Không biết John nói gì với ông thầy trong văn phòng mà hắn được ông ta tiếp đãi niềm nỡ. Ông ta là một huyền đai tam đẳng, Mỹ trắng, tên Guidry, khoảng hơn 30 tuổi, tính tình có vẻ hiền hòa. Trước khi ra về, ông ta ngỏ ý welcome hắn tới tập bất cứ lúùc nào, ông sẽ tặng võ phục và không phải trả tiền gì cả. Được lời như cởi tấm lòng!
Thế là ngày đi làm vất vưởng, tối về đi bộ đến trường tập võ cho quên đời. Sau một tuần lễ siêng năng tập luyện, ông thầy đề nghị hắn giúp ông dạy hai lớp tối, cách ngày và mỗi lớp 1 tiếng 15 phút; mỗi tuần ông trả $10 tiền mặt. Còn gì mừng hơn, vừa có cơ hội tập luyện, vừa được tiền!
Dạy được một tuần thì xảy ra chuyện! Số là có hai huấn luyện viên dạy ở đó đã lâu – một Mỹ đen 2 đẳng, Mễ bự con 1 đẳng – có lẽ thấy hắn là ma mới nên tính dằn mặt, rủ hắn đấu giao hữu! Hắn đã thấy những ánh mắt không chút thiện cảm của hai đứa này từ lúc nhập trường.
Hắn nói nhỏ với hai đứa là hắn không thích các huấn luyện viên đấu nhau trước mặt võ sinh. Hai thằng cùng nói đâu có sao, ở đây thầy trò còn đấu nhau nữa huống chi chúng ta là huấn luyện viên; hơn nữa đây cũng là cách hướng dẫn cho võ sinh! Hắn tỏ ý không muốn nhưng hai thằng kia cứ ép buộc. Thiệt tình hắn đâu có sợ đấu bao giờ vì xưa kia đã là một trong bốn cột trụ của võ đường Thiếu Lâm Bắc phái Phú Nhuận, và đã một thời mưa gió trên các võ đài tự do từ Saigon ra Đà Nẵng, chưa kể hắn còn là một tuyển thủ Thái Cực Đạo có hạng của Không Quân Tân Sơn Nhất!
Hắn giao hẹn chỉ đấu giao hữu thôi sau khi được sự khuyến khích của ông chủ. (Hắn nghĩ chắc ông chủ cũng muốn thử tài hắn!) Đấu giao hữu là không cố tình gây thương tích nhau. Nhưng thằng Mễ mất dạy vừa ra tay đã muốn hạ độc thủ, cứ xông vào như con trâu cui, không có đòn thế gì cả, lại còn cứ mặt hắn mà đấm! Hắn mà không nhanh tay lẹ mắt thì lỗ mũi ăn trầu như chơi. Hắn chỉ dùng đôi chân nhanh lẹ né tránh dễ dàng. Cứ như mèo bỡn chuột khiến thằng Mễ tức giận sau một hồi đánh không khí. Hắn dừng lại hỏi “mày đấu Thái Cực Đạo hay đấu Quyền Anh? Đấu Thái Cực Đạo không được đấm vô mặt!”… nhưng có lẽ thằng Mễ không hiểu tiếng Mỹ của hắn hay sao nên cứ cái mửng cũ tấn công hoài. Hắn đã nhường vì thấy khả năng của thằng giặc này không bằng võ sinh đai xanh đậm của Việt Nam, phần nữa nó lại thấp đẳng hơn; nhưng hoàn cảnh trước mắt hắn không thể kéo dài hơn được… tự nhủ nếu không nặng tay sợ nó không phục. Hắn dừng lại cảnh cáo thêm lần nữa như thể… phân bua với cả trường trước khi dạy cho nó bài học lễ độ! Chờ thằng con xông tới, hắn không né nữa mà co chân trái lên dùng đầu gối cản sức tới của nó, tay trái đánh nhứ vô mặt địch thủ cùng lúc chân trái đặt xuống, chân phải nhanh như cắt quạt gót 360 độ… nếu hắn không lưu tình co bớt chân, dùng mũi bàn chân thay gót, chắc thằng con đã đo ván. Dù vậy, lỗ mũi nó cũng đã ăn trầu! Cả lớp vỗ ta! Thằng Mễ chưa kịp lên tiếng thì thằng Mỹ đen đã la lên:
– Tại sao mầy vừa nói đấu Thái Cực Đạo không được đấm vô mặt mà mày làm?
– Nó bị đòn chân của tao rõ ràng mà sao mày lại nói tao đấm!
– Tao thấy mày đấm trúng mặt nó trước khi mày quay gót!
Hắn quay hỏi ông chủ:
– Guidry, ông nghĩ sao?
– Có lẽ mày đánh lẹ quá nên tao cũng không chắc thấy!
– Mày đấm vô mũi tao! Thằng Mễ nói.
– Mày muốn xem lại đòn chân vừa rồi không?
Hắn cười hỏi.
Thằng Mễ chưa kịp trả lời thì thằng đen lên tiếng:
– Tao muốn thử đòn chân của mày!
Thấy tình hình căng thẳng, hắn có chút e ngại nhìn ông chủ, thấy ông ta gật đầu và nói:
– Đấu giao hữu với nhau đừng để mất hòa khí!
– Mày nghe không Larry! Hắn nói với thằng đen như cố tình chọc giận nó.
Thằng đen không nói thêm một lời, thủ bộ đợi chờ, hai con mắt tròng trắng nhiều hơn tròng đen ngó hắn không chớp. Hắn thủ bộ với tiếng hét “ki-ai” để thị oai làm mọi người giật mình. Thằng đen tức tốc ra đòn mạnh bạo. Đôi chân nó di chuyển khá nhuần nhuyễn. Hắn nhủ lòng phải cẩn thận hơn rồi lại dùng tài tránh né để thăm dò lối đánh của đối thủ.
Quái lạ, lũ này học Thái Cực Đạo mà dùng tay như quyền Anh, chân đá không cao hơn ngực! Dù vậy cú đá ngược chân phải của nó cũng khá thần tốc, còn chân trái rất giới hạn, chỉ đá phang ống yếu xìu! Nó hay xông vô đấm liên hoàn xong là đá ngược; còn mỗi lần phang ống thì lui lại thủ thế! Lúc thằng đen phang lần thứ ba, hắn đưa ống chân trái lên chịu, thằng con đau quá nhăn mặt, chưa kịp lùi thì đã lãnh trọn cú đá ngược thẳng vô ngực, ngã ngồi ra đằng sau. Mọi người cùng ồ lên rồi vỗ tay tán thưởng. Cũng may là hắn đã giảm lực và thằng đen có mang áo giáp chứ không thì đã chết giấc! Hắn đưa tay đỡ đối thủ dậy nhưng thằng đen đã làm lơ tay hắn, tự đứng lên. Hắn xin lỗi đã lỡ chân! Giudry đứng dậy biểu cả ba người bắt tay và chấm dứt buổi tập. Thằng đen bắt tay lấy lệ mà mắt thì lườm dữ dằn!
Tan lớp, Guidry giữ hắn lại. Hắn nghĩ là có chuyện rồi đây. Nhưng không, Guidry chỉ nói là ông ta rất thích lối đánh, nhất là thái độ của hắn. Dù vậy cũng nên cẩn thận. Guidry hỏi hắn dự thi đấu ở Houston vào cuối tuần tới. Ông ta nói sẽ cùng đi với võ đường và ông sẽ đóng tiền dự thi cho hắn, $20 cho cả thi quyền và đấu. Lúc đó số tiền $20 rất lớn đối với hắn (xăng 40 xu/gallon; thuốc lá 15 xu/gói). Hắn ngần ngại nhưng Guidry ép hắn nhận lời rồi cười nói sẽ không trừ tiền hàng tuần đâu mà lo. Hắn cám ơn Guidry rồi ra về.
5:30 giờ sáng sớm thứ Bảy mọi người lục tục lên xe 15 chỗ ngồi, khởi hành ngay cho kịp 10 giờ sáng khai mạc! Từ San Antonio tới Houston với hơn chục võ sinh các cấp, có cả hai thằng ông nội. Suốt chặng đường ba người không trao đổi với nhau một lời!
Lần đầu tiên tham dự đấu võ bên Mỹ, hắn không sợ nhưng cảm thấy hồi hộp! Trên xe, Guidry giảng giải cho hắn và mọi người biết thể lệ thi cử. Xe chỉ dừng lại đổ xăng và cho mọi người đi xả bầu tâm sự, vậy mà đến nơi cũng hơn 9 giờ! Guidry bảo mọi người tự túc mua đồ ăn tại chỗ, hắn thấy giá đắt quá không ăn và đi ra một góc ôn quyền.
Thi quyền buổi sáng. Vận động trường là một sân đấu bóng rổ của trường Đại học Houston, vậy mà đầy nghẹt người thi đấu. Rất đông người về từ các thành phố và tiểu bang lân cận. Nhóm huyền đai của hắn có cả thằng Mỹ đen cùng trường! Chờ đến khi hắn thi quyền đã gần 1 giờ trưa. Giám khảo là hai ông thầy Đại Hàn và một Mỹ đen. Kết quả, Đại Hàn nhất, Mỹ trắng nhì, thằng đen hạng Ba, còn hắn… lọt sổ! Hắn vẫn thù tụi Đại Hàn bao giờ cũng ăn gian nên dù tức lắm cũng đành. Chú Mỹ đen nghiêng đầu, rùn vai, mắt nhướng lên mỉm cười nhìn hắn tuồng như hả hê nhưng hắn tới bắt tay nói lời chúc mừng khi nó ôm trophy đi xuống!
Gần 5 giờ chiều mới tới lượt hắn thi đấu. Nhóm hắn có 12 người, hạng cân 130 lbs-150 lbs, từ 1-3 đẳng. Thằng Mễ ở hạng cân khác nhưng thằng bạn Mỹ đen ở chung nhóm. Nhờ Guidry mua thức ăn đầy đủ nên hắn thắng vòng loại dễ dàng, hạ đối thủ 3-0; Ở vòng hai gặp một chú Mỹ đen khác. Thằng phải gió này cũng chỉ có tay. Chạy vòng vòng, lâu lâu lại xông vô chọc cú vô ngực xong thụt lùi, hắn chưa kịp phản ứng thì trọng tài đã dừng đấu và cho điểm thằng phải gió! Hắn thấy buồn cười quá, chưa biết xoay trở ra sao thì lại bị cú liên tiếp!
Trời ơi! Đánh với đấm không ra sao cả! Chỉ cần một điểm nữa là … tàn cuộc chiến! Không khéo thì cũng sẽ thua như đã chạy cuộc chiến vừa tàn, cũng oan uổng, cũng bất ngờ! Hắn nghĩ phải cấp tốc hành động! Để thua vớ vẩn như vầy sẽ mang nhục! Thằng khỉ gió tính ăn quen nhưng… nó vừa nhảy vô, hắn bước ngang chân trái qua, thằng con lỡ đà chưa kịp rút lui đã lãnh đủ một cú quay gót vô đầu với tất cả sức mạnh, thằng khỉ ngã ra bất tĩnh! Hắn bị loại vì cố tình đánh trọng thương (uncontrolled contact). Guidry phản đối dữ dội nhưng không được!
Trong khi chú đen phe ta vào được chung kết, đánh tam giác và lãnh hạng ba! Hắn cười buồn tới bắt tay chúc mừng chú đen (hắn thấy chú đen siết tay hắn chặt lắm), cùng lúc chú Mễ lãnh hạng nhì ở nhóm nặng cân. Tổng cộng võ đường mang về hơn 15 cúp lớn nhỏ trong khi hắn chỉ cười trừ! Chú Mễ và chú đen chịu nói chuyện làm thân với hắn trên suốt đường về. Hắn chỉ đơn giản nghĩ chắc chúng nó đang vui trên sự kém may mắn của mình! Cả xe vui vẻ, cười nói huyên thuyên. Guidry và mọi người cho hắn trúng lô an ủi!
Sau chuyến đi Houston trở về, cả hai chú Mễ và chú đen đều tỏ ra thân thiện với hắn. Chú đen nói với hắn rất chân thành rằng chú rất cảm ơn hắn đã không cho chú đo ván vào tuần trước như chú Mỹ đen ở tournament. Chú Mễ không nói gì nhưng hay hỏi han hắn về kỹ thuật. Lớp hắn dạy đông hơn, thu hút thêm một số học trò con gái Mễ. Hắn tự nhủ “tuy thua trận nhưng thắng tình bạn bè cũng đáng”!
Và ngày tháng vô tình, vô định vẫn tiếp tục dù trường võ đã cho hắn chút niềm vui tạm thời!

Dương Thượng Trúc
Sao mùa đông đến vội
mùa đông chưa hẹn đến,
thu vội vã ra đi,
như cuộc tình rẽ bến,
không một lời biệt ly .

con đường xưa còn đó,
in dấu chân ta về,
tiếng cười vang trong gió,
khúc nhạc tình đê mê .

nụ hôn đầu vụng dại,
còn ấm nồng bờ môi,
trinh nguyên ngàn hoa trái,
quấn quýt ta một đời .

gió thu buồn hiu hắt,
lá thu vàng rơi rơi,
mùa thu chưa trở gót,
sao đông đến đây rồi?

Nỗi nhớ còn vương
(Tặng người ngày cũ Pleiku)

Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ.
Ôi! Quê hương, một thuở đã mờ xa.
Có những đêm, lệ buồn đoanh mắt đỏ.
Nhớ làm sao những kỷ niệm ngọc ngà.

Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ.
Con đường xưa, xào xạc lá me bay,
Lá tung tăng, lá cợt đùa với gió,
Rồi nhẹ nhàng, lá hôn trộm tóc mây.

Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ.
Những chiều vàng, ta dìu bước nhau đi.
Đôi mắt nai ngại ngùng như mắc cỡ.
Áo học trò, quấn quýt áo “trây di”.

Bao năm rồi, lòng còn vương nỗi nhớ.
Nhớ để buồn, để thương tiếc… khôn nguôi.
Thật xa xăm mà hồn sao cứ ngỡ…
Nghe đâu đây, văng vẳng tiếng em cười…

Nguyễn Thị Thanh Dương
Chồng già vợ trẻ
Tôi vừa bước chân vào nhà, chồng tôi đã gọi:
– Em ơi, cạo gío cho anh…
– Lại cảm rồi hả? Gớm, gió đầu Đông cảm, gío cuối Đông cũng cảm. Mà lại cảm ngay vào ngày Valentine, ngày mùa tình yêu, người ta tưng bừng hẹn hò hay đi chơi, còn anh thì ngồi đây ăn vạ.
– Đầu hay cuối gì cũng là gío lạnh cả.
Tôi ngao ngán:
– Anh thì dị ứng với cả bốn mùa, giữa mùa hè trời bỗng dưng đổ cơn mưa anh cũng ngây ngây người khó chịu, mùa Xuân anh không chịu nổi phấn hoa tha hồ sổ mũi hắt hơi, còn mùa Thu gío chuyển mùa hiu hiu, trong khi em muốn được đi theo gío đến tận chân mây cuối trời thì anh đã cảm vì lạnh, phải uống vài viên thuốc Tylenol và nằm nhà đắp chăn để ngủ, mặc cho mùa Thu mơ màng ngoài khung cửa.
– Thì anh khác, em khác. Anh đã 60 tuổi rồi còn gì! mà em thì mới 40, cái tuổi nồng nàn và rực rỡ.
– Em muốn lấy chồng lớn tuổi để nép bóng tùng quân, để mãi mãi là người tình bé bỏng được nuông chiều, hóa ra em lại là người phải chiều anh và hầu anh đủ thứ.
Tôi nhìn anh đang ngồi trong ghế như đã chờ đợi tôi từ nãy giờ, mặc áo len dày, chân đi vớ, đầu còn đội cả mũ len nữa. Càng thêm ngao ngán:
– Trông anh lù đù như ông gìa trong nursing home ấy, trong nhà chứ có phải ngoài sân hay ngoài cánh đồng lộng gío đâu mà anh trang bị quần áo, mũ và vớ kỹ thế?
– Biết thế, nhưng thà thừa hơi ấm còn hơn là một chút lạnh vào người.
Tôi ra lệnh:
– Thôi đủ rồi, anh chuẩn bị cởi đống quần áo len, áo khóac tổng cộng mười mấy pound của anh ra để em cạo gío. Từ ngày lấy anh em bỗng trở thành người đàn bà cạo gío thành thạo, tay nghề cao dần theo năm tháng.
Ông chồng tôi lê dép đứng lên đi lấy chai dầu gío xanh và dụng cụ cạo gío. Kể cũng lạ, mỗi lần cảm lạnh hay nhức mỏi hai vai và lưng, chỉ cần cạo gío cho người nóng ran lên anh thấy đỡ ngay.
Vừa ngửi mùi dầu xanh vừa cạo gío trên tấm lưng gầy của chồng, trong căn phòng này dường như chỉ là tuổi gìa và đau ốm. Trong khi cuộc sống bên ngoài luôn sống động xôn xao, lúc nãy tôi có ghé vào chợ đã thấy cửa hàng bán hoa tấp nập khách mua. Tôi đã dừng chân ngắm nhìn cái điều có lẽ chẳng còn đến với tôi nữa trong ngày Valentine, những bó hoa, những bình hoa đủ loại, đủ màu, bên cạnh những qủa bóng hình trái tim cột dây bay lơ lửng đang chờ được mua và trao tặng.
Ngày tôi 20 tuổi, đời tôi là cả một rừng hoa mênh mông chứ chẳng phải một chợ hoa hạn hẹp. Tâm hồn tôi là cả triệu qủa bóng bay lơ lửng giữa trời xanh, chứ chẳng phải chỉ vài qủa bóng kia. Còn anh, là một người đàn ông từng trải vừa đúng 40, khỏe mạnh, đẹp trai, và tình tứ, anh làm con bé tôi chết mê chết mệt, yêu anh chớp nhoáng và lấy anh vội vàng. Mỗi mùa Valentine anh đều âu yếm mua hoa về tặng vợ, mối tình nồng ấm kéo dài được vài năm thì dấu hiệu tuổi gìa của anh xuất hiện, 45 tuổi tóc anh đã bạc khá nhiều, anh phải nhuộm cho khỏi chênh lệch với cô vợ trẻ, đến nay thì đầu anh đã hói, chỉ còn một nhúm tóc lưa thưa như rừng chưa thay lá. Không biết có phải vì tuổi gìa làm anh mệt mỏi hết hứng thú yêu đời hay vì cuộc sống vợ chồng lâu ngày thành cũ, nên anh “cúp” luôn chuyện mua hoa tặng vợ ngày lễ Tình Yêu, mà tôi cũng chẳng náo nức chờ mong như ngày xưa nữa.
Tôi đang say sưa cạo gío, bỗng anh rướn người lên và kêu thống thiết:
– Trời ơi, em cạo kiểu gì mà đau qúa vậy?
– Hình như…em quên chưa bôi dầu xanh chỗ này…
Anh hỏi tội tôi:
– Em chưa gìa mà lơ đãng và xớn xác thế! Chưa bôi dầu mà cạo thì ai chịu nổi!
Tôi chanh chua:
– Em gìa trước tuổi để bằng anh, tuổi gìa của anh như một loại vi khuẩn lây lan sang cả đời em. Anh biết chưa?
Anh nhăn mặt:
– Sao em lắm lời thế? Ngày xưa em ngây thơ hiền dịu bao nhiêu bây giờ em chanh chua đỏng đảnh bấy nhiêu. Nếu như được làm lại từ đầu thì…
Tôi gắt gỏng:
– Thì anh sẽ làm gì? Anh chê tôi chanh chua, anh sẽ không cưới tôi chứ gì?
– Thì… anh vẫn yêu em và cưới em, xưa yêu em hiền dịu, nay yêu em cả những chanh chua, cả khi đỏng đảnh.
– Thôi đừng có nịnh nọt. Còn anh, chàng hào hoa ngày xưa của em đã thay thế bằng một ông gìa dở hơi rồi đấy.
Không dám than đau nữa, anh hỏi sang chuyện khác:
– Nãy em đi đâu mà lâu thế?
– Đi đủ thứ, nhà băng này, ghé chợ này, và…nhân thể em ghé vào văn phòng bác sĩ thẩm mỹ hỏi thăm để cắt mí mắt, vì mắt em hơi bị sụp mí rồi.
Tấm lưng anh lại rướn lên, lần này để phản kháng:
– Thôi em ạ, vốn dĩ em đã trẻ hơn anh nhiều, mà lại sửa sắc đẹp thì càng trẻ hơn nữa, coi sao được?
– Biết làm sao bây giờ? chuyện em sửa sắc đẹp chẳng vì anh bao nhiêu tuổi cả, mà vì em thích.
Tôi than thở:
– Nếu anh không qúa gìa, hay nói một cách khác nếu anh còn trẻ độ tuổi như em, thì giờ này anh không thể nằm đây bắt em cạo gío, mà đã ra tiệm chọn hoa tặng em và chiều nay sẽ mời em đi nhà hàng để làm ấm lại tình vợ chồng đã nhạt phai vì thời gian, vì bận rộn của cuộc đời. Em có bao nhiêu quần aó, giày dép thời trang để diện, có son phấn để điểm trang mà mấy khi dùng đến?
– Tình yêu là ở trong lòng, cái màn tặng hoa, tặng qùa Valentine chỉ là hình thức phù phiếm, làm lợi cho giới kinh doanh. Năm nay kinh tế khó khăn, thất nghiệp lan tràn, càng giản tiện, tiết kiệm càng tốt, ở California có ông bị thất nghiệp đã giết chết vợ con và tự tử theo.Tình yêu đã cũ, hâm đi hâm lại như nồi nước phở cũng chẳng làm ngon thêm tí nào.
– Còn hơn là không hâm sẽ bị…thiu, sẽ tệ hại hơn nữa.
Anh vừa nói vừa thở vì vẫn còn đau mỗi khi tôi mạnh tay:
– Anh có muốn thế này đâu. Thật dại khờ khi người ta lấy nhau bất kể tuổi tác. Mà tại sao ngày ấy em cứ xông vào đời anh, đòi lấy anh trước khi anh ngỏ lời cưới em?
– Đấy là lãng mạn một cách bốc đồng. Tại cuốn truyện “Tình Nghĩa Vợ Chồng” của Leon Tolstoi do Bảo Sơn dịch, cô Mai tuổi mới lớn đã yêu chú Sách , người đàn ông hơn cô rất nhiều tuổi và là bạn của cha cô, tình yêu nồng nàn thiết tha và chú Sách thì tử tế bao dung tuyệt vời làm ảnh hưởng đến em. Lại thêm bản nhạc nào đó của ông Y Vân với những câu “Năm anh 20 em mới sinh ra đời, năm anh 40 em mới vừa 20…” thật sống động và lãng mạn. Cả hai thứ cộng lại làm hồi đó em chỉ mơ lấy một anh chồng gìa, đến nỗi mấy thằng cùng trang lứa tán em, em coi chúng như hàng ranh con không hề đếm xỉa đến.
– Còn anh háo thắng một cách bốc đồng! Vì anh không mãi mãi là thằng đàn ông 40 sung sức để yêu em, để mỗi lần em giận dỗi anh làm huề bế xốc em lên và ôm gọn trong vòng tay mình, ngược lại bây giờ một cú vung tay vùng vằng của em cũng làm anh loạng quạng suýt ngã. Thà anh lấy một người vợ ngang vai phải lứa, cả hai cùng gìa, cùng nay ốm mai đau, cuộc sống thoải mái biết bao! Bà ấy cạo gío cho anh, anh cạo gío cho bà ấy, chẳng có gì để phàn nàn cả.
– Nhưng sao anh gìa nhanh thế? người ta 70 còn cưới vợ, mà anh thì mới 60 đã ốm yếu ho hen thế này?
– Thì sức khỏe mỗi người mỗi khác. Mẹ anh kể ngày còn bé anh đau ốm quặt quẹo, vừa chữa bệnh bằng Tây y lẫn Đông y vừa cúng bái chùa chiền tứ phương anh mới lớn nổi.
Tôi lên giọng kể lể:
– Tuy nhỏ tuổi hơn anh mà đôi lúc em như bà chị hai của anh, hay như một người mẹ chăm sóc đứa con thơ ấy.
– Phải nói rõ ra là như một bà chị hắc ám hay người mẹ…ghẻ em nhé, vì em hay gắt gỏng, mắng mỏ va hà hiếp anh lắm đấy.
– Vì anh lẩm cẩm qúa ai mà chịu nổi? Lúc nào cũng than đau mình nhức mẩy và đòi cạo gío. Thôi xong rồi, anh nằm nghỉ đi cho khỏe để em đi nấu cơm.
Tôi kê gối, đắp chăn cho anh nằm êm ấm xong thì có tiếng chuông cửa reo. Người ta đến giao phát một bình hoa tươi làm tôi ngỡ ngàng cứ tưởng có sự lầm lẫn gì chăng? Nhưng đúng địa chỉ nhà này và tên người nhận là… con gái tôi, chứ không phải tôi. Con gái đã 19 tuổi rồi, vậy mà dưới mắt tôi nó vẫn chỉ là một đứa trẻ con. Thì ra đã có anh chàng nào để ý đến nó rồi.
Tôi thận trọng mang bình hoa để lên bàn và ngắm nghía, bình hoa bằng thủy tinh trong suốt, thắt nơ bằng sợi dây màu hồng, trong cắm đầy hoa Hồng, điểm tô bằng những cánh hoa cúc trắng nhỏ lấm tấm với những cành lá dương xỉ xanh tươi.. Lòng tôi bỗng rộn ràng ấm áp, sống lại những phút giây xa xưa .
Chồng tôi cũng tò mò từ trong phòng bước ra:
– Hoa của ai đấy em?
Tôi ra khỏi giấc mơ:
– Còn ai vào đâu nữa, ngoài con gái mình? không lẽ ai đó tặng hoa cho em, một mụ đàn bà 40 có chồng lù lù bên cạnh?
– Nhưng sao mặt em bâng khuâng thế kia?
– Em chạnh lòng nhớ thuở mới yêu anh, nhưng phút giây ngắn ngủi ấy qua rồi. Thực tế, em đang bực mình đây, con gái mình không thể quan hệ tình cảm yêu đương làm ảnh hưởng đến việc học hành của nó trong lúc này.
Chồng tôi bênh con gái:
– Em chỉ hơn nó 1 tuổi mà ngày xưa đã yêu anh thế nào? Lãng mạn đến thế nào? Em đã nói rằng nếu không lấy được anh thì tất cả đàn ông trên cõi đời này đều vô duyên, đều là những tượng đá không linh hồn.
– Thì đã nói ngày ấy em bốc đồng mà, nên phải rút kinh nghiệm cho con mình.
– Trái lại, em kh ông b ốc đ ồng m à còn tỉnh táo và thông minh để chép những bài thơ tình rất hay trên báo tặng cho anh. Em đã từng bỏ học để đi chơi với anh. Còn con mình vẫn đi học nghiêm chỉnh và tử tế hơn em nhiều.
Tôi vùng vằng:
– Anh đánh gía tình yêu của em xuống cấp như thời buổi kinh tế khó khăn mọi thứ đều hạ gía hả?
Con gái chúng tôi về đến, chấm dứt sự cãi cọ thường ngày như cơm bữa của cha mẹ:
– Bình hoa này là quà tặng Valentine của con, một người bạn trai yêu con và con cũng yêu anh ấy. Chiều nay chúng con có hẹn .
Tôi lo xa:
– Chúng con yêu nhau thì được, nhưng chớ có đòi cưới nhau sớm nhé? phải lo học hành thành tài đã.
– Chuyện cưới nhau còn lâu mẹ ạ, phải tìm hiểu tính tình nhau nữa chứ. Ngày xưa bố mẹ có tìm hiểu nhau trước khi cưới không?
– Không! Chồng tôi đáp.
Tôi khẳng định thêm:
– Mẹ cũng không! Trăm lần không, ngàn lần không !
– Hèn gì bố mẹ xung khắc nhau, hay cãi cọ qúa, vậy mà bố mẹ nói lấy nhau vì tình yêu
– Đúng là vì tình yêu con ạ, một tình yêu chớp nhoáng như một tia sấm sét lóe lên ngắn ngủi trong một đêm mưa gío u mê.
Con tôi an ủi:
– Nhưng tình yêu nào chẳng phai nhạt theo thời gian, lâu hay mau mà thôi, có lẽ chúng ta phải biết chấp nhận điều đó. Chuyện tình Romeo và Juliet cũng thế, cả hai đều chết sớm, nếu lấy nhau thì chắc gì có thiên tình sử cho chúng ta đọc.
Con gái chúng tôi ở lứa tuổi đôi mươi là hình ảnh tôi ngày xưa, nhưng suy luận chín chắn hơn tôi
nhiều.
Tôi nói với chồng trước khi lăn vào bếp để nấu nướng:
– Anh nằm yên đừng kêu réo gì em để em yên trí làm món thịt bò steak nhé. Thay vì mình đi nhà hàng như người ta trong ngày lễ Tình Yêu thì ăn tại nhà vậy.
Chồng tôi kêu lên:
– Thôi, thôi, anh mệt lắm, sức đâu mà nuốt món bò steak của em, chắc sẽ dai dẳng như những lần em cãi nhau với anh và không chịu ngừng nghỉ.
– Anh đừng bi quan hóa vấn đề sẽ làm anh nhanh suy sụp và gìa thêm đấy. Em sẽ nấu theo sách vở, sẽ ngon lành…
– Hai mươi năm qua không lẽ em mới giỏi nấu nướng đột xuất?
– Cứ coi như thế đi, cũng phải cho em cơ hội chứ. Hai chúng mình sẽ ăn bữa chiều nay với món bò steak và uống chút rượu cho ấm lòng và ấm tình anh nhé.
Anh vẫn cương quyết chối từ:
– Thú thật anh chỉ thèm…một tô cháo trắng nóng hổi ăn với thịt chà bông, có lẽ sẽ nhẹ nhàng và khỏe người hơn, và cũng dễ nấu cho em hơn là món bò steak.
Tôi thất vọng thở dài:
– Muốn ăn với anh một bữa chiều ấm cúng cũng không được, con gái thì hẹn hò đi ăn ngoài, chỉ còn hai vợ chồng mà hai khung trời khác biệt, chẳng lẽ anh ngồi húp cháo mà em ăn steak thì vui với ai?
– Thì em cùng ăn cháo với anh cho vui, nhân thể diet luôn.
Tôi chán nản dẹp bỏ bịch thịt bò trở vào ngăn tủ lạnh Vừa lúc đó con gái tôi đã trang điểm xong đi ra ngoài, con tôi thật đẹp với đôi mắt long lanh, nụ cười rạng rỡ và mái tóc mượt mà đong đưa.
– Mẹ ơi, con đi đây …Chúc bố mẹ ở nhà bình thường, đừng cãi nhau nữa nhé..
Ngày lễ Tình yêu, mùa của những tình yêu đã cũ, đã phai nhạt, trong đó có vợ chồng tôi Nhưng vẫn là mùa tình yêu bắt đầu, mới tinh khôi cho bao nhiêu người khác, ở mọi lứa tuổi, đến với nhau bằng nhịp đập của con tim, trong đó có con gái tôi.
Tôi thẫn thờ nhìn con gái đi ra cửa, chợt tôi vội gọi lại, hoảng hốt lo âu:
– Con ơi, con sẽ đi hẹn với người yêu của con, mối tình đầu của con, phải không?
– Vâng, con đã vừa nói với mẹ rồi, chúng con sẽ hòan toàn trong sáng và nghiêm chỉnh.
– Mẹ biết điều ấy rồi, vấn đề mẹ chưa biết và muốn hỏi con bây giờ là người yêu của con bao nhiêu tuổi?? bao nhiêu tuổi? bao nhiêu tuổi??
– Sao mẹ hỏi dồn dập và kinh hòang thế? Anh ấy hơn con 3 tuổi .
Tôi thở phào nhẹ nhỏm:
– May qúa, mẹ chỉ sợ con cũng lãng mạn như mẹ ngày xưa mà yêu và lấy chồng gìa thì khổ vào thân,. Thôi con đi chơi vui vẻ nhé, còn mẹ đi nấu nồi cháo trắng và ăn với bố con cho hết buổi chiều nay.

Hương vị tình yêu
NTTD

Em đến với anh hương vị ngọt ngào,
Trong ly cà phê đen buổi sáng,
Em tinh khôi như những thìa đường trắng,
Để cà phê không làm đắng môi anh.

Em sẽ là những giọt mật ong,
Nũng nịu màu vàng trong óng ả,
Nếm em đi, vị ngọt ngào rất lạ,
Để quên đời có lắm lúc chua cay.

Em đến với anh hương vị nồng say,
Có thể làm anh quay cuồng chóng mặt,
Em sẽ là ly rượu đầy sóng sánh,
Uống em đi, cho hết cuộc vui này.

Em đến với anh như lòai cỏ cây,
Rất hồn nhiên chờ bàn tay ấp ủ,
Vườn nhà anh chiều nay em mới nở,
Đóa hoa tình thơm ngát mãi trong anh.

Em sẽ là rạt rào biển xanh,
Những ngọn sóng không bao giờ ngừng lại,
Sóng vỗ bờ anh, tình em vụng dại,
Nhưng tình em biển mặn chẳng nhạt phai.

Hương vị tình yêu dành chỉ anh thôi,
Quấn quýt bên anh từng giây từng phút,
Nếu một mai anh lìa đời nhắm mắt,
Tình theo anh về một cõi thiên thu.

Thái Bạch Vân
Trên đường thiên thu
Một chiều xe rong ruổi
Trời lất phất mưa mù
Êm đềm trong cửa ấm
Trên con đường thiên thu…

Cho ta quên phiền não
U buồn thoát ngục tù
Tình vương nào muôn kiếp
Hạnh phúc nào ta ru

Tim ai dường thổn thức
Bước chân về mộng du
Lời thì thầm dấu ái
Tình Thơ dài thiên thu

Đèn đương ngời tinh tú
Reo cười giữa màn đêm
Long lanh bóng hạnh phúc
Nguồn vui thật êm đềm

Trên con dường thiên thu
Tình thơ dài muôn thuở…

Bên nụ cươi buồn
Lệ buồn ơi hãy cứ rơi mau
Tuôn trào đi trút bớt mạch sầu
Trong sâu lắng, trôi về cổ mộ
Để đàn ai vuốt dịu cơn đau

Đêm giá lạnh, đèn hiu hắt bóng
Tiếng gió ru nhạc khúc tiêu dao
Bên nụ cười buồn, Anh ,muôn thuở
Lời thì thầm ấm áp gữi trao

Anh ở đây chờ em suốt kiếp
Cứ về như thuở mới quen nhau
Dù dòng đời lắm điều nghiệt ngã
Gió quay chiều xoáy lốc lên cao

Nín đi em, cơn sầu bão nổi
Cho tình em trân quý ngọt ngào
Và thời gian tròn xoay miên viễn
Hạnh phúc tràn cổ mộ xưa sau.

Dạ vấn vương
“Nhớ nhớ thương thương, thương nhớ thương” *
Thương thương nhớ nhớ ,nhớ thương thuơng
Bước đi… một bước nhìn non nước
Ngoảnh lại từng giây ngắm cố hương
Bến mới cho dù tươi sắc mới
Bờ xưa sao mãi tím can trường
Gió ơi hãy níu hồn ta lại
Ôm lấy sơn hà dạ vấn vương

(*) Ta Đếm Sao Trời – Thơ Uyên Hạnh

Tuấn Đình
Như vừa chiêm bao
Ðêm qua nỗi nhớ còn đầy
Sáng nay se lạnh trời mây chút buồn
Chớm thu cây cỏ mờ sương
Ðưa nhè nhẹ ngọn gió mơn tiễn hè

Bước chân đi, buổi thu về
Nghe nằng nặng mối tình quê mơ màng
Như lục bát ghép trọn vần
Thơ thôi dang dở mấy hàng về tim

Chùm ký ức, sợi tơ tình
Ngày xanh dạo nọ dịu hiền nhớ mong
Dáng em vóc ngọc má hồng
Cây si sầu đợi mỏi mòn sớm trưa

Nghe như trời đã sang mùa
Có con bướm trắng cợt đùa hoa xinh
Cúc vàng khoe sắc hữu tình
Hình bóng cũ, chợt lung linh theo về

Gió đưa gió thổi sau hè
Thôi sắc biếc lá trở về cội xưa
Hồ trường đã cạn hay chưa
Ta hồn chợt tỉnh như vừa chiêm bao

Gót chân tình cờ
Trời thu mờ ảo không gian
Khai trường sách vở đường làng mây bay
Hoa phượng đỏ nở trên cây
Nhớ thương vụng dại đong đầy tình thơ

Ngày xưa khốn khổ dại khờ
Bướm hoa len lén ngẩn ngơ phượng gầy
Ngoài cửa lớp gió heo may
Bài thơ tình ái còn hoài trong mơ

Thương em chỉ biết làm thơ
Gã khờ được mộng ước mơ bên người
Sân trường mấy lối hoa tươi
Dáng em hiền dịu nụ cười vấn vương

Suối tóc huyền, khói trầm hương
Bay lên từ ánh yêu thương ngút ngàn
Trầm tư mờ cả không gian
Cõi si trần tục mơ màng tình xuân

Xa rồi cái thuở cài trâm
Cố nhân đất khách gót chân tình cờ
Trời xanh mây trắng lững lờ
Tưởng rằng lắng đọng nào ngờ sóng xao

Viễn xứ mưa chiều
Cơn rét muộn, gió heo may
Rạt rào cành lá mưa bay giọt buồn
Ðêm nằm nỗi nhớ niềm thương
Quê hương tù ngục vấn vương dạ sầu

Xót chi kỷ niệm hồn đau
Quanh vườn rả rích dãi dầu cô liêu
Lối về quê mẹ hắt hiu
Nơi viển xứ chợt mưa chiều lệ tuôn

Có hay hoang lạnh cội nguồn
Bên trời núi Ngự mây vương đỉnh sầu
Dòng Hương lờ lững nước sâu
Hai nguồn Tả Hữu (1) dạt dào mùi hương

Xuôi về phố thị ruộng vườn
Thạch xương bồ (2) nhẹ vương vương hương thầm
Huế đô đại nội cõi trần
Một thời rạng rỡ trăm năm hoàng triều

Ruột đau quê mẹ chín chìu
Bên tai vẳng tiếng ru chiều giọng ngâm
Cho ta thương nhớ nào cầm
Trăng lồng bóng nước mênh mông Hương Bình

Trời quê non nước hữu tình
Người ơi! réo rắt Nam Bình mà chi
Giọng hò xứ Huế lâm ly
Cho lòng đòi đoạn từ quy thêm buồn

GHI CHÚ:
1. Tả Trạch và Hữu Trạch, hai đầu nguồn của sông Hương
2. Loại cỏ thơm mọc khắp vùng trên đầu nguồn phát xuất từ sâu thẳm Trường sơn

Uyên Sơn
Mái Trường xưa
(Ký sự)

Thành phố Mỹ Tho, một trong những tỉnh lỵ lâu đời của Nam Kỳ Lục Tỉnh, nổi tiếng với trường trung học Lycée Le Myre de Villers xây cất vào năm 1889, lâu đời đứng hàng thứ hai sau trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký tại Sài Gòn.Ấy vậy mà ngôi trường tiểu học chính thức và lớn nhất của tỉnh lỵ vào các thập niên 1940 và 1950, École d’Étude Primaire Provincial de My Tho ville, dù to lớn và rộng rãi với gần cả trăm lớp học, lại hoàn toàn được xây dựng bằng cây gỗ và lợp lá, nằm ngay đường ÔB Nguyễn Trung Long, kỷ niệm Ông Bà Quận Trưởng Châu Thành Mỹ Tho bị Việt cộng pháo kích chết vào năm 1960, cạnh cầu Bắc qua Rạch Miễu nên trường được gọi ngắn gọn là trường Tiểu Học Cầu Bắc.
Theo Ba tôi kể lại, ngôi trường được xây dựng bởi ông Hiệu Trưởng người Pháp tên là Toussin, chính ông là người đã phác họa và chọn vật liệu cây lá cho ngôi trường của mình, một ngôi trường độc đáo của Nam Kỳ Lục Tỉnh, dù ngân sách tỉnh thừa tiền để xây gạch ngói. Dù là cây lá nhưng được xây dựng theo lối tân kỳ vững chắc với cột, khung bằng cây dầu vuông, kể cả cửa sổ cửa cái của mỗi lớp, nên trông có vẻ kiểu cách riêng biệt, dù thoáng mát nhưng vẫn giữ được dáng vẻ uy nghi.
Không biết trường chắc chắn có bao nhiêu lớp học, chỉ biết trường có đủ các lớp, bắt đầu từ lớp Đồng Ấu (Cour Enfantaire) cho đến lớp Tiếp Liên (Cour Certifier). Có cả một dãy nhà dành cho “căng tin” để cho các học sinh ở xa ăn cơm trưa khi học sinh còn học ngày hai buổi.
Riêng văn phòng trường và phòng việc ông Hiệu Trưởng cũng cất bằng cây lá nhưng cao lớn đồ sộ hơn, rộng bằng hai lần lớp học bình thường, nền được lót gạch tàu đỏ hồng.
Trường được xây dựng gồm các dãy nhà tọa lạc thành một khuôn viên hình chữ nhật. Từ cổng trường nhìn thẳng vào là văn phòng Hiệu Trưởng nằm chính giữa một dãy dài của các lớp học, phía sau là một dãy khác nằm song song sát bờ giếng nước ngọt của tỉnh.
Bên trái và bên phải nằm thẳng góc với hai dãy này là hai dãy lớp học ngắn hơn. Khu bên trái được dùng làm phạn xá “căng tin” và nhà bếp một dãy và dãy còn lại là các lớp Nhất và Tiếp Liên, khu bên phải nguyên hai dãy dành cho nữ sinh. Ngoài ra cặp sát hàng rào cổng chính đường Trần Quốc Tuấn, còn có hai dãy lớp học nằm ngang che khuất sân trường bên trong.
Chính giữa sân trường bằng đất sét láng bóng là cột cờ bằng ciment cao vút, phần sân bên trái và bên phải là hai cây me tây thân lớn bằng cả người ôm, phủ tàn cây bóng mát hai khu vực rộng lớn (me tây còn gọi là cây còng, có hoa màu tím nhạt nở ra như những sợi tơ màu lóng lánh, trái hơi giống trái me chua nhưng nhỏ và dài hơn, màu đen, khi chín bên trong có nhựa ngọt gắt như đường thắng kẹo lại).
Đặc biệt có ba lớp học sát phía tay phải của văn phòng Hiệu Trưởng được phá bỏ vách ăn thông ba lớp liền nhau, vách lá chung quanh được phủ vải đen. Ba lớp học này được dùng như một hội trường cho các giáo viên, hoặc sẽ được dùng như một rạp chiếu ciné cho học sinh mua vé vô cửa, hồi đó thường chiếu phim Tarzan hoặc Zoro, học trò tụi tôi mê chết bỏ.
Mùa tựu trường năm 1948, sau khi học hết nguyên một năm trường Mẫu Giáo của cô Bảy Kỳ có tên Việt là Ấu Xuân Học Đường và tên Tây là “École Maternel de Printemps” ở đường D’Arries, sau này là đường Lê Lợi gần chợ Mỹ Tho, tôi được Má tôi gửi tôi cho thầy Viễn – Lúc này Ba tôi đi kháng chiến chưa về – chở tôi bằng chiếc xe đạp “Alcyon” của thầy lên trường Tiểu Học Cầu Bắc giao cho thầy Huỳnh Văn Lai để trở thành học sinh lớp Đồng Ấu.
Ngồi lớp Đồng Ấu này thật sự tôi chẳng học được gì, vì sau nguyên một năm học trường cô Bảy Kỳ, dưới cọng roi mây của cô từ lớp “dưới”, học đánh vần a, b, c, đếm số “un – một”, “deux – hai”, tôi đã lên lớp “trên”, biết đọc chữ Việt-Pháp, viết “Dictée”, làm toán cho nên ngồi cùng với đám bạn học lớp Đồng Ấu mới bắt đầu học a, á, â… tôi ngủ gật hoài.
Chưa được tròn một tháng thì một hôm có một cô giáo vào lớp gọi tên tôi và dẫn lên lớp Dự Bị của cô (Cour Préparatoir), tên cô là cô Hưởng, từ đó tôi trở thành học trò của cô cho đến hết năm học.
Năm kế lên lớp Sơ Đẳng hay lớp Ba (Cour Élémentaire) của thầy Tân. Thầy Tân da ngâm ngâm đen, hiền, ít đánh học trò nên học thoải mái, lúc đó anh tôi đang ngồi lớp Nhất của thầy Truyền, cuối năm đó tôi được lãnh phần thưởng. Ở đây, phải nói đến thành phần học trò của trường Tiểu Học Cầu Bắc này, phân nửa là học sinh cư ngụ tại tỉnh lỵ, phân nửa còn lại là học sinh cư ngụ tại ngoại ô hoặc ở dưới các quận như Chợ Gạo, Tân Hiệp hoặc bên Tân Thạch, An Hóa thuộc tỉnh Bến Tre.
Học sinh cư ngụ tại tỉnh lỵ, lúc còn học ngày hai buổi, sáng đi học trưa về nhà ăn cơm ngủ trưa, hai giờ trở lại trường học tiếp đến chiều. Số học sinh ở ngoại ô, nếu có đơn xin và đóng tiền sẽ được ở lại trường ăn cơm “căng tin”, nghỉ trưa tại trường để học tiếp buổi chiều.
Ngoài ra có một số học sinh con của đám lính trong thành lính tập – Garde Auxiliaire – đối diện phía bên trái của trường. Chung quanh thành lính này có hàng rào cao trồng dọc theo các cây bả đậu. Loại cây này có trái tròn có gai chung quanh, học trò kể cả thầy giáo đi bộ ngang qua bị tụi con lính đứng bên trong hàng rào lấy trái bả đậu chọi ra, nhiều người bị đổ máu đầu hoài.
Đám học sinh con lính này, một số lai Miên, quậy phá không ngán sợ ai hết mà học lại dở, hễ bị thầy cô đánh đòn thì về mét ba nó, hôm sau mặc đồ lính vô trường hăm he, riết rồi thầy cô mặc kệ không dám động tới bọn chúng.
Cuối năm đó, sau khi lãnh thưởng, tôi ôm phần thưởng tức tốc chạy như bay lên lớp Nhất của anh tôi để gởi, nếu không sẽ bị tụi con lính giựt mất. Và năm đó tôi đậu bằng Sơ Đẳng Tiểu Học với Mention Francais, để rồi tựu trường tôi lên lớp Nhì (Cour Moyen).Ở lớp Nhì này, đầu tiên tôi học thầy Lai cao lêu nghêu chuyên môn mặc nguyên bộ đồ tây trắng, thường dùng ngón cái và ngón trỏ bấm vào trái tai (chỗ đàn bà con gái đeo bông tai) mấy đứa không thuộc bài. Vừa bấm móng tay cái vừa rề rà khuyên nhủ chầm chậm:
– Bữa nay sao hỏng thuộc bài vậy con! Ba má con cho con vô đây học hay vô đây chơi vậy con?
– Dạ vô đây học!
– Học mà sao không thuộc bài vậy con?
– Dạ con quên!
– Lần sau đừng quên nữa nghe con!
– Dạ con hỏng dám quên nữa!
Dần lân một hồi buông hai ngón tay ra khỏi lỗ tai thì trái tai thằng học trò đã bầm tím sưng lên bằng trái chanh.

—o0o—

Thời gian này Pháp và Việt Minh đều mở những mặt trận đánh lớn khắp nơi, báo chí hằng ngày ba tôi mua về đều đăng những tin tức nóng sốt về chiến trận. Ngoài Bắc, quân Pháp rầm rộ mở các chiến dịch Navarre, Hòa Bình để cố gắng bình định vùng châu thổ sông Hồng Hà; trong Nam, liên quân Việt Pháp tấn công vào vùng Đồng Tháp Mười.
Nguyên nhà gia đình tôi lúc đó ở bên kia cầu Quây gần bót số 2 (sau này là rạp hát Viễn Trường). Một đêm nọ Việt Minh núp trong xóm nhà khu tôi bắn súng phóng lựu và súng trường “cắc bùm-cắc bùm” vào trong bót, lính trong bót bắn trả ra xối xả, kể cả đạn “tromblon” làm mấy căn nhà lá phía sau nhà ba má tôi suýt cháy nếu lối xóm không liều mạng chạy ra dưới lằn đạn để tưới nước dập tắt ngọn lửa.
Sáng sớm thức dậy, lính Marocain, Sénégalais trong bót túa ra lục soát các xóm nhà chung quanh bót từ chợ Cũ lên tới cầu Quây, nhà nào cũng bị đập phá đồ đạc bên trong tan nát.
Riêng nhà ba má tôi dù có mặt đủ mọi người trong nhà chúng cũng vào lục lạo đập bể nát đĩa hát, máy hát Pathé Pono hiệu Con chó thổi kèn, chén bát ly tách, lấy lưỡi lê rạch nát bộ da cọp treo trên tường. Cũng may lúc đó có một ông Trung úy Tây dẫn toán lính khác đi ngang qua, ba tôi chạy ra nhờ ông can thiệp nên toán lính Lê dương này mới ngừng tay.
Ngay ngày hôm đó, ba tôi dẫn toàn bộ gia đình qua tá túc tại phòng ngủ Định Tường đối diện nhà ga xe lửa Mỹ Tho, đồng thời cho dân thợ tức tốc dựng một căn nhà trên lô đất đã mua từ lâu tại đường Delfosse (sau này là đường Lý Thường Kiệt), độ hai tuần sau thì cả gia đình tôi dọn tới căn nhà mới này, còn căn nhà bên cầu Quây gần bót số 2 thì Bà Ngoại và Cậu Mợ tôi tiếp tục ở.
Để hỗ trợ ngoài mặt trận, lúc này Việt Minh gia tăng khủng bố phá hoại trong thành phố. Từ bên kia cầu Quây chạy dài xuống chợ Cũ coi như là vùng bất an ninh, lính Tây trong thành bót số 2 đêm đêm rút vào bót, ngoại trừ các toán “Patrouille” đi tuần tiễu bên ngoài.

Chợ Mỹ Tho hai lần bị quăng lựu đạn, kẻ chết người bị thương đổ ruột nằm la liệt, riêng lần thảy lựu đạn tại khu chợ cá, Má tôi suýt chết, sau lần đó, Ba Má tôi không cho anh em chúng tôi léo hánh đến bất kỳ chỗ nào đông đúc như chợ búa, rạp hát.

Một lần khác, Việt Minh đặt chất nổ bên trong rạp hát Trung Quốc, tức rạp hát Thầy Năm Tú khi trước, sau này mang tên mới là rạp Vĩnh Lợi. Vì là xuất hát buổi chiều – ban đêm giới nghiêm – do đoàn Hoa Sen trình diễn vở tuồng “Đêm Lạnh Trong Tù”, nên có mời một số người tai mắt trong tỉnh. Riêng đoàn ca kịch Hoa Sen có lẽ là đoàn hát cải lương duy nhất tại Việt Nam phối hợp sự ca diễn trên sân khấu với kỹ thuật điện ảnh để chiếu ngoại cảnh nên được khán giả rất ngưỡng mộ. Lần đặt chất nổ này làm hàng trăm người chết và bị thương, trong số đó có gia đình Luật sư Nguyễn Văn Huyền – Sau này là chủ tịch Thượng viện Việt Nam Cộng Hòa – nhà bên dãy phố nóc bằng.
Sau vụ đặt chất nổ tàn bạo khủng khiếp này, dân chúng trong tỉnh lỵ căm thù những người Việt Minh, kể cả những người từng có thời tham gia kháng chiến như Ba tôi và các bạn của ông.
Riêng trong đầu bọn trẻ chúng tôi cứ hình dung Việt Minh như những bóng ma bóng quỷ chập chờn, lúc nào cũng rình rập đe dọa mạng sống của mọi người, nhất là sau những lần ám sát các sĩ quan Tây hoặc các nhân viên công an cảnh sát, thành phố Mỹ Tho vắng tanh kể cả ban ngày không còn giờ giới nghiêm.
Căn nhà mới của gia đình chúng tôi ở đường Delfosse gần phòng mạch của các ông bác sĩ Tây, đầu tiên là ông Bourlais, sau khi ông này bị bệnh mất, ông Bertrand Capmas từ Sài Gòn về thay thế.
Đối diện khu nhà tôi bên kia đường, là một biệt thự to lớn có hàng rào song sắt chung quanh của dược sĩ Trần Văn Khánh, bị quân đội Pháp trưng dụng và làm nơi đặt Bộ Chỉ huy Tiểu khu Mỹ Tho (Secteur du Mytho), phía sau biệt thự này là mấy dãy nhà ngang bằng tôn, hậu cứ của một Tiểu Đoàn Khinh Quân Việt Nam.
Cứ mỗi Chủ nhật đầu tháng là có lễ chào cờ Việt Pháp và gắn huy chương trọng thể cho các quân nhân Việt Pháp. Những lúc đó, lũ trẻ chúng tôi đeo cứng hàng rào song sắt nhìn vào cảnh cờ xí rợp trời, lính tráng súng ống rầm rập đi bên trong mà mê mệt.
Nhưng cũng có khi chứng kiến cảnh lính tráng đi hành quân về, vợ con túa ra kẻ mừng rỡ người còn sống, kẻ bị chồng con chết thì kêu la khóc lóc thảm thiết, dù tuổi còn nhỏ nhưng lũ nhóc chúng tôi cũng xúc động trước những cảnh bi thương đó lắm.
Dù cảm nhận được không khí chiến tranh và bất ổn của cuộc sống, lũ trẻ chúng tôi vẫn dễ dàng trở lại trạng thái vô tư hồn nhiên.
Tôi vẫn thường trốn ngủ trưa cùng với một thằng bạn học cùng lớp tên là Khánh, ba nó là Thượng sĩ chỉ huy hậu cứ của Tiểu đoàn Khinh Quân Việt Nam trong thành lính ở bên kia đường. Thằng bạn này mấy năm sau đậu vô trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và trở thành họa sĩ Phan Khánh, tôi với nó cùng đi bắn chim bằng ná thung trên những cây đa rễ chằng chịt, có trái nhỏ chín đỏ giống như trái trứng cá, vì rất ngọt nên chim thích ăn. Thằng Khánh bắn rất giỏi, sau mỗi buổi trưa đi bắn hai đứa xách về cả chục con chim sẻ.
Vì năm học lớp Nhì không có thi cử gì nên Ba Má tôi không kiểm soát gắt gao cho lắm, anh tôi thì vô Trung học rồi, đứa em trai kế thì mới học lớp Dự Bị, một mình tôi ở giữa mặc sức tung hoành. Ngoài việc mỗi chiều ra công viên “Cầu Tàu Ông Chánh” trước dinh Tỉnh trưởng tắm sông, Chủ nhật cuối tuần còn cùng với mấy người bạn của anh tôi tổ chức lội băng sông qua Cồn Rồng nhét tiền vô ống thuốc Aspirin bỏ vô quần sì líp, qua cồn mua mía, mua trái cây ăn đã đời, chiều lội về. Có lần bị vọp bẻ vì bị nước chảy ngược suýt chết, nếu không có anh tôi lội cặp theo kéo vô bờ.
Còn một chuyện phá phách nữa là đêm Giáng Sinh chở thằng bạn học tên Paul, cùng mấy cặp khác nữa dùng ná thung đi bắn lồng đèn. Nhà bị bắn lồng đèn tan nát là nhà của thầy Phùng Nhơn, ông vừa làm văn phòng vừa lo tập thể dục cho toàn trường Tiểu Học Cầu Bắc cùng với thầy Mân. Thỉnh thoảng ông cũng đi dạy thế các lớp có các cô thầy bị bịnh nghỉ. Tôi “thù”ø ông vì một lần cả trường Tiểu Học tụi tôi tập trung trước khán đài đại lộ Bourdais để đón thủ tướng Nguyễn Văn Tâm. Xếp hàng từ sáng sớm đến gần mười một giờ trưa giữa trời nắng chang chang, tôi với một thằng bạn lén tẻ hàng ra mua nước uống, bị thầy Nhơn bắt được túm cổ áo bạt tai mấy cái nháng lửa cho nên cái lồng đèn hình ngôi sao chổi lớn bằng chiếc xe hơi đặt trên “balcon” lầu nhà thầy Nhơn đẹp rực rỡ với hàng trăm bóng đèn màu chớp tắt là mục tiêu chọn lựa số một của tụi tôi.
Mấy chiếc xe đạp chạy tà tà ngang nhà thầy Nhơn trong khu chợ Mỹ Tho lúc chạng vạng tối, mấy đứa ngồi sau cứ đưa giàn ná thung lên nhắm sao chổi bắn nhẹ vài phát “bụp, bụp, bụp” rách vài lỗ! Cứ qua lại bốn năm lần cái lồng đèn sao chổi của thầy Nhơn rách tơi tả. Vì những viên đạn làm bằng giấy nhựt báo quấn bên trong là cát to bằng ngón chân cái. Khi viên đạn chạm ngôi sao vừa xuyên thủng giấy màu thì giấy báo quấn viên đạn cũng bể, chỉ có cát văng tung tóe nên không gây nên tiếng động. Sáng hôm sau đạp xe đi quan sát chiến trường, thấy cái sao chổi của thầy Nhơn lủng lỗ rách te tua phất phơ trước gió,
đứa nào đứa nấy khoái chí quá chừng!

—o0o—

Thầy Lai dạy được vài tháng thì đổi lên dạy lớp Nhất, lớp được thầy Hợi thay thế. Thầy Hợi dáng dấp lớn con, ăn nói rổn rảng, học trò tụi tôi ớn lắm nên đứa nào đứa nấy chăm chỉ học sợ bị đòn.
Năm sau tôi lên lớp Nhất (Cour Supérieur) với thầy Nguyễn Văn Quạ, thầy Quạ là bạn thân với ba tôi hồi mấy năm vô bưng theo kháng chiến. Tướng người thấp, mặt ông lúc nào cũng tỏ vẻ tiếu lâm, chuyên môn mặc áo bành tô bốn túi ngắn tay bỏ ngoài. Ông có hai người con trai, người lớn tên Nguyễn Tự Do học chung lớp với anh tôi đã vô trường Nguyễn Đình Chiểu, đứa em tên Nguyễn Tự Hùng học chung lớp Nhất với tôi, Hùng trắng trẻo, ngoan ngoãn, hiền lành.
Là bạn với Ba tôi, nên thầy Quạ thường đùa với cả lớp:
– Tụi bay không được xài chữ học trò nữa nghe, phải gọi là hượt trò, không thằng Sơn nó kiện tụi bay đó! (vì Ba tôi tên là Học). Lúc đó lớp Nhất của tôi nằm đầu dãy sát hàng rào đường Trần Quốc Tuấn, nên giờ ra chơi muốn đi mua đồ ăn khỏi cần ra cổng chánh, chỉ cần vạch hàng rào kẽm gai là tha hồ mua đồ ăn được bày bán la liệt như cái chợ chồm hổm bên ngoài.
Thầy Quạ của lớp tôi có nhiều cái đặc biệt lắm, thứ nhất là ông hút thuốc vấn gọi là thuốc rê ông Tề, vấn điếu nào điếu nấy bự bằng ngón tay cái như điếu xì gà, bập bập hút chừng hơn nửa điếu thì điếu thuốc tắt ngấm nhựa ra thấm vàng khè điếu thuốc, thay vì quăng bỏ, ông dán mí điếu thuốc còn lại đó vào cây cột vuông phía sau ghế ngồi của ông như các con ve sầu trên các cành cây, lâu lâu ông bắt học trò tụi tôi gỡ những điếu thuốc cháy dở đó xuống xé bỏ giấy vấn bên ngoài, lấy phần thuốc rê nặng mùi khét lẹt bên trong bỏ vào hộp cho ông.
Cái đặc biệt thứ hai của thầy Quạ là ông ăn sáng rất trễ và ăn tại lớp học, thường thì khoảng chín giờ trong lúc học trò tụi tôi làm toán hoặc bài tập, thì ông ngoắc thằng đệ tử ruột – là tôi – lên bàn ông rồi nói gọn tên món ăn mà ông muốn ăn ngày hôm đó để tôi chui rào ra ngoài mua cho ông. Khi thì cháo lòng, khi thì xôi bắp, cũng có khi ông đổi món như cơm tấm hay cháo đậu. Nhưng món mà ông thích nhất là chuối nướng chan nước cốt dừa.
Sau khi nhận được lệnh, tôi ra khỏi lớp vòng ra phía hàng rào dở giây kẽm gai móc lên sợi nằm trên rồi nghiêng mình lách nhẹ ra ngoài. Mấy người bán hàng quen mặt tôi quá rồi, đi ngang qua mỗi gánh bán hàng ai cũng hỏi:
– Bữa nay thầy ăn gì vậy con?
Vui vui tôi còn trả lời, buồn tôi đi thẳng đến gánh hàng thầy dặn mua. Mua xong đem vô thầy tôi ngồi ăn tại bàn, học trò tụi tôi ngồi dưới nhìn lên thằng nào cũng thèm chảy nước miếng, nhất là mấy món bốc hơi thơm ngát như cháo lòng hay hủ tiếu.
Tất cả các đồ ăn đó thầy tôi đều mua… ghi sổ, cuối tháng tính tiền, mấy bà bán hàng không biết vì khoái ông thầy Quạ của tôi hay vì cuối tháng được trả tiền hậu hĩ sòng phẳng, mà đua nhau mời mọc bán đồ ăn cho thầy tôi.
Ông ít khi đánh học trò, đứa nào không thuộc bài bị ông mắng:
– Nhỏ mà không chịu học, lớn lên đi làm “Service de Sethung” nghen con!
Lần đầu tiên nghe chữ Tây đó, học trò tụi tôi không biết là cái nghề gì vậy, sau đó được ông cười giải thích:
– Service de Sethung là Sở thùng đó, tụi bay không biết hả?
Đầu năm học của lớp Nhất, Hiệu trưởng trường Cầu Bắc là thầy Diều gọi là ông Đốc Diều, Ba tôi thường true chọc anh em tụi tôi:
– Trường Cầu Bắc của tụi bay ngộ quá, Hiệu trưởng thì tên Diều, còn thầy giáo thì tên Quạ, chỉ thiếu có ai tên kên kên nữa thì đủ bộ.
Dạy được nửa năm thì thầy Đạt dạy lớp Tiếp Liên được lên làm Hiệu Trưởng, còn thầy Diều lên chức Thanh Tra Tiểu Học. Trường lá Cầu Bắc đến thời kỳ này thì có nhiều thay đổi. Cổng trường đựợc xây lại bằng gạch, với tấm bảng hoàn toàn bằng tiếng Việt “Trường Tiểu Học Châu Thành Mỹ Tho”, không còn tiếng Tây nữa. Học sinh phải mang phù hiệu ở ngực hoặc túi áo, phía trên có hình Quốc kỳ Quốc gia Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, phần dưới đóng dấu mộc tròn của trường.
Riêng mỗi lớp phải có một lá cờ hình chữ nhật màu xanh lá cây đậm với chữ màu vàng đề tên lớp học phía trên, khẩu hiệu lớp học phía dưới. Cờ được cắm xéo trước mỗi lớp đồng góc độ với nhau. Lớp tôi, không biết vì ảnh hưởng của phong trào kháng chiến hay Thanh Niên Tiền Phong gì đó, mà thầy Quạ của tụi tôi đặt tên lớp là Cần Lao, với khẩu hiệu là Cố Gắng, trong khi các lớp khác đa số đều lấy tên của các danh nhân lịch sử. Mỗi lần thầy cô hay khách bước vào lớp, học sinh trưởng lớp hô lớn tên lớp, học sinh cả lớp đồng loạt đứng dậy hô to khẩu hiệu.
Một hôm tôi đi rỉ tai cả lớp – trừ anh trưởng lớp, vì chắc chắn anh sẽ không chịu nghe lời mà có thể còn đi méc thầy nữa – tôi bảo:
– Ê tụi bây, bữa nay sau khi hết giờ chơi thầy trở vô lớp, khi anh trưởng lớp hô to “Cần Lao”, lúc đứng dậy tụi bây la to “chuối nướng” nghe!
Mấy thằng bạn khoái chí quá, thằng nào cũng gật đầu hưởng ứng.
Trống đánh “thùng thùng” chấm dứt giờ ra chơi, cả lớp vô học lại. Thầy Quạ của tụi tôi từ từ bước vô lớp. Y chang như dự tính, khi trưởng lớp hô to:
– Cần Lao!
Tụi tôi đồng thanh đứng dậy la lớn hơn mọi khi:
– Chuối nướng!
Thầy Quạ khựng lại muốn bật ngửa, rồi cố nhịn cười:
– Tiên tổ cha tụi bây! thằng nào bày đặt vậy?
Cả lớp tụi tôi cùng nín khe không đứa nào dám cười. Rồi ông từ từ đi lại bàn viết với lấy cái thước bảng dài cả thước tây nhịp nhịp xuống bàn:
– Bữa nay tụi bây lộng hành quá rồi! Cả lớp quỳ gối lên bàn cho tao! Dám đổi khẩu hiệu cố gắng thành chuối nướng hén!
Tuân lệnh thầy, cả lớp tụi tôi gom bài vở tập sách trên bàn đút vô ngăn dưới để dọn chỗ… quỳ gối. Khổ nỗi, mặt bàn học trò nghiêng xéo xuống chớ không phẳng ngang như băng ngồi. Quỳ gối trên băng ngồi dễ ẹt vì phẳng và bắp đùi tựa vô cạnh bàn, chưa kể còn lén để vài cuốn tập dưới đầu gối nên quỳ êm re. Còn quỳ trên mặt bàn nghiêng không có chỗ tựa mà còn phải khoanh tay nên tụi tôi đứa nào đứa nấy té lên té xuống lụp cụp.
Đã vậy thầy Quạ tụi tôi còn đứng trên bục chúm chím cười cầm thước nhịp nhịp:
– Quỳ thẳng lên! Cho tụi bây bày đặt chuối nướng nghen!
Có lẽ tối đó thằng Nguyễn Tự Hùng về nhà khai ra hết, nên sáng hôm sau vô lớp, thầy kêu tôi lên bảng:
– Hôm qua mày bày đầu phải không?
Tôi gãi đầu:
– Thưa thầy con nói giỡn chơi, ai dè tụi nó làm thiệt.
– Tao méc thằng Học quánh thấy cha mầy nghen con!
Khoảng hơn chín giờ, thầy ngoắc tôi lên biểu đi mua đồ ăn, bữa nay thầy đổi món cháo lòng!

—o0o—

Cuối năm đó tôi thi đậu bằng Tiểu Học, tháng sau thì thi tiếp vào trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu. Thường thì học trò lớp Nhất ít có đứa nào đậu thẳng vào lớp Đệ Thất lắm, tôi cũng vậy, dù bài vở làm cũng khá nhưng vì thi “concourt” xếp hạng nên khó lọt vô được. Rớt Đệ Thất, mà còn tới gần hai tháng nữa mới có cuộc thi tuyển vào lớp Tiếp Liên nên Ba tôi cho vào học lớp Đệ Thất trường Trung Học Tư Thục Vĩnh Tường do thầy Nguyễn Văn Tiếu làm Hiệu Trưởng, còn gọi là ông Bảy Tiếu. Trường Vĩnh Tường năm trước nằm trong khuôn viên chùa Phật Ân ở đường Ngô Quyền, năm nay được dời ra phía sau một villa rộng lớn nằm gần cuối đường Hùng Vương. Học phí cho mỗi tháng lớp Đệ Thất là 120 đồng. Tôi còn nhớ học trò lớp Đệ Thất trường Vĩnh Tường thường có hai câu vè nhái theo bài thơ khóc ông Phủ Vĩnh Tường:
– Thôi thôi ông Bảy Vĩnh Tường ôi,
Cái nợ trăm hai đã trả rồi!

Hai tháng sau trường Tiểu Học Cầu Bắc mở cuộc thi tuyển vào các lớp Tiếp Liên, tôi nạp đơn và thi đậu. Lớp Tiếp Liên của tôi do cô Lý Ảnh dạy, chị cô là cô Lý Hoa cũng dạy lớp Tiếp Liên kế bên, giữa năm cô Lý Hoa thi đậu vào nhóm I Quốc Gia Hành Chánh, nghe nói sau này cô Lý Hoa làm Đổng Lý Văn Phòng của một Bộ nào đó.
Cả hai chị em cô Lý Hoa và cô Lý Ảnh lúc đó còn độc thân, mà học trò thì đứa nào đứa nấy lớn sộn. Một hôm, anh học trò trưởng lớp tôi đứng dậy:
– Thưa cô ngày mai cho em nghỉ luôn ở nhà!
– Em nghỉ chi vậy?
– Thưa cô, ngày mai em… cưới vợ!
Cô Lý Ảnh mắc cở mặt đỏ rần.
Cô Lý Ảnh của tụi tôi hiền, chăm chỉ dạy tụi tôi, nhưng thỉnh thoảng cũng bắt vài đứa xòe tay cho cô khẻ đau điếng vì tội không thuộc bài hay phá phách.
Riêng tôi, được Ba tôi – hay bị – ra hai điều kiện:
– Nếu tôi đậu vào Đệ Thất Nguyễn Đình Chiểu năm nay, tôi sẽ được thưởng một chiếc xe đạp nhôm mới tinh.
– Ngược lại, nếu tôi rớt, sẽ bị gởi vô trường Thiếu Sinh Quân (lúc đó trường Thiếu Sinh Quân Quân Đội Quốc Gia Việt Nam nằm tại mấy dãy nhà lầu xưa đối diện trường Nguyễn Đình Chiểu trên đường Boulevard Bourdais, sau này là Hùng Vương; mấy năm sau khi trường Thiếu Sinh Quân dời đi Vũng Tàu, khu này trở thành trường Tiểu Học Trương Công Định).
Thật ra, cả hai điều kiện đó tôi đều… khoái cả. Dĩ nhiên thi đậu vào trường Nguyễn Đình Chiểu thì khỏe rồi, nhưng nếu thi rớt, tôi cũng đâu có ngán… trường Thiếu Sinh Quân, vì cứ mỗi Chúa Nhựt, nhìn đám học sinh Thiếu Sinh Quân mặc đồ đồng phục sọt trắng, mang vớ ống đi giầy da cùng với bê rê đỏ đi dạo phố Mỹ Tho trông cũng… “ngầu” lắm.
Nhưng tội nghiệp Má tôi, cứ cằn nhằn Ba tôi:
– Ông làm gì dữ vậy! Để con nó từ từ học chớ hăm he hoài làm sao thằng nhỏ học được! Cũng may, cuối năm đó tôi đậu vào trường Nguyễn Đình Chiểu, mà lại đâu cao suýt được học bổng, và dĩ nhiên là tôi nhận được phần thưởng chiếc xe nhôm bóng loáng hiệu “Mercier” mới cắt chỉ ráp tại tiệm xe đạp Lê Hương của bác Sáu Bê dưới dốc cầu Quây kế bên nhà thuốc tây Trần Văn Khánh.
Tôi chính thức từ giã ngôi trường Lá Cầu Bắc thân yêu sau năm năm “dồi mài kinh sử” để trở thành học sinh trường “Cô Le” Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho. Từ giã những buổi tiệc tất niên đãi thầy đãi cô bằng bánh kẹo với nước xá xị con cọp BGI, con nai Phương Toàn, với lớp học được trang trí bằng lá cây dừa lá cây đủnh đỉnh kết hoa kết tụi như ngày đám cưới. Từ giã những ngày mưa gió, guốc dép xỏ sâu máng cần cổ đi chân không, mấy ngón chân bấm mạnh xuống sân trường bằng đất sét trơn láng như có thoa mỡ bò, chỉ sợ té xuống “bắt ếch” để đám học sinh con gái cười rần thì có nước độn thổ. Từ giã những lần đeo theo đầu xe lửa đang lăn bánh chầm chậm trên đường rầy cạnh trường, khi xe lửa chạy lên tận Đồng Xanh rồi trở đầu lùi về nhà ga Mỹ Tho, mỗi lần như vậy về nhà bị đòn mà vẫn khoái, lén lén đi hoài. Hơn nửa thế kỷ trôi qua với biết bao vật đổi sao dời, riêng ngôi trường Lá Cầu Bắc vẫn còn in đậm nét trong ký ức đã bắt đầu nhòe nhoẹt của tôi.
(Trích tuyển tập Cái Chết Của Một Dòng Sông – Xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2009)

Song An Châu
Khung trời kỷ niệm
Em có nhớ, khung trời kỷ niệm
Của chúng mình lúc mới yêu nhau
Bên hiên trường mưa gió dạt dào
Mình trú chân sau giờ tan học.

Mưa không dứt từng cơn gió lốc
Đứng bên em anh thấy ấm lòng
Dù bên ngoài gió bảo mưa dông
Anh vẫn thấy trong lòng ấm áp.

Ngày hôm đó tiết trời tháng chạp
Anh chỉ quàng chiếc áo mong manh
Tay trong tay anh không thấy lạnh
Truyền cho nhau hơi ấm từ lòng.

Lâu lắm rồi em có nhớ không ?
Kỷ niệm xưa khi mới yêu nhau
Giờ nhớ lại tưởng như hôm nào
Đôi tay nắm vẫn còn hơi ấm.

Nay xa cách biển trời xa thẳm
Nơi xứ người anh vẫn nhớ em
Và nhớ mãi kỷ niệm êm đềm
Dù thời gian nhuộm màu tóc bạc.

Em như
ngọn gió vô tình
Heo may
gió thoảng thu sang
ai đem màu nhuộm
lá vàng đầu thu.
Để tôi
buồn cả đêm thâu
gói tròn trong mộng
tình đầu người ơi!
Bao năm
phiêu bạc phương trời
nhưng hình bóng cũ
chưa vơi trong lòng.

Xuân qua
rồi lại Đông sang
thu tàn lá rụng
vẫn mang bóng hình.
Ngày xưa
em nói… chung tình
sao nay như gió vô tình bay xa…

Cát bụi tình xa
Giờ đây em xa rồi
Nghe sầu lên chơi vơi
Ngõ hồn sao hoang vắng
Bơ vơ bên góc đời.

Nay em xa anh rồi
Anh buồn như biển khơi
Hoàng hôn chiều dần xuống
Đời anh như mây trôi.

Em tiếc chi những lời
Hay chỉ đôi lời thôi
Chia tay em không nói
Em buồn chi em ơi ?

Nay đã xa nhau rồi
Anh gởi em đôi lời
Tình chỉ là ảo mộng
Đời, mộng ảo em ơi !

Chúng mình là cát bụi
Tình đời cũng thế thôi.
Mai này không còn nữa
Cát-bụi-tình-xa rồi !

Dư hương ngày cũ
Chỉ vì một chút hương thừa
Mà sao tôi lại say sưa cuối đời
Say tình say nghĩa mà thôi
Tôi đâu say rượu cho đời lênh đênh.

Rượu say không thấy buồn tênh
Say tình tôi lại … buồn mênh mông buồn
Khi tình phai lạt mùi hương
Chút gì để lại còn vương vấn hoài.

Dư hương phảng phất đêm nay
Nghe đời rụng xuống… mắt cay giọt sầu !

Niềm Đau Quê Mẹ
Song An Châu

Nơi tôi ở nắng vàng tràn khắp lối. Thương quê hương tôi nắng đã úa màu. Tôi bỏ nước ra đi với vạn niềm đau. Nỗi âu lo xoáy vào lòng như lửa đỏ. Nào mẹ già, con nhỏ buộc cẳng, níu chân. Mắt rưng rưng nhìn lên bàn thờ cha ngày đó. Hương khói quyện tròn như nhắn nhủ người đi. Buổi từ ly không đem theo một chút gì, khi tâm hồn chứa quá nhiều đau khổ.

Quê hương ơi! Lăng miếu đền xưa còn đó, u buồn bóng dáng tiêu điều. Ngôi từ đường dòng họ tường móc xanh rêu. Cánh đồng lúa xanh đã vàng bông vào mùa gặt. Lòng càng quặn thắt khi đi qua ngõ trường xưa. Bước qua cầu dừa nhớ người yêu cũ. Bè bạn đâu rồi, đứa còn đứa mất. Đứa đi vào lòng đất, đứa vất vưỡng trại tù, đứa bỏ nước vượt biên tìm đường để sống. Bà mẹ già trông ngóng tin con, mắt mờ tóc bạc, lòng đau dạ xót, khi hay tin người quen nhắn về, con đã chết ở biển khơi.

Tàu ra khơi, nhìn lại đất trời, tiếc thương quê hương, thươmg từng tấc đất. Huống chi là dải giang sơn từ Nam chí Bắc, sông núi đã liền, nhưng lòng người chưa thắt chặt, hận thù còn đông đặc chưa tan. Hàng triệu người ra đi bỏ nước xa làng, tìm tự do nơi xứ lạ. Thây vùi biển cả. Hải tặc hiếp dâm. Nhục nhã. Bà cụ già đâm đầu xuống biển.

Trên con tàu ọp ẹp, cũ xì, chất đầy người bỏ nước ra đi. Không mai, bỏ thây ngoài biển cả làm mồi cho cá. Kẻ băng rừng người lội suối bất chấp rừng thiêng nước độc, cướp đường, đỉa vắt, đối mặt với tử thần. Nhưng bất cần, miễn sao rời được quê hương cờ máu, ngăn rào từ tấc đất, ngọn rau.

Nỗi đau, oan khiêng này ai tạo, ai gây hại cho dân tôi? Dân tôi ngàn năm đau khổ rồi cũng vì kẻ thù phương Bắc. Đồng bào ơi! Hãy vùng lên chống giặc. Kẻ thù ngàn năm phương Bắc.

Lê Hữu Minh Toán
Chấm hết
Năm sáu nỗi buồn
Xâu xé nhau loạn xạ
Tranh ngôi thứ
Tiềm thức ung thư
Rỉ máu
Giọt
Đen ngòm

Gã trung niên
Tàng tàng cù lủ
Ngồi phạch trên lưng trời
Cười hăng hắc
Ngịch ngợm
Xé toạc tim mình vọc chơi
Lục lọi tìm kiếm
Chiếc bóng đời mình trong gương
Rờn rợn hắt hiu
Chập chờn ảo ảnh
Trắng đen
Xanh đỏ
Vàng tím

Từng ngăn từng ngăn
Khép
Mở
Khối bầy nhầy
Chấm hết!!!

Thơ điên
Chữ nào là chữ người ta
Cõi nào là cõi ta bà nữa đây
Thôi đừng hí lộng múa may
Buông câu lục bát như say như cuồng.

Houston mưa nắng thất thường
Có ta điên tỉnh vui buồn từng cơn
Khi điên làm Tôn Ngộ Không
Tỉnh ra mới biết mình còn dương gian.

Điên mà tỉnh, tỉnh mà điên
Điên điên tỉnh tỉnh có phiền ai đâu
Tỉnh điên gió tạt qua cầu
Có điên có tỉnh có rầu mới vui.

Thưa Ông Thi sĩ Giáng Bùi
Ông điên rất tỉnh ngậm ngùi thế nhân
Rượu thơ một túi lâng lâng
Bảy mươi năm cuộc tẩy trần hiếm hoi.

Chuồn chuồn phận mỏng thân tôi
Bay ngang bay dọc lôi thôi vài lời
Rằng trăm năm mấy cuộc chơi
Vòng vây hệ lụy khóc cười nhân gian.

Chui vô động chui vô hang
Lặng nghe tiếng thở tối quàng vào đêm
Sáng thành diều quạ kên kên
Chơi trò sấp ngửa ai điên ai khùng.

Túy Hà
Thủ hành thiền.
Ngữa tay hứng lấy chữ đời
Viết thêm chữ đất thành lời dễ thương
Treo cao tặng khách thập phương
Đất trời muôn thuở ngát hương tuyệt vời.

Buông tay thả chữ giỡn chơi
Giật mình níu lại, kịp thời ăn năn
Cho tâm sáng như trăng rằm
Cho sương xuống thấp ăn nằm cùng hoa.

Nắm tay giữ ngọn kim thoa
Kẻo phai màu tóc, nhạt nhòa sắc em
Tâm không tịnh lòng sao êm
Hắt hiu ngọn gió đèn đêm mờ dần.

Vổ tay vang khắp hồng trần
Gọi hồn thơ lại gieo vần trầm hương
Thơm đời tâm sáng như gương
Soi lòng nhân thế, ghét thương cũng đành.

Chắp tay xin chút an lành
Vái thêm một vái tâm thành liên hoa
Như Phật xưa bước thật thà
Trên bông sen trắng nở ra đạo đường.

Vung tay xòe cánh hướng dương
Vai trần nhật nguyệt mười phương gánh dùm
Ơn chuông cổ tự còn rung
Cho ta ngộ được chữ trung dung đời.

Mê chấp
Từ bi ngã Phật chính ta
Ba ngàn thế giới cũng là sắc không
Đời có đẹp như hoa hồng
Sắc màu sẽ nhạt, gai chông thêm nhiều.

Đừng say hoa thắm mỹ miều
Đừng lo tính toán ít nhiều, thiệt hơn
Hãy nhìn từng hạt mưa vờn
Tự vô căn thủy hết vơi lại đầy.

Hãy nhìn từng áng mây bay
Xem tranh vân cẩu xưa nay vẫn là
Tranh danh đoạt lợi tâm tà
Thủy triều lên xuống cũng tà dương thôi.

Thiện tâm ngã Phật bồi hồi
Nhìn hình lại thấy bóng tôi tồi tàn
Hỡi em lập dùm trai đàn
Để tôi nhất bộ bái tam kinh cầu.

Liên hoa kinh có nhiệm mầu
Khai tâm mở lối đổi sầu thành vui
Tiếc thay ngã Phật ngủ vùi
Nên tôi vẫn mãi ngậm ngùi nhớ em.

Luân Tâm
Một chú thơ ngây
Bỗng dưng đau chuyện nghìn sau
Câu thơ ngây tặng ngọt ngào còn không
Đường thương trắng ngõ nhớ hồng
Dáng nằm áo ngủ tiên bồng về đâu…
Ca dao lục bát qua cầu
Để cho chú rể ví dầu ầu ơ
Nhện buồn sao hết giăng tơ
Ve sầu sao hết khóc thơ phượng tình…
Chiều tàn hôn bóng bình minh
Hay là không bóng không hình không hương
Còn mưa ruộng gọi nắng vườn
Hay là chớp bể mưa nguồn tương tư…
Còn hàn sĩ mộng tiểu thư
Hay là cát bụi không dư hương cười
Còn nhón gót còn cong môi
Hay là bèo giạt hoa trôi ngược dòng…
Còn đưa chim sáo sang sông
Đa đa tức tưởi lấy chồng quá xa
Chim quyên cu đất thuơng ca
Hay là không tổ không nhà không quê…
Lia thia quen chậu đi về
Rau răm đắng đất chịu bề khổ qua
Cải trời gần điên điển xa
Bầu non rụng rún trăng già còn răng…
Còn chú Cuội yêu chị Hằng
Vì sao cô Tấm không bằng nàng Hương
Canh rau muống cà dầm tương
Thương Cha nhớ Mẹ đoạn trường dấu yêu…
Hay không không biết bao nhiêu
Không hoa không bướm không tiêu không trầu
Không đèn không lửa không dầu
Không thơ không nhạc không đào không mai…
Bây giờ may gặp nhau đây
Xin em thơ chút thơ ngây gọi là
Hoa hồng ân hương phù sa
Dù trong dù đục ao nhà vẫn thơm…
Một mai biết có gì hơn…
Biết hôn…
Em ơi…

Hờn tủi
Thương nhớ mỏi mòn thân xác xơ
Tha hương hờn tủi lạnh hồn thơ
Bao đêm mộng viếng làng quê cũ
Nhà trống vườn hoang bướm dật dờ!
Ngày nắng ngày mưa ngày tuyết rơi
Đường xa xứ lạ quá lạ đời
Ngựa xe áo mão thành mây khói
Buồn đến buồn đi đứng lại ngồi!
Muốn vẽ dáng đi vẽ tiếng cười
Cho lòng xao xuyến thuở đôi mươi
Cho hồn thơ chút tình mê đắm
Chỉ thấy màu hoa áo không người…
Gậy trúc gậy mây gậy thép gang
Gậy nào giữ được chút bình an
Đường trơn giông bão không chừa lối
Cuối nẻo chùn chân lạnh suối vàng!
Gửi lại cháu con bút mực nào
Hay là một thoáng đẹp chiêm bao
Con đường hy vọng như sương tuyết
Rồi cũng mờ tan cũng… nghẹn ngào!
Nói mãi mây xanh với nắng vàng
Đất trời vẫn đẹp sao khóc than
Hay niềm đau nhuộm hồn cây cỏ
Từ thuở tình yêu bỏ thiên đàng?
Nếp nhớ ăn năn nếp trán nhăn
Răng không còn nữa để thèm ăn
Trầu xưa cau cũ duyên ngang trái
Ai nợ ai mà phải trối trăn?
Đất lạnh vô tình đá vô tri
Mưa buồn không giữ bóng người đi
Tan dần theo khói nhang hư ảo
Chiếc lá khô rơi có nghĩa gì…

Song Quang
Trả lại
Trả em món nợ trần ai ,
Anh vay từ thuở hình hài mẹ cho
Trả em lối nhỏ quanh co
Anh vay từ lúc hẹn hò yêu em.

Trả em suối tóc vương mềm
Anh e ấp vuốt bên thềm năm xưa
Trả em những buổi chiều mưa
Ta chung nhau bước, đong đưa sóng tình

Trả em những nụ hôn xinh
Mâm trầu cánh phượng chúng mình nên đôi
Trả em ánh mắt, vành môi
Nụ cười tươi thắm trao lời yêu thương

Trả em phấn bảng, sân trường
Một thời ngã nón trên đường về quen
Trả em cánh thiệp chung tên
Trả em tất cả để quên chuyện lòng.

Em về có viết thiệp hồng
Cho tôi nhắn gửi đôi dòng thơ yêụ.

Ngăn tình trong ký ức
Tôi về gom hết yêu thương,
Để vào ký ức, vấn vương cỏi lòng.
Ngày mai người có theo chồng,
Thì tôi còn chút môi hồng buâng khuâng.

Thời gian huyền ảo mông lung,
Vắng người như thấy trống không tình buồn.
Thôi quên những lúc giận hờn
Những ngày cúi mặt, bồn chồn nhớ nhau.

Để rồi chôn kín niềm đau,
Nổi riêng mình dễ lạc nhau nghìn trùng.
Làm sao nói chuyện tương phùng?
Chia tay là hết, ngại ngùng mà chi

Thà rằng: cũng một lần đi,
Để người đừng lở xuân thì trôi qua
Tim mình có chút xót xa,
Nhớ người năm củ mặn mà vì đâu

Hình như ngày tháng trôi mau,
Còn đâu mộc mạc buổi đầu hở em?

Xuân Du
Lá Thu
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Lưu Trọng Lư

Trời ui ui. Gió nhẹ. Một vài chiếc lá màu vàng nhạt theo gió là đà rơi xuống nằm chơ vơ trên thảm cỏ xanh. Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu, tôi ngâm nho nhỏ hai câu thơ cổ với một nỗi buồn mông lung vời vợi.
“Này em, mùa Thu lại trở về phải không em?”
“Thì tất nhiên, hết Hạ rồi tới Thu. Cái vòng lẩn quẩn này đã có từ thời khai thiên lập địa rồi cơ mà, có gì lạ đâu!”
Tôi cụt hứng. Thì ra trong cái ngõ ngách sâu thẳm của tâm hồn một thi nhân nó chứa đựng một cái gì đó mà đôi khi người thường không thể nào cảm nhận được.
“Đồng ý, nhưng khi nhìn lá Thu rơi sao anh cảm thấy nó vừa dễ thương vừa buồn buồn làm sao ấy!”
“Lại nữa. Không biết tại sao mấy ông Thi sĩ lại có cái nhìn kỳ cục như vậy. Xuân thì cỏ cây đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái. Động vật thì cảm thấy hứng thú muốn làm cái… chuyện đó để sinh sôi nẩy nở bảo tồn nòi giống mà người ta thường gọi là nhịp mùa”.
“Đơn giản vậy sao?”
“Thì chứ còn gì nữa. À quên, còn nữa, mỗi lần tới mùa Xuân thì anh rủ ông Sáu Ngởi đi câu, bỏ em ở nhà một mình buồn thấy mồ”
“Còn mùa Hạ thì sao?”
“Thì nóng chớ sao. Ôi chao! Nói đến Mùa Hạ, em thấy ghét cái tiểu bang Tết Xịt này quá chừng. Nóng ơi là nóng! Mỗi lần đến mùa Hạ là em muốn điên người lên. À này, anh còn nhớ cái bài hát gì mà có câu mùa hè năm nay anh sẽ đưa em vòng khắp cả… Thấy hôn? Mùa hè người ta đưa bà xã đi du lịch tùm lum, còn anh, nhiều lắm là dẫn em đi hồ câu cá, còn bày đặt nói đây là cái thú tao nhã, có lợi cho sức khỏe. Nào là… nào là… Báo hại làm người ta bị kiến cắn cái đít sưng chù vù (!). Còn mùa Đông thì…”
“Thôi được rồi! không cần nói, cái mùa Đông của em anh biết quá rồi, nào là nó lạnh! nó đông đá, nó… nó…”
“Chứ em nói vậy không đúng à?”
“Ừ! Thì đúng… mà này em! Em có biết ông Lưu Trọng Lư không vậy?”
“Ủa, sao tự nhiên anh lại hỏi sang đâu vậy? Ông Lưu Trọng Lư nào? Ổng có ở gần đây không? Trong số bạn câu của anh, em đâu có nghe cái tên Lưu Trọng Lư? Chắc ổng câu nghề lắm hả anh?”
“Em ơi là em ơi! Ông Lưu Trọng Lư là một Thi sĩ tiền chiến. Ông ta làm bài thơ “Tiếng Thu” rất nổi tiếng, ai mà không biết. Này anh hỏi thiệt nghe, hồi đó em có học Việt Văn không vậy?”
“Có chứ. Thầy em là Giáo sư Trần Văn, ông ấy dạy tụi em cả một đống nhà thơ, nhà văn nhưng… hề… hề… bây giờ em quên hết rồi.
“Trời đất! Nói chuyện với em một hồi chắc anh điên mất”. Tôi nổi cáo nguây nguẩy bỏ vào nhà giống như một cô gái nhõng nhẽo, giận hờn người yêu!

Một hôm, đang cặm cụi ngồi “gõ”cho xong cái truyện ngắn chợt nghe có tiếng rào rào ở vườn sau. Tôi mở cửa bước ra thì thấy vợ tôi đang cào… lá Thu!
Bà nhìn tôi ra vẻ ân cần:
“Này anh, nghe nói Thi sĩ chỉ cần một lá Thu thôi cũng làm được một bài thơ. Em nhường cái sân lá này để anh làm… thơ nhé! Chắc nó đủ cho anh cảm hứng làm hàng ngàn, hàng vạn bài thơ đó”
“Em à! Lá Thu thường gợi cảm hứng cho người làm thơ thật. Nhưng Thi sĩ chỉ cần một lá cũng đủ… gây cảm hứng rồi.
Một chiếc lá vàng óng-a-óng-ánh-nhẹ-nhàng-lả-lướt-lượn-qua-lượn-lại như hồi em mới gặp anh thì mới có đủ sức gợi hứng cho người ta làm thơ chứ. Còn cái đống rác… úi quên, cái đống lá Thu này, ối chao!… Thôi thì em giúp anh tạo nên một hình ảnh thật thơ mộng để anh làm một bài thơ “tuyệt tác” hay gắp trăm ngàn lần bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư để mấy ông Thi sĩ nhà ta lóe mắt chơi, em chịu hôn?
“Mà làm cảnh thế nào?”
“Này nhé, Lưu Trọng Lư tả cảnh trong rừng Thu là con nai vàng ngơ ngác. Đạp trên lá vàng khô. Nói thiệt nghe, hai câu thơ này dở ẹc (!), con nai đạp trên lá vàng khô thì làm sao đẹp và thơ mộng bằng một người đàn bà đẹp cào rác, úi quên, cào lá Thu. Cái dáng dấp của một người đàn bà, tay cầm cào cỏ, thân hình uốn qua, ẹo lại bước tới bước lui; Nếu là một người bình thường thì hình ảnh này không có gì lạ đâu, nhưng đối với anh nó gợi lên một hình tượng thơ mộng vô cùng. Anh sẽ ngồi đây nhâm nhi cà phê rồi tưởng tượng em đang cùng anh bước đi từng bước nhịp nhàng theo điệu nhạc tăng gô trên lá… Ôi chao, anh bảo đảm sẽ làm một bài thơ tuyệt vời để… tặng em!”
“Này ông bạn già của tôi ơi! Chịu khó cầm cây cào lên dùm đi. Cào cho hết cái sân lá Thu này rồi tha hồ mà nói dóc. Tha hồ mà tán hưu tán vượn”
“Này này, em bỏ đi đâu vậy? Còn cái sân lá?… Cái sân lá?…”
“Cái sân lá… Thu đầy thơ mộng… em nhường lại cho anh thưởng thức đấy. À này, sao trông anh nó giống cái con khỉ già ngơ ngác đạp trên lá vàng khô dữ vậy hè?!”

lục bát 4 câu
mái tóc

thôi đừng soi nữa lược gương
thôi đừng rẽ nữa con đường phù du
đẹp như con nước mùa thu
trăm năm rồi cũng rối bù em ơi!

gặp đàn bà…xui!

sáng nay vô chợ đông người
gặp em ta chỉ…cười…cười…vậy thôi!
nào ngờ nhớ mãi khôn nguôi
chết cha! ta lại gặp… “xui” nữa rồi!

cầm nhầm

em về phố xá reo cười
tưởng đâu em đã thành người phương xa
nhớ mùa mận mới đơm hoa
em quên cài cổng bị ta cầm nhầm!

hình như

sáu mươi ừ cũng hơi già
cho nên ta cứ nhìn ta – lắc đầu
sáng nay tỉa lại bộ râu
hình như ta vẫn còn ngầu như xưa !

tắm sông

bọn tôi hai đứa già nua
ngược xuôi đời đã te tua lắm rồi
lên bờ phủi đít ngồi chơi
mặc cho lũ nhỏ còn bơi giữa dòng!

tiếng đàn
trên sông hương

trăng tàn, bến Ngự mù sương
nửa đêm nghe tiếng dòng Hương trở mình
bao nhiêu nước, bao nhiêu tình
đàn ai, trổi khúc Nam Bình nỉ non!

lục bát 3 câu
1.
hình như quả đất này tròn
cho nên ta với em còn gặp nhau
thì mình làm lại chớ sao!

2.
hay là có tật giật mình
hay là có kẻ đang rình đâu đây
ôi chao chết chắc trận này!

3.
nghĩ ra cũng thật nhiệm mầu
hôm nay ta lại giấu đầu lòi đuôi
thôi đành kiếm chỗ nào chui!

4.
chiều buồn xạo xạo vô mall (1)
kiếm đàn bà đẹp… chào cho đỡ ghiền
bà nào cũng tưởng mình điên!

5.
ta là hạt bụi cù bơ
một đời cù bấc, làm thơ cù nhầy
vậy mà nhỏ cũng khen hay!

6.
long môn lỡ đút đầu vào
quậy cho nổi trận ba đào mới cam
Quá nhi, cô tưởng em làm! (2)

7.
dã tràng xe cát biển đông
đụng con sóng dữ thành Công Dã Tràng
vậy mà cũng khoái bò ngang!

8.
hành tăng một buổi độ đường
còng lưng cõng cái vô thường sang sông
chắc gì sắc tất thị không!

9.
chân trời nào có bao xa
mà lão Tề lộn đến ba bốn vòng
mới hay mình lọt vào tròng!

1. Thương xá
2. Tiểu Long Nữ gọi Dương Quá là Quá nhi.

Tam Quỳnh
Gửi người viễn xứ
Thuở ấu thơ cuộn tròn trong tay mẹ
Thương làm sao, chú mèo nhỏ dễ thương
Thao thức cùng con, những lúc đêm trường
Tim lặng lẽ, lắng nghe từng nhịp thở

Rồi một ngày, con tung tăng chân thỏ
Sách cầm tay, con hớn hở đến trường
Dõi mắt nhìn theo, lòng mẹ thêm thương
Thương biết mấy, mẹ mừng vui khôn tả

Thời gian trôi, bao khó khăn vất vả
Tuổi lớn khôn, con càng lúc càng xa
Còn lại đây, cha yếu với mẹ già
Con dấn bước, tha hương đời viễn xứ

Rồi một phút chạnh lòng, con có nhớ
Cha mẹ già trông đợi, chốn quê xưa
Yêu bao nhiêu, thương biết mấy cho vừa
Con có nhớ, tình cha cùng nghĩa mẹ…

Miên Du Đà Lạt
Rồi mai đây!
Rồi mai đây, lạnh về trên bờ đá
Biển dập vùi, vách núi phủ rêu phong
Lá rời cành, lìa đời không tiếng gọi
Ta vùi chôn tình lỡ chẳng nhớ nhung!

Rồi mai đây, ta đi vào quên lãng
Có ai còn tìm lại dấu chân xưa!?
Những nhánh sầu chia buồn trên lối cỏ
Những cuộc đời lặng lẽ chẳng ai đưa

Rồi mai đây, ta đi về cát bụi!
Đời bâng khuâng chỉ một thoáng ngậm ngùi
Vàng trăng sầu kể chuyện tình cổ tích
Trong sương đêm, ta yên giấc ngủ vùi!

Rồi mai đây, ai tìm về dĩ vãng!?
Thắp nến buồn soi lại chuyện trăm năm
Mở trang sách, dòng tình thơ vàng úa
Sầu dâng lên rơi những giọt âm thầm!

Thầm lặng
Thầm lặng suy tư giữa cuộc đời,
Nghĩa là cung Thánh của hồn tôi
Nghĩa là hạnh phúc tôi suy gẫm
Là bước khôn ngoan của một đời

Đá quí vòng vàng tôi chẳng đếm
Chẳng tìm danh phận, bởi vô thường
Chẳng tham một bước hơn thiên hạ
Chẳng muốn tình tôi vướng bụi đường.

Tôi tìm chân lý trong im lặng
Tìm khối ân tình đã vỡ đôi
Tư tưởng mỗi ngày tôi thắp sáng
Trái tim sầu khổ lạnh băng rồi!

Chậm
Ta chậm lại, nên đời không bước vội
Tháng năm tàn thời gian chuyển qua nhanh
Bao gút thắt ta gở hoài không thoát
Bao muộn phiền mờ ánh mắt tinh anh

Ta dừng lại, bởi không còn bước kịp
Gối mỏi rồi, chân cũng chẳng khoan thai
Tay chới với chụp bắt đời vô vọng
Gánh một đời sầu nặng cả hai vai

bán thơ!
làm thơ! ừ nhỉ! đem rao bán!?
biết có ai mua giữa chợ đời?
biết có ai cùng chung nhịp điệu?
mua dùm ta dăm chữ thơ rơi!

làm thơ! buồn nhỉ! sao đem bán!?
có phải trần gian hết chữ rồi!?
có phải người đời thôi đọc sách!?
ta về treo vách ngắm thơ chơi!

Trần Văn Lương
Giọt buồn cuối nẻo
Mây héo quắt như mặt người luống tuổi,
Lọn khói chiều vờn đuổi muỗi vườn sau,
Lớp rêu xưa đã mấy độ thay màu,
Chim mất tổ mổ sầu trong nắng muộn.

Sương hôm cuồn cuộn,
Cỏ băng đường, luống cuống chạy quanh.
Cơn gió bấc lạnh tanh,
Mưa lá vỡ tan tành trên mộ chí.

Đường thiên lý người miệt mài quên nghỉ,
Có dừng chân thì cũng chỉ phút giây,
Nhưng rồi khi bóng tối át màu mây,
Lại lê lết chốn đọa đày quen thuộc.

Đời giong ruổi dẫu trăm ngàn trói buộc,
Chẳng còn chi khi hết cuộc chơi này.
Phút quay về, cay đắng vốc tràn tay,
Đôi mắt trũng ứa đầy men tiếc nuối.

Lối vô định, chỉ riêng mình lặn lội,
Gói hành trang là một chuỗi nhớ thương.
Máu oan khiên rơi rớt đỏ bụi đường,
Trên sỏi đá, đóa đoạn trường rộ nở.

Những khuôn mặt giữa hành trình gặp gỡ,
Cũng chỉ là ảo ảnh ở trong tim,
Những nỗi vui lòng háo hức kiếm tìm,
Thành bọt sóng nổi chìm trong trí nhớ.

Mênh mang chiều phố chợ,
Giày thủng vớ lang thang.
Tròng mắt đục hoang mang,
Lỡ làng kinh cứu độ.

Cổng Thiên đàng xiêu đổ,
Người hết chỗ quay về.
Bóng đêm dài dai dẳng lê thê,
Nghe thương nhớ tái tê ngày tháng cũ.

Nhớ tiếng hát mẹ ru từng giấc ngủ,
Nhớ giọng cười của lũ trẻ trong thôn,
Nhớ những chiều lặng ngắm nắng hoàng hôn,
Rồi chợt thấy lòng buồn không duyên cớ.

Nhớ sân trường phượng nở,
Chân ngại ngùng, ôm sách vở theo nhau,
Nắng hè trưa như rót lửa trên đầu,
Môi lắp bắp mãi nửa câu hò hẹn.

Nào ngờ mây đen sực đến,
Cánh bèo mất bến ra khơi.
Gió đông về, lá rách tả tơi,
Trôi trôi mãi trên dốc đời trơn tuột.

Đất lạ ấm sao lòng nghe giá buốt,
Một kiếp người đà mấy cuộc ra đi.
Gập ghềnh nẻo chia ly,
Chân lữ thứ biết khi nào quay lại.

Trăm năm nữa, ánh mặt trời vẫn mãi
Về đùa chơi cùng cỏ dại nơi đây,
Nhớ hay chăng có một kẻ lưu đày,
Đã vĩnh viễn vùi thây trong bóng tối.

Gót lữ hành mệt mỏi,
Đường đời một lối loanh quanh.
Khi nắng chiều bỏ ngỏ trời xanh,
Hương lá thắm cũng đành phai dưới cội.

Hành trang cũ vơi dần theo bước vội,
Chốn quê nhà vẫn vời vợi quan san.
Đàn chim xưa nay rã cánh tan đàn,
Vườn vĩnh cửu ngút ngàn bia mộ mới.

Trời cao thẳm, tiếng kêu cầu chẳng tới,
Người cuối đường chới với khóc vu vơ,
Đáy mắt sâu tắt ngúm lửa mong chờ,
Ve áo bẩn, mờ mờ dăm dấu lệ.

Hết Trầm Hương 3

TRẦM HƯƠNG SỐ 2 – Bộ Mới

TRẦM HƯƠNG

tạp chí văn học nghệ thuật
Chủ nhiệm: Nguyễn Đức Nhơn
Chủ bút: Túy Hà
Thông tin liên lạc
Tuyha81@yahoo.com
doanthachngoc@yahoo.com
Trình bày và layout: Túy Hà
In tại: Mr Print Ần Quán

THI VĂN ĐÀN TRẦM HƯƠNG THỰC HIỆN

MỤC LỤC

Lối vào (3)
Đàm Trung Pháp Khảo luận – Thăng hoa khả năng ngoại ngữ qua thi ca trữ tinh (17) – Nguyễn Đức Nhơn Thơ(26) – Trọng ĐạtKhảo luận – Khái luận về nghệ thuật tùy bút Nguyễn Tuân (27) – Phan Xuân Sinh Truyện – Thuở đất tình lên ngôi (46) – Dư Thị Diễm Buồn Thơ (48) – Lãm Thúy Thơ (50) –Yên Sơn Truyện – Những nhánh rong trên dòng sông tuổi nhỏ (53) – Hải PhươngThơ (61) – Diễm Nghi Thơ (66) – Trần Yên Thảo Truyện – Sợi khói ngang mặt (68) – Uyên Giang Thơ (83) – Thy Lan ThảoThơ (85) – Luân Tâm Thơ (87) – Hoàng Đình Hiếu Truyện – Những ngày xưa thân ái (90) – Phạm Tương Như Thơ (95) – th. Đoàn Thy Vân Đọc sách – Lời thơ song vỗ bờ xa (98) – Phan Bá Thụy Dương Thơ (103) – Như Phong Thơ (106) – Vũ Tiến Lập Thơ (109) – Nguyễn Văn Đường Thơ (111) – Phan Các Chiêu Hằng Truyện – Thuyền xưa (112) – Phan Các Chiêu HằngThơ (123) – Kim Oanh Thơ (125) – Song An Châu Thơ (127) – Vĩnh Tuấn Thơ (130) – Nguyễn Lập Đông Thơ (131) – Ái Ưu Du Truyện – Niềm luyến lưu ngọt ngào (133) – Trần Yên Thảo Thơ – (145) – Nguyễn Tôn Nhan Thơ (148) – Ngô Nguyên Nghiễm Thơ (150) – Lê Quang Đông Thơ (154) – Phan Xuân Sinh Thơ (156) – Nguyễn Đắc Nguyên Khoa Thơ (167) – Lê Hữu Minh Toán Thơ (169) – Thái Bạch Vân Thơ (171) – Mây Ngàn Thơ (173) – Cù Hòa PhongPhỏng vấn Nguyễn Hữu Nhật về tác phẩm Hoa Đào Năm Ngoái (174) – Hoàng Xuân Sơn Thơ (197). Nguyễn Tâm Hàn Thơ (200) Mây Ngàn-Anh Tú Nhạc (202)

Khác gì ngậm ngải tìm trầm
Lời tòa soạn: Khác với lời dẫn thường lệ. Kỳ này BBT cho đăng
“Bài Nói Chuyện” của Văn hữu Chủ nhiệm Nguyễn Đức Nhơn
thực hiện trên Đài Tiếng Nước Tôi Dallas. Tựa bài do BBT đặt.

Thấm thoát mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã đóng góp cho nền Văn Học Hải Ngoại 14 tác phẩm với hơn 50 tác giả của Thi Văn Đàn Trầm Hương. Lúc đầu Thi Văn Đàn Trầm Hương có tên là Tao Đàn Trầm Hương và tác phẩm mang tên là Giai Phẩm Trầm Hương với số đầu tiên ra mắt Độc giả vào Mùa Xuân năm 2005. Sách dày 204 trang do Thư Ấn Quán in ấn và Trầm Hương xuất bản với sự góp mặt của các tác giả: Đỗ Quân, Giang Bắc, Hoàng Nguyên, Kiều Mộng Hà, Lê Khánh Duệ, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyên Khoa, Nguyên Thao, Nguyễn Hồng Liên, Như Hoa Lê Quang Sinh, Như Phong, Phạm Cây Trâm, Phan Văn Thuận, Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Thuận Xuyên, Tuấn Đình, Trầm Khanh và Vi Thể. Đây là những tác giả có công rất lớn với Thi Văn Đàn Trầm Hương trong những ngày đầu. Đến tháng 3 năm 2007 thì danh xưng Tao Đàn Trầm Hương được đổi thành Thi Văn Đàn Trầm Hương và tác phẩm mang tên là Giai Phẩm Trầm Hương vẫn tiếp tục phát hành cho đến số 13. Đến Mùa Thu năm 2009, vì nhu cầu bài vở và cơ sở ấn loát nên Giai phẩm Trầm Hương đổi thành Tạp chí Trầm Hương (bộ mới) và số đầu tiên phát hành vào tháng 4 năm 2009. Sách dày 196 trang in tại Mr. Print với nhiều thay đổi từ hình thức đến nội dung.

Phải nói Thi Văn Đàn Trầm Hương lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn, có lúc tưởng chừng như phải bó tay, nhưng với quyết tâm của mọi người, Thi Văn Đàn Trầm Hương vẫn sinh hoạt đều đặn và mỗi ngày một thêm lớn mạnh. Trên đoạn đường dài mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã vượt qua tất nhiên cũng có những trục trặc thường tình mà bất cứ một tập thể nào cũng phải chấp nhận. Vì vậy độc giả không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy có sự thay đổi hoặc thêm bớt thành phần nhân sự trong suốt 5 năm sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương.

Như nói trên, từ Trầm Hương số 2 và những số kế tiếp đều có sự thêm bớt ít nhiều các tác giả góp mặt trong từng tác phẩm. Trầm Hương số 2 phát hành vào tháng 12 năm 2005. Sách dày 167 trang, với 22 tác giả góp mặt gồm có: ĐCCB, Đức Hồ, Giang Bắc, Hoàng Nguyên, Kiều Mộng Hà, Lưu Ca, Lê Khánh Duệ, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyên Khoa, Nguyễn Hồng Liên, Nguyên Thao, Như Hoa, Như Phong, Phạm Cây Trâm, Phan Văn Thuận, Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Thiện Hỷ, Thuận Xuyên, Tuấn Đình, Trầm Khanh và Vi Thể. Để minh thị thêm cho giai đoạn mở đầu trong sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương, xin mời quý thính giả nghe bài phát biểu của tôi trong buổi ra mắt Giai Phẩm Trầm Hương 1 ngày 4-9-2005 tại nhà hàng Thiên Kim như sau:

“Đầu năm 2005, chúng tôi gồm có Nguyễn Đức Nhơn, Nguyễn Đắc Khoa, Lê Quang Sinh và Phạm Cây Trâm đã gặp nhau tại Dallas để thảo luận một số vấn đề có liên quan đến những sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật tại địa phương cũng như những nơi có nhiều người Việt cư ngụ. Chúng tôi nhận thấy việc phát huy và bảo tồn các giá trị Văn Chương của nền Văn Hóa Việt nơi xứ người là một việc làm hoàn toàn chính đáng và rất cần thiết, đồng thời chúng tôi cũng muốn tạo điều kiện cho những người thích hoạt động Văn Nghệ có cơ hội ngồi lại với nhau đàm đạo, viết lách hầu làm vơi đi phần nào cái trống vắng cô đơn nơi xứ người. Từ những động cơ này, chúng tôi không ngần ngại đứng ra vận động một số Văn Thi hữu tại địa phương để thành lập một Nhóm Thơ Văn mệnh danh là Tao Đàn Trầm Hương. Và, để dễ dàng trong sinh hoạt, chúng tôi đã triệu tập một cuộc họp mặt đầu tiên,tổ chức tại trụ sở Cộng Đồng Fort Worth vào ngày 2 tháng 4 năm 2005 với khoảng 50 người tham dự, để hình thành cơ cấu tổ chức, đề ra tôn chỉ mục đích và nêu lên một số quy định để làm kim chỉ nam cho mọi sinh hoạt của Nhóm sau này. Sau những ý kiến và thảo luận sôi nổi trong tinh thần cởi mở và xây dựng, hội nghị đã biểu quyết thông qua các vấn đề sau đây:
1. Danh Xưng: Tao Đàn Trầm Hương.
2. Tôn Chỉ: Phục vụ Văn Học Nghệ Thuật.
3. Ban Điều Hành:
Ông Nguyễn Đức Nhơn: Trưởng Ban Điều Hành
Ông Nguyễn Đắc Khoa: Ủy Viên Điều Hành Đặc Trách Vùng Dallas
Ông Phạm Cây Trâm: Ủy Viên Điều Hành Đặc Trách Vùng Fort Worth
Ông Lê Quang Sinh: Cố Vấn

Sau khi hình thành, Tao Đàn Trầm Hương đã nỗ lực hoạt động và đạt những thành quả khiêm nhường sau đây:
1. Đã và đang thực hiện VƯỜN THƠ TAO ĐÀN TRẦM HƯƠNG trên một số tờ báo phát hành tại địa phương.
2. Đã và đang cùng Hội Cao Niên Dallas phát thanh chương trình TAO ĐÀN TRẦM HƯƠNG trên hai đài phát thanh VRN và TNT.
3. Đã và đang thực hiện GIAI PHẨM TRẦM HƯƠNG.

Và cũng nhằm mục đích đẩy mạnh sinh hoạt để tiếp tay cùng các Tổ Chức Văn Học tiền lập trong sứ mạng cao cả là phát huy và bảo tồn nền Văn Hóa Việt nơi xứ người. Ngày 5 tháng 6 năm 2005, chúng tôi thực hiện cuộc họp mặt lần 2 tai Hội quán Thiên Kim, thành phố Richardson với số lượng thân hữu tham dự gần 100 người. Trong dịp này, chúng tôi có gởi đến quý vị một tập Thơ Văn nhỏ, quy tụ 18 cây viết của Tao Đàn Trầm Hương, nhưng tính đến ngày 5 tháng 6 năm 2005 thì số Hội Viên đã lên đến 26 người, gồm các Nhà Văn, Nhà Thơ định cư tại vùng Dallas- Fort Worth. Tuy địa bàn hoạt động chỉ thu hẹp trong vùng Dallas-Fort Worth, nhưng chúng tôi đã quy tụ được một số khá đông Văn Nghệ Sĩ tham gia vào Tao Đàn Trầm Hương. Điều này cũng nói lên được phần nào sự cố gắng của chúng tôi. Tuy nhiên, dù cố gắng đến đâu, chúng tôi cũng không thể nào liên lạc và tiếp xúc được với tất cả Quý Văn Thi Hữu hiện đang định cư tại địa phương nhà. Vì vậy, nhân cơ hội này, chúng tôi xin ngỏ lời trân trọng và hân hoan được tiếp tục đón nhận Quý Vị tham gia vào gia đình Trầm Hương để chúng ta cùng nhau xây dựng một Tổ Chức Văn Nghệ lành mạnh, có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu trong tiến trình hoạt động của chúng ta sau này.

Mặc dù với thời gian hoạt động không lâu và những khó khăn tất yếu của buổi ban đầu, chúng tôi đã cố gắng vượt qua và đã tạo được một vài thành quả khiêm nhường mà tôi vừa trình bày ở trên. Tuy nhiên, với sự quyết tâm của Tao Đàn Trầm Hương và sự ủng hộ nhiệt tình của Quý Vị, chúng tôi hy vọng sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp hơn, nhất là ở Giai Phẩm Trầm Hương 2, nơi mà chúng tôi sẽ dồn hết mọi cố gắng để hình thành một tác phẩm có nội dung lẫn hình thức không làm phụ lòng Quý Vi. Mong Quý Vị đón xem Giai Phẩm Trầm Hương 2, sẽ phát hành trong một ngày không xa.

Trước khi dứt lời, tôi xin thay mặt Tao Đàn Trầm Hương và Ban Tổ Chức chân thành cám ơn Quý Vị đã bỏ nhiều thì giờ quý báo đến tham gia buổi họp mặt của Tao Đàn Trầm Hương ngày hôm nay”.
Kính thưa quý thính giả nghe Đài,
Đến Trầm Hương 3, ngoài những tác giả góp mặt trong Trầm Hương 2, Tao Đàn Trầm Hương đã thu hút được một số tác giả tên tuổi như Lê Phương Nguyên, Trần Yên Thảo, Nguyễn Tôn Nhan, Trần Tuấn Kiệt, Ngô Nguyên Nghiễm, Phạm Thiên Thư, Đặng Tấn Tới v.v… Trầm Hương 3 dày 166 trang, phát hành vào tháng 4 năm 2006.
Có thể nói bắt đầu từ Trầm Hương 3, Tao Đàn Trầm Hương thực sự đã trưởng thành. Với số lượng tham gia càng ngày càng nhiều các tác giả tên tuổi đã làm cho Giai phẩm Trầm Hương mỗi ngày một thêm khởi sắc từ hình thức đến nội dung. Ở Trầm Hương 4, chúng ta thấy sự xuất hiện của một số những tên tuổi mới như Mùi Quý Bồng, Lan Cao, Song An Châu, Huỳnh Chiếu Đẳng, Nguyễn Cát Đông, Túy Hà, Trần Minh Hải, Đức Hồ, Vũ Hối, Nguyễn Phú Long, Vĩnh Tuấn, Thy Lan Thảo v.v… Trầm Hương 4 dày 204 trang, phát hành vào tháng 9 năm 2006.
Với Trầm Hương 5, Chúng tôi xin mượn lời mở đầu của tập này để giới thiệu cùng quý thính giả nghe đài sự lớn mạnh từng bước của Thi Văn Đàn Trầm Hương.
“Sau 2 năm hoạt động, chúng tôi đã cố gắng không ngừng trong việc nâng cao chất lượng và số lượng trong mọi sinh hoạt của Thi Văn Đàn Trầm Hương. Riêng với Giai Phẩm Trầm Hương, chúng tôi đã bỏ khá nhiều công sức, và, hôm nay chúng tôi cảm thấy an ủi rất nhiều, khi cầm trên tay Giai Phẩm Trầm Hương 5, một tác phẩm đã đánh dấu sự lớn mạnh của Thi Văn Đàn Trầm Hương về mọi mặt. Với 25 cây viết ở rải rác khắp mọi nơi, từ Canada đến Hoa Kỳ, chúng tôi đã tạo được một lực lượng khá hùng hậu để hoàn thành tác phẩm này, và đó cũng chính là lý do mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đã dành được một chỗ đứng tương đối khá vững vàng trong khu vườn Văn Học VN hải ngoại .
Cho đến nay, Thi Văn Đàn Trầm Hương đã được các Văn Thi hữu khắp nơi nhiệt tình tham gia, mà đa số là các Văn Thi hữu đã thành danh, tác giả nhiều tác phẩm, chẳng hạn như Đàm Trung Pháp, Mùi Quý Bồng, Vũ Hối, Xuân Bích, Song An Châu, Trần Minh Hải, Nguyễn Phú Long, Vĩnh Tuấn, Nguyên Nhung, Trần Bang Thạch, Lan Cao, Yên Sơn, Túy Hà, v.v… cộng với các thành viên cũ như Nguyên Khoa, Lưu Ca, Bùi Quang Huấn, Thái Bạch Vân, Tuấn Đình, Như Phong, Độc Cô Cầu Bại, Giang Bắc, Lê Khánh Duệ, Đức Hồ, Trầm Khanh, Phan Văn Thuận, Nguyễn Đức Nhơn, Nguyễn Tôn Nhan, Đoàn Thuận, Trần Yên Thảo v.v… cùng một số nghệ sĩ như Nhạc sĩ Nguyễn Hải, Nhạc sĩ Phan Đình Minh, Ca sĩ Hà Lan Phương đã nâng số thành viên của Thi Văn Đàn Trầm Hương lên đến 40 người.
Với số thành viên hùng hậu nêu trên, Giai Phẩm Trầm Hương hy vọng sẽ đóng góp được phần nào trong công việc phát huy và duy trì khu vườn Văn Hóa Việt nơi xứ người mỗi ngày một tươi tốt hơn”.
Trầm Hương 5 dày 200 trang, phát hành vào tháng 12 năm 2006 với 35 Văn Thi hữu góp mặt. Trầm Hương 6 dày 196 trang, phát hành vào tháng 3 năm 2007 với sự góp mặt của 36 tác giả, trong đó có thêm những tên tuổi mới như Trần Hoài Thư, Nguyễn Mạnh Cẩm, Mịch La Fong v.v…
Với Trầm Hương 7, chúng tôi muốn đề cặp đến một khía cạnh khác, đó là vấn đề chi phí in ấn. Vấn đề này được tôi trình bày một phần trong bài thay lời mở của tập này như sau:
“Trong những lần họp mặt Ban Cố Vấn và Ban Điều Hành Thi Văn Đàn Trầm Hương, hầu hết các Văn Thi hữu có trách nhiệm đều quan tâm về nguồn tài trợ cho Giai Phẩm Trầm Hương. Nhìn chung, đa số hội viên Thi Văn Đàn Trầm Hương là những người đến định cư ở Hoa Kỳ theo diện tị nạn HO; Tôi muốn nói đến những người mà, trước đây họ đã từng gánh chịu những mất mát lớn lao trong suốt hai cuộc chiến kéo dài trên đất nước chúng ta. Và, hiện nay họ cũng chính là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất trên mảnh đất tạm dung này, vì họ là những người đến sau, họ là những người đến với những hậu quả mang theo từ những năm tù cải tạo, họ đến với mớ tuổi đời chồng chất; Nói một cách khác, đa số họ là những người đang sống nhờ vào tiền trợ cấp của nhà nước hay sự giúp đỡ của con cháu. Vì vậy có thể nói Thi Văn Đàn Trầm Hương là nơi quy tụ những người có lòng nhưng không có sức. Sự đóng góp của họ dù cố gắng đến đâu cũng khó lòng trang trải nổi những chi phí in ấn cho những tác phẩm mà mỗi cuốn dày đến 200 trang. Một tạp chí không quảng cáo, không đăng tin chia vui, chia buồn, không một nguồn tài trợ nào ngoài sự đóng góp của anh em, nhưng Giai Phẩm Trầm Hương vẫn sống đến ngày hôm nay một phần nhờ vào sự ủng hộ của một số Độc giả xa gần.. Vào một chiều đầu thu đẹp trời, tình cờ tôi nhận được tấm check 200 đô của một vị ân nhân từ thành phố Baton Rouge, Louisiana gởi tặng cho Giai Phẩm Trầm Hương.
Cầm tấm check trên tay, tôi cảm thấy lòng mình vui hẳn lên, thực ra nguồn vui này không hoàn toàn do số tiền ủng hộ mà là do sự cảm nhận được tấm lòng hào hiệp và yêu chuộng văn chương chữ nghĩa của một độc giả xa xôi hướng về Dallas với lòng mến mộ Thi Văn Đàn Trầm Hương. Chúng tôi vui vì thấy công việc của chúng tôi đã thực sự làm nên một điều gì đó, khả dĩ đánh động được tấm lòng thương yêu của độc giả xa gần và chính điều này đã làm cho chúng tôi mạnh dạn hơn và tin tưởng hơn trên con đường phục vụ nghệ thuật.
Trầm Hương 7 dày 196 trang, phát hành vào Mùa Hè 2007. Từ Trầm Hương số 8 trở đi, phần trình bày có đôi chút thay đổi, nhưng tựu trung cũng không có thay đổi gì lớn kể cả thành phần nhân sự và hình thức. Trầm Hương 8 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Thu năm 2007. Trầm Hương 9 dày 196 trang, phát hành vào Mùa Đông năm 2007 với sự tham gia của những khuôn mặt mới như Nguyễn Thị Thanh Dương, Trần Ngọc Minh, Tiểu Thu, Phan Chính, Đoàn Thuận, Trần Khánh Liễm, Châm Hồ, Linh Du, Phương Triều v.v….
Trầm Hương 10 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Xuân 2008. Để quý thính giả nghe đài rõ hơn về tác phẩm này, chúng tôi xin gởi đến quý thính giả bài viết của Giáo Sư Đàm Trung Pháp nhận định vê Trầm Hương 10 trong ngày ra mắt tác phẩm này như sau:
Kính thưa quý văn hữu,
Để trả lời câu hỏi “Tại sao bạn viết văn?” thì nếu có người đưa ra vài lý do thực tế như “để có chút tiếng tăm, để kiếm tiền, để giải trí”, thì lại cũng có người đưa ra vài lý do thanh cao hơn, như “để thăng hoa mức tưởng tượng, để tự tạo cho mình một thế giới riêng tư, để trốn sang một thế giới khác”. Lý do nào cũng vững cả, nhưng có lẽ cái lý do có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất để nữ sĩ Sei Shonagon (966-1013) tiếp tục viết văn đã được bà nói huỵch toẹt ra là “nếu việc viết lách mà không có trên đời này thì chúng ta sẽ sầu khổ biết bao nhiêu!”
Nữ sĩ Shonagon là một nhật ký gia, chuyên ghi chép những chuyện xảy ra trong triều đình Nhật Bản thuộc thế kỷ 11, và bà được hoàng hậu Teishi ái mộ. Bà ghi lại quốc sự, cũng như những lời đàm tiếu, những câu chuyện nho nhỏ (như con chó của hoàng đế đã cắn chết con mèo của hoàng hậu, để rồi bị trừng phạt ra sao, chuyện tình ái lăng nhăng của các công chúa và các hoàng tử, vân vân). Bà viết rất duyên dáng, thông minh, và trung thực, được thế giới tây phương biết qua cuốn sách mang tên “Makura No Soshi” (được dịch sang tiếng Anh thành “The Pillow Book”). Sở dĩ tôi nhắc đến câu nói để đời của nữ sĩ Shonagon vì tôi thấy nó cũng đồng thanh tương ứng với lời tâm sự của văn hữu Nguyễn Đức Nhơn, chủ nhiệm giai phẩm TRẦM HƯƠNG số 10, như đã ghi trong lời mở đầu (trang 6): “Cái nghiệp viết lách đã đeo đuổi theo tôi gần hết một đời. Đôi khi tôi cũng thấy chán, nhưng nếu không ngồi vào bàn viết thì lại càng chán hơn!!!”
Vì con số người đọc bao giờ cũng lớn hơn con số người viết văn chương bội phần, một câu hỏi nữa cần phải đặt ra là “Tại sao chúng ta đọc văn chương?” Theo thiển ý, có ba lý do chính. Lý do thứ nhất là để chạy trốn nỗi buồn tẻ, phiền lụy của chính mình bằng cách đi tìm những kinh nghiệm mới lạ qua sự mô tả của người khác. Văn chương, qua những đoạn văn thơ kỳ thú có thể làm chúng ta lên tinh thần. Đó là những chuyện trinh thám ly kỳ, những chuyện tình rực rỡ, những bài thơ làm ấm lòng người đọc. Lý do thứ hai là để mở rộng kiến thức, vì văn chương có thể được coi là một văn kiện xã hội, cho người đọc sự hiểu biết về luật pháp, phong tục, thái độ, giá trị của một thời đại, của một văn hóa, nhất là trong tiến trình “hoàn cầu hóa” của nhân loại ngày nay. Và lý do thứ ba là để trực diện với kinh nghiệm sống. Đọc là một sự tham dự, một sự nhập cuộc. Những nhân vật trong văn chương (tiểu thuyết, truyện ngắn, thi ca) giúp chúng ta tìm hiểu trực tiếp sự muôn hình vạn dạng của nhân sinh. Qua văn chương, chúng ta có thể tự tìm thấy chính chúng ta, qua kinh nghiệm và sự diễn tả của người khác. Một chỉ dấu quan trọng của văn chương đích thực là nó để lại một dấu ấn, một hiệu lực (effect) trong lòng người đọc.
Kính thưa quý văn hữu,
Chính vì ba lý do nêu trên mà tôi đã đọc trọn 199 trang của giai phẩm TRẦM HƯƠNG số 10 do Thi Văn Đàn Trầm Hương thực hiện, và tôi đã mãn nguyện. Trầm Hương số 10, cũng như các số trước, rất đáng được đọc một cách nghiêm chỉnh. Cả mấy tháng nay tôi vô cùng bận rộn và mệt mỏi với chuyện dọn nhà và công việc ở trường, chẳng mấy lúc được ngồi đọc văn chương viết bằng tiếng mẹ đẻ. Quả thực Trầm Hương số 10 đã đến với tôi như một luồng gió mát.
Tôi đã chung vui một vài kinh nghiệm kỳ thú trong giai phẩm này. Trước hết là câu chuyện tình rất đẹp, rất chung thủy, có kết cục hạnh phúc giữa cô giáo Thủy Tú và trung úy Sơn trong truyện TÌM EM TỪ BUỔI LẠC NHAU ĐẾN GIỜ của văn hữu Lê Thị Hoài Niệm. Đặc sắc nhất là cách ăn nói duyên dáng của nhân vật Thủy Tú. Một kinh nghiệm kỳ thú nữa là qua truyện BÀ MẸ VỢ của văn hữu Nguyễn Thị Thanh Dương. Câu chuyện hồn nhiên này đánh tan được quan niệm xấu xa về mẹ vợ (“mother-in-law”) của người Mỹ, như chúng ta thường nghe họ coi “thông gia” (in-laws) như những kẻ “ngoài vòng pháp luật” (outlaws), trong một lối chơi chữ tàn bạo. Nhưng trong BÀ MẸ VỢ thì anh con rể người Mỹ tên Steve quý mến bà mẹ vợ Việt Nam vô cùng. Vì vậy, sau khi bà mẹ vợ về Việt Nam, Steve “buồn ra mặt, anh nhớ bà mẹ vợ, người đã thương con, chiều cháu bằng cả một tấm lòng, anh đã hiểu một bà mẹ Việt Nam cần cù, chịu khó và hy sinh vì con cháu thế nào!”. Bạn nào thích chơi câu đối thì không thể bỏ qua bài viết cực kỳ lý thú của văn hữu Nguyễn Phú Long, mang tên CHƠI CÂU ĐỐI, một lối chơi chữ đặc thù của dân Việt. Lối chơi chữ này đòi hỏi mức độ “thông minh ngôn ngữ” (linguistic intelligence) rất cao, chẳng hạn như trong đôi câu đối sau đây của hai người chơi chữ khá giỏi: “Dê sồm mùi mẫn, dương khoe cẳng dài” (Nguyễn Phú Long) đối với “Cọp cái dần dà, hổ thẹn ân sâu” (Người Đà Lạt).
Tôi cũng đã học hỏi thêm được về cuộc đời dân Việt cận đại qua Trầm Hương số 10. Như cuộc sống bất ổn của người dân miền Nam trong thời Việt Minh bắt đầu làm rối ren ở miền quê đã được văn hữu Tiểu Thu phơi bầy trong truyện THƯƠNG HẬN.
Đây là câu chuyện đau buồn của một phụ nữ đẹp và đoan trang đã bị người tình sau khi thành tài ở Paris về phản bội, chỉ vì thế lực kim tiền. Như nếp sống thảm khốc của dân quê miền Nam thời chinh chiến, những năm 1969 – 1970, thời đại mà nhiều người trong chúng ta còn ở trong hàng ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, được lột tả trong truyện VỢ CHỒNG ÔNG HỘ của văn hữu Nguyễn Đức Nhơn. Ông Hộ đã góa vợ, già nua, và mất mạng trong căn nhà cũ bị dội bom. NGỌN RAU LÁ CỎ của Nguyên Nhung là một câu chuyện vui tươi, nằm trong thời điểm dân Bắc Kỳ di cư vào Nam. Kinh nghiệm của cô bé Bắc Kỳ với dân Nam Kỳ bản xứ thực dễ mến.
Tôi may mắn được thoát ra khỏi Việt Nam từ đầu tháng 4 năm 1975. Nếu kẹt lại thì chắc chắn cũng đã đi cải tạo, vì lúc ấy tuy là giảng sư đại học chính ngạch, tôi vẫn là một sĩ quan biệt phái về Đại Học Sư Phạm Saigon với cấp bậc trung úy. Vì vậy tôi rất thương cảm những ai bị Việt Cộng đầy đọa trong những trại cải tạo dã man của chúng. Truyện ngắn DĨ VÃNG VÀ HIỆN TẠI của văn hữu Đoàn Thạch Ngọc đã làm tôi xúc động mãnh liệt. Đây là nỗi thống khổ của những chiến sĩ VNCH nằm trong tay của Cộng sản: “Sau một ngày lao động, về trại liếm láp qua loa chút ít thực phẩm do trại cấp phát rồi lên sạp nằm ngó trần nhà, thả hồn về quê hương, nơi có những người thân thương đang mỏi mòn chờ đợi. Tôi nhớ lắm. Nhớ tất cả. Nhớ cha mẹ già hẩm hiu cô quạnh trong những ngày gần đất xa trời. Nhớ người vợ hiền đang từng ngày bươn chải nuôi con, nhớ những đứa con nhỏ dại ngây thơ không biết có đủ no, đủ ấm trong những ngày đông tháng giá.” Đấy, nếu tôi kẹt lại, thì số phận tôi cũng như vậy! Tôi đã tìm thấy tôi một phần nào, qua cái đau khổ của nhà văn Đoàn Thạch Ngọc và biết bao những chiến sĩ anh hùng khác nữa của VNCH đã sa cơ thất thế.
Kính thưa quý văn hữu,
Còn nhiều điều đáng nói lắm trong giai phẩm Trầm Hương 10, nhưng tôi đã nói nhiều, và xin để quý bạn khám phá thêm những lời hay ý đẹp trong giai phẩm.
Trân trọng kính chào tạm biệt và cảm tạ quý văn hữu đã lắng nghe”.
Kính thưa quý thính giả nghe Đài,
Trầm Hương số 10 dày 200 trang, phát hành vào Mùa Xuân năm 2008 đặc biệt có tăng cường thêm một cây bút mới, đó là Nhà văn Lê Thị Hoài Niệm.
Trầm Hương 11 dày 208 trang, phát hành vào Mùa Thu năm 2008 có tăng cường các cây bút tên tuổi như Vũ Tiến Lập, Nguyễn Lập Đông, Vũ Linh, Hồ Công Tâm, Hải Bằng v.v…
Sang Trầm Hương 12 có sự hiện diện của Nhà thơ Hải Phương và Nhà văn Trần Bang Thạch càng làm cho Giai phẩm Trầm Hương đứng vững hơn trong làng Văn học Hải ngoại mà đỉnh cao có lẽ là Trầm Hương 13 với sự xuất hiện của Quan Dương, Phạm Ngũ Yên cùng nhiều tác giả khác làm nên một tác phẩm hoàn chỉnh về hình thức lẫn nội dung. Trầm Hương 13 là tác phẩm cuối cùng kết thúc một chặng đường dài gần 5 năm để bước vào một giai đoạn mới là Trầm Hương 14 mà chúng tôi chuyển thành Trầm Hương số 1 Bộ mới. Có thể nói Trầm Hương số 1 bộ mới này là một cố gắng vượt trội của chúng tôi để hình thành một tác phẩm với sự đổi mới hoàn toàn về hình thức lẫn nội dung. Trầm Hương 1 bộ mới dày 196 trang với sự góp mặt của Yên Sơn, Trần Yên Thảo, Nguyễn Thị Thanh Dương, Phan Bá Thụy Dương, Hải Phương, Nguyễn Bạch Dương, Ngô Nguyên nghiễm, Nguyễn Đức Nhơn, Phạm Ngũ Yên, Tuấn Đình, Nguyên Đắc Nguyên Khoa, Đàm Trung Pháp, Trần Nguyên Đán, Phạm Tương Như, Huỳnh Quang Thế, Túy Hà, Nguyễn Thế Giác, Nguyễn Hữu Nhật, Nguyễn Lập Đông, Nguyễn Tôn Nhan, Như Phong, Phan Xuân Sinh, Thái Bạch Vân, Vũ Linh, Lê Hữu Minh Toán, Lưu Thái Dzo, Xuân Bích, Song An Châu, Tiểu Thu, Lan Cao, Vũ Tiến Lập, Tuấn Trường, Diễm Nghi, Vĩnh Tuấn, Trọng Đạt, Lã Mộng Thường, Phiêu Bồng và Hà Lan Phương.
Trầm Hương 1 bộ mới phát hành vào Mùa Thu năm 2009. Sự ra đời của tập 1 bộ mới là khởi đầu cho một cuộc hành trình với những thách thức trùng trùng trước mắt. Quý thính giả có thể thấy rõ điều này qua lời tâm sự của Văn hữu Chủ bút Túy Hà trong phần mở đầu sau đây:
“Viết đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu cho những đời lấy chữ nghĩa làm vui, và dĩ nhiên bốn mùa luôn xoay chuyển thì ý tình người cũng mộng ảo biến thiên. Nhưng thực tế muôn đời vẫn là phàm tục, nợ áo cơm thôi thúc từng giây. Người viết muốn trọn tình ngôn ngữ, muốn trải lòng tình tự quê hương thì luôn phải mượn hồn nhập xác như hằng đêm trên sân khấu, người diễn viên luôn phải thay vai… Lúc là vua quyền uy một cõi, lúc lính hầu khiên võng nặng vai. Kịch là đời và chính đời là kịch, mỗi một người là một diễn viên. Khi sinh ra, biết khóc trước cười là dấu chỉ cho một đời nhập cuộc, để thích nghi với toàn cảnh thiên nhiên nhất là lúc giao mùa chưa rõ nét mà ngoài kia lá đã chớm vàng.
Thu u uẩn như vầng trăng thiếu phụ,
Thu cũng là mùa cúc nở râm ran
Trăng nghiêng xuống nhuộm vàng lên xác lá
đời lưu vong nhớ quá mảnh sân nhà.

Trầm hương đã là một vuông sân có thật cho những đời lưu vong còn nhớ mảnh sân nhà, đã năm năm qua khởi đi từ vài người bạn già sinh tình tức cảnh lúc trà dư tửu hậu, tự hỏi còn gì sau những bôn ba mỏi mệt ở xứ người. Như ngẫu hứng lý qua cầu lỡ độ, thì thôi đành đem chữ nghĩa luận bàn, từ lý luận suông bàn thành thực tế và Trầm Hương thành một sân chơi. Tin lại thư đi, bằng hữu tụ về không thiếu, thì ra: ngựa hồ luôn nhớ ngọn bắc phong. Mỗi thân hữu góp một bàn tay với nhiệt tình rực lửa, không so đo tính toán, không phân biệt chuyên nghiệp hay tài tử mỗi một sáng tác thi văn đều chung dòng sinh mệnh, đem tâm tình làm phong phú chữ nghĩa nước ta. Ngôn ngữ Việt Nam tự nó đã là thơ là nhạc, là tiếng chim hót đầu hè, là tiếng đỗ quyên gọi hồn Thục đế, là tiếng gió ru trên bạt ngàn ruộng lúa, là tiếng gào thê thiết của hổ nhớ rừng. Tất cả là tâm tư tình cảm của những đời dân Việt lưu vong. Tất cả đã đến với Trầm Hương suốt năm năm dài không ngừng nghỉ, góp thêm hương sắc cho vườn hoa văn học Hải ngoại. Tự hào nhưng không tự tôn, tự ti nhưng không mặc cảm. Trầm Hương đã là một thực thể hiện hữu trong trái tim của những người còn yêu chữ nghĩa.
Thế nhưng, trên đường thiên lý làm sao không mỏi mệt, mộng ảo có biến thiên, mà sức người thì luôn luôn hữu hạn trước những đổi thay bất chợt của mưa lạnh nắng hè.
Nắng không ưa, mưa không chịu, thôi thì nối lại vòng tay đón ngọn thu phong, bước vào mùa trăng diễm ảo. Bằng chút tình chữ nghĩa vẫn có nhau.
Với chút tâm tư mơ hồ bảng lảng ấy, chúng tôi và những bằng hữu còn lưu luyến với Trầm Hương, quyết định tiếp bước dù khó khăn hạn chế mọi nẻo đường. Không bằng lòng với chính mình có nghĩa là luôn cầu tiến, biết quên đi những lời khen hoa mỹ có nghĩa là tự trọng. Người cầm bút chân chính là người không mang tính tự kiêu. Bởi vì tự kiêu chính là sát thủ luôn chực chờ để giết chết mọi tài năng.
Bạn đang đọc những dòng chữ này có nghĩa là bạn đang hà hơi tiếp sức cho chúng tôi tăng thêm nhiệt tình để sống, để viết, làm vơi đi nỗi buồn lưu vong.
Với tình hình phát triển không ngừng nghỉ của hệ thống điện báo toàn cầu thì việc in sách báo, tạp chí, tưởng chừng như lạc hậu và đang đến hồi giẫy chết. Thế nhưng thử hỏi bạn nghĩ gì khi cầm một ấn phẩm mới còn thơm mùi mực, và thử hỏi bạn sẽ ngồi bao nhiêu lâu trước máy tính cá nhân để đọc hết những trang điện báo nhất là đối với thế hệ lưu vong thứ nhất. Nhiều, còn nhiều câu hỏi lắm, vì thế không thể khen chê hay so sánh. Vì vậy Trầm Hương sẽ tiếp tục ấn hành như chút kỷ niệm lưu lại trong lòng những người Việt chân chính và hữu tình hằng quan tâm đến việc phát huy văn hóa Việt Nam nơi xứ người. Tuy nhiên bên cạnh đó để việc giới thiệu sáng tác mới đến đọc giả được hữu hiệu hơn và cũng có thể xem như một hồ sơ lưu trử tài liệu, chúng tôi cũng đã cố gắng thực hiện và mời Quý vị ghé thăm trang nhà:
www.hoiquantramhuong.net
Vì không chủ trương thương mại nên mọi yểm trợ tinh thần cũng như vật chất của quý thân hữu và độc giả sẽ là niềm khích lệ to lớn cho nhóm chủ trương. Xin nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của chúng tôi”.
Kính thưa quý thính giả nghe Đài,
Song song với các sinh hoạt mà tôi vừa trình bày ở trên, Thi Văn Đàn Trầm Hương cũng đã tổ chức những buổi họp mặt giới thiệu các tác phẩm của Trầm Hương cũng như những tác phẩm riêng của một số thành viên trong Thi Văn Đàn. Tổng cộng có 8 lần tổ chức: 2 lần ở Trụ sở Hội Cao Niên Fort Worth, 1 lần tại trụ sở Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Dallas, 2 lần tại Hội quán Thiên Kim ở Richardson, 2 lần tại nhà hàng Tự Do ở Arlington và 1 lần tại nhà hàng Kim Hồng ở Arlington, Texas. Hiện tại Thi Văn Đàn Trầm Hương đang thực hiện các chương trình sau đây:
1. Tạp chí Trầm Hương
2. Trang thơ trên Tuần báo Kiến Thức
3. Phát thanh vào ngày Chúa Nhật hàng tuần trên Đài TNT
4. Thực hiện website: hoiquantramhuong.net
Kính thưa quý thính giả,
Bài nói chuyện của tôi hôm nay có mục đích gởi đến Độc giả, Thính giả Đài TNT và quý Văn Thi hữu một số thành quả khiêm nhường mà Thi Văn Đàn Trầm Hương đạt được để kỷ niệm ngày Thi Văn Đàn Trầm Hương tròn 5 tuổi và mừng Tết Nguyên Đán Canh Dần năm 2010.
Trước thềm năm mới, thay mặt Ban Điều Hành Thi Văn Đàn Trầm Hương, tôi xin kính chúc quý Độc giả, quý Thính giả Đài TNT và quý Văn Thi hữu cùng Gia đình một năm mới hạnh phúc, an khang và thịnh vượng.

Đàm Trung Pháp
THĂNG HOA KHẢ NĂNG NGOẠI NGỮ
QUA THI CA TRỮ TÌNH

Hồi còn là sinh viên ban cử nhân chuyên về Anh ngữ tại Miami University thuộc tiểu bang Ohio trong đầu thập niên 1960, tôi có cơ hội học thêm một số ngoại ngữ trong phần học trình nhiệm ý. Tiến sĩ Glen Barr là vị giáo sư tiếng Tây ban nha tôi ngưỡng mộ nhất. Ông uyên bác, hiền lành, tận tụy, và rất quý mến học trò. Sau một thời gian học với ông, tôi được ông mướn làm người chấm (grader) bài tập của sinh viên theo học các lớp Tây ban nha ngữ nhập môn của ông. Mỗi cuối tuần, với nụ cười hiền hậu, ông trao tôi một món tiền căn cứ vào số bài tôi đã chấm dùm ông. Món tiền thường chỉ đủ để đưa cô bạn gái người Mỹ đi xi-nê một hai chầu là cạn, nhưng tôi rất cảm động và hãnh diện được ông thầy học tin cậy khả năng.
Một hôm tôi hỏi ông: “Thầy ơi, có cách nào hấp dẫn hơn để trau giồi tiếng Tây ban nha, ngoài việc học thuộc lòng các quy luật văn phạm và từ vựng buồn tẻ không?” Ông gật gù, có vẻ thích thú câu hỏi của tôi, rồi ông hỏi lại tôi: “Anh có thích thơ và nhạc không?” Thấy tôi gật đầu lia lịa, ông nói tiếp: “Vậy thì hãy thử tìm đọc thơ của Gustavo Adolfo Bécker, và nghe những bài hát do Trio los Panchos trình diễn đi!” Ông thầy chí tình của tôi còn quả quyết là qua thơ và nhạc, tôi sẽ thích tiếng Tây ban nha hơn, biết thêm từ vựng văn học, hiểu thêm nếp sống tình cảm của người dân Tây ban nha và Mỹ châu la-tinh, và nhất là sẽ thăng hoa khả năng phát âm và khả năng nghe hiểu thứ tiếng này. Ông vỗ vai tôi, nói tiếp trước khi tôi rời văn phòng ông: “Tin tôi đi, vì đó là kinh nghiệm bản thân của tôi mà!”
Tôi không thể ngờ là giáo sư Barr đã cho tôi một lời khuyên vô giá. Ông quả là một nhà giáo ngoại ngữ tinh đời mà tôi có diễm phúc được làm học trò.
Rời văn phòng ông, tôi vội ghé thư viện của trường để mượn một cuốn hợp tuyển dầy cộm về văn học Tây ban nha trong đó có thơ của đại danh Gustavo Adolfo Bécker và các thi nhân lẫy lừng khác. Tôi cũng vào một tiệm âm nhạc ở ngoài phố để mua một đĩa hát của ban tam ca Trio los Panchos rất được ưa chuộng thời ấy, bìa in hình ba chàng ca sĩ để râu mép như Clark Gable, đội mũ rộng vành, tay ôm đàn điệu nghệ. Chỉ tiếc là cái album đĩa hát thuộc loại “long-playing” ấy của nhà sản xuất Columbia không có đính kèm bản văn (lyrics) của các bài hát, nhưng đây lại là một điều tốt cho tôi, như sẽ giải thích dưới đây.
Gustavo Adolfo Bécker (1836-1870), một nhà thơ tài hoa nhưng mệnh yểu thuộc trào lưu hậu lãng mạn, đã chinh phục ngay được lòng mến mộ của tôi qua một số bài thơ trữ tình trong tuyển tập RIMAS của ông. Thi tuyển này gồm 98 bài –có bài rất ngắn nhưng cũng có bài khá dài, tổng cộng thành vài ngàn câu thơ trác tuyệt– đóng vai trò quan trọng trong văn học Tây ban nha và nằm trong học trình trung học của các quốc gia nói thứ tiếng này. Sau tuyệt tác này, Bécker được coi như người đã sáng lập ra trường phái “trữ tình mới” của văn học Tây ban nha, ảnh hưởng trực tiếp đến các đại danh thi ca như Octavio Paz và Rubén Darío. Nét trữ tình ngọt ngào và chân thành của nhà thơ nổi bật trước sự bộc phát của tình yêu và nỗi cô quạnh của thiên nhiên, khiến người đọc mủi lòng và thấm thía đến nỗi phải đọc đi đọc lại đoạn thơ hay cả bài thơ liên hệ ấy cho đến khi nhập tâm mới thôi.
Nhưng Nàng Thơ của thi tập RIMAS là ai ? Thưa, đó là nàng Elisa Guillén, một kiều nữ mà nhà thơ mê say nhưng duyên không thành, trước khi ông đành kết hôn với cô Casta Esteban Navarro trong một cuộc tình duyên thiếu hạnh phúc.
Trau giồi tiếng Tây ban nha qua thi tập RIMAS trữ tình của Bécker và qua những bài hát mùi mẫn của ban tam ca Trio los Panchos bỗng chốc trở thành niềm đam mê mới của tôi!
Xin nói về thơ trước. Mỗi chiều sau khi xong bài vở các môn học khác, tôi ngồi hàng giờ để đọc và … học thuộc lòng thơ Bécker! Ngay bữa đầu tôi đã bị quyến rũ bởi RIMA XXI, RIMA XXII, và RIMA XXIII là ba bài thơ tình rực rỡ mà ý nghĩa đã khiến tôi ngồi mơ mộng, ước chi mình là người thi sĩ diễm phúc ấy! Này nhé, chàng có một cô bạn gái xinh như mộng đang mê chàng như điếu đổ. Một hôm nàng âu yếm nhìn chàng thật lâu rồi nhõng nhẽo hỏi: “Thơ là cái chi mà anh mê nó thế hả anh?” Sự bộc phát của tình yêu đã khiến nhà thơ thốt ra câu trả lời nổi tiếng nhất trong thi ca trữ tình thế giới: “Thơ … là em đấy!” Thi nhân cũng chẳng để lỡ cơ hội cho tiếng lòng đang thổn thức rót thêm những lời đường mật vào tai cô bạn gái mà chàng vừa tấn phong làm Nàng Thơ. Xin mời quý bạn đọc thưởng lãm tiếng thơ nguyên tác của Bécker trong ba bài vừa kể và miễn chấp phần vụng về cố gắng dịch sát ý nghĩa sang tiếng Việt của tôi theo sau:
¿QUÉ ES POESÍA? DICES, MIENTRAS CLAVAS
EN MI PUPILA AZUL.
¿QUÉ ES POESÍA ? Y TÚ ME LO PREGUNTAS ?
POESÍA … ERES TÚ.
Thơ là cái chi ? Em hỏi, khi
mắt em soi thẳm mắt xanh anh.
Thơ là cái chi ? Em hỏi anh như vậy ?
Thơ … là em đấy.
¿CÓMO VIVE ESA ROSA QUE HAS PRENDIDO
JUNTO A TU CORAZÓN ?
NUNCA HASTA AHORA CONTEMPLE EN
LA TIERRA SOBRE EL VOLCÁN LA FLOR.
Bông hồng cài sát
bên tim em sao sống nổi ?
Xưa nay trên đời chưa ai thấy
bông hoa nào trên hỏa diệm sơn.
POR UNA MIRADA, UN MUNDO,
POR UNA SONRISA, UN CIELO,
POR UN BESO… ¡ YO NO SÉ
QUE TE DIERA POR UN BESO !
Một thế giới cho từng ánh mắt,
Một bầu trời cho mỗi mỉm cười,
Riêng mỗi nụ hôn … anh chẳng biết
Tặng em gì cho mỗi nụ hôn !
Ý tứ rạt rào đam mê, ngôn ngữ bình dị như lời nói chuyện, cú pháp đơn sơ ở mức tối đa trong những câu thơ trên khiến chúng trở nên vô cùng hấp dẫn và dễ thuộc lòng. Và thuộc lòng những câu thơ mà mình thống khoái có nhiều lợi điểm lắm. Nào là từ vựng, nào là cách chấm câu, nào là các mẫu cú pháp, tất cả đã được ghi nhớ vào trí óc để sẵn sàng mang ra sử dụng khi cần thiết. Tôi mê các câu POESÍA … ERES TÚ / POR UNA MIRADA, UN MUNDO/ POR UNA SONRISA, UN CIELO cho nên đã dùng chúng làm các câu mẫu để viết ra các câu tương tự như MI MUSA … ERES TÚ (Nàng Thơ của anh … là em đấy), POR UNA CARICIA, UN YATE (Một du thuyền cho mỗi vuốt ve), và POR UN ABRAZO, UN CASTILLO (Một lâu đài cho từng ôm ấp). Thú thực, lúc đó đam mê tình ái của nhà thơ đã lây sang tôi, và tôi thấy thi ngữ của Bécker ngon như những viên kẹo dragées !
Nhưng không phải bài thơ nào của Bécker cũng hạnh phúc đâu. Khi đọc xong RIMA LIII lòng tôi chùng xuống như thể bị thất tình, vì hành vi những con chim én trong bài thơ não nùng ấy được dùng làm biểu tượng cho lòng sầu muộn và nỗi lo âu của một cuộc tình vừa tan vỡ :
VOLVERÁN LAS OSCURAS GOLONDRINAS
EN TU BALCÓN SUS NIDOS A COLGAR.
Y OTRA VEZ CON EL ALA A SUS CRISTALES,
JUGANDO LLAMARÁN.
Những con én đen đúa sẽ trở lại
xây tổ trên mái hiên nhà em.
Và lần nữa, vỗ cánh trên cửa sổ
chúng vui chơi và sẽ gọi tên.
PERO AQUELLAS QUE EL VUELO REFRENABAN
TU HERMOSURA Y MI DICHA A CONTEMPLAR,
AQUELLAS QUE APRENDIERON NUESTROS NOMBRES,
¡ESAS… NO VOLVERÁN !
Nhưng những con từng bay chậm lại
để ngắm nhìn nhan sắc em và hạnh phúc anh,
Những con đã biết gọi tên chúng mình,
Những con ấy… sẽ không trở lại!
RIMA LIII chứa đựng nhiều từ vựng quan trọng trong thi ngữ Tây ban nha, nhưng đáng kể hơn nữa là những câu thơ trác tuyệt trong bài là điều nhắc nhở người đang học rằng thứ tự các từ ngữ (word order) trong cú pháp Tây ban nha rất linh động, chẳng hạn ngay trong câu đầu tiên, động từ VOLVERÁN được đặt trước chủ từ LAS OSCURAS GOLONDRINAS, và trong câu thứ năm túc từ trực tiếp EL VUELO được đặt trước động tnhi
REFRENABAN.
Nếu so với thơ về mức hấp dẫn để thăng tiến khả năng ngoại ngữ thì nhạc “ăn đứt” thơ vì nhạc có thêm chiều (dimension) âm thanh. Mỗi bài hát, ngoài từ vựng và cú pháp gửi gấm trong những lời ca, còn là một mẫu mực cho phát âm (pronunciation) và các mô hình ngữ điệu (intonation patterns), cũng như một thực tập để nghe hiểu (listening comprehension). Ba bài hát SOLAMENTE UNA VEZ, PERFIDIA, và BÉSAME MUCHO do Trio los Panchos trình diễn mùi mẫn trong điệu bolero chầm chậm đã làm tôi mê ngay lúc nghe lần đầu, mặc dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa những câu hát vì tôi không có văn bản (lyrics) trước mắt. Tôi quyết định phải nghe đi nghe lại ba bài hát ấy cho đến khi thuộc lòng, rồi ngồi xuống, với cuốn tự điển Tây ban nha nho nhỏ trong tay để giúp phần tra cứu chính tả (spelling), viết ra giấy những gì tôi đã ghi trong trí nhớ. Nỗ lực ấy là một lối thực tập tự viết chính tả thú vị, và sau một hai tiếng đồng hồ, tôi đã có văn bản của ba bài ca bất hủ! Khả năng nghe hiểu (listening comprehension) cũng rõ rệt được thăng hoa khi tôi chăm chú mê say nghe những lời ca của Trio los Panchos. Âm điệu (melody) ngọt ngào êm tai hòa với nhịp điệu (rhythm) lên xuống rộn ràng của các bài hát như có ma lực giúp tôi mau chóng thuộc lòng những lời ca chứa chan cảm xúc mạnh của chúng.
Nói về cảm xúc mạnh thì ba bài hát nêu trên thuộc loại thượng thừa! Nghe xong bài SOLAMENTE UNA VEZ tôi thắc mắc hoài về người trong cuộc. Tại sao chỉ một lần yêu thôi? Lý do nào tan vỡ? Ly dị, chết chóc, hay chỉ vì người ta thay lòng đổi dạ? Mời quý bạn đọc nghe niềm tiếc nuối ngút ngàn của tác giả bài ca này:
SOLAMENTE UNA VEZ
AMÉ EN LA VIDA ;
SOLAMENTE UNA VEZ,
Y NADA MÁS.
Chỉ một lần thôi
tôi đã yêu trong đời ;
chỉ một lần thôi,
rồi không còn chi nữa.

UNA VEZ NADA MÁS EN MI HUERTO
BRILLÓ LA ESPERANZA,
LA ESPERANZA QUE ALUMBRA EL CAMINO
DE MI SOLEDAD.
Chỉ một lần thôi tia hy vọng
rực sáng trong mảnh vườn tôi,
tia hy vọng soi con đường
cô độc cả cuộc đời.
UNA VEZ NADA MÁS
SE ENTREGA EL ALMA
CON LA DULCE Y TOTAL
RENUNCIACIÓN.
Chỉ một lần thôi
tâm hồn tôi hàng phục
sự buông lơi trọn vẹn
ngọt ngào.
Y CUANDO ESE MILAGRO REALIZA
EL PRODIGIO DE AMARSE,
HAY CAMPANAS DE FIESTA QUE CANTAN
EN EL CORAZÓN.
Và khi phép lạ ấy
mang lại ái ân kỳ diệu,
bao tiếng chuông đình đám rộn ràng
cùng ca hát trong tim.
Tôi thấy tội nghiệp vô cùng cho tác giả bài hát PERFIDIA. Đau sót biết mấy khi có người yêu điên đảo ! Nhạc sĩ thất tình với trái tim rớm máu này thở than về một phụ nữ đã làm cho đời ông tan nát. Ông mang cả Thượng Đế, cả biển sâu ra làm nhân chứng cho mối tình thành khẩn, cho những lần than khóc, cho những chuyến đi tìm kiếm vô vọng của ông – tất cả chỉ vì sự đảo điên, đi hoang của nàng thôi :
MUJER, SI PUEDES CON DIOS HABLAR,
PREGÚNTALE SI YO ALGUNA VEZ
TE HE DEJADO DE ADORAR.
Y AL MAR, ESPEJO DE MI CORAZÓN,
LAS VECES QUE ME HA VISTO LLORAR
LA PERFIDIA DE TU AMOR.
Em, nếu có thể thưa chuyện cùng Thượng Đế,
hãy hỏi Ngài xem anh đã dám lần nào
chểnh mảng tôn thờ em.
Và hỏi biển, gương soi trái tim anh,
những lần biển đã thấy anh nhòa lệ
khóc cho đảo điên tình ái của em.
TE HE BUSCADO DONDEQUIERA,
YO NO TE PUEDO HALLAR.
Y TÚ, QUIÉN SABE POR DÓNDE ANDARÁS,
QUIÉN SABE QUÉ AVENTURAS TENDRÁS,
QUÉ LEJOS ESTÁS DE MÍ.
Anh đã đi tìm em khắp chốn,
mà nào thấy bóng dáng em đâu.
Còn em, ai biết em đi phương nào,
ai biết em mạo hiểm tình ái ra sao,
khi em xa cách anh biết mấy.
May thay, những tiếc nuối trong bài SOLAMENTE UNA VEZ và những nát lòng trong bài PERFIDIA được đền bù rộng rãi bằng những đam mê trong bài BÉSAME MUCHO do nữ nhạc sĩ Mễ tây cơ Consuelo Velázquez sáng tác năm 1940. Điều đáng ngạc nhiên về tác giả bài hát thúc dục hôn nhau thắm thiết nổi tiếng thế giới này là sự kiện cô ta, cho tới lúc ấy, chưa bao giờ được ai hôn cả. Cô phải bạo phổi lắm, vì ở thời điểm đó bên Mễ tây cơ, hôn nhau say đắm theo kiểu cô ta đề nghị vào ban đêm thì chắc chắn bị coi như … tội lỗi rồi ! Cả thế giới biết đến bài hát này mà dưới đây là hai đoạn chính của nội dung nguyên tác ; đoạn thứ nhất được nhắc lại ở cuối bài hát như một điệp khúc khi trình diễn. Vì tác giả thuộc phái đẹp, trong phần chuyển ngữ tôi để nàng làm người thúc dục động tác hôn nhau :
BÉSAME, BÉSAME MUCHO,
COMO SI FUERA ESTA NOCHE LA ÚLTIMA VEZ.
BÉSAME, BÉSAME MUCHO.
QUE TENGO MIEDO PERDERTE, PERDERTE DESPUÉS.
Hôn em đi, hôn em đi thật say đắm,
như thể là lần chót trong đêm nay.
Hôn em đi, hôn em đi thật say đắm.
Em sợ biết bao sẽ mất anh, mất anh sau này.
QUIERO TENERTE MUY CERCA,
MIRARME EN TUS OJOS, VERTE JUNTO A MÍ.
PIENSA QUE TAL VEZ MAÑANA
YO YA ESTARÉ LEJOS, MUY LEJOS DE TÍ.
Em muốn có anh thật gần,
soi bóng em trong mắt anh, thấy anh sát bên em.
Anh hãy nghĩ mai đây có thể
Em sẽ đi xa, hàng vạn dặm xa anh.
Mấy chục năm đã qua đi, nhưng kỳ diệu thay những bài thơ tình trinh nguyên của Bécker, những bài hát do Trio los Panchos trình bầy mùi mẫn mà tôi học thuộc lòng trong tuổi thanh xuân, ngày nay tôi vẫn chưa quên! Tôi vẫn còn giữ thói quen đọc thơ và nghe nhạc Tây ban nha trong lúc nhàn rỗi để thăng hoa khả năng thứ tiếng ấy. Mới đây thôi, tôi đọc một bài thơ tuyệt đẹp của Pablo Neruda (1904-1973) từng đoạt giải Nobel văn chương. Đó là bài LA REINA (Nữ Hoàng) mà thi bá gốc người xứ Chí lợi viết để tặng Nàng Thơ bằng da bằng thịt của mình mang tên Matilde Urrutia. Nàng thua ông 8 tuổi, yêu kiều, tràn đầy nhựa sống, tính tình nồng thắm, hát như chim sơn ca, và chơi dương cầm thiện nghệ. Hai đoạn thơ long trời lở đất trong bài LA REINA sau đây cho người đọc biết tại sao nàng được ông tôn là Nữ Hoàng:
Y CUANDO ASOMAS
SUENAN TODOS LOS RÍOS
EN MI CUERPO, SACUDEN
EL CIELO LAS CAMPANAS,
Y UN HIMNO LLENA EL MUNDO.
Và khi em xuất hiện
tất cả những giòng sông náo động
trong thân anh, những hồi chuông
rung chuyển cả bầu trời,
và một bài thánh ca ngập tràn thế giới.
SÓLO TÚ Y YO,
SÓLO TÚ Y YO, AMOR MÍO,
LO ESCUCHAMOS.
Chỉ có em và anh,
em yêu ơi, chỉ có em và anh
lắng nghe bài thánh ca ấy.
Và trong dịp nghỉ lễ Giáng sinh vừa qua, tôi lên Internet tìm lại được bài SOLAMENTE UNA VEZ là bài hát tôi yêu mến nhất! Kỹ thuật ngày nay cho âm nhạc thêm một chiều nữa, đó là hình ảnh sống động đi kèm. Tôi nghe và xem hình hai giọng ca vàng Julio Iglesias gốc Tây ban nha và cô Thalía sắc nước hương trời, đệ nhất đào thương telenovela xứ Mễ tây cơ, song ca trong một youtube. Từ trước đến nay, tôi chưa thấy ai hát SOLAMENTE UNA VEZ ngọt ngào đến mê hồn như họ! Bao kỷ niệm thời thanh xuân vụt trở lại, và tôi, nước mắt tiếc nuối lưng tròng, thầm đọc mấy câu thấm thía của Rubén Darío (1867-1916):
JUVENTUD, DIVINO TESORO,
YA TE VAS PARA NO VOLVER!
CUANDO QUIERO LLORAR, NO LLORO …
Y A VECES LLORO SIN QUERER …
Tuổi thanh xuân, kho tàng thần thánh,
đã ra đi để chẳng trở về !
Lúc muốn khóc nào đâu khóc nổi ..
nhưng nhiều khi bất chợt lệ rơi…

Nguyễn Đức Nhơn
bóng thời gian
(Tôi vẫn biết dù năm cùng tháng tận
Cũng chỉ là nhịp thở của hư không)

Hưng phế ngàn năm giấu mặt
Cổ kim luận tội anh hùng
Trái đất ngàn năm què quặt
Sao khuya rớt giữa muôn trùng
Hình nộm mặc áo long bào
Xua tay đuổi bầy ngạ quỷ
Mặt nạ ngàn năm giấu kỹ
Bùa mê rải khắp tinh cầu
Mặt đất khép kín hà đồ
Lạc hồn bùa mê thuốc lú
Ngậm ngải đi tìm quái thú
Rừng xanh áo vải khăn sô
Tượng đá cúi mặt ngủ vùi
Hình như một lần mở mắt
Cát sỏi bầm gan tím mật
Giật mình khép vội con ngươi
Trống đồng phù điêu bỏ phế
Hưng vong tuổi đất dạy thì
“Nguyệt lạc ô đề” bạch thố
Lần tay tính tuổi sao Vi.

Trọng Đạt
KHÁI LUẬN
về Nghệ thuật tùy bút Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân (1910-1987) là người đã tự xây dựng cho mình một địa vị riêng rẽ trong nền văn chương Việt Nam, ông không thuộc một trường phái nào, là một nhà văn độc lập và có những nét độc đáo về hành văn, tư tưởng.
Trong bài này chúng tôi xin trình bầy cùng quí vị một cái nhìn tổng quát về nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân, những nét chính trong văn chương của ông viết trước 1945 và xin được chia làm những đặc tính như sau.
1-Tùy Bút.
2-Lữ Hành.
3-Cái Tôi.
4-Mâu Thuẫn.
5-Hướng Thiện.
6-Đi Trước Thời Đại.
7-Bi Quan.
8-Giá Trị.
Theo Ông Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại.
“Những tập văn của ông dầu không phải là tùy bút cũng ngả về tùy bút chẳng ít thì nhiều”
Trong bài Nguyễn TuânVà Sông Đà, nhà nghiên cứu trong nước Nam Mộc viết.
“Những tác phẩm ấy có cuốn đề là truyện dài, truyện ngắn hoặc phóng sự, du ký nhưng nói chung đều là những tùy bút hoặc mang nhiều tính chất của tùy bút là thể tài sở trường của Nguyễn Tuân và rất phù hợp với cá tính của Nguyễn Tuân”
Trương Chính, nhà nghiên cứu phê bình trong nước cũng đã nói.
“Truyện ngắn truyện dài, phóng sự của ông tất cả đều là những thiên tùy bút trá hình. Vì vậy, nói đến tác phẩm của Nguyễn Tuân tức là nói đến con người của ông”
Các tác phẩm của Nguyễn Tuân viết trước ngày theo Việt Minh gồm có:
-Vang Bóng Một Thời, tập truyện ngắn, xuất bản năm 1940.
-Ngọn Đèn Dầu Lạc, ký sự, Mai Lĩnh xuất bản 1941.
-Tàn Đèn Dầu Lạc, ký sự, Mai Lĩnh xuất bản 1941
-Một Chuyến Đi, Tân Dân xuất bản, Hà nội 1941.
-Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, tùy bút, Hàn Thuyên xuất bản 1941.
-Tùy Bút I, Cộng Lực xuất bản 1941.
-Tùy Bút II, Lượm Lúa Vàng xuất bản 1943.
-Quê Hương, tiểu thuyết, Anh Hoa xuất bản 1943.
-Tùy Bút III hay Nguyễn, Thời Đại, Hà Nội xuất bản 1945.
-Chùa Đàn, truyện ma quỉ, xuất bản Hà Nội 1945.
Chúng tôi xin dành đôi giòng để nói về tùy bút.

1-Tùy Bút.
Được định nghĩa là để tùy ý cho ngọn bút diễn tả một cách rộng rãi tự do tâm tư của tác giả.
Ông Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, cuốn 3 đã định nghĩa như sau.
“Duy có điều là ký sự của ông không phải như ở giai đoạn Nam Phong… mà là đại biểu cho một giai đoạn già dặn… để tự do, tùy bút, muốn viết gì thì viết, ghi chép gì cũng được. Những truyện của Nguyễn Tuân hơn cả với Thạch Lam chẳng có gì làm truyện cả; nghĩa là những yếu tố thông lệ gọi là động tác, là thắt là cởi. Chỉ là những mảnh đời hé lộ của cuộc sống xưa, hay là những kể lể dông dài về một cuộc gặp gỡ, những tâm sự lê thê, những cảm tưởng vụn vặt của chính mình”.
Nhà phê bình văn học trong nước Nguyễn Mạnh Đăng định nghĩa như sau.
“Tùy bút là gì? Định nghĩa vừa dễ lại vừa khó. Dễ vì khái niệm bản thân nó đã tự giải thích: là phóng bút, tùy bút mà viết chứ sao! Nhưng chính vì thế mà khó. Vậy thì còn có thể nói gì về qui tắc thể loại của nó nữa? Ở Tây phương hiện đại, tùy bút rất phát triển. Nhưng càng phát triển, khái niệm tùy bút càng mơ hồ hơn. Có người đã nói: ‘Tự do là phép tắc duy nhất của tùy bút’.Có thể hiểu một cách đại khái thế này: người viết tùy bút thường mượn cớ thuật lại một sự kiện, một mẩu chuyện nào đó mà mình có trải qua để nhân đấy nêu lên những vấn đề này khác mà bàn bạc, mà nghị luận, triết luận, ném ra những suy tưởng của mình một cách thoải mái phóng túng”.
Chúng tôi xin trích dẫn thêm một số định nghĩa nữa về tùy bút của các nhà nghiên cứu trong nước để chúng ta có thêm nhiều ý kiến hầu dễ bề quán triệt.
Ông Vương Trí Nhàn trong bài Nguyễn Tuân Và Thể Tùy Bút có nói.
“Thuở vua Lê chúa Trịnh, tức những năm tháng hỗn loạn của chế độ phong kiến, cũng đã có một cuốn sách mang tên Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ ra đời, nhưng chữ tùy bút ở đây, không phải là để chỉ thể loại của tác phẩm, mà có liên quan tới cách viết cũng là cái phóng túng trong công việc cầm bút. Vả chăng đọc vào thì thấy đây là một thứ ghi chép của nhà nho nghèo nhân quan sát sự đời mà tìm cách ghi lại để các thế hệ sau cùng biết, chứ cái phần thấy đậm gắt ở tùy bút Nguyễn Tuân là chất chủ quan của nhà văn, cái đó ở Vũ Trung Tùy Bút không có”
Theo Vương Trí Nhàn, tùy bút phải có tính cách chủ quan của nhà văn, những ý nghĩa thâm trầm, những tâm tư của tác giả trước cuộc đời. Ông cũng lấy định nghĩa trong tự điển của Nga ra để giảng nghĩa thêm như sau.
“Tùy bút (essai – tiếng Pháp) là tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ và có cấu trúc tự do, biểu thị những ấn tượng và suy nghĩ cá nhân về những sự việc, những vấn đề cụ thể và hoàn toàn không tính tới việc đưa ra cách giải thích cố định và đầy đủ về đối tượng”
Ông cũng trích dẫn một cuốn tự điển khác như sau.
“Được gọi là tùy bút là những tác phẩm mà ở đó nổi lên trên bình diện thứ nhất, những phẩm chất, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo của riêng mình, những người thích tự biểu hiện, tự phân tích, đồng thời là những bút pháp vừa giầu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt chẽ như châm ngôn. . . những người đó mới đi vào tùy bút”.
Dưới đây là định nghĩa về túy bút của Hà Văn Dức, nhà nghiên cứu trong nước.
“Tùy bút là một thể loại có lối viết tương đối tự do, phóng khoáng. Nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đẩy, có thể đi từ việc này sang việc khác, từ liên tưởng này sang liên tưởng nọ để bộc lộ những nhận thức, suy nghĩ và cảm súc của mình về đối tượng được phản ánh. Ở thể loại tùy bút, cái tôi bản ngã của nhà văn được thể hiện rõ nét gần như trong thơ trữ tình. Nguyễn Tuân khi nói về thể loại tùy bút đã đưa ra một nhậân xét ngắn gọn nhưng không kém phần dí dỏm: ‘Tùy bút là viết tùy theo bút, theo cảm hứng’. Nói như vậy không có nghĩa đây là một thể loại dễ viết. Nếu người viết tỏ ra kém bản lĩnh hay non tay sẽ rất dễ gây cho người đọc cái cảm giác nhàm chán”.
Như vậy theo ý kiến chung của một số nhà nghiên cứu kể trên chúng ta có thể hiểu tùy bút là một bài tường thuật, mô tả một vấn đề hay một sự kiện, câu chuyện . . để bàn bạc, triết lý hay suy tư thoải mái. Bài viết thường mang nặng tính chất chủ quan, cái tôi của tác giả.
Ông Nguyễn Đăng Mạnh có nói ở Tây phương hiện đại, tùy bút rất phát triển, nhưng theo chúng tôi biết văn học Tây phương qua sự nghiệp của các tác giả lớn, nổi tiếng từ thời cổ điển như Tolstoi, Ivan Tourgueniev, Dostoievsky, Victor Hugo. . đến thời cận đại, hiện đại như Sholokhov, Hemingway, Margaret Mitchell, Gheorghiu, J. Steinbeck, Boris Pasternak. . . . chỉ thấy họ viết truyện ngắn, hoặc tiểu thuyết vĩ đại trường giang đải hải không thấy viết tùy bút và cũng không nghe thấy nói đến tùy bút của họ. Có lẽ chỉ riêng có Solzhenitsyn (được giải Nobel văn chương 1972, Một Ngày Trong Đời Ivan Denitsovitch) với cuốn Khu Bệnh Ung Thư (Le Pavillon des cancéreux) dài trên 500 trang, gồm nhiều truyện ngắn không kết thúc có thể coi như gần giống thể văn tùy bút như trong Vang Bóng Một Thời. Theo chúng tôi biết các nhà văn nổi tiếng của văn học Trung Hoa cận đại như Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đường, Quách Tự Phần, Thi Dân. . . . cũng chỉ viết truyện ngắn, tiểu thuyết và không thấy viết tùy bút.
Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân viết 1940 và Hà Nội Băm Sáu Phố Phường của Thạch Lam viết 1942 là những tùy bút đầu tiên của nền văn chương Việt Nam ta có thể coi Nguyễn Tuân và Thạch Lam là hai nhà văn đi tiên phong viết tùy bút. Tại miền Nam từ sau 1954 cho tới 1975 và bây giờ tại hải ngoại thể tùy bút vẫn được rất nhiều nhàvăn ưa chuộng. Như vậy thể túy bút là một thể loại được nhiều nhà văn chuyên nghiệp ở Việt Nam sáng tác và ít thấy xuất hiện trên văn đàn thế giới.

2-Lữ Hành.
NguyễnTuân trong đa số các truyện và tùy bút đã cho ta thấy hình ảnh một người lữ khách chỉ thích ra đi, du lịch, bỏ nhà, phiêu bạt giang hồ. . Trong Nguyễn, một truyện dài viết 1941, cụ Tú Quân mua đất ở tả ngạn sông Tô làm nhà cho Nguyễn để giữ chàng lại, bỏ cái tính lông bông nhưng chỉ được ít ngày lại sổng mất Nguyễn. Chàng lại cho thuê căn nhà rồi chỉ giữ lại một phòng để chứa sách và một ít đồ xong lại tiếp tục cuộc đời kẻ lữ hành, phiêu bạt giang hồ.
Trong Một Chuyến Đi, tác giả theo đoàn tài tử sang Hồng Kông năm 1938 đóng phim Cánh Đồng Ma ông viết.
“Thì ra bữa rượu say sưa của kẻ lữ hành vĩnh viễn đã được trả giá một đời nghệ sĩ tìm lẽ sống của mình trong sự xê dịch luôn luôn trong không gian và thời gian”
Nguyễn Tuân cho rằng đổi chỗ trong không gian là để thoát ly khỏi sự trói buộc của cuộc sống hàng ngày. Ông chỉ mong được đi mãi không ngừng, tác giả ca ngợi cuộc đời giang hồ, di chuyển luôn để thoát khỏi cái tủn mủn của cuộc đời cố định nhất là trong Quê Hương, một truyện dài độc nhất của ông, thực ra chỉ là một tùy bút dài dòng văn tự như viết ra để ca ngợi những cuộc viễn du.
“Bạch cảm thấy mình đã hoàn toàn là mình, một người thèm đi và được đổi chỗ. Đi với cái thương nhớ những người vừa chia tay, với cái hồi hộp của phút sắp được hưởng tại chỗ sẽ tới”
Nhân vật Bạch cũng như Nguyễn đều là những hình ảnh của Nguyễn Tuân ở đây chỉ thèm thuồng cuộc sống không có quá khứ , nhớ tiếc cuộc đời thủy thủ đã từng lưu lạc giang hồ qua Nam Mỹ, Ý, Thượng Hải, Hoành Tân. . Bạch nói nhưng người đời không hiểu Bạch lại cho rằng người có tài như chàng không chịu làm một việc gì, chỉ biết đi không kỳ hạn để lại nhiều thiệt thòi cho chính ông và cho cả xã hội.
Thực vậy cái hạnh phúc của Bạch, một hình ảnh của Nguyễn Tuân chỉ là cái thú ích kỷ, lãng mạn tiêu cực để lại nhiều thiệt thòi cho gia đình chàng và cho cả xã hội xung quanh.
Và bây giờ tại Hà Nội, không được đi viễn du, chiều chiều Bạch thích ra ga ngắm những con tầu vào Nam ra Bắc cho đỡ cơn thèm du lịch, Bạch tự ví mình như người du khách đứng ngoài thời gian, không gian, đứng yên mãi để du lịch trong trí tưởng tượng với một tấm lòng đau khổ. Hình ảnh của một chàng Bạch thèm đi là lối diễn tả của Nguyễn Tuân để nhấn mạnh thêm lên cái thú đi, phiêu bạt khôn cùng.
Nguyễn Tuân tự cho mình là người cao đẳng vì có cái thú của thói quen muốn thoát khỏi cái chặt chẽ của đời sống, theo ông không có gì chán cho bằng cứ gặp nhau mãi ở một nơi nhất định. Trong truyện Bạch, mặc dù đã hết cái thời đi đây đi đó nhưng vẫn còn thèm thuồng và luyện cho người khác như cậu em Phối lên đường, mặc nhiên nó cho ta thấy khát vọng ra đi của Bạch, của Nguyễn Tuân là nhường nào.
Hết cái thời đi Nguyễn Tuân lại nói đến cái lòng thèm đi của nhân vật Bạch hoặc Tần, cái số không được lìa nhà, vợ đẻ, hai cụ mãn phần, rồi thương vợ quá nên không nỡ xa lìa để bây giờ lại thèm thuồng cuộc đời giang hồ của bạn. Sự ra đi, phiêu lưu . . . đối với Bạch như một lý tưởng: muốn đi phải quên hết người thân, gạt tất cả những lưu luyến lại phía sau mình thì mới mở đầu cho một độ đường mới. Nguyễn Tuân nói.
“Họ đi để mong làm một cái gì, lầm! lầm to! Sao lại không lấy nguyên cái việc được đi là một cái thú ở đời rồi? Tôi cho được đi là một cứu cánh”
Theo Nguyễn Tuân đi là một cứu cánh vì nó đưa ta thoát khỏi cái gò bó, tùn mủn của cuộc đời cố định chứ không phải đi để mong tới một kết quả nào. Đi để có một nơi rời bỏ không phải có một nơi đến, có thể nói đó là một tâm hồn bệnh hoạn mà người ta đã đạt tên cho là “bệnh không gian”.
Trong bài Một Lá Thư Không Gửi (cuốn Tùy Bút I) Nguyễn Tuân gửi cho một người bạn thủy thủ ở phương xa ông nói kẻ được đi vui thú với cuộc viễn du, người ở lại như ông phải chôn chân một chỗ thấy ngày tháng dài như kẻ tội nhân khổ sai có kỳ hạn.
“Cái thằng được đi thì lại cứ được đi mãi, còn cái đứa phải ở nhà thì lại cứ phải mòn héo với cái tủn mủn một cuộc đời hẹp hòi”
Cũng như trong Quê Hương, Ở đây Nguyễn Tuân ca ngợi lý tưởng cuộc sống, hạnh phúc của con người ở chỗ phải đi, đi mãi. . . nhưng nếu đã tới đích thì cuộc vui đã hết, một người cua rơ xe đạp, một người chinh phục tình yêu khi đạt mục đích chỉ thấy sự nhạt nhẽo vô vị. Nguyễn Tuân lại chê bai cuộc đời định cư như một bức tranh tĩnh vật.
Trong bài Lại Đi Nữa, Nguyễn Tuân viết.
“Đi đối với tôi là hình thức tốt đẹp nhất của thoát ly. . . cứ bắt tôi ở mãi một nơi, tôi sẽ hèn trong tình yêu – yêu hiểu theo nghĩa rộng – và trở nên nhút nhát và ghẻ lạnh trước cuộc sống”
Ông lập đi lập lại nhiều lần cái mâu thuẫn giữa đi và ở, đi là những cái gì tốt đẹp nhất và ngược lại ở sẽ làm ta nhút nhát lạnh lùng trước cuộc sống.
“Tôi thích đi không phải vì có một xứ để mà đến, nhưng vì có một xứ để rời bỏ”
Càng đi, càng yêu những người chung quanh, không bao giờ tính chuyện dừng bước giang hồ.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại viết.
“Trong Thiếu Quê Hương, người ta thấy du lịch trở nên một bệnh, vai chính trong truyện là một chàng thiếu niên lúc nào cũng muốn đi, lúc nào cũng thấy mình cần phải đi. Chiếc va li, tẩu thuốc lá, sân ga, con tầu là những vật chính để đưa người lãng tử lê gót bốn phương trời. Nhưng đi đây là đi không có định kiến, không có mục đích gì cả, đi cho chán chân, rồi lại trở về nhà ít lâu để rồi lại lấy sức mà đi nữa”
Theo ý kiến của một số nhà phê bình nhận xét về sự thèm đi, cuộc lãng du của Nguyễn Tuân chỉ là biểu hiện của một thứ bệnh hoạn.

3-Cái Tôi.
Các nhà nghiên cứu phê bình về Nguyễn Tuân đều nhìn nhận ông là một nhà văn chủ quan nhất, mở đầu cuốn Nguyễn ông viết một cách ngang tàng .
“Kính tặng tôi”
Ng.T
Tự kính tặng mình, quả chưa có nhà văn nào chủ quan và ngang tàng như thế. Trương Chính trong Vài Nét Về Con Người Và Tác Phẩm Nguyễn Tuân đã nhận xét như sau.
“Nguyễn Tuân là một nhà văn chủ quan nhất trong các nhà văn của ta. Chưa có một người nào chuyên nói về mình một cách lộ liễu, không che dấu như thế. Tựa hồ ngoài ông, ông không còn nhìn thấy ai nữa.Mà có nhìn thấy thì lúc nào cũng nhìn thấy qua cái màn sương tâm tình của mình. Cho nên ông là một nhà viết tiểu thuyết mà lại không sáng tác được một nhân vật nào khác, ngoài nhân vật đại diện cho ông là anh chàng Nguyễn. Truyện ngắn truyện dài, phóng sự của ông tất cả đều là những thiên tùy bút trá hình. Vì vậy nói đến tác phẩm của Nguyễn Tuân tức là nói đến con người của ông”
Tôn Thảo Miên trong Nguyễn Tuân Tài Hoa Văn Chương viết.
“Nguyễn Tuân hoạt động trên rất nhìều lãnh vực: viết văn, làm báo, diễn kịch. . . ở lãnh vực nào ông cũng say sưa, thể hiện hết cái “tôi” của mình”
Hoặc.
“Nguyễn Tuân đã đề cao cái “tôi” cá nhân, tất cả đều xuất phát và quy tụ về cái “tôi”nghệ sĩ đó. Ông không ngần ngại mà tự thú rằng: ‘lòng kiêu căng của ta đã xui ta chỉ chơi có một lối độc tấu’. Vì ẩn mình trong cái vỏ cá nhân, không hòa mình với thế giới xung quanh, nên nhiều lúc Nguyễn Tuân bị mất niềm tin vào cuộc sống, không dám tin vào bất cứ điều gì ngoài bản thân mình: ‘Rồi tôi vẫn vênh váo đi giữa cuộc đời như một viễn khách không có quê hương nhất định. Cái gì cũng ngờ hết, duy chỉ có tin chắc ở cái kho cái vốn tình cảm và cảm giác của mình”
Nguyễn Đăng Mạnh trong Quan Điểm Nghệ Thuật Của Nguyễn Tuân viết.
“Mâu thuẫn này xoay quanh cái mà một nhà phê bình gọi là “bệnh tôi”của Nguyễn Tuân. Thực ra bản thân nhà văn cũng có lúc tự nhận xét như thế: “Lòng kiêu căng của ta đã xúi ta chỉ chơi có một lối độc tấu” (Vô Đề)
Trừ Vang Bóng Một Thời và những truyện ma quỉ, hầu hết những tùy bút, truyện ngắn truyện dài, ký sự … của Nguyễn Tuân đều thể hiện tâm tư giai thoại, cuộc đời của chính mình như Hà Văn Đức nhận xét dưới đây.
“Đọc tùy bút Nguyễn Tuân, ta thấy “tôi”bản ngã được thể hiện một cách rõ rệt. Nhiều nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Tuân xử dụng đại từ nhân xưng thứ nhất “tôi”và thậm chí các nhân vật khác của ông, mặc dù có tên gọi khác nhau: Vi, Bạch, Hoàng. . . thì thực chất vẫn mang rõ hình bóng chủ quan của tác giả”
Vương Trí Nhàn trong bài Nguyễn Tuân, Huyền Thoại Một Thời đã so sánh Nguyễn Tuân với Hemingway, nhà văn hào Mỹ đoạt giải Nobel 1954 này có những cá tính, lối sống kỳ lạ và nhiều huyền thoại: đấu bò, đánh cá, tham chiến tại Âu Châu.. . những huyền thoại ấy đã được người ta bàn tán, thổi phồng không kém gì tác phẩm của ông , có người cho Hemingway đã cố ý trình ra trước xã hội một con người có những cá tính độc đáo như ông muốn để giúp cho tác phẩm của ông được nhiều người chú ý hơn lên.
“Ấy thế nhưng trong văn học Việt Nam hiện đại cũng đã có một nhà văn dựng tạo sự nghiệp của mình theo kiểu Hemingway nói trên. Trong khoảng gần năm chục năm cầm bút ông đã tạo nên quanh mình cả núi giai thoại, chính những giai thoại nửa thật nửa bịa đó là một chất dẫn truyền rất tốt để tác phẩm của ông có thêm cái lung linh mà người đọc phải cố tìm biết.
Nhà văn đó là Nguyễn Tuân”
Vương Trí Nhàn đã có một nhận xét hay và mới mẻ khi ông so sánh lối tạo huyền thoại của Nguyễn Tuân với Hemingway, không phải Nguyễn Tuân đã bắt chước đua đòi theo kiểu Hemingway nhưng ông cũng cố tạo dựng cho cuộc đời mình những nét độc đáo, lối nhìn đời khinh bạc, những cuộc lữ hành không mục đích, cảnh ăn chơi sa đoạ bên mâm bàn đèn thuốc phiện, chốn lầu xanh lầu hồng. . . để tô điểm thêm cho văn chương mình thêm phong phú đặc sắc. Từ Quê Hương, Một Chuyến Đi, Ngọn Đèn Dầu Lạc, Tùy Bút. . Nguyễn Tuân đã chau chuốt cái tôi của ông nhiều nét độc đáo khiến cho nó có những điểm khác người, cái tôi của ông phải là độc đáo, mang nhiều huyền thoại.
Đa số các nhà phê bình đã nhận xét Nguyễn Tuân là một nhà văn độc lập, chủ quan nhất, người đã công khai đem chuyện đời tư của mình ra viết thành tùy bút, truyện ngắn, truyện dài, ký sự. Trừ một số truyện ma quỉ và tác phẩm đầu tay Vang Bóng Một Thời còn lại đều là những giai thoại nói về mình từ cuộc viễn du đi đóng phim bên Hồng Kông Một Chuyến Đi đến những cuộc ăn chơi, cô đầu hát xướng trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Ngọn Đèn Dầu Lạc. . có khi ông xưng tôi, có khi ẩn dưới một vài nhân vật nào như Nguyễn, Bạch. .
Trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn Tuân làm sống lại những ngày ăn chơi sa đọa của ông bên người bạn Thông Phu bất hạnh. Trong Một Chuyến Đi tả một chuyến viễn du sang Hồng Kông cùng những tâm tình của ông về tình bạn, sự cay đắng của chuyến đi, trong Nguyễn tâm sự của một người chỉ thích làm người lữ khách, Tùy Bút I, II. . thể hiện những ký sự, tâm tư của tác giả trước thời cuộc và ngoại cảnh.

4-Mâu Thuẫn.
Văn chương và con người của Nguyễn Tuân có nhiều điểm mâu thuẫn trái ngược nhau. Nhiều tùy bút truyện ngắn rất thanh cao, tao nhã thể hiện một thế giới tinh thần huy hoàng rực rỡ và cũng trong nhiều tùy bút, ký sự, ông đã tả chân kỹ lưỡng những cuộc ăn chơi trụy lạc ở chốn lầu xanh, cô đầu, thuốc phiện.
Trong Vang Bóng Một Thời Nguyễn Tuân làm sống lại cả một nền văn minh tinh thần thanh cao huy hoàng đầy những phong, hoa, tuyết, nguyệt. Những nghệ thuật, nếp sống xa xưa, tao nhã được diễn tả như một niềm hối tiếc của một tâm hồn hoài cổ. Trong bài Hương Cuội, ông dựng lại một thế giới đầy hương thơm ngào ngạt của hương lan, kẹo đá y như phong vị nên thơ của thi ca đời Đường. Nguyễn Tuân tả tỉ mỉ cái thú chơi hoa trồng hoa của cụ tú Kép, thuậtù làm đá kẹo, cảnh nhắm rượu thưởng xuân khiến cho ta có cảm tưởng ngậm ngùi tiếc nhớ cho những cái hay, cái đẹp của một nền văn minh tinh thần nay đã vang bóng một thời.
“Thế rồi trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mờ, và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá vàng trong đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quí. Gọi là kiếm một công việc nhàn nhã cho quãng chót một kiếp dư sinh”
Bài Chén Trà Trong Sương Sớm diễn tả một nghệ thuật “nhẩm xà” thật là cầu kỳ công phu y như trà đạo ở tận xứ Phù Tang.
“Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhậân thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý”
Lại còn một nghệ thuật cầu kỳ chưa từng nghe ai nói tới: hốt từng giọt nước trên những chiếc lá sen thơ mộng để đủ pha một ấm trà thơm ngon.
“-Cả ạ, thầy cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trên lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi.Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm. Hồi thầy còn ít tuổi, mỗi lúc được quan đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thầy cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thầy học yêu như con”
Trong Những Chiếc Ấm Đất, Nguyễn Tuân kể chuyện một người uống trà sành điệu, say mê cái thú ấy đến độ khánh tận cả gia tài sự nghiệp, Ngôi Mả Cũ ông ca ngợi tinh thần hy sinh cao cả của một người chị không xuất giá ở nhà dệt vải nuôi em ăn học, ông đã làm sống lại những cái hay cái đẹp của một thời nho giáo nay đã suy tàn, trong Thu Muộn ông mô tả kỹ lưỡng cái thú chơi đèn kéo quân dựa trên điển xưa tích cũ.
Phu Nhân Họ Bồ, truyện tình yêu lãng mạn duy nhất của Nguyễn Tuân, một mối tình lý tưởng cao thượng, tác giả đã yêu một bà phu nhân bằng mối tình câm một chiều, thanh cao.
“Tình yêu của tôi là một thứ tình chỉ có một chiều, có buông ra rất nhiều mà chưa nghĩ tới sự được trả lại lấy mảy may. Đấy là một thứ tình chìm hẳn xuống, lẩn hẳn cả vào trong”
Cao thượng hơn nữa, tác giả lại không bao giờ nghĩ đến chuyện chinh phục phu nhân.
“Đối với Bồ phu nhân, chưa bao giờ tôi nghĩ đến chuyện chinh phục. Tôi chỉ tưởng vọng tới sự cầu thân của tâm tưởng thôi”
Một tình yêu cao thượng hơn cả những truyện tình lý tưởng trong các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn.
“Vậy là tôi cứ yên lặng mà yêu Bồ phu nhân không cần đến tiếng nói, giấy mực lời thư và những cử chỉ rất quen thường của thế tình”
Nguyễn Tuân nói Bồ phu nhân có một lối đẹp kín đáo nên ông đã yêu bà bằng một mối tình lý tưởng y như trong truyện thần tiên.
Trái ngược với cái thế giới thanh cao trong Phu Nhân Họ Bồ , Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân cũng đã cho người đọc thấy những cuộc ăn chơi trụy lạc, sa đọa của mình trong Ngọn Đèn Dầu Lạc, Tàn Đèn Dầu Lạc, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Một Chuyến Đi. . .
Trong Tàn Đèn Dầu lạc, Ngọn Đèn Dầu Lạc, ông diễn tả chi tiết những cái xấu xa bệ rạc của cái thế giới nghiện, một quãng đời bệ rạc của mình bên nàng tiên nâu, có lẽ không phải để khoe khoang cái kinh nhiệm ăn chơi sa đọa của mình mà chỉ là một ký sự diễn tả ghi nhận một cách khách quan. Trong Tàn Đèn dầu Lạc, bằng những chi tiết chua chát, hiện thực, tác giả cho thấy cái xấu xa, nhớp nhúa của chốn ăn chơi như sau.
“Ông Ba Quynh quên nói rằng cầu thang hôi thối quá, ướt át quá nữa. Vì ban nãy, lúc tôi vội vã lên, tôi đã dẫm phải một viên gạch long đường vôi miết, nước phọt vào thấu háng và đẫm cả đũng quần và cái ông máng gạch ở phía trên cửa cầu thang, đã vỡ rỉ mấy giọt nước đặc vào đầu tôi.Tôi sờ tay lên đầu, dí tay vào mũi, có mùi thum thủm như nước gạo và nhầy nhầy như mỡ chậu nước rửa bát mùa đông tháng giá”
Tác giả cũng cho thấy cái sức hấp dẫn ghê gớm của nàng tiên nâu, cái xấu xa hèn mạt và bệ rạc của thuốc phiện cùng cảnh nghiện ngập cũng như những con người bệ rạc bê tha khi sa ngã vào vòng tay của Ả Phù Dung.
Trong Ngọn Đèn dầu Lạc, thế giới nghiện được diễn tả kỹ lưỡng hơn, mở đầu Vua Tiệm Băng Hà là cảnh đám ma của một ông chủ tiệm, một ông vua thuốc phiện, một thế giới nghiện, từ người chết đến kẻ đi đưa toàn là dân nghiện. Trong Bài Bữa Thuốc Hồng Phiến Ngoài Quê Hương, Nguyễn Tuân mô tả một tiệm hút tập thể tại nơi xứ người, xấu xa bệ rạc, ồn ào, sô bồ dơ bẩn, ở giường trên khạc đờm nhổ xuống giường dưới.
“Vì bọn trên này cựa nhiều quá, đánh rơi mấy con rệp qua kẽ sàn và lọt xuống bàn đèn dưới. Và khi lẩy bẩy, mấy ông già quá bữa tay đâm ra bắt chuồn chuồn, đã rót nước không đúng vào chén tống làm lênh láng cả mặt sàn và thẩm lậu xuống mặt những người nằm dưới”
Tàn Đèn Dầu Lạc, Ngọn Đèn Dầu Lạc đã cho ta thấy những kinh nghiệm, từøng trải của Nguyễn Tuân trong thế giới thuốc phiện, một thế giới bệ rạc độc hại, xấu xa nhơ nhớp, thế giới cặn bã của xã hội, cộng đồng.
Ỡ bài Duyên Bèo trong Một Chuyến Đi, Nguyễn Tuân khai ra hết những ngày ăn chơi trụy lạc của mình trong chuyến đi Hồng Kông đóng phim Cánh Đồng Ma, rồi một đêm lạnh lẽo đến nhà chứa ăn nằm với một cô gái Tầu, người đẹp ra về có để cho ông một tấm danh thiếp với cái tên Duyên Bèo. Tác giả đã tự khai ra những ngày sa đọa của mình chốn lầu hồng, ông muốn tỏ ra người từng trải ăn chơi để về nước kể lại cho bạn bè nghe chuyện về đàn bà xứ lạ.
Trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn Tuân tự thuật lại những ngày ăn chơi bên những xóm cô đầu, hết nhà này đến nhà khác. Ông nói cuộc đời ăn chơi lêu lổng của mình bắt đầu từ lúc ông bạn vong niên Thông Phu cho ông cái lư đồng mắt cua, đi tù về ông lại lao đầu vào những cuôc ăn chơi hưởng thụ, rồi gặp người bạn hành lạc lại rủ rê vào đường ăn chơi.
Tháng giêng về nhà ăn tết với gia đình, tháng hai trở ra Hà Nội quyết lập lại cuộc đời, thề không vào nhà hát cô đầu, tình cờ gặp lại Xuyến, cô đào hát người tình cũ thế là lại dăm bẩy ngày xuống nhà Xuyến.
Tác giả tự cho mình là kẻ chơi bời nghịch ngợm và Chiếc Lư Đồng Mắt Cua được coi như tập tùy bút về những ngày ăn chơi phóng túng cùng với tâm trạng chán chường. Nguyễn Tuân lấy chiếc lư đồng mắt cua làm cái mốc thời gian cho những ngày ăn chơi sa đọa, từ ngày ông Thông Phu cho chàng cái vật kỷ niệm ấy. Truyện đã cho thấy một quãng đời ăn chơi lêu lổng của ông với tâm tư chán chường thất vọng.
Người đọc đôi lúc ngạc nhiên khi thấy ở một số tùy bút, truyện ngắn rất thanh tao, trang nhã làm sống lại một nền văn minh tinh thần rực rỡ nhưng đến một số bài tùy bút hoặc những truyện khác lại thấy hiện ra cả một thế giới ăn chơi sa đọa ở những chốn lầu hồng, tiệm thuốc phiện, nhà hát cô đầu, những cảnh xấu xa trụy lạc khiến ta có cảm tưởng ở NguyễnTuân có hai con người: một thanh cao và một ô trọc.

5-Hướng Thiện.
Qua nhiều tác phẩm Ngọn Đèn Dầu Lạ, Nguyễn, Một Chuyến Đi, Chiếc Lư Đồng mắt Cua, Quê Hương. . Nguyễn Tuân lại tỏ ra người có tinh thần hướng thiện, ông đã tự nhận mình là người vô tích sự của gia đình, nhiều khi ông dừng bước lãng du để quay về với mái ấm, với cụ thân sinh, vợ hiền, con thơ. . khi ấy ông cũng nhìn nhận cái suy đồi của những ngày ăn chơi sa đoạ.
Trong Ngọn Đèn Dầu Lạc, sau những ngày mệt mỏi bên mâm bàn đèn thuốc phiện, NguyễnTuân thú thực những cái tai hại của nàng tiên nâu đã đem đến cho mình, tác giả nhận thấy những cái độc hại, muốn thoát ly nó và đã xuống một tờ ly hôn với thuốc phiện, ông đã xám hối, ý thức được cái sa đoạ của nó và có ý hướng thiện quay về cuộc đời lành mạnh.
“Nếu ở cái xã hội đầy tội lỗi của chúng mình, có những tên tử tù còn muốn vượt ngục, còn muốn chọc thủng cái lưới canh phòng chặt chẽ, thì tôi, một dân nghiện chân chính, tôi đêm nay, cũng có cái tư tưởng muốn thoát ly thuốc phiện”
Tác giả không ca ngợi cái thú ăn chơi hưởng lạc như một nhà phê bình trong nước đã kết án, ông cho thấy thuốc phiện độc hại như thế nào:
“Bỏ thầy chính là hắn rồi đấy đằng ấy ạ”
Ông đã cho nó là thuốc độc, tập ký sự cho thấy cái thế giới sa đọa xấu xa, độc hại mà bọn thực dân có tình duy trì. Ông kết án thuốc phiện là phá hoại nhân phẩm, gia đình, xã hội, với tinh thần hướng thiện Nguyễn Tuân lên án nó là thuốc độc. Trong bài Cái Ca Vát Đen, tác giả mở tủ nhìn lô ca vát đâm chán cái đời truy hoan, lô ca vát là dấu vết của cuộc đời ăn chơi đã qua nay chỉ để lại những chán chường vô tả.
“Nguyễn chán lắm rồi, không thể chán được hơn thế này nữa. Chàng đã mất hết cả tin tưởng trong cái lối sống riêng biệt mà trước kia chàng cho là mầu nhiệm kỳ thú lắm.
Ra cái hạnh phúc con người ta không thể đặt lên truy hoan được”
Thấm thía cái chán chường của cuộc đời ăn chơi hoang đàng lêu lổng, Nguyễn đã lấy cái ca vát đen kết thúc cái cuộc đời tội lỗi ấy, có người hỏi chàng để tang ai, Nguyễn đáp “ Cháu để tang cháu đấy ạ”. Trong Một Người Cha Về Ăn Tết, anh chàng Nguyễn về nhà ăn Tết trong lòng ân hận vì chẳng đem được cái gì về nhà, tự thấy mình ích kỷ quá không xứng đáng với thầy mẹ, vợ hiền con trẻ, vì chàng nghĩ đến mình nhiều quá, quên hẳn cả những người xung quanh gần nhất.
Trong Lửa Trại, Nguyễn trở về nhà với hạnh phúc gia đình sau một cuộc đời ăn chơi chán chường, muốn đem nửa đời tội lỗi của mình đánh đổi lấy một đêm đốt lửa. Một Người Cha Về Ăn Tết, Lửa Trại cho thấy tâm trạng một chàng Nguyễn lương thiện giã từ cuộc đời ăn chơi tội lỗi, quay về mái ấm gia đình và tìm thấy hạnh phúc bên ánh lửa hồng, mặc dù ông diễn tả tô điểm cuộc đời ăn chơi phóng đãng nhưng chung cục nhân vật chính của ông, cũng chính là tác giả đã quay về với hạnh phúc gia đình.
Trong Một Chuyến Đi, trên con tầu trở về Hải Phòng một đêm mưa, Nguyễn Tuân tưởng nhớ đến ông cụ thân sinh trong những đêm mưa phùn đã sai đốt lò hương trầm để cụ đánh đàn, ngâm thơ, trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, gần một năm làm thư ký cho một sở tư, Nguyễn Tuân không đem về nhà một đồng nào mà đem vào chốn cô đầu, thuốc phiện ăn chơi hết, mua sắm những cái cười của những cô đào, có nhiều đoạn cho thấy ông đã xám hối cái tội lỗi xấu xa của mình. Nguyễn Tuân đã nằm liên miên ở nhà ông Thông Phu mấy tháng nào rượu chè, thuốc phiện, cô đầu công nợ, trở về nhà thấy vợ con, tác giả cho mình là một người thừa trong gia đình, ông đã cảm thấy nổi lên trong lòng một nỗi ê chề tủi hổ.
Nguyễn Tuân can đảm thú nhận tất cả những cái xấu xa nhất như đã đánh lừa ông cụ thân sinh lấy nửa hòm rượu sâm banh đem đi vui chơivới chúng bạn tại các xóm cô đầu, ở Chiếc Lư Đồng Mắt Cua từ chán chường đưa tới ân hận và tác phẩm cũng đã để lộ cho thấy có lúc ông nghĩ đến gia đình và tự cho mình là người lỗi đạo.
Khi ông Thông Phu trở bệnh ngặt nghèo, Nguyễn Tuân đi mời bác sĩ Tây về chích thuốc để khoe khoang hàng xóm, vợ con ốm đau ở nhà trước đây chẳng bao giờ ông đi lo thuốc men cho họ. Một hôm cô đào Ngàn đi sắm đồ về quê cho gia đình, Bạch, một hình ảnh của Nguyễn Tuân hối hận có ý muốn lập lại cuộc đời, phải nói ông là người hướng thiện, đã nhận ra những cái xấu xa của cuộc đời ăn chơi cô đầu thuốc phiện và muốn quay trở lại. Lối sống giang hồ vô trách nhiệm đến một lúc nào bắt ông phải ân hận để quay về mái ấm gia đình với những người thân thích để lập lại cuộc đời vì đã ăn tiêu hoang phí nhiều rồi.
Bạch cảm thấy mình thiếu lòng trắc ẩn với vợ con, thấy rõ sự vô nhân đạo của mình, chàng xấu hổ chỉ muốn chuộc lại tội lỗi của mình, Bạch cũng như Nguyễn đã ăn năn hối cải tội lỗi hoang đàng hư hỏng của mình. Phần cuối truyện, Nguyễn Tuân tỏ ra hối hận cách cư xử với gia đình vợ con, cụ thân sinh. Có lúc ông muốn nói đã xấu hổ với lương tâm, muốn chuộc lại tội lỗi bằng những lời vui vẻ giữa hoàn cảnh gia đình.

6-Đi Trước Thời Đại.
Trong Nguyễn có đoạn.
“Một người bạn đồng nghiệp có địa vị ngồi một chiếu cạp điều riêng trải ở giữa làng văn, lúc đọc sách chàng đã phải đeo đến hai cặp kính tuổi chồng lên nhau mới nhìn thấy mặt chữ, đã nói kháy tác giả, một lúc tan một buổi họp thảo luận dự án về thể lệ Hội nhà văn.
-Tác phẩm của tiên sinh quả là đi trước thời đại, e những người đồng thời của tiên sinh không theo ngay cho kịp được, nên kìm cái đà của mình lại thì có hơn”
Đoạn văn trên có thể là phản ảnh những ý kiến của bạn bè, những người đương thời của Nguyễn Tuân về sự sáng tạo của ông. Nhưng trên thực tế văn chương của Nguyễn Tuân có thể coi là đi trước thời đại.
-Về hình thức, tùy bút là một thể văn hoàn toàn mới so với những năm đầu thập niên 40, ngoài ông và Thạch Lam ra chưa có ai viết tùy bút đề cao cái tôi và cuộc đời mình, trong Nguyễn.
“Nguyễn đã dùng một cuốn sách in để tỏ rõ cả tính mình, cuốn sách đã đánh dấu sự chàng có mặt ở cuộc sống này – một cuộc sống đầy bất mãn và uất kết của người trong cuộâc, phản lại nỗi lèm nhèm, lẹt đẹt, lờ mờ, luộm thuộm và bằng lòng của tất cả chung quanh”
Thể tùy bút ấy để phản lại cuộc đời hiện tại, diễn tả những tâm tình, cái tôi của mình, những quãng đời ăn chơi lêu lổng, những tâm sự chua chát, chán chường .
-Về nội dung, ca ngợi viễn du, phiêu lãng . . để phản ứng lại cái tủn mủn, lèm nhèm của cuộc đời, Nguyễn Tuân đã đem vào văn chương Việt Nam những ý tưởng, lối sống hoàn toàn mới lạ:
– Thoát ly khỏi cái tủn mủn, lèm nhèm của cuộc đời hiện tại.
– Lối nhìn khinh bạc, ngạo mạn chỉ ông mới co.ù
– Lối sống mới, lãng du có thể coi đó là những ý tưởng đi trước thời đại.
– Ông là người nói về cái tôi nhiều nhất và đối với thời đại ấy, hồi thập niên 40, đem chuyện riêng của đời mình ra viết thành truyện, ký sự, tùy bút một cách công nhiên chỉ có Nguyễn Tuân mới làm đươc.
– Lối văn biểu tượng: Trong Cái Ca Vát Đen (Nguyễn), ông đã lấy những chiếc ca vát làm biểu tượng cho cuộc đời ăn chơi hoang đàng của mình, lại còn lấy đó làm hình ảnh của những cung nữ bị bỏ rơi trong cung cấm. Và rồi Nguyễn chán chường cái cuộc đời ăn chơi vô vị, chàng lấy ca vát đen để tang chính mình, để kết thúc cuộc đời ăn chơi ấy. Trong Chiếc Áo Gấm Mượn (Nguyễn), một anh chàng đã có sáu đứa con được mời đi phù rể, mặc một cái áo gấm mượn của nhà trai thấy lòng vui lây cái hạnh phúc của người khác, cái vui ké ấy cũng là một giấc mơ bằng vàng diệp. Lấy cái ca vát đen để tiêu biểu cho sự kết thúc cuộc đời ăn chơi phù phiếm và chiếc áo gấm mượn biểu hiện cho chút hạnh phúc mượn ké của người khác, Nguyễn Tuân đã xử dụng một lối viết biểu tượng sâu sắc đi trước thời đại.
Trong Phu Nhân Họ Bồ, một mối tình thanh cao, thầm lặng, lý tưởng, cao thượng. . một tình yêu chỉ có buông ra mà không mảy may nghĩ đến sự trả lại, không bao giờ nghĩ đến sự chinh phục người yêu. Một tấn bi kịch thanh cao, trong sáng và một sự thú tội đã ăn lường gạt tình cảm của vợ chồng người bạn. Tùy bút cho thấy văn chương của ông đi trước thời đại rất xa, cho tới nay cũng còn là mới lạ, một vết thương lòng day dứt của Nguyễn Tuân được thể hiện trong một truyện tình kỳ ảo như truyện thần tiên ở một nước non xa lạ.
Chính Nguyễn, người đại diện cho tác giả cũng đã tự nhận văn chương của mình đi trước thời đại khi chàng trả lời ông bạn đồng nghiệp.
“Nguyễn cũng biết ông bạn già có ý nói mát mình: ăn miếng phải trả miếng, chàng cũng tạm mượn luôn một câu của một danh sĩ kia mà kính đáp.
-Thưa túc hạ, bỉ nhân cũng ngờ rằng độc giả của bỉ nhân chỉ rải rác ở tận tương lai thôi. Những lời túc hạ chỉ giáo bộc này xin cám ơn lắm.
Thế rồi bất chấp những lời chỉ giáo ấy Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh. Đời nó ngu thế, không bướng bỉnh thì sao có được? Chàng đã thành thực trong cái bướng bỉnh, thành thực cho đến sống sượng cho đến phũ phàng: sự thành thực tàn bạo ấy đã làm cho người chung quanh lấy làm tương tức và từ chàng”
So với Tự Lực văn đoàn và các tác giả thời tiền chiến, văn chương của Nguyễn Tuân đã đạt được một bước tiến dài.

7- Bi Kịch.
Nguyễn Tuân ít sáng tác về Bi Kịch, ta chỉ thấy trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua và một thoáng trong Phu Nhân Họ Bồ, theo chúng tôi biết Chiếc Lư Đồng Mắt Cua không phải chỉ để diễn tả cuộc đời ăn chơi phóng túng sa đọa, nhưng chủ đề chính lại là cái bể khổ mênh mông của đời người giống như Thạch Lam trong Gió Đầu Mùa thể hiện những tấm thảm kịch của đời người.
Tả một bệnh nhân nằm liệt giường liệt chiếu như ông thông phu, sống mòn mỏi chờ chết, Nguyễn Tuân viết.
“Ở đây là một sự chết mòn, ở đây là một cái mồ sống”
Nhiều đoạn trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua cho thấy văn chương của ông tả chân hiện thực có phần còn ghê rợn hơn cả ở Thạch Lam.
“Những buổi phải chui vào trong cái màn khai ẩm nửa cuốn nửa buông đó, cầm cái mũi tiêm sắt soạn bữa a phiến hàng ngày cho con bệnh chờ chếùt kia, tôi muốn rỏ một giọt nước mắt vô ích để tiếc cho ông Thông Phu và để thương rộng ra đến tất cả những cuộc đời phóng lãng khác lúc lâm vào cảnh ốm liệt, bệnh giữ riệt ở một chỗ tối tăm làm nó trì chiết và gây buồn phiền cho mình đến thế là cùng.
Ông trời chơi nhiều miếng khăm mà thật vậy! Mỗi được dịp chứng kiến là mình mỗi thêm khiếp sợ”
Phần cuối truyện, Nguyễn Tuân sang một bi kịch khác: Bảo, một nhà văn, nhà báo, tính tình phóng khoáng. Hường, bạn gái chàng là cô đào hát có danh phận sau thành vợ lẽ, bị lao, không có thầy thuốc nào chữa được, sau có một thầy lang mách cho cách lấy máu dê sống, tác giả mô tả tỉ mỉ cách Bảo mua con dê đực, chọc tiết cổ, cắm ống cao su vào rồi đưa cho Hường uống ừng ực thật ghê rợn, bệnh vẫn không hết sau cùng nàng chết trên giường bệnh.
Trong Phu Nhân Họ Bồ, Nguyễn Tuân kể lại mối tình u uẩn của chính ông với một phu nhân họ Bồ, một mối tình câm, lý tưởng và bi thảm, một vết thương lòng day dứt của ông, mối tình u uất bị dồn nén, một tấn bi kịch lãng mạn trong cuộc đời tình cảm của tác giả.
“Phu nhân họ Bồ mất. Tôi đã phải phụ ông bà M nhiều hơn là lúc phu nhân còn sống, vì có đến lại nữa, chỉ càng phiền khổ thêm cho tôi là một kẻ đã chót phải lồng một ít dĩ vãng vào khung cảnh ấy. Bây giờ tôi tưởng có trở lại nhà ông bà M thì mỗi lần chỉ càng là một lần đi tảo mộ”
Đó là một truyện tình buồn, nhẹ nhàng cho thấy Nguyễn Tuân cũng có chú trọng tới khía cạnh bi kịch của tình yêu, của đời người.

8-Giá Trị.
Toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Tuân từ 1940 đến 1945 gồm Vang Bóng Một Thời, Một Chuyến Đi, Ngọn Đèn dầu Lạc, Tàn Đèn Dầu lạc, Quê Hương, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Tùy Bút I, Tùy Bút II, Nguyễn, Chùa Đàn. Nói về phương diện nghệ thuật của ông, chúng ta thấy có một số tác phẩm vượt trội lên như Vang Bóng Một Thời, Phu Nhân Họ Bồ, Chùa Đàn, Cái Ca Vát Đen, Chiếc Áo Gấm Mựơn. . Một số khác sáng sủa có giá trị về văn chương như Một Chuyến Đi, Ngọn Đèn Dầu Lạc, Tùy Bút II. . nhưng cũng có nhiều tác phẩm rườm rà nhạt nhẽo như Quê Hương, Nguyễn, Tùy Bút I. . giá trị nghệ thuật trong sự nghiệp văn chương Nguyễn Tuân không được đồng đều như ta thấy ở Khái Hưng , Nhất Linh, Thạch Lam, có thể nói khi bất cập, khi lại thái quá.
Nguyễn Tuân là một nhà văn chủ quan, công khai đem cuộc đời tư của mình viết thành nghệ thuật, văn nghiệp của ông hầu hết là tùy bút, là cái tôi, cuôc đời riêng tư của ông được diễn tả một cách ngang nhiên bằng một giọng văn khinh bạc.
Một số tác phẩm chứng tỏ nghệ thuật của ông độc đáo, tuyệt diệu vượt trội hẳn các tác giả đương thời khác như Vang Bóng Một Thời, một tập truyện làm sống lại cả một thời cổ xưa, một nền văn minh tinh thần rực rỡ với những tư liệu, những nghệ thuật cầu kỳ. . mà không ai có thể dựng lên được như ông. Phải nói nghệ thuật của tác giả có những nét độc đáo ít ai sánh kịp như Phu Nhân Họ Bồ, một mối tình kỳ ảo mà hầu như không thấy ai có thể thực hiện được sự u uẩn, lãng mạn như Nguyễn Tuân, lối văn biểu tượng như Cái Ca Vát Đen, Chiếc Áo Gấm Mượn tượng trưng cho sự kết thúc cuộc đời ăn chơi và một thứ hạnh phúc vay mượn cho thấy văn chương Nguyễn Tuân có những nét độc đáo ít ai sánh kịp, một cây viết chỉ lấy những chuyện riêng tư, tâm tình cá nhân của mình để dựng lên những tác phẩm hay như Phu Nhân Họ Bồ, Chiếc Áo Gấm Mượn, Tựa Am Sông Tô. . nhưng lại thành công vẻ vang thì phải nói là trường hợp hy hữu. Chùa Đàn truyện quái đản cuối cùng của Nguyễn Tuân, một tác phẩm đã được các nhà phê bình coi là đạt tới tột đỉnh nghệ thuật cho thấy ông cũng là một thiên tài trong thể loại ma quái.
Nhưng vì ông đã tham lam đưa quá nhiều chi tiết vào văn chương khiến cho nhiều tác phẩm có khi lộn xộn, rườm rà làm ta tưởng như ông đã hết đề tài, cạn nguồn cảm hứng .

Phan Xuân Sinh
Dấu xưa
cái thuở ta còn làm tên lính trận
ôm ba lô ngồi mơ mộng một mình
cái thuở em còn tay ôm cặp sách
buồn vu vơ che dấu những thư tình

ngày ấy bên cầu ta thường đứng đợi
tà áo bay che khuất một khung trời
ta lượn vòng đuổi theo em mệt nhọc
mà em vẫn còn xa tít mù khơi

trong binh lửa ta chẳng hề nao núng
coi gươm đao như một khoảng trời không
bỗng nhiên gặp em chân ta quỵ xuống
đôi mắt em chọc thủng trái tim hồng

ta mang vết thương làm người si dại
những tình thư ta viết thật điên cuồng
em đón nhận nhưng lòng đầy bất định
để thư tình trôi theo những ngả sông

em vẫn lọc lừa như tay phù thủy
ta ngu ngơ như một đứa chân tu
cạm bẫy bủa giăng làm sao tránh được
sa chân vào rớt xuống chốn âm u

ta ngụp lặn bởi bể tình lầy lội
em đứng nhìn thỏa mãn thú tiêu dao
trò chơi ấy cũng đến hồi kết cuộc
em vụt bay xa chẳng biết nơi nào

mấy năm rồi ngồi đây nhớ lại
em của một thời lộng lẫy kiêu sa
vết thương cũ đã bao lần nhức nhối
đã bao lần thổn thức trái tim ta

những mùa xuân qua chưa về quê cũ
thăm chiếc cầu một thuở đứng chờ em
tiếng guốc còn khua trên đường vắng?
dòng sông xưa, nước còn chảy êm đềm?

chút tình cho Huế
là buổi sớm mai em vừa thức dậy
chim hót trong vườn. nắng rớt ngoài sân
là những lúc mưa dầm dề tháng chạp
trước ngõ nhà em, ta bước ngại ngần

Huế rộn rã tiếng guốc khua đường phố
nón che đầu e ấp buổi tan trường
em sợ ai mà bước đi vội vã
để má hồng còn đọng chút nắng vương

ta chết điếng một thời, em Thượng Tứ
bởi nụ cười, môi mỏng gái thâm cung
bởi lòng em thay từng hồi, từng chặp
mà sao ta vẫn nhớ Huế vô cùng

em nắng sớm mưa chiều mấy bận
lòng ta đau tím ruột bầm gan
chưa nhấm rượu, cũng say bí tử
mắt mờ. Ðưa con sáo sang ngang

Huế của ta ơi. Bao lần sóng gió
vẫn hiên ngang sừng sững bóng hoàng thành
em bây giờ còn đi ngang xẻ dọc?
Huế bây giờ còn đượm nét đài trang?

Dư Thị Diễm Buồn
Tình yêu trả lại trăng sao
Chúng mình quen giữa mùa xuân nắng ấm
Sau tháng ngày rét mưới tuyết mưa bay
Chim chuyền cành trên cây xanh lá thắm
Hoa khoe màu tươi đẹp dưới nắng mai

Anh đem đến cho tôi tình yêu cuối!
Tôi vô tư chân thật nhận tình đầu
Mùa hè sang chói chang ươm nắng mới
Khuôn viên trường thường hò hẹn với nhau

Đêm dần buông, trăng tỏa ngời ánh ngọc
Mặt nước hồ sóng sánh bóng trăng soi
Đường sỏi đá nối liền khu Đại học
Hàng cây bên đường, nhân chứng lứa đôi

Chim ca hót chúc tình đầu nồng thắm
Gió thì thào, mưa lách tách rơi mau
Ở bên anh, tôi nghe lòng mình ấm
Niềm thương yêu, ôi chan chứa dạc dào

Anh hẹn thề có trăng sao, có gió
Hai đứa cùng bàn tính chuyện ngày sau
Hè qua mau, lá vàng rơi khắp ngõ
Mưa giăng giăng, mây tím phủ trời cao

Giáng Sinh đến, phố phường đầy hoa tuyết
Cây thông xanh rực rỡ ánh đèn màu
Đường thưa vắng, chợ đông người sắm Tết
Buốt giá lạnh lùng mình vẫn có nhau

Chuông đinh đon vọng rền lời truyền giáo
Không gian huyền dịu lấp lánh muôn sao
Trong yêu thương tôi quên mình ngoại đạo
Tha thiết, thành tâm dưới Chúa nguyện cầu

Gió rét lạnh lùng đóng băng hồ, suối!
Tôi thẩn thờ lặng ngắm tuyết bay mau
Cảm ơn anh đã đem cho tình cuối!
Lời hẹn thề xin trả lại trăng sao.

Nay xa rồi! Phải chăng mình không nợ?
Ôm nỗi sầu khóc tình lỡ thương đau!
Trong tim tôi tròn đời ghi câu nói
“Tình yêu đầu, nhớ mãi đến ngàn sau…”

Lãm Thúy
Những giấc mơ
Mơ thấy ta về nhà cũ
Thuở còn vách lá đơn sơ
Ta còn sống đời lam lũ
Với đàn em dại ngây thơ

Nhà bên dòng sông quê ngoại
Bâng khuâng bìm bịp kêu chiều
Nước lớn, sông đầy, cuộn chảy
Đôi bờ lau lách đìu hiu…

Ở đó, cuộc đời bình lặng
Trắng quê soi cảnh cơ hàn
Biết bao nhọc nhằn, cay đắng
Tháng năm túng thiếu, nợ nần…

Cha còn soi chim, bẫy cá
Mẹ còn áo rách vá vai
Quết chuối, nuôi heo vất vả
Đói no sớm tối sum vầy

Mà đời hồn nhiên vui sống
Ngoại còn tưới đám trầu xanh
Ta còn bao nhiêu ước vọng
Vươn lên cuộc sống trong lành

Mơ thấy ta về nhà cũ
Vườn hoang, cỏ dại lan đầy
Thuở ấy, mới về lại xứ
Chị em cơ cực lưới chài

Mơ thấy con còn thơ dại
Cha tù tội chốn xa xăm
Mẹ con về nương náu ngoại
Tuổi thơ vất vả, gian nan

Mơ thấy trong căn chái cũ
Con kê tay mẹ gối đầu
Lạnh lùng những đêm gió hú
Cận kề, hơi ấm chia nhau

Mơ thấy ta về Vàm Xáng
Cha ta tóc bạc thân gầy
Mẹ ta cô đơn, bệnh hoạn
Tóc tang đè nặng hai vai.

Ở đó bên sông quê nội
Nhà cao, cửa rộng mà buồn!
Mẹ cha già nua, yếu đuối
Đàn con lưu lạc tha phuơng!

Ngoại ta đã về thiên cổ,
Con ta tro bụi lâu rồi
Mơ thấy sông chiều lộng gió
Tuyệt nhiên không hiện bóng người!

Có đứa em ta thương nhớ
Cũng về ngủ giấc nghìn thu
Mơ thấy ta về thăm mộ
Vườn chiều ướt sũng cơn mưa

Ở đây, bên trời lưu lạc
Mơ thuở nào chưa tang thương
Người chưa tử vong, mất mát
Ta còn sớm nắng, chiều suơng

Cứ sợ một ngày nào đó
Mẹ cha khuất núi, qua đời
Cuộc sống còn buồn hơn nữa
Lấy gì chuộc được ngày vui?

Cuộc sống tha hương buồn quá
Muốn về bắt ốc, hái rau
Thà vui với đời thôn dã
Còn hơn xa xứ ngậm sầu !

Nghe lòng rã rời đau xót
Đời cứ bớt mãi niềm vui
Còn đâu tháng ngày dịu ngọt
Bên nhau rộn tiếng vui cười?

Cứ về theo nhau lũ lượt
Mà đời như là mơ sao?
Những người thân yêu thuở trước
Hồn giờ tan tác về đâu?

YÊN SƠN
Những nhánh rong xanh
trên dòng sông tuổi thơ
Buổi sáng, khi mặt trời chưa thức dậy, hắn đã ở ngoài vườn, tỉa cành tưới nước, vuốt ve những cụm hoa đang khoe sắc. Mấy chậu hoa sứ nở ngào ngạt hương. Hương hoa sứ thơm dịu dàng như một thiếu nữ trang đài đứng trên lầu mộng. Hắn lượm mấy nụ hoa mới rụng dưới cội đưa lên mũi hít thở nhẹ nhàng. Mùi thơm dịu ngọt cho hắn một cảm giác thật dễ chịu và lấy làm tiếc là nó không giữ được lâu như những loại hoa khác. Hắn bỗng mỉm cười nghĩ tới câu “hồng nhan bạc mệnh”! Hương hoa sứ thanh khiết nhưng mong manh như một người con gái trang đài xinh đẹp.
Hôm nay đã là ngày thứ Sáu trong tuần! Hắn có cảm tưởng như hắn chỉ vừa chào ai đó trong ngày thứ Sáu… một hai hôm trước! Thứ Sáu đâu mà rộn rịp thế nhỉ? Thứ Sáu đại diện cho một tuần lễ sắp hết mà càng lúc thấy nó tới nhanh hơn mình tưởng! Tâm lý con người cũng vẫn quanh quẩn như vòng trầm luân của đời sống, như bánh xe nước ở mấy chặng sông Trà, sông Vệ năm xưa: con nít vô tư, hồn nhiên mong chóng lớn, người lớn sợ thời gian, người già thích trở lại cái thuở hồn nhiên vô tư lự! Nghĩ tới cái thời “vô tư lự” lòng hắn bồi hồi chạnh nhớ những kỷ niệm xưa dù có nhiều vết tích cũng đã lờ mờ sương khói.
Nhà hắn bên bờ xe nước sông Vệ, nơi hắn thường bơi lội với lũ bạn sau những buổi tan trường. Học mới lớp một, lớp hai mà hắn đã “bơi lội như rái” – theo lời kể của Mẹ hắn mỗi lần cùng Mẹ ôn lại chuyện xưa. Dưới chân bờ xe nước thường có nhiều tôm càng, cua xanh và cá bống mú. Cá bống sông Trà, sông Vệ mà kho rim tiêu, ăn với cơm nóng thì tuyệt cú mèo. Dòng sông này đã cho hắn khá nhiều kỷ niệm thuở thiếu thời. Một lần vô ý bị cua kẹp dưới đáy nước, hắn hét tướng lên làm nước tràn vô miệng, uống cành hông, từ dưới đáy ngoi được lên mặt nước tưởng như thời gian ngưng lại, may mà không bị chết đuối! Cũng dòng sông này đã cướp mất của hắn một người cô yêu quý! Đó là dịp kỵ giỗ hàng năm của đại gia đình bên Nội. Cô hắn cũng còn rất trẻ, thích bơi lội, biết anh em hắn bơi giỏi nên mỗi lần về là rủ đi tắm sông. Sự tin tưởng của cô đã bị phản bội khi dòng nước nhận chìm cô vì chân cô bị vọp bẻ, và anh em hắn cũng suýt chết đuối theo bà cô giã từ cuộc đời đầy bi lụy! Cũng dòng sông này anh em hắn đã từng nhặt những trứng vịt rơi rải rác nằm sâu dưới dòng nước, trên mặt cát mỗi buổi sáng khi những đàn vịt nuôi, hàng ngàn con được lùa qua; hay những đêm trăng thanh gió mát mang chiếu ra trải trên bải cát trắng phau, nghe người lớn hò đối đáp rồi cùng ngủ qua đêm với các anh chị hàng xóm. Hắn cũng nhớ Mùa Vu Lan năm nào đó rất xa trong ký ức, giọng ca cao vút của một chị huynh trưởng, trong đoàn Phật tử, hát trong đêm văn nghệ trên khán đài lộ thiên nằm trên mặt cát trắng bên dòng sông Vệ. Hắn nhớ hoài giọng hát và gương mặt đó với bài hát Mục Kiền Liên… Đìu hiu gió bóng chiều rơi theo lá thu, có đàn chim bay vấn vơ, chuông chùa xa đưa huyền mơ! Mục Kiền Liên đứng nhìn cảnh đêm dần lan, nhớ Mẹ xót xa tâm hồn, bóng Mẹ biết bây giờ đâu… Không biết là vì vóc dáng của chị đoàn trưởng, hay là vì ánh sáng huyền hoặc của đêm trăng rằm hôm đó mà từng lời ca, từng dáng điệu in hằn lên tâm khảm hắn như một tỳ vết dễ yêu mỗi khi nghĩ đến, nhớ về! Dòng sông này cũng còn một kỷ niệm nguyên xi những lần hướng dẫn gia đình chạy nấp máy bay oanh kích của giặc Pháp, hoặc các trận đụng độ giữa Việt Minh và Pháp trước ngày đất nước chia đôi, trong các hầm cát bên bờ sông gần nhà hắn mà phía trên của hầm cát là những cụm xương rồng và cây lưỡng long tua tủa gai nhọn. Những hầm cát này đã được lũ trẻ con hàng xóm, bạn bè của anh em hắn cùng đào móc chơi đùa với nhau sau những giờ tan học, hoặc để tránh những cơn nắng hạ khắc nghiệt một thời. Dòng sông này cũng là nguồn thực phẩm nuôi sống cho anh em hắn và biết bao nhiêu gia đình ở hai bên ven sông…
Khi Ba Mẹ hắn quyết định đưa đàn con đi tìm vùng đất hứa ở miền Nam trong chiến dịch khẩn hoang lập ấp anh em hắn đã bỏ ra mấy ngày, ngồi hàng giờ nơi chốn ấy để thì thầm những lời ly biệt, để gửi lại những tiếc nuối khôn nguôi! Cái quyết định rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, xa lìa gốc gác, mồ mả tổ tiên đã bao đời gầy dựng để xuôi Nam “vì tương lai con cháu” của Ba hắn là một biến cố trọng đại cho gia đình và giòng họ. Cái quyết định đã gây sững sờ không những cho giòng họ mà còn cho cả xóm làng. Ba hắn đã thuyết phục một số bà con và những bạn bè thân cận cùng “đi lập nghiệp” ở một nơi chốn chỉ biết qua giấy tờ và lời thuyết phục từ các cấp chính quyền. Người ta xầm xì, bàn qua tán lại cho là “đi về chốn rừng thiêng nước độc” khiến một số gia đình thay đổi ý định, kẻ ở người đi! Cho tới lúc này, ngồi đây viết những dòng này, hắn cũng cảm nhận cái quyết định của Ba hắn thời đó là một quyết định “dữ dội”, là một sự can đảm phi thường, là một sự liều lĩnh có tính toán! Hắn chợt nhớ nghĩ đến người cha thân yêu, hắn càng cảm phục sự nhìn xa thấy rộng của Người, cái quyết tâm dũng cảm của Người, và càng biết ơn Người!
Nói đến thời kỳ khẩn hoang lập ấp, hắn nhớ ngay đến hai dãy nhà tiền chế nằm hai bên con lộ đất đỏ mù trời duy nhất được ủi vội để chào đón những gia đình mới tới! Lúc đoàn xe vận tải nối đuôi đổ người xuống, sau mấy ngày di chuyển vô cùng vất vả trên đoạn đường dài từ miền Trung mịt mù xa lơ xa lắc, hắn không biết là khoảng thời khắc nào, chỉ nhớ mặt trời đã nằm sâu dưới những tàng cây đầy kỳ bí mà chung quanh là núi rừng dày đặc hoang vu! Có tiếng khóc bất an của một vài người đàn bà và em nhỏ hòa cùng tiếng côn trùng và chim muôn kêu rả rích tạo nên những khúc nhạc thê lương ảm đạm! Những gốc cây trơ trụi còn sót lại chỏi lên khắp nơi, những đống cây khô khổng lồ được xe ủi gom vào từng hàng dài càng làm cho cảnh vật thêm phần u tịch! Hắn nhớ như in vẻ mặt chịu đựng của Mẹ hắn, dấu vội đi những giọt nước mắt lăn dài khi vừa đẩy cửa bước vào một trong hai căn nhà dành cho gia đình hắn. Căn nhà khá rộng nhưng mái lợp bằng tranh, vách ngăn bằng lá. Mẹ nghẹn ngào nói với đàn con “các con ráng chịu khổ một thời gian, chắc chắn mình sẽ được chính phủ giúp đỡ để tạo dựng một đời sống ổn định hơn cho tương lai của các con”! Hắn nhớ quá thời gian tân khổ nơi này… những cánh đồng hoang vu mênh mông mầu mỡ, những khu rừng bát ngát vô tận, những rừng mai bạt ngàn mỗi khi xuân về tết đến. Những hồ ao, đồng lầy đầy ắp cua cá, con sông La Ngà lặng lờ chứa đựng dư thừa thủy sản… rồi những ruộng lúa mênh mông, những rẫy bắp, nương đậu xanh mướt một màu, rộng bao la cũng theo thời gian cùng với sức người hiên hữu khắp nơi. Rừng rậm và thú dữ càng ngày càng bị đẩy xa, xa tận tầm nhìn… Đặc biệt mỗi khi lên mùa nào đậu, nào bắp, nào lúa tràn ngập khắp nhà từ trước tới sau, từ trong ra ngoài, vun tràn từng đống lớn. Thế mới thấy cái quyết định của Ba hắn là đúng đắn chứ không như những ngày đầu đầy ân hận! Tuy nhiên, hắn vẫn thấy khổ ơi là khổ cho những nhà nông! Trong thâm tâm hắn đã có ý nghĩ “một ngày nào đó mình sẽ lìa xa”… Nhớ ơi là nhớ Cánh đồng lớn, khu rừng Mai, con sông La Ngà, ngọn Đồi Bảo Đại với những hàng cây vú sữa rợp bóng dọc theo con đường trôn ốc từ dưới lên tận đồi cao nhưng nay đã không còn chủ…

Hắn chợt nhớ ngày đầu tiên khai trương khu trường Trung Học Công Lập đệ nhất cấp Võ Đắt. Anh em hắn là một thành phần trong loạt học sinh Trung học đầu tiên vào học trường này. Ngày cắt băng khánh thành, anh em hắn được mặc đồng phục toàn trắng, trông rất oai nghiêm đứng hàng giờ dưới trời nắng chang chang để chờ sự xuất hiện của Cụ Ngô ! Mặc bộ đồ đặc biệt này lòng hắn sung sướng xiết bao, hắn thấy như mình lớn hẳn ra, đi đứng trang nghiêm, nói năng chững chạc. Ở nhà, hắn đã phải đứng xoay qua xoay lại “cho Mẹ nhìn ngắm thanh niên của Mẹ một lúc”. Hắn chợt nhớ quá những khuôn mặt thân thương cùng hắn chia sẻ những nỗi vui niềm buồn của một đời học sinh trên cái xứ đất đỏ buồn tênh xa cách thị thành! Nào Tươi, nào Thành, nào Hiền, nào Tư, nào Ánh, nào Thu, nào Hạnh… nay kẻ còn người mất… người phương này kẻ tận mờ xa!
Hình bóng Tươi bỗng nhiên xuất hiện. Tươi là thằng bạn thân nhất từ những ngày khốn khó đầu tiên. Hai đứa cứ quấn quít nhau từ trường về nhà, từ ruộng qua rẫy. Đi đâu, làm gì cũng có hai đứa. Rất lâu năm, hai đứa thường chụm đầu đánh cờ tướng mà bao giờ hắn cũng thua, có may mắn lắm cũng chỉ thí quân theo kiểu lưỡng bại câu thương để thủ huề. Tươi nói “làm sao mầy đánh lại tao được, tao nghĩ trước tới bảy nước cờ”. Hắn nói với Tươi “mầy cũng có đánh lại tao đâu, tướng thư sinh của mầy chỉ cần ba mươi giây là tao cho chổng vó lên trời”! Mỗi lần nghe hắn nói vậy Tươi chỉ cười! Tươi không thích tập võ mặc dầu Ba hắn sẵn sàng dạy võ cho nó. Ba hắn chỉ dạy võ cho mấy anh em trai trong nhà mà thôi, dứt khoát không nhận dạy người ngoài, mà Tươi là trường hợp ngoại lệ, thế mà nó không chịu học mới tức chứ! Cũng vì cái tài đánh cờ của nó mà hắn cũng được hưởng lây khi đi đấu với các người lớn tuổi ở nhiều chỗ khác nhau trong thôn xóm hoặc các làng lân cận. Chiến thắng là những phần quà bánh tình cờ. Vâng, chỉ là những bánh kẹo tầm thường nhưng thời đó, nơi chốn đó đã là một ưu đãi! Bù lại thì hắn cũng giúp bảo vệ cho Tươi những lần gặp những người thua cờ nổi nóng. Mà cái vụ bị nổi nóng, đập bàn cờ, hoàn đi hoàn lại, cãi tới cãi lui luôn là chuyện thường tình!
Sau khi học xong lớp Đệ Tứ, Tươi với hắn tạm chia xa, vì hoàn cảnh gia đình đặc biệt nên Tươi không cùng lên tỉnh thành với hắn và một số bạn học cùng lớp, mặc dù Tươi học rất khá. Tươi ở lại với ruộng vườn cho đến năm 17 tuổi thì tình nguyện gia nhập Địa Phương Quân. Hắn không nhớ rõ Tươi làm chức vụ gì nhưng lâu lâu lại đưa lính đi huấn luyện ở tỉnh lỵ Bình Tuy. Có một lần, trong dịp nghỉ hè, hắn về thăm gia đình thì gặp lúc Tươi phải đưa lính đi. Tươi chạy chọt cách nào không biết mà hắn được cùng Tươi đi máy bay về tỉnh cùng với mấy chục người lính mới. Phải nói đó là lần đi phi cơ đầu tiên trong đời nên hắn rất vui và hồi hộp lẫn hãnh diện. Sau khi làm xong công vụ, hai đứa tới ở trọ nhà anh Cát, một người bạn vong niên trong lính của Tươi. Buổi tối hôm đó là một đêm trăng tỏ, anh Cát rủ hai đứa mang đầy đủ mùng mền chiếu gối, lò nướng, cần câu… đi câu và ngủ trên biển! Hắn nghe hấp dẫn quá chịu liền. Thế là ba anh em tất bật chuẩn bị cho chuyến đi chơi đêm trên thuyền và trên biển. Anh Cát không quên ghé một tiệm tạp hóa mua theo mấy lít rượu trắng. Đêm hôm đó là một đêm nhớ đời. Câu được con nào nướng con đó trên lò than hồng, gió mát trăng thanh, chén anh chén chú cụng suốt, xỉn hồi nào không hay. Khi thức dậy vào buổi sáng vẫn thấy con thuyền lênh đênh, loanh quanh trong vùng vịnh cách bờ khá xa mà Tươi và anh Cát vẫn đang ngủ ngáy tưng bừng! Ở Bình Tuy có một vùng biển rất đặc biệt. Từ bờ ngó ra Hòn Bà xa xa là một vùng rộng lớn nhưng rất an toàn vì dòng nước chỉ chảy vòng vòng bên trong vịnh, quanh năm sóng yên gió lặng. Phải nói chuyến đi này là một kỷ niệm khó quên. Lòng hắn vẫn luôn bồi hồi xao xuyến mỗi khi nghĩ về chuyện này!
Hắn lại nhớ Thanh, đứa con gái 16 tuổi như nụ hoa quỳnh vừa chớm nở, hương sắc dịu dàng. Hắn quen Thanh trong những sinh hoạt của gia đình phật tử tại địa phương. Tuổi thiếu niên thuở ấy rất hồn nhiên, trong sáng. Mà người lớn dường như không ai để tâm phân biệt nữ nam như bây giờ. Có một lần cắm trại tại khuôn viên chùa, cả nam lẫn nữ cùng cho ngủ chung trong một “căn lều cộng đồng”, nằm như xếp cá mòi. Cả nam lẫn nữ theo lệnh Thầy được nằm chung với nhau, chỉ cần quay đầu ngược lại nhau. Hắn và Thanh nằm ở giữa. Lúc chưa ngủ hai bên vẫn nghịch ngợm đạp chân nhau, nói cười vô tư lự đi vào giấc ngủ. Lúc gần sáng, khi tiếng chuông mõ khai kinh làm hắn giật mình tỉnh giấc, hắn mới phát giác ra cô bé đang ôm hắn ngủ ngon lành! Đứa con gái 16 tuổi đã trổ mã dậy thì như một đóa hoa xuân phơi phới đang gác tay gác chân lên người hắn! Tự nhiên cả người nổi gai lạnh với cảm giác nhột nhạt khắp châu thân. Hắn cảm thấy nhịp tim loạn xạ, thở hít khó khăn vì hương tóc nồng nàn quyện với mùi thịt da con gái làm hắn ngất ngây ngây ngất, nửa muốn gở ra, nửa muốn ôm chằm. Đầu óc phấn đấu kịch liệt cố nghĩ tới những điều trong sáng. Hắn tự nói cho hắn biết là mình đang ở chùa, là một phật tử thuần thành, là phải tôn nghiêm giới luật! Hắn lẩm nhẩm lặp đi lặp lại năm điều tâm nguyện của người thanh niên Phật tử: “Phật tử quy y Phật Pháp Tăng và giữ giới đã phát nguyện; Phật tử mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống; Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật; Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm; Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo”! Hắn băn khoăn tự hỏi không biết Thanh vô tình hay cố ý, và càng lúc càng run hơn! Có lẽ sự run rẩy của hắn và tiếng chuông mõ công phu cũng đã làm cho Thanh thức giấc! Hắn thấy Thanh tự động buông ra và xoay người về hướng khác! Hắn thở phào như trút được gánh nặng dù sự nuối tiếc vẫn lâng lâng. Hắn nhanh lẹ ngồi bật dậy, ra ngoài sân chạy một vòng chùa để cố quên và dấu sự bẽn lẽn!
Mặc dù sau đó cố tránh mặt nhau một thời gian – có thể là tại vì đã có tình ý, và cũng muốn tránh cho nhau những cảm giác ngượng ngùng – nhưng tình cảm của hai người ngày càng thân thiết hơn. Tới một ngày kia, trong buổi sinh hoạt tuần lễ cuối cùng, hắn thông báo với đoàn là sắp đi học xa, Thanh mới tìm cách nói cho hắn biết là chiều hôm sau sẽ để phong thư trên đầu cây chuối thứ tư trên con đường chạy xe đạp nối liền hai xóm nhà. Sáng hôm sau hắn kín đáo leo lên cành mít cao, lén viết thư tình rồi nôn nao chờ đợi buổi chiều để trao đổi. Buổi chiều đang ngồi trước sân ngó mong ra ngõ, hắn thấy Thanh chạy xe đạp ngang qua mà không hề ngó vào như mọi lần. Chờ cho Thanh đi khuất một lúc sau, hắn lấy xe đạp chạy qua con đường nhỏ. Hắn tới cây chuối thứ tư, ngó trước ngó sau mới dò tìm phong thư ẩn dấu. Phần thì hồi hộp, phần lo có người đi qua, tim hắn đánh như trống làng mà tìm mãi vẫn không thấy thư đâu cả. Hắn trở lại đầu đường và đếm số lại, nhưng vẫn không tìm thấy thư của Thanh. Đang ngẩn ngơ, bối rối hắn mới kịp nghĩ hay là cây chuối thứ tư đếm từ bên kia sang? Quả đúng như thế, phong thư được gói ghém rất cẩn thận để phía trong bẹ chuối khuất tầm nhìn. Hắn để thư hắn vào thế chỗ rồi đạp xe ngang nhà Thanh. Thấy Thanh đứng trước hiên nhà, hắn nhẹ gật đầu và quay mặt về phía sau ý nói có thư chỗ đó. Thế là nguyên tuần lễ còn lại, ngày nào cũng lặp đi lặp lại bài bản cũ cho đến ngày hắn khăn gói lên xe đò đi về Long Khánh trọ học. Lúc xe lăn bánh hắn mới thấy bàn tay Thanh kín đáo vẫy chào!
Nhớ về những ngày trọ học ở Long Khánh thì không thể không nhớ một cuối tuần cùng Tư và Thành rủ nhau chạy xe đạp về Võ Đắt. Đoạn đường hơn ba mươi cây số với đồi giốc chập chùng, rừng cây cao rậm, cọp beo không thiếu… với chiếc xe đạp “typical one speed” thời đó nặng chình chịch… thế mà ba đứa quyết định “thử” một chuyến ra sao! Hôm đó trời mưa lất phất, ba đứa đang hân hoan đổ giốc sau khi cặp giò tê tái vượt lên một con giốc dài. Đang ngon trớn bỗng cả bọn xanh mặt, thắng gấp, dùng cả gót giày ép vào bánh xe vì phía trước không xa có một con voi to cao dềnh dàng đứng chắn lối đi. Theo kinh nghiệm người đi rừng dạy lại, ba đứa từ tốn dẫn xe vừa run vừa đi lùi lên đầu giốc… chờ một thời gian khá lâu cho con voi đi khỏi mới ngó trước ngó sau, phóng nước đại qua truông. Nói tới Long Khánh không thể không nhớ những vườn cà phê, sầu riêng, chôm chôm sai trái của mấy người bạn học bản xứ. Nhớ nửa trái sầu riêng con bé nhà hàng xóm khép nép để ở góc bàn học rồi chạy biến về nhà vào một buổi trưa khi hắn đang ngồi ôn luyện bài thi. Nhớ gia đình anh chị Ngữ đã cho ăn cơm tháng suốt mấy năm dài. Nhớ những lần đi biệt tăm cả tuần không dám đụng tới bát đũa vì sợ thịt chó! Hắn đã học được cái tính “không nên giận ai quá 15 phút” của anh Ngữ. Nhớ anh chị với nụ cười nhân hậu, tấm lòng bao dung luôn luôn khuyến khích hắn trong việc học hành! Nhớ những mũi kim thêu hai con chim yến bay song song trên vùng núi nhỏ ở góc chiếc khăn “mouchoir” trắng mà cô em gái của thằng bạn học chung lớp thẹn thùng gửi tặng khi hắn từ biệt về học Saigon. Cũng vì sự tích này mới nảy sanh ra một bút hiệu mà theo thời gian mất đi dấu sắc (vì có người phê bình chữ “Yến” nghe yếu xìu)! Nhớ tới hãng kem đậu xanh ngon tuyệt vời ở đầu ngõ nhà trọ là nơi lũ học trò xa nhà tụ tập sau những buổi cơm chiều. Nhớ giọng rao hàng của ông Tàu già bán bánh bò bánh tiêu mỗi xế trưa qua xóm, nhớ tiếng gõ lóc cóc hằng đêm của xe bán hủ tíu dạo bên đường của một ông Tàu khác mà hắn vẫn nghĩ chưa có đâu ngon bằng… nhớ ơi là nhớ!
Ôi những kỷ niệm vẫn bám theo hắn cả đời, thật gần nhưng cũng thật xa, xa tít mù trong tiềm thức! Có phải không khi nhìn bóng chiều rơi người ta thường nhớ về những bình minh có muôn sắc muôn mầu, tiếc những giọt sương long lanh trên đầu cánh lá?! Câu tiếng Pháp trong bài Triết học hồi còn lớp 12 làm cho hắn nhớ hoài: “chúng ta không bao giờ có được tâm hồn của buổi chiều hôm nay” (nous n’aurons jamais plus l’âme de ce soir), có thể rất đúng nhưng sao mỗi khi chạnh nhớ về những ngày thơ ấu lòng hắn cũng bâng khuâng rung động, cũng xao xuyến bồi hồi! Tai vẫn như nghe tiếng kẻo kẹt của bờ xe nước, mắt vẫn mơ màng thấy lũ con nít đứng trên bờ cao nhảy tùm xuống dòng sông tuổi nhỏ, mũi vẫn thoang thoảng mùi hương thơm của lúa chín, mùi rạ nặc nồng cuối mùa gặt…

HẢI PHƯƠNG
Con sóng vỗ cuồng điên
đau luống biển
Vịnh em
biển sóng nhọn
bứng rễ khu rừng nguyên khai bật gốc
ta dứng trơ trọi
khản lời gió
trôi lữ hành đêm
biệt dạng.

Vịnh em
ghềnh đá vỡ vụn
con sóng trào lên cuộn
dưới chân hành trang hư không
ta biệt tích
đêm phục chế bầu trời ý niệm
ngân nga giọt xanh
xa lắng.

Vịnh em
nắng cổ tích chứa chan
mưa quê nhà vời vợi
rỏ hồn ta giọt máu thầm
như nỗi hy vọng tuyệt vọng
còn luân lưu
chẳng nỡ tận tiệt.

Vịnh em
bố cục buổi chiều lặng câm tím
con hải âu táo tác
tìm lại đường bay hôm qua
nền trời xám lạnh vỗ cánh
ta hòa âm cuộc hành trình cô độc
trên tang trống hoàng hôn lục điệp
phố khuya vỗ nhẹ
vỗ nhẹ (bước chân quen đôi guốc mộc.)

Vịnh em
thơ mọc từ vòm nhánh
chân trời thả xuống
vòng cánh tay mê lộ tròn êm ái
lấp lánh tinh cầu em
tìm về
đôi khi cõi lòng riêng rất lạ.

Vịnh em
sao khi ta về
cõi lòng riêng rất lạ
sao khi ta đi
ở nơi dòng sông không ngừng lại
Con Sóng Vỗ Cuồng Điên Đau Luống Biển

Từ cung lễ hội mùa xuân
…femme, l’atelier des êtres humains.

Khi ở khách sạn lộ thiên lá cây đơm đầy nhánh môi hôn
nhón nhẹ khẽ khàng bước chân kiễng lên lên nhịp rung
tiếng thì thào của gió đầy ắp nội dung mật ong tình yêu xôn xao tử cung lễ hội mùa xuân
cơn động kinh sớm tàng trữ rạng đông ẩn hình
tháng giêng xanh cánh đồng cỏ khởi đầu trú ngụ
trang điểm ngụ ngôn biển và bí tích em bát độ ngân rực rỡ.

Em hãy mở ra
mở ra tất cả
các cửa sổ của ngôi nhà hữu thể (chúng ta)
treo những linh hồn và những nụ cười tươi rói (trên các cửa sổ)
chào mừng tử cung lễ hội mùa xuân của mẹ.

Em hãy treo vòng ngà thời con gái lên cổ
mọc lá ngữ điệu sơ sinh trí nhớ
hãy ngợi ca người nữ thống trị bầu trời(làm mưa làm nắng)
hãy mở bung âm thanh của sự lặng thinh lầm lì mặt đất nơi chúng ta trú ngụ
hãy gióng nhịp thủy triều kinh kỳ biển sóng vỗ
chào mừng tử cung lễ hội mùa xuân của mẹ.

Khi ở khách sạn lộ thiên rừng hưng phấn thao thaó độ lượng hằng tỷ năm cô đơn đá tảng chứa đựng thứ ngôn ngữ lóng lánh như thạch ngọc kết tụ êm ái dành riêng cho thơ
ca tụng nhan sắc và mùa xuân tử cung lễ hội.

Em hãy ra khỏi
ra khỏi khách sạn lộ thiên
ra khỏi tức thì chỗ ẩn trú hoang vu thinh không tịch lặng
hãy đập vỡ trái tim mộ đá
hãy tươi rói phơi phới môi em gió lên
chào đón lễ hội mùa xuân tử cung của em và mẹ.

Khi ở khách sạn lộ thiên biển nổi lửa cháy bừng (trong nước có lửa) mạn thuyền và những dòng sông xa nguồn lâu ngày được quyền thưởng thức nỗi nhớ nhung thon mềm như con sóng nhỏ vỗ nhẹ vào bờ cát lao xao thân ái hỏi han những điều đã nói nhiều nhưng chưa nói hết chưa kịp giãi bày chưa lần cung nhã trước cung diễm nguy nga giữa cung đình tình ái và mùa xuân tử cung lễ hội.

Em hãy hát phúc âm
thứ phúc âm của loài người khổ đau hoạn nạn biệt xứ lao lung lưu đầy trọn kiếp
hãy xua đuổi những hao hụt quạnh quẽ và những điêu tàn long lanh
bởi vì không mấy khi loài người được ân sủng
em hãy ra biển ngóng
đợi những con tầu vội vã trở về bến cảng
nhìn những con hải âu xao xác bay quanh nhịp cánh gọi nhau mừng rỡ.

Em hãy mưa
như mưa dầm dề đêm qua
và hãy lũ lụt tràn bờ những con sông cạn nước
và hãy hội tụ những nhánh sông rộng
chảy mênh mang một dòng ra biển lớn
bởi vì giống nòi ta tội tình chia năm xẻ bẩy xuống biển lên rừng lang thang lứ thứ
bởi vì nhiều khi chúng ta giấu biệt nhau những cơn mưa nhiệt đới môi em mong đợi kiếm tìm rực rã.

Em hãy gieo trồng
bởi vì mùa màng thường hay thất bát
chúng ta (anh và em) bội thu những mùa gặt hư vô
em hãy ươm mầm
bởi vì thế kỷ ta người nữ toan tính trụy thai tuyệt sản.

Em hãy gom góp lại
tất cả cỏ rác
bởi vì đời rất hào phóng nhìn ta như cỏ rác
nên ta yêu đời cỏ rác ở trong thơ.

Em hãy nắng
sợi nắng dài đa cảm lung linh trên ngực trần độ lượng
và hãy là những con đường
để ta rút ngắn dặm trường rong ruổi lưu đầy biệt xứ
và sự trở về của mặt trời sơ khai ửng hồng hoa trái.

Khi ở khách sạn lộ thiên thời tiết em dự báo động đất
và nôn nao chuyện nắng mưa ngày ấy.

Em hãy treo linh hồn các nữ sinh và những nụ cười rạng rỡ lên các cửa sổ lớp học giờ triết vỡ lòng của mái nhà hữu thể bằng tất cả thứ ngôn ngữ nồng nàn tình ái và những trái tim hiền lành như cục đất biết thổn thức trong giây phút cơ may anh em gặp gỡ.

Và em hãy sơ sinh
như ta mãi sơ sinh trong Tử Cung Lễ Hội Mùa Xuân Của Mẹ.

Diễm Nghi
Nhớ Huế
Huế ơi! mấy độ thu rơi
Bây chừ ray rứt bên trời luyến thương
Bao năm cách biệt đôi đường
Từng trang ký ức hằn vương nỗi lòng

Hỏi chừ Huế có còn không?
Nội Thành ngày nớ rêu phong phủ mờ
Ngự Bình buồn đứng trơ vơ
Sông Hương nước chảy lặng lờ đêm thâu

Thuyền xuôi ngược bến Vân Lâu
Sương rơi Thiên Mụ giăng sầu bơ vơ
Tịnh Tâm sen nở, Xuân chờ
Thiên An gió thổi xác xơ lá vàng

Ngự Viên du khách ghé ngang
Giở trang hoài cổ mơ màng nét xưa
Còn đâu lối cũ chiều mưa
Ngại ngùng sánh bước ai đưa ai về

Chạnh lòng nhớ kẻ bên tê
Mông lung khắc khoải vọng về Huế mơ
Trầm tư dưới ánh nguyệt mờ
Hồn say lạc giữa đôi bờ tịch liêu.

Sầu tương tư
Trời trong gió mát trăng thanh
Hoa xuân khoe sắc trên cành ngát hương
Cỏ non ươm đọng màu sương
Ngồi đây mà ngỡ lòng tương tư sầu

Không gian xa cách mãi nhau
Ai đem thương nhớ nhuộm màu thời gian
Xanh xao ngày tháng võ vàng
Chơi vơi hồn khẽ buông ngàn tiếng tơ

Hẳn rằng đâu phải ảo mơ
Lời thơ xao xuyến lạc bờ mê say
Một đời tri kỷ có hay
Ngộ duyên tiền định an bày hẳn sao

Trăm năm lòng mãi thanh tao
Tình xa biết có lao đao hỡi tình!
Thương cành hoa nhỏ trắng xinh
Bùi ngùi ngẫm lại phận mình xót xa

Trăng tà mây tản thướt tha
Chuông chùa buông nhẹ ngân nga vọng về

U tịch
Hoàng hôn khuất bóng sau rặng núi
Gió thoảng đìu hiu cuối trời mây
Chim tìm tổ ấm kêu ngơ ngác
Rừng chiều xơ xác lá rơi bay

Xa xa vượn hú bên trời
Thông già yên đứng sương rơi phủ cành
Sầu dâng cao vút non xanh
Quê cha đất tổ đoạn đành ly tan!

Trần Yên Thảo
Sợi khói ngang mặt
Quên tao rồi sao Định. Đâu. Tao đâu quên, mày về đó hả Tư. Ừ, tao về mày lạ lắm sao. Tao tưởng không còn gặp mày nữa. Tao cũng tưởng vậy đó. Mày đi lính nhảy dù rồi hả, hồi nào vậy. Lâu rồi mày. Ngon không. Biết đâu được, mày muốn thì thử đi, tao đã rồi. Chạy đâu khỏi, tao lấy căn cước rồi mà. Ông già mày chết rồi hả Định. Ừ, ổng bị thổ tả hôm trong năm. Còn bà già tao cũng đau luôn, thấy nhà cửa tao rầu quá mày. Kệ, thời buổi như vầy chạy đâu khỏi khổ. Mày về đằng nhà chưa Tư. Chưa, mày thấy anh tao còn giận tao hết. Giận mẹ gì nữa, hai năm mấy rồi. Ờ, coi vậy mà lâu ghê Định há. Thằng Tư trở về thật bất ngờ. Tôi tưởng nó sẽ không bao giờ về cái đất này nữa. Dù là những con đường vô số cay nghiệt rào đón vây bủa. Những chốn khỉ ho cò gáy. Những nơi chó ăn đá gà ăn muối. Những ngày tháng lê lết của một đời sống phủi lủm. Dù là những con đường trơn tru im phẳng. Những cánh tay vẫy mời đón ân cần. Những ngả rẽ tưng bừng hào nhoáng. Những đời sống phủ phê cơm áo rượu thịt. Nó sẽ không bao giờ quay mặt ngó lại cái đất này nữa. Xứ sở của nó, Những con đường nhỏ tối tăm khuất khúc lem luốc bụi than. Những con phố buồn rầu lẻ tẻ. Những bữa cơm hất hủi ê chề. Những mơ ước trôi xuôi tuồn tuột như dòng nước chảy trên mặt nghiêng của mái nhà. Những cặp mắt thao láo. Những nét mặt lầm lủi quen thuộc. Xứ sở của nó. Con sông chảy qua mặt ngang bờ chợ. Một cây cầu gỗ và những bến cá thưa thớt. Xứ sở của nó. Bên kia sông là biển và khu rừng lau khô. Mỗi lần về khuya những cơn bấc dậy muộn quét rát rạt vào thị trấn, buồn và rét. Nhưng nó đã về. Nó đi vênh vang thù hận. Nó về lầm lủi e dè. Khung cảnh đâu đó vẫn như vậy. Đời sống ngược xuôi vẫn như vậy. Nó đi vơ quét tom góp. Nó về trống rỗng xuội lơ. Những con đường khuất khúc vẫn tối tăm lem luốc. Những bữa cơm đèn lửa hẩm hiu. Nó đi hâm he thách đố. Nó về mệt mỏi bơ phờ. Những ngày tháng vẫn cào cấu chụp giựt. Những miếng đất cằn cỗi không có chỗ chen chân. Nó đi sừng sộ vung vãi. Nó về tiu nghỉu chán chường. Nó bước vào từ con đường đá lốc chốc, rực nắng mù bụi. Cái dáng gầy đen cử động hơi lờ đờ chậm chạp, mang thêm một bộ đồ nhảy dù, đôi giày cao cổ và một vết sẹo dài cắt ngang khoảnh trán đen nhờn lấm tấm mồ hôi. Nó đứng lại. Cúi nhìn sàn đất ẩm, nhìn tôi, nhìn căn nhà hơi tối bằng hai con mắt lừ đừ rồi ngồi xuống ở một góc đi-văng, tì lưng vào phía vách có cửa sổ nói quên tao rồi sao Định. Bên ngoài nắng buổi sáng hừng hực. Những chiếc xe lam chở đầy nhóc than chạy qua, đổ dồn về phía bến cá. Bụi quấy lên mù mịt đen đặc che khuất dẫy nhà bên kia đường, mập mờ những khung cửa vuông đen và những mái lá chum hum. Con đường hẹp xuyên vào ruột khu xóm lá lè tè khuất khúc, mùa mưa thì lầy lội, mùa nắng thì bụi mù. Thằng Tư vẫn ngồi yên đó, gạt đầu điếu thuốc trên thành cửa sổ, một ít tro rớt lả tả xuống mặt đi-văng trầy trụa. Những đốm tro bị gió cuốn tản mác, vỡ vụn rồi sà xuống mặt đất ẩm. Thằng Tư hỏi mày còn đi biển không Định. Còn, không đi rồi sống bằng gì. Mấy mùa lưới sẩm rồi đở không. Đói rát ruột, toàn những chiều lưới khô, cái đất gì không ngóc đầu nổi. Cái số vậy đó, chạy đâu bây giờ. Nắng rọi xuống những mái lá không đều nhau đẩy những khung bóng mát so le nằm dài trên mặt lộ. Thằng Tư cởi áo máng trên thành chiếc ghế gỗ, nó lấy ngón tay vuốt những lớp bợn đen sì trên cổ áo rồi trở lại ngồi ở góc đi-văng. Gió ngoài cửa sổ thổi vào, tôi vói tay mở thêm một cánh cửa, căn nhà hơi mát và sáng lên. Thằng Tư rít hơi thuốc dài rồi ném tàn ra cửa sổ. Nó há họng lim dim cặp mắt, khói bay ra từng cụm nhỏ ngập ngừng ở các kẽ răng. Bộ mặt nó lúc này trông êm đềm thanh thản một cách mơ hồ. Con Thơm có chồng chưa Định. Chưa, dạo này nó hỏi thăm mày luôn, sao mày không gởi thư cho nó. Gởi làm mẹ gì, tao đâu có định về nữa. Thằng Tư nói xong câu đó vít người ngồi thẳng lên thành cửa sổ. Cái lưng của nó trám gần kín khung cửa làm căn nhà hơi tối lại. Má con Thơm còn chửi tao hết Định. Không biết nữa, hôm giáp Tết con Thơm gặp tao nó cũng hỏi mày, nó nói giờ không biết ảnh sống chết ở đâu. Vậy mà độ này tao thấy nó đi với một thằng Sư Đoàn Mười, buồn không Tư. Buồn mẹ gì, vui mẹ gì đời vậy đó mày. Tôi vói lấy bao thuốc của thằng Tư rút một điếu hút ngồi nhìn ra đường. Chiếc xe nhà binh từ dưới bến cá chạy lên, ôm cua thật ngặt bắn những viên đá dăm rẹt rẹt vào cánh cửa ván. Chiếc xe lao nhanh trong vùng bụi mù của một cơn lốc vừa dậy. Thằng Tư vẫn ngồi nhả khói trên thành cửa sổ, gác mũi giày trên cạnh đi-văng. Nó rung đùi làm lay động tấm màn vải xám chắn ngang sau lưng bàn thờ. Tôi lấy cây nhang châm lên ngọn đèn dầu vặn nhỏ như hạt đậu rồi cắm vào chiếc lư đồng trước mặt chiếc ảnh bán thân của ông già tôi… Thằng Định sau này sẽ giống cha… Tôi đã không mơ ước như vậy. Ông già tôi đẻ ra ở cái xứ này, lớn lên ở cái xứ này, ngót năm mươi năm xác xơ đói rách cùng cực ở cái xứ này với bụi bặm, lầy lội và muối biển rồi chết với những thứ đó. Không dám nghĩ ngợi, không dám tin cậy, không dám ngại ngùng biển khơi. Mùa nắng rát rạt chất muối, mùa mưa thì bão chực hờ. Tôi đã không mơ ước như vậy. Không ai mơ ước như vậy. Thằng Tư bỏ đi vì không mơ ước như vậy. Tôi mơ ước những cái khác. Nó mơ ước những cái khác. Nhưng tôi chịu trận vì những cái khác. Nó bỏ đi vì những cái khác. Nó bưng bít. Nó bất mãn. Nó thù hận. Nó hằn học. Nó xơ xác, nhưng nó đã về. Nó ngồi đó hút thuốc, trên khung cửa sổ mở xuống con đường hẻm và bờ vách ván của căn nhà bên kia. Buổi sáng hừng hực. Nắng gội trên đầu khu xóm lá cực nhọc buồn bã. Nắng len lỏi qua những cành bàng trên nóc nhà rớt lổ đổ xuống bờ vách ván bên kia khung cửa thằng Tư đang ngồi. Những đốm nắng loe hoe chờn vờn trên lớp ván cũ thâm đen vì đã ngấm nước nhiều mùa mưa, loang lổ chập chờn như mặt nước ao tù hơi chao động. Tiếng hò hét xôn xao và tiếng máy bào nước đá đang nổ dưới bến. Thằng Tư thò đầu ra ngoài. Dưới bến đang muối cá gì vậy Định. Lưới lặn. Mày không đi sao. Bà già tao đau bỏ nhà cho ai. Bà đau lâu chưa. Lắt nhắt từ hồi ông già tao mất đến giờ, nhà cửa gì rầu muốn chết. Mùa lưới lặn này bán khá không Định. Muối mặn hết chớ nán mẹ gì. Đường xe bị bên kia cấm lâu rồi. Nó phá hết ba cây cầu nữa. Gặp
máy bay bên mình cũng chết, gặp tụi nó cũng chết đâu ai dám đi. Mày còn nhớ thằng D không Tư, thằng D phật tử đó, nó theo bên kia rồi. Mấy hôm xe đò còn chạy nó chận Rừng lá để nhìn mặt công chức tòa tỉnh. Mấy người đi về thấy nó mang súng lục đứng ra lệnh cho mấy thằng kia. Dưới này hành quân lên bắn hụt nó ba bốn lần đó. Dưới bến vẫn ồn ào. Những chiếc Lambretta chạy lên ngang qua con lộ, một người thò đầu ra hông xe nhổ nước bọt. Thằng Tư nhảy xuống ra đứng ở cửa nhả khói thuốc bay ngược vào nhà, lởn vởn thành những sợi nhỏ rồi tan mất. Thằng Lục hết điên chưa Định. Chết rồi, hồi cuối năm sáu hai nó về Mương Mán chạy ra đồn Bảo an giựt súng lính canh bắn vào đồn chửi Ngô Tổng Thống, bị người ta bắn nó lòi ruột trên dây kẽm gai. Tội nghiệp má nó còn chỉ mình nó đó mày. Thằng Tư trở vào ngồi buồn xo ở góc đi-văng. Mặt nó như đang nghĩ tới một điều gì thật xa xăm. Một điều nó đã mơ ước, một điều mãn đời làm nó thù hận, một điều dù nó muốn quên hay muốn nhớ chắc lâu rồi cũng làm nó thấy thân thuộc. Con đường nào đó đã hơn một lần đi qua trong những năm lang bạt, một con đường thật nhiều đắng xót, thật nhiều rượu ngon, thật nhiều đón mời, thật nhiều hất hủi hoặc chỉ là một hình ảnh làm nó váng vất hơn là ngủ yên. Nó vẫn ngồi cúi gầm xuống, quẹt đầu điếu thuốc vào đế giày rồi dụi tắt luôn. Gió ngoài bờ sông phía sau nhà lùa vào khua rổn rảng trên bức mành sáo làm bằng giấy số kiến thiết chắn ở cửa hậu. Thằng Tư đang nghĩ gì. Nếu thằng Lục có linh hồn nó đang nghĩ gì ở dưới đất. Dưới âm phủ có người có vật, có nhà cửa, có đời sống, có lò nấu dầu và mười hai cửa ngục nó đang làm gì. Một thằng điên chửi Ngô Tổng Thống có bị cưa hai nấu dầu nữa không. Tôi đứng dậy đưa hộp quẹt trả thằng Tư. Nó ngẩng đầu lên đốt thuốc hút nữa. Trời chớm trưa. Phu khiêng cá dưới bến lục tục kéo về nói chuyện rộn ràng ngoài đầu lộ, vác theo đòn khiêng và dây lòi tói. Tiếng máy bào nước đá không còn nổ dưới bến. Tôi nói ở ăn cơm trưa với tao nghe Tư. Thằng Tư đứng dậy uốn mình, thôi để tao về đằng anh tao cái đã. Nó lấy áo mặc nói thôi tao về nghe Định rồi cúi khom người bước qua ngạch cửa nhà ngoài. Nắng đã vào kín hàng hiên.

—o0o—

Tôi nép vào cánh cửa ngoài thềm khi nghe tiếng hai người cãi cọ trong nhà. Tiếng thằng Tư và tiếng anh nó. Mày chửi xỏ ai đó, đồ vô học. Ức thì nói, không chửi ai hết. Anh muốn làm gì làm thử tôi coi. Mày thách tao hả Tư. Ừ tôi thách vậy đó. Anh quý nó hơn tôi, tôi biết mà. Quý mẹ gì. Mày làm bậy binh mày cho người ta cười thúi đầu tao ra hả. Được, anh có giỏi binh thì binh đi. Thằng đó có ngày cũng mất mạng với tôi cho coi. Tôi nói thật đó. Vô học đồ vô học. Nhà thằng Tư ở trong cùng của con hẻm, giữa một xóm lá đông nghẹt, âm u, bi bít, lụp xụp. Đêm đen chụp xuống những hơi thở mịt mùng. Trời tối như mực ngửa bàn tay không thấy. Những túp nhà chung quanh thấp thoáng vài ngọn đèn dầu chập chờn qua các khe lá. Gió hắt mạnh vào hiên. Tôi thu mình lại, nheo mắt nhìn qua kẹt ván. Bên trong được soi bằng ánh sáng lòe nhòe của ngọn đèn Huê kỳ đặt trên bàn. Thằng Tư ở trần ngồi trên đầu chiếc chõng tre kê sát vách giữa hai đống lưới cước cao ngất ngưởng. Anh nó mặc quần đùi, áo thun lá ngồi nơi bàn, trên chiếc đẩu vuông quay mặt qua phía thằng Tư. Một cơn gió nữa trờ tới. Tôi nép khuất hẳn vào kẹt cửa. Anh thằng Tư le lưỡi thấm nước miếng vào điếu thuốc mới vấn rồi đưa lên đèn châm hút. Tao cực như trâu vầy mày có thèm biết đâu. Bộ tôi sướng lắm đây sao. Thì mỗi người phải làm một việc mà sống chứ. Sướng cực mẹ gì, không kham nổi thì chết phức cho rảnh. Để người ngoài đường than cực anh mới biết động lòng mà. Còn tôi cứt đây. Mày chửi xỏ ai đó. Tôi nói vậy đó, không chửi ai hết. Thằng ngổ ngáo bất hiếu như mày mà em tao tao nghĩ tủi quá, mắc cở quá. Chứ anh có muốn tôi em anh đâu. Tôi đồ bỏ tôi biết mà. Tiếng máy bay trực thăng đâu đó chợt nổ ình ình trên bầu trời rồi những bóng đèn đỏ nhấp nháy lia lịa, chiếc trực thăng trờ tới lượn một vòng trên đầu thị trấn trước khi bay thẳng vào ruộng muối. Tiếng động cơ nổ nhỏ, nổ nhỏ chìm dần vào không gian xa, để lòi những tiếng động lẻ tẻ rời rạc vang vọng từ các hóc xóm. Thằng Tư xòe bày tay đập muổi trên lưng nói anh muốn cầm gốc cho nó cướp của tôi, tôi biết mà. Thằng cứ nói ngu, sao lại cướp của mày, nó không có rồi lột da nó sao. Thằng Tư khạc đờm nhổ ra cửa sổ ngu mẹ gì mướn hai lồng lưới nửa năm nay ít sao. Hôm đầu mùa lặn lưới nó toàn khẩm sao nó lánh mặt tôi. Thì cho nó kiếm ăn đã chứ. Nửa năm nay nó sắm mấy lồng như vậy cũng còn được mà. Anh cầm gốc cho nó, anh ôm tôi giữa bãi cho nó đánh mấy cây nạng lên đầu không ai thấy sao. Tôi thì sống để bụng chết mang theo thôi, nói thật đó. Thằng Tư bây giờ mặt hầm hầm, răng nghiến chặt lại, xương quai hàm nổi gồ lên. Hình ảnh ngoài bãi hồi chiều làm nó tức lộn gan, nó đưa tay mân mê sau đầu, chắc chắn cục u vẫn còn nguyên, hiện đau đớn ở đó. Anh thằng Tư vấn điếu thuốc khác đưa lên đèn mồi rồi cầm chiếc quạt nan phe phẩy trước ngực. Những nạm khói đen đặt lởn vởn trước mặt anh ta bị quạt bay tán loạn. Căn nhà chìm trong sự im lặng rất hậm hực. Một manh chiếu trải ngửa dưới sàn đất, con dao và lưới, chiếc bật lửa và những ghim cước nằm lạnh tanh trên đó. Mảnh chiếu trải sát vách gỗ có dán mấy bức liễn vẽ hình Quan Công, Lưu Bị hồi mới kết nghĩa ở vườn đào. Hình vẽ cái bụng Lưu Bị phệ xuống như cái bụng anh thằng Tư lúc ngồi vá lưới. Hồi Lưu Bị kết nghĩa thì người ta chưa biết làm lưới ny-lông và xuồng để đánh cá. Hồi đó chắc Lưu Bị cũng không ôm Quan Công lại cho thiên hạ đánh u đầu. Tôi đứng lùi ra tì đầu gối vào vách cho đỡ mỏi. Gió đẩy cánh cửa gỗ khép lại, hắt vào chỗ tôi đang đứng. Ngoài trời sương đã xuống nhiều. Không gian hình như phả một lớp mù mù đục. Những mép lá khô trên nóc nhà bị gió đánh rèn rẹt cất lên âm thanh rì rào đều đặn, lầm lũi mơ hồ như đời sống ở đây. Gió lùa vào hàng hiên trống trơn, lùa vào tóc vào áo tôi làm căng phồng như cánh buồm bọc gió. Chiếc trực thăng lúc nãy quay trở lại, sà thấp rồi bay thẳng về phía trại Đào Duy Từ. Tôi vẫn đứng yên đó nhìn qua kẽ vách. Thằng Tư trở mình ngồi vào đống lưới xoay mặt vô trong, nó luồn tay xuống chiếu lấy quyển Tiên Hạc Thần Kim nghiêng ra ánh đèn lật lật mấy trang rồi gập lại đặt trở xuống chiếu. Dưới chân nó có hộp Brillantine ba số năm bằng thiết, chiếc hộp nó vẫn dùng đựng thuốc hút đi biển cho khỏi ướt. Hộp Brillantine lâu lắm rồi, đâu hồi lễ Quốc Khánh nó thi nhảy bao bố được thưởng. Lâu quá rồi tôi không nhớ rõ là tháng Mười của năm nào. Hồi tuổi thơ chưa bị phơi khô, chưa bị châm ngòi phát hỏa, chưa tàn rụi tiêu ma như một xóm lá mới qua cơn hỏa hoạn. Cái hồi tay chân mặt mũi trí óc và bộ dạng thật nhởn nhơ, không nghĩ ngợi, không bất bình, không thù hận. Những mơ ước cũng êm ru như chiếc ghe trôi nhẹ nhàng trên mặt sông mùa đứng gió. Lâu lắm rồi. Tôi nhìn hộp Brillantine lăn lóc dưới chân thằng Tư và nhớ tới như đánh thức uể oải một hình bóng nào đó đã xa xăm đã lạnh ngắt đã mơ hồ. Như một nuối tiếc bất chợt dựng đứng tuổi thơ rất mong manh rất gượng gạo rất ngại ngùng giữa cái khô cằn trầy trụa hắt hủi của cuộc sống. Tôi chơ vơ. Tôi lạnh buốt. Tôi bủn rủn mình mẩy. Tôi mỏi rục chân cẳng. Đêm rút xuống thật khuya. Những cơn gió dậy muộn tạt vào chạy dọc theo bờ biển trống hẹp. Trong nhà thằng Tư đằng hắng nho nhỏ trong cổ họng. Bộ dạng của nó rũ xuống, ấm ức một cách ê chề. Không cần ai thương tôi hết. Nói thật đó. Đời này thương yêu cho mấy tôi cũng phải nai cái lưng trùng trục, cũng phải chết xác mới sống được. Anh thằng Tư ngước lên, vặn cái bánh xe điều chỉnh sợi bấc vải cho ngọn đèn tỏ thêm một chút. Cho nhớ nghe Tư. Có gì rồi đừng há họng kêu tao. Sức mấy tôi kêu anh, để người ngoài đường họ kêu anh chớ tôi sức mấy. Thằng vô học, ở đời cứ giữ cái giọng đó người ta cô lập cho chứ được mẹ gì. Nói mày như cắt ruột để qua mà mày có chịu nghe đâu. Đừng lung lạc tôi mất công, không ai lung lạc được tôi nữa đâu. Tôi đã đời rồi. Người ta cô lập vậy mà đỡ mất của. Đồ vô học, không biết phải quấy gì hết, cục cứt còn có đầu có đuôi. Vô học mẹ gì, có học mẹ gì, ai rồi cũng điếm như nhau thôi, sợ có học còn điếm hơn nữa đó. Anh thằng Tư nổi xung đẩy ghế đứng phắt dậy nhìn nó trừng trừng. Chợt không biết nghĩ sao anh ta lặng lẽ ngồi xuống nói mày hỗn vừa thôi Tư. Hỗn gì, hiếp tôi tôi nói không hỗn với ai hết. Ai hiếp mày, ai
hiếp mày, nói nghe thử. Thằng Tư quay nhìn lại chỗ anh nó ngồi. Ai cầm gốc cho nó cướp của tôi. Không phải anh sao. Tôi nói có mặt đèn đó. Anh thằng Tư chắc đã tức ứa gan. Lần này xô ghế đứng dậy thật. Tiếng thở hồng hộc của anh ta làm ngọn đèn chao đảo rồi tắt phụt. Căn nhà đột nhiên tối mò, bàn ghế xô nhau loảng choảng. Bỏ cái giọng đó đi, cây lên đầu bây giờ. Bộ cây chưa lên đầu sao, mấy cục u còn nguyên đây này. Tôi sống để bụng chết mang theo thôi. Thằng vô học, tao dần nát xương mày ra. Tôi thách anh đó. Chiếc đèn dầu rơi choảng xuống nền nhà. Trong bóng tối tiếng chân đuổi nhau thình thịch quanh bàn va lộp cộp vào mấy chiếc ghế ngã. Thằng mất dạy tao cho mày biết thân. Thằng này biết thân lâu rồi, từ ngày ông già bà già mới mất lận mà. Anh thằng Tư lúc này hình như đã đứng lại. Đồ ác báo coi đẹp mặt dữ, không sợ ngoài đường người ta cười thúi đầu. Tiếng thằng Tư bây giờ hình như vọng ra từ một góc nào đó. Cười cũng lâu rồi, người ta cười trong bụng cười trong đầu cười ngoài bãi cười khắp xóm. Đẹp đẽ gì nữa mà giữ. Thật tao như mày chỉ còn bỏ cái xóm này thôi. Tiếc gì nữa mà không bỏ. Tôi dám thề độc với anh đó. Chỉ sợ thằng nào bỏ cái đất này một bước thì đói meo mỏ thôi, tôi khỏi lo. Mày chửi tao đó hả. Anh thằng Tư vừa thét như vậy vừa tông ghế nhảy vào góc nhà chỗ phát ra tiếng nói của thằng Tư. Mày chửi tao hả, để coi tao có trị được mày không. Thằng vô học. Trong bóng tối hai người dằn nhau quần quật ở một góc nhà, những chiếc ghế gỗ va loạng choạng. Đồ bất trị. Cục cứt còn có đầu có đuôi. Tôi còn mấy lồng lưới đó giết tôi cũng còn được mà. Đừng trêu ngươi tao, tao đang ứa gan đây. Trong bóng tối, chiếc bàn bị đẩy xịch qua một bên rồi hình như một người nhẩy phốc ra cửa sau. Đi cho khuất mắt tao, đừng bước vô cái nhà này nữa. Tiếng thằng Tư từ nhà sau vọng lại, tôi lấy hai lồng lưới về tôi đốt rồi đi liền, khỏi đuổi. Trong nhà trở lại im thin thít. Im một cách không ngờ tới. Tôi nghe rõ tiếng thở hổn hển của anh thằng Tư, tiếng chân lê lẹt xẹt dưới đất, chán ngán và mệt mỏi. Tiếng bật lửa mở nắp quẹt xành xạch rồi một ngọn đèn hột vịt được châm lên, qua chỗ ánh sáng nhỏ yếu ớt của nó tôi nhìn thấy lờ mờ những chiếc ghế lăn lốc và khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của anh thằng Tư. Khuôn mặt đờ đẫn nhưng cặp mắt bén ngọt và lãnh đạm, không biết là hằn học, là chán ngán hay ân hận. Đêm đã thật khuya, những khe lá không còn chập chờn ánh đèn dầu. Ngọn điện trên cột gỗ mù mù thấp thoáng ngoài đầu hẻm xa. Phía Rạch Nhum, vài chiếc xuồng nhỏ đang rẽ nước khua mái chèo lục đục trên be gỗ. Khu xóm lá im ngủ trong xác xơ buồn tẻ của cuộc sống. Trong gẫy đổ ly tán của anh em thằng Tư… Đừng lung lạc tôi, không ai lung lạc được tôi nữa đâu… Ở đời cứ giữ cái giọng đó rồi cũng bị cô lập… Cô lập vậy mà đỡ mất của. Và trong mù mịt thâm sâu của đêm tối… Đi đi cho khuất mắt tao… Còn tiếc gì nữa mà ở. Đó là một đêm tối giữa năm sáu mươi, lúc thằng Tư sắp bỏ cái đất này.

—o0o—

Tôi dốc hết chai la-de vào ly, bỏ chiếc vỏ chai xuống chân bàn, thò ngón tay vào quậy quậy, cục nước đá khuất dưới lớp bọt trắng bị khua động chạm lách cách vào thành thủy tinh mỏng, cái đầu nhọn của nó mòn dần. Tôi quệt ngón tay trên vành ly. Quán Tám Lộc buổi trưa hầm như một lò lửa. Mái tôn lợp ngang sà xuống gần chấm đầu người. Chiếc quán lèo tèo với một ít khách nhậu nằm lùi vào hóc sâu của một bãi đất trống trước mặt Hợp tác xã ngư nghiệp. Xóm nhà sàn nổi lềnh bềnh trên con nước lớn bên kia bờ Rạch Nhum. Con rạch hẹp chạy vòng sau lưng Hợp tác xã rồi lủi vào khu rừng mắm ngoài mé sông. Mấy người trong quán đang lè nhè những câu chuyện hình như không đâu vào đâu… Mai tao dắt mày lên hội đồng, chuyện đồ bỏ tao nói một tiếng thôi… Anh ra tay giùm tôi đi, gạch ngói tôi chở về kẹt đó mấy tháng rồi đó… Tin tao đi con, tao chưa nói dóc với ai hết, từ hồi ông Bảo Đại ỉa cứt su tới giờ lận mà. Tôi uống la-de ăn khô đuối nhìn ra phía trước. Nắng chói chang trên những mái ngói mới lợp, trên mặt kính của những chiếc xe vận tải và trên những chiếc nón lá bọc plastic. Chiếc xe nhà binh từ trên cầu đổ xuống con đường sỏi, lủi vào bến cá trước Hợp tác xã để trở đầu rồi vọt lại con đường cũ, bụi bốc mù một khoảng dài. Tôi xoay nhẹ cái ly, mồ hôi rịn ngoài thành thủy tinh lạnh ngắt chảy từng giọt xuống mặt bàn. Một thằng mặc quần xanh áo ni-lông trắng bước vào quán cười với tôi rồi đến ngồi chiếc bàn bên cạnh. Không biết đã gặp thằng này ở đâu. Tôi xé khô đuối chấm thật nhiều tương ớt ăn. Trời nóng như đốt. Tôi vuốt mồ hôi chảy trên chân tóc xuống cổ. Thằng kia lại ngó qua cười để lòi hàm răng vàng thật khó ưa. Tôi cố moi trong tận cùng trí nhớ – những chỗ đã có dịp đến, những con đường đã có dịp đi qua, những người đã có dịp gặp – vẫn không có nó. Nắng bên ngoài chờn vờn dán khít đời sống. Ông già trong Hợp tác xã dắt chiếc xe đạp xẹp lép cả hai bánh qua bãi đất trống, chui vào tấm tôn che nghiêng nghiêng của anh Ba sửa xe đạp dưới chân cột đèn rồi trở ra đứng chống nạnh ngó xuống bến cá. Mấy chiếc ghe câu khơi đang tấp vào, một cảnh mua bán nho nhỏ lao xao ở đó. Những mỏ neo quăng lũm bũm xuống nước, những con cá thu láng bóng mình mẩy và những chiếc nón lá nhấp nháy ánh nắng. Tôi mượn bật lửa của ông già ngồi phía sau để đốt thuốc. Thằng kia lại ngó qua cười, vẫn hàm răng vàng nhe đủ năm cái. Tôi nheo mắt lại, bóp trán bằng mấy đầu ngón tay – những đêm tối trời mùa Sẩm ngoài bãi ngang ồn ào tấp nập, những buổi trưa mùa Lặn nóng rát oi bức ở trong bến, những sớm mai kéo lưới Rùng dưới Mũi Đá – tuyệt nhiên không có nó. Đời sống quần quật nhay nhắt trên mỗi đầu ngón chân ngón tay, trên chân lông chân tóc, trên tai mắt mũi họng. Không có thì giờ đảo mắt, không có không gian cựa quậy. Nó có được một không gian rộng rãi hơn tôi? Nó có những thời khắc rộng rãi hơn tôi? Nhìn gương mặt nó, bộ dạng nó tôi không muốn tin như vậy. Chắc nó hơn tôi được một tình cờ nào đó là cùng. Ngoài kia nắng chuyển động thành từng dòng quắn quít. Ông già đã vá xong xe đạp, dắt ra con đường sỏi để đạp lên cầu. Mấy chiếc ghe câu khơi mua bán xong đang tách bến qua đậu bên kia sông. Con sông chắn ngang bãi biển bằng một bãi cát rộng và dài mút mắt, những ngọn sóng lô xô vãi bọt, những mái lá cúi thấp đứng san sát nhau chạy tít lên trên xa rồi khuất vào chòm dừa và khu rừng lau khô dưới chân một động cát chói nắng. Tôi kéo lọ tương ớt múc một muỗng đổ ra đĩa, pha thêm một ít xì-dầu. Cục nước đá trong ly đã tan hết làm loãng mất màu vàng của la-de. Tôi bưng lên uống một hơi dài, nhạt nhẽo chua lè. Thằng kia ăn xong tô hủ tiếu đứng dậy đi ra. Nó quay lại nhìn tôi cười một lần nữa. Thoáng thấy chiếc bật lửa sáng óng ánh trong tay nó tôi hơi tiếc rẻ, phải chi chào hỏi nó vài câu để mời nó ngồi lại nói chuyện giây lát. Thú thật tôi có một thói xấu là hay ăn cắp vặt, nghĩa là thấy ai có cái gì hay hay cũng muốn biến nó thành của mình một cách mờ ám, một cách bất hợp pháp. Nhưng ít hôm chán rồi cũng bỏ đi. Những người khác cũng đứng dậy lai rai… Thôi mày cứ yên trí mai đi với tao… Tôi tin anh đó, anh cố giúp tôi nghe… Tao không ưa nói nhiều, từ cái hồi ông Bảo Đại ỉa cứt su lận mà mày. Ngoài trời vẫn chang chang phả nắng. Thằng kia băng qua bãi đất trống, đi dọc theo hàng hiên bến cá rồi rẽ xuống bờ sông chỗ những ngư thuyền Phước Hải đậu. Hình như tôi nhớ ra một điều gì. Có những biến dịch một thời làm tôi xốn xang bứt rứt khi ngó mặt những người chung quanh. Có những gặp gỡ bất ngờ như một tai họa chợt đến. Những tiếng động mơ hồ lẻ tẻ của cuộc sống rơi rớt đâu đây hay chỉ là một kỷ niệm đáng tiếc. Đúng rồi. Đêm chập choạng vãi xuống mỗi lúc một dày. Bãi đất trống nhá nhem dưới lớp ánh sáng nhão nhẹt lem luốc hắt ra từ quán Tám Lộc. Những đống rác, những chồng vỉ tre phơi cá và bốn chiếc xe vận tải mệt nhọc nằm đó. Thằng Tư uống hết hai xị nếp than ngồi khật khừ ở một góc quán. Ánh đèn vàng khè dán khít những bàn gỗ bọc thiếc… Đ.m. vô kiếm thêm chầu nữa cho đậm rồi lên chợ kiếm mấy thằng thanh niên Lagi dợt. Bốn thằng dưới ghe Phước Hải kéo vào quán la lối nghênh ngang, đá bàn đá ghế rồi vào ngồi chiếc bàn kê ở gian trong… Anh Tám cho tụi tôi bốn lít đậu nành mau đi nghe… Rồi có liền. Thằng Tư ngó tụi kia gầm gầm, mắt nó long lên, lửa giận đốt nóng cả cơ thể… Cho thêm vô keo này rồi lên chợ kiếm mấy thằng thanh niên Lagi. Không cầm được nữa, thằng Tư đứng vụt dậy xách ghế ném hắt qua chỗ tụi kia, chiếc ghế rơi ầm xuống bàn trúng đầu một thằng, chai cốc vỡ loạn xạ. Thằng to con nhất trong đám ôm đầu xuýt xoa mặt nhăn quíu như khỉ ăn ớt lòi ra năm chiếc răng vàng. Không cho đứa nào kịp trở tay, thằng Tư thủ một chiếc ghế nữa lăm lăm tiến tới tụi kia. Thời khắc lúc đó ngộp thở như cây pháo châm ngòi chực nổ. Tám Lộc hấp tấp chạy ra choàng vai thằng Tư nói thật ngọt… Thôi chú Tư thiếu gì chỗ thanh toán, để cho tôi mua bán chớ, chú không thương tôi sao. Thằng Tư buông ghế xuống đi ra như cái máy, mặt nó vẫn lạnh như tiền. Nó băng qua bãi đất trống tới trước nhà sửa máy dầu cặn. Mấy thằng kia ngồi chết cứng trong quán… Tội quá mấy anh gây sự không đi kiếm chỗ khác, phá phách thế này tôi đâu làm ăn được nữa. Không thông cảm tôi sống sao nổi. Tám Lộc khoa tay phân trần. Tụi
kia vẫn ngồi im. Những mảnh vỡ dưới đất chưa được thu dọn. Chưa tàn nửa điếu thuốc thằng Tư trở lại, lôi theo một đống dây cáp bỏ ngay trước cửa quán… Đ.m. thằng nào muốn kiếm thanh niên Lagi ra đây, khỏi cần lên chợ. Chiều anh Tám chút đi coi, đừng để tao vô đó. Thằng Tư đứng chống nạnh một chân gác lên đống dây cáp ngó tụi kia trừng trừng… Đ.m. không thằng nào ra hết hả. Thằng răng vàng hết muốn kiếm thanh niên Lagi rồi sao. Mấy thằng kia ngồi chết cứng như xiết bù-loong xuống mặt ghế. Tám Lộc ở nhà sau chạy ra nói thôi về đi chú Tư rồi quay vào đóng trít cửa lại cho bốn thằng kia tị nạn. Đêm đó thằng Tư ra bờ song lấy gáo dừa xúc cứt trét đầy cửa quán Tám Lộc. Tôi nhớ ra rồi. Năm chiếc răng vàng chực vọt ra khỏi cặp môi dù là khi mãn nguyện, dù là khi hãi hùng, dù là khi đớn đau hoặc hờn tủi. Thằng Tư bất mản, hung hăng, ngang ngược, động tình bất hòa với cuộc sống, của bản thân, của những ngày đêm một chọi năm bảy. Nhưng nó đã âm thầm bỏ đi cùng với cái quá khứ của nó, cùng với tâm tư chai dày của nó. Năm chiếc răng vàng trong miệng thằng kia đã hăm he thách đố, đã nhăn nhó xuýt xoa, đã cười bình thản. Những cử động của chân tay, những ý tưởng của đầu óc với chừng đó vô tư, chừng đó lầm lộn, chừng đó nghiệt ngã, chừng đó hận thù cũng đủ để đời này như vậy. Trời vẫn nắng như tâm hồn thằng Tư lúc nổi giận. Tôi váng vắt đầu óc, tôi nóng bừng hai mép tai, nóng bừng trong gan ruột phổi phèo, trên cả chân lông chân tóc. Tôi muốn có một cái gì đó trong tay để thủ thế hoặc để bóp vỡ hoặc để xé rách cũng được. Tôi muốn nhìn từng khuôn mặt tái lét chung quanh, muốn nhìn tận mặt sự trơ trẽn của tôi, có chắc trơ trẽn là vô ích không, người ta không trơ trẽn rồi sống bằng gì. Thằng Tư khóc cười bằng cặp mắt ngang ngược thù hận của nó. Thằng kia diễn tả mọi thứ bằng năm chiếc răng vàng. Tôi muốn có một cái gì đó để thủ thế, dù chỉ để thủ thế. Tôi đứng dậy và thấy mình choáng váng thật. Nắng vẫn chưa muốn dịu.

—o0o—

Hai đứa lum khum chui vào tấm vải dầu che nghiêng nghiêng bên hông chiếc xe bán nước đá của con Thơm. Thằng Tư đứng yên một lúc, vuốt mồ hôi trên mặt rồi cùng ngồi xuống tắm ván kê men theo triền xe. Con Thơm gấp cuốn báo Phụ Nữ Diễn Đàn bỏ vào ngăn kéo đựng tiền hỏi sao mấy anh vô trể vậy. Tôi nói tại không muốn vô sớm. Kỳ cục đi biển làm quá đi chơi. Uống cái gì đây. Sao không hỏi thằng Tư trước. Hỏi chung hai người không được sao. Đâu được tôi đi theo nó mà, tôi đâu có tiền. Con Thơm nguýt dài quay qua thằng Tư, thôi anh Tư uống cái gì. Mặt thằng nhỏ xịu xuống ngó chỗ khác nói gì cũng được. Mấy cái anh quỉ này bộ tôi thánh sao. Thấy hai đứa nó như mặt trời mặt trăng tôi cười thật to cho tụi nó nới bớt cái thế thủ. Thôi cho tôi chai xá xị với nửa trái chanh tươi. Thằng Tư vẫn ngó chỗ khác nói tôi cũng vậy. Con Thơm cười hỏi trống sao không giỏi kình nữa coi rồi đứng lên giở tấm bao bố đậy trên mặt thùng gỗ thông, bới lớp mạt cưa lấy ra cục nước đá bỏ vào chậu rửa. Xe nước đá của con Thơm đặt trên hàng hiên bến cá sát với bờ sông. Buổi chiều còn vài tia nắng trải mỏng bên kia bến. Con nước giật ra xa bỏ lại một cồn cát và những chiếc ghe mắt cạn… Rồi đây trong những đêm mưa gió dạt dào… Một giờ trước thằng Tư đứng hát nghêu ngao trên mũi thuyền… Nơi loan phòng chăn êm nệm ấm em trỗi khúc nhạc tình dạo khúc ly tao ơ… ơ… Chiếc thuyền bồng bềnh trên mặt biển. Tôi tát bớt nước dưới khoang. Anh thằng Tư giữ chèo lái tránh những ngọn sóng lớn để vào cửa. Thằng Tư trở về rồi thôi. Không lăn lộn nữa, không ngược xuôi nữa. Nó như sực nhớ một điều gì và lầm lũi e dè đi kiếm. Nó như cái bóng lao đao hấp tấp vùng vẫy rồi đứng khựng lại thu nhỏ ở một góc đời sống. Những cái mất đi kể như không có. Những cái đang ở trong tay kể như rất tình cờ. Cái đang đi kiếm thì nghĩ rằng còn lâu mới gặp, hoặc không gặp. Nó chạy một bước rồi đứng lại khoanh tay ngó cái quá khứ điêu tàn như coi cải lương. Nó đang ngồi đó, ở đầu cùng của một tấm ván hẹp. Con Thơm đem ra hai chai xá-xị, hai ly đá và một trái chanh cắt làm đôi. Tôi rót xá-xị ra ly rồi vắt chanh. Thằng Tư làm theo như cái máy. Nó uống một hơi hết nửa ly. Con Thơm trở vào ngồi lấy cuốn Phụ Nữ Diễn Đàn ra lật từng trang một, miệng hát ai nói với em nếu anh là lính. Cuốn này có đánh chưởng không cô Thơm. Nó trề môi kiểu cách khi nghe tôi hỏi như vậy. Đâu cái này tâm lý xã hội mà. Mặt trời đã xuống rất thấp gần khuất sau động cát dưới cửa sông. Những sợi nắng luồn vào hông xe lấp lánh trên những chai nước ngọt và những chai la-de xếp hàng trên kệ gỗ. Tôi bưng ly nước uống. Thằng Tư hút thuốc cúi đầu nhả khói vào ly của nó. Khói thuốc gặp lạnh đọng lại dưới đáy ly như sương mù. Nó ngồi bất động như một hình tượng trên đài kỷ niệm, cặp mắt trừng trừng vào đáy ly, lớp khói dưới đó bị hơi thở của nó làm chao động, một vài sợi mỏng bay lên lởn vởn trước mặt nó, thật hẩm hiu thật mơ hồ. Kim Chung hai mới ra anh đi coi chưa. Cô hỏi ai vậy. Hỏi anh không được sao. Đã biểu hỏi thằng Tư mà, tôi đâu có tiền. Con Thơm cười mỉm xòe bày tay túm mái tóc hất ra phía sau nói tôi muốn hỏi ai tôi hỏi, bắt buộc tôi sao được. Thằng Tư vẫn ngồi bất động ở cái thế hình tượng cúi đầu. Tôi không biết được những cái nó đang nghĩ. Không ai biết được. Nó chắc gì đã biết… Buồn mẹ gì, vui mẹ gì đời vậy đó mày. Mặt nó lạnh như tiền. Con Thơm không còn đi qua con hẻm nhà nó từ ngày thấy nó về đây. Nó thản nhiên một cách khó tin. Buổi chiều nó đứng dưới bến thấy con Thơm hí hửng xuống đò qua bãi với thằng Sư Đoàn Mười. Nó thừ người ngó theo cho tới lúc con đò tấp bên kia bến rồi leo lên mũi thuyền đứng hát nghêu ngao mấy câu vọng cổ. Sợ nó không sống nổi với cái thản nhiên tội nghiệp này. Bên ngoài nắng đã rút hết. Con Thơm đứng dậy bắt ghế mở tấm vải dầu. Chỗ tôi ngồi sáng hẳn lên. Tôi nhìn rõ khung cảnh tứ phía. Một toán phu khiêng cá chen nhau lãnh tiền bên Hợp tác xã. Gió vùn vụt nổi lên vãi bụi mù mịt cuốn theo những chiếc lá bàng khô lăn dài trên mặt đường sỏi rồi tấp vào hai chiếc xe nhà binh đang án ngữ trước cửa quán Tám Lộc. Thằng Tư thả mẩu tàn thuốc vào ly, đốm lửa tắt xèo trong nước. một ít khói thoát nhanh ra ngoài. Trên cầu có một cô gái đang đi xuống. Gió thổi ngược. Hai mảnh quần trắng dán khít vào đùi vào háng làm tôi nghĩ ngay đến cái chuyện kia. Tôi uống hết chỗ còn lại trong ly xá-xị. Trời đang sậm dần. Những chiếc ghe cuối cùng đã vào cửa. Những con sóng trườn mình gợn trắng trên mặt biển đen. Con Thơm gấp miếng vải dầu bỏ vào thùng xe hỏi lơ đảng anh Tư tính ở nhà đi biển luôn hả. Thằng nhỏ vẫn ngồi im như bị cấm khẩu. Nó không dám nói đâu cô Thơm. Sao kỳ cục vậy. Nó đào ngũ rồi, nói sợ cô kêu lính bắt nó. Con Thơm trề cái môi dưới nặng trịch nói chuyện đó mắc mớ gì tới tôi. Thằng Tư cầm chiếc muỗng gõ nhẹ trên vành ly nói thôi về Định.

UYÊN GIANG
TÂM SỰ
Tặng TOÀN NHƯ

Bạn hỏi thăm ta: – Ở Bắc Cực,
Mù trời băng tuyết, lạnh lắm không?
Có khi nào nhớ quê nhà nắng
vàng trải mênh mang khắp núi rừng?

Ờ thì … cũng lạnh sơ sơ vậy,
Hơn chục độ trừ, đủ tím môi.
Mùa đông giá rét chừng dăm tháng,
Dằng dặc dài như… thế kỷ trôi!

Những sáng đi làm trong gió tuyết,
Trắng rừng… Trắng núi… Trắng trời mây.
Con đường trắng buốt xa hun hút,
Phủ trắng đời… ngàn cánh tuyết bay!

Mỗi mùa đông đến càng thêm sợ,
Không hẳn… chỉ vì tuyết với băng.
Mà sợ lòng mình teo tóp lại,
Quanh quẩn không ngoài chuyện áo cơm!

Quê nhà? – Nhớ chứ! Sao không nhớ!
Nhớ cảnh … Nhớ đời… Nhớ vẩn vơ.
Càng sống xa quê càng thêm nhớ,
Như thuyền lìa bến… nhớ sông xưa .

Phố người… nắng sớm… mềm hơn lụa,
Ngơ ngác Sài Gòn… Nắng Tháng Tư!
Ráng chiều… đổ xuống… sân trường vắng,
Và… những con đường… hối hả xe!

Mười lăm năm… ngủ còn mơ,
Chiếc thuyền ván mục… vật vờ… biển trôi.
Đã đành… Thì vẫn là người.
Nhưng trong mê tỉnh… Nửa trời… mộng du.
Bỗng dưng… ta chợt hiểu ta,
Nhớ người… nghe tiếng gọi đò… giữa đêm! (1)
Bạn hỏi thăm ta : – Ở Bắc Cực …

(1) ”Đêm nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
Trần Tế Xương.

Thy Lan Thảo
TÌM DÁNG ĐÒ XƯA
Ta về trên bến năm xưa
Con đò quen thuộc cũng vừa sang sông
Chút mây gợn đục nặng lòng
Trong đôi mắt nhớ… gió trông nắng đời

Nhìn quanh ta bỗng dưng cười
Nước trong, dòng phẳng vẫn tươi một màu
Năm xưa mưa gió ngọt ngào
Bây giờ giông bão dễ xao xuyến lòng

Ngày xưa sóng bước nắng hồng
Uyên ương đủ cặp, chập chùng trời mây
Đổi đời tiếc bước lưu đày
Bước về buồn nhớ mặt mày buồn xo

Tìm đâu ra dáng con đò
Thuận buồm, im sóng, ai cho tin chờ
Đã qua rồi tuổi mộng mơ
Bài thơ dang dở ý thơ thật buồn!

Luân Tâm
HOA SỮA
Anh khát sữa đeo đỉnh đồi rau má
Gọi mây bay nâng cánh khói mồ côi
Em bú tay níu dòng sông nước đá
Nghe trăng tan lấp đáy biển vá trời

Mưa không ướt đất lành cho chim đậu
Thì cũng đành trôi nổi gánh hát rong
Ngày hụt hơi đêm không nơi nương náu
Chim quyên đau khô héo trái nhãn lồng

Em nhóm lửa tình sông thương ngập núi
Chờ bình minh gọi đò chở sương mù
Nghìn năm sau bên góc đời lủi thủi
Ta gặp nhau hôn môi đói thiên thu

Anh chú rể chân phèn vui khan tiếng
Sính lễ hoa vú sữa trái mãn cầu
Em cô dâu áo vàng bông điên điển
Cười đơn sơ trong vỏ ốc nhiệm mầu

Đời giặc giã bụi tre che bụi chuối
Đất đen thui tình nghĩa thật trắng tươi
Trăng ăn mật em nhìn anh bối rối
Trời đất ơi! Vợ anh đẹp quá trời….
CHO HOA CỎ CƯỜI
Anh đứt ruột thương em đau thơ khóc
Trời đất tan trong mắt biển sương mù
Lòng sông thương sao trôi nguồn tuyệt vọng
Dỗ ngọt em anh uống lệ thiên thu

Em đã hứa bên anh không buồn nữa
Suốt ngày đêm không áo mây trăng ăn
Mặc nắng lửa mặc mưa dầu chôn lửa
Ta nước non tắm rửa cát sông Hằng

Nắng về mưa hương đong đưa mềm ấm
Cho cỏ hoa cười tươm mật ước ao
Em tình ca ru hồn anh mê lắm
Gọi mưa về hoa nắng nở ca dao

Tóc em hóa trăm nghìn tay bạch tuộc
Vuốt ve anh dỗ ngọt khắp luân hồi
Em nín thở ôm đỉnh trời siêu thoát
Anh hụt hơi hôn đáy biển tuyệt vời…

Anh Tiền Giang em Hậu Giang khế ngọt
Suối tình dâng chín cửa Cửu Long Giang
Sóng quấn gió biển đeo trời liền cánh
Nghiêng thuyền thơ ta vớt ánh trăng ngoan

Quên dâu bể cởi trói buồn cay đắng
Ta mênh mông như biển rộng như trời
Em mới yêu hồng trần chân mây trắng
Anh trải hồn thơ nệm ấm em ngồi

Em thương sợ đau hồn anh thơ đói
Ôm cổ đền trăm vạn đóa hoa môi
Mình hóa bướm mộng du hồn sông núi
Em vòng cưng mê lộ anh thấu trời…

Đất no nước gió đói trăng trôi nổi
Ta thèm nhau bốc lửa đòi cho lời
Chim khôn về rừng ru cây dỗ cội
Người yêu người ru nghìn kiếp chung môi (1)

Ôm anh ngủ em giáng hương thần thoại
Bóng gió ghen anh nuốt dáng thủy tiên
Em chợt tỉnh nhìn anh hoa biết nói
Cục cưng ơi! Sao ăn mãi thêm ghiền…
———————-
(1) Ca Dao :
” Chim lạc đàn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi …”

Hoàng Đình Hiếu
Những ngày xưa thân ái
Thương tặng cựu học sinh trường
Trung Học Đông Giang Đà Nẵng (1967-1975)

Ai cho một điều ước, và nếu lời ước trở thành sự thật, thì chắc chắn bạn và tôi, sẽ xin một điều đơn giản thôi:“hãy cho chúng tôi sống lại những ngày xưa thân ái”.
Vâng, từ thuở lên 10, ngày hai buổi cắp sách tới trường làng, cho dù ông thầy có khó cách mấy, ngôi trường chẳng mấy khang trang và bạn bè năm ba đứa hoang nghịch kiểu nhà quê đồng ruộng, ấy thế mà lòng những cậu bé trong làng vẫn tưng bừng vui vẻ. Cuộc đời nơi thôn dã cơ hồ cũng nhảy nhót theo từng bước chân chim.
Kịp đến khi ra tỉnh, vào thành phố, chen bước về thủ đô, thử hỏi bạn có mang theo nỗi lo âu gì khác, ngoài một điều dặn dò:“con phải rán học để nên người”. Hành trang gia đình trao cho bạn chỉ có từng đó. Và tôi đoan chắc, chỉ có từng đó thôi, bạn đã bắt đầu cảm thấy như có một trách nhiệm đè xuống trên đôi vai bé bỏng của mình. Cũng may, trách nhiệm ít khi đánh bạn với tuổi thơ. Trong trường rất hiếm gặp những nét mặt đăm chiêu, những ông cụ non ngồi lo thiên hạ sự. Hình ảnh tổ chim, có cả chim mẹ và chim con, minh họa gần đúng mái trường, nơi tuổi thơ chúng ta đã có cơ hội và thời gian quận tụ sum vầy.
Đối với tôi, dấu ấn những mái trường xưa, từ năm 1954 đến hết niên học 1961-1962 là những năm tháng khó quên. Bỏ làng lên thị xã Đồng Hới, tôi học lớp nhì tại Trường Chân Phước Phượng (nay là hiển thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng, tử đạo) niên khoá 1953-1954. Khi hiệp định Genève chia đôi đất nước, tháng 7-1954, tàu hải quân Pháp, cập sát cầu Mụ Kề gần nhà trường để chở tất cả học sinh và các thầy Dòng Thánh Tâm vào Gia Hội, Huế. Tôi thực sự trở thành đứa trẻ di cư vị thành niên, được các Sư huynh bảo trợ, trong hoàn cảnh mẹ bị kẹt lại ở ngoài làng, mất liên lạc với gia đình ông anh và 3 bà chị trong đoàn người di cư khổng lồ, trải dài từ Quảng Trị vào đến Nha Trang.
Lúc đầu tôi ở với các sư huynh Dòng Thánh Tâm gần Bến Ngự, Huế. Nhưng khi niên học 1954-1955 khai giảng, linh mục Cao Văn Luận (Viện Trưởng Viện Đại Học Huế 1957-1965) gữi tôi vào Trường Trung Học Pellerin. Tôi học lớp Nhất với Thầy Ambroise, sư huynh Dòng La San và cuối năm thì đi thi lấy bằng Tiểu Học. Trung tâm thi là Trường Tiểu Học Thượng Tứ, Thành nội Huế. Oái oăm thay, học sinh đậu thủ khoa trung tâm là một tôn nữ đất thần kinh mà tôi không bao quên tên, cô Công Tằng Tôn Nữ Thị Tuyết Nếp. Tôi đậu hạng nhì, nghĩa là tên tôi bị che khuất dưới một rừng liễu um tùm, lại có cả tuyết trắng và lúa nếp Thừa Thiên. Từ đó tôi mới biết thêm một sự thật, con gái-đàn bà, đừng tưởng bở, nếu không muốn nói là rất đáng nể mặt trên nhiều lãnh vực tranh đua.
Khoảng giữa tháng 8 năm 1955, cha Cao Văn Luận gọi tôi xuống gặp ngài tại tư thất ở đường Duy Tân. Tôi đạp xe đến. Vừa xuống xe, Cao Văn Ngự là bạn học, cháu gọi cha Luận bằng bác, đón tôi trước cửa. Nhìn tôi ra chiều lo lắng, Ngự mĩm cười càng làm cho tôi thêm hồi hộp. Nhưng khi bước vào trong nhà thì thầy Nguyễn Văn Học (sau nầy là linh mục) ân cần dẫn tôi vào gặp cha Luận tại phòng làm việc của ngài. Vừa thấy tôi, cha Luận nói ngay: “Con về soạn quần áo, sách vỡ để ngày mai đúng 9giờ sáng tới đây. Con theo thầy Học về Sàigòn. Chuyện gì thì khi gặp cha Chính Khẩn, con sẽ biết thêm. Cha có cho con một chút tiền để tiêu, nhưng thầy Học đang giữ. Nói với gia đình là Cha Luận gữi đi học xa, đừng lo lắng gì cả”.
Thế là trên một chuyến bay của hãng hàng không Pháp “Cosara”giữa tháng 8-1955, thầy Nguyễn Văn Học đã dẫn tôi đi Sàigòn. Ngồi nhìn phong cảnh miền Trung, với núi non, sông biển khuất dần sau từng cụm mây bay. Lần thứ nhất trong đời, tôi biết mình đang đi nhanh và đi thật xa quê hương Bình Trị Thiên.
Mấy dòng tự thuật trên đây tôi không dẫn các em đi lạc đường (cũng không lạc đề), nhưng mời các em đi vào những ngày xưa thân ái bắt đầu bằng đoạn đường trước ngày tôi được về Đông Giang với các em. Không phải ai cũng có cái may mắn đó. Bởi thế, hình như tôi đã có một sự chuẩn bị khá chu đáo, để khi đối diện với các em thì mình không cảm thấy ngỡ ngàng, xa lạ chút nào!!
Khi tôi tốt nghiệp Trung học đệ nhị cấp ở Sàigòn năm 1962, thì đa số các em còn ở các lớp tiểu học, nghĩa là khoảng trên 10 tuổi. Năm 1966, không ngờ từ Đại Học Huế, tôi bước vào ngành giáo dục, trong tay có viên phấn trắng và trong lòng có rất nhiều ước mơ. Nhưng có một ước mơ thật đơn giản là xin được đi xa xứ Huế một chút, bởi vì mình thực sự đã từ giả Huế năm 1955. Bổ nhiệm tôi đi đâu cũng được, lạy trời, xin đừng bắt tôi đi dạy ở Huế, vì tôi sợ gặp lại cô tôn nữ đã làm tôi e ngại thuở mới đụng đầu ở trường thi!
Không ngờ điều mình cầu xin đã được toại nguyện. Càng toại nguyện hơn là được về dạy học ở Trường Trung học Đông Giang. Các em thử nghĩ, giá như lúc bấy giờ tôi được bổ nhiệm đi Quảng Tín, lên Quế Sơn hay vào Quảng Ngãi, Bồng Sơn, thì chắc chắn phải cầm sứ vụ lệnh lên đường mà trong lòng chẳng mấy vui. Đằng nầy, Ôi cái tên Trường Trung học Đông Giang sao mà êm đềm đến thế. Ở Đà Nẵng mà không phải là Đà Nẵng! Nó nằm ở phía đông một dòng sông lịch sử! Ngôi trường Đông Giang nhìn ra dòng sông Hàn, đối diện với một thành phố cảng có tuổi thọ ngang với Hải Phố của Hội An, cả hai là một kho tàng cổ học có bề dày văn hóa cũng như địa lý lịch sử có một không hai ở Miền Trung Việt Nam.
Vâng, địa thế ngôi trường của chúng ta khá thuận lợi, xét về mặt thủ đắc và sinh tồn. Các em còn nhớ, chúng ta ra quân là chúng ta đạt chiến thắng ở ngôi vị cao nhất của thánh phố. Không phải là Cao Biền đi tìm long mạch. Chúng ta biết Hội An, Điện Bàn rất tự hào với năm cụm núi quê hương (Ngũ Hành Sơn), trong khi đó thì Trường Đông Giang của Chúng Ta có tiền giang, hậu hải; tả hữu có Sơn Trà, Ngũ Hành như những sơn trấn uy dũng cho một địa thế hiếm có của thiên nhiên phía nam Hải Vân Sơn. Nếu được phép lựa chọn vị trí cho một quần thể văn hóa lịch sử Hàn Giang-Đà Nẵng, có lẽ các em sẽ đồng tình với tôi nên bắt đầu từ tụ điểm Đông Giang. Điều nầy không phải là chuyện tưởng tuợng. Chúng ta chưa có thành tích nhiều vì chúng ta chưa có thời gian đào tạo lâu dài. Nhưng chỉ 8 năm thôi (1967-1975), nay các em thử nhìn lại tổng số những nhân tài xuất thân từ ngôi trường Đông Giang của chúng ta hiện đang đóng góp tài năng cho quê hương hôm nay như thế nào. Dĩ nhiên, các em phải tiếp tục phấn đấu trong một hoàn cảnh lịch sử khó khăn nhất sau năm 1975 để sống còn và vươn lên. Nhưng do một môi trường phấn khởi ngay từ lúc bắt đầu, ban giảng huấn của chúng tôi có thể tự hào về một tương lai tốt đẹp đến với tất cả các em. Tiếc thay, cái thuở thiên thời, địa lợi, nhân hòa như chúng ta từng chung hưởng, không biết đến nay còn bảo lưu được bao nhiêu?
Dầu sao thì chúng ta cũng đã có với nhau những ngày xưa thân ái. Và đó là điều còn rất sống động trong ký ức khi nhớ về ngôi trường cũ của mình.
Như các em biết, tôi về trình diện thầy Hiệu Trưởng Lâm Sĩ Hồng khi ngôi trường Đông Giang còn thơm mùi xi măng mà những viên táp-lô mới được chồng lên nhau chưa quen với tiếng cười của đám trẻ khắp Quận Ba tụ tập về đây. Giữa một bãi cát rộng, ngôi trường đứng lên như một thách đố của số phận. Chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng hình như càng ngày càng có đông các cô, các cậu trước thì có vẻ rụt rè bước vào từng lớp, để rồi sau đó nghiễm nhiên trở thành những chủ nhân tí hon, đến nỗi từng viên sỏi, từng ngỏ ngách, từng góc cạnh nào của ngôi trường cũng được các em tận tình tham quan và yêu mến. Tuổi trẻ đem nhốt chung lại với nhau sẽ là một sáng tạo lạ lùng! Tôi bước vào lớp học, với tư cách là một ông thầy của các em, nhưng thú thật tim tôi lúc bấy giờ cũng rộn ràng như gió thổi vù vù bên ngoài hành lang lớp học. Trường chưa có cây cao để ru gió mát cuộn về. Nhìn ra bên ngoài, ánh sáng chói chang hắt lên từ bãi cát trắng, tôi có cảm tưởng, đi dạy ở Đông Giang chẳng khác nào về bãi biển Mỹ khê nghe sóng biển và nhìn những dấu chân ghi lại tuổi thơ ngây trên bãi cát quanh trường.
Có một câu nói, hình như là của các cô nữ sinh: “Thầy gìáo(độc thân) vào trường thì các nữ sinh sợ, nhưng ra đường thì sợ nữ sinh”. Thật tình tôi muốn thử nghiệm có bao nhiêu phần trăm sự thật trong câu nói có tính đe dọa nầy, nhưng khi bước vào lớp, tôi thấy chẳng em nào tỏ ra sợ cái ông thầy lạ hoắc nầy cả. Chứng cớ là một em (hình như Nguyễn Văn Hùng Anh) mĩm cười rất tự nhiên và nói vừa đủ cho tôi nghe: “Hôm qua em thấy thầy chở cô đi chợ Hàn”. Thế là chân tướng của tôi đã được bóc ra qúa nửa! Làm một thầy giáo trẻ, hình như ai cũng muốn học trò coi mình như còn độc thân! Hỏng! Còn quậy vào chỗ nào được nữa?
Có một lần trên đường hành hiệp, một cô giáo nhờ qúa giang. Khi chiếc xe Vespa của tôi vừa dừng lại trước sân trường. Trăm con mắt đổ về làm tôi cũng luống cuống như tiếng nổ bì bạch của chiếc xe không chịu im ngay khi đã sang số ngừng! Thế là…cô với thầy vui vẻ nhỉ? Vâng, thưa các em, dạy học ở Đông Giang ai nói là khổ? Không, đi dạy và đi học ở Đông Giang thật là vui! Chẳng vui sao mãi đến hôm nay các em còn nhớ đến nhau và nhớ mãi những thầy cô của mình.
Một chuyện của thời cuộc, tôi muốn kể lại với các em ở mấy hàng cuối nầy. Sau 5 năm rưởi xa cách thành phố, tháng 10 năm 1980, tôi từ trại An Điềm trở về Đà Nẵng. Khi tôi đang lớ ngớ ở bến xe Chợ Cồn, hai thiếu nữ, tuổi phải trên 17, không biết có phải đã phát hiện ra dáng dấp của tôi hay do một sự linh cảm nào khác, cả hai em chạy đến bên tôi rồi cùng thốt lên: “Thầy! thầy!” Cũng như hai em, nước mắt ở đâu cũng chảy dài trên má của tôi!. Tôi cảm động lắm về chút tình nghĩa thầy trò mà các em chưa đánh mất, trong khi chính các em đã bị đánh mất tuổi học trò, để mỗi em phải bưng một cái thúng đựng thuốc lá, bánh kẹo…đem rao bán ở các bến xe.
Cũng vậy, tháng 9 năm 1981, ngày tôi được gọi tên trên loa phóng thanh của trại tị nạn Ga Lăng ll thuộc Indonésia, để chuẩn bị đi đinh cư, cô Võ Thị Diệu Thuấn (có lẽ là lớp lớn nhất học ở Đông Giang với các em) chẳng biết từ đâu, rẻ đám đông tìm thấy tôi trong một hoàn cảnh thật trớ trêu và bất ngờ. Chuyện là thầy trò gặp lại nhau sau bao thăng trầm dâu bể, mà sao lòng nghẹn ngào chẳng nói nên lời!
Với tất cả các em, quốc nội cũng như ở hải ngoại, tôi chưa có hân hạnh gặp lại, nhưng lòng chúng ta vẫn gần nhau. Riêng với các thầy, các cô, ngoại trừ Thầy Trần Minh Trung ghé về Dallas được tay bắt mặt mừng trong chốt lát, tôi vẫn nhớ và cầu chúc tất cả được muôn vàn ân phúc. Ước mong những ngày xưa thân ái ở Đông Giang vẫn sống động mãi trong lòng mỗi người chúng ta.

PHẠM TƯƠNG NHƯ
Thơ học trò
Theo gót chân em thơ vàng nắng mới.
Trời chớm thu em đạp nắng đến trường.
Lá ngã màu để áo trắng dễ thương.
Hoa cúc nở đón mừng em nhan sắc

Em ngây dại để dòng thơ nhơ ngác.
Bờ môi xinh nở đỏ nụ hoa hồng.
Mắt diễm tình chứa cả mảnh trời trong.
Đôi chân bước tung tăng tà áo trắng .

Em mười bốn nên thơ còn tóc ngắn,
Thả mây về lảng đảng chạm hai vai,
Dấu tuổi thơ trong tà áo diều bay,
Em là bướm vờn hoa lay gió nhẹ.

Nghe em nói thơ buông lời hát khẻ,
Miệng em cười thơ vũ những điệu vui,
Em học bài thơ đùa chữ ngược xuôi.
Em thiếp ngủ thơ trải hồn chăn chiếu.

Em mười sáu thơ tròn ,trăng ám hiệu.
Mùa yêu đương gieo buồn nhớ vu vơ.
Tuổi học trò thi tứ với hồn thơ.
Mà vần điệu là nhạc tình chim hót.

Nắng óng ả thiên nhiên cài lên tóc.
Thơm hương rừng với mật ngọt đôi môi.
Em đọc thơ tình như hơi thở thôi.
Sao cánh phượng nhẹ rơi trong chiều vắng .

Anh còn mãi tiếng ve, hè trầm lắng…

TÌNH RU TIẾNG BIỂN
(Tặng Nguyễn Đức Nhơn ,t.g. “Biển và tôi”)

Anh tỏ tình bằng lời biển đêm nay,
Em, thuyền con lênh đênh chở trăng đầy,
Lòng rộn rã trổ hoa trên triền sóng,
Uống rượu mời cùng biển ngả nghiêng say.

Anh tìm em bằng lượn sóng ngàn phương,
Trong lòng biển anh có những nẻo đường,
Anh gọi tên em là thơ phổ nhạc,
Điệu thì thầm sáng tác thơ thùy dương.

Biển lặng thinh trong giấc ngủ bình an,
Gió im hơi nên trăng cũng ngỡ ngàng,
Như lòng anh đã qua hồi giông bão,
Biển tình là muối mặn đã hòa tan.

Anh tặng em hoa trắng của biển xanh,
Để em thêu mây trắng áo thiên thanh,
Mây gió ngàn năm còn ru tiếng biển,
Sóng bạc đầu là tâm sự riêng anh.

Nổi lòng anh chứa một biển nhớ nhung,
Thơ và em như cô gái tình chung,
Khi tâm tỉnh,lòng chập chùng sóng nhớ,
Biển ,Thơ và em là cỏi đẹp vô cùng.
Ptn. Nov-25- 09

TRÒN TRĂNG ÔM BIỂN NHỚ
(Cũng để nhớ phố Phan Thiết, biển Bình Thuận)

Đêm biển sâu như ánh mắt thèm thuồng
Mãi mê nhìn vầng trăng sáng trần truồng
Lượn sóng xô những đường cong tuyệt mỹ
Ánh bạc ngây tình ôm trọn vòng hông.

Em hát du dương tiếng biển thì thầm
Lời tình đêm ân ái tự ngàn năm
Ngực tròn như đồi trăng chìm đáy nước
Ru mộng anh về theo gió xa xăm.

Mặt biển xôn xao , lòng chứa ngọc trai
Trăng chứa tình anh truyền kiếp lưu đày
Anh yêu em như tình trăng với biển
Góc bể chân trời trăng nước mê say.

Lưới tình hay biển dệt ánh trăng đan
Nhốt kình ngư giữa triền sóng thủy thần
Bọt biển trỗ hoa tan đời mộng mị
Trăng lặn rồi, biển vọng mãi âm vang.

Biển nhớ lòng anh như sóng vỗ bờ
Như trăng muôn đời một bóng bơ vơ
Trời nước bao la làm sao chứa cả
Mưa gió đời anh khi em làm ngơ !

Nov- 27- 09

th.Đoàn Thy Vân
Mây Ngàn: Lời thơ sóng vỗ bờ xa
Lời tỏ tình nào cho dù xưa cũ, khi gieo vần gởi ý vẫn mãi là nỗi nhớ miên man, đất trời rộng mở mênh mông, với những biến thiên vô hạn thường làm cho con người gần gũi với thơ. Có lẽ trong hoàn cảnh ấy, Mây Ngàn đã từng bước hội nhập vào thế giới thi ca từ một chút ngẩu hứng, nhanh chóng trở thành niềm đam mê không dứt. Dường như chữ nghĩa của Mây Ngàn đã run rẩy đẩy đưa theo tiếng thở dài vẫn từng phút giây trôi theo nỗi nhớ. Cảnh cũ người xưa luôn là một hoài niệm không nguôi ngoai của những đời viễn xứ. Mây Ngàn đã biểu lộ tình cảm ấy qua ngôn ngữ của thơ ở một chừng mực nào đó.
Tôi vẫn thường đọc được thơ anh trên làng báo Hải ngoại và trên một số diễn đàn điện tử, đã có lúc tôi ngạc nhiên vì những vần thơ trau chuốt và dể thương như lời tỏ tình với nhiều dè dặt của một thời mới lớn. Tôi bắt gặp hình ảnh của chính tôi là cậu học trò rụt rè gởi thư cho cô bạn học, hoăc ngẩn ngơ dõi bóng khi trống điểm tan trường. và cứ thế tôi lần theo bóng thời gian để tìm lại chính mình trong thi tập đầu tay : Bóng thời gian của Mây Ngàn. Cho đến lúc ấy tôi chỉ biết Mây Ngàn qua một số bằng hữu.
Người ta vẫn quan niệm thi ca chỉ khởi đi từ những khổ đau phiền muộn của đời thường vốn có nhiều bất trắc và người làm thơ như mầm cây chỉ phát triển từ tĩnh lặng tối tăm. Thế nhưng Mây Ngàn là một hiện tượng trái ngược, với nghị lực thêm một chút may mắn anh đã vượt qua được những bước gian truân và khá thành đạt ở miền đất hứa mà không hứa này. Nếu như những người tự mãn khác có lẽ anh đã vui thú điền viên, du sơn ngoạn thủy, hoặc tìm niềm vui bên những canh bạc đỏ đen vốn vô cùng cám dỗ, thế nhưng Mây Ngàn đã can đảm tìm đến với… thơ, như điểm trang cho cuộc đời thêm hương sắc.
Cuộc sống vốn có nhiều bất ngờ và cái bất ngờ ấy đến với tôi khi hữu tình hạnh ngộ và làm quen với một Nhà giáo, người ấy là Đặng Xuân Ngô tức nhà thơ Mây Ngàn. Khi được biết tôi cũng có tới lui phất phơ trong làng báo, lập tức nét thân thiện hiện ra ngay trên nụ cười đầu. Nếu không được giới thiệu trước có lẽ ít ai nghĩ rằng Đặng Xuân Ngô là một người thơ. Bởi vì ở anh luôn luôn có nụ cười xã giao đi trước như là thói quen của giới kinh doanh, hơn nữa, khi tiếp chuyện lại bắt gặp cái cái dịu dàng đôn hậu của một nhà giáo. Và cái khẩu khí của người thơ chỉ xuất hiện khi anh tung hứng với bạn bè thân quen. Nói cách khác có ba khuôn mặt trong một con người của Mây Ngàn Đặng Xuân Ngô.
Từ đó chúng tôi vẫn liên lạc, tuyệt nhiên anh chẳng hề đá động đến thi ca, có lần cao hứng tôi gợi ý hỏi về thơ, anh chỉ cười cười : “ moa mà thơ thẩn gì, đôi lúc làm cho vui…” Nhưng chữ “cho vui” này làm tôi khó chịu lắm bởi vì :
Cho ai vui, vui điều gì mà đẫm lệ nhớ thương:
…Quê hương xa nửa địa cầu/ Khi buồn chẳng biết gởi sầu cho ai
Có đêm thức trắng canh dài/ Tập thơ ngày cũ đã phai sắc màu…*
vui gì được mà vui khi :
…Chiều mưa áo trắng qua cầu/ Bờ vai ướt lạnh che đầu cặp da
Tan trường xế bóng đường xa/Thu qua đông lại mưa sa nặng lòng…
Chỉ mới lướt qua đôi dòng lục bát thôi là tôi đã không thể nào bằng lòng với câu trả lời của mây Ngàn.
Tôi tự hứa thế nào cũng hỏi cho ra lẽ.
Sao đó cuộc mưu sinh cuốn hút tôi đi xa một thời gian, khi trở về chốn cũ, sự tình cờ đưa đẩy tôi đến tham dự buổi tiệc của một hội ái hữu quân đội, tôi lại được gặp Mây Ngàn trong quân phục của một Sinh Viên sĩ Quan Thủ Đức và bất chợt nhớ về Quân Trường Mẹ làm tôi ngẫn ngơ. Anh vẫn thân thiện như ngày nào chỉ khác là cương nghị hơn mạnh mẽ hơn từ nhân dáng cho dù khi anh tháo mũ thì chân tóc đã có nhiều sợi bạc. Con người thứ tư, con người thực sự của Đặng Xuân Ngô mới hiện rỏ hình. Một ngạc nhiên khác nữa, anh giúi vào tay tôi tập bản thảo gồm những bài thơ tuyển và muốn tôi xem để thay cho lời giải thích về câu trả lời trước đây : “Moa làm thơ cho vui thôi mà”.
Và một lần nữa tôi theo Bóng thời gian*, xuôi cùng con đò chữ nghĩa để hứng Mưa sông* và ghé bờ Thi Tuyển Mây Ngàn*.
Không, thơ Mây Ngàn không phải làm cho vui như lời tác giả, những tình ý của thơ anh
dù có ngụy trang dưới cái vẻ nhẹ nhàng lắng đọng để dành nhung nhớ tuổi học trò, cũng không dấu được nỗi đau của khách ly hương. Thơ anh không hiện ra đầm đìa nước mắt nhưng anh đã khóc âm thầm trên từng con chữ :
… Đã mang số kiếp phù sinh/ Để nghe nhân thế đưa mình về đâu
Lệ tình hòa giọt mưa ngâu/ Chìm trong hư ảo nhuốm sầu thiên thu…*

Hoặc : …thôi thì em đã đi xa/ núi non mòn mỏi thông già gió reo
hút heo; heo hút đỉnh đèo/ tiển nhau ngày ấy mang theo giọt sầu…*
Tôi nghe như chính tôi đang thổn thức, trái tim nặng trĩu những điều tôi không nói được mà Mây Ngàn đã nói dùm tôi bằng những vần thơ hết sức bình dị, dể hiểu và thấm đậm lòng người . Trong kinh doanh anh trau chuốt bao nhiêu, thì trong thơ anh mộc mạc bấy nhiêu, mộc mạc như ca dao nghe tử hơi thở Mẹ.Nhẹ nhàng như tiếng gió thoảng qua lay động trúc đào. Tôi nghĩ điều ấy giúp anh làm cho đọc giả dể cảm thông hơn. Trong vườn thơ muôn sắc, mỗi một người thơ là mỗi dáng vẻ khác nhau; Có khi tự nhiên, có khi cố làm dáng để cho khác người, nhưng chỉ có lời chân thành giản dị mới làm cho người xích lại với người. Nhất là trong tiếng việt ta vốn đã có thi ca, mà ca dao là một biểu tượng muôn thuở của nền văn minh lúa nước. Phải chăng Thơ Mây Ngàn đã được nuôi dưỡng và ảnh hưởng không ít từ những làn điệu ca dao ấy. Cho nên:
…Nơi đây cũng có dòng sông/Có đồng lúa chin mênh mông nắng vàng
Sao ta cảm thấy bàng hoàng/ Hay lòng mãi nhớ những làn nắng xưa…*
Tình tự quê hương nói ra nghe nhẹ lắm nhưng thực tình nặng tợ ngàn cân, phải thấm, phải nhớ, phải thương thì mới rung động và diễn cảm được tình cảm ấy khi đứng trưởc một hình ảnh gởi nhớ một chút quê nhà.Nói thế không có nghĩa là thơ Mây Ngàn chỉ dừng loại ở thể lục bát thấm đượm ca dao mà vì:
Anh đứng đầu sông/ ngó lên đỉnh đèo/những làn khói trắng/ngỡ ngàng tóc bay
Em ở cuối sông/nhìn chân đồi vắng/có đàn thú hoang/ ngẫn ngơ man dại….*
Những câu thơ bốn chữ ấy viết ngắn gọn buông thả nhưng đầy hình tượng đã được nhân cách hóa một cách hài hòa, làn khói trắng kia có phải là người sơn nữ, đàn thú hoang kia có phải là những chàng lính trận miền xa. Chỉ có trái tim đầy tình người mới nhìn ra điều ấy và đó là cái nhìn mang tính nhân bản.
Nếu chỉ lướt qua, người đọc có thể ngộ nhận thơ anh thiếu cẩn trọng, nhưng nếu đọc kỷ thì sẽ hiểu ngược lại bởi lẽ thi hứng sẽ chết khi bị đóng khung, như dòng nước sẽ tắc nghẽn khi bị đê điều chặn lại.
Có lẽ Mây Ngàn là một người thơ tự do mê mãi trôi theo dòng cảm hứng tuôn trào, đôi khi không để ý đến hình thức cấu trúc gieo vần, ngắt đoạn …hình như anh muốn kể chuyện nhiều hơn là làm dáng thơ mình.Cũng chính vì điều này làm cho thơ anh gần gũi với người đọc.
Mỗi người thơ đều có bút pháp riêng cái chuẩn mực đặt ra cho từng thể loại sẽ trở thành vô nghĩa trước dòng cảm hứng bất tận của thi nhân. Từ ngàn xưa ai nhốt được hồn thơ vào những giáo điều tự kỷ. Tôi không phải là ngươi bình thơ nên không dám đi sâu vào lãnh vực kỷ thuật cấu trúc . Chi ghi lại những dòng này từ một chút cảm hứng trước những vần thơ làm lay động chính tôi, riêng tôi và cũng để tự trấn an mình trước khi lần giở từng trang của “Thi tuyền Mây Ngàn”
Thay cho lời giới thiệu xin mượn mấy câu thơ của bằng hữu để mời bạn cùng tôi bước vào cõi thơ Mây Ngàn Đặng Xuân Ngô:
Thơ Mây ngàn- vết dầu loang
Từng trang kỷ niệm úa vàng còn thương
Lời như tiếng thở miên trường
Nửa đời lữ khách tha hương cảm hoài.
Cái cảm hoài của Mây Ngàn không những chỉ tìm thấy ở trong thơ mà còn tìm thấy ở chính con người ôn nhu bình dị của tác giả sau mỗi nụ cười là lời tự than: “ sao moa cứ nhớ nhớ… thuở nào”
Vâng, cái thuở nào xa xưa ấy đã nẩy mầm trổ hoa sẽ góp thêm hương sắc cho vườn hoa thi ca hải ngoại. Hy vọng điều ấy phải thành hiện thực qua “Ý sóng tình thơ” đang trên đường đến với những người còn …thương quá đi thôi tiếng Việt mến yêu.

th.đoàn thy vân
viết từ tửu nguyệt lầu
*(chữ nghiêng) thơ Mây Ngàn

PHAN BÁ THỤY DƯƠNG
BÓNG THỜI GIAN
cho Thu Hương HSM

biển lặng sóng nước xanh như mắt ngọc
cát vờn bay như suối tóc người tình
cơn nắng tàn
giọt nắng Hạ lung linh
thuyền ai đó mái chèo khua bỡ ngỡ

ôm khổ hạnh én lần qua đất nhớ .
gió về đâu .
nghiêng ngã khóm phi lao .
gió về đâu
mà bụi khói xôn xao
mây lờ lửng trên đỉnh trời vàng vọt

cành lá biếc
vừa đâm chồi nảy lộc
ai báo tin cho lau cỏ rộn ràng
nhịp trống nào xa
khoan nhặt mênh mang
nghe phảng phất bóng thời gian vời vợi.
Venice 2008

QUÁN ĐỢI BÊN CẦU

nhìn xa khói bếp mờ nhân ảnh
có phải chăng em quán dọc đường
cát bụi nhạt nhòa trên tóc mượt
sao còn đứng đó ngóng tà dương?

nắng Hạ đường dài chân ngại bước
ai tiếp ai chào khách viễn phương
giọng hát nào êm –
êm như biển nhớ
em quán bên cầu đón gió sương?

THÔI TA VỀ ÔM GÓC NÚI
1.
Áo nhuộm phong trần chưa rũ sạch
Tóc đã pha màu nắng quan san
Thôi thôi ta về ôm góc núi
Đẻo gỗ trầm hương tạc tượng nàng

Gõ phách mà ca bài độc đạo
Hứng tinh hoa nhật nguyệt càn khôn
Mang ẩn tích về treo cổng gió
Chợt phân vân ngẫm chuyện sinh tồn

2.
Mềm môi cạn rượu đêm trừ tịch
Lại nhớ người xưa, hương tóc xưa
Đường thăm thẳm bước chân lơ đãng
Thoảng nghe lạc điệu pháo giao thừa

Thôi thôi ta về bên dốc đá
Dựng am đường hội chứng vô âm
Rủ chim chóc ngao du rừng thấp
Đốt cỏ thơm chuyển hóa huyễn thần

3.
Dư ảnh chập chờn như bụi khói
Ảo chân rời rạc giữa lưng trời
Thôi thôi ta về ôm góc núi
Đục gỗ trầm hương tạc tượng người

Gõ nhịp mà ngâm bài tuyệt tận
Gọi hồn Lá Thắm suốt đêm thâu
Gió sương phơ phất đời cô lặng
Nhòa nhạt chưa phiến thạch mộ sầu
Như Phong

VỀ ĐÂY TA LẮNG NGHE TA

Loanh quanh rồi cũng trở về
Mặc đời mưa gió phủ đam mê
Dù cho say khước đời tục lụy
Dù trắng tay thua cuộc não nề

Trở về đây ta ngồi nghe ta
Giữa đêm hoang vắng giữa ta bà
Về đây ngồi gục đầu bên gối
Đựơc thua thôi đừng quá xót xa

Từ thuở lọt lòng sao vội khóc
Mai có mang gì vào hư không
Bỗng dưng lại muốn làm con nít
Theo thời gian xây mộng viễn vông

Mộng đời dệt những giấc mơ xanh
Vạn cổ xoay quanh bại với thành
Mà sao mộng vẫn chồng lên mộng
Chạy hụt hơi vẫn mãi mong manh

Thôi trở về đây ta với ta
Một cốc rượu cay một tách trà
Vào ra mà đếm đời tuổi rụng
Kiếp sau nên tránh cõi Ta bà.

LẠC TRẦN
Ta đến trần gian làm khách trọ
Mới hay nhân thế một cõi buồn
Mai kia đầu bạc thân hoàn thổ
Tình em gởi lại chốn vô thường

Ta đến trần gian làm khách trọ
Gặp em nên đọa kiếp trăm năm
Quên cả trai chay và tụng niệm
Ngất ngưỡng say như một người điên

Ta đến trần gian làm khách trọ
Em và ta hai kẻ lạc đường
Nên dắt tay nhau vào quán trọ
Lột trần nằm nói chuyện yêu đương

Ta đến trần gian làm khách trọ
Cứ tưởng nhân gian rộn tiếng cười
Quẩn quanh cho mỏi mòn một kiếp
Mai về ngồi niệm khúc bi thương

Ta đến trần gian làm khách trọ
Mới biết nhân gian một cỏi buồn
Em còn say mộng đời tục lụy
Ta quay về kinh kệ hóa duyên

Vũ Tiến Lập
vắng mặt
ý chừng như thấu hiểu một điều gì
thành đô rúc ran tiếng cười
trong long đêm
em nói với tôi
về mầu nhiệm
sự cô đơn
cùng cực của con người
không một chỗ nương thân

này em
trên muôn vàn lẽ sống
có một ngọn đèn không bao giờ tắt
giữ lấy
để thắp sáng đường về
khi không thể vay mượn đất trời
soi vào hố thẳm
em sẽ bước qua rất yên
thắp bóng mình
đứa con thạch nữ
khó có thể có được
nhưng rừng hương đã thở
mùi hương độc đáo
sẽ không bao giờ thiếu thốn
khi ngọn đèn chẳng thể tắt
vì em là chốn ngụ.

bên kia bờ
bên ngoài hạn hẹp
điện ngọc nguy nga
hay vẫn đi dưới rừng mơ
nỗi khoan hồng không thể giải
vượt ra ngoài hiểu biết
lìa xa mọi thi thố của trí năng
thân ôm chầm tháng chạp
gió ập như thác đổ
rung động hai bàn chân
đam mê không củi lửa
chỉ còn chút tự tại
làm hành trang mong manh
vọng đêm dầy núi gió
bặt tăm tiếng còi tầu thường lệ
từ đáy thẳm sâu
nghe chừng xa lạ
tiếng cười diệt vọng
lời kinh thức giấc
gió ngừng đổ
tĩnh lự
cùng tiếp sức

bên kia bờ

NGUYỄN VĂN ĐƯỜNG
Hồn quê
Đông về xứ Mỹ tuyết rơi.
Ổ rơm nào ấm mảnh đời xa quê.
Xa xăm một nẻo đường về.
Cỏ may vương bụi dốc đê ven làng.
Bến xưa nhớ chuyến đò ngang.
Ngút ngàn bờ bãi chiều vàng cuối thu.
Trưa hè vẳng tiếng mẹ ru.
Đơn côi cánh vạc mịt mù chân mây.
Liêu xiêu dáng mẹ hao gầy.
Gánh gồng năm tháng chất đầy nguồn cơn.
Tiếng chuông chiêu mộ chiều hôm.
Rơi vào tĩnh lặng ru hồn nhân gian.
Canh gà xao xác đêm tàn.
Ban mai sắc nắng nhuộm vàng chân đê.
Rưng rưng mắt mẹ ngày về.
Xa quê xanh mãi hồn quê thuở nào.

Nhớ
Lá phong ngả sắc thu vàng.
Mây buồn nương nhẹ gió ngàn về đâu?
Thời gian phai nhạt sắc mầu.
Người ơi còn lại trong nhau những gì?
Một chút tình gói mang đi.
Ủ thương ủ nhớ những khi đông về.
Ấm lòng năm tháng xa quê.
Nặng lòng với những hẹn thề hôm nao.
Xa nhau biết đến khi nào.
Nhớ nhau xin hãy bước vào trong mơ.

Phan Các Chiêu Hằng
Thuyền xưa
Ngày hay tin chị Thuyền ôm cầm sang… thuyền khác, tôi biết anh Long buồn ghê lắm, mặc dù thật ra cả nhà không ai lấy làm ngạc nhiên. Chẳng gì, chị Hiền đã kể cho mọi người trong gia đình nghe về lần gặp gỡ cuối cùng giữa anh Long và chị Thuyền trước đó không lâu. Cuộc hẹn hò “mặt đối mặt, tay… chẳng cầm tay” này do chị Thuyền đề xướng đã xảy ra ở nhà chị Hiền trên Gia Ðịnh, nơi anh Long đang ở nhờ trong thời gian mới bắt đầu đi làm việc. Chị Hiền chép miệng, rươm rướm nước mắt khi kể với má tôi:
– Má biết không, con Thuyền khóc dữ quá nên con cứ sợ nó lăn đùng ra xỉu bất tử. Thằng Long nhà mình thì cứ ngồi im rơ trên ghế salon như hóa đá, còn con Thuyền thì ngồi phệt dưới đất ôm chân nó mà năn nỉ ỉ ôi, van xin nó tha thứ. Con gái Huế nói chuyện hay thiệt, văn hoa bóng bẩy quá trời, câu nào câu nấy nghe muốn rụng rời tay chưn hết trơn làm hai mẹ con con núp đàng sau nhà bếp nghe lén mà cũng mủi lòng khóc bù lu bù loa. Vậy đó, mà thằng Long cứ im thin thít không thèm trả lời trả vốn tiếng nào. Con Thuyền nói cả nửa tiếng đồng hồ không dứt. Cuối cùng thằng Long chỉ buông ra có một câu duy nhất, thôi em về đi!…
Tôi say mê ngồi nghe, há hốc miệng sững sờ. Thôi em về đi? Dù “thôi” như trong bài hát “Thôi em đi về đi xa xôi rồi thăm nhau mà chi…”, hay là “Thôi em đừng nhắc nữa làm gì…”, hoặc “Thôi nín đi em lệ đẫm vai rồi buồn thương nhớ ơi…” với ba động từ nặng trĩu buồn-thương-nhớ đi một dọc lê thê theo nhau của ông nhạc sĩ chuyên viết nhạc thất tình Ðỗ Lễ, khi chữ “thôi” nằm ở đầu câu, trong hầu hết mọi trường hợp, không phải là dấu hiệu… khả quan. Nhất là khi hai người yêu nhau đang có chuyện lục đục trầm trọng như anh Long và chị Thuyền. Tôi hồi hộp hỏi chị Hiền, bất chấp tia nhìn đe dọa kiểu “con nít đừng bầy đặc lộn xộn” của má:
– Rồi sao nữa chị Hiền?
Chị Hiền thở dài não nuột, nhìn tôi hơi gắt gỏng:
– Thì còn làm sao nữa! Con Thuyền phải đứng dậy đi về chớ sao bây giờ?
Rồi chị quay sang má, tiếp tục kể lể:
– Thằng Long cứ ngồi im một chỗ không thèm màu mè đưa tiễn gì hết. Con Thuyền lủi thủi đi ra mở cửa rào một mình, vừa đi vừa khóc tức tưởi. Thấy cũng tội nghiệp!…
Tôi tròn mắt:
– Anh Long nhà mình coi vậy mà… ngon lành quá hén?
Chị Hiền bĩu môi, lắc đầu:
– Ngon lành cái con… khỉ mốc! Nó chỉ chờ con nhỏ kia đi khuất ngoài đầu đường là vô phòng nhào ra khóc như con nít bị ăn chổi lông gà!
Tôi lặng người ngơ ngác. Anh Long tài ba, chững chạc, hùng dũng của tôi mà lại khóc như con nít vì một người con gái? Ngàn năm tôi cũng không tưởng tượng được chuyện này. Nhưng dù cho tính chị Hiền hay vẽ rồng vẽ rắn đến đâu đi nữa, chắc chị không dám “đẩy cây” với má. Tôi lấm lét nhìn má, dò chừng xem phản ứng của bà trước tin động trời này. Nét mặt má vẫn trầm tỉnh hiền hòa như bao giờ. Bà chỉ nói một câu… xuôi xị:
– Chuyện vợ chồng là chuyện duyên số, con ơi. Chắc tại hai đứa nó có duyên mà không nợ nần gì nhau. Thì thôi, biết tánh con nhỏ kỳ cục như vậy trước khi tụi nó lấy nhau vẫn hơn. Chớ chờ lấy nhau rồi, con cái lùm đùm rồi bỏ nhau thì mới thiệt là khổ!…
Câu “thiên duyên tiền định” cũ mèm xưa rích được đem ra xài kèm theo lời phán xét thực tế nhưng phũ phàng của má như gáo nước lạnh dội xuống trái tim mới lớn còn nóng bỏng sôi nổi của tôi. Trái tim đang bừng bừng dậy sóng, đang nghiêng ngửa đảo điên vì chuyện tình yêu của… thiên hạ bỗng xìu xuống, eo xèo. Trong mắt của con nhỏ mới mười sáu tuổi đang lẫm đẫm tập tểnh làm thơ tình với rất nhiều… tưởng tượng như tôi, đoạn kết mối tình dễ thương và lãng mạn của anh Long và chị Thuyền là một chung cuộc lãng nhách, đáng lẽ không bao giờ được quyền xảy ra.

Tôi không đến độ đau khổ tuyệt vọng như anh Long, nhưng cũng ngơ ngẩn bàng hoàng mấy tháng trời. Cả Trúc nữa. Suốt ba năm trời, tháng nào hai chị em tôi cũng gò gẫm viết thư qua lại với chị Thuyền ít nhất là hai ba lần. Hai đứa cùng hăng hái bớt tiền ăn hàng vặt để dành mua tem thư. Chị Thuyền là người lớn duy nhất chịu khó viết thư “trao đổi tâm tình” với tôi cho nên tôi quí chị lắm. Trước chị, tôi chỉ thư từ qua lại với Hạnh, con nhỏ bạn thân người Bắc chơi với tôi từ ngày mới vô trường nữ tiểu học thị xã. Hai đứa học chung đến năm cuối cùng ở tiểu học, sau vụ Tết Mậu Thân kinh hoàng, thì ba Hạnh đột ngột được lệnh đổi về Sài gòn. Rồi sau đó Hạnh thi đậu vào trường Trưng Vương thơ mộng nằm gần sở thú, nơi mà nó vẫn cố thuyết phục tôi phải gọi là “thảo cầm viên” nghe cho nó nhẹ nhàng văn vẽ hơn, trong khi tôi “chôn vùi tuổi xuân” ở trường nữ trung học công lập trong thị xã. Thư từ trao đổi giữa tôi và Hạnh đề tài chung chung là những mẫu chuyện làng nhàng dính dáng đến học hành, trường lớp, than van về thầy cô nghiêm khắc và bài vở khô khan khó nhớ, hay bàn bạc lung tung xèng về quần áo, thời trang. Hạnh luôn “cập nhật tin tức”, cho tôi biết hiện nay ở Sài gòn người ta đang diện mốt gì, còn tôi thì biết để mà… quên. Chứ nhớ để làm gì bây giờ? Con gái tỉnh nhỏ như tôi, muôn đời ra đường nếu không mặc áo dài khi đi học thì cũng chỉ quần satin đen với áo bà ba bằng tơ lụa nội hóa. Thỉnh thoảng tôi và Hạnh nổi hứng làm một màn thề nguyền rất cảm động là hứa hẹn với nhau một ngày nào khi lớn lên, có chút đỉnh tiền túi và được phép đi xa một mình, hai đứa sẽ lặn lội đi tìm nhau để… sum vầy.
Tình bạn “bút đàm” của tôi nghèo nàn èo uột như vậy cho nên khi chị Thuyền trở thành người yêu của anh Long và… đi vào đời tôi, tôi và Trúc hoan nghinh bằng cả hai tay lẫn… hai chân. Hai đứa tôi tranh nhau hì hục viết thư làm thân với chị. Chị Thuyền hội đủ tất cả điều kiện để thỏa mãn cái tính mơ mộng lãng đãng của hai chị em tôi. Anh Long khoe chị hát rất hay, hay nổi tiếng trong trường đại học Khoa Học, nhất là với những tình khúc nhẹ nhàng mà ray rứt của Cung Tiến, những Hoài Cảm, Hương Xưa, Nguyệt Cầm… mà tôi đang yêu mê mết. Anh Long thì có ngón đàn guitar vô cùng bay bướm, ai nghe anh đàn nhạc cổ điển tây phương cũng ngẩn ngơ hồn. Anh là người đã đem chút “văn học nghệ thuật” giới thiệu vào đời con em gái tỉnh lẻ nhà quê, cho tôi biết Chopin qua Nocturne, Mozart qua Elvira Madigan, Beethoven qua Moonlight… Như vậy, anh Long và chị Thuyền đúng là đôi tình nhân… nghệ sĩ. Nghe lãng mạn làm sao! Thêm vào đó, chị Thuyền có dáng dấp rất ẻo lả dễ thương khi chị mặc áo dài. Anh Long chụp vô số hình chị đứng ngồi đủ kiểu trong chiếc áo dài dịu dàng tha thướt. Quỳ trên đồi cỏ xanh non. Thơ thẩn dưới rặng thông già. Nghiêng mình bên dòng suối nhỏ. Tôi và Trúc tha hồ vác hình chị đem khoe nhặng xì ngầu với lũ bạn nhà quê cùng lớp. Còn nữa, chị Thuyền là người Huế, nhà chị lại ở xa tít mù trên vùng núi đồi cao nguyên đất đỏ bụi mù, là… “giống người” hoàn toàn lạ lùng với tụi tôi. Bởi vậy cho nên đối với những kẻ “vọng ngoại” như tôi và Trúc, bao nhiêu hình ảnh có thật và tưởng tượng về chị bỗng mang đầy vẻ hoang đường và lãng mạn trong đó.
Dĩ nhiên tôi và Trúc không làm sao đoán biết được tình cảm chị Thuyền dành cho mình thật giả, nông sâu như thế nào. Nhưng những lá thư từ phương xa của chị luôn mang đến bao nhiêu niềm vui rộn ràng cho hai chị em tôi. Chị cũng tỏ ra chịu khó lấy lòng hai cô nhỏ có viễn ảnh trở thành em chồng tương lai của chị, viết thư riêng cho từng đứa, kể chuyện trời trăng mây nước dông dài. Thư chị viết trên giấy trắng không kẻ hàng, chữ viết tròn trĩnh thẳng thớm. Nhiều khi chị hấp tấp, viết tháu, những chữ “o” không bao giờ khép thành vòng tròn nghiêm chỉnh mà tôi thấy coi cũng hay hay. Những mẫu chuyện vụn vặt chị kể cho tụi tôi nghe bao giờ cũng ngộ nghĩnh và dễ thương. Sao tôi thấy cái gì liên can tới chị Thuyền cũng có vẻ hay ho đặc biệt hết. Tôi và Trúc thường hỏi nhau, hay có lẽ tụi mình cũng bắt chước anh Long, bị… mù quáng vì tình yêu? Từng lá thư của chị được tôi cẩn thận xếp lại theo thứ tự để đọc đi đọc lại như đọc tiểu thuyết.
Vì vậy mà hai chị em tôi cùng chia sẻ từng biến cố lớn nhỏ trong mối tình của chị Thuyền và anh Long. Ðầu mùa Hè, giọng thư chị ướt sủng nước mắt. Chị kể chuyện hôm anh Long về quê nghỉ hè trong khi chị còn phải ở lại trường thêm vài hôm để thi cho xong. Mặc dù anh đã dặn dò chị đừng ra bến xe đưa tiễn chỉ thêm buồn, chị đã lén tìm đến, đứng nép người sau góc tường bên cạnh bến xe để nhìn anh đi mà không dám đưa tay vẫy gọi. Tôi nghe lòng mình cũng quặn đau theo từng dòng chữ chị phơi trải tâm tình trên những trang giấy vô hồn. Tôi tưởng tượng ra vóc dáng nhỏ nhắn cô đơn của chị Thuyền đứng ủ rũ trong bầu trời xám lạnh với những giọt mưa phùn lác đác phất phơ bay. Buổi sáng Ðà Lạt chắc phải “lạnh lùng sương rơi heo may”. Còn anh Long chắc phải vai mang nặng hành lý và “chân bước phân vân lòng ngập ngừng”. Rồi chị Thuyền lủi thủi co ro một mình trở về nữ đại học xá sau khi chuyến xe đò cũ kỷ từ từ lăn bánh mang anh đi xa, chìm khuất trong màn sương trắng xóa mịt mờ. Tôi chỉ tưởng tượng bấy nhiêu đó thôi mà còn lòng đau thổn thức, mắt ứa lệ rưng rưng, thì trái tim hai người trong cuộc chắc phải… bầm dập tan nát đến dường nào. Qua đầu Thu, giọng thư chị Thuyền trở lại xôn xao ríu rít sau những lá thư buồn thảm của mùa hè. Chị và anh Long đều đã trở lại trường để bắt đầu cho niên học mới. Ðà Lạt dễ thương quá, tuyệt vời quá, Liên ơi, vì hôm nay chị đã gặp lại anh Long sau cả một mùa hè dài như trăm năm. Chị lao xao kể chuyện vui tái ngộ. Tôi nôn nao đọc thư, uống từng dòng chữ, lòng nhẹ hẫng lâng lâng.

Sau ngày anh chị cùng tốt nghiệp đại học, chị Thuyền trở về quê đi dạy. Tôi “ghen” với mấy cô học trò ngang tuổi tôi của chị, tự dưng cảm thấy như mình bắt đầu mất mát một cái gì. Ở Pleiku hay Ðà Lạt gì thì chị cũng xa tôi ngút ngàn, và với tôi thật ra chị vẫn còn là “người tình không chân dung” vì chưa lần nào gặp gỡ, vậy mà tôi mơ hồ cảm thấy một Thuyền của Pleiku không còn là một Thuyền của Ðà Lạt ngày nào. Thuyền với đôi tà áo dài thướt tha bay lượn trong bầu trời bãng lãng khói sương của Ðà Lạt nhất định phải nên thơ hơn là Thuyền với áo dài lấm tấm bùn lầy đất đỏ của Pleiku, và buồn nhất là “Thuyền của chị em tôi” đang sống giữa những người… xa lạ vì anh Long phải về Sài gòn tiếp tục lên cao học.
Hơn nửa năm sau, ba má tôi khăn gói theo anh Long ra mãi tận Pleiku gặp gia đình chị Thuyền để làm đám hỏi cho anh chị rồi… để đó, chờ anh Long học xong mới tính chuyện tiến hành đám cưới. Tôi và Trúc thì thấp thỏm trông ngóng chờ ngày anh Long cưới vợ để hai đứa được biết mùi đi máy bay coi ra thể nào. Trúc ăn cắp chữ nó mới đọc trong truyện Thằng Vũ của ông Duyên Anh đem ra áp dụng liền, ngày đêm hớn hở bàn với tôi, “đi máy bay cao tít trên trời chắc phải sướng… rêm mé đìu hiu, chị Liên hả?…”
Hai lần đám cưới trong gia đình tôi, của chị Hiền rồi đến anh Tùng, xe hơi còn chưa được xài đến thì đừng nói gì đến máy bay. Ngày chị Hiền lấy chồng, gia đình anh rễ tôi ở ngay sau lưng nhà tôi, cách nhau cái hàng rào xi măng cao không qua đầu người. Bình thường con cái hai nhà có thể bắt ghế trèo qua trèo lại như không. Dĩ nhiên là chị Hiền chưa bao giờ thú nhận là chị có từng làm chuyện này giống như đám em út của chị hay không. Gần sát bên như vậy, nhưng không thể đón đưa dâu theo kiểu “trèo tường khoét vách” nên ngày cưới của chị Hiền hai gia đình phải đánh một vòng… gần tròn, đi ra tới đầu ngõ, quẹo phải, đi dọc theo đường hẻm bên hông để qua nhà bên kia. Khúc đuôi của đoàn rước dâu còn dồn cục bên nhà trai thì khúc đầu đã vô tới cổng rào bên nhà gái. Chị Hiền chỉ sắp xếp hành lý sơ sài lấy có vì lỡ quên thứ gì thì cứ chạy ra sân sau réo lũ em đưa đồ qua bờ tường. Năm đầu tiên còn ở bên nhà chồng, chị Hiền đi làm dâu mà chiều chiều cứ tuôn về nhà cha mẹ để tụ tập ăn hàng vặt và tán dóc, cãi cọ với em út.
Ðến phiên anh Tùng đi lấy vợ thì nhà bà chị dâu ở bên cù lao nằm giữa sông, đối diện với chợ. Vậy là đoàn rước dâu đi bằng đò, áo xanh áo đỏ, dù hồng dù tím màu mè rực rỡ chói mắt cả một khúc sông. Chiếc xuồng chở đám con nít tụi tôi tròng trành suýt lật úp khi đi vào những con lạch nhỏ vì cả đám cứ xô đẩy lao nhao để chọc hái những trái ổi, trái mận chín hồng thơm tho hấp dẫn đong đưa trên mấy nhánh cây de ra hai bên bờ kinh.
Nghĩ tới đám cưới của anh Long và chị Thuyền, tôi cười thầm, chắc thời kỳ đám cưới “thủy quân lục chiến” bao gồm từ đường bộ đến đường sông trong gia đình đã chấm dứt, không còn cảnh đi bộ tà tà như đi hóng mát hay ngồi đò lênh đênh trên sông nước.

Ðôi khi, trong những lúc “trà dư tửu hậu”, tôi và Trúc hay đem chuyện anh Long và chị Thuyền ra mà mổ xẻ phân tích để chứng tỏ như mình cũng đã hiểu ít nhiều về chuyện yêu đương bồ bịch của người lớn. Trúc cho ý kiến:
– Dĩ nhiên là chị Thuyền phải thương anh Long nhiều lắm, chị Liên há? Anh mình học giỏi, đẹp trai, tài hoa, hiền lành, chung thủy, dễ thương…
Con nhỏ mới bước qua tuổi mười bốn, miệng còn hôi sữa, tập tành nói chuyện tình yêu như dân sơn đông mãi võ rao bán thuốc dán, thuốc tiêu, thuốc tể, cao đơn, hoàn tán…, chỉ còn thiếu hai chữ “mại dzô, mại dzô…”Tôi bật cười. Trúc phân trần:
– Vậy chớ không phải chị Thuyền là người “tấn công” anh Long trước hay sao?
Tôi suỵt suỵt:
– Anh Long mà nghe mày ăn nói kiểu đó thế nào cũng bị cú đầu vài cái.
Anh Long ghét tụi tôi dùng hai chữ “tấn công” này lắm, nói như vậy là ám chỉ chị Thuyền đã “chạy” theo anh, nghe… đại hạ giá con gái người ta quá! Anh hay bênh vực chị Thuyền đủ điều, tụi tôi đồng ý với nhau, ngay cả cái chuyện ai đã theo ai trước nào có mất mát thiệt thòi gì đâu mà anh cũng cố lấp liếm bào chữa cho chị. Có lẽ tại đầu óc anh có phần hơi… cổ lỗ sĩ. Cô Út của tôi đã quả quyết:
– Tao dám chắc thằng Long nhà này là hậu thân của Khổng Tử. Người đâu mà xưa như trái đất!
Từ đó mà anh Long mới có thêm cái tên gọi ở nhà là cụ đồ Long.

Mùa hè năm đó, cuối cùng tôi và Trúc cũng được gặp mặt “thần-tượng-từ-miền-cao-nguyên -đất-đỏ” là chị Thuyền. Nhân dịp nghỉ hè, hai đứa được ba má cho phép lên nhà chị Hiền ở chơi hai tuần lễ, gặp đúng dịp chị Thuyền từ Pleiku bay về thăm anh Long. Mấy anh chị em rủ nhau lên Ðường Sơn Quán ăn uống mừng ngày gặp gỡ. Chị Thuyền mặc áo dài màu vàng rực rỡ như nắng thu, quần satin trắng ống rộng mềm mại phất phơ. Dáng chị đẹp như tranh vẽ, đẹp hơn cả những tấm hình tôi đã được nhìn qua. Tóc chị suông, để dài quá vai, đường ngôi rẻ giữa thẳng tắp. Ngoài đời, nhan sắc chị cũng không thuộc vào hàng xuất sắc, nhưng chị có duyên và được trời phú cho đôi mắt sáng long lanh ướt mềm cộng thêm nụ cười e ấp dễ thương. Tôi có thể đoán được là chính đôi mắt như sao trời của chị đã làm ông anh tôi hụt chân, té nhào. Mắt em là nước hồ thu… Tôi đọc ở đâu đó câu ví von này. Nhìn vào mắt chị Thuyền buổi sáng hôm ấy, tôi hiểu ngay được sự so sánh thơ mộng này. Cả một bầu trời mây xanh nắng hồng rực rỡ như in bóng trong đôi mắt hồ thu của chị Thuyền ngày hôm đó.
Tôi ngồi cạnh chị và anh Long. Ghế ngồi là những gốc cây già cưa ra thành từng khoanh tròn, đặt quanh mấy cái bàn gỗ trong khoảng sân rộng với những tàn lá cao su xanh rì cao ngất ngưởng lao xao nhảy múa trên không. Tiếng xe cộ vùn vụt qua ngang ngoài xa lộ mơ hồ vọng lại âm thanh rầm rì dễ chịu nghe như tiếng ru. Buổi trưa thanh vắng tịnh yên với một chút gió thoáng qua rất nhẹ làm lung linh những giọt nắng chập chờn dọi trên nền đất phẳng phiu. Mà rồi cũng chẳng ai thèm để ý cảnh trí chung quanh vì mải mê nghe chị Thuyền nói chuyện. Chị Thuyền ở ngoài đời có lối nói chuyện ngọt ngào không khác mấy những lá thư chị viết, giọng chị nhẹ nhàng trầm bổng với bao nhiêu đề tài lý thú khác nhau. Chị quay sang hỏi Trúc về “danh lam thắng cảnh” của quê tôi. Trúc cười lúng túng:
– Quê em không có chỗ nào tên nghe hay như ở ngoài Huế của chị hết. Mấy cái tên ở ngoài đó nghe không cũng phát thèm. Trường Tiền, Hương Giang, Vỹ Dạ, Ðông Ba…
Chị Thuyền cười xòa:
– Chị đâu có biết Huế ra làm sao. Gia đình chị dọn vào Pleiku lâu lắm rồi.
Tôi dùng mớ kiến thức văn nghệ nghèo nàn của mình để “cứu bồ” Trúc:
– Thì Pleiku của chị cũng được ông Vũ Hữu Ðịnh với ông Phạm Duy làm thành… bất tử với “phố núi cao phố núi đầy sương…” đến đỗi anh khách lạ cũng phải đi lên đi xuống, đi tới đi lui… Còn Vĩnh Long, chị có nghe bản nhạc nào nói về Vĩnh Long thơ mộng chưa?
– Vậy quê em có gì thì cứ kể cho chị nghe…
Trúc nhíu mày suy nghĩ:
– Quê em có nhiều cầu lắm. Cầu Cái Cá, cầu Cái Côn, cầu Cái Cam… Nghe “cái mà” thấy ghê luôn.
Chị Thuyền bật cười, tiếng cười chị trong veo, ấm áp:
– Rồi gì nữa Trúc?
– Cầu Lộ, cầu Lầu, cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi Heo, cầu Vòng, cầu Ông Me, cầu Bà Ðiều, cầu… đủ thứ giống!
Trúc kể lể một hơi dông dài nghe gần muốn đứt hơi, gom góp hết tên những cây cầu trong thị xã mà nó nhớ được để trả bài với chị Thuyền. Rồi nó nhìn lại nét mặt chị Thuyền càng lúc càng tỏ ra… kinh hải với những tên cầu nghe thật chẳng giống ai, con nhỏ bỗng sượng sùng ngưng ngang, ngồi thộn mặt ra ngó quanh bàn. Mọi người cùng phì cười trong khi chị Thuyền cố nói năng một cách đàng hoàng:
– Em nói đúng ghê. Quê em quả thật là nhiều sông nhiều cầu. Cứ y như là một Venice của Việt Nam!
Chị Thuyền quả thật là người khéo ăn khéo nói, vừa nhanh trí lại vừa lịch sự hết chỗ chê. Dù không biết Venice là cái quái đản gì, tròn méo ra sao và nằm ở xó nào trên năm châu lục địa, tôi chỉ lụp chụp nghe được cái tên ngoại quốc là khoái tỉ tê trong lòng. Ừ, thì Vơ-nít nghe cũng từa tựa như… Vĩnh Long, cùng bắt đầu bằng một chữ V, như vậy chắc chắn là có… bà con xa gần rồi. Anh Long chăm chú lắng nghe tụi tôi nói chuyện, cười tủm tỉm rồi lắc đầu làm bộ ra vẻ chán nản ê chề.

Hôm chị Hiền đột ngột về thăm nhà, tôi đoán chắc có chuyện gì không ổn, dựa theo cái vẻ đi đứng bồn chồn nóng nảy, mặt cau mày có của chị từ lúc bước chân vào nhà. Sau buổi cơm chiều, khi mấy chị em quây quần quanh bàn ăn chăm chú nhìn má dạy cách đổ rau câu sơn thủy, chị mới thì thầm kể lể với má:
– Vụ thằng Long với con Thuyền chắc là không xong đâu má à!…
Má tôi ngước lên nhìn chị Hiền, không giấu được sự ngạc nhiên:
– Sao vậy? Bộ tụi nó hục hặc gì hả?..
Chị Hiền thở ra:
– Anh Quang con có người bạn cũ cùng dạy một trường với con Thuyền, người ta biết Long là em con nên mới nói cho biết là con Thuyền đang cặp bồ với một anh chàng giáo sư cùng trường. Thành phố nhỏ xíu nên chuyện trong nhà chưa hay thì ngoài ngõ đã biết. Hôm tháng trước thằng Long bay ra ngoài đó gặp con Thuyền để hỏi rõ sự tình, con Thuyền thề sống thề chết là nó vẫn thương, vẫn chờ thằng Long. Thấy cũng tạm êm rồi…, ai dè đâu tuần trước bạn thân thằng Long làm việc ở ngoài Nha Trang lại gọi cho nó, nói gặp con Thuyền ở khách sạn với người đàn ông nào coi thân mật tình tứ lắm. Con Thuyền trông thấy nó là mặt mày xanh lè, hết đường chối cãi…
Má tôi buông người nặng nề xuống ghế, ngước mắt nhìn chị Hiền nhưng không nói được lời nào. Tôi bỗng thấy nghẹn thở và không muốn nghe tiếp những lời chị Hiền kể lể. Chưa yêu ai ngày nào mà tôi cảm thấy đau đớn như chính mình là người bị phụ tình. Chị Hiền ôm vai má tôi, nhẹ giọng vỗ về:
– Con về đây để nói cho má biết là thằng Long mới đánh điện tín ra Pleiku cho ba mẹ con Thuyền hôm qua để xin từ hôn.
Ðó là lý do chị Thuyền đã vội vã bay về Sài gòn để xin gặp mặt anh Long. Tôi bần thần suy nghĩ tới lui, nhưng không đoán được tại sao chị còn năn nỉ van xin anh Long tha thứ để làm gì. Mọi chuyện hình như đã đi quá xa, như những vòng bánh xe lăn đã đưa đến sát bên bờ vực thẳm mà không còn cách nào đứng dừng hay quay đầu trở lại.
Buổi tối, tôi và Trúc rút vào phòng sớm hơn thường lệ, thì thào bàn bạc về chuyện mới xảy ra. Hai đứa cùng ngẩn ngơ đau khổ như nhau. Tôi bỗng dưng nhớ đến mẫu giấy tập học trò lấm tấm vài vệt nâu loang lổ mà tôi và Trúc tình cờ nhìn thấy trong cái bóp da nhỏ của anh Long. Anh Long giải thích, đó là tờ giấy chị Thuyền đã gói ô mai tặng anh để làm quen. Trúc nghe qua, nhăn mặt kêu lên:
– Em đâu biết cụ đồ Long mà cũng biết ngậm ô mai cam thảo…
Tôi hả họng cười:
– Vậy chớ mày không nghe má thường hay nói sao, khi người ta thương nhau thì biểu ăn “bùa mê thuốc lú” gì cũng ăn, nói gì tới ba cái ô mai, xí muội, cánh chỉ, trần bì…
Ðó là chuyện vui trong quá khứ. Còn hiện tại thì mấy anh em tôi cay đắng cùng nhau ngậm… bồ hòn. Tôi và Trúc lục soạn moi móc ra hết những tờ thư cũ của chị Thuyền, ngồi lẩm nhẩm đọc lại từng dòng chữ như để tìm bất cứ dấu hiệu nào cho tụi tôi có thể đoán biết là một ngày nào đó chị sẽ hững hờ quay lưng. Dĩ nhiên là tôi không tìm thấy gì hết. Cho nên tôi tự an ủi là tình yêu một thời chị dành cho anh Long là điều có thật. Những giọt nước mắt chị nhỏ xuống với anh là những giọt nước mắt chân thành. Và có lẽ, ngay cả những lời cầu xin anh tha thứ cũng xuất phát từ trái tim, mặc dù tôi không đoán được chị sẽ xử sự ra sao nếu anh đồng ý chấp nhận cho chị quay về. Tôi không biết chị đã tìm được một tình yêu khác trưởng thành hơn tình yêu lãng mạn và mong manh của thời làm sinh viên mơ mộng, hay chị đang hốt hoảng cuống quýt chợt nhận ra giá trị của những gì sắp sửa vuột xa ngoài tầm tay với. Dù có là gì đi nữa, trong thâm tâm tôi biết chắc là chị không hề dự định chỉ yêu anh Long một thời cho… vui. Tôi thầm đoán, trên một đoạn đường đời đã cùng đi chung bước, như bao nhiêu đôi tình nhân khờ khạo ngu ngơ khác trên cõi đời này, hai người cùng trao nhau bao lời thệ nguyền dài lâu bằng cả tấm lòng thành mà không nhìn thấy trước được những thử thách gian nan, những hố thẳm vực sâu đang chực chờ trước mặt.
Tôi lẩn thẩn nghĩ, cái câu “duyên số tại trời” của má suy ngẫm vậy mà… có lý. Có lẽ cuối cùng thì cũng không phải lỗi tại ai mà chỉ tại… ông trời. Nhưng rồi tôi thấy phân tích lung tung để chứng tỏ mình là người hiểu biết, bao dung và… quân tử là một chuyện, sự thật thì nỗi đau vẫn nằm nguyên đó, là cũng như anh Long, tôi đã mất chị Thuyền. Mất đành đoạn xót xa. Mất bàng hoàng tức tưởi. Khi bị tình phụ thì chắc người quân tử chính hiệu con nai vàng hay người quân tử… tàu cũng đều đau khổ quắt lòng, cũng đòi đoạn tâm can như nhau!..
Tôi ngồi co người ở mép giường với hai tay vòng ôm gối, đầu lắc lư nhịp nhàng theo tiếng mưa rơi gõ đều trên mái ngói, bâng khuâng nghĩ đến chuyện sẽ chẳng bao giờ còn nhận được những lá thư mang nét chữ quen thuộc từ “phố núi cao, phố núi trời gần…” nữa, và tự dưng nghe lòng buồn quá đỗi…

Còn vui không,
trái tim Hà Nội?
Phan Các Chiêu hằng
Trong những giấc mơ dài thảng thốt
Mắt đăm đăm nhìn suốt cuộc đời
Tuổi chưa già sao nghe thấm mệt
Giữa ngày hoang đường lặng im trôi

Vẫn là em ngây thơ, tội nghiệp
Choàng trên vai chiếc áo tình nhân
Ngày xanh như tuổi chưa mười tám
Mộng nghiêng trời, tóc xõa ngang lưng

Trong những giấc mơ dài nhức nhối
Chợt nghe thơm bụi đất nồng nàn
Đong đầy tận cùng hai lá phổi
Hồn nẫu mềm hơi thở quê hương

Vẫn là em thẹn thùng, ngần ngại
Tim trinh nguyên rất đỗi dại khờ
Yêu người nên nghe Thiên Chúa dạy
Tình đầu nào không rộn rả, vô tư
Trong những giấc mơ dài ngóng đợi
Mưa bát ngát thơm gió đêm hè
Đèn vàng hiu hắt bên song cửa
Không đủ nhìn nhau qua sương che

Vẫn là em nhịp chân cuống quít
Đường xôn xao tiếng guốc xuân thì
Làm bụi vương mắt chàng Hà Nội
Ngọt lịm hàng me bên lối đi

Trong những giấc mơ dài ủ rũ
Co ro như cô nhện dại khờ
Nằm tương tư lá hoa vườn cũ
Nhai tơ sầu giăng ngang lối xưa

Vẫn là em môi hồng hé mở
Như lá run rẩy nụ hôn đầu
Từ người xa cuối trời bụi đổ
Lạnh chưa dòng lệ ướt vai nhau?

Trong những giấc mơ dài quay quắt
Còn gì không một chút bâng quơ
Hình như đôi lần nghe nước mắt
Vỗ về trên ngày tháng mơ hồ

Vẫn là em đường ngôi rẻ giữa
Tóc mây trôi nghìn sợi âm thầm
Còn vui không, hỡi tim Hà Nội?
Như tình đầu trong trí nhớ em

Trong những giấc mơ dài rộn rả
Vẫn đôi chân Phật tử ngoan hiền
Theo chàng chiều giáo đường xem lễ
Chúa cũng cười, quên nghe Thánh kinh

Vẫn là em hồn chưa nghi ngại
Tiếng cười dòn tan bên dốc mơ
Còn vui không, trái tim Hà Nội?
Như chút tình duyên của tuổi dại khờ…

Kim Oanh
Gọi mưa về
Nhớ một thuở ngày xưa trên phố nắng
Đôi mắt nai hiền lặng ngó vu vơ
Hồn anh lạc vào cõi vắng nên thơ
Nghe hơi thở tỏa đầy men nhung nhớ

Ta gọi mưa về cho hoa tình đua nở
Giữ bước chân cho giấc ngủ thơm nồng
Cho muộn phiền tan vào chốn trời không
Tìm hương tóc ướp thơm ngày tháng mộng

Nắng hôm nay trốn vào miền gió lộng
Tuyết đông về bến mộng cũng hư hao
Gọi tên nhau nghe tình nhớ ngọt ngào
Đôi vai nhỏ run run trong cơn bão

Hãy quên đi mặc đời nghiêng chao đão
Hãy xóa tan giấc ngủ vướn ưu phiền
Thả hồn thơ vơi những nỗi niềm riêng
Đan hạnh phúc giăng đầy vùng kỷ niệm.

Một lần đến tuổi ngọc ngà diễm tuyệt!
Hoàng hôn về kết tím mộng tình thơ!

Đôi bờ
Nắng vàng trải lụa mênh mômg
Sao nghe nhung nhớ ngập lòng phút giây
Sóng xô tình vỗ mạn đầy
Lòng sầu vạn nỗi vơi đầy bến sông

Thuyền trôi trôi mãi xuôi dòng
Biết chăng bến vắng long đong đợi chờ
Cách chia cũng bởi đôi bờ
Sầu giăng mấy nẻo vật vờ dấu yêu.

Thuyền về bến vắng tiêu điều
Lửa thiêu đốt cả tim yêu cạn dần
Bến xưa vùi lấp xác thân
Giang đầu tiển biệt dương trần còn chi.

Bến xưa
Nơi đây bến vắng đìu hiu
Thuyền đi một bóng cô liêu đợi chờ
Nơi đây bến vắng chơ vơ
Thuyền đi chở mảnh trăng mơ khuất dần

Thuyền đi xa mãi ngàn khơi
Từng dòng nước mắt tuông rơi những chiều
Thuyền ơi! Bến vắng tịch liêu
Biết chăng một bóng quạnh hiu mõi mòn?

Thuyền anh một chuyến quay về
Bến em ngày ấy trăng thề hẹn nhau
Tình xanh dù đã úa nhầu
Chờ nhau – Chờ những cơn đau..dịu dàng!

Song An Châu
Xuân này
gởi cả cho em
Thư gởi em từ nửa vòng trái đất
Chở ngàn thương từ xứ sở đất lành
Qua Đông rồi cây lá nẩy mầm xanh
Xuân hy vọng gởi về cho em đó.

Gởi em vần thơ thơm mùi hoa cỏ
Nắng Xuân về hoa lá trổ đầy sân
Gởi đến em lời thăm hỏi ân cần
Ngàn thương nhớ với đôi lời tình tự.

Gởi cho em hương nồng thay ngôn ngữ
Của yêu thương và nhạc khúc mừng Xuân
Gởi cho em lời thương mến chúc mừng
Trong vị ngọt cùng vòng tay nồng ấm.

Gởi cho em cành hoa Xuân hồng thắm
Tượng trưng tình nồng ấm với niềm vui
Gởi cho em lời thương nhớ không nguôi
Ngàn cánh hoa trong dòng sông tình ái.

Tình khúc cho em Mùa Đông
Trời hôm nay vào Đông lạnh giá
Gió đông về lạnh cả tim côi
Anh xa em đã mấy đông rồi
Nhưng vẫn giữ tình em gái nhỏ.

Điệu valse buồn dìu nhau ngày đó
Không phai nhòa theo bước chân em
Ôm vai em, da thịt em mềm
Làm anh nhớ những chiều mây trắng.

Tay trong tay thầm lặng bước đi
Kề bên nhau không nói năng gì
Từng nhịp bước thả hồn vào mộng
Mơ ngày nào đôi ta chung sống.

Yêu thương nhau dưới một mái nhà
Không sang giàu, nhưng mà nồng ấm
Tình lên ngôi, sắc màu thắm đậm
Suốt cuộc đời tình ái chúng ta.
Anh yêu em như chiều nắng Hạ

Ánh sắc vàng bao phủ thế gian
Như ánh sáng lan tràn khắp lối
Như muôn vì sao sáng vô vàn.

Chiều mưa phố nhỏ
Chiều nay phố nhỏ mưa rơi
Giọt mưa tí tách buồn ơi là buồn!
Bỗng dưng nhớ quá người thương
Nay tôi viễn xứ một phương trời sầu
Em ơi! giờ ở nơi đâu?
Trăm năm vẫn nhớ tình đầu em ơi!
Chiều nay phố nhỏ mưa rơi
Tôi ngồi nhớ lại một thời yêu thương
Khi xưa tưởng đã chung đường
Đâu ngờ trắc trở lại vương mi buồn
Giờ đây mỗi đứa mỗi phương
Anh nay viễn xứ, em nương nơi nào?

Lòng tôi cảm thấy nao nao
Chiều mưa phố nhỏ, ôi! sao quá buồn!

Thương người năm cũ…
Thương em… dù ở cách xa
Nửa vòng trái đất, nhưng mà… vẫn thương.

Thương em… thương cả con đường
Ngày xưa đi học, em thường đi qua…
Nhớ hoài cái thuở chúng ta
Trên đường đi học hái hoa vệ đường.

Anh cài mái tóc… nói “thương!”
Cành hoa ngày ấy vấn vương anh hoài
Bao năm rồi… đến hôm nay
Anh xa quê mẹ vẫn hoài nhớ em.

Nhiều đêm trăng rụng bên thềm
Hương hoa ngày ấy phất lên… hương Lài
Nhớ hương mùa cũ thoáng bay
Mà sao trong mộng ngất ngây hương tình.

Thương em… thương nụ cười xinh
Ngày xưa trong lớp chúng mình bên nhau
Lòng anh cảm thấy dạt dào
Nhưng vì e thẹn không trao lời tình.

Thế rồi, chinh chiến điêu linh
Đâu ngờ đôi ngã chúng mình xa nhau
Giờ em đang ở nơi đâu
Còn thương người cũ… ngày nào không em?

vĩnh tuấn
Thơ hát ru đời
Ta làm thơ hát ru đời
Nhân gian xin gởi vạn lời cho nhau
Thời gian dù có qua mau
Trời trăng mây nước một màu không phai
Ta làm thơ hát ru ai?!
Ru tình-ru bạn-ru người trăm năm.

Cho Phạm tương như

Tương Như đứng giữa vô thường
Rót lời thơ nhẹ tơ vương với đời
Rằng là lỡ nhập cuộc chơi
Cũng xin được chúc “ Tuyệt vời nhân gian”

Nguyễn Lập Đông
HẠT BỤI PHẠM TƯƠNG NHƯ

Bao giờ em hiểu được
Nỗi lòng hạt bụi bay
Đậu trên bông cỏ lạ.

Bao giờ em hiểu được
Nỗi lòng những đám mây
Bay một đời vô định.

Bao giờ em hiểu được
Đêm chập chờn mộng dữ
Toàn hà bá – thiên lôi.

Bao giờ em hiểu được
Ly rượu và nước mắt
Uống tràn qua đêm thâu.

Hoài Hương
Niêm Luyên Lưu Ngọt Ngào
Sáu giờ sáng phố nhỏ chìm trong biển sương mù trắng xóa, khí trời ban mai thoáng mát, tỏa lạnh cùng khắp núi đồi. Thoang thoảng hương bưởi thơm từ ngoài vườn bay vào. Thật dễ chịu.
Mười thức dậy, mở tủ lấy áo lạnh mặc vào, nàng xuống bếp cắm điện nấu nước sôi. Pha cà phê cho anh Khánh uống, (anh đi làm sớm tại Hotel Palace, anh nổi danh là một cây đánh ténnis xuất sắc, anh thường giật cúp vàng, bạc, mỗi khi thi đấu cùng các cao thủ từ Thủ Đô đến dự tranh. Mấy chiếc cúp danh dự đang chưng bày nơi phòng khách. Anh có biệt danh là Tư Cóc. Giới thể thao Đà Lạt và khu xóm nầy, không mấy ai không biết tên anh).
Anh Khánh ngạc nhiên hỏi:
-Saohôm nay cô đặc biệt thế?
Nàng ngại ngùng ghê. Làm sao nói được! Làm sao nói hết những xôn xao trẻ dại của người con gái trước cảnh đời rộng mở hôm nay!
Cả nhà thức dậy khi mặt trời bừng lên ở phương đông. Mười mặc áo dài ”hắc y nữ hiệp”, Mười thích màu tím, màu đen, màu vàng. Không hiểu tại sao thích những màu ấy!? Vừa mặc thêm áo lạnh màu xanh cẩm thạch, chị Khánh gọi:
– Mười à! Ra đây chị biểu cái nầy.
– Dạ.Trống ngực đánh loạn xạ. Nàng hồi hộp lo sợ khi vào nhà kho gặp chị. Chị đang kiểm lại kho lương thực; chị nhìn em từ đầu đến chân, rồi nói:
– Đi đóng tiền huê ngoài cô Ba Chỉ cho chị, lúc về mua một bóng đèn tròn, mua chục hoa hồng. Nhớ chưa?
– Dạ nhớ.
– Tính đi đâu đó?
– Em đi trả phù hiệu cho trường, chị à.
Không nói gì, chị Khánh đưa tiền và giấy tính tiền, chị và nhìn nàng y như lần trước. Lồng ngực bé tí xíu của cô em nổi lên nhịp trống, mạnh đến nỗi em sợ chị nghe thấy, thì phiền lắm. Đây là lần đầu tiên Mười nói dối ngọt xớt.
Ra ngã ba Đào Duy Từ và Yersin, Mười thấy Nam mặc bộ complé, đi tới đi lui ở điểm hẹn, điếu thuốc đỏ gài trên môi. Từng làn khói vờn quanh khuôn mặt vật vờ bay lên. Nhìn thấy nàng, chàng vứt điếu thuốc xuống lề đường, Nam lấy gót giày dậm tắt, rồi tiến về phía nàng, Nam cười vui. Mười hỏi:
– Nam chờ Mười có lâu không?
– Mươi phút thôi, nhưng thấy… lâu ơi là lâu.
– Em đi đúng giờ mà.
– Đồng hồ tự động biết anh sốt ruột. Nên co giản kiểu cao su ấy mà.
– Nó hợp gu với hoàn cảnh của mỗi người. Anh nhỉ.
Nhìn nhau mỉm cười âu yếm, ánh mắt trao đưa nồng nàn. Đón taxi ra phố, Nam nghiêng đầu trên mái tóc nàng, giọng nói êm ái, hơi thở ấm áp len vào tóc nàng:
– Đêm qua, em ngủ có ngon giấc không?
Nàng nũng nịu lắc đầu không nói, Nam tiếp:
– Anh cũng vậy, trằn trọc mãi không sao ngủ được. Khiến hai bạn mất ngủ luôn. Thạch, Trung, dậy trêu phá anh một hồi lâu. Họ pha cà phê uống, hút thuốc. Ra balcon ngắm thành phố mờ ảo, ẩn hiện trong biển sương mù. Bây giờ hai anh đó vẫn ngủ li bì. Mười có biết tại sao chúng mình ngủ không được không. Hả em?
Tại sao? Nàng biết rồi. Biết, nên em nép đầu bên vai anh, e ấp kéo mái tóc dài che bớt bên má hồng, để dấu nỗi thẹn thùng; cho chàng đừng trông thấy. Bởi vì, có nhiều điều quá sức lạ lùng, đến nỗi tim mình như chạm phải dòng phún thạch.
Xe ngừng ở đầu tiệm Vĩnh Hòa, hai người làm công việc chị Khánh dặn xong. Nam mua quyển sách “Kim chỉ nam của học sinh” do Nguyễn Hiến Lê” viết. Mua tờ nhật báo. Mua kẹo, chewing gum. Chocolate. Nam định đón taxi, nhưng nàng gạt đi, sợ anh tốn tiền. Vả lại tản bộ bên nhau thú vị biết mấy. Dù cõng thêm mấy thứ đồ đạc, lỉnh kỉnh lủng củng. Nhất là có cái nón lá kè kè bên hông coi nhà quê nữa chứ! Mặc kệ! Chả sao cả.
Qua khỏi cầu Ông Đạo rẻ về lối Thủy Tạ. Nam vội nắm tay nàng dừng lại chờ chiếc xe hàng qua mặt. Có thế thôi. Phải! Chỉ có thế thôi. Thế mà, đôi bàn tay hai người chợt nóng chợt lạnh, như có dòng điện vút qua. Khiến tay nàng run rẩy trong tay chàng. Dù chỉ có thế thôi. Nam mỉm cười thầm nghĩ: “Từ giờ phút nầy trong tâm tư của anh và em, sẽ luyến lưu ngọt ngào, và chẳng bao giờ lặng yên nữa rồi”.
Hai người thả bộ xuống cuối Thao Trường, họ ngồi dưới chòm thông cao, xanh ngắt, ngút ngàn. Nhìn xéo về hướng phải trước mặt là vườn Bích Câu Kỳ Ngộ bên kia hồ. Thỉnh thoảng Mười bóc chewing gum đưa cho chàng; Nam bóc chocolate đưa nàng. Nam đốt điếu thuốc thơm; vì gió lộng thổi nên chiếc nón lá Mười đội trên đầu bay vù vút vút ra trên mặt hồ. Ô hô! Mất nón rồi, Mười sẽ về nói dối làm sao với chị Khánh đây cho khéo nhỉ?
Mười lấy tờ báo che chiều gió. Điếu thuốc vẫn không cháy, lần nầy nàng lấy chiếc veston của Nam đang vắt trên băng ghế đá, và trùm trên đầu hai người, phía trước vẫn che tờ báo. Đánh hai cây diêm một lúc, chàng cười:
– Lần nầy nếu không có lửa, anh bỏ hút thuốc.
– Anh nói thật nhe.
– Ơ… nghe hù vậy, sợ anh giận, nên gió ngừng thổi, anh đã có lửa hút thuốc kìa. Em có bắt chước gió. Dỗ dành khi anh giận không em?
– Em không thèm dỗ người thích hút thuốc.
– Khổ thật.
Chàng quàng chiếc áo veste lên vai nàng cho đỡ lạnh, Nam âu yếm cụng nhẹ vào đầu nàng. Hơi thở ấm nồng vương trên làn tóc rối, như làn sương mong manh. Chàng cầm tay nàng, Nam muốn nhìn đôi má đào ửng hồng ấy, ngắm hai hàng mi cong cong chơm chớp, bẽn lẽn ngại ngùng ấy, thấy hàm răng trắng bóng đều đặn, e dè cắn lấy làn môi Mười. Nam rất yêu nàng vì nét ngây thơ hồn nhiên, pha chút bối rối thẹn thùng của tuổi thơ ngà ngọc xanh ngát, đôi mắt Mười sáng long lanh chưa vương bụi đời, và Nam yêu nụ cười nàng rạng rỡ làm thắm khuôn mặt. Nhất là Mười thông minh, hiểu Nam, nàng cảm nhận sâu sắc điều mình chưa diễn tả về vấn đề nào đó.
Ôi! Nam yêu Mười như trời yêu đất. Như suối yêu ngàn. Như chim yêu cánh. Như cây yêu cành. Như đồi thông yêu tiếng thông reo. Như dãy trường sơn yêu mây tím lưng trời. Như tinh tú yêu hằng nga. Như sao yêu đêm. Như cá yêu nước. Như Nam từng ngất ngây yêu Mười, như những… “nàng yêu chàng” trên thế gian nầy.
Nam muốn thì thầm khe khẽ nói với Mười điều nầy, nhưng em đừng giận nhe:
– “Phải rồi em ạ! Trên đời nầy, nếu không có em, thì từ nay xin sẽ không còn anh. Chúng ta hãy xiết chặt tay nhau đi hết cuộc đời, có khi phẳng lặng bình an, hay có lần dốc đá cheo leo cách trở. Em nhé. Từ ngày hôm nay, của anh là của em. Tương lai cuộc sống của Nam là của Mười. Đếm được bao nhiêu sao trên trời, anh sẽ gom lại. Trao về em bằng ngần ấy tình yêu tha thiết, nâng niu và trân trọng. Tất cả… Bầu trời, tinh tú, gió mây, sông nước, biển cả, núi non, ao hồ. Trên vũ trụ nầy là của chúng ta. Của muôn người yêu nhau say đắm trên trái đất. Ta theo nhau suốt đời, dù có “ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa”. Cũng đành. Em có muốn anh thổ lộ tâm tư thầm kín trong đáy lòng anh? Hay là em đã biết tỏng tong rồi! Khiến anh cảm thấy ngại ngùng, không dám nói ra”.
Nhìn chiếc áo veste khoát trên vai, Mười nói:
– Tóc em cùng màu với chiếc áo của anh.
– Về nhà nhớ em, anh chỉ biết đem chiếc áo ra nhìn. À, mấy câu thơ nầy trong: “Những Bức Thư Tình Hay Nhất Thế Giới”. Anh đọc lại, em nghe nhé: “Anh nhớ nụ cười, gương mặt, suối tóc, làn môi, Anh nhớ em ngay từ buổi chia phôi. Anh mong mỏi ngày về, gặp gỡ”.
Hai người chụm đầu bên nhau thảo luận một hồi lâu, sau đó cùng làm bài thơ kỷ niệm: Tiễn Anh.
Bàn tay lại tìm nhau vấn vít bàn tay, cho tim Nam tan ra trăm ngàn mảnh, cho lòng dạo khúc hoan ca, mừng vui cuống quýt. Ôi! Đôi mắt ấy quyện hút lòng chàng, soi dọi vào lòng Nam vùng trời tình yêu có hào quang rực rỡ huy hoàng. Nơi ấy hứa hẹn bến bờ hạnh phúc đời mình. Là suối mát, tình yêu bất diệt. Là giấc mơ hoa không lụi tàn.
Mười một giờ trưa, họ dìu nhau trở về trên con đường lộng gió dưới bóng mát hai hàng cây xá lị ven đại lộ quạnh vắng dẫn qua lối Hotel Palace nên thơ. Họ không thấy mỏi mệt, lòng chợt lắng xuống với niềm vui thả bộ. Ôm mấy thứ lỉnh kỉnh, tay kia chàng nắm tay Mười như sợ “em tôi thất lạc” mất. Nam nói:
– Nếu em bị mệt mỏi, vì phải đi bộ nhiều hôm nay. Lát nữa về nhà, em pha khoảng trăm gram muối cho vào nước ấm mà tắm. Hoặc ngâm chân trong xô nước ấm có pha muối. Em sẽ thấy dễ chịu ngay.
Chưa kịp trả lời Nam, chợt Mười nghe tiếng ai gọi tên mình ơi ới sau lưng. Nàng giật mình quay nhìn. Thì ra Nhan chở Nga bằng xe gắn máy, họ chạy về đường Trần Hưng Đạo. Hai cô bạn nhìn Mười và cười tít mắt. Nhan giơ cao nắm đấm dọa nàng. Còn Nga giơ cạnh bàn tay cứa lui cứa tới ngang sau gáy Nhan. Và chỉ về phía Mười. Họ cười ngất.
Mười ngẩng nhìn Nam, thỏ thẻ nói:
– Chết rồi! Bị bắt gặp, mai mốt tha hồ họ làm tội, làm thịt em. Anh à.
– Em có sợ không?
– Ồ! Có chứ. Thầy Đệ còn sợ đám học trò đó. Họ nghịch như “quỷ xứ”. Nhưng… anh có biết, ai là đầu đảng không vậy?
– Chắc là… em rồi.
Mười nhìn anh, phì cười:
– Anh đoán hay thật.
– Nếu anh không hay! Sao ngày đó anh làm quen em được kìa.
Nàng kể nhiều chuyện đùa nghịch trong lớp cho chàng nghe. Họ khoái chí cười to. Lúc đi ngang qua bưu điện, Mười ghé vào lấy thư lưu trữ. Đúng như dự đoán, có thư Nam. Thư Nam gửi trước cả tuần; sau đó chàng mới lên Đà Lạt. Thế mà người đã đến trước thư. Nàng yêu cầu chàng đọc thư cho mình nghe. Nam mỉm cười cặp mấy quyển sách, báo, ở dưới nách, chàng đưa chục hoa hồng, nhờ nàng cầm hộ. Xé thư ra, Nam làm bộ hắng giọng mấy lần lấy hơi, để trêu đùa Mười, chàng bắt đầu đọc:
Sài Gòn, ngày 26 tháng 10 năm l9…
Em Mười thân ái,
Vừa ở thư viện về, thì Toma cho anh biết có thư em. Anh mừng quá định lấy thư xem. Nhưng chú ta không chịu đưa. Nó cầm phong thư chạy lên lầu ba, lên sân thượng. Bắt anh chạy theo năn nỉ nó, bằng cách là anh phải đãi nó một chầu ciné, và ăn cơm ở tiệm Victory. Chú ấy mới chịu đưa thư cho anh. Thế đấy.
Mười ơi! (Em dạ đi) Khỏi cần dài dòng, em biết là anh nhớ em như thế nào rồi. Nhất là buổi chiều trời mây vần vũ trên Đô thành. Con đường Duy Tân xám ngắt như cuộc đời của chàng trai đang nhớ người yêu. Nam nhớ Mười. Anh yêu em. Và lòng anh cố gắng gượng để khỏi thổn thức giữa cơn buồn.
Anh ngồi đây giữa cánh thư màu xanh và những xương hoa, mà em đã ép rồi gửi về anh. Ah ha! Nói đến hoa, anh phải nghĩ đến Đà Lạt. Nhớ đến hoa anh nhớ Đà lạt. Chỉ vì ở Đà Lạt mới có đầy đủ một vườn hoa thành phố núi, đủ mọi loài hoa tuyệt diệu: Từ loài hoa Daisy. Tulip. Pensée. Mimosa. Violette. Forget Me Not. Mãn Đình Hồng. Anh Đào. Mồng Gà đỏ tía. Hoa Mận. Hoa Roi. Hoa Huệ. Hoa Lan. Cả loài hoa phù dung rất đẹp. Hoa quỳ cánh lá tỏa rộng mọc dễ dàng, ở bất cứ nơi đâu. Không cần ai chăm sóc, nó vẫn xanh lá vàng hoa bốn mùa nữa chứ! vân vân…
Tại thành phố muôn hoa đó. Có cả người con gái khá độc đáo. Mà, anh rất yêu. Nàng ưa ép hoa trong trang sách học trò, rồi gửi trao tặng anh. Anh ngồi đây với suy tư chất chồng, qua phong cách em viết thật đặc biệt. Lời lẽ trong thư giàu chất thơ, pha lẫn tính bông đùa tươi trẻ của mạch văn. Khiến người đọc cảm thấy mình sống lại tuổi thơ rong chơi thuở thiếu thời. Em như viên đá lóng lánh chói sáng hơn viên đá quý, mà anh đã gặp. Bởi thế, khi em phân vân hỏi anh:
– “Sao ở nơi xa hoa hào nhoáng. Anh không chọn ai, mà anh chọn em? Em hoang dại vụng về, đơn sơ giữa chốn gió núi mây ngàn nầy thôi?”
(Theo anh nghĩ, đó là một cách nói của người tự biết mình, và biết người nữa. Mười yêu! Trăng đêm nay ở Sài Gòn buồn như ánh đèn vàng vọt ngoài phố. Sao rơi rụng từng mảng u sầu. Mây xám nhạt từng cuộn lang thang trôi. Đại lộ Duy Tân càng về khuya, càng ít người qua lại. Khuya về trắng cả tâm tư anh. Tiếc rằng thiếu một cơn mưa phùn, cho trọn vẹn khúc nhạc thê lương đang trổi trong lòng. Ngồi trên sân thượng, anh miên man nghĩ đến em. Nghĩ đến bóng hình tha thiết bắt anh lo âu chờ đợi, (khi anh chưa nhận thư em. Dư âm đó, bây giờ anh còn thấy sợ. Mặc dù anh vừa đọc thư em).
Nầy nhé! Anh ngắt em một cái, để bắt đền cái tội em bắt anh đi bộ theo em trên con đường mưa phùn. Anh nhéo em hai cái; bắt đền tội em giận anh, không thèm viết thư đều đặn như đã hứa. Cào em ba cái bắt đền (nhè nhẹ thôi mà, hổng đau đâu) vì anh nhớ mong và trông chờ. Cấu Mười . . .
Coi kìa! Sao em giựt cây bút, không cho anh viết tiếp, thì anh giận em thật à. Ta giận nhau rồi, còn ai viết thư để anh len lén đọc thư tình và khúc khích cười? Còn ai ngắm nhìn em cho tình hồng dâng lên sóng mắt? Ai dìu em đi giữa buổi hoàng hôn sương trắng núi đồi? Ai đưa em về trên vũng nhạc, rừng thơ? Hai người cùng che chung một áo mưa, mặc cho gió bão gào thét trên đôi mái đầu!? Ai đón em đi xem thắng cảnh Đào Nguyên thơ mộng của Đà Lạt như: Cam-Ly, Prenn, Liên Khương, Gougah, Pongour, Suối Vàng, Suối Bạc, hồ Xuân Hương, hồ Lãng Ông, hồ Than Thở, Sân Cù, rừng Ái Ân, Thung Lũng Tình Yêu, Đồi Thông Hai Mộ, cùng nhiều con đường mòn ngoằn ngoèo lượn khúc, ẩn khuất uốn quanh sườn đồi có cỏ nâu vàng mịn óng như nhung?!
Mười ơi! Anh yêu buổi chiều Đà Lạt trời mây vần vũ. Anh thích lang thang theo cánh gió lạc giữa phố phường. Anh yêu những cơn mưa phùn thật nhỏ vướng theo gót chân, trên con đường khuya vắng độc hành. Có lúc một mình anh dừng lại giữa lòng thế kỷ, lần mò túi áo kiếm điếu thuốc lá và gài trên môi, anh ngửa mặt lên trời đêm đầy ánh sao, anh thổi ngụm khói tròn như chữ O, làn khói dần tản mạn trong không gian. Anh vuốt mái tóc phiêu bồng, lại lặng lẽ thả gót giày trên phố hoang vắng. Mang theo hoài bão, mộng ước thời mới lớn. Và một bóng hình em bé nhỏ thân yêu canh cánh bên lòng.
Với biến cố lịch sử, qua bi hài kịch trong cuộc đời đã dự kiến. Tất cả… và tất cả… Anh cố tìm nguồn an ủi từ người em nhỏ ở phương xa. Nhưng sao anh không đủ can đảm viết thư. Dù trong thư anh chỉ viết vỏn vẹn có ba chữ: “Anh yêu em”. Hoặc “Anh nhớ Em”. Vì rằng… Mười tiết kiệm ngôn ngữ, keo kiệt bút từ ghê gớm. Khiến anh phải dè dặt. Nhưng rồi… em lại hé mở cho người nhận thư, một khung trời suy tư, mơ mộng, dạt dào cảm xúc. Với hoài vọng và hy vọng. Em có biết cho anh chăng? Hay có thế thôi nào!?.
Vâng! Em chỉ có thế thôi. Em không thể hồi đáp lòng khao khát, mòn mõi nhớ nhung nầy hơn qua ba tiếng: “Mười ghét Nam”, hoặc “Nam dễ ghét”. Nếu em nói “phản nghĩa” ba tiếng trên, thì quý giá biết bao! Em nhỉ!
Cay đắng với niềm xót xa muộn màng, anh vẫn thì thầm bên tai Mười ba dấu: chấm chấm chấm … (tùy em muốn nghĩ gì ở ba dấu chấm chấm chấm nầy thì…) Mười ơi! (Em hổng thèm dạ nữa nghen, em cứ dạ hoài mệt lắm ha). Hôm nào nghỉ lễ, anh và hai bạn tên Ngọc Thạch và Tấn Trung, sẽ lên Đà Lạt quan sát tình hình vài ngày; trước khi anh dự định chọn lên học tại Viện Đại Học Đà Lạt nầy.
Lúc ấy em có chịu cùng anh đi dạo phố phường? Em có vui vẻ chuyện trò với anh? Em có nhớ nhung trong nỗi nhớ nhung tràn ngập cõi lòng anh? Em có vui cho anh cùng vui? Có cười cho anh tận hưởng dung nhan mùa xuân tươi mát? Nơi thiên nhiên cao nguyên Lâm Viên đặc biệt ưu ái đến các kiều nữ có đôi má hồng của xứ hoa đào, em có yêu, một tình yêu hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng mầu lá non không?! Hở em?
Anh mong Mười là gió: hầu thổi về đời anh bao dự định sông hồ của người trai trước ngưỡng đời phiêu bạt. Anh mong em là mây: chở anh bay đến bến sông Ngân Hà ấp ủ nhiều ước mơ và hy vọng. Anh sẽ làm con thuyền yêu vững bền, để đưa nhau ra tận đại dương mênh mông. Nơi ấy có nắng chói, biển cả, bầu trời. Lục địa ở phương xa. Có bến bờ tự do, hạnh phúc vĩnh cữu một đời. Chỉ có Anh và Em – Mười chịu không?
À, em nhớ viết thư đều nhe. Mười không viết thư, (nói nhỏ bên tai em nghe thôi, lỡ các cháu nghe được cười anh, thì anh mắc cỡ, xấu hổ chết được, em à!)… Anh sẽ lên Đà Lạt và khóc nhè ra cho em coi! Em phải dỗ anh mệt nghỉ à nha.
Anh kính lời thăm gia đình chị Khánh, chị Lê, chị Hạnh, Thùy, các cháu. Riêng Mười của anh vui vẻ, mạnh khỏe, trẻ đẹp, vững tiến trên con đường đại học.
Thương nhớ chào em.
Phương Nam.
Thong thả dạo bước trên đường, vừa đọc xong, chàng bỏ thư vào phong bì, cất trong quyển “Kim chỉ nam của học sinh”. Nam nghiêng đầu trên mái tóc Mười, mỉm cười hỏi:
– Còn “ghét” anh. Như em đã viết trong thư không?
– Nếu em nói “phản nghĩa” lại… anh nghĩ sao?
Chàng muốn ôm Mười vào lòng, và hôn nàng giữa lòng đại lộ thênh thang, dù nơi thanh thiên bạch nhật thế nầy. Nhưng, Nam sợ Mười mắc cỡ, sợ nàng dỗi hờn, viền mắt ướt long lanh ngấn thủy tinh tròn bên khóe em yêu. Nam sợ nắng ấm thấp thoáng dưới đôi má ửng hồng, khiến nàng càng e thẹn. Chàng sợ! nên chàng không dám; Nam chỉ âu yếm xiết nhẹ bàn tay, nhìn Mười nồng nàn, nụ cười dịu ngọt biết bao. Nam thân ái nói:
– Chaneolier Oxenstierin đã nói: “Thân thiết mở cửa ái tình, và đóng cửa tình bạn”. Em thấy sao?
– Tình yêu có tình bạn hậu thuẫn. Nhưng, tình bạn không nên kèm song song với tình yêu, thì tình bạn sẽ vô tư, chân thật, bền lâu. Anh nhỉ!
– Đồng ý.
Tay trong tay Nam khe khẽ ca bài “Mộng Dưới Hoa” của Đinh Hùng. Ồ! Thật không ngờ! Nam ca quá hay. Thế mà nàng không biết để bắt anh ta ca hoài cho Mười nghe. Tình xanh nhẹ như hơi thở, mỏng như làn sương, êm ái như nệm cỏ nhung mềm trên đồi, dịu mát như dòng suối quê hương, hồng thắm như cành hoa anh đào hé nở, tô điểm vòm trời Cao Nguyên thêm sắc, thêm duyên, thêm thơ mộng.
Hai người chia tay ở đầu ngõ. Mười vào nhà cất quyển sách, thay quần áo rồi đi lấy nước cắm hoa. Bây giờ nàng mới thấy tờ giấy báo gói hoa hồng, rách te tua. Chục hoa cái gãy lìa cuống. Cái xù cánh rơi lả tả, trơ nắm nhụy vàng. Có búp chưa kịp nở cuống hoa mềm èo, lúc lắc như chiếc răng rụng. Chỉ có năm hoa còn tươi. Nhìn bó hoa thảm hại hết chỗ nói. Mười loay hoay cắm hoa, thì chị Khánh vào phòng khách. Chị dừng lại nhìn, rồi chị la em một hơi dài:
– Trời đất quỷ thần ơi! Con nhỏ nầy, sao ngu quá ta? Mua hoa, phải lựa từng cái. Đem về cắm ngay. Mang xuống hết dưới bếp, đổ đầy xô nước. Ngâm một tí. Rồi cắm vô lọ. Làm ăn như vậy á. Có chết tui không! La cà ở đâu, bây giờ mới mò về nhà, để hoa héo hết trơn vậy! Hả?!
Sợ chị Khánh, nhưng nàng buồn cười khi nhìn bó hoa thật dễ sợ, cái gục đầu, cái xù cánh. Thấy mà ghê. Hoa hồng đi ngao du thắng cảnh với tình yêu. Nó cảm động đến độ “gục gặc”. Xù cả tai cả tóc ra. Thế là nhất rồi. Còn gì bằng!
Buổi chiều, Nam đến chào gia đình. Chị Khánh sai các em hái rổ mận giống Trại Hầm. Chàng ra vườn hái mận giúp nàng. Vừa làm việc, nàng kể lại chuyện “Hoa hồng xù lông nhím” cho anh ta nghe. Hai người cười thật tươi. Quên cả mọi sự trên đời.
Chị Khánh gói hai kí trà La Ba loại bạch mao, gói mận. Gửi chàng đem về làm quà biếu gia đình. Hai “anh chị nhỏ” len lén nhìn nhau mỉm cười. Ra dấu chỉ chỏ về bó hoa hồng như thầm nói:
– “Nếu chúng mình không đi bên nhau. Có lẽ hoa tươi không ủ dột, tàn úa nhanh. Trước thời gian đâu nhỉ!”.
Họ bắt gặp thoáng mắt trong veo liếc liếc nhìn nhìn nheo nheo thật nhanh về phía chị Khánh. Cuộc chia tay thầm lặng, mắt môi đã nói thay lời, họ quên hết mọi chuyện trên đời, quên cả trời choạng vạng. Dù chưa tối, mà nhà nhà đã lên đèn.

—o0o—

Nếp sinh hoạt bình nhật ở Đà Lạt, thành phố trên cao sương mù mỗi sáng mỗi chiều. Đa số người dân sống êm ái hiền hòa, lặng lẽ không huyên náo. Họ quây quần trong nhà, đêm đêm đi ngủ sớm, ít khi la cà ngoài phố vắng. (Trừ người có công kia việc nọ đi sớm về khuya). Nếp sống người dân Đà Lạt hiền hòa như thảo mộc, trắng da dài tóc, mập mạp hồng hào! Trong thị xã ít khi có chuyện “động trời” khuấy động tính hiếu kỳ.
Ngoại trừ những đêm có đoàn cải lương, hay đại hội ca nhạc kịch, thì phố thị huyên náo giây lát lúc vào xem hoặc khi ra về. Sau đó thành phố thơ và mộng được trả về với sự yên tĩnh canh khuya cố hữu đơn điệu ngàn đời.
Khoảng mười giờ đêm thành phố hầu như chìm trong giấc mộng. Thiên nhiên ưu ái đãi ngộ con người. Ban cho khí hậu thoáng mát. Tiết trời thuận lành, man mác, trong veo, vương đọng trên đầu cây ngọn cỏ. Tạo thành một Đà Thành lãng mạn đa tình, thơ mộng, duyên dáng và quyến rũ dường bao. Nên tâm hồn họ cũng có ít nhiều chất thơ. Chất nhạc đầy men tình. Nồng đượm hương yêu.
Buổi sáng nay Mười dậy sớm chui qua phòng chị Hạnh, hai chi em nằm nói chuyện. Chị đi làm thư ký đánh máy, kiêm bán hàng cho nhà sách Họ Nhà Thờ Chính Tòa. Chị hiền lành đôn hậu, chất phác nhất (trong gia đình có mười anh em). Chị dạy bảo em điều hay lẽ phải ôn tồn hòa ái. Không nghiêm khắc, la lối om sòm, như chị Khánh. Ai cũng sợ chị Khánh một phép.
Mặc dù đôi khi cao hứng, chị Khánh kể chuyện vui buồn ngày trước, thuở gia đình còn ở làng quê. Năm 1925, ba má đi khai phá đất hoang ở vùng đất “Hoàng Triều Cương Thổ”. Chị kể những gian truân khốn khó thăng trầm. Từ ngày gia đình thực sự bước vào con đường “vạn sự khởi đầu nan”. Chị kể chuyện lưu loát, duyên dáng thu hút người nghe tài tình. Gia đình ngồi quây quần bên nhau vào lúc “trà dư tửu hậu”. Há hốc mồm nghe chị nói. Chị pha trò khá hấp dẫn. Nhiều lần cười ngất, cười ra nước mắt. Thỉnh thoảng hoàng hậu Nam Phương cho gọi chị vào dinh thự, để chị nhận lãnh phần đan, thêu, may, móc, cho bà và hoàng tử, công chúa. Tay nghề chị ít có ai theo kịp.
Chín giờ sáng, Mười, chị Hạnh đi ra chợ mua hộp dâu tây, trái hồng Đà Lạt tặng Nam. Ngồi trên xe đò thấy chị em Mười đến, chàng vui mừng giới thiệu hai chị em Mười với hai anh: Trung dáng người trung bình. Không mập không ốm, da trắng trán cao, miệng rộng, mắt mí lót hơi nhỏ. Coi như Trung hơi “lù đù”. Anh có mộng ước sẽ trở thành bác sĩ tận hiến muôn điều đã đạt được trong kiến thức, hầu giúp đời. Có thể thành công, vì anh xuất sắc từ mọi lĩnh vực.
Thạch dáng người cao ráo, da ngăm ngăm, vài chiếc răng khểnh trông ngồ ngộ, mỗi khi anh cười. Anh là nhà thơ My Sơn có nhiều bài thơ Mười rất thích như “Viết tên Em” hoặc “Tôi sẽ kể” v.v… Như bạn, Thạch học giỏi, làm thơ hay. Tuy vậy, anh ta thích trở thành một tổng lãnh sự. Một nhà ngoại giao. Một nhà chính trị lỗi lạc.
Nam ước mộng sẽ trở thành phi công giang hồ qua bốn bể, cho phỉ chí tang bồng hồ thỉ nam nhi! Ba người bạn chí thân có sở thích, sở trường, lý tưởng, hoài bão khác nhau. Thế mà họ vẫn hợp ý nhau kinh khủng.
Mặc hai bạn nói với chị về chuyện nắng mưa Đà Lạt. Nam nhìn Mười tần ngần đứng nép bên hông xe nhìn vu vơ lên khoảng trời cao lồng lộng. Chàng thấy nắng yếu vương trong lòng mắt nàng. Gió bâng khuâng ngại ngần tiễn đưa nhau. Có khói lam cuộc tình quấn quít trên bờ môi vụng dại. Nam thầm nghĩ: “Em đứng bên anh, nhưng bẽn lẽn vô cùng, đơn điệu vô cùng. Nhút nhát vô cùng. Bơ vơ vô cùng. Thương em, người yêu đơn sơ bé nhỏ, trước tương lai mù mịt của hai người. Và vì thế, bỗng dưng nỗi buồn se sắt, thấm thía, dâng ngập hồn anh”. Nam gục đầu trên đôi cánh tay đan vào băng ghế trước khá lâu.
Trung ngồi giữa, lấy cùi chỏ húc vào người chàng mấy cái, Trung đá nhẹ hàng mi, mỉm cười thân ái khi Nam ngẩng nhìn. Xe từ từ lăn bánh. Hai anh bạn nói lời từ biệt với chị em nàng. Họ vẫy tay chào. Nam nhìn Mười đắm đuối. Anh ta xiết nhẹ tay nàng, qua tiếng thì thầm:
– Tạm biệt em yêu dấu.
Chàng gục đầu lên thành ghế không nói thêm lời nào. Chị em Mười đứng lại trên lề phố Hàm Nghi, trước cửa cà phê Domino. Nhìn theo lớp bụi nhỏ vướng theo bánh xe lăn. Mây chia ly phủ trên mảnh tim cô gái nỗi buồn nhẹ nhàng đằm thắm.
Mười đã biết ưu sầu từ đó, nhớ nhung từ đó, thiết tha từ đó. Khởi đi từ phiến đàn lòng thứ nhất.
-“Phải rồi Nam ạ! em yêu anh không biết nhân chia trừ cộng, không hề tính toán suy nghĩ thiệt hơn, tình yêu chân thành, hồn nhiên vô vụ lợi. Em yêu anh, từ ánh bình minh đầu tiên bừng lên tia hào quang lấp lánh, xuyên qua kẻ lá chiếu trên đồi cỏ xa xa. Yêu anh khi thành phố tỉnh giấc mộng chuyển mình qua mọi sinh hoạt thường ngày. Yêu anh khi gát chuông giáo đường cao vút tôn nghiêm thánh thót ngân nga mỗi sáng, trưa, chiều, tiếng chuông chùa vặng đưa. Trong vòng tay từ ái, rộng mở của Phật từ bi hỉ xả.
Em yêu anh giữa biển sương mù trắng xóa núi đồi. Yêu anh qua tiếng còi hụ báo hiệu giờ ngọ trên đỉnh nóc phố Khu Hòa Bình. Yêu anh khi tia nắng cuối cùng chen lẫn màu hoàng hôn và màu ven đêm. Khi cánh sao hôm nhấp nháy trên bầu trời bảng lảng. Yêu anh khi đêm sa hẳn trên phố phường, khuya về lạnh buốt, gió lồng lộng thổi quanh dốc núi cao. Con đường mòn chật hẹp bóng láng nằm duỗi mình giữa tháng năm dài, có bước chân ai cô quạnh âm thầm đi về mỗi ngày buồn tênh. Yêu anh qua từng mùa thu lá rụng xào xạc bên suối, khi tiếng mưa dầm rã rích suốt tuôn ngày đêm không biết mệt.
Yêu anh khi tiếng xe thổ mộ đầu tiên lóc cóc đi họp chợ báo hiệu hừng đông. Mặc dù em mỏi mệt, gục đầu trên đôi cánh tay, vòng trên bàn học. Trong giấc mộng thiêm thiếp chập chờn. Em biết ngày ngày qua tháng tháng. Năm rồi lại qua năm. Trong cơn mơ, em vẫn gọi tên anh, và yêu anh mãi mãi …
Tiễn anh về quê mẹ, chưa bao giờ Mười buồn đến thế! Anh đã chia nửa hồn em, mang con tim đi trên lộ trình thiên lý, khuất xa nghìn trùng. Tình yêu nầy đọng lại trên giếng mắt. Trên bờ môi vụng dại nụ cười ngây ngô. Trên đôi bàn tay nâng niu, trang trọng. Tình yêu sống mãi trong tư tưởng, đầy luyến-lưu hồi tưởng trong tiềm thức, Trong hoài niệm của Thương Mươi…”

Trần Yên Thảo
TÓC XANH MÂY TRẮNG.

Buổi sớm hỏi đường mây trắng
Vô cùng mây trắng về đâu.
Tóc xanh hỏi đường tóc trắng
Gậy tre tung vạt áo nâu.

NÚI XANH HOA HỒNG.

Thức dậy hoa hồng chưa thắm
Lối mòn chưa thấy ai qua.
Núi xanh đường còn xa lắm
Ta về hỏi cháu con ta.

TRE TÀN MĂNG MỌC.

Trước gương cạo râu chải tóc.
Bên đường rủ áo thị phi.
Ngàn năm tre tàn măng mọc.
Trăm năm đâu đã hề chi.

CHÂN DIỆN MỤC.

Quê xưa ngút ngàn rừng rú
Đường còn khuất nẻo chiều hôm.
Tìm ta, ta về đất cũ
Quên người khách lạ sau gương.

NÚI VẪN RONG CHƠI.

Núi xanh khẩy cười biển khó
Bon chen để lỡ xuân thì.
Đốt đèn núi về chơi phố
Và khinh kẻ hái rau Vi.

Núi vẫy chào người xuống núi
Tinh si gác lại non Tây.
Đi đâu cũng là cố xứ
Lựa lời nói với cỏ cây.

Cửa lấp sông bồi mấy độ,
Núi xanh chợt vỗ vai mình
Kêu nhau đốt đèn xuống phố,
Trẻ già thấy núi bình sinh.

Bất kể sao dời vật đổi,
Mặc tình biển cả nương dâu,
Thong dong cuối trời vô ngại,
Núi ngồi kể chuyện ngàn sau.

Sự tình ai quên, hỏi núi,
Mấy ngàn năm vẫn xuân thì.
Vỗ ngực núi cười thích chí,
Và khinh kẻ hái rau Vi.

LỜI BỘC BẠCH CỦA ĐÁ NÚI.

Thức dậy mặt trời chưa mọc,
Loay hoay đã xế ngang đầu.
Chuyện đời hơn thua bất tận,
Miếng mồi con cá lưỡi câu.

Từ đỉnh non cao chót vót
Nằm nghe biển gợi tình sầu
Xưa nay chết ruồi mật ngọt,
Há còn chưa biết hay sao.

Phàm phu hơn nhau cái lưỡi,
Quân tử hơn nhau cái đầu,
Thằng khùng hơn nhau mộng lớn,
Thánh nhân nào hơn ai đâu.

Đời còn so tơ chẻ tóc,
Tảo tần bãi mía nương dâu.
Vườn xưa ta về khép cửa
Biết mình cái kiến con sâu.

Nguyễn Tôn Nhan
MƯỜI LÁ BÙA Ở LOSANGELES
(THÁNG BA NĂM 2008)
1.
Ở Cali không có mưa
Cỏ cây xui xẻo trúng bùa của em
Giữa khi anh mở phần mềm.
2.
Gió heo hút thổi Bolsa
Giữa hôm thứ sáu chia xa quay về
Ôi trời bụi réo lạnh tê.
3.
Chia tay ở Tiểu Sài gòn
Biết bao bóng vía không lòn vào đâu
Xa xôi trái đất lạc nhau.
4.
Phần mềm anh mở không ra
Máu me chảy tuột hồn ma lộn lèo
Bùa hương em cột hay treo?
5.
Bùa hương còn thơm hay không?
Giữa đêm ở Los, nổi khùng lùa em
Ồ xa tất cả môi thèm.
6.
Los.Angeles lạ thường
Cái khuôn xen với cái lườn xỏ xiên
Sơ sơ cũng thỏa cơn ghiền.
7.
Lá bùa hay cái lá gì
Mà gân xương cứ muốn tì vào hương?
Phải em làm Mán anh Mường.
8.
Ma tru quỷ khóc trưa nay
Ôm em nửa một vòng xoay lỏng lề
Sài gòn buồn mửa, đành về.
9.
Em ơi khờ dại đã quen
Vuốt ve đã mỏi hồn ghen đã nhiều
Lùa nhau vào cái ngoa điêu.
10.
Ở Bolsa nhớ Sài gòn
Ở giữa cái ấy và con cái này
Lỡ làng cuộc lữ đừ quay.

BÙA HẾT LINH.

Bùa em bỏ khờ câm một kiếp
Bùa hương còn lùa tiếp mới ghê
Chung quanh lạnh tím bốn bề
Làm sao không khỏi ngứa nghề trần gian.

Ồ em ạ cung đàn tắt vội
Còn gì đâu lặn lội hoài hơi
Một hai ba bốn rã rời
Năm và sáu cũng đâm cồi già nua.

Dơ tay thua, anh xin thua
Trời ơi cái cõi bông đùa nghiêm trang
Từ lâu anh đã đầu hàng.

Ngô Nguyên Nghiễm
TỪ THỨC
(Dành riêng Phạm Nhã Dự).

Khoác áo thư sinh xuống núi
Vai đầy hạt bụi phong trần
Đàn trâu lùa qua nội cỏ
Chợt hồn trổ nụ hư không

Vác đời trên lưng đá tảng
Đá vừa trổ dạ hoài thai
Bình nguyên đẻ dài quanh mắt
Một bầy quỷ điểu xâm soi

Năm tháng ngồi quanh hố thẳm
Vô tình thiên tượng rơi đầy
Từng giọt càn khôn khổ hạnh
Bát vàng hứng hết thơ ngây

Nên cuộc hành trình vô tận
Giang hồ che trắng tóc xanh
Quầy quã cõng trăm núi đá
Bùa thiêng dán chặt trên lưng

Nhiều lúc chờ sao xuống thế
Lối về hun hút khói sương
Ngỡ hồn như ngôi miếu cổ
Đèn nhang lạnh lẽo ven đường

Đúng Ngọ, ngập hồn cỏ dại
Nhập vào thiên địa mang mang
Quẳng áo trên đường lục đạo
Chờ xem hoa huyết hóa thân

Huyết hoa mươi mùa nở đỏ
Khách về xõa tóc hiến dâng
Lành thay, mười phương phong thuỷ
Liên hồi trống dục bâng khuâng

Bao phen bước qua tri giác
Lặng nhìn mây gió bay về
Chợt hiểu lòng mình ấm lạnh
Từng cơn biến động sơn khê

Sống giữa vô cùng nhật nguyệt
Lạ gì ngọn cỏ phiêu bồng
Bỗng nhiên phân thân trăm ngã
Trăm đời trăm ngôn ngữ riêng

Giữ chén ngọc xưa đánh vỡ
Ngày về sót bóng tri âm
Thẩn thơ dưới vầng trăng bạc
Giang hồ nặng trĩu gót chân…

HOÁ THẠCH NẰM NGHIÊNG
GIẤC TỬ SINH

Có phải hồn ta là tháp cổ
Ngàn năm phơi bóng dưới trăng nghiêng?
Bỗng nghe gạch rụng giang hồ quá
Động lá vàng rơi xuống gió đêm

Gió thổi thênh thang suốt bãi đời
Hình như lối cũ có sương bay
Cuối vườn thấp thoáng nhà ai đó
Tiếng hót hoàng oanh rót cuối trời

Thánh thót trên đường xuôi cố xứ
Dập dồn trống dục báo điềm sang
Âm thanh vỡ vụn từng hơi thở
Lạ bước hành hương, chảy đá vàng

Khách vẫn trôi dài theo bóng quế
Ôm đời hiu hắt lối sơn khê
Vết thương ma quái như hư thực
Nhức buốt từng cơn gió thổi về

Ai đứng bên đường như cố nhân
Chờ cho trăng mọc đến trăng tàn
Tháng năm âm ấp canh trường mộng
Lặng lẽ vơi đầy bụi thế gian

Mới biết, đường bay không quỷ đạo
Xua đời len giữa bóng tinh cẩu
Ngoại thiên quang quả đầy cơn sốt
Xoáy cuộn vô tình cuộc biển dâu

Cứ đứng quay cuồng giữa bổn thân
Thần kinh một mớ rút đau thương
Trồng lên san sát đời khô héo
Nắng hạn, làm quang cảnh dị thường

Thiên địa ngủ vùi đêm nguyệt tận
Cháy lang thang đóm lửa chiêu hồn
Lửng lơ như bóng ngân hà nhỏ
Cô độc bay vào tận khoảng không

Có phải ngàn xưa lạc đó không?
Sao nghe yên lặng đến vô thường
Máu tim mới nhễu vào chung rượu
Lại chảy về tim quá lạnh lùng

Có phải tiền thân rụng xuống không ?
Sao như âm vọng nẻo tang bồng
Sao như run rẩy từng hơi thở
Tận đáy hồn xanh có gió sương

Có phải từ quy xõa tóc không
Con chim mỏ đỏ của muôn trùng
Ở đâu dấu mặt không gian đến
Gọi báo thân chồng giữa pháp thân

Thôi cũng ngàn năm làm ánh lửa
Vô tình treo ngược suốt năm canh
Cố soi trọn nẻo đương thiên lý
Hoá thạch nằm xuyên giấc tử sinh.

Lê Quang Đông
KÝ ỨC

Tôi ra đi từ ngày ấy…
Qua những đồng xanh mọc tóc dậy thì
Qua những triền sông guộc gầy ngực sóng
Ngược gió lùa nông nổi tuổi đôi mươi.

Tôi đi dọc cổ sơ tìm bóng giống nòi
Gặp lửa thiêng trống đồng huyền thoại
Chạm tóc cha ông trắng mùa bão nổi
Vượt hoàng hôn năm tháng vẫn xanh.

Tôi đi dọc bát cơm đón những ý lành
Hạt gạo trắng đơm hương từ nước mắt
Tôi cám ơn những trâu gầy đã khuất
Góp bao đời gieo thắm máu quê ta.

Tôi đi dọc cõi mơ nhặt lá thi ca
Nghe dân dã khát ru từ mạch đất
Những trái tim khóc cười rung ký ức
Tiền kiếp-vị lai-vinh- nhục-tơ-duyên…

Tôi ra đi phía mắt khát xanh
Mở cửa bình minh gọi nguồn ánh sáng
Nghe sông núi tạc phù điêu chiến thắng
Vỗ ngực mình thốt gặp bốn nghìn năm.

Phan Xuân Sinh
THUỞ ĐẤT TÌNH LÊN NGÔI

(Truyện Lịch Sử)

Ngày cúng thành hoàng làng Nghi An năm đó (1890), tiên chỉ, lão làng đang dâng hương cầu xin quốc thái dân an, nghi lễ cúng bái trang trọng và thành tâm, thì có một thằng bé đứng bên ngoài nói lớn:
– “Quốc thái dân an” là do mình tranh đấu mới có. Cớ sao lại xin xỏ tầm phào như vậy?
Nói xong thằng bé đó bỏ chạy.
Các chức sắc trong làng ngẩn ngơ, không ngờ có người to gan dám nói lên điều cấm kỵ. Hỏi thằng bé đó là con nhà ai mà dám xúc phạm đến uy danh thần linh như vậy. Có một tráng đinh bước lên chấp tay thưa:
– Đó là thằng bé con ông Hương Tân đang có mặt ở đây. Tên hắn là Thái Phiên.

Các chức sắc và lão làng mời ông Hương Tân đến hỏi chuyện về sự ngỗ nghịch của thắng bé. Hương Tân tái mặt, không ngờ thằng con mình làm điều hổn láo như vậy. Mới tám tuổi mà đã đụng đến điều húy kỵ, thì thằng nầy không còn dạy được nữa rồi. Ông chấp tay xin lỗi và hứa sẽ về dạy con. Mọi người trong làng cũng vị nể ông vì dù sao ông cũng thuộc hàng hương mục của làng, một gia đình danh gia thế phiệt, có sự đóng góp đáng kể mỗi khi làng Nghi An cần có sự quyên góp. Ông nghiến răng tỏ vẻ tức giận, sau bữa tiệc cúng làng, về nhà ông sẽ cho nó một trận đòn nên thân. Ông ngồi ăn mà cảm thấy mắc cở với chức sắc và dân làng. Ông cúi đầu cố nuốt trôi miếng ăn cho xong bữa rồi vội vàng đứng lên”kiếu” tất cả mọi người ra về. Ông hầm hầm trong bụng, sẽ đánh thằng con nát thây cho nó chừa cái tội hổn láo, làm nhục gia cang.

Từ đằng xa nhìn về nhà, ông thấy thằng Phiên con ông ngồi nói chuyện với ông nội như có điều gì đắc ý, ông cháu ôm nhau cười, ông càng cảm thấy lộn ruột. Bước vào hiên nhà, ông la lên:
– Thằng kia tới đây cho tao biểu.
Ông nội của Phiên đứng lên, đưa tay như che chở cháu mình:
– Chuyện chi còn có đó, từ từ hỏi cho ra lẽ rồi hãy đánh nó, chưa muộn.
– Hắn phá đám bữa cúng làng hôm nay, cha nghĩ coi có tức không?
Ông nội từ tốn trả lời:
– À, thì ra chuyện nớ. Thằng Phiên có nói lại với tao. Tao khen nó mới chừng đó tuổi mà có chí khí, sau nầy làm được việc lớn.
– Trời đất, cha che chở cho hắn làm bậy?
– Ai bảo là nó làm bậy. Chỉ có những người bậy mới không chấp nhận lời ngay thẳng của thằng bé. Giặc giã hoành hành khắp nước, không lo tìm cách chống trả. Đi lo cái chuyện cúng bái vu vơ, cầu xin những điều không thể thần thánh làm được. Chỉ có con người, chỉ có sức mạnh của con người mới làm được. Thế thì xin xỏ làm chi ở thần thánh vô ích.

Ông Hương Tân giật mình. Ai dạy cho thằng bé nầy cái ý nghĩ sâu xa như vậy? Chính ông cũng chưa nghĩ ra được thì nó đã nói ra điều nầy. Cơn giận dữ của ông tự nhiên tan mất. Mấy ngày nay, ông Tú không để ý câu nó đọc sang sảng trong nhà: “Quốc vinh ngô thân vinh, quốc nhục ngô thân nhục”*. Mới có tám tuổi đầu mà đã biết được “vinh nhục” của đất nước. Những xáo trộn bên ngoài đã nhập tâm vào đời sống trẻ thơ. Ông lẳng lặng vào nhà, trong lòng ông có chút gì như thỏa mãn. Thế nhưng ông biết con người “hiểu biết” sớm quá, biết “lo” sớm quá cuộc đời sẽ khổ. Biết làm sao hơn khi mà con người không thể nào cưỡng lại được với số mạng. Thôi thì vận nước trong thời loạn, ai cũng có trách nhiệm đóng góp dù trách nhiệm đó đi đến chỗ phân thây.

Thái Phiên học hành rất thông minh nhưng cũng rất ngỗ nghịch. Giữa thời mạt vận của chữ nghĩa thánh hiền, ông không đi thi và sau nầy chuyển qua tây học. Ông mau chấp nhận nền học thuật của tây phương và tỏ ra xuất sắc, am tường kim cổ, đông tây nên ông hành xử mọi việc một cách hợp tình hợp lý. Gia đình giàu có mà lại con một, nên ông được cha mẹ chìều chuộng. Ông phải nghe lời cha mẹ lấy bà Trịnh Thị Nhuận khi mới mười sáu tuổi để có con nối dõi tông đường. Ông nổi tiếng ăn chơi trác táng, chuyện gia đình không hề ngó ngàng tới, một tay người vợ đảm đang. Còn cha mẹ ông, sau khi ông lấy vợ vài năm thì cha mẹ qui tiên. Ông càng buồn càng uống rượu và đi đây đó nhiều nơi. Chính cái chuyện đi nhiều, hiểu biết rộng, lại có tấm lòng nên ông lại càng đau khổ cho vận mệnh đất nước. Người ta nghĩ rằng ông không chấp nhận đường lối nào hết để đi theo. Ông cao ngạo không phục ai vì thế ông lại càng đắm chìm trong chén rượu. Thế nhưng ai biết được lòng ông?

Một hôm ông đến Cẩm Lệ, ghé qua một quán rượu bên đường. Người chủ quán là một cô gái mặn mòi xinh đẹp. Vừa uống rượu vừa tán tỉnh, giễu cợt chơi. Thử xem cô gái thuộc loại nào cho biết. Cô gái không trả lời một tiếng, chỉ cười. Ông thấy thái độ của cô gái có chút gì không bình thường, trong đôi mắt của cô có vẻ khinh khi ông. Từ trước tới nay, đi đâu ông cũng được người ta cung phụng, nể nang. Đây là lần đầu tiên ông gặp một người không nể ông dưới con mắt của họ. Ông thấy cô gái nầy toát lên một cái gì đó có một chút kiêu hãnh, một chút hiểu biết thầm kín mà ông cảm thấy quý trọng. Ông không còn có thái độ khinh bạc như lúc mới bước vào, ông trầm ngâm uống rượu và giữ mình không đến độ phải say để đi nghiêng ngã. Ông thấy trong người vừa đủ, ông đứng lên trả tiền rồi ra về.

Ngày nào cũng vậy, từ Nghi An ra Cẩm Lệ đoạn đường cũng xa, thế nhưng ông thấy không có một nơi nào trong vùng có rượu ngon như quán cô gái đó. Vì vậy ông là vị khách thường xuyên của quán. Làm gì mà không có rượu ngon, hay là ông phải lòng cô gái đó cũng chẳng biết. Bao giờ bước vào quán ông cũng có cái cảm tưởng như trút bỏ cái trần tục ra bên ngoài, lòng ông thanh thoát như tiên, như Từ Thức mà gặp phải Giáng Kiều. Ông chọn một góc quán, để có cái nhìn rộng và hình như cũng để quan sát cô gái.

Vợ ông mấy lúc rày trong mình không được khỏe, bà đến nhà người thầy thuốc làng bên để hốt vài thang thuốc. Người thầy thuốc bắt mạch và cho bà biết là mạch của bà yếu và hình như có một triệu chứng khác thường, một chứng bệnh hung hãn đang bắt đầu hoành hành. Bà lo lắng không biết nếu có mệnh hệ nào, không thể sống được thì gia đình con cái ra sao. Người chồng suốt ngày rượu chè với bạn bè, không hề biết một chút xíu những công việc quán xuyến gia đình thì làm sao bà yên tâm. Chính những lo lắng nầy đã làm cho bà càng ngày càng yếu thêm, bà biết là bà đang bị cơn bệnh tấn công sắp đến giai đoạn khẩn trương, sức khỏe xuống rất thấp. Một hôm nghe người làm trong nhà báo cho bà biết, là ông thường đến Cẩm Lệ để uống rượu trong quán của một cô gái. Tự nhiên mắt bà sáng lên, bà nghĩ ngay đến chuyện phải kiếm tìm cho ông một người vợ kế để thay cho bà sau nầy, nếu không may bà mất đi. Người mà ông phải lòng lại càng tốt, sẽ giúp cho gia đình thuận lợi, suông sẻ. Bà chưa gặp cô gái nầy nhưng bà có linh cảm người nầy sẽ giúp được gia đình bà qua cơn nguy ngập.

Bà gọi người xà ích tới nhà để chở bà đi Cẩm Lệ. Bà cho người xà ích biết là bà muốn tới quán rượu mà ông Phiên nhà bà hay lại đó. Người nầy tưởng rằng bà ghen tuông muốn tìm tình địch, nên nói thẳng cho bà hay đây là quán của một cô gái đàng hoàn, ông nhà chỉ uống rượu chứ hai người không có tình ý gì với nhau. Bà gật đầu cười và có vẻ hiểu biết, trên nét mặt hiền từ tươi tắn, không tỏ một chút ghen tương. Nên người xà ích cũng yên lòng chở bà đi. Buổi trưa quán vắng khách, bà bước vào dở nón ra đến ngồi bên góc quán, vô tình bà ngồi vào chỗ nơi ông thường ngồi. Cô chủ quán từ dưới bếp bước ra thấy bà gật đầu chào, bà tươi cười chào lại. Bà xin một bát nước chè tươi và tự giới thiệu là vợ của ông Phiên, người khách thường đến uống rượu ở quán nầy. Cô chủ quán “à” lên một tiếng ngạc nhiên và hỏi bà có gì xin dạy bảo.

Bà ngần ngừ rồi xin cô ngồi xuống cho bà được hầu chuyện. Bà trình bày bệnh tình của bà, một chứng bệnh nan y mà bà nghĩ rằng không thoát được. Bà không thể yên lòng nhắm mắt khi các con còn quá nhỏ, gia đình bộn bề công việc không ai chăm sóc. Bà thực sự muốn tìm một người vợ kế cho ông để bà yên lòng nhắm mắt, người đó được bà trông thấy và biết trước thì lòng bà được bình yên hơn. Khi trông thấy cô, linh tính cho bà biết ngay đây là người đảm đan mà bà tìm kiếm, người ân nhân cho chồng con bà sau nầy, người có thể thay thế bà quán xuyến gia đình trong tư thế tề gia và nội trợ. Bà trình bày hết tất cả ý nguyện của mình và khẩn khoản nhờ cô giúp. Cô chủ quán suy nghĩ vì bất thần quá cô không chuẩn bị kịp. Thế nhưng cô thấy tôi nghiệp cho bà, một người đàn bà sắp chết vẫn còn lo lắng cho chồng con. Dưới mắt của cô, ông Phiên cũng là người có phong cách đặc biệt, người mang nhiều suy tư, chất chứa u uất mà thường thấy ở các sĩ phu khi đất nước lâm nguy. Đây là cơ hội để cô tìm hiểu thêm về con người có chút bí mật nầy.
Cô nắm lấy tay bà, rồi nói:
– Thôi được để rồi tôi định đoạt sau. Thế nhưng còn phải ý kiến của ông nhà, ông ấy có chịu cho tôi về làm vợ lẻ không?.
– Chuyện đó cô khỏi lo, tôi có cách sắp xếp cho ổn thỏa.
Rồi bà từ tạ ra về. Không quên lấy về cho ông mấy bầu rượu.

Vài tháng sau, căn bệnh của bà trầm trọng. Ông phải ở nhà chăm sóc vợ nhưng cơn bệnh ngặt nghèo bà không qua khỏi. Bà mất để lại cho ông mấy đứa con thơ dại. Lúc nầy ông mới hối hận, không giúp vợ trong cuộc sống gia đình. Từ xưa tới giờ ông không làm gì, chỉ biết đi uống rượu, mọi chuyện do vợ quán xuyến. Bây giờ vợ mất ông lúng túng và phải xoay sở để nuôi con. Ông thèm và nhớ đến cái quán rượu nho nhỏ bên vệ đường, gần một tháng nay ông không tới được. Người phu xe thổ mộ trước đây mỗi ngày chở ông ra quán, cũng buồn thiu. Thấy ông người nầy chỉ biết cúi đầu chào, chứ không dám nhắc ông ra quán uống rượu giải khuây. Vợ mới mất, cái tình, cái đạo nghĩa nó không cho phép ông tìm vui trong chén rượu. Ông không muốn để người ngoài chê cười cho cái không biết giữ lễ của mình. Mặc dù ông sống bạt mạng, bỏ ngoài tai những dị nghị, nhưng những cái đó là không tổn hại đến gia đình con cái. Còn đằng nầy nó nằm trong vòng lễ giáo mà ông là người thấm nhuần chữ nghĩa của thánh hiền, ông phải giữ nó cho phải đạo.

Mỗi ngày sau bữa cơm, ông rót ra một chén rượu ngồi nhâm nhi một mình. Hôm nay cũng vậy, ông vừa rót rượu ra chén thì người nhà vào báo cho ông biết có một người khách đến thăm. Một người khách đến thăm vào chạng vạng tối, ông chỉ đoán ra đây là người quan trọng vì những bạn bè chung quanh đây người nhà đều quen mặt. Người nầy phải ở xa. Ông cho người mời vào. Ông đứng dậy đón khách, người khách dỡ nón ra chào lại. Khách thuộc tuổi trung niên, khuôn mặt quắc thước, có một nụ cười cởi mở. Khách nhìn quanh không có ai, rồi thưa:
– Thưa ông Thái Phiên, tôi đường đột tới đây trước là thăm ông, sau có một vài chuyện thưa với ông.
– Thưa, ông chưa cho tôi biết ông tên gì và đang làm việc ở đâu? Trước khi chúng ta bàn qua chuyện khác.
Người khách cười ha hả:
– Ông thật sự muốn biết tên tôi? Thì tôi cũng không giấu giếm ông làm gì. Chắc ông không biết, nhưng tôi vẫn nói, tôi là Trần Cao Vân.
– À, thì ra tên ông không những người dân Quảng Nam thôi, mà cả nước đều biết. Tên ông vang lừng bốn bể. Tại sao ông nghĩ rằng tôi không biết.
Trần Cao Vân lại cười to hơn và cũng nói to hơn:
– Tôi nghe người ta nói ông cao ngạo, không cần biết ai thì cái tên Trần Cao Vân đâu là gì với ông. Thái Phiên cũng cười hả hả, trả lời:
– Đó là đối với bọn sâu dân mọt nước, chứ còn như ông tôi phải cúi đầu.
– Cám ơn lời đối đáp thiệt lòng của ông. Còn ông là người tôi mến phục.
Thái Phiên gọi người nhà làm một con gà nấu cháo, gọi người khác qua nhà người xà ích chạy đi Cẩm Lệ lấy mấy bình rượu ngon đãi khách. Hai người uống rượu, nói chuyện thâu đêm. Trần Cao Vân ở lại đó ba ngày. Không biết đã nói với nhau chuyện gì, sáng sớm Trần Cao Vân lên xe ngựa ra đi, Thái Phiên đến tận xe tiễn bạn mà lòng còn bịn rịn.

Vài hôm sau ông đón xe ra Cẩm Lệ, đến quán và trở lại ngồi vào góc quán thong thả uống rượu. Ông gọi thêm một bầu rượu nữa thì cô chủ quán bảo rằng hết rượu. Ông ngạc nhiên la lớn:
– Quán thế nầy mà không đủ rượu sao?
– Nước mà cạn kiệt, thì rượu làm sao còn.
– Thế thì phải làm sao?
Cô chủ nhìn thẳng vào mặt của ông, đưa hai bàn tay lên, trả lời một cách đanh thép:
– Góp đôi tay thì được tất cả.
Ông sững sờ, trố mắt ra nhìn cô chủ. Không ngờ một người con gái mà có lòng với đất nước như vậy, thì đây không phải là người tầm thường. Cô ta chỉ mang ra cho ông một chén rượu khác để trước mặt, như có lời nhắn nhủ phải để thời giờ lo chuyện khác, nên chấm dứt uống rượu giải sầu.
Cô chủ thấy vắng khách nên đến ngồi trước mặt ông:
– Mấy hôm trước có một người khách lạ đến đây uống rượu. Người đó hỏi tôi về ông. Rồi đến thăm ông.
– Cô biết gì về tôi mà trả lời với họ?
– Tôi không những biết rõ về ông mà còn biết rõ người khách kia là ai?
Rồi cô gái nhìn quanh không thấy ai, nói nhỏ vào tai ông:
– Ông là người tôi ngưỡng phục, ông làm những chuyện to tát mà không ai biết. Ai cũng nhìn ông là thằng nát rượu, không thấy được cái âm thầm theo đuổi việc vì dân vì nước của ông một cách thâm trầm. Ông qua mặt tất cả, chỉ trừ tôi.
– Thế thì cô là ai?
– Trần Thị Băng, Việt Nam Quang Phục Hội.
Thái Phiên đứng dậy hỏi dồn dập:
– Người của ai?
– Lâm Quảng Trung.
– Mấy hôm nay có gì lạ?
– Tiến sĩ Trần Quý Cáp mới bị chém ở tỉnh Khánh Hòa hôm qua.
Ông ngồi xuống thở dài, rồi bưng chén rượu uống một hơi. Nước mắt ông chảy xuống, cô Băng kéo vạt áo lên lau mặt cho ông. Ông chưa ráo nước mắt cho vợ thi bây giờ lại rơi nước mắt cho người đồng chí, chỉ có thế thôi đã hiểu được lòng ông.
– Bây giờ, tôi không còn con đường chọn lựa. Núp trong bóng tối hoạt động lâu nay không thấy kết quả, không giúp gì được nước nhà. Tôi phải ra mặt, tôi phải dấn thân. Nhưng ngặt một điều, vợ mới chết, con còn thơ dại, gia đình đơn chiếc, không ai quán xuyến gia đình, tôi không nỡ lòng ra đi. Mỗi lần nghe bạn bè tôi bị nạn, ruột tôi quặn đau như có ai cắt từng đoạn.
– Thưa ông, nếu có người tình nguyện thay cho vợ ông lo chuyện gia đình để cho ông rảnh tay rảnh chân, không còn nghĩ tới chuyện nhỏ nhoi nầy, ông có chịu không?
– Nếu vậy, tôi phải quỳ lạy cám ơn họ trước.
Cô Băng, suy nghĩ một chút rồi nói:
– Nếu như ông không chê bai tôi quê mùa, thì tôi sẽ tình nguyện làm chuyện nầy giúp ông. Trên danh chánh ngôn thuận, chúng ta phải làm một lễ cưới nhỏ thì tôi mới bước vào cửa nhà ông
được. Còn chuyện vợ chồng thực tế, nếu có duyên nợ với nhau thì hà tất phải thành, không biết trước được. Nhưng trước mắt chúng ta phải lo cho đại cuộc.
– Như vậy thì Phiên nầy có chết cũng hả dạ rồi. Ơn nghĩa của cô dòng họ Thái nhà tôi trả không bao giờ hết được.
Cuộc nói chuyện với Trần thị Băng tại quán rượu sau vài tháng, Thái Phiên cho người dạm hỏi và sau đó lễ cưới được tổ chức trong vòng thân tộc. Trong đêm tân hôn, bà Băng đưa ra cho ông một lá thư của vợ ông gửi cho bà trước khi mất. Trong thư bà gửi gấm chồng bà cho bà Băng chăm sóc, như vậy hai người đã ngấm ngầm thông đồng với nhau mà ông chẳng hề hay biết. Bà Băng về nhà chồng, sống với ông được hai mặt con, bà lo cho cho gia đình và chồng con vẹn toàn. Ông tối ngày đi đây đi đó tiếp xúc với các sĩ phu lo chuyện đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Ông cùng với Trần Cao Vân sát cánh bên nhau đẩy mạnh phong trào cứu nước đến một đỉnh cao, chờ thời cơ hành động.
Năm 1914. Chiến tranh thế giới bùng nổ. Chính quyền Pháp cho bố ráp bắt những trai tráng xung vào lính mang về chính quốc để phục vụ chiến tranh. Phong trào Việt Nam Quang Phục Hội len lỏi vào hàng ngũ thanh niên chống lại việc tòng chinh sang Pháp, các truyền đơn kêu gọi anh em rời bỏ hàng ngũ do Pháp tuyển mộ, được anh em hưởng ứng nhiệt tình.
Lê Ngung thay mặt cho Quang Phục Hội, một mặt gửi thư xin ý kiến với cụ Phan Bội Châu, một mặt gửi thư cho Thái Phiên để khởi binh vì cơ hội đã đến. Chụp cơ hội chính quyền Pháp rối loạn lo chiến tranh bên chính quốc, vùng thuộc địa chểnh mảng. Nhận thấy lỗ hổng quá to, toàn dân nhân cơ hội nầy đứng dậy lật đổ. Thế nhưng mọi thứ chưa chuẩn bị chu đáo, các tổ chức chưa thống nhất, nhân dân còn hoang mang. Một cuộc họp khẩn cấp các thủ lãnh lại để quyết định. Nhận thấy còn nhiều trở ngại cho cuộc nổi dậy, tất cả đồng ý trì hoãn lại một thời gian để tăng cường lực lượng, tổ chức lại thành phần nồng cốt. Để yên lòng dân, mời vua Duy Tân, một người yêu nước gia nhập tổ chức, để tổ chức có tiếng nói chánh trực, để toàn dân tin tưởng.
Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh nhiệm vụ đi gặp đức vua. Dĩ nhiên chuyện gặp riêng nhà vua không phải dễ, vì chung quanh ngài bọn tay sai nhiều quá, nhứt cử nhứt động của ngài sẽ được báo cáo cho quan thầy. Hai người biết là vua Duy Tân chiều thường ra ngồi ở Phu Văn Lâu hóng mát, nhìn sông nước. Chiều nay hai người mang cần câu và một bình rượu ra ngồi đó trước.
Vừa thả cần vừa uống rượu. Khi vua tới thì lính hầu đuổi hai người đi chỗ khác, hai người không chịu đi, cãi lại với lính hầu:
– Sông nước nầy là của chung, không của riêng một mình ai. Tôi câu ở đây có mắc mớ chi tới mấy ông đâu?
Vua Duy Tân thấy hai người nầy ăn nói có chút gì khác thường, nên bảo mấy người lính hầu hãy để cho họ ngồi câu. Nhà vua trầm ngâm nhìn ra sông, mơ màng suy nghĩ.
Hai người nói chuyện lớn giọng, dù không muốn nghe cũng lọt vào tai vua. Họ mượn một câu hỏi và trả lời của người xưa để nói chuyện khơi khơi, thử xem lòng dạ vua thế nào. Nếu vua là người có lòng yêu nước thì thế nào cũng nao núng, phải gặp hai ông. Còn nếu vua là thứ “bù nhìn”, yên phận, không hiểu câu trao đổi của hai ông thì thứ nầy nên cần phải lánh xa, không cần gặp làm gì:
– Tay dơ lấy gì rửa? – Nước.
– Chớ nước dơ lấy gì rửa? – Máu.
Vua giật mình, đây không phải là người tầm thường. Ông lên tiếng:
– Hai anh kia quê mô? Đến đây nói chuyện chơi.
Nhà vua nói với lính hầu:
– Đem rượu ra đây mời khách, rồi tụi bay đi chỗ khác chơi.
Các lính hầu cứ nghĩ đây là hai tay nhà quê câu cá kiếm cơm, nên không thèm để ý.
Hai người tới sụp lạy, rồi nói nhỏ cho vua đủ nghe:
– Thưa hết.
– Việc nước đã đến hồi khẩn trương, như nhà cháy không bệ hạ, hạ thần ở Quảng Nam ra tìm cách gặp bệ hạ, bẩm báo đôi
chữa không được. Xin bệ hạ nghĩ tới dân tộc, nước nhà, tham gia với thần dân đánh đuổi quân xâm lược. Sự có mặt của Bệ hạ cốt để yên lòng dân. Hạ thần đã chuẩn bị chu đáo. Cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc sẽ bắt đầu vào giờ tý, ngày 2 tháng 4 năm Bính Thìn (tức 1giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm 1916). Khởi điểm tại kinh đô Huế. Súng thần công sẽ được bắn lên mở đầu cho cuộc binh biến của toàn dân. Bệ hạ sẽ lãnh đạo toàn quốc nổi lên đánh đuổi quân xâm lược.
Nhà vua ngồi lắng nghe, lòng ông như mở hội. Từ lâu ông không biết cách nào để khuấy động lòng dân, chỉ có cơ hội nầy thôi:
– Chuyện thế nầy rất hợp lòng trẫm. Trẫm có một người thân tín liên lạc với các khanh sau nầy. Hạn chế gặp nhau để tránh tai mắt dòm ngó, hư đi đại sự.
Hai người đứng dậy uống với ông chén rượu, rồi lạy tạ ra về.
Trần Cao Vân lo chỉnh đón thực lực nghĩa quân các tinh, còn Thái Phiên lo liên lạc các nơi để đúng ngày giờ hành sư. Vào lúc 11 giờ đêm ngày 3-5-1916. Vua Duy Tân cải dạng thường dân đi xe kéo ra bến Thương Bạc rồi xuống thuyền, có Thái Phiên và Trần Cao Vân bố trí đứng đợi, Một người có chân trong nghĩa hội làm phản, báo cáo mọi sự việc cho Tòa Khâm Sứ Thừa Thiên biết vua Duy Tân buông tẩu.Lập tức Tòa Khâm cùng với tay sai Nam triều, đuổi theo chiếc thuyền vua Duy Tân và hai ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, bắt lại. Đưa vua trở về kinh thành, còn hai ông giam vào ngục. Một cuộc bố ráp trong đêm để tìm các tổ chức nghĩa quân. Các tỉnh Nam Ngãi, Bình Phú không nhận được tin tức, cũng bị nội gián báo cáo nên các thủ lãnh đều bị bắt. Cuộc khởi nghĩa bất thành. Tất cả những người chủ trương đều lên đoạn đầu đài.

Từ quê nhà Nghi An, Quảng Nam. Bà Trần Thị Băng hay tin chồng bị bắt, bà vội vàng đón xe tìm cách ra Huế để nhìn mặt chồng. Bà may sẵn một bộ đồ tang vì bà biết lấy một nghĩa sĩ trong thời loạn lạc, thì sớm hay muộn không tránh được cái chết. Khi còn trong gia đình thời con gái, bà được cha truyền những môn võ gia truyền để phòng thân. Nhất là các bộ tẩu mã, vi hành, bà rất xuất sắc.
Bà được tin ngày 16 tháng 4 âm lịch (tức là ngày 17-5-1916) các thủ lãnh đêm nổi loạn gồm có: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị chém tại cửa An Hòa, ngoại thành Huế. Bà đến đó trước nghiên cứu đường đi nước bước, để cố làm sao đoạt được thủ cấp của chồng đem về Quảng Nam chôn cất tử tế. Bà cùng với anh em nghĩa quân còn lại, bàn luận để làm sao đoạt thủ cấp một cách an toàn, sắp đặt một chiếc thuyền sẵn vì bà biết nếu đi trên đường bộ thế nào cũng bị phát hiện. Sáng sớm ngày hành quyết một số anh em nghĩa quân và bà Trần Thị Băng có mặt tại pháp trường An Hòa. Các nghĩa quân sẵn sàng trong tư thế ngăn cản nếu có người đuổi theo bà. Mọi chuyện đều do bà định đoạt.
Người đầu tiên lên pháp trường là ông Thái Phiên, ông hiên ngang bước lên, như một tráng sĩ, mặt không chút sợ hãi. Ông nhìn xuống thấy vợ mặc đồ tang, ông gật đầu rồi cười ha hả. Quan chỉ huy pháp trường hỏi ông cần nói gì lần cuối. Ông dõng dạc hô to: “Đả đảo tụi tây và bọn tay sai”. Ông hô to ba lần như vậy, trước khi cúi đầu cho đao thủ phủ chặt đầu. Hành động ngang tàng và dũng cảm của ông đã làm cho những người đứng xem và ngay cả kẻ thù phải thán phục.
Đầu ông vừa rơi xuống, bà Băng phóng tới căng vạt áo tang hứng đầu chồng không cho rơi xuống đất. Rồi bà ôm đầu chồng phóng chạy. Tất cả lính tráng Nam Triều bất thần ngẩn ngơ không trở tay kịp, khi họ định thần chạy đuổi theo bà thì bà đã chạy quá xa, họ không đuổi kịp. Để đánh lạc hướng bà chạy vào rừng, một số nghĩa quân núp sẵn ngăn chận những người đuổi theo. Quân lính phải trở ra vì sợ nghĩa quân trong rừng phục kích. Đến khi tối trời một số nghĩa quân tại địa phương dẫn đường ra bờ sông, chiếc thuyền đang chờ sẵn nhổ neo khi bà bước xuống. Bà xỏa tóc dưới ánh đèn, lấy tóc mình lau sạch vết máu trên đầu chồng, rồi lấy khăn tang bọc đầu chồng lại. Thuyền theo cửa Thuận An ra khơi, hướng về Quảng Nam. Bà không gội đầu ba năm, để những vết máu của chồng trên tóc bà được nằm yên. Một cách thờ chồng, để tang cho chồng mà ai nghe qua cũng đều kính phục.

Thái Phiên, bút hiệu là Nam Xương, sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tại làng Nghi An, huyện Hòa Vang, Quảng Nam, là con trai duy nhất của ông bà Thái Duy Tân và Lê Thị Tý. Ông theo phong trào Việt Nam Quang Phục Hội của cụ Phan Bội Châu, chủ trương đánh đuổi quân xâm lược Pháp ra khỏi bờ cõi. Ông là một trong những lãnh đạo tài giỏi của Phong Trào tại Quảng Nam. Ông bị giặc bắt cùng với Trần Cao Vân trong đêm chính biến 2-4 năm Bính Thìn ( tức là ngày 3-5-1916), tại Huế. Thái Phiên và Trần Cao Vân cùng với hai thủ lãnh khác lên đoạn đầu đài tại An Hòa, Huế sáng sớm ngày 16-4 năm Bính Thìn (tức là ngày 17-5- 1916), lúc ấy ông mới có 34 tuổi.

Nguyễn Đắc Nguyên Khoa
Bóng thời gian
Thấy dáng em qua
Trên hè phố chợ thướt tha diễm kiều
Hồn nghe như đã xiêu xiêu
Ta về chếnh choáng hương chiều gió qua

Chiều xưa
Thấy dáng em qua
Áo vờn trong gió đôi tà phất bay¬¬
Ta về mê mẩn đắm say
Trở trăn giấc ngủ nhớ ai mặn mà

Chiều xưa
Thấy dáng em qua
Tóc thề buông xõa hồn ta rộn ràng
Ta về vương vấn hoang mang
Hoàng hôn sải cánh bóng nàng dần xa
Thế rồi năm tháng trôi qua…

Chiều nay
Thấy dáng em qua
Mái đầu bạc trắng, la đà bóng xưa
Nhạt nhòa màu áo mộng mơ
Nắng chiều phai úa hồn thơ ngậm ngùi

Chiều xưa thật đã xa rồi
Chiều nay còn lại bóng thời gian qua.

Nhặt lá vàng
Thu về em nhặt lá vàng
Nhặt mưa lất phất nhặt làn heo may
Đường về loang loáng lá bay
Nỗi buồn man mác nhớ ai dặm ngàn

Thu xưa em nhặt lá vàng
Nhặt sương diễm ảo nhặt vầng trăng mơ
Hồn nghe vời vợi tiếng tơ
Nào hay tiếng nhạc tình thơ lỡ làng

Thu qua em nhặt lá vàng
Nhặt ngày, nhặt tháng bẽ bàng tình duyên
Lòng đau luống những ưu phiền
Người yêu vắng bóng công viên úa tàn

Thu nay em nhặt lá vàng
Nhặt hờn nhặt tủi ngỡ ngàng tình xưa
Em về lối nhỏ bơ vơ
Lá rơi lả tả lệ mờ hoen mi.

Lê Hữu Minh Toán
Trống vắng buồn riêng
Bóng nắng đổ dài trên vách đá
Chiều nghiêng vàng vọt khói sương giăng
Ừ nhỉ, sao trông mình rất lạ
Nỗi nhớ hằn sâu đọng nếp nhăn

Người ơi, xa nửa vòng trái đất
Một nửa bên đây lặng lẽ sầu
Mây treo đầu gió trăng chìm khuất
Trống vắng buồn riêng chín nỗi đau

Ta đứng bên này ôm bóng nhớ
Chỉ nghe tiếng nói vọng từng đêm
Hai đầu viễn liên chung nhịp thở
Hai nửa địa cầu khắn khít thêm

Mong mõi từng đêm người trở lại
Cùng nhau hong ấm chuỗi tình thơ
Người ơi, dẫu đường đời dâu bể
Vẫn cuối chân trời vẹn ước mơ…

Dáng Xuân
Xuân đuổi Đông về với vũng đêm
Bình minh duyên dáng phơi sương mềm
Ánh dương bừng nở chân trời mới
Sóng biển ngoan hiền say ngủ yên

Hoa Xuân rạng rỡ nằm hong nắng
Chơi giữa ngày Xuân tắm má hồng
Đàn én ngất ngây hương gió thoảng
Nhảy múa hòa ca khúc nhạc Xuân

Mưa Xuân cùng trời đất giao hòa
Tháng Giêng ngọc bích hạt sương sa
Cỏ non vờn nhẹ hồn xanh biếc
Từng cung đàn ngọt lịm lời ca

Đàn trẻ tung tăng khắp xóm thôn
Khoe màu áo mới đẹp xuân nồng
Những cô thôn nữ mơ duyên thắm
Náo nức lên chùa hái lộc xuân

Tình xuân tri kỷ say chưa phỉ
Chúc nhau nâng chén cạn chén đầy
Bếp lửa bập bùng reo điệu lý
Khói pháo vờn lay mây trắng bay

Hương Xuân e ấp cành mai chín
Lúa Xuân ngào ngạt nụ vàng tươi
Người người hớn hở vui Xuân đến
Xuân của quê hương của cuộc đời…

Thái Bạch Vân
Hồn thi nhân chợt khóc
Hãy khóc đi cho cạn nguồn tâm sự
Và lệ ơi! như suối chảy lưng đồi.
Vội khép đi nụ cười vương khóe miệng,
Kẻo nước mắt tràn… thắm mặn bờ môi…

Ngày qua nhanh mà sao ta dừng lại
Dẫm chân hoài trên nốt nhạc đơn côi.
Giữa chốn đông người nghe chừng lạc lõng
Tình thơ một phiến… ngổn ngang bên đời.

Giọt lệ ai hoài trào tuôn không cạn
Như sóng xô ghềnh đổ xuống trùng khơi.
Dường như một hồn thơ đang rụng xuống
Để lòng ta dệt điếu lệ thay lời!!

Chiều màu lam trời thu buồn áo não
Gió đêm về hiu hắt cụm mây trôi.
Sầu dâng vội… hồn thi nhân chợt khóc
Một cánh chim côi lơ lửng ven trời.

Ngậm buồn
Ngập ngừng nửa ở nửa đi
Bởi vui gặp gỡ, phân ly ngậm buồn
Hợp tan, tan hợp lẽ thường
Lòng sao nặng trĩu muộn phiền chia tay

Chập chùng vờn áng mây bay
Nỗi niềm nặng trĩu vun đầy nhớ nhung
Dặm xa sương xuống mịt mùng
Nắng chiều ủ rũ khéo chung mạch sầu

Hoàng hôn sắc tím loang mau
Nhìn chim về tổ dạ đau lạc loài
Người thương giờ ở nơi nao
Bốn phương tám hướng phương nào thấy nhau.

Hương Xuân
Giá buốt qua rồi hết tiết đông,
Mừng xuân ấm áp nắng pha hồng.
Ngàn cây trổ lộc tuôn mầm sống,
Vạn vật hồi sinh trước Hóa Công.

Én lượn hợp đàn đón rạng đông,
Họa mi lảnh lót vọng thinh không.
Muôn hoa khoe sắc chào ong bướm,
Đàn trẻ nô đùa đốt pháo bông.
Hương vị ngày xuân thật mỹ miều,
Khổ đau sầu muộn thoắt phiêu diêu.
Cõi lòng ấm dịu trong dung thứ,
Cảnh trí nhìn đâu cũng đáng yêu.
Một hớp rượu nồng đón chúa xuân,
Trà thơm quyện giọng đẫm hương xuân.
Hoan ca khúc nhạc mừng xuân mới,
Khoảnh khắc trần gian mặc áo xuân.

Vũ trụ ngàn năm vẫn mượt mà,
Bởi xuân luân chuyển giữa tim ta.
Người người mong đươc như xuân ấy,
Tươi mãi như xuân chẳng thấy già.

Mây Ngàn
Pleiku gió mùa
Biển hồ lai láng bụi đỏ mờ
Hạ vàng chói nắng mây giăng tơ
Ta người lữ khách chiều cô quạnh
Phố núi mù sương dạ ngẩn ngơ

Pleiku gió mùa bụi cát tung
Nhà tôn vách lá đỏ mịt mùng
Nhấp nhô triền núi chòi cao vắng
Sơn nữ bâng khuâng mây khói trùng

Sương mai lành lạnh phố cao nguyên
Áo mõng hoàng hôn suối tóc huyền
Bước chân phiêu lãng miền đất lạ
Rực cháy Trường sơn lửa thề nguyền

Nguyễn Thị Thanh Dương
NHỮNG TRANG SÁCH BUỒN.

Đêm chưa ngủ tôi hay tìm đến sách,
Giữa đêm khuya nghe ai kể chuyện lòng,
Có những trang vui, có những trang buồn,
Tôi đã sống cùng với người trong truyện.
Trang sách vui làm cho tôi quyến luyến,
Hạnh phúc kia đang nằm trọn tay mình,
Anh ở trong thơ, trong truyện rất gần,
Như mong ước mỗi khi lòng cô độc.

Những trang sách buồn làm tôi đã khóc,
Giận chuyện đời, tôi chỉ muốn sang trang ,
Sao người đi, không ở lại trăm năm?
Sao hiu quạnh đôi bờ xa cách thế?

Từng trang sách đời anh, tôi đã mở,
Có khoảng trời nắng đẹp với tình xanh,
Con đường vui đã khép lại mong manh,
Anh vẫn bước khúc quanh buồn nghiệt ngã.

Tôi đau giùm anh mảnh hồn đã vỡ
Và tiếc giùm anh những nỗi chia xa,
Nhưng tấm lòng anh rộng mở thiết tha,
Mong anh thấy con đường vui phía trước.

Gấp sách lại. Hình như đêm khuya lắm?
Những trang vui theo vào giấc ngủ mơ,
Duyên kia đã gặp, tình vẫn đợi chờ,
Tôi thanh thản không còn gì vướng bận.

Nhưng trang sách buồn làm tôi vương vấn,
Hồn lang thang tôi vẫn mãi đi tìm,
Anh ở nơi đâu? Đêm đã dần tàn,
Tôi và sách đêm nay cùng mất ngủ..

Cù Hòa Phong
Phỏng Vấn Nguyễn Hữu Nhật
Tác Giả Hoa Đào Năm Ngoái
(Ngọc Hân Công Chúa.)
LTS: Hoa Đào Năm Ngoái, tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Nhật, nhà xuất bản Tủ sách Văn Nghệ Sài gòn Nghĩa thư, Na Uy Oslo 2009; ra mắt lần đầu tại Paris ngày 13 tháng 12 năm 2009, dưới sự bảo trợ tinh thần của “Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tự Do Tại Pháp”, nhà văn Từ Trì và nhà văn Trần Thị Diệu Tâm giới thiệu tác phẩm và tác giả; nhà văn Vân Hải điều hợp chương trình “Ngày Họp Bạn Paris – Hoa Đào Năm Ngoái”. Hoa Đào Năm ngoái, 318 trang, thân chữ (font 10,5), khổ sách 13,8 cm – 21 cm, ấn phí 25 USD. Địa chỉ nxb: Helgesensgt 72 (L-604) – 0558 Oslo, Norway.
saigonnghiathu@hotmail.com;
huongxa@gmail.com,
Tel: (47) 21 38 80 25 & (47) 90 6 0 87 33/

Cù Hòa Phong:
Chào tác giả tiểu thuyết Hoa Đào Năm Ngoái viết về cuộc đời của Ngọc Hân Công Chúa trong bối cảnh lịch sử thời vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn và Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Cảnh Thịnh. Anh cho biết vì sao lại dùng chữ “tiểu thuyết” cho “Hoa Đào Năm Ngoái” thay vì “truyện dài” như thông lệ?
NHN:
Xin chào nhà thơ Cù Hòa Phong. Thưa anh, ở nước ta, các nhà văn hồi đầu thế kỷ 20 thường dùng chữ “tiểu thuyết”, đến cuối thế kỷ 20 lại hay dùng chữ “truyện dài”. Bên phương Tây dùng chữ “novel”, nghĩa là “truyện mới”.
Nói chung, “roman, novel, fiction” đều được phần đông người mình gọi là “tiểu thuyết” hay “truyện dài”, để phân biệt với “truyện ngắn” (short story).
Hoa Đào Năm Ngoái không phải là một “truyện dài”, loại truyện danh nhân, bám sát đời thực, của ai đó, trong cuộc sống. Tiểu sử bà Ngọc Hân, trong chính sử, gom lại không đầy một trang A4, cho dù tôi đã “hư cấu”, mà cuối cùng cũng chẳng là loại “tiểu thuyết lịch sử” hay “tiểu thuyết dã sử”, như “Hoàng Hậu Margot” (La Reine Margot) của Alexandre Dumas (cha) (1802-1870), “Bà Chúa Chè” của Nguyễn Triệu Luật (1903-1946?), “Hồi Chuông Thiên Mụ” của Phan Trần Chúc (1907-1946)… Như “Anh Hùng Lĩnh Nam” của Yên tử Cư sĩ Trần Đại Sĩ… Cũng không phải là Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô gia Văn phái…
CHP:
Có quan niệm cho rằng “Đại thuyết là kinh điển của các thánh nhân viết như Kinh Thư, Kinh Thi…, đó là loại sách tư tưởng, triết học, gần như chân lý, kiểu khuôn vàng thước ngọc…. Trung thuyết do các hiền giả, sử gia thực hiện như Sử ký của Tư Mã Thiên. Còn tiểu thuyết, vốn chỉ những chuyện vụn vặt, đời thường.”
NHN:
Thí dụ tiểu thuyết “Cuốn Theo Chiều Gió” (Gone With the Wind) của nhà văn Mỹ, Margaret Mitchell, “Chiến tranh và Hòa bình” (War and Peace) của nhà văn Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy… Có phải là loại “vụn vặt, đời thường” không? Không rồi!
Truyện Kiều, tiểu thuyết bằng thơ, có thật sự là “mua vui cũng được một và trống canh” không? Ngày trước, ở ngoài Bắc, nhiều người đọc còn “bói Kiều”, coi Đoạn Trường Tân Thanh như cuốn sách thiêng?
Nhưng không ít bạn đọc, mà tôi có dịp tiếp xúc, lại cho rằng “tiểu thuyết” là thể loại truyện “mơ mộng, lãng mạn, xa rời thực tế, nhảm nhí, hoang đường”… Nhẹ hơn, “tiểu thuyết” chỉ để “mua vui, giết thì giờ”!
Tôi dùng chữ “tiểu thuyết” cho Hoa Đào Năm Ngoái vì trộm nghĩ rằng, mình “có một điều gì đó” để “thuyết” trong cái “tiểu” luận “văn chính sử” về cuộc đời của Ngọc Hân Công Chúa. Lịch sử, Chính trị và Văn học luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
CHP:
Anh đã “thuyết” gì trong Hoa Đào Năm Ngoái?
NHN:
Thí dụ, ở bìa sau cuốn sách, tôi đã ghi tóm tắt:
“Bờ Nam, bến Bắc sông Gianh
Năm vua, một nước, tranh giành máu xương
Các quan lớn, nhỏ coi thường
Đời dân với lính trăm đường khổ đau!”
Lịch sử Việt Nam đã ghi rõ, xin tóm tắt:
1/ Cuộc phân tranh lần thứ nhất:
Loạn mười hai sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh và 11 sứ quân khác, từ năm 996 tới năm 998; ba năm,
2/ Cuộc phân tranh lần thứ hai:
Lê-Mạc, nhà Lê và nhà Mạc; từ 1527 tới năm 1592; 66 năm.
3/ Cuộc phân tranh lần thứ ba:
Trịnh-Nguyễn, chúa Trịnh và chúa Nguyễn, từ cuộc chiến đầu tiên năm 1627 tới tới trận đánh cuối cùng năm 1774; 48 năm.
CHP:
Tôi liên tưởng tới Cuộc phân tranh lần thứ tư:
Quốc-Cộng, từ năm 1954 tới năm 1975; 20 năm.
Có cần kể đến cuộc “phân tranh” lần thứ năm một cuộc “Phân tranh Tư tưởng”, tiếp tục giữa người Quốc Gia và người Cộng Sản từ năm 1975 tới…., theo anh bao nhiêu năm nữa?
NHN:
Theo thiển ý, nhanh, chậm, lâu, mau cùng tùy thuộc vào 3 yếu tố: Quốc nội, Quốc ngoại và Quốc tế…
CHP:
Hoa Đào Năm Ngoái dựa vào cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn, 48 năm từ năm 1627 tới năm 1774?
NHN:
Thưa anh, không! Chỉ trong bối cảnh lịch sử từ năm 1786 Ngọc Hân Công Chúa lấy vua Quang Trung tới khi bà mất vào năm 1779, một năm trước khi vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh thắng trận cuối cùng.
Tôi “dựng truyện”, không “chép truyện” cuộc đời Ngọc Hân Công Chúa dù đã cố gắng bám sát các dữ kiện lớn lao của lịch sử Đàng Trong và Đàng Ngoài:
1/ Chúa Trịnh lấn át vua Lê. (1780).
2/ Kiêu binh khống chế chúa Trịnh.
3/ Trương Phúc Loan lấn át chúa Nguyễn.
4/ Tây Sơn “diệt Trương, phò Nguyễn”
5/ Tây Sơn diệt Nguyễn.
6/ Chúa Trịnh chiếm Thuận Hóa.
7/ Tây Sơn chiếm Thuận Hóa.
8/ Tây Sơn “diệt Trịnh, phù Lê”
9/ Tây Sơn gián tiếp diệt Lê.
10/ Tây Sơn Nguyễn Huệ (Quang Trung) đánh nhau với Tây Sơn Nguyễn Nhạc (Thái Đức).
11/ Chúa Nguyễn đánh nhau với Tây Sơn.
12/ Tây Sơn Nguyễn Quang Toản (Cảnh Thịnh), con vua Quang Trung, cướp thành, chiếm đất của Tây Sơn Nguyễn Nhạc (Thái Đức), giết các anh họ.
13/ Tây Sơn suy vong. (1800).
Chưa kể các trận đánh giữa Tây Sơn với quân Xiêm La, Tây Dương, Mãn Thanh… Chúa Trịnh Bồng đánh nhau với vua Lê Chiêu Thống. Mạc Thiên Tứ, con cháu Mạc Cửu chống quân Tây Sơn… Vua Cảnh Thịnh cấm và diệt đạo Thiên Chúa…
CHP:
Với 13 vụ loạn lạc đáng kể như thế, chỉ khoảng ¼ thế kỷ, từ năm 1876 tới 1800, cuộc đời Ngọc Hân Công Chúa hẳn nhiều sóng gió, thăng trầm?
NHN:
Từ một Công chúa triều Lê, tới Hoàng hậu, Hoàng thái hậu nhà Tây Sơn, rồi thành một người tù bị giam lỏng của triều đình Tây Sơn Cảnh Thịnh (Bảo Hưng). Bà Lê Ngọc Hân sinh năm 1770, mất năm 1779 tại Phú Xuân; hưởng dương 29 tuổi; góa chồng từ năm 1782. Hai con bà, Công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và Hoàng tử Nguyễn Quang Đức bị triều Nguyễn Gia Long giết năm 1881, 1882. Dòng dõi Nguyễn Tây Sơn bị tru diệt…
CHP:
Nói đến phân tranh là nói tới chia rẽ. Vì sao người mình thời xưa không đoàn kết được?
NHN:
Thưa anh, phải đoàn kết mới chống giặc ngoài được chứ! Lịch sử đã chứng minh, qua bao đời, về sự đoàn kết giữa vua, chúa, quan, quân, dân. Chỉ hay chia rẽ sau khi đất nước “sạch bóng quân xâm lăng”, hoặc bị”chia để trị”. Chỉ thường không đánh nổi kẻ nội thù, để đất nước hình thành hai giai cấp: Thống trị và nô lệ.
Giai cấp thống trị “chỉ tay năm ngón”, “ngồi trên, ăn trốc”, ngồi mát, ăn bát vàng”, “đục xương, hút máu”, “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”…
Giai cấp nô lệ thì:”Mài sừng cho lắm cũng là trâu”,”thấp cổ, bé miệng”, “con nhà sãi chùa lại quét lá đa”… Như hai câu thơ của Trần Ngọc Thụ thời này:
“Ông lão dưới ruộng đi bừa
Là con ông lão ngày xưa đi cầy”.
Hoặc như bài ca dao:
“Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cầy với ta
Cấy, cầy vốn nghiệp nông gia
Ta đây, trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa trổ bông
Thì còn ngọn cỏ ngơài đồng trâu ăn,”
Hy vọng “cây lúa trổ bông” được ăn thóc; ai ngờ thất vọng, trâu vẫn phải… ăn cỏ, như lúc chưa đi…cầy.
Mối tương quan tàn bạo giữa hai giai cấp: “Mạnh được yếu thua”, “già đòn, non lẽ”, hoặc “cá lớn nuốt cá bé”, “khôn sống, mống chết”, “miệng nhà quan có gang, có thép…”, “còng làm, ngay ăn”… Bởi vua, chúa là con Trời, Thần thánh (Thiên tử, Thiên đăng). Các quan lại là cha mẹ của dân (Phụ mẫu chi dân).
CHP:
Chế độ phong kiến ở nước nào chẳng vậy?
NHN:
Trong cuộc nhân sinh, Chế độ Chính trị chỉ là cành ngọn. Tư tưởng Chỉ đạo mới là gốc gác. Thời nào người mình không tôn trọng Chủ nghĩa Cộng sinh, thời ấy người dân, thuộc giai cấp nô lệ, rất khốn cùng…
CHP:
Thế nào là Chủ nghĩa Cộng sinh?
NHN:
Nền minh triết của dân tộc Việt, Cộng Sinh, gói tròn trong lời vàng, ý ngọc “bầu ơi, thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, thể hiện cái tinh thần “hòa nhi” mọi “bất đồng”? Cộng Sinh từ tư tưởng, ngôn ngữ, chủng tộc, đến giai cấp, nghề nghiệp, giới tính… Dù có “khác giống” vẫn “chung một giàn”. Việt nam Cộng sinh, là phải Cùng Sống, Sống Chung, mới hình thành được cái Đạo Làm Người “kính Trời, thương Người và yêu Đất”, cộng thêm lòng Từ ái của nhà Phật, Nhân ái của Khổng Tử, Kiêm ái của Mặc Tử, Bác ái của Thiên Chúa giáo để… Cùng Chung, Cùng Sống. Đấy là Tình Cảm. Còn Lý Trí? Phải thể hiện được Tinh thần Công bằng của Chúa Jesus và Thân tâm Bình đẳng của nhà Phật, trên nền tảng Nho học: Nhân, nghĩa, Lễ, Trí Tín, hoặc dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”… Khi anh em một nhà, bác cháu một họ không Cùng Sống với nhau được thì nhà Tây Sơn phải bị suy vong vì “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Hoa Đào Năm Ngoái hàm ý nhấn mạnh tới “thuyết “ Cộng Sinh.
CHP:
Anh muốn “lập thuyết” trong “tiểu thuyết” Hoa Đào Năm Ngoái, mà anh gọi là “văn chính sử”?
NHN:
Thưa không, chuyện ấy lớn lao quá so với sức tôi. Tôi chỉ muốn đọc lại lịch sử, tìm tòi xem vì sao mà:
“Bờ Nam, bến Bắc sông Gianh
Năm vua, một nước, tranh giành máu xương
Các quan lớn, nhỏ coi thường
Đời dân với lính trăm đường khổ đau!”
CHP:
Qua Hoa Đào Năm Ngoái, hình như anh muốn chống Tư tưởng Độc tôn, Độc trị, Độc tài, Độc đảng? Các thức “độc” đó xa lạ với Chủ nghĩa Cộng sinh?
NHN:
Anh còn nhớ định luật Murphy không, có từ năm 1949, cho thấy: “Nếu trong nhiều cách, có một cách sai, sẽ có người thực hiện cách sai đó”. Một con người, một dân tộc muốn sống “hạnh phúc”, phải được “độc lập”, phải có “tự do”. Muốn có “độc lập, tự do”, phải có sức mạnh của đoàn kết, vì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “khó bẻ cả bó đũa”. Chắc chắn đó là một định luật. Và một định luật khác: “Độc tôn, Độc trị, Độc tài, Độc đảng là gốc gác của mọi sự chia rẽ” vì những thứ ấy đều được nuôi dưỡng bằng “Chính sách Bạo lực, Ngu dân”. Tệ hại nhất là Chia rẽ Dân tộc. Nói gì lịch sử xa xưa, ngay thời nhà Nguyễn Gia Long đã thống nhất đất nước rồi, mà thi hào Nguyễn Du còn phải kêu lên về sự chia rẽ:
“Mùa thu khói sóng lộng ngời
cát bằng ngóng bãi biển trời nổi trôi
Hai bờ non nước chia đôi,
các triều đại cũ, mốc trôi giữa giòng
Vàng bay lá rụng khắp vùng
cỏ phơi xương lính lấp cùng lũy xưa
Người miền Bắc hết ganh chưa,
ba mươi năm trước ta vừa cùng Châu.”
(Trích “Đọc Thơ Chữ Nho Nguyễn Du” của NHN.)
CHP:
Như vậy chuyện đời Ngọc Hân Công Chúa chỉ là cái cớ để anh ngầm gửi một thông điệp nào đó?
NHN:
Thưa anh, tại sao chúng ta, như dân tộc mình qua bao thế hệ, ở đâu và lúc nào cũng mong muốn “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” mà ít nhất suốt trăm năm qua vẫn không thấy nước mình được “độc lập, tự do, hạnh phúc”? Một câu hỏi thường có nhiều câu trả lời. Nhưng câu trả lời nào được kể là ít sai nhất? Trong khi Ông Bà mình xưa từng dạy:
“Nên ra tay kiếm, tay cờ,
Chẳng nên thi chớ, chẳng nhờ tay ai
Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau!”
CHP:
Trong Hoa Đào Năm Ngoái có nói đến năm vua một nước Việt từ thời vua Lê Cảnh Hưng tới vua Gia Long. Chính sách ngoại giao của các vị ấy với Tàu ra sao?
NHN:
Thời vua Cảnh Hưng Lê Hiển Tông, 1717-1786, việc nội trị, đối ngoại đều do phủ chúa Trịnh nắm giữ. Họ Trịnh giành tước Vương, lập phủ Chúa từ năm 1545 tới năm 1787, 142 năm, sử liệu cho thấy chưa một chúa Trịnh nào tỏ ra ươn hèn trước quân phương Bắc. Khởi từ Thế minh khang vương Trịnh Kiểm, 1545-1570, tới Án đô vương Trịnh Bồng, 1786-1787, gồm 10 vị chúa Trịnh, không khiếp sợ “Thiên triều”.
Nhưng Lê Chiêu Thống, 1786-1787, tức Lê Duy Khiêm hay Lê Duy Kỳ… Thống đã dạy Lê Quýnh: “Ngươi từng dốc lòng với ta, việc nước cũng đã được quá nửa rồi. Vậy nay hãy cố gắng làm cho tròn công trạng trước, đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta, và thiên triều có chỗ quở trách được ta.”
CHP:
Đối ngoại: Đừng để “thiên triều có chỗ quở trách được ta.” Nội trị: “đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta.” Ngày nay thì kiểm duyệt Web, Blog.
NHN:
Chưa hết, Lê Chiêu Thống lại còn nói với Phúc An Khang, sủng thần của Càn Long: “Chúng tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?”
Thua cả cận thần Lê Quýnh, mắng nhà Thanh: “Đòi ta đến ngỡ là để giáp mặt mà bàn bạc, nay té ra lại chẳng bàn bạc gì, mà chỉ toàn bảo gọt đầu, gióc tóc và đổi đồ mặc. Chúng ta đây, đầu có thể chặt, tóc không thể cắt, da có thể lột, đồ mặc không thể đổi!”
Năm Kỷ Dậu, 1789, quân Thanh thua trận ở Thăng Long, Lê Chiêu Thống chạy theo Tôn Sĩ Nghị về Tàu; cố nài xin vua Thanh, nếu không đem quân sang nước ta lần nữa, thì “xin cho lại hai châu Tuyên Quang, Hưng Hóa để thờ tổ tiên, hoặc lẻn vào Gia Định để mưu đồ việc khôi phục, nhỡ có gặp sự bất trắc thì sống chết cũng liều.” Nhà Thanh không trả lại châu nào hết!
CHP:
Đó là dâng biếu không có sắc chỉ, công hàm…
NHN:
Còn vua Quang Trung đối với Tàu? Chiến thắng long trời, lở đất năm Kỷ Dậu, 1789, dẹp tan khoảng 20 vạn quân Thanh, bắt nguồn từ Tinh thần Yêu nước, Giữ nước qua Hịch Truyền Đánh Quân Thanh, quyết liệt:
“Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…” Nhấn mạnh tính chất Tuyên ngôn Độc lập ở chỗ:
Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”
Dân tộc Mãn bị Hán hóa. Còn dân tộc Việt chống Hán-Mãn hóa bằng cách đánh giặc Hán-Mãn để giữ gìn phong tục nước Nam, “nhuộm răng đen, không gióc tóc; để tóc dài, không cạo đầu và không tết đuôi sam”, không theo hủ tục bó chân như Hán Mãn Thanh…
CHP:
Còn vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh?
NHN:
Ngay lúc đang nhờ Tây Dương, nhà vua vẫn nhắc các cận thần: “Hãy đối xử tử tế với người Âu, nhưng phải hết sức tỉnh táo trước các tham vọng của họ.” Nhưng bộ Hoàng Việt Luật Lệ (tức Luật Gia Long hay Quốc triều Hình luật, gồm 22 quyển) đã lấy “gần như nguyên mẫu Luật Nhà Thanh”. Óc nô lệ Tàu khá nặng.
CHP:
Thưa anh, nói về “tính chất” vua chúa trong Hoa Đào Năm Ngoái như vậy tạm đủ. Còn “tính cách” của các vua chúa thì ra sao?
NHN:
Tóm lại;
1/ Thứ nhất, được làm vua, thua làm giặc.
2/ Thứ hai, vua hay giặc đều do mạnh được, yếu thua. “Được làm vua, thua làm giặc.”
3/ Thứ ba, mạnh hay yếu do thủ đoạn cao hay thấp.
4/ Thứ tư, chính và nghĩa chỉ là khiên với mộc, dẫu là kẻ cướp cũng cần nêu cao chính nghĩa.
5/ Thứ năm, chính nghĩa hàng đầu vẫn là nhân danh, ngụy danh.
Tất cả những ông vua đó, kể cả các vua Lê, cũng đều là “chư hầu” của nhà Thanh, bên Tàu, một thứ nhà Chu: “Coi tất cả đất đai thuộc về thần thánh, và họ là những đứa con của thần thánh vì vậy tất cả đất đai và dân cư đều thuộc về họ”. Tồi tệ nhất, là bệnh cậy công, kể công khởi từ ý nghĩ “đất nước này ta không chiếm, thì kẻ khác cũng chiếm”. Chiếm xong, tự coi đất nước như của riêng dòng họ, con cháu, phe cánh, bè đảng. Đúng là: “Giang sơn gấm vóc này không của riêng ai hết!”?
Dù “làm vua” chỉ là làm vương hầu cho các hoàng đế Trung Hoa, hàng năm thường phải triều cống kim thân, người bằng vàng, cùng thợ giỏi, gái đẹp…
Trời cho có nhân tài nào, nước ta phải đem triều cống, thời nào may còn vài nhân tài, đâu vực nổi nước.
Người tài của đất nước, như lúa giống giành cho ruộng đồng, hễ của anh nông dân này, thì anh nông dân khác nhổ sạch.
CHP:
Kể công gì?
NHN:
Công cầm đầu, lãnh đạo đất nước chống ngoại xâm, trong khi công ấy thuộc về toàn dân. Thời nào cũng thế!
Vương triều nào cũng nghĩ mình là chính thống.
CHP:
Anh cho biết rõ hơn về diều ấy?
NHN:
Tệ chính thống, độc tôn, độc đoán bởi “chính sự ở đầu thanh gươm, ngọn dáo”, như đã nói, theo lối mạnh được, yếu thua; cá lớn nuốt cá bé. Ý thức Cách mạng là già đòn, non nhẽ. Tiêu diệt triều đại trước, bằng bạo lực, và bị hủy diệt bằng bạo lực của triều đại sau.
Bạo lực nối tiếp bạo lực; ở giữa là bất công, với máu cùng nước mắt trăm họ. Không triều đình nào biết ơn dân, đã giúp mình, đánh thắng ngoại xâm; trăm họ sống cảnh “dịch chủ tái nô”, hết nô lệ giặc ngoài lại tới nô lệ thù trong. Nhà Lê, các chúa Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn đều vắt kiệt sức lực tinh thần, thể chất của dân, qua các cuộc binh đao, sưu cao, thuế nặng.
CHP:
Nhưng chủ trương của vua Quang Trung là:
“No ấm, đối với dân, là chính nghĩa. Yên vui, đối với nước, là chính danh. Giữ được yên vui, no ấm lâu dài cho dân với nước mới đáng gọi là chính thống.”
NHN:
“Chủ trương” là điều sẽ làm, chưa phải việc đã làm. Nhà vua còn mong muốn: “Thứ nhất, thống nhất bờ cõi; thứ hai, yên kẻ trong, nuôi kẻ ngoài; thứ ba, đưa cõi đời này lên cảnh thái bình.” Chính trị, kinh bang, tế thế, chỉ có ba điều ấy thôi. Tiếc rằng nhà vua mất sớm.
CHP:
Hình như bạo lực đẻ ra chính thống?…
NHN:
Từ khi có sông Gianh, chia đôi hai bờ Nam Bắc, thì nước ta không còn, nói rõ hơn là không còn tính chính thống; hoặc tính chính thống chỉ có trên giấy tờ. Chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều dùng niên biểu vua Lê, nhưng không ai buồn tôn trọng tính chính thống của nhà Lê. Tính chính thống, của các vua ta, do vua Tàu phong cho, cũng như nước “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”; mấy trăm năm, nhà Lê chính thống, triều cống hàng năm, mà nhà Thanh vẫn bỏ rơi Lê Chiêu Thống để chọn nhà Tây Sơn. Khi nhà Nguyễn Tây Sơn đổ, triều đình nhà Thanh lại coi nhà Nguyễn Gia Long là… chính thống.
“Gia Long cho người đem toàn bộ ấn sách nhà Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong vương.”
CHP:
Trong “tâm cảnh” và “bối cảnh” lịch sử thời đó, “tình cảnh” của dân chúng sống chết ra sao?
NHN:
Như đã nói ở trên, chính các ông vua, ông chúa, ông quan, ông tướng hình thành những tập đoàn nhiễm thói “nhà Chu coi tất cả đất đai thuộc về thần thánh, và họ là những đứa con của thần thánh vì vậy tất cả đất đai và dân cư đều thuộc về họ”. Khi nông nghiệp là chính mà nông dân không được quyền làm đất đai, thì điều gì sẽ phải xảy ra bởi “người cày không có ruộng nương”? Ngu, nghèo, đói. Đói, nghèo, ngu. Vòng oan nghiệp!
Chưa kể, nghề cầy, cấy hàng năm tùy thuộc vào trời, đất, mưa thuận gió hòa hay như nhà thơ Bùi Giáng viết:
“Nỗi niềm hè hạn, thu mưa
Là tâm sự của quê mùa nông dân!”
Dân cầy, thợ cấy, lính tráng bao đời trăm cay, nghìn đắng, đói rách tận cùng vì sưu cao, thuế nặng ; mất mùa, thất học, cùng nạn đục xương, hút máu của giới thống trị, mang tên vua, chúa, quan, tướng và quân “có công giữ nước.”? Giai cấp thống trị với mọi mưu thâm, thủ đoạn tàn độc, ác hại đều được dùng cho việc “giành dân, chiếm đất”, kể cả “cõng rắn về cắn gà nhà”.
CHP:
Dân chúng dưới thời Tây Sơn Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản (con vua Quang Trung) sống ra sao?
NHN:
Anh nghe thử vài đoạn của Hoa Đào Năm Ngoái:
“Trong thành Hoàng Đế cũng không đủ ăn. Bên ngoài, mất mùa; bên trong, quan, tướng ăn chặn lương lính; ở giữa, lính thường hay vào làng quấy nhiễu nhà dân; dân nghèo, chưa ngã bệnh, bỏ ruộng hoang, nhà trống rủ nhau đi ăn mày hoặc cướp bóc. Từng xâu dài tù binh đeo gông, đi qua cổng chùa Thập Tháp, nom tựa hồ như những bộ xương, nghe nói là họ sẽ bị đầy lên mạn Tây Sơn thượng, vùng rừng thiêng, nước độc để đốn cây, xẻ gỗ, đóng thuyền chiến và giường, tủ, bàn ghế cho nhà các quan. Nhiều dinh thự đêm ngày trổi nhạc, bắt con gái đẹp từ các vùng về làm hầu thiếp…”
Ngay tại kinh đô:
“Dân quê nghèo khổ rách rưới lũ lượt bỏ làng ra Phú Xuân, bu quanh các bến đò lớn, đông như ruồi. Ngày nào cũng có người chết đói. Trẻ con thiếu sữa khóc như mèo gào. Có người vớt cả bèo ăn, nhai gau gáu.” Nói chung: “Những vùng đất đang chiếm được thì dân tình quá khổ, vua quen xa hoa, quan lại tham nhũng, giặc cướp nổi lên, mất mùa, bão lụt…” Tới nỗi dn âvùng Tây Sơn còn mơ ước: “Bao giờ cho cả gió Nồm. Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra.”, vì đất Tây Sơn bây giờ không còn Tây Sơn Vương nữa!”
Dân chúng dù ở đâu và bao giờ cũng nghĩ:
“Ai làm vua, làm quan họ cũng chẳng cần biết, miễn họ được no ấm thôi.”
CHP:
Nạn tham quan, ô lại ra sao?
NHN:
Mỗi người chỉ mong sao tự cứu được mình; khỏi bị chết oan, khỏi bị bức bách, khỏi bị lăng nhục, tù đầy, khỏi đói khát; thời của quỷ… Triều đình Gia Định và Phú Xuân không cách nào diệt được nạn tham ô, buôn lậu, bóc lột dân… Phần đông vợ con, họ hàng các văn thần, võ tướng âm thầm làm những việc đó; họ đút lót cho bản nha, quan lại, đóng thuế nhiều cho các triều đình; chi cho vua quan, thì phải thu từ dân chúng; ngoài việc mua chuộc lính tráng, dưới tay họ toàn là bọn Ưng Khuyển, lưu manh. Không còn ranh giới “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”, cả hai như nhau, là một; lưu manh phất lên, có tiền, lại mua tước, tậu chức.
Dân của Nguyễn Ánh thì mong Tây Sơn vào cứu; dân của Tây Sơn thì chờ Gia Định ra cứu…
CHP:
Một cổ hai tròng?
NHN:
Khi phe Nguyễn Ánh giành dân, chiếm đất, chiếm được từ Hà Tiên đến Phú Yên; nhưng để dân chạy đi hết thì lấy ai cầy cấy, lấy đâu gạo thóc nuôi quân; lấy đâu người để bắt lính; nên quân Gia Định ra sức đuổi bắt lưu dân; phe Tây Sơn, ở thành Hoàng Đế, dàn quân ngăn chặn lưu dân, không cho vào Qui Nhơn, sợ quân địch trà trộn, sợ dân đói nổi loạn như thời Trương Phúc Loan… Bên đuổi bắt, lại bên ngăn chặn, chẳng bên nào giúp cơm áo, gạo tiền cho họ sống tạm qua ngày.
Dân chỉ biết than trời, oán đất, bồng bế, dắt díu nhau chạy tới, chạy lui… Lưu dân về làng cũ làm sao sống được giữa cảnh đồng khô, cỏ cháy?… Nhà nào ở Diên Khánh, Phú Yên có người trốn đi thì cả nhà còn lại bị trừng phạt theo lối “ngũ gia liên bảo”; chỉ người già mới được cấp thẻ bài, cho phép đi ăn mày; bởi người già không đi đâu được xa… Trái lệnh là bị đánh roi, gông cổ, đi phu, đi tráng đào hào, đắp lũy không công; đàn bà, con gái thì vào đội kiếm củi, thổi cơm, gánh nước hoặc làm trò chơi cho các quân doanh. Bị giết…
CHP:
Những cuộc tàn sát nối tiếp nhau trong Việt sử?
NHN:
Nội trong sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, của Ngô gia Văn phái, người đọc đã đếm được khoảng 150 chữ «giết». Khoảng 148 chữ «giết» trong cuốn Việt sử Tiêu án của Ngọ Phong Ngô Thì Sĩ; một chữ «giết», ít nhất chứa 30 năm, chỉ kể từ năm Tân Mão, 1771, đến năm Tân Dậu, 1801, Tây Sơn dấy nghiệp và suy tàn, ba mươi năm, bao nhiêu vạn người chết? Có tài liệu nói cỡ nửa triệu dân? Còn lính? Nỗi kinh hoàng, đâu chỉ ở số người chết oan, què quặt, mù lòa… chưa thấy sử gia nào ghi nhận, mà ở chỗ: Sau khi sông Gianh nối lại hai bờ Nam Bắc, lòng dân cả nước vẫn chia lìa Bắc, Nam!
CHP:
Anh cho biết thân phận người lính nước ta thời ấy?
NHN:
Trong bối cảnh lịch sử: “Nội nhà Tây Sơn đã ba vua, Nguyễn Ánh ở Nam Hà cũng muốn làm vua, thêm Giám quốc Lê Duy Cận ở Bắc Hà, cũng là một thứ vua. Một nước năm vua. Chỉ dân chúng là cùng khốn. Bắt cả trẻ con mười lăm, mười bảy đi lính. Sưu cao, thuế nặng, đi phu, đi phen liên miên…” … Phần đông họ, lính tráng, ở tuổi mới lớn, phải sống xa nhà lâu ngày; đời lính không biết sống chết lúc nào, đã biến họ thành những con người phần đông yếu ớt mà bề ngoài làm ra vẻ mạnh mẽ… Sự yếu ớt thường lộ ra rõ nét sau thời chiến: Mất lý tưởng Quốc gia Dân tộc, hình thành những Tập đoàn Thống trị, dựa trên bạo lực, cửa quyền, ăn cắp, ăn trộm và ăn cướp được gọi là tham ô, tham nhũng, lãng phí…
Nỗi cô đơn lớn nhất thuộc về dân chúng, bị bức hại trăm bề, không kêu cứu vào đâu được. Thuế má ngập đầu, thêm nạn đi phu, bắt lính, đất đai, gạo thóc bị thu gom, quan tham cùng lính ác múa gậy vườn hoang. Mọi chuyện tham ác đều vin vào cớ vì việc nước. Sức mạnh nằm trên đầu ngọn dáo… Đây là câu nói về vua, quan, lính, đầy tức giận của một ông già ở làng Bồng, ngoài thành Hoàng Đế, “… Lúc chống ngoại xâm thì quá tử tế, sau đó rất đểu cáng, coi dân không bằng gà, chó…”
CHP:
Hình như thời nào cũng có kiêu tướng, kiêu binh?
NHN:
Bởi thời nào cũng chiến tranh! Xin nghe, “ Trịnh Tông than: “Bức bách nhau thế này, thà đừng lập làm chúa còn hơn!” Kiêu binh càng xem vua chúa, quan quyền chẳng ra gì, càng thả cửa bóc lột dân chúng.
Không phe phái nào chịu học hỏi Tôn Võ Tử, ở chiến lược binh thư cao cấp, rằng: «Chiến tranh là sự hao tổn nguyên khí, vì vậy phải chấm dứt càng sớm càng tốt.» Lúc nào và ở đâu “người mình” cũng sẵn sàng đánh năm năm, mười năm, năm mươi năm, đánh tới bao giờ thua, thắng rõ rệt? Cả đất nước trở thành trại lính?
Nguyên khí Quốc gia là gì? Vua Lê Thánh Tông, 1442-1497, thì cho rằng: «Hiền Tài là Nguyên khí Quốc gia.». Chiến tranh giết hại nhiều người hiền tài.
Sự thật là như thế.
“Ai thắng ai” rồi cuối cùng cũng nô lệ giặc ngoài, bởi đất nước vẫn không thoát khỏi cái vòng thù trong: Ác, ngu, nghèo, bẩn. Bẩn nhất là Tâm thức Độc tài!
Cách mạng toàn… bánh vẽ.
CHP:
Có một cuộc Cách mạng Nông dân Tây Sơn không?
NHN:
Chỉ là cướp chính quyền. Bao nhiêu người lính trẻ chết trận. Bao nhiêu người dân lành tan cửa, nát nhà, thác oan để thay thế bằng một Trương Phúc Loan khác, là Bùi Đắc Tuyên, Thái bảo Mân của Tây Sơn, vẫn trò bóc lột, đục xương, hút máu người dân…
CHP:
Tại sao dân chúng trước thì nô nức theo nhà Tây Sơn, sau lại chán chường bỏ nhà Tây Sơn. Anh có thể cho biết về sự sai lầm lớn nhất của nhà Tây Sơn?
NHN:
Thứ nhất:
Khi dựng nghìệp, lấy của cải của nhà giàu phân phát cho người nghèo. Lúc cai trị, lấy của cải của người nghèo củng cố cho nhà giàu. Nhà giàu càng giàu thêm. Nhà nghèo càng nghèo đi.
Thứ hai:
Không thật lòng “phù (chúa) Nguyễn, diệt Trương (Phúc Loan)” và chẵng thật sự “phù (vua) Lê, diệt (chúa) Trịnh”.
Thứ ba:
Trong giòng họ Nguyễn Tây Sơn, cùng lúc, có hai vua: 1/ Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và Vua Quang Trung Nguyễn Huệ. 2/ Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản.
Thứ tư:
Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản trực và gián tiếp triệt hạ Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và hậu duệ. Giết hại các công thần Tây Sơn. Kỳ thị Nam, Bắc hà.
Thứ năm:
Triều đình Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản cấm đoán và tiêu diệt người dân theo đạo Thiên Chúa…
CHP:
Theo luật Hiệu ứng Cánh bướm Butterfly effect, Lý thuyết Hỗn loạn, thì một nguyên nhân này sẽ lan ra những nguyên nhân khác. Tạo thành một chuỗi những hậu quả chồng chéo, đan kết lẫn nhau? Anh nghĩ sao?
NHN:
Vâng, theo nhà Phật, mười hai nhân duyên, ở đời này không có gì đứng biệt lập cả, nhất là lịch sử. Thuyết Butterfly Effect của Edward Norton Lorenz thật đúng, khi nói về “Tính dự đoán được: Liệu con bướm đập cách ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?”.
1/ Vì Tây Sơn không “diệt Trương, phù Nguyễn”, sau khi diệt Trương lại diệt luôn Nguyễn, nên Gia Long Nguyễn Phúc Ánh buộc phải dấy binh báo thù, thế yếu, nhiều phen thất bại, cuối cùng phải nhờ Tây Dương…
2/ Vì Tây Sơn không “diệt Tịnh, phù Lê”, sau khi diệt Trịnh xong, lại diệt luôn Lê; nên An nam Quốc vương Chiêu Thống Lê Duy Khiêm buộc phải chống Tây Sơn, dẫn tới việc cầu cứu nhà Thanh.
3/ Vì một nhà hai vua, nhà Tây Sơn, vua Thái Đức với vua Quang Trung; vua Thái Đức với vua Cảnh Thịnh. Nên lúc nào một mình Tây Sơn cũng bị “đa đầu thọ địch”: Nhà Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, nhà Thanh, Tây Dương, sĩ phu và dân chúng Nam, Bắc hà…
CHP:
Cùng năm vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, vua Thái Đức mất Gia Định về tay Nguyễn Phúc Ánh. Anh cho biết vì sao Lê Chiêu Thống đã chạy sang Tàu?
NHN:
Tây Sơn trên danh nghĩa, không diệt Lê, chỉ đòi khao quân sau khi Tây Sơn có công diệt Trịnh. Khao quân bằng cách nhà Lê phải dâng đất từ Thanh Hoa tới Thuận Hóa. Trong khi Lê Chiêu Thống chỉ xin khao quân Tây Sơn bằng tiền bạc.
Hãy nghe tướng Tây Sơn, Vũ Văn Nhậm, nói với sứ giả: “Vua Lê đã không giữ nổi nước nhà thì các trấn từ Thanh Hoa trở ra, chúng tôi không lấy, người khác cũng sẽ lấy. Nghệ An là một mảnh đất cỏn con, cắt hay không cắt có quan hệ gì đến việc mất còn của nước nhà mà phải đi xa xin xỏ cho mất công trèo non, lội suối. Tôi chỉ e rằng con chim đã lìa tổ, đến lúc bay về lại không có cành để đậu nữa mà thôi!”
Trước đó, Lê Chiêu Thống đã viết một quốc thư, dài, khẩn khoản, có đoạn: “…Vả lại, hồi đó đã vâng lời quý quốc vương dụ rằng: “Quả là đất đai của nhà Lê, một tấc cũng không lấy”. Nay nếu khao quân bằng đất thì không bằng khao quân bằng của. Vậy xin tính số thu nhập hàng năm của đất ấy, dùng làm chi phí khao quân; rồi cứ hàng năm đưa đến biên giới, làm thành định lệ lâu dài. Xa trông quý quốc vương xét cho, để trọn tình hòa hảo của hai nước. Cả nước chúng tôi đều lấy làm may lắm!”. Đã chiếm Thuận Hóa, Quảng Nam, Quảng Bình, lại muốn chiếm tới Nghệ An của nhà Lê?
CHP:
Cầu cứu tới nhà Thanh là điên rồi!
NHN:
Vâng, cơn điên của một người, cha bị giết chết, kho tàng Thăng Long bị vét sạch, cô ruột lấy chủ tướng “giặc lông đỏ” Tây Sơn, chống mình; văn thần, võ tướng phủ của phủ chúa Trịnh, theo Tây Sơn, cùng với quan tướng Tây Sơn lấn quyền vua Lê…
CHP:
Ai vét sạch kho tàng của chúa Trịnh ở Thăng Long?
NHN:
Bằng trung công Nguyễn Hữu Chỉnh, người mai mối cho Nguyễn Huệ lấy Ngọc Hân Công Chúa, than:
“Bao nhiêu vật liệu, khí giới và các báu vật lấy được ở Bắc về, Thượng công đều thu chứa lấy. Vua Tây Sơn sai sứ thần tuyên triệu, Thượng công không chịu về triều. Mọi việc phong quan, ban tước và xử trí này khác, Thượng công đều tự tiện quyết định. Vua Tây Sơn sai người đưa ấn phong Thượng công làm Bắc bình vương và hỏi những thứ của báu lấy được ở phủ chúa Trịnh. Thượng công cũng chống lại không chịu dâng lên. Vua Tây Sơn giận lắm. Vì thế, anh em mới gây ra cuộc binh đao, ở trong một nhà mà đối với nhau còn dữ dội hơn là đối với nước thù địch.”(Hoàng Lê Nhất Thống Chí.)
CHP:
Lê Chiêu Thống tin vào Thiên triều nhà Thanh, sông liền sông, núi liền núi; môi hở, răng lạnh; mà thành Việt gian. Tưởng nhà Thanh chỉ giúp nhà Lê đánh Tây Sơn xong rút quân về Tàu. Anh nghĩ thế nào?
NHN:
Nỗi quốc nhục ấy, bắt nguồn từ câu nói, của Nguyễn Hữu Chỉnh, thưa với Nguyễn Huệ, sau khi vào Thuận Hóa mới là sự thật: “Nay ở Bắc Hà, tướng lười, binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả, ta thừa thế mà đánh lấy, như trong sách đã nói: “Chiếm nước yếu, đánh nước ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong”. Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ!” Hiệu ứng Cánh bướm!
Đằng sau những câu nói đó là tham vọng của những thanh gươm sắc bén về ngôi cao cùng vàng bạc. Nhưng ai cũng phải nói vì nhà vua và trăm họ; theo ý Trời. Đến nỗi Tôn Sĩ Nghị, tướng nhà Thanh, cũng vin vào Trời:
“Nước An Nam từ đời Hán, Đường, là đất phụ thuộc vào nước ta; đến đời nhà Tống, họ Đinh quật cường, mới trở thành nước tiến cống. Trải mấy đời nối theo nhau cho đến ngày nay, lại không thể giữ được nước. Hoặc giả trời khiến nước ấy lại làm quận huyện của Trung Quốc chăng?”(HLNTC.)
CHP:
Thời nào chẳng có Việt gian. Anh nghĩ sao?
NHN:
Xin nghe, An nam Quốc vương Lê Chiêu Thống đã nịnh hót giặc Tàu: “Đội ơn đại hoàng đế, đức cả như trời, không sao hình dung được cho hết. Lại nhờ cụ lớn hạ mình tới đây, khiến cho nước chúng tôi được thấy ánh sáng của áo cừu, đai ngọc, được thỏa lòng ngửa trông sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn. Mối tình vui mừng, kính mến, không sao kể xiết!” Cụ lớn là Tôn Sĩ Nghị.
Trẻ con, ở Thăng Long, đã truyền miệng câu hát:
Hư Cấu
Son sắt tình Việt Hoa,
mừng anh em một nhà.
Môi hở, răng lạnh cắn,
rách nát hết thịt da.
Bởi Tôn Sĩ Nghị đã vỗ về vua Lê Chiêu Thống:
“Chuyến này sang đây, giúp việc kinh lý, trước hết cần bắt cho hết đảng giặc, rồi sau chỉnh đốn quy mô, làm kế lâu dài. Bao giờ mọi việc đều muôn ngàn lần ổn thỏa rồi, bấy giờ mới rút quân, xin chớ lo gì về việc nước nữa.”
CHP:
Anh cho rằng Lê Chiêu Thống chủ trương liều mạng “thà để mất nước, chứ không chịu mất nhà Lê”?
NHN:
Có lẽ, Thống đã tâu:”Ba trăm năm nay, nước chúng tôi nhờ đội oai đức của thiên triều, đời đời giữ chức phiên phong, trong nước yên lặng. Chẳng may vận nước giữa chừng gặp buổi suy vi, vua trước qua đời. Nguyễn Huệ Tây Sơn là rể nước tôi, quên ơn bội nghĩa, nhân khi nguy biến, đánh người trong lúc có tang…»
CHP:
Dòng họ Nguyễn Phúc đã bị Tây Sơn bức bách?
NHN:
Sau khi diệt Trương Phúc Loan, lẽ ra Tây Sơn phải trả lại đất đai cho chúa Nguyễn; nhưng Tây Sơn Nguyễn Nhạc, muốn làm vua, dù đã gả con gái cho chúa Nguyễn Phúc Dương, vẫn thẳng tay diệt chúa Nguyễn, ném cả mồ mả của tổ tiên nhà Nguyễn xuống sông Hương.
Về sau, năm 1800, khi Nguyễn Gia Long thắng, thì:
“Quan quân nhà Nguyễn chú ý nhất là những mồ mả ở trong vùng đất Tây Sơn… Trên bờ sông Côn. Xương cốt đều ném xuống sông!” ongvove.wordpress.com/
CHP:
Nghe nói là mộ của Ngọc Hân Công Chúa cũng bị triều Nguyễn ném xuống sông?
NHN:
Phần “Biệt lục” của tộc phả Nguyễn Đính có ghi thêm, đại khái như sau: “Bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, vợ vua Lê Hiển Tông, thân mẫu của Công chúa Ngọc Hân, thương con gái và các cháu ngoại đều chết yểu nơi xa. Nên vào năm 1804, bà thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt của ba mẹ con rồi cải táng vào giờ Ngọ, ngày mồng Chín, 16-07-1804, tại bãi cây Đại hay bãi Đầu voi ở làng Nành, Ninh Hiệp.”
Năm 1842, dinh Thiết Lâm ở làng Nành, xã Phù Lưu, nay là Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội, “bị phá, nền dinh bỏ hoang thành đất công của làng, nhưng dân vẫn gọi là “Vườn Dinh” và dựng lên đấy một “Miếu cô hồn” kín đáo thờ Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Mộ thật của bà, vì có kẻ tố cáo, nên vua Thiệu Trị “sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy”.
CHP:
Công chúa, Hoàng hậu rồi Hoàng thái hậu Lê Ngọc Hân mà cuối cùng lúc mất đi, lại trở thành… kẻ ngụy! Ngoài dòng lịch sử, chắc anh dựng chuyện về bà Ngọc Hân qua các chặng đời kể trên?
NHN:
Vâng, xin nhắc lại, Ngọc Hân Công Chúa sinh năm 1770, mất năm 1779, hưởng dương 29 tuổi, với hai tác phẩm văn Nôm: Ai Tư Vãn và Văn tế Khóc chồng… Cuộc đời oan khuất với nhiều ngộ nhận. Thí dụ:
1/ Khi bà bằng lòng lấy tướng “giặc lông đỏ”, là Nguyễn Huệ, lại muốn đưa anh ruột là Sùng nhượng công Lê Duy Cận, (em trai Thái tử Lê Duy Vỹ) lên nối ngôi, sau khi vua Lê Hiển Tông mất; nên trong triều đình, đã có người lớn tiếng:
“Tự tôn (Lê Chiêu Thống, con trai Thái tử Lê Duy Vỹ) không được làm vua, thiên hạ ắt loạn. Họ Lê sẽ mất, ấy là lỗi tại Công chúa Ngọc Hân. Công chúa thực đã làm hại đến việc lớn của xã tắc, hãy xóa tên trong sổ họ đi, để cho công chúa về nước Tây Sơn mà yên hưởng giàu sang, họ ta chẳng thiếu gì một con người ấy!”
2/ Gia Long Nguyễn Ánh, sau khi chiến thắng Tây Sơn, đã thu “chiến lợi phẩm” Lê Ngọc Bình (vợ của vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quảng Toản), làm Đệ tam cung, gọi là Lê Đức Phi. Lê Ngọc Bình (em gái của Lê Ngọc Hân) sinh ra hai người con, thứ mười và thứ mười một, năm Gia Long thứ 16, 1781, được phong là Quảng Oai Công và Thường Tín Công. Lê Ngọc Bình còn sinh cho vua Gia Long một con gái, là Công chúa An Nghĩa. Nên dân gian mới truyền miệng câu ca dao, mà nhiều người hiểu lầm là Hoàng hậu Lê Ngọc Hân:
“Gái đâu có gái lạ đời,
Con vua, lại lấy hai người chồng vua.”
CHP:
Tôi nghĩ tới vở kịch “Ngộ Nhận” (Le Malentendu), của nhà văn Pháp Albert Camus. Lịch sử theo anh có phải là một vở kịch lớn, đầy rẫy những hiểu lầm?
NHN:
Câu hỏi khó quá, tôi không thể trả lời rốt ráo được. Trong lúc cố gắng tìm hiểu lịch sử nước ta, tôi thấy có nhiều “án oan”, thí dụ: Trường hợp vua Lê Long Đĩnh.
Lê Long Đĩnh ở ngôi có hơn hai năm, niên hiệu là Cảnh Thụy, 1007-1009, mất năm Kỷ Dậu, 1009, mới hai mươi bốn tuổi; nếu ngọa triều, chỉ nằm, không ngồi được vì bệnh hoang dâm, sao tới sáu lần đích thân làm tướng, cầm quân đi đánh giặc xa, gần hết sức gian khổ?
Lê Long Đĩnh, vị vua đầu tiên ở nước ta đã cho người sang Tàu, thỉnh kinh Đại tạng Phật giáo; trọng vọng các Thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt, cũng như các cao tăng khác. Người như thế mà mang tiếng ác.
Năm Đinh Mùi, 1007, vua Lê Long Đĩnh còn “sai Minh Xưởng và Chưởng thư ký, là Hoàng Thành Nhã, đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin Cửu Kinh và kinh sách Đại Tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả”. Cửu Kinh gồm kinh Dịch, kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Xuân Thu, kinh Hiếu, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ”; chín pho sách báu, mà sau đó nước ta dùng từ đời này sang đời kia; người như thế mà thiên hạ nghe theo lời cánh Lê Trung Tông, (anh của Lê Long Đĩnh), giành ngôi với em, phao tin, đồn nhảm… là “ngọa triều, yếu tới độ không ngồi được, khi thiết triều phải nằm, róc mía lên đầu sư sãi cho bắn máu tươi, bắt họ phải ăn mặn trước mặt mình”…
CHP:
Bịa chuyện hành hạ các nhà sư để kích động quần chúng, phải chăng là Chiến tranh Tâm lý Tôn giáo?

NHN: Gia Long Nguyễn Phúc Ánh cũng khai thác tận cùng việc Tây Sơn Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản: “Giết đạo Tây Dương, bắt các nhà sư đạo Phật đi lính, gieo thù, chuốc oán với dân thì sớm muộn cũng thua.”, “Cảnh Thịnh điên cuồng chống đạo, diệt đạo, lẫn lộn, cho đạo Tây Dương là giặc. “ Vì Tây Sơn thẳng tay bắt bớ, đánh đập, chém giết… Dân theo đạo, không chịu bỏ đạo, đành bỏ nhà, trốn vào rừng…
Mặc dù: “Bà dì của Ba Vua, tức ba anh em Tây Sơn, theo đạo Tây Dương, và thời Tây Sơn Nguyễn Nhạc chưa một nhà tu người nước ngoài nào bị bức hại. “
Việc tàn sát các làng đạo tại Bố Chính, Nghệ An, Thanh Hoa ngoài Bắc, đến độ người theo đạo “bị tẩm dầu vào mười đầu ngón tay hoặc đổ dầu vào rốn, châm lửa đốt; dân đi đạo thường bị treo ngược đầu nếu không chịu đạp chân lên tượng Chúa của họ, mà kẻ tra khảo bảo rằng đó là hình vua Tây Dương.”
CHP:
Thời này cũng chống các đạo nhưng tinh vi?
NHN:
Một hình ảnh đan cử thời “chống đạo”: Những người không chịu chối đạo, chạy trốn, nếu bị bắt, phải lãnh cực hình; chưa kể đến chân xiềng, tay còng, cổ đóng gông, mang đi bêu riếu khắp phố cùng với ảnh tượng và các đồ thờ đạo. Lính đi bên cạnh, luôn tay vung roi đánh đập. Nhiều người nằm chết rũ trên các đường đi. Thường thì họ bị trói giật cánh khuỷu, bẻ quặt hai tay ra sau lưng, liền một ngày nhịn ăn uống. Hoặc bắt đạp chân lên ảnh tượng và nói lớn, đạo Tây là đạo tặc…
Thật ra, việc cấm đạo đã xảy ra ngay lúc đương thời vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, vì nhiều vị cố đạo đã có mặt trong đoàn quân của Nguyễn Ánh. Vua Thái Đức từng khen ngợi “các họ đạo sống hiền. Cấp cả thẻ bài cho những người đi giảng đạo. Chỉ vài năm sau, chính vua Thái Đức lại cho rằng: Người theo đạo không tôn trọng lệnh vua, cũng chẳng tôn kính thần làng.”
Chiến tranh Tôn giáo, giữa Ta và Tây, từ đó mà ra.
CHP:
Có sự quá khích về phía ngoại nhân không?
NHN:
Ở nước ta thời ấy, hẳn có một số người Tây Dương đã đi quá trớn, ngoài việc giảng đạo là tốt; họ làm cho nhiều người theo đạo “nghĩ sai nhất rằng con đường của mình đi là đúng nhất”; họ khơi dậy lòng căm thù của dân đối với triều đình và bài bác cả những niềm tin tưởng trong lòng dân tộc đã sống hàng nghìn năm?
Nghìn năm người mình nô lệ Tàu, nhưng cũng là nghìn năm âm thầm tìm mọi cách để tách ra khỏi Tàu; từ cách đọc chữ Hán cho đến nghĩ ra chữ Nôm; nhuộm răng đen, ăn trầu, mặc váy, áo tứ thân, nón thúng quai thao, ca dao… Nhất là giữ đạo Thờ cúng Tổ Tiên! Chỉ có Tư tưởng Cộng sinh mới là Bản sắc Dân tộc Việt.
CHP:
Bản sắc Dân tộc mình theo Hoa Đào Năm Ngoái là Đạo Làm Người, Kính Trời, Thương Người và Yêu Đất. Anh muốn nói “Đạo” ấy là “Tôn Giáo”, tín ngưỡng, hay “Con Đường” để hòa hợp Thiên, Nhân, Địa?
NHN:
Thưa anh, chữ và nghĩa nước mình mênh mông, sâu sắc lằm. Có ở đâu mà lại: “Chữ Trung anh để thờ cha. Chữ Hiếu thờ mẹ, chữ Hòa thờ em.”?, ca dao, đó là đạo làm con, rồi còn đạo thầy trò, đạo vợ chồng … nữa. Đạo, vâng, là con đường. Song, thờ, đâu phải chỉ là một hướng đi như việc bà Ngọc Hân “thờ chồng, nuôi con”.
CHP:
Theo nhà văn Từ Trì, Paris: „Thơ mộng như “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng, chính xác như “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, nghiêm chỉnh như “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Gia Văn Phái, tác phẩm Hoa Đào Năm Ngoái của Nguyễn Hữu Nhật là chuyện tình tuyệt đẹp giữa một nàng công chúa Bắc Hà và một vị anh hùng gốc nông dân Đàng Trong trở thành một vị Hoàng Đế anh minh.“
NHN:
Tôi may mắn nhận được sự khích lệ kể trên. Cũng như sự khích lệ của nhà văn Trần Thị Diệu Tâm:
“Tác phẩm là một công trình nghiên cứu sâu rộng về lịch sử, chứa đựng nhiều tư tưởng và sự sáng tạo phong phú của nhà văn Nguyễn Hữu Nhật. Đó là một tác phẩm có giá trị văn học và giá trị lịch sử xứng đáng được trân trọng.“
Cuốn sau, “Trong Cõi Người Ta“, tôi viết về truyện đời thi hào Nguyễn Du, chắc sẽ dễ hơn Hoa Đào Năm Ngoái, vì có nhiều sử liệu.
CHP:
Chúng ta có thể nói chuyện tiếp về phần văn chưong của tiểu thuyết Hoa Đào Năm Ngoái?
NHN:
Cảm ơn anh, xin để cho dịp khác; tôi mong ước nhiều Quý bạn đọc sẽ đi vào tâm cảnh của Hoa Đào Năm Ngoái để cảm thương cùng Ngọc Hân Công Chúa.
Quý bạn đọc sẽ thấy vua Quang Trung vui mừng:
“Tôi xin kính lạy dưới bệ hoàng thượng vạn tuế! Ở nơi khe núi hẻo lánh xa xôi tới đây, há dám đường đột như vậy? Bây giờ may sao được bám vào cành vàng lá ngọc, thật là một mối duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Kẻ ở khe núi này xiết bao mừng rỡ.”
Và tìm câu trả lời, cho câu hỏi của vua Quang Trung:
“Vì dẹp loạn mà ra (Bắc), để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không?“ Có tốt không, là tính tình có tốt không, hay là theo nghĩa nào khác?
CHP:
Cảm ơn anh về buổi nói chuyện hôm nay.
NHN:
Xin gửi tặng tới Quý Bạn Đọc và anh bài tứ tuyệt của vua Hồ Quý Ly trong Hoa Đào Năm Ngoái:
“Dục vấn An Nam sự,
An Nam phong tục thuần.
Y quan Đường chế độ,
Lễ nhạc Hán quân thần.“
Và tôi cũng đã tạm chuyển sang tiếng Nôm:
“Người hỏi về nước Nam ư?
Y quan, lễ nhạc cũng như Hán, Đường!“
Văn minh Việt tộc không thua gì Hán tộc.

Hoàng Xuân Sơn
Ngỏ
Ừ! xem
sáu
tám
ngược đời
chữ ngất ngư
chữ
câu đòi đoạn câu
gọi rằng
lục bát nằm lâu
ể mình đứng dậy
thành
câu thơ
rời.

Bài cám ơn trên lưới
Cám ơn, vi vút một đường
tâm tư bằng hữu thắt rường cột ta
rộng thêm chút nữa, giang hà
tươi thêm chút nữa thịt da của đời
xin cám ơn, đẹp nụ cười
trăm câu thân ái ngọt lời ca êm
cám ơn người
cám ơn em
con sông lá thắm xuôi thuyền nhược vong
cám ơn chữ nghĩa một vòng
trăng thiêng cổ độ
hừng đông mặt trời
cám ơn vi tính, lạ đời
hong nhau bếp lửa nhìn khơi tị đào.

Nguyễn Tâm Hàn
Ái ngại
Xuân về tha thướt
Dáng xuân diễm kiều
Thương nàng tiên tóc dài óng mượt
Gót sen hồng tà áo xanh rêu

Hè tươi nắng đỏ
Má hồng thêm xinh
Ta mơ là vầng trăng sáng tỏ
Dìu bước em dạo khúc ân tình

Thu tàn lá phủ
Ngập lối chân em
Ta khô gầy như thân cổ thụ
Không tàn che bóng mát dịu hiền

Đông về tê tái
Theo gió heo may
Ngắm bước em đi về ái ngại
Ngẩn ngơ buồn, ngây ngất men say!

Âm vọng
Anh gọi Xuân về cho hoa trời bừng nở
Để cùng em tô hồng thắm trần gian
Cho hương thơm quyện hơi thở nồng nàn
Gió thoảng mát như lời em hiền dịu

Anh gọi Hè về cho chan hòa nắng chiếu
Để mắt em thêm rực rỡ long lanh
Như thiên hà lóng lánh ngập trời xanh
Ngưòi yêu hỡi . . . mắt nai ngời tinh tú

Anh gọi Thu sang hong tím mầu nhung nhớ
Để hồn anh tưới ngập mắt thu trong
Lá reo vui ôm quyện gót sen hồng
Hồn thoảng nhẹ như tiếng thu vọng lại

Anh gọi Đông sang kéo mầu mây hoang dại
Giăng ngập trời, thả tuyết trắng mênh mông
Ủ tình ta được đẹp đến vô cùng
Nét diễm tuyệt ngự đáy tim lộng ngọc

Anh đòi thời gian những lụa là gấm vóc
Của thuở mình từng bước đón đưa nhau
Trả những đêm cùng ngồi ngắm trời sao
Gió nhẹ thoảng, trăng huyền mơ diệu vợi

Anh bâng khuâng nghe lời tình réo gọi
Xoáy buồng tim, giọng hờn ngập không gian
Âm mơ hồ vọng tự cõi xa xăm
Tiếng réo gọi trả mình thời hoa mộng . . .

Hết Trầm Hương 2

TRẦM HƯƠNG SỐ 1 – Bộ mới

TRẦM HƯƠNG

Tạp Chí Văn Học Nghệ Thuật
Năm Thứ 6 – Bộ Mới – Số 1

Ban Biên Tập
Chủ nhiệm: Nguyễn Đức Nhơn
Chủ Bút: Túy Hà

Thông Tin Liên Lạc
tuyha81@yahoo.com
doanthachngoc@yahoo.com
In tại : Mr.Print Ần Quán

THI VĂN ĐÀN TRẦM HƯƠNG THỰC HIỆN

Trong số này

Lối vào (4) –  Trường Thy Khảo luận (7) – Yên Sơn Thơ (15) – Trần Yên Thảo Thơ, văn (19) – Nguyễn Thị Thanh Dương Truyện,thơ (26) – Phan Bá Thụy Dương Thơ (34) – Hải PhươngThơ (36) – Nguyễn Bạch Dương Thơ (40) – Ngô Nguyên Nghiễm Thơ (43) – Đoàn Thạch Ngọc Truyện (46) – Nguyễn Đức Nhơn Thơ (51) – Phạm Ngũ Yên Tạp ghi (52) – Tuấn Đình Thơ (68) – Nguyên Khoa Thơ (71) – Đàm Trung Pháp khảo luận (73) – Trần Nguyên Đán Thơ (79) – Phạm Tương Như Thơ (82) – Huỳnh Quang Thế Văn học(85) – Túy Hà Thơ (93) –Nguyễn Thế Giác văn (95)-Nguyễn Hữu Nhật Thơ (106) – Nguyễn Lập Đông Thơ (106) – Nguyễn Tôn Nhan Biên khảo (108) – Như Phong Thơ(115) – Phan Xuân Sinh Truyện (118) – Thái Bạch Vân Thơ (127) – Vũ Linh Đọc sách (130) – Lê Hữu Minh Toán Thơ (136) – Đoàn Thy Vân văn (139) – Lưu Thái Do Thơ– (144) – Xuân Bích Thơ (145) – Song An Châu Thơ, văn (148) – Tiểu Thu Truyện (153) – Lan Cao Thơ (170) – Vũ Tiến Lập Thơ (171) – Tuấn Trường Thơ (173) – Diễm Nghi Thơ, văn (174) – Vĩnh Tuấn Thơ (178) – Trọng Đạt Văn học (180) – Lã Mộng Thường Nhạc (192) – Phiêu Bồng Nhạc (193). Hà Lan Phương Nhạc (194) Cảm tạ (195)

Lối Vào

Viết đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu cho những đời lấy chữ nghĩa làm vui, và dĩ nhiên bốn mùa luôn xoay chuyển thì ý tình người cũng mộng ảo biến thiên. Nhưng thực tế muôn đời vẫn là phàm tục, nợ áo cơm thôi thúc từng giây. Người viết muốn trọn tình ngôn ngữ, muốn trải lòng tình tự quê hương thì luôn phải mượn hồn nhập xác như hằng đêm trên sân khấu, người diễn viên luôn phải thay vai… Lúc là vua quyền uy một cõi, lúc lính hầu khiên võng nặng vai. Kịch là đời và chính đời là kịch, mỗi một người là một diễn viên. Khi sinh ra, biết khóc trước cười là dấu chỉ cho một đời nhập cuộc, để thích nghi với toàn cảnh thiên nhiên nhất là lúc giao mùa chưa rõ nét mà ngoài kia lá đã chớm vàng.
Thu u uẩn như vầng trăng thiếu phụ,
Thu cũng là mùa cúc nở râm ran
Trăng nghiêng xuống nhuộm vàng lên xác lá
đời lưu vong nhớ quá mảnh sân nhà.

Trầm hương đã là một vuông sân có thật cho những đời lưu vong còn nhớ mảnh sân nhà, đã năm năm qua khởi đi từ vài người bạn già sinh tình tức cảnh lúc trà dư tửu hậu, tự hỏi còn gì sau những bôn ba mỏi mệt ở xứ người. Như ngẫu hứng lý qua cầu lỡ độ, thì thôi đành đem chữ nghĩa luận bàn, từ lý luận suông bàn thành thực tế và Trầm Hương thành một sân chơi. Tin lại thư đi, bằng hữu tụ về không thiếu, thì ra: ngựa hồ luôn nhớ ngọn bắc phong. Mỗi thân hữu góp một bàn tay với nhiệt tình rực lửa, không so đo tính toán, không phân biệt chuyên nghiệp hay tài tử mỗi một sáng tác thi văn đều chung dòng sinh mệnh, đem tâm tình làm phong phú chữ nghĩa nước ta. Ngôn ngữ Việt Nam tự nó đã là thơ là nhạc, là tiếng chim hót đầu hè, là tiếng đỗ quyên gọi hồn Thục đế, là tiếng gió ru trên bạt ngàn ruộng lúa, là tiếng gào thê thiết của hổ nhớ rừng. Tất cả là tâm tư tình cảm của những đời dân Việt lưu vong. Tất cả đã đến với Trầm Hương suốt năm năm dài không ngừng nghỉ, góp thêm hương sắc cho vườn hoa văn học Hải ngoại. Tự hào nhưng không tự tôn, tự ti nhưng không mặc cảm. Trầm Hương đã là một thực thể hiện hữu trong trái tim của những người còn yêu chữ nghĩa.
Thế nhưng, trên đường thiên lý làm sao không mỏi mệt, mộng ảo có biến thiên, mà sức người thì luôn luôn hữu hạn trước những đổi thay bất chợt của mưa lạnh nắng hè.
Nắng không ưa, mưa không chịu, thôi thì nối lại vòng tay đón ngọn thu phong, bước vào mùa trăng diễm ảo. Bằng chút tình chữ nghĩa vẫn có nhau.
Với chút tâm tư mơ hồ bảng lảng ấy, chúng tôi và những bằng hữu còn lưu luyến với Trầm Hương, quyết định tiếp bước dù khó khăn hạn chế mọi nẻo đường. Không bằng lòng với chính mình có nghĩa là luôn cầu tiến, biết quên đi những lời khen hoa mỹ có nghĩa là tự trọng. Người cầm bút chân chính là người không mang tính tự kiêu. Bởi vì tự kiêu chính là sát thủ luôn chực chờ để giết chết mọi tài năng.
Bạn đang đọc những dòng chữ này có nghĩa là bạn đang hà hơi tiếp sức cho chúng tôi tăng thêm nhiệt tình để sống, để viết, làm vơi đi nỗi buồn lưu vong.
Với tình hình phát triển không ngừng nghỉ của hệ thống điện báo toàn cầu thì việc in sách báo, tạp chí, tưởng chừng như lạc hậu và đang đến hồi giẫy chết. Thế nhưng thử hỏi bạn nghĩ gì khi cầm một ấn phẩm mới còn thơm mùi mực, và thử hỏi bạn sẽ ngồi bao nhiêu lâu trước máy tính cá nhân để đọc hết những trang điện báo nhất là đối với thế hệ lưu vong thứ nhất. Nhiều, còn nhiều câu hỏi lắm, vì thế không thể khen chê hay so sánh. Vì vậy Trầm Hương sẽ tiếp tục ấn hành như chút kỷ niệm lưu lại trong lòng những người Việt chân chính và hữu tình hằng quan tâm đến việc phát huy văn hóa Việt Nam nơi xứ người. Tuy nhiên bên cạnh đó để việc giới thiệu sáng tác mới đến đọc giả được hữu hiệu hơn và cũng có thể xem như một hồ sơ lưu trử tài liệu, chúng tôi cũng đã cố gắng thực hiện và mời Quý vị ghé thăm trang nhà: www.hoiquantramhuong.net
Vì không chủ trương thương mại nên mọi yểm trợ tinh thần cũng như vật chất của Quý thân hữu và độc giả sẽ là niềm khích lệ to lớn cho nhóm chủ trương. Xin nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của chúng tôi.

Trân trọng
Tạp chí Trầm Hương

Trường Thy
Vu Lan * Mùa báo hiếu
Hàng năm trên quê hương tạm dung, đất nước Hoa Kỳ này, người Việt ly hương chúng ta cũng đã hội nhập nền văn hóa Âu Mỹ trong ngày Mother’s Day (Nhớ Ơn Mẹ) vào tháng Năm Dương Lịch. Riêng phong tục Á Đông, phần lớn những người theo Phật giáo, đều cử hành long trọng lễ Vu Lan vào rằm tháng Bẩy Âm Lịch. Về hình thức cũng như thời điểm, hai lễ hội này tuy có khác nhau song chủ đích lại mang chung ý nghĩa: Nhớ ơn từ mẫu.
Vu Lan ngoài ý nghĩa là mùa báo hiếu của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, còn là dịp tế lễ thập loại chúng sinh, theo tục truyền còn gọi là ngày cúng cô hồn. Dân tộc Việt triền miên đau khổ qua bao năm dài chinh chiến, từ chống ngoại xâm phương Bắc đến tương tàn Bắc-Nam, hàng triệu dân lành vô tội phải thác oan trên chính quê hương mình. Chính do những cảnh tượng đó mà trước đây thi hào Nguyễn Du đã động tâm viết nên bài “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh.”
I. Chữ Hiếu
Nói đến Vu Lan là nói đến chữ Hiếu . Theo Linh mục L. Weiger thuộc Dòng Tên, một học giả nổi tiếng với nhiều biên khảo gía trị được nhiều người trong lớp độc giả trí thức và giáo sư Đại học xử dụng, chữ Hiếu gồm chữ lão (chỉ bậc cao niên) bỏ bớt nét, và chữ tử (con) ở dưới, ý nói con cháu phải tôn kính cha mẹ, tổ tiên. Ngoài ra còn một số kiến giải khác, trong đó có lẽ không thể bỏ qua lối giải thích từ nguyên của vị giáo sư thâm nho, nguyên là giáo sư Hán văn của Đại học Văn Khoa Huế, Saigon, và Viện Hán học Huế trước 1975, LM. Nguyễn Văn Thích. Theo ngài, chữ Hiếu kết hợp bởi chữ thổ (đất), nét sổ xiên từ phải sang trái tượng hình cái roi, và chữ tử (con), ý nói con chịu nằm xuống và để roi trên mình cho cha mẹ đánh là có hiếu. Lối giải thích này gần gũi với nền giáo dục Việt Nam ngày trước – Yêu con cho roi cho vọt/ghét con cho ngọt cho bùi.
II. Những quan niệm về chữ Hiếu
A. Quan niệm trong dân gian
Quê hương Việt Nam là nơi hội tụ của nhiều tôn giáo: Nho, Phật, Khổng, Lão, và Thiên Chúa giáo, ngoài ra còn một số tôn giáo có tính cách địa phương như Hòa Hảo, Cao Đài v.v.; do đó có thể thấy được dấu ấn tôn giáo nơi văn hóa truyền thống của dân tộc mà một trong những điển hình đó là Lòng Hiếu Thảo. Dân tộc Việt Nam vốn trọng luân thường, đạo lý, hiếu trung, nên trong kho tàng văn học truyền khẩu không thiếu gì những câu ca dao, tục ngữ đề cao đức dục, ví như:
– một lòng thờ mẹ kính cha
– cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Tinh thần hiếu đễ và mối liên hệ giáo huấn của phụ huynh đối với con em thật nồng thắm, đậm đà, nhất là khi song thân đã khuất bóng:
– chiều chiều ra đứng ngõ sau
– trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
hoặc:
– đói lòng ăn đọt chà là
– để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
và tình yêu thương dạt dào đã dẫn vào niềm tin tôn giáo:
– đêm đêm khấn nguyện đất trời
– cầu cho cha mẹ sống đời với con
Những tình cảm và nỗi niềm trên thật đậm đà trong qúa khứ, trên quê hương lũy tre xanh, đồng lúa vàng…, ngày nay hầu như lắng đọng trong mỗi tâm hồn viễn xứ, biết có còn lưu lại và thấm nhuần phần nào nơi thế hệ hôm nay và mai sau những hình ảnh và xúc cảm như Lưu Trọng Lư đã có lần viết lên trong “Nắng Mới”
– hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ
– hãy còn mường tượng lúc vào ra
– nét cười đen nhánh sau tay áo
– trong ánh trưa hè trước dậu thưa

hoặc như gần đây Ngô Minh Hằng còn nhắc nhớ với kỷ niệm ngàn đời khó phai trong những chiều hè và đêm trăng:
– ơi mẹ con ước gì sống lại
– những chiều phượng đỏ thắm hiên trưa
– những đêm trăng sáng tròn hơn vẽ
– tình mẹ trong từng nhịp võng đưa.

B. Phật giáo
Mùa Vu Lan đối với Phật giáo là mùa báo hiếu. Ngày xưa khi còn dưới thời Quân chủ, lễ lạc có khi được tổ chức từ trong triều đình ra đến ngoài dân gian. Năm 1434 vua Lê Thái Tông cho tổ chức Đại Hội Vu Lan vào rằm tháng Bẩy, mời các chư tăng đến tụng niệm. Với Phật giáo Vu Lan Bồn là phương pháp báo hiếu hữu hiệu nhất. Theo Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Vu Lan Bồn là phiên âm theo tiếng Phạn, có nghĩa bóng là cứu vớt người khốn khổ nơi cõi âm và giúp kẻ nghèo khó trên dương thế.
C. Khổng giáo
Quan niệm về chữ Hiếu đã rõ nét trong Kinh Thi của Trung Hoa, một bộ môn văn chương bình dân cổ mang dấu tích ca dao, tục ngữ Việt Nam với những câu nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất sâu sắc, điển hình như: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực…” (cha sinh ta, mẹ nuôi ta, hỡi ơi cha mẹ sinh ta cực nhọc, muốn đền đáp ơn sâu, như với lên trời cao chẳng cùng). Khổng Tử quan niệm chữ Hiếu rất cao. Trong sách Trung Dung ngài nói: “sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí giã” (thờ kính cha mẹ lúc qua đời cũng như khi còn sống, ấy là hiếu rất mực). Trong “Trung Quốc Triết Học Sử”, bác sỹ Hồ Thích cho rằng quan niệm của Tăng Tử đầy đủ hơn, nặng về tinh thần hơn: “Hiếu hữu tam: đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ thứ năng dưỡng” (hiếu có 3 điều: đại hiếu phải tôn thân, sau là không làm điều điếm nhục, sau nữa mới là nuôi dưỡng).
D. Thiên Chúa giáo
Trong 10 điều răn của giáo lý Công giáo, Điều Răn thứ Bốn dậy con cái “phải thảo kính cha mẹ”. Điều răn này đứng ngay sau 3 điều răn quy định việc thờ phượng Thiên Chúa. Người công giáo có truyền thống nhớ ơn tổ tiên và cha mẹ nên hàng năm dành nguyên tháng 11 để xin lễ, viếng mộ, và cầu nguyện cho những người đã khuất. Tháng này được gọi là Tháng Các Đẳng Linh Hồn và ngày 2 tháng 11 là ngày Lễ Các Linh Hồn (Fête des Défunts)
III. Gương hiếu thảo
Những tấm gương hiếu đễ trên toàn cầu cũng như riêng trong
cộng đồng người Việt thật vô vàn kể sao cho xiết. Từ ngàn xưa đến nay biết bao nhiêu lời ca, tiếng hát, những pho sách, những bài nói, những bức tranh họa ca tụng gương hiếu nghĩa trên cõi đời ô trọc này:

Đức Phật Thích ca lúc đang thuyết pháp tại Kantala ở Vương Xá, nghe tin phụ hoàng là Hoàng Đế Tịnh Phạn lâm chung, Ngài đã vội vàng về thăm và khi phụ vương băng hà, Đức Phật đã đích thân khiêng quan tài đến nơi làm lễ hỏa táng.
Đức vâng lời của Chúa Giêsu trước giờ chịu nạn đã nói lên lòng hiếu thảo. Người đã cầu khẩn: “xin Cha cất chén đắng này nhưng một theo ý Cha, đừng theo ý con”.
Thày Tử Lộ người nước Lỗ phải kiếm tiền nuôi mẹ bằng cách:
– thường khi đội gạo đi về
– xa xôi muôn dặm nặng nề đôi vai
Vua Lê Thánh Tôn, một hiếu tử. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại rằng khi Hoàng Thái Hậu còn sinh tiền, vua cùng Hoàng Thái Tử ngày đêm chăm sóc thuốc thang cũng như những bữa ăn, mọi thứ vua đều tự mình nếm trước. Đến khi Hoàng Thái Hậu băng hà, mọi việc khâm liệm vua cũng tự mình làm lấy để tỏ lòng đau xót.
Vua Tự Đức, những ngày không thiết triều đều dành để đến thăm mẹ là bà Phạm Thị Hằng (Từ Dũ), những điều mẹ dậy vua đều ghi chép cẩn thận vào “Từ Huấn Lục”. Vua Tự Đức cũng là người đã thực hiện ý nghĩa của chữ hiếu bằng cách lấy roi mây dâng lên mẹ và đặt trên trường kỷ rồi lặng lẽ nằm xuống nài xin tha tội vì đi săn bị mưa lụt không về kịp ngày kỵ của vua cha là Thiệu Trị.
Với các bậc trí thức, khoa bảng trước đây ta cũng thấy được những tấm gương sáng chói. Thi hào Nguyễn Du đã xây dựng và gửi gấm lòng hiếu thảo nơi vai Thúy Kiều trong tuyệt tác phẩm của mình. Tác giả cuốn “Lục Vân Tiên đã tỏ lòng người con thương mẹ lúc qua đời đến khóc mù cả mắt:
– hai hàng lụy ngọc ròng ròng
– tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu
– cánh buồm bao quản gió xiêu
– ngàn trùng biển rộng chín chiều ruột đau

Đến Nguyễn Trãi ta lại bắt gặp gương trung hiếu ở một khía cạnh có phần tích cực hơn, một cung cách báo hiếu đẹp lòng cha vô cùng, đó là ông đã vâng lời thân phụ là Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn Phi Khanh, thay vì khóc lóc theo cha trên đường bị quân Tầu bắt giải đi, quay về giúp vua Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh. Nguyễn Trãi còn để lại cho dân gian tập “Gia Huấn Ca” mang giá trị cao và thực tiễn về giáo dục.
Nói đến gương hiếu nghĩa thật ít ai không biết hoặc nghe nhắc tới Tôn giả Mục Kiền Liên. Ngoài ra ít nhiều gì phần đông chúng ta cũng đã từng nghe nói đền “Nhị Thập Tứ Hiếu” của Lý Văn Phức, một danh sỹ thời Nguyễn, gồm 416 câu thơ song thất lục bát. Để mở đầu, tác giả đã nói lên đạo làm người chữ hiếu là trọng:
– chữ hiếu niệm cho tròn một tiết
– thì suy ra trăm nết đều nên
để rồi kết luận:
– kể chi kẻ đạt người cùng
– lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân

Linh mục Trần Lục thường gọi là Cha Sáu, vốn là Khâm Sai Đại Thần dưới triều vua Tự Đức cũng đã để lại những tác phẩm trứ danh về giáo dục, trong đó có tập “Hiếu Tự Ca” gồm 1088 câu nói về chữ hiếu của người Việt Nam:
– mấy lời hiếu tự nói qua
– để cho ai nấy trẻ già nhớ ơn
– làm người sống ở thế gian
– ai không đội đức cao san nặng dầy

Chữ hiếu mà tác giả “Hiếu Tự Ca” đã chọn lựa là một bổn phận tình cảm dựa trên quan niệm phổ thông nơi đại chúng vì nền tảng ấy sẽ cung ứng nhiều phương án hợp tình hợp cảnh hơn.
Gương hiếu đễ không phải chỉ có ở trời Đông, mà trời Tây cũng nhiều, điển hình như Joseph Sadese quê ở Toulouse bên Pháp, nhà nghèo anh phải đăng lính để có tiền nuôi cha mẹ; hơn thế nữa anh còn tình nguyện sang binh đoàn Lính Viễn Chinh để lãnh trước tiền tử gửi về lo thuốc thang chữa bệnh cho mẹ. Khi bị thương cụt một chân vẫn xin ở lại lính để có phương tiện nuôi mẹ già. Mẹ mất anh đã ôm mồ mẹ khóc thảm thiết.
IV. Hình ảnh và tình mẹ
Trên thế giới cũng như tại quê hương Việt Nam có không biết bao nhiêu là kỳ quan, song có lẽ người mẹ Việt Nam là một kỳ quan đẹp nhất bởi tiềm tàng vẻ đẹp tinh thần, cái mà không gì có thể tàn phá, làm cho mai một đi được. Hình ảnh mẹ là tàn che cho đời con; phải chăng vì thế mà Balzac, nhà văn lớn của nước Pháp thế kỷ 18 đã nói: “Trái tim bà mẹ là nơi trú ẩn an toàn nhất, ở đó người ta luôn tìm thấy sự tha thứ.”
Trong tâm tư mọi người, mơ hồ hay hiện thực, hình ảnh mẹ vẫn luôn diễm tuyệt và trìu mến. Mẹ là nguồn cội mọi tình cảm. Hầu hết những bài hát ru con trong ca dao là lời của mẹ, một dòng nhạc khởi đầu và sau cùng của đời người. Mẹ chính là ca sỹ đầu đời đối với con mình, đã trao cho con những thanh âm ngọt ngào hòa theo tiếng võng đưa con vào nẻo đời tương lai. Mẹ cũng lại thường là người dắt con vào đời qua ngưỡng cửa học đường. Xin nghe Thanh Tịnh kể lại kỷ niệm ấu thơ: “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp…” Trong tác phẩm “Những Tâm Hồn Cao Thượng” (Les Grands Coeurs) của văn hào Pháp, Edmon de Amicis mà Hà Mai Anh đã dịch sang Việt ngữ, có đoạn nói: “Người mẹ sẵn lòng đem một năm hạnh phúc của mình để đổi lấy một giờ đau đớn của con. Người mẹ cũng sẵn sàng hy sinh tính mệnh để cứu sống con mình.”

V. Những lời tiêu biểu dành cho mẹ
Lưu Thái Dzo trên đường tìm về dĩ vãng ấu thơ, ngay bước đầu đã bắt gặp như một bỗng nhiên và tất nhiên:
– hình ảnh thương đầu là dáng mẹ
– ngồi bên song cửa đợi con về
– ba tháng hè con rời nội trú
– xa trường gần mẹ thấy vui ghê
Nếu trong chúng ta ai đã có công ngồi đếm xem có bao nhiêu bài thơ, bao nhiêu nét nghệ thuật nói về người mẹ, thiết nghĩ đừng quên những gì Lê Trọng Nghĩa đã viết: “Mẹ là tất cả ý thơ” và thậm chí “mẹ là thần tượng đền đài của con.”
Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ nên Mai Thanh Tuyền mới hát ru lên một nỗi niềm thiết tha:
– thương con mẹ hát nên lời
– con ru cháu mẹ cho vơi nhớ bà
Trong hoàn cảnh mọi tài sản vật chất cố hữu của con người dưới chế độ bạo tàn của Cộng sản Việt Nam đều bị tước đoạt, tinh thần bị o ép, kiềm tỏa, song tình yêu đất nước và lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, cha ông nơi những tâm hồn nhân bản không ai cướp đoạt hoặc khống chế được, điển hình là vị Hoà Thượng khả kính Thích Quảng Độ, dù đã xuất gia tu hành vẫn không quên những lời “Dâng Mẹ”:
– một chiều thu lạnh dâng bát cơm đầy
– tình nghĩa ấy, mẹ ôi! bao thấm thía
– phương trời này con ngậm ngùi rơi lệ
– đức cù lao muôn một trả chưa xong!
Ngược dòng thời gian để nghe Lưu Trọng Lư nhớ về mẹ trong “Nắng Mới”
– tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
– lúc người còn sống tôi lên mười
– mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
– áo đỏ người đem trước dậu phơi
Lời thày Tử Lộ than thở khi công thành danh toại thì phụ mẫu không còn, đã trở thành câu nói dân gian mà ta vẫn thường nghe, thường nói:
– mộc dục tịnh nhi phong bất đình
– tử dục dưỡng nhi thân bất tại
(Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng/con muốn báo hiếu mà cha mẹ chẳng còn).
Thời thơ ấu là chuỗi ngày hạnh phúc trong ngưỡng cửa gia đình, dưới sự dưỡng dục của cha mẹ; khi vào đời, xa rời cha mẹ mới thấy mình là ai, thấy đời mình ra sao:
– cơm cha áo mẹ ăn chơi
– cất lấy cơm người đổ bát mồ hôi
hoặc:
– cơm người khổ lắm mẹ ơi
– không như cơm mẹ chỉ ngồi xuống ăn
VI. Mẹ Việt Nam
Tiếng Mẹ đã mang âm hưởng rộng lớn trong đời sống người dân Việt. Khởi đi từ hình tượng nguyên sơ Mẹ Âu Cơ; nguyên lý Mẹ đã tiềm ẩn và thể hiện trong mọi sinh hoạt văn hóa, xã hội. Ta vẫn thường nói “Tiếng Mẹ Đẻ” (Mother Tongue), Quê Mẹ, Đất Mẹ, Lòng Mẹ, Mẹ Việt Nam v.v.
Nhà sinh vật học Konred Lorenz, giải Nobel 1973 cùng với nữ bác sỹ Marie Claun Bonsel, sau thời gian dài theo dõi và nghiên cứu đã đi đến kết luận là con vật mẹ không bỏ rơi con cái hay dành lấy thức ăn để sinh tồn; dù cực kỳ hiểm nguy thú mẹ vẫn lấy thân mình bảo vệ con. Dầu vậy thú vật chỉ có bản năng mẫu tử chứ không có tình mẫu tử như con người.
Lòng hiếu đễ đã hun đúc nên tâm tình, dân tộc tính của người Việt. Đó cũng chính là yếu tố nòng cốt giúp cho xã hội và gia đình Việt Nam trường tồn qua nhiều thế hệ trong môi trường Văn Hóa Mẹ đầy tính nhân bản.
Chỉ nói về mẹ không có nghĩa là bỏ quên cha. Nếu ta đã có “hiền mẫu” thì cũng có “từ phụ”. Mẹ ở đây mang ý nghĩa vừa hiện thực vừa tượng trưng cho cái chung, cho nguồn cội như khi Thanh Tịnh viết “Quê Mẹ” và như Hồ Dzếnh trong “Cảm Xúc”:
– Cô gái Việt Nam ơi
– nếu chữ hy sinh có ở đời
– tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
– cho lòng cô gái Việt Nam tươi
và như nét vẽ đậm đà về mẹ của Hiếu Đệ, như trong lời ca dạt dào tình thương bao la trong bản tình ca “Lòng Mẹ” của Y vân chẳng hạn.
Một trong những điều hiếu thảo hôm nay, nhất là nơi hải ngoại này, thiết nghĩ điều mà người Việt lưu vong chúng ta không nên, lại càng không thể lãng quên, đó là duy trì và phát huy văn hóa mẹ nơi thế hệ con em, bởi thánh nhân xưa có câu: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, “hậu” đây hiểu theo nghĩa là thế hệ Việt Nam nối tiếp vậy.

Yên Sơn
bóng trăng lệch khuyết bờ vai
chạy theo bảng chỉ đường
về nhà em mạn bắc
nơi em ở cách phố phường xa lắc
một khu rừng rợp bóng cả lối đi
chỗ của em, chẳng mấy thuở mấy khi
vắng hoa lá, thiếu chim muông ríu rít
chiều hơi sương mờ mịt
có ngàn thông reo vui
sánh vai nhau từng bước nhỏ rong chơi
dừng bên suối vẫy đàn nai ngơ ngác
tôi đứng lại nhìn bước chân đài các
mái tóc huyền óng ả ngập bờ vai
thương con nắng cuối ngày
như lụa vàng, heo hắt
cuối chân mây bóng ngày vừa chợt tắt
tay trong tay lưu luyến phút quay về
tự đáy lòng choáng ngập nỗi đam mê
và hương sắc đã làm tôi chao đảo
em thầm thì khẽ bảo
gió se lạnh làn da
tôi hôn em với tất cả thiết tha
lời run rẫy trong làn hơi đứt quảng
không biết bao lâu chỗ ngồi chợt sáng
khi vầng trăng lơ lửng vượt lên đồi
em ơi đã khuya rồi
giã từ bờ suối mộng
ngước lên cao nhìn trăng sao lồng lộng
đêm mênh mang, đêm rạo rực vô bờ
ôm chặt em vẫn cứ tưởng như mơ
nghe sóng vỗ trong biển tình dào dạt
gió rì rào, xao xác
lòng tràn ngập niềm vui
sáng tinh mơ em đã nhoẻn môi cười
ngày chưa đến mà ánh hồng rạng rỡ
nằm bên em nhưng lòng tôi đã nhớ
đến một ngày khi tôi phải xa em
ước chi đêm dài thêm
cho tháng ngày dừng lại
để nghe gió vờn hoa hát lời ân ái
cho mây ngàn dừng lại giữa đồi trăng
cho chú cuội nôn nao nói với chị hằng
lời tình tự dấu trong hồn se thắt
em bắt tôi nhắm mắt
với chăn quấn lên vai
dấu nụ cười trẻ con sau mớ tóc dài
kéo màn cửa cho nắng xuân tràn lên gối
một chú sóc trên đầu cành chới với
phóng lên cao khiến chim chóc giật mình
kìa giọt nắng lung linh
xuyên qua vuông cửa sổ
đến rồi đi cũng chỉ là duyên số
cũng một đời dài ngắn chỉ thế thôi
tôi yêu em, yêu chất ngất em ơi
như trời rộng bên ngoài khung cửa sổ

Trần Yên Thảo
Có một nhân vật không đến
Tin đưa từ một hãng thông tấn Nam Thái Bình Dương:
“Chiếc du thuyền của công ty ZL đã rời đảo Tích Lan lúc 13 giờ ngày… đem theo 604 hành khách thuộc nhiều quốc tịch. Họ sẽ ghé thăm hầu hết các quần đảo trong vùng Dông Nam Á, và sẽ đến Sài Gòn vào đầu mùa hè tới”

– Anh có tính trở lại thành phố đó một lần nữa không?
– Bất cứ khi nào cần. Tại sao chỉ giới hạn có một lần thôi
– Chắc em lẩm cẩm mất rồi.
Người đàn ông chớm về chiều, tên Huân. Người đàn bà cũng trạc cỡ đó. Không thuộc loại chim sa cá lặn nhưng cũng khá đài các, tên Khánh. Họ đang ngồi trên một thân cây ngã dài sát mé nước bờ bên này.
– Thật khó có ai ngờ được. Chuyện tưởng đã xương tàn cốt rụi. Gần ba mươi năm rồi còn gì.
– Ba mươi năm cũng chưa phải thời gian đủ để cho một cái gì đó chết hẳn. Cái chính là ở chỗ phải xử sự ra sao trước chuyện phải đến. Em đã nghĩ đến cách nào chưa?
– Cũng có, nhưng cách nào rồi cũng không ổn.
Qua chỗ này khúc sông như thu hẹp lại giữa hai bờ cát trắng và những khóm dừa. Nắng chiều se dịu trên những mái ngói rêu phong phía bờ bên kia. Huấn phẩy nhẹ đôi chân trong nước rồi ngâm hẳn hai bàn chân xuống đáy nước.
– Em có nghĩ đến chuyện tạm lánh một chỗ nào đó trong suốt thời gian anh ta đến không?
Khánh trố đôi mắt tròn xoe về phía Huấn
– Anh có nghe rõ điều anh vừa mới nói không?
– Không. Điều anh vừa nói không do cái đầu anh sai bảo.
– Người ta có thể lẫn trốn mọi người chứ làm sao trốn được chính mình. Hơn nữa, nếu anh ấy đã quyết tâm đi tìm thì còn sẽ trở lại nhiều lần nữa. Làm sao trốn được cả đời.
– Em thật là bình tĩng. Em không lẩm cẩm như em nói chút nào…
– Có nịnh em không đó.
– Có ai béo bở từ một câu nói nịnh
– Vậy mà triều đình nào cũng có nịnh thần hết.
Cả hai cùng cười nắc nẻ nhưng không tới một phút đã im bặt. Dòng nước đưa những khóm lục bình rất chậm, nhưng buổi chiều hình như xuống chậm hơn.

Tin giờ chót của một hãng thông tấn Tân Gia Ba:
“Vì các du khách muốn tham quan tỉ mỉ khu vực biểu tượng cung đình của các triều đại Trung Hoa xưa, nên chiếc thuyền phải lưu lại Tân Gia Ba thêm hai mươi bốn giờ nữa, và đã lên đường đi Nam Dương lúc 10 giờ ngày…”

Dòng nước vô tình đưa khóm lục bình tới sát chân Huân. Anh vói ngắt một cánh trao cho Khánh rồi tiện chân đẩy nhẹ khóm lục bình trở ra giữa dòng.
– Cứ để mặc cho nó trôi theo dòng nước không đẹp hơn sao?
– Kéo dài được đôi chút, nhưng rồi cũng kết thúc thôi. Chi bằng cho nó kết thúc trên tay em.
– Lại ẩn dụ nữa rồi.
– Ẩn dụ hả thì đã sao?
Khánh cắm cành hoa vào kẽ nứt của thân cây rồi đăm đăm nhìn màu tím. Buổi chiều tím. Chân trời tím. Hoa tím và một con chim bay lẻ loi.
– Anh ấy ngày xưa rất ít dùng ẩn dụ, chỉ nói thẳng ra điều suy nghĩ của mình.
– Em còn nhớ được điều nào không?
– Có một điều hình như anh ấy sợ em quên, nên cứ nhắc đi nhắc lại như một bài kinh nhật tụng: “Chiến tranh đã xô đẩy nhân loại vào những màu cờ sắc áo thù nghịch. Con người quá nhỏ không cưỡng lại được. Nhưng dù bằng thân phận nhỏ bé thế nào, chúng ta cũng phải sống bằng con người thật chính mình. Đừng để chiến tranh biến chúng ta thành kẻ khác. Chiến tranh lụi tàn rồi, chúng ta sẽ không phải mắc cở khi nhìn lại nhau”
– Quả thật, một cái đầu nhân loại. Rất tiếc là quá hiếm những kẻ như vậy.
Khánh gỡ cành hoa rũ thả trở xuống dòng nước. Đôi mắt Huân đăm đăm. Có thể là về một chân trời xa xăm nào đó, có người tình của Khánh. Cũng có thể về một tình huống ngang trái nhưng mà đẹp, chỉ còn cách anh trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng rồi lời Khánh cắt ngang dòng suy nghĩ không ranh giới của anh.
– Hình như anh chưa thấy ảnh của anh ấy?
– Chưa, nhưng ngày xưa anh ta thuộc binh chủng nào?
– Bác sĩ quân y.
– Anh ta về nước năm nào?
– Bảy hai. Lúc đó, anh ấy hết sức thuyết phục để đưa em cùng đi. Bọn em chưa hề có một sứt mẻ nào hết. Thực tình là em hoàn toàn không muốn đi.
Hai bàn chân Khánh được nhấc khỏi dòng nước. Mấy nếp da nhăn nheo vì ngâm quá lâu. Con chim lẻ loi bay trở lại, lượn một vòng trên mặt nước rồi thẳng cánh về hướng núi. Núi đã ngả màu lam. Huân như sực nhớ điều gì.
– Chắc chắn anh ta có để lại một lời hẹn?
– Chuyện đó thì đã hẳn. Nhưng anh ấy làm sao biết được những gì phải xảy ra sau lưng. Những đổi thay của sinh kế và chiến tranh. Rồi mất liên lạc. Em tin chắc anh ấy đã phải có một gia đình ổn định. Già tới nơi rồi còn gì. Bởi vậy nên em càng quyết tâm không tìm lại liên lạc. Thế rồi…
– Gặp anh?
– Như vậy đó…
Mặt trời chênh vênh ở đầu núi. Không gian sậm dần. Hai người lúc này gần như bất động. Nếu không có những mẩu đối thoại, người ta dễ tưởng hai pho tượng được đắp dính vào thân cây ngã.
– Khánh này
– Dạ
– Sao lâu nay em không dò tìm lại địa chỉ để viết thư cho anh ta, nói rõ hết mọi chuyện.
– Đã mấy lần rồi. Nhưng cứ ngồi trước giấy bút là em không tài nào bắt đầu được. Hay là… anh viết thảo giúp em đi.
– Không kịp nữa rồi. Hơn nữa, khi biết hết sự tình như vậy, anh cho là chuyện kết thúc cách nào cũng đẹp hết. Chỉ e mọi cái sẽ trở nên tồi tệ, nếu để anh nhúng tay.
– Nỡ để em chiến đấu một mình sao?
– Đừng dùng lời nặng quá. Ở đây chúng ta đều là những người tình đẹp, làm gì có kẻ thù. Im lặng.
Sự im lặng dù không giải quyết được gì, nhưng lời lẽ cũng có lúc vô dụng. Sự im lặng đã không thể kéo dài hơn.
– Có thật là anh chưa hề nghĩ tới một cách nào không?
– Cũng có đó.
– Sao anh không chịu nói ra?
– Có nên không?
– Cứ coi đó là điều suy nghĩ của em đi.
Chắc Huân cũng thấy đã tới lúc không thể không nói ra điều gì, dù điều đó sẽ đem lại tan nát cho một ai đó. Ngay cả cho chính anh thì, nó cũng là cái phải tới thôi. Anh không cần đắn đo nữa.
– Tại sao chúng ta không cùng đến Sài Gòn đón anh ta? Tại sao chúng ta không để cho mọi cái tự nó rõ ràng minh bạch và tự nó kết thúc khi gặp nhau.
– Anh có tiên liệu một kết thúc nào đó không?
– Bằng cách nào rồi cũng đẹp hết. Nếu anh ta nhìn nhận mối tình của bọn mình là điều đương nhiên của gần ba mươi năm thì, anh ta sẽ vui vẻ trở thành bạn của bọn mình. Còn nếu anh ta quyết tâm bảo vệ mối tình xưa thì, lòng thủy chung của anh ta cũng phải được trân trọng. Lúc đó anh cũng là bạn của hai người thôi.
– Liệu anh có lãng mạn quá không?
– Thì đã sao. Đâu có mối tình đẹp nào mà không được chấm phá đôi chút lãng mạn. Ngay cả những tan vỡ cũng nhờ đôi chút lãng mạn đó mà đẹp, người ta mới đủ sức chịu đựng được sự tan vỡ.
– Quả thật, anh lúc nào cũng dành mọi sáng suốt cho giờ chót.
– Chưa hẳn, nhưng ít ra chúng ta cũng không phải húc đầu vào tường như một cỗ máy không người lái.
– Như vậy…
Hai người sắp chìm vào bóng đêm. Không biết họ còn ngồi đó bao lâu.Tin của hãng thông tấn từ thủ đô Jakarta:
“Do tình hình chính trị nội bộ ở Nam Dương đang căng thẳng, chiếc du thuyền không ghé thủ đô Jakarta. Họ chỉ tham quan những vùng di tích núi lửa trên đảo Java rồi thẳng hướng Phi Luật Tân lúc 18 giờ ngày…”Tàu lửa đang qua cánh rừng cao su cuối cùng của miền Đông Nam Bộ. Phía trước xa xa, thấp thoáng phố xá của một thị trấn ga nhỏ. Mặt trời chiều le lói trên những mái vòm và tháp nước đồn điền. Huấn đang nhìn chăm chú những ngôi cổ mộ thấp thoáng dưới tàn cao su. Hình như lần nào qua đây anh cũng không quên những ngôi cổ mộ. Khi xoay người trở lại, anh bắt gặp đôi mắt mệt mỏi của Khánh.
– Em đau đầu hả?
– Không. Em chỉ mường tượng thôi.
– Điều gì?
– Cũng không rõ ràng. Nhưng mà…
– Thôi, đừng tự làm đau cái đầu mình. Hãy nhắm mắt một chút đi.
Huân khẽ ấn đầu Khánh ngửa xuống cánh tay mình đang gác trên thành ghế, rồi dùng tay kia xoa đều trên trán chị. Nắng chiều nghiêng nghiêng. Con tàu lướt nhanh. Rừng cao su giật lùi trước vận tốc.Tin đọc được từ một tờ báo phát hành buổi chiều trên đảo Mindanao:
“Vào lúc 11 giờ ngày…chiếc du thuyền bị một ngọn sóng thần đánh úp tại chỗ, khi sắp vào vùng biển Phi Luật Tân. Hơn nửa thế kỷ nay, người ta chưa từng thấy một ngọn sóng thần kinh khủng như vậy trên vùng biển Đông Nam Á. Những đoàn tàu và trực thăng được huy động kịp thời. Đã vớt và đưa đến nơi an toàn được 603 hành khách. Riêng hành khách 604 thiếu may mắn, hiện đang bủa lưới tìm xác. Hành khách 604 là nam công dân Mỹ tên Rob Hunter, sinh năm 1945 tại bang Ohio, Trung Mỹ. Có mặt trong chiến tranh Việt Nam trong những năm 60. Hai lần mất tích đều trở về an toàn. Hết nhiệm kỳ và đã hồi hương đầu thập niên 70. Sau nhiều năm thăm dò, lần này ông Rob quyết định theo chân một cuộc du lịch vòng quanh Đông Nam Á để trở lại Việt Nam, tìm người tình cũ đã gặp gỡ trong chiến tranh. Cho tới giờ báo phát hành, cuộc tìm xác chưa có tin gì mới”

Trước cái chết ngoài bố cục của nhân vật này, tác giả chỉ còn cách thu xếp cho đôi tình nhân kia một tâm trạng buồn vui lẫn lộn, trên đường trở lại thành phố biển.

Trần Yên Thảo
Chương Đài Liễu
Trong tao loạn đã đành rồi
Chôn vùi nhan sắc cho người tình chung
Còn chưa thoát nợ má hồng
Chân trời cố quận mờ trong yên hà

Ai về nước mắt mù sa
Hận ai bẻ liễu dời qua Phiên thành
Gối chăn tưởng đã tan tành
Ai ngờ liễu lại về xanh Chương đài.

Hoa cõi người
(Kính tặng Mãn Giác thiền sư)

Lời rằng lỗi nhịp cung đàn
Lạnh lùng thế sự đi ngang mái đầu
Lời rằng sào ngắn song sâu
Ai dò tận đáy bể dâu ta bà
Lời rằng xuân đến xuân qua
Mượn hoa nói chuyện gần xa cõi người.

Tượng đá sầu
(Kính tặng Tam Nguyên)

Đã già trước tuổi bạc đầu
Trăm năm một tượng đá sầu còn trơ
Chuyện đời bỏ lại trong thơ
Trái tim thời cuộc đừng rờ thêm đau
Mỗi khi chiều xuống ngang đầu
Càng mờ mắt lệ càng sâu nỗi buồn.

Chương Đài Liễu
(Kính tặng Hàn Hủ)

Trong tao loạn đã đành rồi
Chôn vùi nhan sắc cho người tình chung
Còn chưa thoát nợ má hồng
Chân trời cố quận mờ trong yên hà

Ai về nước mắt mù sa
Hận ai bẻ liễu dời qua Phiên thành
Gối chăn tưởng đã tan tành
Ai ngờ liễu lại về xanh Chương đài.

Hoa cõi người
(Kính tặng Mãn Giác thiền sư)

Lời rằng lỗi nhịp cung đàn
Lạnh lùng thế sự đi ngang mái đầu
Lời rằng sào ngắn song sâu
Ai dò tận đáy bể dâu ta bà
Lời rằng xuân đến xuân qua
Mượn hoa nói chuyện gần xa cõi người.

Tượng đá sầu
(Kính tặng Tam Nguyên)

Đã già trước tuổi bạc đầu
Trăm năm một tượng đá sầu còn trơ
Chuyện đời bỏ lại trong thơ
Trái tim thời cuộc đừng rờ thêm đau
Mỗi khi chiều xuống ngang đầu
Càng mờ mắt lệ càng sâu nỗi buồn.

Nguyễn Thị Thanh Dương
Một ngày đi khám bệnh
Tôi đẩy cửa bước vào phòng khám của bác sĩ. Đã có đông người ngồi chờ, tôi liếc mắt nhìn quanh ba dãy ghế xếp thành hình chữ U, không còn chỗ nào trống cả. Hầu hết bệnh nhân đều là người Việt Nam, họ đang râm ran nói chuyện trong khi bác sĩ chưa đến.
Cái hẹn của tôi là 11 giờ trưa, tức là ngay đầu giờ khi bác sĩ bắt đầu làm việc, thế mà những người này còn đến trước cả tôi, chẳng biết họ có hẹn vào giờ nào mà sẵn sàng đến sớm thế?.
Một chị bế đứa con đang ngồi ghế bên cạnh lên lòng mình và chỉ cho tôi cái ghế vừa trống đó:
Chị ngồi đây đi.
Tôi ngồi xuống cạnh bà mẹ trẻ, chị ta có hai đứa con, độ lên 5 lên 3. Ba mẹ con chị chiếm 3 ghế, nên chị nhường một ghế cho tôi.
Em trông chị quen quen, hình như có gặp chị ở đâu rồi thì phải? Bà mẹ trẻ bắt chuyện.
Tôi cố moi trí nhớ, vẫn không biết chị ta là ai.
Nếu vậy thì chúng ta đã từng gặp nhau ở chợ Việt Nam chứ ở đâu khác nữa? Tuần nào chúng ta chẳng đi chợ, hết tháng nọ đến năm kia, thì ai cũng “quen quen” hết.
Bà mẹ trẻ reo lên:
– Đúng rồi, chị nói em mới nhớ, em hay gặp chị đi chợ Việt Nam.
Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, đã 11 giờ mà bác sĩ chưa đến. Tôi thông cảm, bác sĩ cũng là người Việt Nam nên có quyền đi trễ theo “truyền thống” của đồng hương mình. Mỗi lần lấy hẹn đi bác sĩ này là tôi đã chuẩn bị cả thời gian lẫn tinh thần, vững lòng chờ đợi, và an ủi rằng mình lang thang trong shopping mall cả vài giờ còn được, huống chi là đi gặp bác sĩ để khám bệnh thì sự đợi chờ không có gì là phí phạm.
Nhưng bà mẹ trẻ bên cạnh thì có vẻ không kiên nhẫn như tôi, chị ta chép miệng than:
Giờ này mà bác sĩ chưa đến!
Thì cũng phải du di cho bác sĩ chút đỉnh, con người chứ có phải máy móc đâu mà đúng y chang cho được?. Một bà to mập bên ghế đối diện vọng sang, như một trọng tài bênh vực cho bác sĩ..
Bà mẹ trẻ phân bua:
Nhưng em chỉ sợ hai đứa trẻ không chờ đợi được thôi.
Bà to mập có vẻ nao lòng, xuống giọng thông cảm:
Thế hai đứa nó bệnh gì mà đi khám?
Dạ, không có đứa nào đau bệnh gì cả…
Bà mẹ trẻ ngừng lại vì phải hắt xì hơi, làm bà kia tò mò hơn, sốt ruột hơn:
Vậy mang tụi nó đến đây khám cái gì chớ? Hèn gì nãy giờ thấy hai đứa chạy đùa, nghịch như quỷ, phá như giặc!.
Bà mẹ trẻ đủng đỉnh tiếp:
Em bị bệnh, cảm cúm cả tuần nay chưa khỏi, em mới là người cần gặp bác sĩ. Nhưng không mang tụi nó theo thì ai trông cho?
Thì ra thế, những người có mặt ở đây biết đâu một nửa là đi theo người bệnh, chồng chở vợ, con chở cha mẹ già đi bác sĩ?
Bên cạnh tôi là một bà sồn sồn, nãy giờ ngồi im nghe chuyện người khác chắc đã chán chường, bèn mở túi xách lấy ra cái cell phone bấm lia lịa:
Hello! Hello!
Giọng bà lên cao, chắc để đầu dây bên kia nghe cho rõ. Bà nói chuyện rổn rảng, thoải mái như đang ở trong bếp nhà bà, toàn là kể chuyện Việt Nam, nào giá tôm, giá thịt, cá, xăng dầu, bà nói vanh vách y như bà mới ở Việt Nam ngày hôm qua. Quả thế, bà mới từ Việt Nam về, lại khoe ba tháng nữa sẽ trở lại Việt Nam dự đám cưới con cháu, rồi Tết này về chơi. Tính sơ sơ bà tốn bộn tiền vé, nền kinh tế nước Mỹ đang khó khăn, ngành hàng không đang ế ẩm, chắc cũng phải mang ơn bà khách nhiệt tình này.
Nói xong chuyện đường dài, đoán là tôi ngồi bên đã công khai nghe trọn gói, nên bà tiếp tục kể thêm cho đã:
Nhà tui quanh năm suốt tháng có đồ Việt Nam, cá khô, tôm khô, mắm cá, mắm tôm, cho đến trà, cà phê, không thiếu món gì, vừa rẻ vừa ngon.
Nghe nói đồ ăn Việt Nam có nhiều món độc hại lắm mà chị?
Nói vậy thì cả mấy chục triệu dân Viêt Nam lâm nguy hết sao? Chỉ vài món thôi, thiệt hại không đáng kể. Về Việt Nam thấy người ta vẫn chen chúc đầy đường đó.
Tôi thắc mắc:
Nãy giờ nghe chị nói chuyện phone đường dài thấy vui ghê, nhưng hôm nay ngày thường phone chị còn phút không? Coi chừng họ tính giá mắc đó.
Không sao, bên kia cũng dùng cùng hãng cell phone của tui nên free bất kể ngày đêm. Bởi thế đi đâu tui cũng mang theo cell phone để gọi chơi.
Sau vài câu, bà sồn sồn đã có vẻ thân với tôi, bà tâm sự:
Tôi qua Mỹ diện con lai, mấy đứa con tôi tuy không ăn học bằng cấp gì, nhưng tụi nó mỗi đứa đều làm chủ một tiệm nail cũng sống ngon lành. Tui ở nhà trông con cho tụi nó, hàng tháng có tiền hậu hỉ, nên đi đi về về Việt Nam thường xuyên.
Chúc mừng các con chị có công việc tốt, có gia đình đàng hoàng. Đâu phải cứ ăn học có bằng cấp này nọ mới là thành công.
Vậy mà về Việt Nam ai cũng hỏi con tôi có bằng cấp gì không. Làm như sang Mỹ ai cũng phải trở thành bác sĩ, kỹ sư vậy đó.
Sau phần tự khai, bà phỏng vấn tôi:
Còn chị sang Mỹ diện gì? Mấy con rồi? Có đi làm không? Hay là ở nhà trông con như cái chị có hai đứa con mang theo kia?
Chẳng phải mình bà sồn sồn mà hình như mấy bà khác nãy giờ hóng chuyện, cũng đang đợi câu trả lời của tôi. Theo như người Mỹ thì đó là những câu hỏi đi vào đời tư, nhưng người Việt Nam vốn hồn nhiên thân thiện, hỏi thăm nhau chuyện gia đình con cái, chuyện công ăn việc làm là thường tình, những điều này đâu phải chuyện quốc phòng mà cần giữ bí mật. Nghĩ thế nên tôi đáp đầy đủ như tờ khai lý lịch cho các bà khỏi mất công hỏi thêm chi tiết:
Tôi đi diện bảo lãnh anh chị em, có một chồng hai con, hiện nay đi làm hãng xưởng, con thì gởi baby sit người Việt Nam gần nhà vừa rẻ vừa tiện, kiếm thêm đồng nào hay đồng ấy.
Một bà khen nức nở:
– Chị biết nghĩ vậy là hay đó, chồng con được nhờ.
Bà bác sĩ bước vào phòng khám lúc đồng hồ chỉ 11 giờ 20. Mọi người tươi tỉnh hẳn lên và im lặng chờ đợi cô nhân viên gọi tên:
Lê thị Lý.
Bà mẹ trẻ vội vàng đứng dậy, nói với tôi:
Chị làm ơn để mắt trông hai đứa con giùm em một lát, khám xong em ra ngay.
Khỏi phải hứa hẹn, khám xong thì chị ra ngay chứ ở trong ấy làm gì. Ai mà không biết thế. Nhưng tôi vẫn phải từ chối vì giờ hẹn của tôi là người đầu tiên:
Tôi cũng vô khám bây giờ mà.
Bà trọng tài hồi nãy vội hứng:
Để đó tui coi cho, cứ vô khám cho thoải mái đi, ông nhà tui đi bác sĩ chứ không phải tui, nên rảnh lắm.
Dạ, cám ơn bác. Thôi em vào đây, hai con ngồi chơi coi ti vi, ngoan đợi mẹ nhé.
Nói xong chị Lý tất tả đi vào.
Tôi ra ô cửa sổ, hỏi cô nhân viên:
Tôi có hẹn lúc đầu giờ mà nãy giờ cô kêu ba, bốn người chưa có tên tôi?
Xem nào… chị là Nguyễn thị Bông chứ gì? Tôi tính gọi chị bây giờ nè, mời chị vào.
Nếu tôi không ra hỏi thì chưa chắc gì được gọi? Lấy hẹn là một chuyện, nhưng ai đến trước vẫn được gọi trước, cho nên người ta mới đua nhau đến sớm ngồi chờ như thế này. Tôi chẳng cần bắt bẻ hơn thua làm gì, ở đời nhường nhau một tí cũng không sao, tôi chỉ sợ cô nhân viên sai sót gì đó nên không có tên tôi trong danh sách khám bệnh ngày hôm nay mà thôi.
Nếu bên ngoài là cảnh đợi chờ phần 1 thì bên trong là phần 2. Sau khi cô y tá cho tôi lên bàn cân, đo áp suất máu, tôi vào một phòng trống, ngồi đợi bác sĩ.
Ngồi một mình trong phòng, tôi chưa kịp buồn chán thì đã được nghe tiếng bà bác sĩ và bệnh nhân ở phòng bên vọng sang:
Bác sĩ khám tổng quát và chích ngừa cho em để em về Việt Nam.
Bà bác sĩ cũng tò mò như tất cả những người đàn bà khác:
Ủa! Về Việt Nam làm gì mà năm nào cũng về?
Giọng kia nói như rên rỉ:
Bác sĩ quên rồi sao? Năm ngoái bác sĩ cũng hỏi em câu này, em nói rồi mà. Tại thằng chồng em, nó về, nên em phải về theo canh chừng. Bỏ nhà, bỏ công việc đi Việt Nam em rầu lắm. Nhưng không về thì trước sau gì cũng….mất chồng, con gái bên Việt Nam bây giờ trời thần lắm, gía nào cũng bám vô mấy cha Việt Kiều, bất kể gìa trẻ, xấu đẹp, handicap.
Bà bệnh nhân thật thà chẳng hiểu sự đời, một ngày bác sĩ khám và nói chuyện vặt với bao nhiêu người khách, về nhà bà còn chồng con, còn bao chuyện đời thường, thì giờ đâu mà nhớ hết những chuyện tào lao nơi phòng khám trong suốt một năm trời?
Mười lăm phút sau bác sĩ mới sang phòng tôi, hay đau bụng ngâm ngẩm là đau bao tử nhẹ, nên tránh suy nghĩ, lo âu, phiền muộn. Bác sĩ vừa hí hoáy viết toa thuốc vừa dặn dò thế sau khi đã khám bệnh cho tôi.
Bước ra ngoài tôi thấy ba mẹ con chị Lý đã ra về, còn bà to mập làm trọng tài đột xuất lúc nãy vẫn ngồi đợi chồng, các ông bà gìa về hưu thế mà hạnh phúc, đi đâu cũng có nhau. Bà rảnh rang nên thoải mái và bao dung ngồi đợi bác sĩ bao lâu cũng được, còn những người như chị Lê thị Lý kia, bận chuyện con cái, chuyện nhà, người ta xót xa từng giây từng phút đợi chờ là phải rồi.
Tôi chào thầm: “Thôi, bà ở lại thêm tí nữa nhé, thấy ai cần thì giúp đỡ, làm phước”.
Khách ngồi đợi vẫn đông, bác sĩ tha hồ làm việc và đồng thời tha hồ hốt bạc. Hèn gì ai cũng ước mơ con cháu mình học làm bác sĩ.
Tôi lái xe đến nhà thuốc tây của một người Việt Nam làm chủ, cách phòng khám bác sĩ không xa. Tôi luôn ủng hộ đồng hương khi chọn bác sĩ gia đình, chọn nơi mua thuốc.
Ông dược sĩ chủ tiệm là một người trung niên, vui tính. Người ta nói rằng ông không thích đi làm thuê, dù lương bổng cao, quyền lợi đầy đủ, mà thích làm chủ công việc của mình, giờ giấc tự do thoải mái.
Cửa hàng thuốc khang trang, rộng rãi, ông chủ tiệm sắm một bộ cờ tướng để qúy đồng hương ai rảnh cứ việc vô đấu vài ván cờ cho vui, nên luôn có kẻ ra người vào, luôn râm ran tiếng cười nói. Nếu khách không đánh cờ thì cũng ngồi rung đùi uống nước trà và tán dóc với ông chủ những khi vắng khách hàng mua thuốc.
Tôi vào gặp lúc dược sĩ đang bán thuốc, trong khi bàn ngoài có hai ông đang đánh cờ và mấy ông ngồi coi. Toàn là những ông tuổi xế chiều, tuổi về hưu, nếu không thì cũng đang bị lay off chưa có việc gì làm. Quanh quẩn ở nhà với vợ mãi cũng chán, nên đến đây giải trí cờ tướng hay nói chuyện trên trời dưới đất, mà không hề bị vợ xía vô, mắng át như ở nhà.
Tôi làm bộ ngây thơ, ngơ ngác hỏi dược sĩ:
Ở đây vừa là tiệm thuốc tây vừa là hội người già hả ông?
Hội hè gì. Đây là cửa hàng thuốc tây 100%, nhưng ai đến chơi cũng welcome.
Tôi ngợi khen và hứa hẹn:
Ông chủ thật là vui tính. Mười mấy năm nữa chồng em về hưu, chắc cũng sẽ đến đây góp mặt, anh ấy thích đánh cờ tướng lắm.
Một ông ngoài bàn cờ kêu lên:
Mười mấy năm nữa chồng chị mới về hưu thì chúng tôi đã vô viện dưỡng lão hay ngủm mất rồi.
– Bây giờ khoa học tiến bộ, điều kiện y tế cao, người ta khỏe mạnh và sống lâu hơn, các bác ạ.
Tôi mỉm cười chào mọi người, ra khỏi cửa hàng thuốc tây.
Ôi, đơn giản, tình đồng hương! Những người Việt Nam hồn nhiên và thân thiện, dễ dàng chia sẻ những câu chuyện buồn vui. Như chị Lý đi khám bệnh mang theo cả hai đứa con, làm như ở đâu có người Việt Nam cũng đều là hàng xóm của chị, cứ việc an tâm nhờ vả, gởi gấm con cái. Như bà đi diện con lai kể chuyện gia đình con cái, chuyện làm ăn cho một người lạ mới quen chưa đầy 5 phút, như người đàn bà than thở với bác sĩ chuyện theo chồng về Việt Nam…. Và như ông dược sĩ này, mở nhà thuốc và mở chỗ cho đồng hương ghé chơi.
Tôi cảm thấy lòng mình vui vui khi hòa đồng với những người đồng hương dễ thương đó.

TÌM EM TRÊN CÁNH ĐỒNG OẢI HƯƠNG.

(Cảm tác từ bài “ Oải Hương xứ nắng”
của Phan Trầm Thư trên báo TRẺ).

Đừng tìm em ở giữa phố đông,
Nếu ngày nào thấy vắng bóng em,
Những con đường em thường qua lại,
Em đã xa rồi. Tạm lãng quên.

Tìm em trên cánh đồng Oải Hương,
Đất trời bát ngát một mùi thơm,
Anh ơi, những cánh hoa màu tím,
Đã rủ em về từ tháng Năm.

Màu tím dịu êm đến nao lòng,
Em như say rượu giữa hư không,
Chếnh choáng vì sắc màu hoang dã,
Hoa Oải Hương nở khắp cánh đồng.

Nắng tháng Sáu cho hoa đẹp xinh,
Mùi Oải Hương ngây ngất gợi tình,
Làm ơn tháng Bẩy đừng qua vội! *
Hoa sẽ phai hương, sắc sẽ tàn.

Em bước đi bên những bụi hoa,
Chạy dài thẳng tắp cõi trời xa,
Trên cánh đồng em là cơn gió,
Chẳng biết mỏi chân, chẳng nhớ nhà.

Hái những cành hoa để tặng người,
Cỏ khô buộc lại bó hoa tươi,
Chỉ là một món qùa đơn giản,
Của tình em và của đất trời.

Em sẽ ngủ trên cánh đồng này,
Khi hoàng hôn khép lại đâu đây,
Mùi Oải Hương vẫn còn thao thức,
Trên tóc em và trên ngón tay.

Tìm em trên cánh đồng Oải Hương,
Em như trong một chuyện hoang đường,
Chìm trong hoa, mùi thơm kỳ ảo,
Anh chẳng thể nào nhìn thấy em.
————————————–
* Hoa Oải Hương(Lavender)
bắt đầu nở từ tháng Năm tới tháng Bảy.

Nguyễn Bạch Dương
CÂY ĐÀN BỂ

Anh ngồi dưới gốc cây cau
Để nghe vọng tiếng lá trầu gõ mưa.

Để coi con bướm về chưa
Mà bông hường nở từ trưa tới chiều.

Anh ngồi xuống, đợi tịch liêu
Mưa hòng lượm tiếng lá chiều cuối sân.

Xòe tay anh mãi tần ngần
Nắm buông lời cũng tuột dần kẻ trơn.

Ngoái nhìn lại. Thấy thiệt hơn
Mới hay em đập bể đàn Thạch Sanh.

VỀ NÚI

Theo em về phố núi
Đuổi bắt những ngày mưa.
Tìm mối tình đánh rớt
Từ một buổi nắng trưa…

Đường Xương Rồng hoa đỏ
Thềm nhà kia gió bay
Chiếc lá vàng tội nghiệp
Lăn lóc giữa ban mai.
Như anh về đêm tối
Đi tìm hương Ngọc Lan
Như anh từ cơn gió
Đi tìm chốn mưa mau.

Theo em về phố ấy
Anh tìm lại anh xưa
Có chăng dòng suối vắng
Hát nhỏ lời vô tư
Có chăng dòng thác đổ
Phủ ngàn đá xanh rêu
Khi đời anh bủa ngập
Lạnh rót xuống mưa chiều.

quán café mỵ nương
Khi cúi xuống, gặp một vầng trăng vỡ
Rớt vào ly lấp lánh một nỗi buồn
Có bến nước, có con đò lặng lẽ
Trôi lênh đênh theo mắt ngó mỵ nương.

Trái tim ngọc đựng một vầng trăng bạc
Nước mắt vui sao vỡ được tình người.

Chỉ là khách qua đường anh ghé vội
Sẽ mang theo đuôi mắt ướt mỵ nương
Còn nước mắt chao nghiêng xin gởi lại
Để mai kia khóc vỡ cuộc tình buồn.

Lời tượng đá
Tiếng ai ngoài ngõ trêu tôi ấy
Ồ không, không chim hót giữa ban trưa
Chiếc lá chao mình rơi thật khẽ
Chạm vào nỗi nhớ lúc xa nhau.

Em ở tuyệt mù làm sao biết
Tôi vừa hóa đá lúc trưa nay
Em ở tuyệt mù làm sao thấy
Tượng đá buồn tênh, giọt lệ đầy.

Ngô Nguyên Nghiễm
Trước Thánh Tượng
Quán Thế Âm Bồ Tát
Ma Ha Tát
1.
Hàng vạn tinh cầu bão lửa
Nhểu xuống kim thân cổ Phật
Lành thay, giữa lộ thiền khuông Việt
Vi vu nghe diệu pháp thiên thu
Đâu đây xào xạc tiếng rừng tre
Xập xòe luân xa khổng tước.

2.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Vi âm nhẹ bước qua tim
Buông thân năm vóc phong trần

Sao thấy nhẹ nhàng như bấc
Gió bước trên lưng tia chớp
Chập chờn móng bạc mọc ngang mày
Bảy sắc cầu lộng lẫy xuyên mây

Tự viện hôm nay đông lữ khách
Chúng sinh vác ngược cuộc đời
Trái khổ đau rơi rụng lưng trời
Cát bụi võ vàng vó ngựa

3.
Thời gian cứ trôi đi nghiêng ngửa
Có – không khoảnh khắc vô tình
Trận lá vàng rắc kín quanh hồn
Hay sắm sét chạy quanh báo nghiệp
Trời đất mang mang vạn kiếp
Gởi sầu xưa lên áo thánh nhân

Bốn bề nhặt hạt kinh tâm
Trái chưa kín lộ thiền Khuông Việt
Gió cứ thổi và mây phiêu bạt
Thương mười phương vũ trụ oằn vai
(Gánh khổ đau như thể hoang thai
Xơ cứng đơn điền quỷ đói!)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Chảy đầm đìa ngọn tháp Pháp thân…

4.
Khách chập chờn qua núi đá ngàn năm
Quang quả giữa không gian mật pháp
Nếu được gối đầu lên tia chớp
Thà hưởng một lần ánh sáng tâm kinh

Thiền viện ngập đầy tín hữu vong niên
Chất ngất túi ưu phiền gió bụi
Nắng lửa, mưa cường toan đánh bẩy
Hồn chim xanh ký gởi thượng sư…

5.
Cầu vòng ẩn hiện xuống thiên thu
Hoa cỏ nở cạnh người phiêu bạt?
Lạ thay giữa con đương Khuông Việt
Mà thiền sư mấy bước oằn vai
Khổ đau đâu thể hoang thai
Gá ép nặng đơn điền ngạ quỷ?

Bước qua một đời đáo tuế
Có – không như sấm giật ngang mày.

6.
Thánh tượng chập chùng dưới bóng mây
Vẫn chạnh lòng xót đau trăm họ
Giữa thiền viện buồn thay nắng lửa
Mưa cường toan vây kín bản lai
Quá giang chưa hết đường dài
Pháp thân xót xa lục đạo

Vai đeo túi tử sinh hư ảo
Hồn chưa xanh ký gởi thượng sư…

Xuân Du
Mắc Cạn
Gần một tháng nay, chiều nào ông cũng ra ngồi trên chiếc sạp ghép bằng gỗ thông kê ở gốc me sau nhà. Ông ngồi bất động. Nét mặt buồn hiu. Đôi mắt đăm đăm nhìn về hướng núi Ông cho đến khi những đám mây đen trên đầu núi tan hết ông mới lủi thủi trở vào nhà. Nơi ông ở là một vùng nước trời nằm về phía tây tỉnh lộ 8. Những năm gần đây thường xẩy ra hạn hán, mất mùa. Con suối sau nhà, nguồn nước duy nhất có thể dùng để cứu những thửa ruộng của ông cũng đã khô cạn, chỉ còn đọng lại những vũng nước đã ngả màu vàng sậm. Những con cá lòng tong mắc cạn ngoi ngóp trên mặt nước trông thật thảm hại. Đám bắp trồng ở miếng đất trước nhà, nguồn hy vọng duy nhất giúp gia đình ông giải quyết lương thực cho đến ngày giáp hột cũng quíu cờ héo rụi. Ngày ra tù, ông đưa vợ con từ vùng kinh tế mới trở về sinh sống ở cái làng nhỏ bé này, vì đây là quê quán của ông, nơi mà chính quyền bắt buộc ông phải cư ngụ trong thời gian còn “quản chế”. Trong số những người bà con thân thuộc, cũng có người muốn giúp ông nhưng một phần vì ái ngại, không muốn thân cận với một người tù “cải tạo” mới về. Một phần vì chính gia đình họ cũng đang lâm vào hoàn cảnh khốn khó bởi những năm hạn hán mất mùa. Trước những khó khăn chồng chất không còn lối thoát, ông phải thực hiện một quyết định táo bạo là đùm túm cả gia đình chạy vào Long Khánh nhưng bị bức tường “hộ khẩu” chắn ngang, đành dội ngược trở về với hai bàn tay trắng. Để rồi từ đó, chiều chiều ông lại ra ngồi dưới gốc me ngó về hướng núi Ông. Những đám mây đen chợt tụ chợt tan như một trò chơi trêu người quái ác. Loài người tàn nhẫn với ông. Thiên nhiên cũng tàn nhẫn với ông…

Nhà ông cách thị xã Phan Thiết không xa, chỉ hơn 6 cây số, nên ông thường đạp xe đạp xuống thăm mấy người bạn tù đang sống trong cái thị trấn nhỏ bé, buồn hiu này. Trong số bạn ông, có những người rất thiết tha với tình nghĩa bạn bè. Nhưng cũng có người (may mắn có chút ít thu nhập) thì lại thờ ơ lãng đạm cho dù ông chưa hề mở miệng nhờ cậy họ bất cứ một điều gì. Từ đó ông thường làm bạn với núi rừng. Ông theo những người trong làng lên núi phụ họ đốn củi hầm than (như một hình thức vần công) để nhờ họ chở về, khi thì năm bảy cây tre, khi thì vài ba bó củi. Cũng may, trong lúc sống dở chết dở thì một người cháu ruột ở Sài Gòn giúp ông một số tiền đủ để sắm một cặp bò già và một chiếc xe bánh cây cũ kỹ. Từ đó ông thường lên núi một mình với một xị rượu, một ít gạo và năm ba con cá khô. Cuộc sống đơn điệu buồn chán ấy tiếp tục hành hạ ông sau những năm tù nghiệt ngã.
Chỗ ông ở cách núi Ông khá xa nên thường bắt đầu những chuyến đi vào lúc xế chiều, khi mà ngọn gió mùa đông bắc từ biển đông thổi vào mạnh nhất, dấy lên một vùng khói bụi mịt mù. Nhà thơ Huỳnh Hữu Võ tả cảnh này chỉ bằng một câu thơ mà mỗi lần đọc lên ông cảm thấy buồn da diết …tháng giêng gió thổi mù như khói…!
Chiếc xe thong dong lăn bánh dưới ánh nắng chiều chói chang gay gắt. Ông ngồi tựa vào hông xe, ung dung thoải mái như một khách nhàn du, mặc cho hai con bò già an phận kéo chiếc xe qua từng thước đường như một nghĩa vụ thiêng liêng mà loài người đã áp đặt lên nó từ cái thời xa lắc xa lơ nào đó. Hai bên đường lác đác năm ba căn nhà lợp tôn cửa đóng kín mít. Những con chó già ốm nhom nằm ngủ trước nhà cũng giật mình ngước mỏ sủa vu vơ. Những con bò thả rong đi lang thang trên cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ. Ngọn gió mùa đông bắc mang theo mùi khói đốt đồng quét vào người ông rát rạt.
Nhìn cảnh vật xác xơ nơi đồng khô cỏ cháy dưới ánh nắng chiều chói chang khiến ông nhớ lại căn nhà nhỏ bé ấm cúng của ông bây giờ đã lột vào tay kẻ khác. Trong thời gian đi lính, dù số lương ít ỏi, vợ chồng ông cũng dành dụm tạo được một căn nhà nằm trong thị xã, tuy nhỏ bé nhưng cũng xây gạch đàng hoàng. Trước nhà cũng có những chậu hoa mai hoa sứ. Mỗi lần nghỉ phép ông thường dắt mấy đứa con ra sân đùa giỡn. Đùng một cái ngôi nhà tự nhiên đổi chủ. Khi ở tù về, mỗi lần ngang qua căn nhà, đứng ngoài đường nhìn vào, ông cảm thấy xót xa đau đớn nhưng rồi cũng đành ôm mối hận lòng lủi thủi bỏ đi. Rồi ngày tháng qua mau. Rồi niềm đau vơi dần. Nhưng cái cảnh nghèo đói vẫn bám sát theo ông, đè nặng lên người ông, khiến ông như một con cá lòng tong mắc cạn, thả nổi cuộc đời, mặc cho định mệnh đẩy đưa…

Càng vào sâu. Địa hình càng phức tạp. Đường núi chông chênh quanh co khúc khỉu. Hai con bò già hì hục kéo chiếc xe qua từng thước đường gập ghềnh sỏi đá dẫn vào chân núi.

Rừng ngàn năm vẫn buồn.
Chôn sâu niềm u uẩn.
Người ngàn năm vẫn còn
Đi trong vòng lẩn quẩn…

Ông đọc lầm thầm trong miệng mấy câu thơ vừa mới làm rồi cầm xị rượu lên mở nắp. Mùi rượu mía bốc lên hăng hắc khiến ông nhớ quá cái mùi hennessy mà trong đời lính tráng ông đã nhiều lần thưởng thức qua. Ông thở dài sườn sượt, đưa mắt ngó về phương tây. Những đám mây tụ về đỉnh núi bàng bạc mông lung. Cánh rừng cũng trở nên yên ả mơ màng sau một ngày gió mùa lồng lộng thổi. Một vài chiếc lá vàng nhạt lững lờ rơi xuống đầu xe. Một tiếng hú đơn điệu phát ra từ một hóc hiểm nào đó của núi rừng. Ông nghiêng tai lắng nghe, bất chợt nhớ lại lúc còn trẻ ông đã từng đọc qua tác phẩm The forest call của Jack London. “Tiếng gọi của rừng thẳm” là tiếng gọi gì vậy nhỉ? Ông quên mất nội dung câu chuyện. Có thể là tiếng gọi của bày lang sói. Có thể là tiếng gọi của một gã tiều phu. Có thể là tiếng gọi vô âm của một đóa lan rừng… Quả thật ông không còn nhớ được gì, nhưng ông quả quyết đó là tiếng gọi của núi rừng, tiếng gọi vọng đi từ núi rừng!…
Tiếng hú im bặt. Núi rừng cũng trở nên lạnh lùng khó hiểu. Chiếc xe vẫn lầm lủi vượt qua những triền núi cheo leo, bánh xe nghiến lên những phiến đá lồi lõm tạo ra một thứ âm thanh cộc cằn khô khốc. Ông vẫn ung dung tự tại ngồi tựa vào hông xe như một vị hoàng đế đang chễm chệ trên chiếc ngai vàng.

Mặt trời ngã xuống như một thân cây tróc gốc. Bóng tối tràn về bao trùm vạn vật. Bóng tối luôn là thủ phạm tạo ra muôn vàn hiểm nguy bất trắc. Cái vẻ hiền hòa an phận của núi rừng phút chốc cũng trở nên hung hiểm dị thường. Ông điều khiển cặp bò rẽ vào một láng trống nằm cạnh một con sông nhỏ với dòng chảy hiền hòa trong mùa nước cạn. Cho bò uống nước xong, ông nhặt một mớ củi khô nhóm lửa nấu cháo. Ông đổ nửa chén gạo vào cái soong nhỏ xíu với hai chén nước rồi bắc lên cái bếp dã chiến kê bằng ba cục đá. Tiếng sôi ùng ục từ soong cháo phát ra nghe buồn đứt ruột. Ông bê soong cháo trút hết vào cái tô rồi gắp hai con cá bỏ vào. Mùi cháo và mùi cá nướng quyện vào nhau bốc lên thơm phức. Ông nhai ngấu nghiến cái đầu cá rồi từ từ để cho chất mặn, chất béo, chất ngọt thắm vào đầu lưỡi như một vị đế vương đang thưởng thức một món sơn hào hải vị gì đó. Bữa ăn chiều của ông là vậy! Một chút lương hồ lõng bõng trút vào cái bao tử rổng tếch chẳng thấm thía vào đâu. Ông thu dọn bát đủa bỏ vào bao cát rồi chui vào gầm xe.
Nằm co ro trên tấm nylon với một cảm giác cồn cào khó chịu, giấc ngủ khó lòng tìm đến với ông. Ngủ không được, ông lại chui ra ngồi bên đống lửa. Đêm càng về khuya, núi rừng càng lộ ra cái vẻ hung hiểm kỳ bí của nó. Một vài tiếng kêu rời rạc của một con chim ăn đêm vọng lại từ khu rừng bên cạnh làm ông thấm buồn. Ông lại lan man nghĩ ngợi về thân phận con người. Mới ngày nào còn là một học sinh với bao niềm ước mơ, hy vọng. Mới ngày nào còn là một sinh viên sỹ quan với bộ quân phục ủi hồ láng bóng đi bên cạnh người yêu trên đường phố Sài Gòn. Mới ngày nào còn quấn quýt bên vợ con trong ngôi nhà thân yêu vào những ngày nghỉ phép. Rồi giờ đây một mình ngồi giữa núi rừng thâm u trùng điệp, bóng tối vây quanh. Nỗi cô đơn lại hiện về phủ kín hồn ông…

Mặt trời đã lên cao. Những giọt nắng quái ác xuyên qua cành lá đậu lên tấm thân gầy gò héo hắt của ông. Một con chim đứng nhìn dáo dác rồi bay vút vào khu rừng phía trước. Một con sóc chuyền nhanh qua trước mặt. Một chiếc lá còn xanh yểu mệnh nhẹ nhàng rơi xuống nằm trơ vơ trên đám lá khô. Nhịp sống quanh ông diễn ra đơn điệu đến rợn người. Ông dụi tắt điều thuốc rồi uể oải đứng lên tiếp tục đi tìm những khúc củi nằm rải rác trong khu rừng giữa trưa hừng hực nóng. Mồ hôi trên lưng áo bà ba đen của ông bị sức nóng hong khô tạo thành những vết loang lỗ trắng đen trông giống như một bức tranh trừu tượng.

Loay hoay cả ngày với những khúc củi oằn vai khiến ông cảm thấy toàn thân mệt nhoài rời rã. Màn đêm núi rừng buông xuống thật nhanh. Ông ngồi vắt vẻo trên chiếc xe chở đầy than củi xuyên qua những khu rừng chồi nối tiếp nhau trải dài hàng chục cây số dẫn về ngôi làng bé nhỏ của ông, nơi có những vũng nước ngả màu và những con cá lòng tong mắt cạn…

Arlington, July-2009
Xuân Du

Nguyễn Đức Nhơn
Biển Và Tôi
biển quê tôi muôn đời ôm bóng nắng
cồn cát nằm phơi ngực trắng quanh năm
cũng có lúc biển vô tình dậy sóng
mây bốn mùa theo gió núi về thăm

em xa vắng có nhớ mùa hạ biển
thành phố buồn vẫn đợi bước chân em
biển cali mỗi lần nghe sóng vỗ
có làm em nhức nhối buồng tim

nhớ những lúc xôn xao mùa biển động
lũ học trò vắng bóng những chiều hôm
tôi và em vẫn thì thầm trong gió
đợi đêm về nghe sóng vỗ triền miên

em yêu dấu có bao giờ em khóc
khi cuộc đời là hai ngả chia ly
tôi và em xa nửa vòng trái đất
biển mủi lòng thương kẻ ở người đi

thôi em nhé vốn là loài chim biển
chim vô tình cánh bạc vỗ bờ xa
biển và tôi đã mấy lần bật khóc
biển muôn đời vẫn dạo khúc tình ca.

Phạm Ngũ Yên
Thư viết từ đường heatherglen
(riêng tặng Mục Sư Trần Xuân Hà)

Hãy để tôi như một cái ấn nơi lòng chàng
Như một cái ấn trên cánh tay chàng
Vì, Ái tình mạnh như sự chết
(Nhã Ca, đoạn 8 câu 6)

1.
Nơi một góc phố nhìn ra con đường chạy ngang khu Little Sài Gòn, hôm qua sương mù che kín một vùng công viên của người Việt Tị Nạn. Trạm xe buýt đầu ngày lướt thướt trái tim đầy những mưa bụi. Vài người Việt Nam ngồi co ro ngồi chờ xe nhìn ra dòng mưa buổi sáng dưới những ngọn đèn muộn. Dưới những nụ hoa đêm còn khép nép trong khi cuộc đời mang trên vai nó một dòng sinh lực không hề cạn.
Mỗi thành phố đều có một đời sống riêng và một dáng vẻ riêng. Westminster cũng vậy. Những cây Italian Cypres có những ngọn mượt mà xen lẫn những lùm cam trĩu trái, khi tôi trở về Cali. Tôi đi qua những con đường quen thuộc dẫn đến những địa chỉ mang hơi hám Việt Nam. Những linh hồn Sài Gòn và những trái tim miền Nam chứa đầy diệp lục tố.
Những con đường nào tôi đã đi qua lạ xa mà rất gần gũi. Những hàng quán mang dáng dấp một Sài Gòn – Chợ Lớn xưa. Nhìn đâu cũng thấy người Việt và người Tàu qua lại, mua bán. Cười nói. Nhìn đâu cũng thấy những dòng chữ quảng cáo quen thuộc gợi nhớ một miền Nam sung túc an bình. Hình như trên vỉa hè sáng nay, tiếng chim kêu không ngớt một thời mê sảng của quá khứ. Thời của những bàn tay nằm thổn thức trong những bàn tay. Cùng những bước chân quấn quít đuổi theo những thơ ngây đã mất. Từ mảnh sân nhà ai xanh rực một bờ cỏ tương tư, những chùm hoa thạch thảo đang trở trăn một mùa Thu đã chết.
Không có hơi thuốc lãng mạn nào bay quanh quẩn trên chiếc khăn len người tình để nhớ về một vùng trời thanh xuân Ðà Lạt, và tâm hồn ai đang nhức nhối một quá khứ đau buồn. Hãy tưởng tượng một hôm nào trái tim không còn biết thổn thức một tín hiệu trong lồng ngực già nua khô khốc. Trong khi bàn tay run không thể vươn ra vói hái những trái cây đời. Hãy tưởng tượng một hôm nào đi qua khoảng sân xi măng quạnh hiu, nơi có những chiếc lá vàng khô mới vừa rụng xuống, lòng trống vắng nụ hôn giờ chia tay. Và cuộc đời nghe áo não những hồi kèn thua trận.
Buổi sáng nay cũng vậy. Ly cà phê ngập ngừng trên môi rét căm của người bạn và chúng tôi cùng ôn lại một chút quá khứ tàn phai của ngày xưa. Ngôi trường cũ. Thời mới lớn biết tương tư đuổi theo những tà áo dài trắng cùng lớp, lòng không tin những chuyện hoang đường. Những bài thơ viết vội không dám trao đi vì nghi ngờ lòng thành khẩn của mình không bay xa hơn nhịp đập của một cánh bướm. Năm một ngàn chín trăm sáu mươi lăm. Những người con gái ngày đó bây giờ vẫn còn đẹp khi gặp lại. Chỉ duy có tình yêu bớt đi những nồng nàn. Quá khứ nào cũng ủ chất men làm chết ngất những ly rượu đời và em sang sông như một loài sáo.
Có một chút lướt thướt của mưa và một chút gió thổi về làm ly cà phê lạnh tanh. Hai con chim bồ đậu trên chụp đèn trước một quán ăn. Chúng chia xẻ cùng nhau một chút rét mướt đồng lõa. Bên kia công viên mặt hồ mù mịt như bị cuốn trôi theo những màn sương. Hai vòm cây không còn lá cong đầu vào nhau. Hai người trẻ tuổi nơi cửa ra vào cũng châu đầu vào nhau thầm thì. Quá khứ son trẻ hiện về làm nhói một chút trong tim.
2.
Buổi sáng đầu tuần mát rượi một không khí Ðà Lạt. Bậc thang mênh mộng về khu Chợ Hòa Bình đầy người. Thiếu vắng màu áo len xanh trên thềm đường dẫn xuống bến xe đò trước rạp Ngọc Lan. Nắng trở mình xô giạt những cánh lá. Tâm hồn tôi đang thênh thang một cõi sương mù mộng mị. Nghe lạnh ùa về làm nhớ một bàn tay.
Ngày nàng theo chồng không có một vuông thiệp gởi qua đường bưu điện. Người lính không đợi chia tay mới tập biết thất tình. Bài hát ngày nào nghe lạc lõng giờ nghe như ám đúng vào tôi:
Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng
Anh dặm trường mê mải
Ðời chia như nhánh sông
Phong thư tình ngây dại
Và vai môi rất mềm
Những hẹn hò cuống quít
Trên lối xưa thiên đường

Ngày nhà em pháo nổ
Anh cuộn mình trong chăn
Như con sâu làm tổ
Trong trái vải cô đơn
Ngày nhà em pháo nổ,
Tâm hồn anh rướm máu
Ôi nhát chém hư vô

Anh một đời dong ruổi
Em tay bế tay bồng
Chiều hắt hiu xóm đạo
Hồi chuông giáo đường vang.
(Phạm Văn Bình)
Khi tôi quen nàng, tôi chưa biết uống cà phê và chưa biết hút thuốc. Giờ khi xa nhau, tôi đã biết tường tận cả hai điều đó. Ðời sống quân ngũ làm cho người ta tập nhiều thói hư tật xấu. Những đứa con trai vào đời mang trong lòng một chút kiêu bạt. Một chút buông thả. Vì họ muốn làm người lính chai sạn, trưởng thành.
Một người đi là xa hẳn. Khó lòng để tìm lại trong ý ức cũ một màu áo rực rỡ. Tôi nhớ tiếng cười của nàng trong veo giữa từng sợi nắng. Nàng đã mười tám hay mười chín tuổi? Đâu có ai đếm được thời gian trên môi của người con gái, khi tóc chưa cháy và má vẫn thắm màu? Nhưng đã có thời tôi uống say những hương sắc đó như người ta nhấp quá đà một hơi rượu cay.
Khi tôi biết về nàng, tôi chỉ là một gã con trai vừa rời bỏ tuổi thơ để cuốn theo dòng đời. Qua những cơn mưa mùa Thu úa vàng, mùa Hè cũng vừa bằng bặt tiếng ve.
Tuổi thơ tôi chạy đuổi theo một con đom đóm lặng thinh bay qua vườn nhà ngoại. Ánh sáng thoi thóp từ bụng của nó làm đau mảnh trăng rằm. Bên giếng khuya ai khua gàu múc nước?
Tuổi thơ tôi cũng chạy đuổi theo cánh diều chao đảo trên không. Ðuôi của nó vướng víu trên hàng giây điện. Tôi buồn như chưa hề biết vị ngọt của đời. Thời gian sững sờ khôn lớn.
Người đàn bà ra khỏi đời một người đàn ông, luôn để lại những bão tố.

Tình ta như hàng cây
Ðã yên mùa bão gió
Tình ta như giòng sông
Ðã yên ngày thác lũ

Thời gian như ngọn gió
Mùa đi cùng tháng năm
Đuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại

Kìa bao người yêu mới
Ði qua cùng heo may
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại…
(Xuân Quỳnh)

3.
Ngồi bên nhau trong quán cà phê giữa một ngày mưa bão, đôi lúc chúng tôi không nhìn thấy hết được vẻ diễm lệ của thành phố California. Con đường Westminster đang có những cây anh đào non mới vừa ra hoa. Ðây là lần thứ hai chúng tôi gặp nhau tại Quận Cam. Và là lần cuối cùng gặp nhau trong đời.
Anh Trần Xuân Hà đang là một Mục Sư Baptism. Ngày còn ở Việt Nam tôi và anh là hai tín đồ Tin Lành. Cùng có chung một quá khứ sôi nổi những mối tình bèo bọt. Cùng khoác áo Truyền Tin khi vào quân ngũ. Cùng làm việc chung một quân trường. Anh bên Trợ Huấn Cụ của Trường. Còn tôi Huấn Luyện Vô Tuyến Viễn Ấn. Anh giải ngũ trước tôi vài năm vì phổi của anh có vấn đề- nghĩa là có vết nám- Anh là một người rất đẹp trai. Ngày còn học Trung Học, anh có hình chụp được trưng bày làm mẫu tại tiệm ảnh Tây Hồ, trước phòng Thông Tin Vũng Tàu. Bây giờ, nhìn lại, thấy anh vẫn còn những nét quyến rũ của một người đàn ông đẹp trai. Ngoài vẻ đẹp của dung mạo, anh còn chụp hình, vẽ rất giỏi và biết thêm điêu khắc. Ðã nhiều lần, anh dùng bàn tay tài hoa của mình để trang trí nhà thờ trong những dịp lễ lạc. Nét cọ của anh xử dụng mang một màu sắc mạnh mẽ, dứt khoát. Giống như tính tình anh.
Cũng nên nói thêm một tài năng khác ở anh là anh nói chuyện rất lưu loát. Chính điều này đã nhen nhúm trong lòng anh ước vọng trở thành Mục Sư sau này.
Sau ngày miền Nam sụp đổ, tôi trở về Vũng Tàu sống cùng gia đình. Gặp anh đang trở thành thợ sửa đồng hồ. Những ngày Chủ Nhật ngồi cùng anh trong nhà thờ Tin Lành. Sau đó ra ngồi ở quán cà phê của Tăng Nhuần. Ðôi khi chúng tôi ra ngồi ngoài bãi biển, buổi chiều sau khi rảnh việc. Anh có một ước mơ bình dị nhưng cũng rất lãng mạng khi một lần anh tâm sự với tôi là, bao giờ được định cư tại Hoa Kỳ, hành động đầu tiên là anh và tôi sẽ gặp nhau dưới chân Tượng Nữ Thần Tự Do ở Nữu Ước. Chúng tôi sẽ sờ tay lên trên những phiến đá mang hơi thở cũa Tự Do. Ðể biết rằng đời sống này Hạnh Phúc không phải là điều không thể với tới được. Hạnh phúc là một điều có thể sờ thấy được bằng tay và nhìn tận mắt.
Rất tiếc, mơ ước tầm thường đó không xảy ra. Không bao giờ có dịp xảy ra.
Chúng tôi cùng được định cư tại Hoa Kỳ trước sau một năm. Anh đi theo diện ODP, do nhạc phụ anh là ông Trần Văn Thông (?) bảo lãnh. Ông Thông là cựu Huấn Luyện Viên đội tuyển túc cầu quốc gia thời Ðệ Nhị Cộng Hòa. Còn tôi đi theo diện PIP, vì vợ tôi làm việc cho Chính Phủ Hoa Kỳ.
Chúng tôi không tiên liệu được những khó khăn về công việc làm ăn, về những dịp tiện để có thể đi từ tiểu bang này sang tiểu bang khác. Nó không đơn giản như một người Việt Nam đi từ Vũng Tàu lên Sài Gòn hay từ Sài Gòn lên Ðàlạt. Nước Mỹ bao la quá. Cơ hội và thời gian có thể đến với người này mà không đến với người kia.
Lúc tôi còn bận bịu sinh kế tại Austin, thì nghe tin anh thi vào học ở Thần Học Viện Tin Lành. Một thời gian sau anh trở thành Mục Sư Hội Thánh Baptism tại vùng Norway, California, cách Santa Ana về phía Bắc chừng 30 phút lái xe.
Về Cali thăm anh lần thứ nhứt, tôi có nhắc đến chuyện gặp nhau dưới chân Nữ Thần Tự Do. Anh chỉ cười và nói mình chờ một ngày nào khác. Cuộc đời còn dài mà. Quả cuộc đời cũng còn dài thật. Năm đó chúng tôi chưa đến 60.
Một hôm, trên đường điện thoại viễn liên có tiếng của anh gọi đến: “Tôi đi thư viện Norway thấy tác phẩm Hoa Bluebonnets Cho Hai Người của anh trong đó”. Tôi ngạc nhiên: “Làm sao sách của tôi lại trôi giạt đến đó được?” “Không biết” Anh trả lời. “Norway là một quận nhỏ mà có sách của anh thì hi vọng nơi khác cũng có”. Tôi đáp: “Hi vọng như vậy”…
Lần khác, anh cũng gởi đến cho tôi sự ngạc nhiên, cũng trên đường dây viễn liên: “Tôi mới vừa nghe Bích Huyền đọc bài thơ của anh trên đài VOA”. “Bích Huyền là ai?” Tôi hỏi. “Là người phụ trách chương trình phát thanh VOA bằng Việt Ngữ tại quận Cam”. “Bài thơ tựa gì vậy?”. “Tôi không nghe kịp. Anh Hà trả lời. Tôi ngoài sân bước vào thì nghe bài thơ đang đọc. Hình như nội dung đề cập đến sinh nhật của con gái anh. Chị Bích Huyền đưa lên chương trình nhân ngày Father’s Day, cùng với một số bài thơ khác. Chị ấy cũng không biết anh ở đâu nên có vài lời xin lỗi tác giả”. “Khỏi cần. Mai mốt qua Cali tôi tìm gặp cô ấy để bắt cô dẫn chúng mình đi uống cà phê”.
Tôi nhớ bài thơ tôi viết trong thời điểm lang thang ở Sài Gòn, trong những tuần lễ trước khi rời Việt Nam. Tôi viết một mạch bên hông Nhà Hát Lớn (Hạ Nghị Viện). Giữa tiếng rao vặt, tiếng xe cộ huyên náo, tiếng cười nói của những trẻ nhỏ chơi quanh đấy. Bầu trời xanh chới với những đám mây trên đầu. Có tiếng chim ríu rít trên một khung cửa tò vò. Bàn chân ai vừa dẫm lên những vỉa nhựa đường nóng bỏng, thoi thóp một thời phồn hoa.
Bài thơ nói lên tâm sự của một người cha trong thời đại xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nghèo túng không có tiền để mua cho con món quà ngày sinh nhật. Bài thơ gởi đăng trên báo Văn của Mai Thảo, tháng 8 năm 1991, có tựa là “Mùa Mạc Lan Cuối Cùng”. Mạc Lan là tên của một loại lan hoang dã bên vệ đường. Có thể Bích Huyền trích từ những trang báo đó chăng?
Sau này khi trở lại Cali lần thứ nhì. Tôi và anh Trần Xuân Hà và Bích Huyền tình cờ găp nhau nơi tòa soạn Nhật Báo Người Việt, đường Moran. Chị Bích Huyền đặt đài phát thanh trong cơ sở của nhật báo Người Việt. Mỗi buổi sáng chị đến đó để làm chương trình phát đi. Giống như một định mệnh. Tôi nhắc lại bài thơ. Nhưng Bích Huyền đang bận nên không đưa chúng tôi uống càphê như tôi đòi hỏi. Tôi cho chị nợ và nói thêm “kiếp sau sẽ trả”. Bích Huyền lúng túng không dám trả lời. Văn chương chữ nghĩa đã là một cái nợ đời. Tại sao lại còn làm khó khăn nhau bằng một cái nợ khác? Tôi nghĩ và đọc thơ Nguyễn Bính:
Lòng tôi rối những tơ đàn
Cao vời những ước đầy tràn những mơ
Lòng cô chẳng có dây tơ
Ước thì thật thấp mà mơ thật nghèo

Hồn tôi giếng ngọt trong veo
Trăng Thu trong vắt biển chiều trong xanh
Hồn cô cát bụi kinh thành
Ða đoan vó ngựa chung tình bánh xe.

Rời khỏi tòa soạn báo Người Việt, tôi và Trần Xuân Hà đi uống cà phê.
Vẫn quán cà phê quen lần trước. Trần Xuân Hà vẫn tươi tắn tráng kiện. Vài câu nói đùa với nhau trong khi ký ức vỡ òa những chuyện xưa. Những chuyện không đầu đuôi và cũng không có thứ tự. Nhớ đến đâu chúng tôi nói đến đó. Mái tóc của anh lúc đó đang sớm những sợi bạc bên thái dương. Còn tôi, may mắn hơn và chỉ có vài năm sau, khi xảy ra biến cố 9-11. Nhưng đã có một chút mông mênh của sóng trong tâm hồn hai chúng tôi. Ðã già quá rồi phải không? Tôi hỏi. Anh cười: “Người xưa nói 60 mươi năm cuộc đời. Người nào qua tuổi 60 mà còn tồn tại năm nào thì coi như được Bonus của Chúa năm đó”.
Tôi không nghĩ đó là câu nói hay nhứt và cuối cùng của một người bạn nói cho một người bạn. Ðôi khi tôi không nghĩ anh là một Mục Sư. Vì tâm hồn anh còn lãng mạn quá. Anh chưa đứng hẳn về một phía nào của cuộc đời. Giữa trần tục và thanh thoát. Giữa đạo và đời. Nhưng tôi vẫn thấy mến anh nhiều nếu anh vẫn là một tín đồ đơn thuần như ngày còn ở Việt Nam. Tôi sẽ thoải mái san sẻ lòng tôi với một người bạn thân thay vì phơi bày ra với một Chủ Chăn. Tôi cũng sẽ sôi nổi để bàn luận cùng anh về những nhân sinh quan không trang trải một niềm tin nào, ngoài niềm tin về con người và cuộc đời. Tôi sẽ mạnh dạn ngồi xuống với anh trong một quán xá bên đường và ồn ào kêu một hai chai bia để cùng cụng ly như ngày xưa từng ngồi tại bờ biển cũ. Tôi sẽ nghe giống với anh nhịp đập thổn thức từ một buồng tim non yếu, giống như nhịp vỗ triền miên của sóng vào ghềnh đá. Vào khoang thuyền. Trong khi cuộc đời ngây ngất ngoài kia.
Ðôi khi chúng ta không đi qua đời sống này bằng một khung cửa hẹp, như khung cửa của Chúa Giêxu từng khuyên bảo môn đồ. Nhưng chúng ta sẽ khó lòng vượt qua những bất hạnh, những chông chênh với cõi lòng thanh thản để ca ngợi hạnh phúc luôn miệng. Vì chúng ta là con người trần trụi trước những cám dỗ dung tục
Cho nên, tôi không thể không đau lòng khi nghe tin người bạn thân, Mục Sư Trần Xuân Hà đã đột ngột về với Chúa.
Anh được Hội Thánh Baptist tại vùng Waynesville, North Carolina mời về giảng Lời Chúa. Ðang lúc đứng trên bục giảng sáng ngày chủ nhật cuối tháng 5. 2005 anh đã quỵ xuống vì chứng tai biến mạch máu não. Trên đường đưa vào bệnh viện, anh đã mất.
Chúa đã rước một tôi tớ Chúa về nhà của Ngài một cách yên thắm.
Hình ảnh của anh Trần Xuân Hà trong phong cách hầu việc Chúa, gợi tôi nhớ về những nén bạc và người quản gia trong Kinh Thánh. Thiên Chúa đã đặt trong tay anh tài năng, ân tứ và việc phụng sự Ngài. Giống như những nén bạc để anh làm hành trang trên đường Thiên Lý. Anh đã làm hết sức của anh và kết quả là những nén bạc đã sinh lời cho Ngân Quỹ Nhà Chúa. Cánh đồng của Chúa đã chín vàng. Nhưng con gặt thì thiếu. Ngày niên thiếu anh mơ ước được làm một con gặt của Chúa trong mùa gặt, gánh những hạt lúa bội thu về cất trong nhà kho Trên Trời. Những mơ ước khi còn ở quê nhà kia là những mơ ước không vinh quang và rất nhục nhằn- đã chạm đến tầm tay anh khi ra hải ngoại. Nhưng buồn thay, Quỹ Thời gian dành cho anh thì đã hết. Anh lặng lẽ và tuân phục về với Chúa.
Khi viết những dòng này, tôi lục lại trong tài liệu cũ lưu trong computer của mình, tìm thấy những dòng tâm sự anh viết cho bạn bè, cho ngôi trường miền biển của chúng tôi, cho một tình yêu mờ nhạt thời niên thiếu. Anh cũng viết cho vợ mình, người phụ nữ thủy chung đi cùng anh suốt một đời thăng trầm, qua những đổi thay vinh nhục. Những dòng tâm sự chói lòa một định mệnh và cũng khép lại một định mệnh. Tôi xin trân trọng gởi đến bạn đọc đã từng yêu mến văn chương tôi, hãy đọc ở anh, để nhìn thấy một mặt khác của đời sống trong đó. Để ngậm ngùi với một lòng thuyền không kịp chở hết một mùa trăng.
Những dòng tâm bút của anh, rất ngắn. Nhưng chín ững một tình người.
Xin trích từ Trần Xuân Hà:
NHƯ CHUYỆN CỔ TÍCH (Vài kỷ niệm vụn vặt, xin dành cho những người tình cũ)

1. Gợi Nhớ Ngày Xưa
Hôm nay 28- 04, một trong những ngày dân mình lưu lạc tại Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới, kỷ niệm năm thứ 28 ngày bắt đầu bỏ nước ra đi.
Tình cờ đọc các thơ trao đi gởi lại của các người bạn (bạn của bạn mình), những người từng cùng chia sẻ buồn vui dưới mái trường Trung Học Vũng Tàu thân yêu, khi họ tìm cách nối lại sợi dây liên lạc đã đứt, hoặc gián đoạn, khi “on” khi “off” từ gần ba mươi năm nay, lòng mình se lại, dường như có một chút buồn len lén bước vào tim, phải chăng đó là kỷ niệm tuổi học trò?
Các bạn thân mến, có lẽ mình cũng từng ngồi chung một bàn, cùng chung một lớp, học chung một thầy với một số lớn các bạn có tên trong các thơ đó; nhưng không phải Trung Học Vũng Tàu, khi mà cơ sở nhà trường đã được xây thành hình chữ L (với hàng chữ đắp bằng xi-măng khá lớn bên cánh dơi: TRI ÂN THIẾU TƯỚNG LÊ VĂN VIỄN), hay hình chữ U như sau nầy; mà lúc nó chỉ mới được xây lại vì đổ nát, sau trận bom đồng minh đánh hụt thành “Ông Dem” (11ème R.I.C.) bên kia đường, năm 1945.
Bấy giờ ngôi trường chỉ có một dãy, song song với Rue De Laboussière (nay là Ðường Lý Thường Kiệt), có bốn lớp học, kể cả Lớp Tiếp Liên do Thầy Minh “Rờ Que”, ở đầu dãy, gần sân bóng chuyền và Văn phòng Hiệu Trưởng.
Ðọc “ké” thơ các bạn gởi cho nhau, kỷ niệm thời thơ ấu chợt về trong tôi. Phải chăng kỷ niệm “ăn theo” hay chính là kỷ niệm của riêng mình? Tôi tưởng mình vẫn đủ tư cách hoài niệm về ngôi trường cũ đầy kỷ niệm đó kia mà!

2. Tình Chỉ Ðẹp Khi Còn Dang Dở
Câu thơ nầy, cho đến hôm nay, hơn nửa thế kỷ sau khi được thi sĩ Hồ Dzếnh viết ra, tôi thấy vẫn còn hợp thời. Ðọc thơ các bạn, mình nhận ra trong từng câu gợi nhớ, một bàng bạc nuối tiếc những cuộc tình không trọn. Nào là mối tình vô vọng với hoa khôi lớp học của người con trai đầy mặc cảm thua thiệt; tình sôi nổi như cơn sóng (thần) ngầm của cô học sinh mới lớn, với người thầy trẻ vừa ra trường; tình cao thượng của người học trò với ông thầy cũ trong vai trò đồng nghiệp, gặp lại nhau tại một tỉnh lỵ miền cao. Ôi! Có gì hạnh phúc cho bằng “Tha hương ngộ cố tri”. Tình của những bạn ráp nhau thành cặp uyên ương xứng lứa vừa đôi, từng làm ganh tị nhiều bạn trang lứa, những tưởng họ sẽ dìu nhau đi suốt cuộc đời, nhưng lại gãy gánh giữa đường, và cũng phải kể luôn đến những mối tình chung thân (khổ sai hoặc hạnh phúc) cho đến ngày nay. Tất cả những cuộc tình thành hay bại đó cũng đều để lại dấu ấn khá đậm trong tim người trong cuộc, và bây giờ nếu được phép hỏi lại, có lẽ tất cả đều biểu tỏ nuối tiếc những xúc cảm thơ ngây ngày nào, mong ước gặp lại nhau để nhìn lại hình bóng cũ.
Thiển nghĩ, các bạn tiếp tục gặp nhau trên E-mail như bấy lâu nay, hình ảnh người trai hào hoa, hùng dũng, người em nhỏ bé, dịu dàng, thơ ngây sẽ vẫn còn sống mãi trong tâm khảm; nhưng nếu gặp nhau chắc sẽ không ít thất vọng. Thà đừng gặp nhau có lẽ tốt hơn. Thật, “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”!

3. Con Ðường Mang Tên Em
“Con Ðường Mang Tên Em” là tựa đề bản nhạc rất phổ thông đầu thập niên 60. Bài hát bắt đầu bằng câu: “Kể lại chuyện hai chúng mình, khi em với anh…” Các bạn đã nhắc lại chất giọng khàn đục của Kim Hoa, cô ca sĩ học sinh đầy triển vọng, từng làm nhức nhối nhiều con tim mới biết yêu. Cho đến hôm nay, tuổi mình đã vào ngõ “tri thiên mạng”, mà vẫn còn nhớ ngày đó như mới hôm nào. Ðó là chuyện hai chúng mình trong bản nhạc, còn chuyện của riêng hai chúng mình cũng không phải là chuyện vui, cuộc tình chúng mình không là cuộc tình lãng mạn; nhưng chắc chắn là thơ mộng. Thơ mộng vì nó không phải là tình đầu của anh và em, mà cũng không phải là cuộc tình cuối để thành vợ chồng. Nó thoảng qua cuộc đời mình như ga xép dọc đường tàu, hình như có một chút thiếu hụt và uẩn ức bàng bạc nào đó mà anh không nhận ra.
Ngày xưa, như chuyện cổ tích, có một chàng họa sĩ lãng tử, phiêu bạc giang hồ, đến khi mỏi gối chồn chân, dừng lại quê nhà, gặp người con gái vẫn còn dáng dấp e dè vụng dại và (khi không lại….) thương người ta. Tình yêu nhẹ nhàng và trong sáng, không tỏ tình, không ước hẹn. Cũng vì mối tình pha-lê đó, chàng ghi lại trên khung bố, bằng chất liệu sơn dầu, cảnh con đường nhỏ, hai bên hai hàng bàng lá đỏ đặc thù quê hương, và ngay điểm mạnh của bố cục 1/3, là người con gái trong tà áo dài màu huyết dụ, đang bước đi mờ ảo gần cuối đường, như điểm hẹn cuộc đời chàng chọn. Nếu bức hoạ sơn dầu đó đáng gọi là tác phẩm, thì tác phẩm có tên là “Con Ðường Mang Tên Em”. Nhưng thực tế không hay ho như vậy, “Ðường chẳng riêng hai chúng mình, nên khi vắng anh, đường đã thay tên”.
Bức tranh hiện không biết vào tay ai. Con đường đó ngày nay vẫn còn bên chân Núi Lớn quê mình; chàng hoạ sĩ đó, giờ đây tóc đã điểm sương, có lần trở về thăm lại con đường xưa, lòng chàng ngậm ngùi vì mọi vật đều đổi thay. “Người xưa năm ấy, nơi nầy còn đâu!” (Thơ TXH)

4. Người Em Gái Tôi Thương
Tôi không tin số mạng, nhưng dường như có một trùng hợp ngẫu nhiên giữa tên em và cuộc đời. L.H., tên em có nghĩa là biển nước mắt, vậy làm sao vui cho được?
Những ngày chớm thu, Vũng Tàu không vui cũng không buồn, trời chỉ chợt nắng chợt mưa, chỉ có tiếng xào xạc lá bàng rơi, thuỳ dương vi vu trong gió.
Lần cuối ngồi với em tại sinh tố Phương Lan, đầu chợ cũ, gần mười một năm trước, là một chiều thu như vậy. Im lặng thật lâu, em chỉ hỏi tôi: Hôm nào anh chị đi? Tôi trả lời bâng quơ: Vài hôm nữa. Còn tôi, thay vì hỏi thăm gia đình em, về Phát, chồng em, tôi chỉ hỏi: Em lúc nầy ra sao?
Hôm đó vai em gầy hơn, đôi tay em mảnh hơn trong một cơ thể vốn đã gầy và mảnh mai từ nhỏ. Em cho biết là em đang đau. Từ lâu, anh biết sức khoẻ em không tốt lắm, mà hạnh phúc cũng không trọn vẹn. Anh cũng chẳng hỏi em đau ra sao.
Cũng tiếng nói ngập ngừng như ngày đầu gặp anh, giọng kim pha đồng đó, cũng đôi mắt u uẩn đó, nhưng ngày xưa, khi trên sân khấu, em hát nhạc tình với tất cả trái tim rực lửa của người con gái thời chiến loạn. Anh từng ngồi nghe em hát; nhưng chưa bao giờ là thính giả của em tại Trúc Giang, nơi mà bấy giờ hằng đêm em có một vai trò khá bận rộn, nơi mà Thái Châu cũng từng có mặt; nhưng nhiệm vụ anh chàng vẫn còn nhỏ bé lắm so với em.
Mẹ em thương anh, anh Long của em cũng mến anh. Long và anh học chung nhau từ lớp Ba tại trường sân vận động, từ khi gia đình em rời Sa-đéc đến đây định cư. Các anh gọi anh Long là Long Sa-đéc, để phân biệt với Long Bình-mực là vậy. Từ đó, Long và anh học với nhau đến hết tiểu học. Sau nầy, kẻ trước người sau vào quân ngũ, chúng anh gặp lại nhau trong quân trường và chung ngành chuyên nghiệp.
Ngày đó, thỉnh thoảng đêm đêm, anh và các bạn đồng ngũ ghé qua quán nhà của má em ăn chả giò. Món chả giò bà làm ngon thật, cuộn chả nóng hổi dòn tan, thấm đẫm nước chấm vừa miệng. Lúc bấy giờ anh như người trong gia đình em. Có thể lắm, má em và Long cũng muốn anh trở nên thành viên của gia đình bà. Anh thương em từ đó.
Về tình yêu và tình thương anh rất rạch ròi; với em, anh không bước qua ranh giới tình yêu mà chỉ dừng tại vị trí tình anh em thuần khiết, và bằng tình cảm đó, anh giữ mãi cho đến ngày nay.
Em vẫn là “người em gái tôi thương”.

5. Những Cây Ðiệp Sân Trường.
Những cây điệp trong sân trường chúng tôi, bông điệp không là loại bông đẹp, chỉ là những sợi tua tủa non mềm như chùm bông ráy tai của người thợ hớt tóc; tôi còn nhớ như in, đến mùa, rụng tím sân chơi. Chúng tôi thường gọi loại điệp nầy là cây còng, hay cây me tây. Không biết nó có mặt nơi đây tự bao giờ; nhưng lúc chúng tôi lên lớp nhì, lớp nhất, được về đây học, thì đã thấy chúng nó đứng đó, và bấy giờ, thân cây đã cằn cỗi, vỏ cây cũng đã nứt nẻ, xù xì lắm rồi.
Hai hàng điệp im lặng đứng đó, đã là chứng nhân nhẫn nhục của nhiều thế hệ tuổi trẻ Vũng Tàu, vô tình đến, rồi đi như những giòng sông nhỏ.
Tôi chỉ biết lớp cao nhất và xưa nhất tại đây, dưới tàn điệp nầy, là lớp Nhứt ông Ðốc Dương (1947-1948). Thầy Dương mặc quần short, áo chemise tay ngắn, giày Bata. Thầy dạy thật giỏi, thường ngồi trên bureau khảo bài học sinh, trò nào được gọi lên bảng, mà làm sai, thầy phóng xuống, đá vào… đít, bất kể nam nữ, làm cô cậu học sinh chúi nhũi. Giờ đây, nhớ lại những ngày ấy, mình thấy thầy cô quá nặng tay với học trò; nhưng đó không phải là những trận đòn hận thù, mà là yêu thương. Từ lớp của thầy, sau nầy có những người ra đời thành đạt, như Bác Sĩ Quân Y Trần Cao Ðễ, Dân Biểu Hồ Văn Minh, Nhạc sĩ Khánh Băng, Mục sư Trần Văn Lang, và nhiều… nhiều anh chị khác nữa, trong thương trường, giáo dục và nhiều lãnh vực khác.
Hai hàng điệp vẫn đứng đó, vẫn chứng kiến các lớp anh chị ra đi, lớp anh chị mới đến, tới thế hệ chúng tôi, rồi các em, cũng tiếp tục đến rồi đi…
Những năm tôi học nơi đây (1952-53), trường chỉ dành cho nam sinh cấp Tiểu Học. Dưới bóng điệp già nầy, chúng tôi chơi đánh trổng, bắn đạn cu-li, đánh bông vụ, lại còn đá banh nữa. Nhưng nhộn nhịp nhất là thời gian Thầy Ðoàn Kỳ Quận, mà chúng tôi thường gọi thân mật là Anh Ba Quận, vừa tốt nghiệp Trường Thanh Niên Thể Thao Trung Cấp, về làm Huấn Luyện Viên Thể Dục, kiêm Văn nghệ cho nhà trường. Ngày ấy, sân chơi, giữa hai hàng Điệp, nhà trường dựng lên khung sắt lớn dành cho môn leo giây, hai bên có xà ngang, xà đôi, gần đó có hố cát hỗn hợp cho hai bộ môn nhảy cao và nhảy xa, lại còn có một giàn đu gỗ nữa. Từ đó, nơi đây, cũng dưới sự chứng kiến lặng lẽ của hai hàng điệp nầy, chúng tôi thích thú được Anh Ba Quận “hành hạ”. Làm sao không thích thú cho được, khi bọn con trai chúng tôi được tung tăng thoả thích trong giờ thể dục?
Giã từ Tiểu Học, chúng tôi ra đi như đàn chim nhỏ. Một số đông các bạn ở lại chờ trường mở cấp Trung Học, nên phải chịu trễ mất một năm. Trường Trung Học Vũng Tàu bắt đầu thành hình với mấy lớp Ðệ Thất. Những năm nầy, hàng điệp già bắt đầu được chứng kiến những tà áo dài trắng nho nhỏ dễ thương, thấp thoáng trong sân chơi; nhưng có thể chưa có mối tình con nào xuất hiện, cho đến vài năm sau nầy.
Ngày đó, tôi không còn ở đây, nhưng chắc chắn dưới bóng hàng Điệp im lìm nhẫn nhục, có những cuộc tình đầu đời nở hoa, những hò hẹn, những lá thơ nắn nót trên giấy học trò, trao vội cho nhau, cũng có những nụ cười và nước mắt của các bạn, của các em.
Thời gian bình thản trôi qua, các thế hệ học sinh cũng qua rồi lại qua. Thời cuộc đẩy đưa, hôm nay, một số các bạn vẫn ở lại quê nhà, số khác “lang thang như người Do-thái”, lưu lạc kẻ đông người tây trên khắp cùng trái đất, cũng không ít bạn đã đi về cõi vĩnh hằng bình yên; nhưng hàng Điệp ngày nào vẫn đứng đấy, vẫn tiếp tục làm chứng nhân cho các thế hệ con cháu chúng mình.
Hàng Điệp già vẫn còn đó!
TXH (May, 2 .2003)
Những ngày mưa bão Cali
Em yêu dấu,
Dường như lâu lắm rồi, anh không còn thói quen viết cho em những dòng chữ thế nầy, như anh đã từng làm trong thời gian đầu mình mới quen nhau.
Trời Cali hôm nay chớm Thu, dù ánh nắng Hạ gay gắt vẫn còn lẫn khuất đùa nghịch, chợt đến, chợt đi, như tính nết bất thường đáng yêu của cô bé mười bảy năm nào.
Hơn ba mươi năm rồi chớ ít ỏi gì, nhưng anh thấy dường như chỉ mới hôm qua. Ngày đó, Saigon cũng vừa vào Thu, nắng đã dịu, nhưng bầu không khí vẫn còn nồng mùi đất ẩm sau cơn mưa. Em tròn mười bảy, anh hơn hai mươi. Lẽ ra với tuổi đó, em vẫn còn được ngồi trong lớp với các bạn; nơi đó, sau hàng song vuông cửa sổ, em vẫn có quyền thả hồn mơ mộng, dành đôi phút nhìn ra khoảng trời thênh thang, bên kia đường Phan Thanh Giản, ngắm hàng sao đen, nghe lá nhỏ tâm sự rì rào; lòng em có thể chùng lắng khi chợt nghe tiếng chuông chùa Xá Lợi bên kia hông trường vọng lại, để liên tưởng đến tiếng chuông chùa Long Giáng trong Hồn Bướm Mơ Tiên. Em có quyền, em có quyền tiếp tục hưởng cuộc sống êm đềm bình thường như bất cứ thiếu nữ nào.
Nhưng số phận đã an bài, mẹ em đột ngột ra đi, và đây cũng là lý do em phải từ giã khung trời mơ mộng, rũ bỏ ước vọng tương lai, như rời khỏi tấm thảm hoa đang dệt dở dang trên khung cửi. Em phải rời bạn bè, rời trường lớp thương yêu, rời tổ ấm gia đình, để ra đi tìm sống, như chim non lạc đàn trong bão tố. Trong cơn bão đó, em gặp anh.
Ngày đó, anh cũng đã rời ghế nhà trường để vào quân ngũ như các bạn anh, như các thanh niên thời chiến. Anh gặp em, chúng mình gặp nhau và yêu nhau. Anh không nghĩ chuyện chúng mình là ngẫu nhiên. Mối tình của chúng mình không suông sẻ gì, nó cũng trắc trở, và đầy thử thách. Nhưng để bù lại những bất trắc đó, nó cũng lãng mạn, dễ thương. Và như em thấy đó, chẳng những chỉ lãng mạn và dễ thương thôi đâu, chúng mình cũng còn được hưởng phần thưởng quí giá: dường như mỗi chúng ta là con hình trong trò chơi Puzzle, mà chú bé vui mừng tìm được đúng hai mảnh ráp khớp vào nhau, hai nửa mảnh đời đã tìm được nhau để trở nên một.
Những ngày mới quen nhau, anh về lại Saigon của anh thời học sinh, cũng là Saigon của em thời hoa mộng, cũng là vùng trời chung của nhiều tâm hồn riêng lẻ. Anh đưa em thăm lại những kỷ niệm ngọt ngào của em, kỷ niệm đời học sinh lưu trú của anh. Chúng ta uống lại ly nước mía Viễn Ðông, tìm hương thơm vị ngọt ngày cũ; chúng mình đứng bên cội me già, ăn miếng phá lấu, viên ruột vịt, quấn cặm vào que tăm, giản dị bình thường. Em yêu dấu, còn nhớ không, những chiếc bánh mì cóc Bưu điện, dĩa cơm gà xé Thanh Bạch, ly sữa “soóc” Xuân Hương, cốc kem Brodard, những món ăn thật tầm thường, nhưng ngày đó sao ngon quá đi thôi! Bấy giờ, đối với chúng mình, sơn hào hải vị của vua chúa ngày xưa, yến tiệc linh đình ngày nay, chắc chắn không thể nào ngon hơn. Ôi! Nhà ảo thuật đã có thể làm chiếc khăn tay biến thành con bồ câu trắng bay ra khỏi chiếc nón như thế nào, thì tình yêu và kỷ niệm của chúng mình cũng đã biến những điều đơn giản thành quí giá, và hạnh phúc thăng hoa như vậy đó!
Hôm đó, từ nhà Brodard, tay trong tay, chúng mình lang thang trong lòng phố hẹp, khu phố cũ có một chút dáng dấp Paris, lại còn có lá me bay bay trong nắng ấm nữa. Chúng mình ghé qua Phòng Thông tin Ðô thành, góc Lê Lợi – Tự Do, nơi thường triển lãm tranh ảnh. Hôm đó, người ta đang trưng bày ảnh nghệ thuật dự thi. Mình đến đây như những khách thưởng ngoạn vô tình. Cũng vẫn tay trong tay, chúng mình nhởn nhơ ngắm từng tác phẩm mà không sợ thời gian phiền nhiễu. Mình còn nhiều thì giờ bên nhau mà! Phải không em?
Bấy giờ, dường như em đặc biệt chú ý đến những tác phẩm mà tác giả đã hào phóng dành quá nhiều cho những khoảng không gian, mà chủ đề lại bé nhỏ một cách không cân xứng. Hình như em xúc động. Em thắc mắc tại sao tác giả lại chịu chụp ảnh một hai người nhỏ tí tẹo, đang gánh gồng, bước đi tại một điểm nào đó giữa đồi cát bao la? Tại sao họ ghi lại hình ảnh chiếc thuyền nhỏ bé đang nhảy sóng, như chiếc lá nhỏ trong chảo dầu sôi, được cố ý đặt tại một trọng điểm mà chung quanh chỉ là mây nước? Tại sao tác giả tấm ảnh kia lại cho chú bé lui cui bắt ốc tại một nơi xa lắc trên góc ảnh mà phần còn lại chỉ là bãi bùn bên bờ nước đen? Tại sao và tại sao?
Ngày đó, anh chưa biết gì về nhiếp ảnh, nhưng có một chút hiểu biết về bố cục hội hoạ và tạo hình. Tuy vậy, anh không lợi dụng những hiểu biết ít ỏi về sơn cọ dao bay đó mà “hù dọa” em. Hình như lúc đó anh chỉ triết lý: “Những khoảng trống đó được tác giả cố ý để làm nổi bật chủ đề nhỏ bé. Con người nhỏ bé nhưng vẫn tồn tại trước thiên nhiên và hoàn cảnh, có lẽ đó lại lợi thế của nhiếp ảnh so với hội hoạ. Em thấy không, dù con người nhỏ xíu trong không gian rộng lớn, vẫn làm cho bức ảnh có ý nghĩa và giá trị, không khác nào những khoảng trống có thể xảy ra trong cuộc tình chúng mình, nó chỉ làm tăng thêm hạnh phúc khi chúng mình lại được gần nhau, miễn là em vẫn còn yêu anh như bây giờ”. Anh nhớ, lúc đó em cấu vào tay anh và nói: “Xì! Anh xạo hoài!”
Hơn ba mươi năm trôi qua như giấc mơ.
Sáng hôm qua em soạn lại ngăn kéo đựng đủ thứ linh tinh mà từ lâu lắm rồi anh không đụng đến. Trong giữa đám giấy tờ lộn xộn đáng cho vào sọt rác đó, có một tấm ảnh cỡ 4” x 6” anh chụp hồi nào không nhớ nữa; anh chỉ nhớ lúc đó máy ảnh anh còn tấm phim cuối cùng trong cuộn phim chụp gia đình mình vào lễ Chúa Giáng sinh. Để lấy phim mang đi tráng, anh cầm máy ảnh ra sân chụp con ốc sên đang bò trên lá huệ một cách tình cờ.
Tấm ảnh không chụp ai, nên chẳng để kỷ niệm, cũng không người sở hữu, anh lấy riêng ra để dùng ngăn trang sách đọc dở. Bây giờ thì nó đang nằm trước mắt em. Cũng đôi mắt ấy, nheo lại như ngày xưa, ngày mà em ngắm các tấm ảnh trong phòng triển lãm, giờ đây đã có con chim nhỏ nào vô tình bước trên đuôi mắt để lại dấu chân. Cũng mái tóc đó, ngày xưa đen dầy, em có thói quen hất ngược về sau mỗi khi muốn nói hay phản đối anh điều gì, nay mảnh hơn và ẩn hiện những sợi xám như làn mây nhẹ. Em cười buồn, nhưng đầy vẻ hạnh phúc, em nói: “Anh biết không, từ ngày mẹ mất, ngay cả khi thời gian mình sống với nhau, có những khoảng thời gian em phải lặng lẽ độc hành như con ốc nầy. Nhưng bây giờ thì em không còn ao ước gì hơn, em biết rồi, những khoảng không gian trống trải trong cuộc đời chỉ có thể làm tăng thêm hạnh phúc cho những người thật sự yêu nhau” như anh đã nói ngày nào.
Em nhìn anh âu yếm. Phải chăng chân hạnh phúc là đây? (Trần Xuân Hà)

Tuấn Đình
Vu lan nỗi nhớ
Xanh giọt đắng, tách trà thơm
Chút ngần bóng xế lặng buồn hoài vương
Vu lan tháng bảy phượng hồng
Xứ người thắng hội đời còn thiết tha

Thiên đường nào, nhớ trong ta
Mẹ hiền kỷ niệm quê xa mịt mù
Tha hương một kiếp viễn du
Dư hương ngày cũ bụi mù thời gian

Hết thật rồi, nợ trần hoàn
Đời thôi hiu hắt mơ màng tình xưa
Thêm nỗi nhớ, hàng giậu thưa
Có loài hoa đỏ ban trưa nhánh sầu

Lung linh giọt nắng lòng đau
Trên cành chim hót nghẹn màu tương tư
Giờ đây xa thẳm ngục tù
Quê hương nghèo, tựa trăng lu bên trời

Năm dài tháng lụn ngày vơi
Nghe chừng lần lữa đơn côi hồn chìm
Ước chi mình hóa thành chim
Bay qua bể ái mà tìm người thương

Cõi lành thăm thẳm mù sương
Mẹ hiền cực lạc mười phương an bình
Quê nghèo ơi! Thấu chăng tình
Bên ni biển nhớ mà mình bâng khuâng

Chiều mơ
Cõi trần tiêu sái nhất sinh
Câu thơ lục bát chút tình nước non
Xa ngàn dặm, lắm mỏi mòn
Tim nghe vò võ bên dòng trầm luân

Như dòng chảy, mạch nước ngầm
Cõi tôi chữ nghĩa âm thầm thời gian
Tình quê năm tháng bẽ bàng
Tấm thân hạt bụi gian nan xứ người

Như sương lãng đãng góc đời
Em yêu ngà ngọc bên trời hư vô
Ngày xưa hoa bướm dại khờ
Một thời mật ngọt bây giờ mây trôi

Bâng khuâng từng giọt gọi mời
Lang thang con chữ tả tơi ghép vần
Rối ren bằng trắc giận hờn
Cho ta nhung nhớ nước non quê mình

Công viên vắng, mãng trời xanh
Có đôi chim nhỏ bay quanh mặt hồ
Thơ buồn lặng lẽ chiều mơ
Chập chờn phượng đỏ hững hờ mây bay

Như vừa chiêm bao
Ðêm qua nỗi nhớ còn đầy
Sáng nay se lạnh trời mây chút buồn
Chớm thu cây cỏ mờ sương
Ðưa nhè nhẹ ngọn gió mơn tiển hè

Bước chân đi, buổi thu về
Nghe nằng nặng mối tình quê mơ màng
Như lục bát ghép trọn vần
Thơ thôi dang dở mấy hàng về tim

Chùm ký ức, sợi tơ tình
Chuyện ngày xanh thuở vụng tìm người mong
Dáng em vóc ngọc má hồng
Cây si sầu đợi mỏi mòn sớm trưa

Nghe như trời đã sang mùa
Có con bướm trắng cợt đùa hoa xinh
Cúc vàng khoe sắc hữu tình
Hình bóng cũ, chợt lung linh theo về

Gió đưa gió thổi sau hè
Thôi sắc biếc lá trở về cội xưa
Hồ trường đã cạn hay chưa
Ta hồn chợt tỉnh như vừa chiêm bao.

Nguyên khoa
Nhớ quê nhà
Chợt nghe ai nhắc tên làng cũ
Cảm xúc trong ta nỗi nhớ nhà
Cứ ngỡ cuộc đời trên xứ lạ
Làm mình quên lãng chốn quê xa

Chợt nghe tiếng gọi thân thương quá
Vọng lại trong ta mối cảm hoài
Như tiếng chân ai quen thuộc ấy
Như lời thỏ thẻ của người yêu

Chợt thấy trong tranh thành phố cũ
Lòng buồn nhớ lại nẻo đường xưa
Đường đi về sớm nắng chiều mưa
Đường hò hẹn đón đưa tình tự

Chợt thấy trong phim dòng sông cũ
Bồi hồi nhớ lại bến phà xưa
Nhớ những ngày lồng lộng gió mưa
Sông nước mênh mông sầu biệt xứ

Chợt thoáng nghe hương loài hoa cũ
Ngậm ngùi nhớ đến mảnh vườn xưa
Đêm về đứng tựa bên song cửa
Chờ đón ngọt ngào hương gió đưa

Làng cũ, đường xưa, hương gió tỏa
Dòng sông, bến nước, mảnh vườn hoa
Đã xa hun hút ngàn dặm thẳm
Nhớ chốn quê cha mắt lệ mờ

Trở lại đường xưa
Tôi trở lại
Con đường xưa thanh lịch
Lá me bay loang loáng gợi hồn thơ
Gót chân khua trên hè phố mong chờ
Cơn gió nhẹ bâng khuâng người năm cũ
Tôi trở lại
Hành lang Eden quyến rũ
Chiều hẹn hò trước thư quán Xuân Thu
Tay đan tay quanh lối nhỏ bước mau
Sợ trễ xuất truyện phim tình dang dở
Tôi trở lại
Quán xưa La Pagode
Hương moka ngây ngất mộng ngày xanh
Đốt thuốc bay từng lọn khói mong manh
Ngắm đại lộ xôn xao mờ nhân ảnh

Tôi trở lại
Thánh đường xưa óng ánh
Đôi tháp chuông vun vút tận trời cao
Nghe từng hồi tiếng kiểng đổ xôn xao
Hồn sực tỉnh phận mình thân viễn khách.

Đàm Trung Pháp
Vài nét đặc thù về
các ngôn ngữ “giả cầy”
Trong thời Pháp thuộc, một nông dân Việt được mướn để làm vườn trong tư dinh viên công sứ người Pháp tại miền thượng du Bắc kỳ. Một hôm, một con hổ lọt hàng rào vào vườn, đạp nát các luống hoa, rồi lững thững trở về rừng. Buổi chiều khi viên công sứ về nhà, thấy những vết chân khổng lồ trên các luống hoa, ông không hiểu là trâu bò nhà ai đã dám cả gan vào tận tư dinh công sứ phá phách như thế. Người làm vườn giải thích cho chủ rõ là hổ đấy chứ chẳng phải trâu bò nào đâu, “Lúy tí ti dôn, tí ti noa, lúy gầm, lúy gừ, lúy măng-dê me xừ, lúy măng-dê cả moa” (Nó tí ti vàng, tí ti đen, nó gầm, nó gừ, nó xực ông, nó xực cả tôi). Vậy mà ông tây thuộc địa hiểu ngay, rồi há hốc miệng, vung tay lên trời và chỉ nói được hai chữ “Un tigre?”(Một con hổ à?) rồi té xỉu. Người làm vườn phải dìu ông chủ vào nhà và trong bụng mừng lắm, vì ông công sứ đầy quyền uy rõ ràng đã hiểu thứ tiếng Tây “giả cầy” của mình. Đó là thứ tiếng Tây sử dụng cú pháp và lối phát âm Việt, trong đó ngữ vựng của hai ngôn ngữ phứa phừa giao duyên.
Tác giả bài này xin tạm dùng nhóm chữ “ngôn ngữ giả cầy” với giá trị tương đương cho hai từ pidgin và creole trong tiếng Anh. Các loại ngôn ngữ pha trộn và có vẻ kỳ cục này tồn tại nhiều nơi trên thế giới, và là phương tiện truyền thông của đổi chác thương mại, của đời sống đồn điền, và của các cuộc tiếp xúc khác trong đó những người sử dụng ngôn ngữ khác nhau đã cùng nhau thỏa thuận về một tiếng nói mới. Có một sự khác biệt đáng kể giữa pidgin và creole: không ai sử dụng pidgin như một tiếng mẹ đẻ; và khi một pidgin đã trở thành căn cơ, phức tạp hơn, hữu hiệu hơn mà lại có người sử dụng như tiếng mẹ đẻ thì pidgin đó đã thăng hoa thành một creole. Quả thực đã có một số ngôn ngữ giả cầy, tuy đôi khi vẫn mang danh pidgin, nay đã trở thành tiếng mẹ đẻ của nhiều người, điển hình là Tok Pisin ở Papua New Guinea và Hawaiian English ở Hạ uy di.
Đại đa số các pidgins thường không thọ, kể cả tiếng Pháp và tiếng Anh giả cầy thịnh hành trong thời Pháp thuộc và trong cuộc chiến Việt Nam mà người Việt mệnh danh là “Tây bồi” và “Mỹ bồi.” Nhưng cũng có những creoles đã trở thành ngôn ngữ quan trọng, như Haitian French Creole được hơn 4 triệu người sử dụng tại Cộng Hòa Haiti, một thuộc địa cũ của người Pháp; Gullah, với trên 200 ngàn người sử dụng dọc miền duyên hải đông nam Hoa Kỳ, là một ngôn ngữ lấy tiếng Anh làm căn bản, pha trộn với nhiều sắc thái ngôn ngữ Phi châu; và Jamaican Creole English được trên 2 triệu người sử dụng tại Cộng Hòa Jamaica.
Về nguồn gốc chữ pidgin thì không ai dám cả quyết. Có người cho rằng đó là cách người Trung Hoa phát âm chữ business, lại có người cho rằng pidgin phát xuất từ chữ Do thái pidjom (có nghĩa là đổi chác), cũng lại có người cho rằng chữ pidgin và chữ pigeon (có nghĩa là chim bồ câu, thường được huấn luyện để đưa thư) chắc chắn có liên hệ mật thiết! Còn chữ creole thì do chữ crioulo trong tiếng Bồ đào nha (có nghĩa đen là một người da trắng sinh ra và lớn lên tại một thuộc địa) mà ra.
Lúc mới xuất phát, các pidgins chỉ có một công dụng rất hạn chế, như để đổi chác hàng hóa giữa người Tây phương và người bản xứ Phi châu hoặc Á châu. Trong thế kỷ 19, các đồn điền do người Tây phương làm chủ thường có một số nô lệ nói vài ngôn ngữ khác nhau làm việc. Những nô lệ nào cùng nói một thứ tiếng thường bị chủ nhân không cho liên lạc với nhau, e rằng họ có thể cùng dùng ngôn ngữ đó để mưu mô trốn thoát đồn điền hoặc làm phản. Thành ra khi các nô lệ phải nói chuyện với nhau hoặc với chủ nhân, họ phải đồng ý phát minh ra một thứ tiếng nói mới với bản chất giả cầy.
Thoạt đầu, một ngôn ngữ loại này chỉ có một cấu thức giản dị tối đa và một số từ vựng nhỏ nhoi. Các hình dạng để diễn tả số nhiều (như “books” và “houses” trong tiếng Anh), các tiếp vĩ ngữ để phân biệt nam và nữ (như “alumno” có nghĩa là nam sinh và “alumna” có nghĩa là nữ sinh trong tiếng Y pha nho), các bảng chia động từ đều biến mất trong ngôn ngữ giả cầy này. Về từ vựng thì chỉ có từ 50 đến 300 chữ cho nên người nói tiếng này phải vận động tối đa lối nói quanh co, bóng bẩy. Chẳng hạn, khi muốn diễn tả ý nghĩ “Tôi đói bụng” thì tiếng Tok Pisin (do “talk pidgin” mà ra, lấy Anh ngữ làm chủ lực) phát ngôn thành “Bụng thuộc về tôi đi tản bộ dài dài” tức là Belly belong me plenty walk about.
Pidgin là sản phẩm của cả hai phe nói tiếng khác nhau. Trên lý thuyết thì cả hai thứ tiếng đều đóng góp về âm thanh, từ vựng, và yếu tố ngữ pháp. Tuy nhiên, ngôn ngữ có uy tín hơn (thường được coi là “thượng tầng” như tiếng Anh, Pháp, Tây ban nha, Bồ đào nha, Hòa lan) hầu như cung cấp phần lớn từ vựng, và ngôn ngữ kia (thường bị coi là “hạ tầng” như tiếng Tàu, tiếng Tolai, tiếng Hạ uy di, và các tiếng Phi châu) có ảnh hưởng lớn hơn về ngữ pháp. Điển hình là trong Tok Pisin 80% từ vựng là Anh ngữ, và ngữ pháp chịu ảnh hưởng lớn của Tolai là một thổ ngữ quan trọng trong gia đình ngôn ngữ Papuan.
Các pidgins khi trở thành creoles cần phải có chữ viết. Lối viết tốt nhất, theo ý kiến các nghiên cứu gia về ngôn ngữ giả cầy, là theo cách phiên âm với mẫu tự la-tinh (thay vì dùng chính tả quy ước của các ngôn ngữ thượng tầng xuất phát từ Âu châu). Vì vậy mà tiếng Tok Pisin viết “too much” là “tumas” và mouth là “maus,” vì trong ngôn ngữ này âm “ch” và âm “th” đọc lên như âm “s.” Các thí dụ về Tok Pisin trong phần còn lại của bài này đều được viết theo lối phiên âm đó.
Với Anh ngữ đóng vai trò thượng tầng, Tok Pisin là ngôn ngữ chính thức của khoảng 1 triệu người dân nước Papua New Guinea nằm trong Thái bình dương, phía bắc Úc châu. Ngôn ngữ này đã có một ngữ pháp chính thức và một từ vựng dồi dào. Hoàng tế Philip, phu quân của Nữ Hoàng Anh Cát Lợi, đã có lần thử nói Tok Pisin nhưng bị thất bại vì dùng sai ngữ pháp! Khi nghe ông diễn tả “hoàng tế” là “fella belong Mrs. Queen” thì dân chúng Papua New Guinea cười bể bụng vì ngữ pháp Tok Pisin của họ đã bị vi phạm một cách ngoạn mục. Phải nói “man belong kwin” mới đúng là Tok Pisin chính hiệu, vì trong ngôn ngữ này chữ “fella” (đọc và viết là “pela”) không có thể được dùng ở vị trí trong cụm từ của hoàng tế Philip với nghĩa “đàn ông” hoặc “chồng.” Trong khi đó, chữ “pela” (thoát thân từ chữ “fella”) chỉ dùng làm tiếp vĩ ngữ để đánh dấu tính từ hoặc số từ trong Tok Pisin, thí dụ “tupela blakpela pik” có nghĩa là “hai con heo đen” và “yupela” có nghĩa là “các anh.” Đây cũng là dấu hiệu cho thấy Tok Pisin đã trở thành một creole, tiến bộ hơn giai đoạn khởi thủy rất nhiều. Cùng trong tiến trình này, tiếp vĩ ngữ “im” được dùng để biến một tính từ thành động từ, như trong các thí dụ sau đây: “bik” (big, large) + “im” = “bikim” (to enlarge); “nogut” (no good) + “im” = “nogutim” (to spoil). Và sự thu gọn hoặc hoán chuyển vị trí các chữ trong câu cũng cho thấy Tok Pisin hiện đại mỗi ngày một thăng tiến hơn, chẳng hạn “kot bilong ren” (raincoat) = “kotren” hoặc “renkot.”
Nhưng có lẽ cách ghép những chữ căn bản vào với nhau một cách đầy ấn tượng để tạo ra những chữ mới trong Tok Pisin mới thực ngoạn mục, như các thí dụ sau đây: “mausgras” (cỏ mồm) = râu mép; “gras bilong fes” (cỏ mặt) = râu; “gras bilong hed” (cỏ đầu) = tóc; “gras antap ai” (cỏ trên mắt) = lông mày; “gras nogut (cỏ không tốt) = cỏ dạ
Trong cuốn sách mang tên Experiments in Civilization của tác giả H. I. Gogbin, xuất bản tại Luân đôn năm 1939, người đọc được thưởng thức một bài thơ rất cảm động viết bằng tiếng Tok Pisin bởi một nhà thơ khuyết danh, với lời lẽ giản dị bộc trực. Chỉ vì miếng cơm manh áo mà nhà thơ ấy phải bỏ quê nhà ra thành thị làm việc, nhưng trong lòng lúc nào cũng rộn lên một niềm thương nhớ quê xưa, người cũ:
Ples bilong mi i namerwan
Mi laikim im, tasol
Mi tink long papa, mama tu
Mi krai long haus bilong ol

Quê tôi hạng nhất trên đời
Tôi yêu nó, có vậy thôi
Tôi nghĩ đến cha và mẹ nữa
Tôi sót thương cho mái nhà chung

Mi wok long ples i longwe tru
Mi stap nogut, tasol
Brader, susa tu
Long taim wetim mi
Ol tink mi lus long si

Vì miếng ăn tôi xa nhà thực
Mà bỏ làm thì khó, thế thôi
Anh và chị thân yêu tôi nữa
Ngóng tôi về từ bấy lâu nay
Giờ chắc nghĩ tôi chìm sâu đáy biển

Nau mi kirap, mi go long ples
Mi nokin lusim mor
Ples bilong mi i namerwan

Phút này đây tôi đứng dậy, trở về
Vì không thể cách xa nơi ấy nửa
Quê hương tôi hạng nhất trần gian

Mặc dù nhiều người vẫn còn coi nhẹ các loại tiếng giả cầy – người Pháp còn gọi loại ngôn ngữ này ở Phi châu là petit nègre (mọi đen con) vì nó ít từ vựng và dùng ngữ pháp thô sơ như con nít – các loại ngôn ngữ rất đặc thù này đã thành công trong sứ mệnh truyền thông giữa người với người, và đó là mục đích chính của bất cứ một ngôn ngữ nào. Chúng cũng chúng minh hùng hồn được khả năng sáng tạo của bộ óc con người khi nhu cầu truyền thông đòi hỏi. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn những ngôn ngữ giả cầy của nhân loại dưới một ánh mắt độ lượng hơn.

Trần Nguyên Đán
Lời ở chân mây
hôm qua đây salinger thả cái bong bóng đỏ lên trời
trời gió ôi chao gió
gió thổi chao chác bong bóng đỏ như lời ru cuối
và em phương trời nào có biết

và hôm kia tagore gửi tặng một quyển sách
giữa bầu trời đêm và xa lộ mịt mù sương trắng
rải rác, đôi khi, thỉnh thoảng, tình cờ, vô ý
mầu trăng nhợt nhạt như cái nhìn của một nhân vật trong phim ảnh nào đó

rồi hôm nay frank sinatra mang đến một lời hát
với chữ nghĩa việt nam bay bổng của nam lộc
dòng đời dòng đời dòng đời
my way my way my way …, my way

ở nước mỹ có ngày không xe chạy ngoài đường
chỉ có tiếng chim hót trong vườn
những front yard back yard được landscape đẹp đẽ
hoa hồng không tình yêu

đợi tôi đến
mang những món quà của tôi đến, nước mỹ
hy vọng vẫn còn kịp
để cất tiếng chào buổi sáng, good morning America

ngồi im
ngồi im như thể pho tượng trên núi
áo quần trắng nhưng trái tim trần trụi
gió thổi tới
những hạt cát dày cũng muốn khóc

tôi vẫn nghe lời chim mỗi sớm mai
trong rừng thưa sau nhà
tôi vẫn thấy tiếng sóc nói loáng thoáng
giữa bụi bờ hoang vắng

và tiếng tôi khàn đặc
trong giếng sâu tĩnh lặng
như một kẻ không nhà tìm về
một chỗ không phải của mình

và chua xót biết mấy
lang thang mãi trong mùa không lối thoát
những hoa trắng vương vấn
sợi tóc ngắn sau ót

ngồi im như thể mình không biết khóc
mà thôi, trăng muộn nhiều khi
trăng không nói gì đâu
nói mà ai nghe

khi jesus đến
loanh quanh mãi trong ngõ cụt một hồi
rồi cũng turn about mà ra được
lạc đường ở washington dc một hồi
rồi cũng ra được
con chim lạc nhà
nhớ mùi hương cũ của ngôi nhà xưa tìm về
rồi cũng tìm ra được
một ngày nắng
cả thế giới nắng

đó là ngày mà chúa jesus đến
lúc đó trời mưa nhiều lắm
cơn bão mang tên người đàn bà
đẹp nhưng tính tình đỏng đảnh
phất cái váy dài bão tố đi ngang thành phố
làm nổi loạn sóng gió
nhưng cơn mưa đột ngột chấm dứt

vì jesus đã đi ngang qua đây
giữa cuộc hành trình dài muốn ngừng lại nghỉ ngơi
và thình lình thấy
người đàn ông đứng bơ vơ trong gió
khuôn mặt đầy nước mưa và nước mắt
người không nói gì hết
chỉ đến và dang rộng vòng tay

ngày đó thế giới bỗng dưng nắng rực rỡ và ấm
không cần áo ấm
mà tâm hồn như chiếc áo mới sấy khô còn mới
thơm như những đóa hoa huệ
bay ngát trong không gian hương cỏ của vườn xưa
khi jesus đến mọi vật đều trở nên thơm tho và mới
hơn tất cả mọi thứ

đó là ngày mừng sự hạnh ngộ của chim thiên di
không cần biết bao nhiêu năm
vì ngày tháng có nghĩa gì đâu
khi jesus đến
những ngày mưa lê thê đã ngừng lại bên vệ đường
đưa mắt nhìn bầu trời trong sáng đầy mây và nắng

Phạm Tương Như
Vết đời
Chiều nhốt thời gian vào ngõ cụt
Biết làm sao ta vượt qua đêm.
Bên cầu sinh tử ngoài sáng tối
Về thiên thai tìm dấu chân em.
Ta thành hạt nước mưa trên đá.
Gội tóc em thơm nắng lụa đào
Ôm hoài mơ ước xanh như lá
Ngọn tóc thu đông lá đổi màu

Đêm nay trăng sáng rơi đầy lối
Ta nhặt vàng trăng để gối đầu
Khẻ đắp chăn em, trùm bóng tối
Trăng tàn ta biết ngủ nơi đâu.
Mắt em như suối nguồn tuôn chảy
Đôi mắt nhìn đời như ánh sao
Ta tìm giọt nước long lanh ấy
Mỗi bận nhớ người, thêm vết đau.

Tà áo nghìn trùng vương cát bụi
Chim bay mõi cánh lạc đàn xa.
Ngày mai ẩn sĩ bao nhiêu tuổi
Gói tình trong lớp áo hoàng hoa.
Ta về đánh thức mùa thu chết
Gom hết lá vàng trả lại cây
Bao nhiêu thương tích, bao tì vết
Ném vào vô tận giữa cung mây.

Chuốc rượu
Chọn một góc đời, bên sông uống rượu
Nhỡ có say trăng đáy nước trầm mình
Tìm bóng Hằng Nga, kết nghĩa lưu linh
Hồn Lý Bạch trong ta buồn hiu quạnh

Chiếc bóng đơn côi dưới dòng sông lạnh
Tình đã phôi phai sao mãi nhớ người
Chén rượu hương đời mấy lượt đầy vơi
Ai chạm bể ly cho đời dậy sóng

Ta cụng ly ta như hình cụng bóng
Cụng ly đầy nghe nhẹ tựa chân không
Rót rượu mời ta uống cạn biển lòng
Để nhớ thuở bềnh bồng say giấc mộng

Một mình ta ôm vùng trời lồng lộng
Chở gió đưa mây tìm giấc mộng dài
Giữa biển đời ta còn biết đưa ai
Tình mới đó đã nhạt nhòa vọng tưởng

Say túy lúy để ta vui ngất ngưỡng
Vì đời như gió thoảng một cuộc chơi
Rượu bạc đầu tống tiễn tuổi đôi mươi.
Miền ký ức chỉ là hơi rượu đắng.

Nàng sang thăm mặc áo hường,
Màu gì tôi cũng quá thương em mà !.
Áo hường càng đẹp làn da,
Chiều thu mặc áo hoa cà giùm anh.
Chỉ xin đừng mặc áo xanh,
Sợ em làm nhạt thiên thanh bầu trời.
Tránh màu biển sóng, mây trôi,
Vì anh rất sợ có hồi xa em.
Thôi thì mặc áo màu kem,
Biết đâu anh chẳng chết thèm môi ai.
Em đừng mặc áo hở vai,
Đôi bàn tay trắng đủ ngây ngất đời.
Tháng hè áo phượng hồng tươi,
Hàm răng hạt bắp, nụ cười đỏ môi.
Áo vàng! Kiêu lắm em ơi!
Anh quê mùa quá sợ lời thị phi,
Nếu em mặc áo rằn ri,
Nhỡ anh làm lính ít khi quay về.
Áo trắng em lót tóc thề,
Thì thôi hãy cứ vân vê áo dài.
Nhớ về thêu một cành mai,
Để con bướm trắng đậu hoài vai em
Ra đồng nhớ mặc áo đen,
Tuổi em mười sáu anh quen lâu rồi.
Chẳng cần áo tiệp màu môi,
Hương thơm hơi thở bồi hồi lòng anh.
Áo em màu lá cây xanh,
Anh về thương cội nhớ cành vườn em,
Chỉ là trái ổi trái me,
Bổng nhiên hai đứa e dè bên nhau.
Mai sau áo có phai màu,
Anh còn áo đỏ máu đào thương em.

Huỳnh Quang Thế
Mến tặng các em học sinh
Trung Học cấp 3 Việt Nam
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được giới văn học Việt Nam tán đồng là một tuyệt tác văn chương. Với tính cách này, truyện Kiều đã được đưa vào chương trình giáo dục, và thường được chọn làm đề thi Trung học phổ thông.
Truyện Kiều đã được rất nhiều nhà biên khảo thảo luận. Tuy nhiên, chúng ta đọc được rất ít bài viết mang tính chất thuần túy văn chương đề cập phần bố cục, các vai trò điển hình xã hội triều đại nhà Minh, những điểm hay trong việc xử dụng từ ngữ thích hợp với ngôn ngữ đại chúng, hay có tính cách so sánh với các áng văn khác nổi tiếng trên thế giới… Có những dọan văn , nhà biên khảo này lướt đi không đề cập, nhà biên khảo thứ hai chỉ viết một mệnh dề chưa trọn một câu, các nhà biên khảo thứ ba, thứ tư viết được hai câu.
Vài năm trước đây, các thầy cô giám khảo kỳ thi Trung học đã đưa lên mạng bài thi của vài học sinh, phàn nàn tính cách yếu kém về văn chương của các em. Trong những bài này, chúng ta đọc được một câu đáng chú ý: Tiên sinh Nguyễn Du qua đời vài trăm năm, đã để lại “bí kíp truyện Kiều” vẫn còn làm khiếp đảm quần hùng. Cũng chỉ với một câu thơ lục bát tả tình, tả cảnh, thử hỏi các em thí sinh trẻ tuổi với bổn phận phải khai triển thành bài luận văn dài từ ba đến bốn trang giấy khổ lớn, có phải là điều khiếp đảm hay không. Bài luận của các em yếu kém thật. Nhưng điều đáng nói nơi đây là các thầy cô không có cái “dũngcủa kẻ sĩ phu” nói lên nền gíao dục đã dào tạo tình trạng yếu kém của các em, và tỏ ra không thông cảm tinh thần căng thẳng trước đề thi khó ảnh hưởng đến tương lai cả cuộc đời. Ngòai ra, các thầy cô không đưa ra bài giải đáp mẫu để các em tự so sánh, cam phận thi trượt, cố gắng học hỏi thêm, cũng như mọi người lên mạng thưởng thức văn tài của các thầy cô.
Trong tinh thần này, bài viết chỉ thảo luận câu thơ lục bát:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nủa soi dặm trường.
Nàng Kiều được quan huyện Lâm Truy tha tội sống chung không hôn lễ với Thúc Sinh, và quan huyện chính thức tổ chức lễ cưới cho nàng Kiều với Thúc Sinh tại huyện đường. Sống chung gần một năm, nàng Kiều khuyên Thúc Sinh trở về nhà ở Vô Tích bày tỏ sự thật về tình trạng vợ thứ của nàng với vợ cả Họan Thư.Thúc Sinh lên đường trở về nhà. Đoạn thơ này mô tả :
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dậm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Câu thơ “Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường” dường như dễ hiểu, nên chúng ta chưa thấy được bàn đến nơi, đến chốn. Nay xin phân tích ý nghĩa. Chữ “ai” là từ dùng chỉ một người nào đó (Từ điển tiếng Việt – Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội) . Nói một cách khác hơn, chữ ai chỉ một con người như chúng ta, không phải thần linh, chỉ có thể hành động một cách bình thường của con người.
Điều thắc mắc đặt ra là con người có thể xẻ làm đôi mặt trăng được hay không? Với người sinh sống nơi đồng bằng, mặt trăng lên cao trên ngọn cây, lên cao trên bầu trời và sau cùng lặn xuống dưới chân trời. Đối với những người sống nơi miền trung du hay thượng du, mặt trăng lên cao trên đỉnh núi. Đối với người miền biển, mặt trăng từ dưới nước nhô lên. Điều này cho thấy mặt trăng ở xa ngoài tầm tay của con người và luôn luôn xê dịch. Như vậy con người có thể ở vị trí nào để có thể đưa dao ra xẻ mặt trăng? Việc này chắc chắn kế vô khả thi.
Quan sát hình dáng mặt trăng hiện ra trong những đêm mùng 6, mùng 7, mùng 8, mùng 9 âm lịch, chúng ta thấy trăng hiện ra đầy đặn rõ ràng hơn mỗi đêm. Trong đêm mùng 9 âm lịch, trăng hiện ra thật rõ, vứa đầy phân nửa bên trên, tức là phần từ giữa thân cây đa trở lên ngọn cây. Từ đường đáy ngang trở xuống hòan tòan là màu đen của vũ trụ. Từ lúc 7 giờ đêm, trời vẫn còn sáng với mây ửng hồng ở phương tây, trăng đã hiện ra rất cao vào khỏang góc 75 độ so với chiều ngang mặt đất. Lúc 11 giờ đêm, trăng đã lên cao đến dỉnh, đường đáy ngang đã xoay nằm thẳng đứng. Ghi rõ phần này nhằm xác nhận trên trời chỉ hiện ra phân nửa bên trên của vầng trăng tròn, và không có nửa vầng trăng nào khác. Mỗi đêm trăng được đầy hơn và trở thành trăng tròn vào đêm rằm, mười sáu âm lịch. Sau đêm này, trăng bắt đầu khuyết bớt dần đến dêm 29 âm lịch, trăng chỉ còn là cái vệt nhỏ. Đêm 30 và mùng 1 tháng kế tiếp không có trăng. Chu kỳ xuất hiện của trăng xảy ra đều đặn từ nhiều ngàn năm .
Câu “Vầng trăng ai xẻ làm đôi” có tính cách xác định này biểu hiện trí nhớ không chính xác so với việc quan sát hiện tượng thực tế. Nó diễn đạt tính cách ảo tưởng về nửa vầng trăng khác xuất hiện cùng lúc với nửa vầng trăng hiện có trên bầu trời đêm. Người Trung hoa từ mấy ngàn năm trước, đã quan sát rất kỹ việc vận hành của mặt trời, mặt trăng và trái đất để dựa theo đó canh tác ngũ cốc nuôi sống. Họ nhận xét và dựa theo kinh nghiệm , đã tính ra được mỗi năm có 365 ngày, với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, những ngày Đầu xuân, xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí. Âm lịch có những tháng thiếu, tháng đủ để ngày rằm đúng vào đêm trăng tròn. Sau những năm liên tục, âm lịch có một tháng nhuận để điều điều chỉnh lại cho đúng với thời tiết. Mỗi chu kỳ lớn là 60 năm, thời tiết trở lại tuần hòan cũ. Người Trung hoa ngày xưa cũng tính được qủy đạo của mặt trời, mặt trăng và trái đất biểu hiện bằng những vòng tròn lồng vào nhau. Nhưng cho đến nay, trong lãnh vực âm lịch, chúng ta chưa thấy đề cập đến việc xuất hiện cùng lúc trong đêm hai nủa vầng trăng.
Vầng trăng, ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Trong quyền Truyện Kiều của Giáo sư Đặng Cao Ruyên, câu này được giải thích : “Sau khi đăm đăm nhìn người và ngựa từ từ nhạt nhòa rồi khuất dần sau ngàn dâu xanh hòa quyện với lớp bụi đường, nàng Kiều thẫn thờ, ngẩn ngơ trở về buồng cũ với chiếc bóng năm canh, lòng nghĩ ngợi mung lung, tưởng tượng như nhìn thấy bóng dáng chàng đang rong ruổi dặm trường dưới nửa vầng trăng soi rọi, theo dõi từng bước chàng đi và đồng thời, nửa vầng trăng còn lại chiếu xuyên qua song cửa in bóng trên gối chiếc trong khuê phòng nàng. Một hình ảnh tuyệt đẹp với tấm lòng chung thủy đằm thắm tuyệt vời của người vợ
trẻ có chồng đi xa lâu ngày”.
Trên đây có lẽ là sự hiểu biết không chính xác của đại chúng, do câu thơ gieo rắc vào tư tưởng nhiểu thế hệ từ đầu thế kỷ thứ 19 cho đến nay. Làm thầy thuốc nếu sai lầm, chỉ làm chết một mạng người. Làm văn hóa nếu sai lầm, sẽ ảnh hưởng đến nhiều thế hệ mai sau.
Vấn đề bàn luận tiếp theo là ánh sáng của nửa vầng trăng chiếu xuyên qua cửa sổ, in bóng những chiếc song lên gối chiếc vào những đêm nào trong tháng, và khỏang giờ nào trong đêm? (không phải như Giáo sư Đặng Cao Ruyên diễn đạt “nửa vầng trăng còn lại chiếu xuyên qua song cửa”, vì không có yếu tố nào cho biết song cửa làm bằng vật liệu gì để ánh sáng có thể xuyên qua, và ánh trăng lại không xuyên qua những khỏang trống nơi cửa sổ. Ngòai ra Thúc Sinh vừa lên đường chưa trọn một ngày đêm, không phải đã đi xa lâu ngày).
Truyện Kiều xảy ra trên đất nước Trung hoa, dưới triều đại nhà Minh, vì vậy chúng ta cần biết qua chút ít về nếp sống của dân tộc này. Từ xa xưa trong điều kiện đất đai quá rộng, dân cư trú ngụ thưa thớt, người trung hoa đã xây cất nhà với mặt trước hướng về phương nam, và tường sau của ngôi nhà ngăn chận luồng gió lạnh từ phương bắc thổi xuống. Phương hướng thực dụng này gíup cho việc khi mở cửa nhà ra vào không bị gió luồng vào lạnh cả ngôi nhà, đã trở thành tục lệ. Gian phía đông dành cho phái nam, thể hiện trong thành ngữ Rể đông sàng. Gian phía tây dành cho phái nữ, gian chính giửa dành thờ phụng Tổ Tiên, cũng là nơi tiếp đón thân bằng quyến thuộc.
Trong mỗi tháng, có những đêm mùng 9, mùng 10 là những đêm trăng tròn đầy đặn đến phân nửa vầng trăng tròn đêm rằm, đêm 16. Mỗi đêm trăng lên chậm một giờ, từ hướng đông, cùng với hướng của mặt trời lên buổi sáng, có nghĩa ánh trăng chiếu đêm mùng 9 ít bị ảnh hưởng hơn ánh sáng buổi chiều một giờ so với ánh trăng đêm mùng 8. Mỗi đêm trăng lên càng muộn càng tỏ rõ ngay khi lên khỏi ngọn cây, vì trời đã vào đêm lâu hơn. Đêm mùng 9, lúc 10 giờ đêm, đường đáy ngang của nửa vầng trăng còn nghiêng về phương dông, chỉ có thể chiếu rọi vào phòng phương đông ngôi nhà, nơi phái nam trú ngụ. Lúc 0 giờ 30 sáng,trăng đã xuống phía tây còn khỏang góc 45 độ, vòng tròn phía trên của nửa vầng trăng đã xoay nằm bên dưới, và vừa hơn 1 giờ sáng, trăng đã lặn xuống.
Ngày xưa người ta phân chia thời gian buổi đêm làm năm canh: canh một từ 7 giờ đến 9 giờ, canh hai từ 9 giờ đến 11 giờ, canh ba từ 11 giờ khuya đến 1giờ sáng (nửa đêm giờ Tý – canh ba), canh tư từ 1 giờ đến 3 giờ, canh năm từ 3 giờ đến 5 giờ sáng. Câu ca dao diễn tả việc người phụ nữ xử dụng thời gian lo toan việc nhà và nuôi chồng học hành: Canh một dọn cửa, dọn nhà, canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm, canh tư bước sang canh năm, trình anh dậy học, còn nằm làm chi. Qua câu này, chúng ta thấy người phụ nữ vào giường nằm vào lúc canh ba, tức lúc 11 giờ đêm. Vào đêm mùng 9 âm lịch, trên trời có nửa vầng trăng sáng, nếu nàng Kiều bắt đầu vào giường nằm như câu ca dao, và trằn trọc thao thức thời gian chưa đủ đêm dài, trăng chưa kịp soi phía tây vì đã xuống thấp và lặn. Như vậy mệnh đề “nửa soi gối chiếc” không xảy ra vào đêm mùng 9 hay mùng 10 thượng tuần.
Để chỉ thời gian trăng lên muộn sau ngày rằm, người miền nam ở nông thôn có câu “mười tám nám đống trấu” nhằm diễn tả thời gian đốt vừa nám đống trấu sau nhà để xua muổi quá nhiều, trăng mới mọc lên. “mười chín nín một canh”
nhằm giải thích phải qua hết canh một ,đến đầu canh hai, nghĩa là 9 giờ đêm trăng mới mọc lên. Sau ngày rằm, mười sáu trăng tròn, đêm 17 trăng đã bắt đầu khuyết dần nơi phía trước ngọn cây đa. Đến đêm 22, 23 âm lịch, trăng khuyết xuống nhiều chỉ còn lại nửa vầng trăng. Trăng mọc muộn và thời gian từ trên đỉnh cao đi về phương tây để lặn xuống đã quá nửa đêm canh ba và thuộc về canh tư kéo dài cho đến phần đầu của canh năm lúc bấy giờ ánh trăng soi rọi thẳng vào gian phía tây ngôi nhà, nơi dành cho phái nữ. Gần suốt trọn đêm dài thao thức ngổn ngang tâm trí, khi nhận ra ánh sáng nửa vầng trăng lọt vào khung cửa sổ, in bóng những chiếc song lên gối chiếc, nàng Kiều mới có thể nghĩ ra câu “nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. Như vậy thời gian câu thơ Kiều diễn tả, thích hợp vào đêm 22 hay 23 với nửa vầng khuyết, khỏang canh tư cho đến phần đầu canh năm.
Trong sự tuần hòan của thời tiết đổi thay, từ khi chớm thu, khí trời chuyển sang mát mẻ, dễ chịu. Khi trời vào thu, thời tiết đã từ từ chuyển sang lạnh lẽo. Một phần những lá cây phong thay màu thành vàng xanh, dần dần tất cả lá cây phong đều vàng dẫn đến màu vàng rực rỡ thật đẹp đẽ thơ mộng vào giữa mùa thu. Đến giai đọan cuối mùa thu, lá cây phong chuyểng sang màu đỏ tươi và dần chuyển sang màu đỏ thẩm để khô héo lìa cành vào đầu mùa đông lạnh giá.
Câu thơ “Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san” diễn đạt những chiếc lá vàng tươi, đỏ thắm rục rỡ của rừng phong mùa thu đã thay màu thành những lá phong đỏ thẩm, biểu hiệu tiến trình của việc tàn phai, gợi lên niềm cảm xúc man mác nỗi buồn chia ly nơi miền quan san xa xôi. (Chính cái ải nhạn quan san Họan Thư cao chớn chở, cuồng phong nộ vũ, nơi xa xôi ngòai chân mây, đã là niềm lo sợ cho nàng Kiều, vì lý do này, nàng Kiều mới khuyên Thúc Sinh về Vô Tích thu xếp).
Với yếu tố màu lá phong đổi thay lúc tàn thu, chúng ta có thể xác định được câu thơ “Vầng trăng ai xẻ làm đôi, nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường” xảy ra thích hợp vào đêm 22 hay 23 với nửa vầng trăng khuyết, khỏang canh tư cho đến phần đầu canh năm của tháng 9 âm lịch, thời điểm cuối mùa thu.
Chúng ta bàn tiếp về “nửa soi dặm trường”. Mấy chữ này thường làm cho người thưởng ngọan câu thơ liên tưởng đến cảnh chàng Thúc Sinh cởi ngựa dong ruổi dưới ánh trăng. Nhiều vị học giả cũng đã nghĩ như vậy. Ngày nay, chúng ta xem phim ảnh về cuộc sống của người Trung hoa ngày xưa, chúng ta hiểu được rõ ràng hơn. Người Trung hoa ngày xưa di chuyển từ nơi này đến nơi khác bằng cách đi bộ, cởi ngựa, hay ngồi xe do lừa kéo, đều đi thành từng nhóm để có thể giúp đỡ lẫn nhau, cũng để tránh cướp bóc dọc đường. Đối với các tiêu cục vận chuyển hàng hóa hay hộ tống đòan người ngựa đều có nhiều người võ trang để bảo vệ an ninh, chống lại cướp bóc từ những sơn trại. Còn phần đường xá, chỉ là những con đường mòn xuyên ngang qua khu rừng, những cánh đồng hoang, đường sơn đạo ven theo sườn núi. Những thôn ấp là những tiêu mốc về địa điểm trên lộ trình. Dọc theo những đường mòn thông dụng, người địa phương có dựng những mái tranh làm nơi ngừng nghỉ giữa trưa hay chiều tối, để bán nước trà nóng, rượu, thúc ăn và nước, cỏ cho lừa ngựa. Thông thường sau một đọan đường dài ai cũng phải dừng lại nghỉ ngơi, ăn uống, và phải ngủ lại ban đêm, ngày mai mới đủ sức lực đi tiếp, và tránh một mình đi ban đêm dễ bị lạc đường và bị cướp bóc.
Thúc Sinh một mình, một ngựa từ Lâm Truy về Vô Tích trên con đường dài (dặm trường) phải đi nhiều ngày. Với lối di chuyển của người Trung hoa ngày xưa mất rất nhiều thời gian, Thúc Sinh phải chịu đựng nhiều mệt mỏi. Chuyến về Vô Tích cũng không phải là chuyện gấp rút cần di chuyển nhanh, và tránh di chuyển đơn lẻ trong đêm, Thúc Sinh cần phải nghỉ lại ban đêm. Chúng ta có thể cho rằng Thúc Sinh ngày đi, đêm dừng nghỉ nơi quán xá dọc đường, và không xảy ra cảnh “dưới ánh trăng soi, Thúc Sinh cởi ngựa dong ruổi dặm trường”.
Còn nàng Kiều, sau nhiều năm lưu lạc cũng vào khỏang 30 tuổi, đủ hiểu biết mọi người di chuyển đường bộ, dù bằng phương tiện nào, cũng cần phải nghỉ ngơi vào ban đêm để còn đủ sức lực tiếp tục đi những ngày sau cho đến nơi. Như vậy, nàng Kiều chỉ đơn giản nhớ đến Thuc Sinh với nửa vầng trăng soi con đường dài thăm thẳm, lộ trình Thúc Sinh phải đi để về đến Vô Tích. Điều này có vẻ hợp lý hơn.
Câu thơ: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi, nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường” mới đọc qua, ai cũng tưởng đã hiểu rõ ràng. Nhưng với phân tích này, những hiểu biết của thời tuổi trẻ vẫn chưa đủ.
Nhà biên khảo Vân Hạc Vân Hòe giải thích theo nghĩa bóng: “vầng trăng tròn dùng để biểu tượng sự đoàn viên xum họp, nay vợ chồng chia lìa nhau, thì vầng như bị chia làm hai”.
Giáo sư Thanh Lãng cho là “mối tình chớm nở của Thúc Sinh và Kiều cũng đã tan rã với cảnh trăng vỡ làm đôi”. Diễn tiến câu chuyện đến đây cho thấy Thúc Sinh và Thúy Kiều đã được quan huyện Lâm Truy tổ chức lễ cưới tại huyện đường, hai vợ chồng đã sống chung gần một năm. Điểm này cho thấy Giáo sư Thanh Lãng không nắm vững vấn đề với chi tiết, và không cân nhắc tư tửơng diễn đạt,đã nhận định sai lầm về thời gian lùi trở lại thời điểm “mối tình chớm nở” giữa Thúc Sinh và nàng Kiều.
Nhà biên khảo Vân Hạc Vân Hòe và Giáo sư Thanh Lãng đọc từ đầu truyện Kiều chỉ vừa đến câu này, mà đã nói được sự tan rã mối tình của Thúc Sinh và Kiều lúc sự kiện chưa xảy ra, là việc nhận định thiếu yếu tố xác định hổ trợ. Vì lý lẽ này, những nhận định không có giá trị.
Giáo sư Hà Như Chi nhận định: “Hai câu cuối lại càng tài tình hơn nửa, Chỉ một vầng trăng mà soi cảnh lử thứ, vừa soi chốn cô phòng, chẳng khác nàng Kiều và Thúc Sinh hai người ở hai nơi mà cùng một lòng sầu nhớ”. Chúng ta không tìm thấy câu thơ nào diễn tả lúc đi đường Thúc Sinh sầu nhớ nàng Kiều, vì chỉ mới xa cách nhau chưa tròn một ngày đêm. Chúng ta chỉ thấy ý nghĩ riêng của Giáo sư Hà Như Chi gán ghép thêm cho Thúc Sinh sầu nhớ nàng Kiều. Có lẽ việc này giống như nêm mắm muối muối cho thêm phần mặn mòi câu chuyện, và chắc chắn không phải tư tưởng của tác giả Nguyễn Du.
Điều đáng buồn là các học sinh ngày xưa của các vị giáo sư danh tiếng, hay độc giả của các nhà biên khảo, ngày nay có thể là các thày cô đang giảng dạy những học sinh của những thế hệ hiện tại. Những hiểu biết sai lầm nhỏ ngày xưa với những đổi thay của thể chế xã hội, giờ đây trở thành những hiểu biết sai lạc lớn lao quá nhiều .
Cùng các em học sinh, với mọi trường hợp, cũng xin chúc các em trong tương lai có được một nền giáo dục tiến bộ tốt dẹp, những kiến thức văn hóa thế giới hiện đại, những tư tưởng khai phá để góp phần xây dựng đất nước Việt Nam thịnh vượng, hùng cường.

Huỳnh Quang Thế
Tham khảo:
*Truyện Kiều: tác giả, nhân vật và luân lý – Đặng Cao Ruyên [ Hoakỳ 2005] *Truyện Kiều chú giải- Vân Hạc Văn Hòe [1961] *Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam- Thanh Lãng [1969*Nguyễn Du tòan tập- Nguyễn Thanh Giang [1996]*Việt Nam Thi Văn Giảng Luận- Hà Như Chi [1970]*Văn Hiến- Nhiều tác giả [ Hoakỳ 1979]

Túy Hà
Người đi
tiệc rượu chưa tàn
Thương quá Phương Triều

Phương Huynh từ giả văn đàn,
Cuối Thu Cúc nở, Sen tàn đầu Đông
Đã qua rồi những bão giông,
Vẫn còn lưu dấu những dòng mực rơi.

Một đời chữ nghĩa không vơi
Ý trung tình ngoại, rong chơi trăm đường.
Cười ngày buông súng vãn tuồng
Khóc đêm quá hải tha phương lạc bầy.

Ngộ ra giữa xóm mộ đầy
Những oan hồn sống như cây dật dờ.
Ngộ ra ở giữa đôi bờ
Lằn ranh sinh tử sợi tơ vô tình.
Ngộ ra, múa bút vẽ hình
Quê hương xa lắc, bất bình hí ngôn.
Hai tay nhúng mực chiêu hồn
Những oan khiên giữa chiều hôm mộ đời.
Âm thanh vỡ,
Tiếng ma cười
Chân tê gối bại
Không lời thở than.
Như tùng bách, giữa đông hàn

Vẫn nghiêng bầu rượu tiệc tàn cạn hơi.
Dẫu là giọt sữa đất người
Cầm hơi để nhớ một thời nắng mưa.

Nghĩa là tính nhân lũy thừa
Coi thường số mệnh, cõi đời phù sinh
Tâm người
Ý bút phân minh
Chép thơ, gọi bạn, nối tình nước non.
Trăm hoa nở, bút chưa mòn
Phong trần phiêu bạt vẫn hồn nhiên thôi.
Phương huynh ơi!
Lỡ một thời
Thân tàn chiến bại vẫn tươi máu hồng
Vẫn là Việt Nam trời đông
Hồn huynh chắc sẽ vượt sông trở về.
Còn đây bến giác bờ mê
Câu thơ Nam bộ, chân quê riêng mình.
Khói nhang vương vấn bóng hình
Lạy này tống tiển hương linh mãn phần
Cõi người
Huynh đã thành nhân
Cõi vô cùng ấy, thành thần tự thân.
Chén này gom hết phong vân
Đệ huynh cạn hết, trăm phần tiếc thương.

Nguyễn Thế Giác
Mua lấy chữ nghĩa Thánh Hiền
Tôi cố gắng hết sức, mò mẫm đi qua vùng ruộng rộc (ruộng dưới miền đất thấp) cả chiều dài miền hạ bạn, vừa sông ngòi chằng chịt, vừa bờ đê ngăn nước mặn và biết bao con đập có bờ kè cao chất ngất rộng mưa nguồn, của một miệt quê hẻo lánh, phần thì không ngớt ve vuốt, nâng niu chìu chuộng con ngựa sắt, vì vốn dĩ người chủ trẻ măng của nó, cũng đã từng ngao du sơn thủy, thường xuyên trên lưng loài kỳ mã này, cho nên dù muốn dù không, cũng cảm thông đến con Xích Thố kiệt xuất của giống dân Âu Tây biến chế đầu tiên, cho các Quốc Gia trên thế giới làm phương tiện giao thông, sau kỷ nghệ xe hơi, tàu biển, ca nô.
Người xưa thường ví von:
– Đường dài biết sức ngựa! (trường đồ tri mã lực).
Bởi thế, tôi thầm thương và qúy mến con ngựa ấy vô cùng, lúc thì kè nó theo sát bên cạnh, chốc chốc lại còn vui vẻ cõng trên đôi vai, thủ thỉ lời trần tình chí cốt, cùng một khối kim loại kồng kềnh, gồng mình cố quên đi nặng nhọc, miệt mài lội qua mấy con sông cạn và những cánh đồng cỏ Năng hoang dã từ lâu đời, mọc phủ bờ dày đặc, thành một vùng không thể canh tác được, chạy dài hun hút tận cuối chân đê, có đoạn nước lúp xúp, cỏ Bồng trôi lơ lửng, như hăm hở chào đón bước chân người, cho dù thời ấy vẫn còn trai trẻ với thân hình vạm vỡ, nhưng đôi chân thiếu điều cũng muốn dại hẳn ra.
Ông Cha mình lúc nào cũng tò ra thâm thúy trong những lúc so sánh:
…Tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu!
Sức Hạng Mã đâu không thấy, nhưng đổ hào quang đôm đốm, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thế mà lặn lội gần nửa ngày, nhìn lại mới chỉ tới được Triêm Ân Lạc Điền, vùng ven biên của chợ Vạn Gò Bồi, còn hai phần ba đoạn đường nữa, mới đến Thị Trấn Qui Nhơn, nơi mà Thầy Mẹ tôi đã đóng tiền nội trú, muốn cho cậu con trai được lột xác trưởng thành, học hỏi những điều mới lạ, trau dồi kiến thức của người thành phố, nếu may mắn hơn, sẽ có nhiều cơ hội tiếp nhận được những gì mới mẻ từ các Quốc Gia lân bang, du nhập vào đất nước kém mở mang, nhất là khoa học kỹ thuật, đang là chìa khóa lần dò mở tung những cánh cửa bí mật trên hoàn cầu, cho nhân loại chút hào quang tối thiểu của vũ trụ.
Thời ấy, muốn về Tinh gặt hái thêm chữ nghĩa, cầu cạnh tương lai sáng lạng, Cha Mẹ phải có tư tưởng rộng mở và thái độ dứt khoát, cho con cái ra khỏi cái quỹ đạo quê mùa, mới mong những người trẻ nhận được chút ánh sáng văn minh, từ thế giới phổ cập vào những quê hương lạc hậu.
Ca Dao Việt Nam có câu thật nồng nàn, đã lưu truyền trong dân gian, không biết từ thời nào, nhưng mãi đến nay, vẫn còn truyền khẩu và tưởng chừng là kim chi Nam, cho các nhà hàng hải muốn vượt đại dương:
Không đi khắp bốn phương trời.
Ở nhà với Mẹ biết đời nào khôn.
Chấp nhận để con cái khăn gói lều chõng ra đi, là cả công trình dự định kiến trúc qui mô, một lâu đài hạnh phúc cho thế hệ tương lai, vừa chắt chiu đối với Thầy Mẹ, vừa mong sao người trẻ quyết chí khắc phục, cả hai như mẫu địa bàn, sẵn sàng hướng dẫn một hướng đi đúng, cho người sử dụng. Đạo cha mẹ lại có trách nhiệm nhiều hơn, nhất là quan tâm đến người trẻ còn nặng nợ bút nghiên, đèn sách, ăm ắp kỳ vọng vào một ngày mai, cho mạch đời con cái mình vươn lên, để cuộc sống có nhiều ý nghĩa, những thầm mơ một tân khoa về làng tràn trề hy vọng, lúc nào cũng được vực dậy từ tâm tư cầu tiến thầm kín.
Cũng vì gia phả từ xưa có một học vị khả dĩ với đời, cho nên các đấng sinh thành nào lại không hãnh diện, cố cáng đáng công việc nhà, dành dụm chút ít tiền bạc, bằng mọi cách khả thi, nhồi nhét ý tưởng tìm Thầy, mua lấy chữ nghĩa thánh hiền, ưu tiên về nhu cầu sở học, đối với con cái mình.
Tuy rằng, thừa hiểu gia cảnh không mấy khả quan đi nữa, thậm chí có gia đình ước mơ những người trẻ thành đạt trên con đường công danh và sự nghiệp, đã không quản ngại gì đến mồ hôi nước mắt. dù phải đi ở đợ, nhẫn nhục khép mình của một con sen hoặc đưa thân làm tên đầy tớ hèn mọn, cùng lắm chịu cảnh tá điền, cung phụng cho một chủ nhân ông, miễn sao nhận được tí tiền còm, mớm sú cho con ăn học, trong thâm tâm chỉ mong ngày trông đêm đợi, con cái khỏi phải lo lắng, yên chí dùi mài kinh sử, nuôi dưỡng ý tưởng mở mang trí tuệ, để sau này trở thành hiền nhân quân tử là đủ rồi.
Thời ấy, chính ngoài xã hội không ngớt ra rả đánh giá: Sĩ, Nông, Công, Thương, mà kẻ sĩ còn ở trong ngôi vị và hấp lực tuyệt đối, làm mực thước cho sự thăng tiến, cho nên con người chẳng ngừng nuôi lấy hoài bảo khiêm nhường trì chí mua lấy chữ nghĩa lập thân, để được:
… Rồi sẽ có một ngày bảng vàng bia đá!
Thú thật, đi học ở tỉnh thành xa xôi, tôi chẳng hề vui thú gì lắm, vì lúc nào cũng ám ảnh nỗi khó khăn, cật lực của thân bằng quyến thuộc, chắc chắn không thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn, quanh năm suốt tháng chống chọi với thiên nhiên, nơm nớp cùng đói nghèo bệnh tật, như một hệ lụy canh cánh bên người:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu.
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Đi học xa vừa không muốn chỉ vì quyền lợi riêng tư của chính mình, mà làm nặng gánh cho cả gia đình, nhất là Cha Mẹ ngày một tuổi hạc chất chồng, càng thêm vất vả, tối ngày vật lộn vì sinh kế, những mong thế hệ tương lai có một chỗ đứng khiêm nhường trong xã hội đương thời.
Đã vậy, nhiều lúc tôi ngồi trầm tư, buồn nhớ quê nhà, tưởng chừng sẽ không khỏi mang phải tâm bệnh!
Chẳng những thế, riêng mình còn cảm thấy một mất mát lớn của tuổi trẻ. Nhìn lại từ thuở nằm nôi, đến lúc trưởng thành, lúc nào cũng mải mê hương đồng cỏ nội, thế mà nay lại phải đành đoạn rời xa hàng tre, bụi trảy, chia tay cả lũ bạn bè quần đùi áo cánh, cùng trang lứa rong chơi, đã một thời u quạ, nhảy dây, đánh giặc giả, xưng hùng xưng bá, kể cả thống lãnh binh bị của đội quân tí hon hỉ mũi chưa sạch, từ làng trên đến xóm dưới.
Chưa hết, vào cứ mỗi trưa Hè, rủ đi bắt tổ chim Dồng Dộc, rình rập chim Sẻ sú mồi cho con ở mái đình làng, còn hẹn nhau ra sông câu trê, đặt lờ, cắm trúm… Rồi, dọc ngang bơi lội, thỏa chí vẫy vùng từ đầu nguồn tới hạ bạn, ngâm người dưới giòng nước, cả ngày dài tắm nắng, da dẻ sạm đen như con rái cá, bên cạnh những Mỹ Nhân Ngư trong làng, trố mắt trừng nhau, kéo dài hơi thở bằng những bong bóng tình yêu, ngôn ngữ chỉ có dấu giọng và cứ vậy tha hồ hớp sóng, đuổi gió chẳng muốn lên bờ.
Phải thành thực mà nói, đi học vào thời điểm đó, sẽ không tránh khỏi thiếu thốn đủ thứ, biết làm gì hơn, để khỏi phụ lòng đấng sinh thành, tôi cố khắc phục mọi chuyện, như người lớn tuổi, lo lắng cho chính mình vậy. Nhất là bao giờ cũng thủ phận của một học trò nghèo, lặn vết thương lòng, xem ra lúc nào cũng rỉ máu, đăm chiêu về khung trời có nhiều ước mơ của tuổi trẻ, tưởng chừng nỗi ngậm ngùi ngự trị trên vùng xót xa, cho nên cứ khóc thầm hoài: Bởi vì nhớ nhà vô cùng!
Nhiều lúc con ma gây nên nỗi nhớ trầm kha ấy, đồng loã với thất tình, đã gặm nhấm lần hồi sinh lực, của một chàng thư sinh hiếu học, làm mất lần… mất hồi cả ý chí phấn đấu, từ bình sinh tuổi trẻ, nhìn đi nhìn lại không thể tìm lời vỗ về nào hữu hiệu, những mong xoa dịu linh hồn thương tổn, một sớm một chiều cho được.
Nội mơ màng đến hình ảnh Thầy Mẹ tôi, cứ mỗi hoàng hôn đến sớm hơn thường lệ, lụ khụ dắt nhau ra đầu ngõ, ngồi dựa bên hàng rào chè, cho tay ngắt những đọt trà non, đưa vào miệng nhai ngấu nghiến, rồi ngửa mặt hóng ngọn gió Nồm từ biển Nam Hải dìu dặt phả vào, qua cánh đồng lúa mùa, mã con gái mơn mởn, cố thả mắt nhìn về chân trời xa xăm, chắc chắn đấng sinh thành không khỏi tượng hình thằng con trai dõng dạc, trong thị giác chằng chịt tế bào thương cảm, giữa lòng con ngươi thật thà chất phát, đầy nhiễm thể cô đơn, trôi lung linh trong cù lao di động và dàn dụa nước mắt ngậm ngùi, ngập lụt cả võng mô điêng điếng.
Cứ mơ màng đến người thân yêu trong gia đình, là hai giòng nước có vị mặn cố hữu rịn ra từ khoé mắt bầm đen, rồi chảy miệt mài lên vùng bình nguyên phúng phính, chưa hơn một lần nếm phải mùi vị phong trần, của giông bão cuộc đời, nên chẳng làm thành vết tích tình yêu của mùa niên thiếu bao giờ.
Bỗng dưng, tôi lại nhớ đến ngôi từ đường cổ kính của Nguyễn tộc, mà Thầy tôi là cháu Đích Tôn được thừa hưởng cả Hương Hỏa Từ Đường và lo lắng thừa tự, nhang khói cúng kính ông bà. Tuy mỗi năm chỉ có một lần, nhưng dịp ấy, đại gia đình đoàn tụ, làm sao tôi quên được những gương mặt thân thương của họ hàng, bà con cháu chắt Nội Ngoại, trong ngày lễ Tế Hiệp đó.
Con đường tương lai tuy xa dịu vợi, nhưng mầu nhiệm thay, như có ai trả tôi về với hiện tại, trên lối đi, tuy bì bõm dò la sông rạch, tôi không ngớt liên tưởng đến những gì thân quen của quê hương nhỏ, trong túi hành trang bé của đời mình, mỗi lần như thế, lại càng chán ngấy người lên, khi nhìn qua một lộ trình gian nan, dài ngút ngàn, đang mặc cả và thử thách thằng con trai, tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nhưng giàu ý chí cũng như ham học chẳng kém ai.
Kìa là giòng sông không lớn lắm, uốn mình theo bờ tre doi đất, nằm vắt vẻo trước mặt, nhưng lưu lượng thừa sức tràn bờ ruộng nhỏ, đủ lượng nước nuôi sống đồng lúa tuổi đòng đòng đang ngậm sữa.
Sông Sa lờ đờ, như con bệnh đến hồi mệt mỏi, giỏng nước chẻ đôi làng tôi và thôn Triêm Ân, ra thành hai vùng mầu mỡ như nhau, nước nguồn đổ đầy hằng năm vào chiếc diều gà, trước khi thoát ra đầm Thị Nại, phụ lưu của sông Cái, đã có công ươm ngọt phù sa cho cánh đồng bạt ngàn, con nước cứ thế trôi lững lờ, một cách bình thản, tưởng chừng vô tư lự, nhưng vẫn nhớ đến trách nhiệm làm tươi mát cánh đồng Hữu Pháp Vân Tập, cho nhà nông có vụ mùa vụ chiêm khả dĩ.
Ai đi qua Sông Sa một lần, cũng cảm nhận thích thú không ít, nội mầu cát trắng ngà, lung linh tận đáy, gợn sóng nhỏ lăn tăn, ve vuốt làn da, thớ thịt, có khác gì bàn tay mầu nhiệm của người tình, vỗ về trên thân thể chú học trò mới lớn.
Mơ màng nhìn giòng nước lững lờ trôi, thấy chưa đủ sức gom những cánh bèo lang thang đi về một mối, cơn gió nhẹ chỉ vừa gây chao động mặt sông, làm bờ cỏ lùng, cỏ lát thập thò, như cố ý che khuất bóng bầy cá Luối, cá Bống Mú, cá Chốt động tình, từng đàn đua nhau lội ngược giòng, tung tăng tìm nơi kín đáo đẻ trứng, sinh con, trước một mùa Đông mưa dầm gió cuốn, cả ngày dài trời mây âm u băng giá sắp đến.
Nhìn đi nhìn lại, chẳng còn con đường nào để chọn, đành lặng lẽ cởi cả quần dài quấn vào cổ, hy sinh chịu nhận nước chiếc xà lỏn cũn cỡn, để khỏi bị mang tiếng là cung xúc tu sĩ, hăm hở nghiêng người cõng con ngựa sắt lên vai, dọ dẫm chỗ nào lòng sông cạn nhất, cho khỏi ướt chiếc áo mới, mầu kaki cứt ngựa, Mẹ vừa may cho, nhân mùa Tựu Trường. Thế là chân cao, chân thấp bước đi một mạch, mong sao qua khỏi trở ngại cuối cùng, mới tới được con đường Cái Quan, còn xử dụng đến chú ngựa sắt, cho mình đỡ đi phần nào hao tốn sinh lực.
Qua được bên kia bờ, tôi ngồi thở phào lấy sức, chờ hít thở chút không khí trong lành, từ đầm Thị Nại thổi vào, rồi hớn hở lên pedal, chiếc xe đạp cuộc đòn dông, mầu xanh lá cây, sẵn sàng cho ông chủ trẻ của nó thao túng, tôi đạp muốn ngút hơi, cố tình chạy như bay biến, cho kịp đến Qui Nhơn trong ngày, như Thầy Mẹ vẫn thường căn dặn trước khi khăn gói quả mướp, chấp nhận giam hãm hình hài trong bốn bức tường chữ nghĩa.
Đến Gò Bồi, phiên chợ Dạng cũng vừa tan, những cô gái gương mặt còn trẻ măng, tóc chấm bờ vai mượt mà, nước da bánh mật, đẹp như thiên thần, hóa thân dân giã, tay trong tay dung dăng dung dẻ, túa ra từ các ngả vào chợ, sững lững nhìn tôi, che miệng mỉm cười thật duyên dáng, rồi hè nhau tụm năm, tụm ba, có thể đang trầm trồ về sự xuất hiện của thằng con trai nửa quê nửa Tỉnh, vốn dĩ các cô em chẳng biết tôi từ đâu đến, mà lại đi xe đạp, trông có vẻ nếu không con nhà, thì ít ra cũng là kẻ ở phố thị về thăm quê, vào dịp cuối tuần, trước khi trở lại trường dùi mài kinh sử.
Lần đầu tiên trong đời, của cậu bé nhà quê, tôi đã nghe từng cơn rạo rực dấy lên, trong tâm hồn phẳng phiu, giữa thềm ký ức đầy vẻ lạc quan, qua tâm tư đã chớm màu hạnh phúc, rồi cứ thế, chuyện gái trai điểm diện từng mối thương cảm, đan thành nỗi nhớ mênh mông, giăng mắc trong trái tim bỏ ngỏ, của chú bé dậy thì trước tuổi.
Tôi nhìn say sưa những viên ngọc qúy, lăn lóc giữa miền quê hẻo lánh, đến nỗi không chợp mắt, vẫn biết tuy chưa được nghệ công tác tạo bao giờ, nhưng sừng sững một tòa thiên nhiên, trong chiếc máy chụp hình bén nhạy của chú bé nhà quê, chỉ nhìn cánh áo Bà Ba hở nách, lồ lộ chữ V trắng nuột, đủ làm điếng hồn thằng con trai mới lớn, đang chập chững vào đời, tôi còn đứng ngây dại trước Vệ Nữ Thần, như ngọn cỏ hai bên đường, chờ chút gió Nồm đưa duyên động tình, hình như mọi giác quan của chú học trò, đều phó mặc cho những mụ phù thủy trẻ, ranh mãnh, tha hồ di sơn hoán vũ, ra lệnh cho con đồng trước điện riu ríu làm theo, tôi cúi gằm mặt xuống, bẽn lẽn bên cạnh con ngựa sắt, như thủ thỉ cùng người bạn đồng hành, vẫn biết lúc nào nó cũng vâng lời lời người chủ trẻ, tôi đưa tay vỗ về trên lưng con tuấn mã, không khỏi ước ao sao, được nâng niu và vuốt ve chữ V kia, để vo tròn ước vọng vào vùng khả ái, tôi bắt gặp trong tâm tư thầm kín, đã từng cơn dậy sóng ái tình, làm kẻ trồng cây si chân đi không được, mới thấy câu thơ của thi sĩ thời tiền chiến, có sức công phá và chế ngự tâm hồn mãnh liệt, ngay từ buổi ban sơ:
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.
Thời thập niên 40- 50, mà có chiếc xe đạp, nếu không muốn nói là trưởng giả, thì cũng được sinh ra trong gia đình trên trung lưu, nên các em ước muốn làm người bạn đời của thuở thiếu thời da diết, nếu may mắn hơn, đi đến nâng khăn sửa trắp, cũng không đến nỗi gì, dù biết phận gái mười hai bến nước chăng nữa.
Tuy không che giấu được vẻ bẽn lẽn cố hữu, âu cũng là cái cớ làm duyên thật đó, nhưng nồng độ yêu đương không thể qua mặt được hê thống hàn thứ biểu bén nhạy, cộng thêm một chấn động đồ ghi nhịp đập trái tim, trước thời tiết và lòng người bất thường, nên các cô vẫn che nón hoặc tìm mọi cách nhìn trộm, ngỏ hầu chinh phục co được thằng con trai miệt vườn, có lẽ với chú tâm của các cô, xem gã con trai ấy có hợp nhãn mình không, có còn tỏ ra trọng vọng và yêu thích mình về lâu, về dài nữa không?
Tôi lại bắt gặp thêm lối ngụy trang, xem ra có bài bản, không kém gì của các cô em ở tỉnh thành, bằng cách dùng năm ngón tay thay lược chẻ tóc, để có dịp nhìn lén qua mấy khe nõn nà, thon gọn của búp đòng đòng, không ngoài mục đích tự do hơn, để con ngươi quan sát một cách linh động, cho khỏi mắc cỡ. Chao ơi là tình cảm của các cô gái quê, nó dễ thương làm sao và hồn nhiên như thuở nguyên thủy của loài người!
Mê mẩn trước sắc đẹp trời ban, cho những kẻ thiếu ánh sáng văn minh, cả đời chịu giam hãm hình hài trong lũy tre làng, ngày lại ngày tìm vui trên cánh đồng bao la, sông dài ngút ngàn, tôi không khỏi suy nghiệm:
Định luật bù trừ của tạo hóa!
Kìa là những đường cong tuyệt mỹ, lồ lộ trong chiếc áo vải phin nõn, những núi đồi thoai thoải được gói ghém sau chiếc quần lãnh Mỹ A đen óng ả dễ thương, hớp hồn gã thư sinh chập chững vào đời, thế là tiếng sét ái tình đánh trọng thương, nửa đường muốn gãy gánh, làm quên bẵng cả lời Thầy Mẹ dặn dò, trước khi cậu con trai vâng lệnh song đường, ra đi mua lấy chữ nghĩa, cho bản thân mình. Mẹ tôi coi vẻ gần gũi con cái hơn, nên không quên rỉ tai lần chót:
– Bằng mọi cách phải có mặt trong ngày Tựu Trường, nhe con! Các Frère dòng khó tính lắm đấy.
Nghĩ đến đó, tôi lại nhăn mặt, có vẻ hối hận, thế là hôm nay, vô tình mình đã lỗi hẹn cùng đấng sinh thành, tôi bây giờ nhìn lại, không khác nào như Lưu Thần Nguyễn Triệu lạc vào động Thiên Thai, mà quên mất đơn vị thời gian và chẳng còn nhớ gì đến ngày về trần thế.
Tuy nhiên, vẫn gom góp cả sinh lực, tưởng chừng năng lượng lẩn trốn ở đâu đó, trong thân thể tráng kiện, khi tinh thần đã bị tổn thương trầm trọng, hành động còn là yếu tố tâm lý, ít ra cũng cho tôi cảm thấy mình vẫn còn kiểm soát được lý trí, cứ thế yên chí đến mãnh lực, chỉ việc co giò muốn đạp lẹ qua bên kia cầu Gò Bồi, để còn kịp về Qui Nhơn, trước giờ hoàng hôn, điều đầu tiên là khỏi thấy tâm tư mình vụn vỡ trong màn đêm thập thò buông xuống, tưởng đã cố tình nhận chìm đời mình vào tối tăm. Chỉ vì có một bài tình ca đã xoáy sâu vào tâm tưởng, trong vùng đam mê của tuổi trẻ bồng bột:
… Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn…
Nhưng, quá đỗi ngạc nhiên không ít, cái quyến luyến vô hình kia, đã trì kéo tôi, làm cho thằng con trai có thừa nghị lực từ thuở ban đầu, đành dùng dằng, tiến thối lưỡng nan.
Nhìn vào diễn tiến hiện tại, những thú vui trai gái, vượt qua bức tường lễ giáo, có thể mình sẽ không thoát khỏi tiếng chì, tiếng bấc từ đấng sinh thành, làm cắn rứt lương tâm, chẳng tránh khỏi lời ong tiếng ve, mà có lúc mình nhớ không lầm, đã hứa cùng Thầy Mẹ, tạo một tín chỉ vững tâm cho người ở nhà:
– Tất cả chuyện gái trai, ong bướm, xin tạm gác ngoài tai, chỉ lo việc học hành.
Lục lại ký ức mình, kể cả đức vâng lời, như cũng thả trôi theo giòng sông Gò Bồi, hợp cùng cuồng lưu khác từ các vùng quê lân cận, đổ xuống nò bảy miệng, trước khi âm thầm xuôi vào đầm Thị Nại.
Có một điều lạ thay, khó lòng chứng minh sao cho ổn thỏa, hôm nay bỗng dưng thần trí tôi lại mềm nhũn như con chi chi đến thế:
– Bước đi một bước, lây giây lại dừng!
Lưỡng lự mãi, cố vực dậy chút nghị lực làm sống lại một thực thể còn lưu luyến trong người, thế là cuối cùng của trận chiến tâm lý, tôi tuyên xưng đã chiến thắng, bắt trái tim mình khép hờ, để lý trí khôn ngoan có đủ thời gian hành động, theo đồ án đã thiết trí từ trước.
Tôi lầm lũi đạp, con ngựa sắt cũng đảm đang ghê, không hề tỏ ra chúng chấn gì cả, mới đó mà đã bỏ lại sau lưng, hình ảnh các em gái nhí nhảnh của Gò Bồi.
Có điều biết chắc, những người đẹp của hương đồng gió nội, sẽ không khỏi bùi ngùi, bên kia giòng sông nước xà hai, đang thắc thỏm thầm thương trộm nhớ, ân hận hơn nữa, có lẽ là chưa được cơ hội nào thốt nên lời nói ngọt ngào với chàng trai xem ra lý tưởng đó:
– Em đã lụy vì tình và yêu anh da diết!
Miên man trong suy nghĩ, thử thách nhỏ làm biến động đầu đời, đã cho tôi một bài học quý giá, không thể nào để tình cảm phiêu lưu mạo hiểm trong vùng đam mê, khi công chưa thành, danh chưa toại, trong lúc đó, ở quê nhà, Thầy Mẹ tôi đã đặt hết kỳ vọng, vào thằng con khôn hơn trước tuổi trưởng thành, lại còn có sẵn một sa bàn lập thân với đời, cho tuổi trẻ cùng lớn theo ngày… tháng…
May mắn thay, tôi dừng lại đúng lúc, trước khi sa ngã vào một mê hồn trận nữa, đủ để chứng minh đã thấm nhuần lời người xưa và vẫn còn giá trị, dù thời gian có đổi thay cách mấy:
– Sắc bất ba đào dị nịch nhân! (nhan sắc không phải là lớp sóng làm dễ đắm thuyền).
Tuy con đường học vấn còn dài, liệu chiếc thắng an toàn có còn hiệu nghiệm, cầm giữ được cỗ xe rủi dong, từ giờ… phút… bình minh của chuyến khởi hành, đi mua lấy chữ nghĩa thánh hiền, làm vốn liếng lập thân.
Tôi phân vân mãi, thừa biết mình có giòng máu ham vui, cảm nhận tất cả mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, ưu ái dành cho loài người, đi đến đâu cũng ngưỡng mộ những gì kỳ công mà tạo hóa tác thành, cho nên đinh ninh rằng, khó lòng cầm giữ vận mạng, cho khỏi cung đa đoan. Nhưng cũng tự an ủi, cố gìn lòng mình thanh thản, được lúc nào hay lúc đó, chẳng những đáp lại tấm thạnh tình của Thầy Mẹ, mà lương tâm không bị cắn rứt, khi cảm thấy hối hận dấy lên.
Nói gì thì nói, nhưng vẫn tranh thủ với thời gian, nhìn tổng quát lại lần chót, tất cả đâu vào đó, co giò lấy sức, cứ việc thẳng tắp Tỉnh Lộ Gò Bồi Qui Nhơn, nhưng đến vùng nhà thờ Gò Thị, trời ngã bóng xế, thấy còn đủ thời lượng, nếu biết khắc phục. Tôi đổi ý định, muốn nán lại tham dự Thánh Lễ chiều nay, để mai này Chúa Nhật, ở Qui Nhơn rãnh rỗi trọn ngày, còn xếp đặt công việc học hành, cho buổi đầu tiên trở lại trường, như Thời Khóa Biểu mà Thầy Mẹ đã ấn định từ trước.
Ngót tiếng đồng hồ để lòng mình về với Thiên Chúa, những ước muốn vụn vặt trong tâm tư thầm kín, đều dâng lên cùng Thiên Chúa quan phòng, tôi qùy phía nam thanh, nhưng tính nào tật nấy, vẫn cứ vè mắt nhìn qua bên kia phần nữ tú, để rồi không khỏi chắp răng chắp lưỡi, khi thị hiếu đã làm thỏa mãn phần nào, một trong ngũ giác quan, tôi gật gù thầm thì với riêng mình:
– Con gái xóm đạo Gò Thị, Xuân Phương đẹp vô cùng! Nhìn những vòng tay khoanh hờ trước ngực, trong nét mặt đoan trang, qua giờ Thánh Lễ, đã cho tôi một ấn tượng hạnh phúc như Đức Bà Maria ôm Chúa Giê Su hài đồng vào lòng.
Lại một một lần nữa tôi vô tình lẫm đẫm đi vào đất Thánh. Những tấm lòng thánh thiện đang cao rao lời kinh tiếng hát, trong ngôi Giáo Đường cổ kính, đã Thánh hóa lòng tôi, như con chiên thuần thành của Giáo Phận.
Tan Thánh Lễ, tôi đi rảo một vòng, kìa là Tượng ông Thánh Nam Thuông, đứng sừng sững như mỉm cười cho gã con trai si tình, vẫn chưa tan niềm ao ước Tiểu Đăng Khoa, để đi đến Đại Đăng khoa, cùng các cô con gái Gò Bồi, giờ này đến mơ màng dựng lên mái ấm với các em xóm đạo Xuân Phương Gò Thị, rồi mai đây không khỏi thề non hẹn biển cả người đẹp thành phố Qui Nhơn… từ đó tôi mới khám phá ra lòng người chất chứa một túi tham vô tận, đã không muốn để lỡ cơ hội nào, trong tầm tay có thể vói tới một Thiên Đàng của hạ giới.
Như người vừa chợt giấc Nam Kha, tôi cũng đã sống thực với hồn mình, tự nhủ thầm, phải phấn đấu với mơ mộng hão huyền, mới mong thoát khỏi những đam mê trần tục cám dỗ. Vả lại, thứ tình yêu một chiều, chỉ âm thầm đến rồi ra đi lặng lẽ, chẳng qua chỉ làm thỏa mãn trong chốc lát. Cuối cùng, rồi cũng cất lên lời than thống thiết với một rừng trách cứ ngổn ngang:
Người đâu gặp gỡ làm chi.
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Tôi đưa tay làm dấu Thánh Giá, cám ơn Thiên Chúa đã rũ lòng thương một con chiên ngoan đạo, có nhiều ý chí lập thân, nhất là cho thằng con trai lần đầu tiên xa nhà, biết nỗi buồn sẽ gặm nhắm lần hồi, nên còn tặng thêm niềm vui đầu đời, cho gái trai trải lòng nhau, phải chăng như dấu ấn tình yêu Thiên Chúa, để tương lai mở mang nước Người.
Thế là tôi đã vượt qua mọi trở ngại, trên đường mua lấy chữ nghĩa thánh hiền, chế ngự được một phần ba đoạn đường dài, đưa mắt trông về phố biển, nơi mà tôi phải về cho kịp chiều nay, để khỏi thất hứa.
Mặt trời sè sè trên đầu ngọn cây, nhìn những cụm mây chiều, ùn ùn nổi lên từ chân trời xa thẳm, có lẽ đang vun hơi nước, trong làn mây xám đục, chuẩn bị làm cơn mưa giông thường lệ cuối ngày.
Lòng tôi rộn rã, soãi người trên yên con tuấn mã, thu mắt nhìn chiều dài, qua trí tưởng tượng, không khỏi mơ màng đến buổi Tựu Trường, hình ảnh rương nho nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc, xếp hạnh phúc theo chương trình lớp học, đã làm cho tôi quên đi những nỗi nhọc nhằn. Rồi mai đây, biết bao người trẻ sẽ tìm vui với bạn bè cùng trang lứa:
Trong sân trường tưởng dạo giữa đào viên.
Quần áo trắng tựa như lòng mới mẻ.
Chân non dại nhẹ nhàng từng bước nhẹ.
Tim run run trong tình cảnh rụt rè.

Xong bổn phận đi lễ, xưng tội, của một con chiên thuần thục, tôi tiếp tục làm kiếp lữ hành, đeo lên vai đầy lời dặn dò, và cả hình ảnh Thầy Mẹ khả kính, một người, một ngựa, cứ thế đo đoạn đường dài.
Nhìn đi nhìn lại, vẫn còn trong vùng đất Thánh, hình ảnh những cô bé xóm đạo đã từng hớp hồn tôi, cứ lãng vãng và in đậm nét trong võng mô cậu học trò đa đoan tình ái.
Biết vậy, nhưng cũng cố nhắm mắt lại, cho linh hồn thanh thản phần nào, mong sao có bàn tay mầu nhiệm, kéo tôi ra khỏi vũng lầy trần tục, ngỏ hầu ổn định tinh thần, chế ngự niên khóa đầu tiên, vốn hiểu rành rẽ: Vạn sự khởi đầu nang! Và phải biết tâm niệm lời người xưa: Đường đi khó, không khó, vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.

Nguyễn Hữu Nhật
Lệ Chi Viên
Sau ngày Nguyễn Trãi quy tiên
Vườn cây vải, lệ chi viên, vẫn còn
Chỉ trừ cái tấm chiếu gon
Nhớ người tới độ màu son bạc dần.

Nguyễn Lập Đông
Ức Trai-NGUYỄN TRÃI

Chí linh thao lược
Lời hịch vang vang
Thơ thần đuổi giặc
Ngày mở thênh thang

Côn sơn về lại
Chuyện còn mang mang…

Những con kên kên
Thời nào cũng vậy
Thời nào cũng có

“Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hạn, diệp tiêu tiêu”
(Việc xưa nay – không cùng sông bát ngát
Anh hùng mang nỗi hận – ngàn lá lao xao)

Thơ làm khi nghe thi sĩ phiêu hốt
lạ nhất Việt Nam vừa qua đời: BÙI GIÁNG

“ Nẫu về xứ nẫu bỏ mình bơ vơ
Bơ vơ thì kệ bơ vơ
Nẫu về xứ nẫu viết thơ thăm mình”

Thơ giờ thôi đã về trời
Nói năng –năng nói cũng lời phù qua
Người về tiếc nẫu u-oa
Cổ tay đàn mía-vỡ nhòa chiêm bao

Đang cơn thịnh nộ mờ mờ
Rượu thơ, thơ rượu mờ mờ ngây ngây
Một hôm gió lông mưa ngây
Cái thơ réo gọi hóa nay đông lòng
Một hôm cái hĩm gầu sòng
Tát trăng đầy cái gầu sòng trắng tinh
Trắng tinh, trắng tỉnh, tră91ng tình
Trắng ơi! Trắng hỡi, lục bình trôi sông.

Nguyễn Tôn Nhan
Cuộc đời tư tưởng
Hoài Nam Tử
Tư tưởng triết học cổ đại ở Trung Quốc có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng triết học cổ đại Việt nam. Đó là sự thực không cần lý giải và hầu như ai cũng công nhận. Trong khu rừng rậm tư tưởng triết học cổ đại (nhất là trước đời Tần – Tiên Tần – như cách nói quen thuộc). Bộ Hoài Nam Tử (hay Hoài Nam Hồng Liệt) có giá trị đặc biệt. Rất nhiều lần, trong nhiều dịp trao đổi với học giới (nhất là Hán học giới), chúng tôi lấy làm tiết, một nền văn hóa lớn riêng biệt như Việt Nam mà xưa nay chưa hề tiếp thu bằng cách chuyển dịch toàn bộ thư tịch văn căn bản nhất của Trung Quốc vốn được nước ta kế thừa ảnh hưởng từ lâu.
Tại sao một nền văn hóa vừa Phật vừa Nho (có thể vừa Huyền học Đạo giáo nữa) thâm sâu như văn hóa Lý, Trần của Việt Nam mà chẳng ai quan tâm chuyển dịch những tác phẩm tổng hợp tư tưởng Tiên Tần sâu sắc, cụ thể như bộ Lã Thị Xuân Thu, Hoài Nam Tử?
Tại sao vào thời cận đại khi lớp những nhà Nho học cuối cùng phải bàn giao (miễn cưỡng?) di sản văn hóa tổ tiên lại cho lớp thanh niên Tây học đầu thế kỷ trước, họ chỉ chú ý chuyển dịch sơ sài vài bộ “tứ thư”, “ngũ kinh” (đã qua xác định của Tống Nho) không lưu ý gì đến “chư tử” hết sức quan trọng mà trong một bài ngắn này không thể nhắc đầy đủ hết được.
Là một hậu sinh, lại chỉ có công tự học ít nhiều, chúng tôi lấy làm tiếc khi phải tự nỗ lực đọc lấy từ nguyên tác các bộ kinh điển khó bậc nhất của tư tưởng triết học Tiên Tần. Có lẽ vì tiếc công, hay vì một cơ duyên “tiên thiên” nào đó, từ rất lâu, chúng tôi chìm đắm vào Đạo học Trung Hoa (như từ gần 20 năm trước, chúng tôi đã cho xuất bản Đạo Đức Kinh, Xung Hư chân kinh…)
Từ lâu Hoài Nam Tử đặc biệt quyến rũ chúng tôi, nhưng lại phải đợi đến “cơ duyên” gần đây, chúng tôi mới bắt đầu chuyển dịch bộ sách vô cùng quan trọng và hấp dẫn này. Trong lịch sử tinh thần của người Trung Quốc, thời “chư tử tiên Tần” rõ ràng là một thời đại huy hoàng. Thời đại này được coi là một “thời đại trục tâm” có sức hấp dẫn lớn. Đây cũng chíng là thời kỳ tư tưởng Trung Quốc lên đến đỉnh cao nhất. “Chư tử” sống giữa thời loạn, cảm nhận được mọi sự đau khổ của kiếp nhân sinh, nhưng họ không đủ sức mạnh để quy định vào một dòng “chính thống” mà chỉ có khả năng tự do tư tưởng, từ đó tùy vào điều kiện riêng, tư tưởng của họ phát triển theo nhiều phương hướng để trở thành những học thuyết tư tưởng khác nhau. Giữa các loại tư tưởng khác nhau ấy cũng xẩy ra nhiều cuộc luận chiến kịch liệt, từ đó hình thành nên cục diện tư tưởng “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng) Đó cũng chứng minh cho sự tự do tư tưởng (vì chỉ có tự do tư tưởng mới “đua tiếng” được). Chính ở thời kỳ này, tư tưởng Trung Quốc đã bộc lộ khí chất cơ bản của nó; Khí chất cơ bản ấy là; tâm lý đạo đức được phát huy rất đầy đủ nhưng tâm lý trí thức lại không được triển khai như mong muốn. Đây là dấu ấn tư tưởng nhân sinh của Trung Quốc.
Quay trở lại thời đại huy hoàng này của Trung Quốc , chúng tôi muốn chọn bộ “Hoài Nam Tử” làm đối tượng vì tác phẩm này ra đời trong một xu thế phát triển tư tưởng rất đáng được chúng ta quan tâm. Xu thế này, chính là lúc tư tưởng Trung Quốc đang từ phân tán quay về hợp lưu tổng hợp. Phải chăng xu thế ấy có phần nào tương tự với xu thế ở Việt Nam trải qua “loạn thế” nửa thế kỷ qua?
Tư tưởng Trung Quốc thời kỳ tiên Tần biểu hiện thành “bách gia tranh minh”, đến đầu đời Hán đã được Thái sử công (Tư Mã Đàm, thân phụ Tư Mã Thiên) quy nạp thành sáu nhà (lục gia) Nho gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Đạo gia và Âm dương gia. Đến khi Hán Vũ đế độc tôn Nho thuật, cuối cùng hình thành cục diện cơ bản Nho và Đạo bổ sung, dựa dẫm lẫn nhau. Cục diện ấy kéo dài trong một thời gian dài đến tận lúc Phật giáo du nhập vào và phát triển đủ thành một thế lực, cục diện mới thay đổi biến thành “tam giáo đỉnh lập” (ba tông giáo cùng tồn tại). Sự tổng hợp tư tưởng trong lịch sử Trung Quốc được hun đúc qua tiến trình đại thống nhất cuối cùng được định hình, đó là một tiến trình còn lâu dài nữa. Bộ “Hoài Nam Tử” ra đời giữa thời điểm tư tưởng tổng hợp, chưa tiến tới Nho thuật độc tôn, ra đời vào lúc chế độ đại thống nhất chính trị sắp sửa định hình nhưng chưa xác lập tối hậu, cho nên toàn bộ sách tư tưởng tự do để tiến hành chọn lọc, biểu hiện rất rõ nhiều tư tưởng mâu thuẫn, đưa ra rõ ràng tâm thái lưởng lự giữa “thống nhất thiên hạ” và “giữ phong tục khác nhau”.
Vậy thì, chúng ta hãy tìm hiểu “Hoài Nam Tử” là tác phẩm ra sao? Khái quát đơn giản đặc điểm tác phẩm này, triết học sử Trung Quốc, đại khái thường dùng hai chữ “kỳ” (kỳ lạ) và “tạp” (lẫn lộn, phức tạp) để khái quát. Cho rằng Hoài Nam Tử kỳ lạ, có tới mấy tầng ý nghĩa: một là do số phận đầy bi kịch của tác giả, phủ lên tác phẩm nhiều màu sắc truyền kỳ. Tác giả Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An và các tân khách môn nhân. Giới quý tộc vương giả đầu đời Hán đa số mê say chìm đắm vào thú vui nhan sắc, âm nhạc hoặc săn bắn rông dài, riêng Hoài Nam Vương Lưu An dốc chí vào học thuật, nhún nhường chiêu nạp kẻ sĩ, tỏ ra có tư thái phong nhã cao thượng. Một chư hầu vương cao khiết chí lớn như thế mà cuối cùng rơi vào kết cục phải tự sát, liên lụy đến vài ngàn người phải chết theo. Hoài Nam Vương là vật hy sinh để lịch sử Trung Quốc tiến vào cục diện chính trị đại nhất thống. Cái chết của ông là một bi kịch của lịch sử. Quyền lực của tước vương đầu đời Hán cực lớn , trong nội bộ vương quốc của mình, chư hầu vương có quyền hưởng thụ tiền thuế, quyền phân bổ quan lại, quyền hành chánh , thậm chí có cả quyền phát hành tiền riêng, triều đình chỉ sai một chức “thừa tướng” tới giúp đỡ, có tác dụng giám sát và liên hệ với triều đình, do vậy những “phong quốc” (quốc gia được phong cấp cho tước chư hầu vương) nghiễm nhiên là một triều đình nhỏ. Phong quốc đầu đời Hán tự có hệ thống ghi năm độc lập. Ở Trung Quốc cổ đại, quan niệm về “chính sóc” và màu sắc y phục tượng trưng cho chính quyền, do đó một chính quyền mới lên ngôi, việc đầu tiên là phải sửa đổi “chính sóc” và màu sắc y phục. Các vương quốc đầu đời Hán không tuân thủ cách làm lịch pháp triều đình (“chính sóc” là một khái niệm thuộc lịch pháp) mà tự ghi năm (theo lịch riêng) chứng minh lúc ấy vương triều Tây Hán chưa chính thức hoàn thành được thể chế đại thống nhất. Thế nhưng, bấy giờ đại thống nhất đang là xu thế phát triển của lịch sử, triều đình cũng đang mong muốn dùng sức mạnh thúc đẩy nhanh xu thế này. Nhân vậy, giữa các vương quốc (được phong) và triều đình trung ương xảy ra nhiều cuộc đấu tranh giành giật quyền lực. Các loại đấu tranh xoắn xít với giành giật ngôi đế diễn biến thành nhiều sự kiện trấn áp mưu phản bị buộc tự sát “liên lụy đến chết vài vạn người” (tọa tử giảsố vạn nhân, như sử chép). Đó là sự việc chấn động lớn đương thời. Lúc Hoài Nam Vương biên soạn bộ “Hoài Nam Tử”, ông có ý dâng sách lên triều đình đầu đời Hán Vũ Đế thay cho một kế sách, do đó ông còn tự đặt tên cho sách là “Lưu thị chi thư”: sách của họ Lưu hoặc kế sách (trị nước) của họ Lưu (họ Lưu tức họ đang thống trị triều đình Hán). Tâm nguyện ấy của ông cuối cùng bị lật ngược mặt trái vì kết quả tội mưu phản dẫn tới. Bối cảnh lịch sử như vậy phủ lên bộ “Hoài Nam tử” một màu sắc truyền kỳ.
Mặt kỳlạ thứ hai của Hoài Nam tử là nó lưu giữ được rất nhiều tư liệu tư tưởng
Tiên Tần cho đến lúc bấy giờ. Hoài Nam tử không phải một tác phẩm “trứ tác” theo ý nghĩa hiện đại, nó không phải một “sáng tác phẩm” của Hoài Nam Vương và các môn nhân, mà là sách “biên soạn”, là sách do họ giải thích, chỉnh lý, chọn lộc từ các tư tưởng Tiên Tần. Có người cho rằng bất cứ câu văn nào trong Hoài Nam tử cũng có nguồn gốc xuất xứ sợ rằng hơi quá đáng, nhưng rất nhiều văn cú tư tưởng trong Hoài Nam tử quen thuộc là sự thực quá rõ. Chính nhờ vậy, khá nhiều sách vở thư tịch đã mất mát có thể dựa vào tư tưởng lưu giữ trong Hoài Nam tử mà khôi phục lại. Giátrị sử liệu của Hoài Nam tử rất cao, đó là điều đã được công nhận. Ví dụ tên gọi hoàn chỉnh của 24 tiết khí nông lịch là do Hoài Nam tử xác định sớm nhất. Hoặc hai thiên “Thiên văn huấn” và “Địa hình huấn” của Hoài Nam tử đã bảo lưu nhiều kiến thức về thiên văn, địa lý cổ đại Trung Quốc . Hoặc như thiên “Mậu xứng huấn” bảo lưu tài liệu tư tưởng của học phái Tử Tư, mà không thư tịch nào khác có thể so được.
Điều kỳ lạ hơn chính là khí chất tư tưởng rộng lớn kỳ vĩ của bản thân Hoài Nam tử. Hoài Nam tử có hùng tâm “lung lạc trời đất” (lao lung thiên địa) với ý muốn dung nạp mọi lãnh vực tư tưởng, tri thức vào một bộ sách và tổ chức chúng thành một hệ thống lớn. Có lẽ vì vậy trật tự tư tưởng của Hoài Nam tử tương đối khá hỗn loạn, tạp nhạp. Thế nhưng với tầm nhìn tư tưởng cao xa, với khí thế tư tưởng cao lớn hoằng đại, Hoài Nam tử đủ đạt tới danh tiếng của một bộ “kỳ thư”. Tóm lại đây chính là bộ sách “lạ kỳ” khó hiểu mà từ lâu chúng tôi đã lưu tâm nhưng chưa dám bắt tay chuyển dịch.
Còn mang tiếng là “tạp” (hỗn tạp, phức tạp), ngay từ bộ “Hán thư” phần Nghệ văn chí đã dùng hai chữ “tạp gia” ở dưới tên sách Hoài Nam tử, rồi các sách sử đời sau đều học theo, hoàn toàn đồng ý xếp Hoài Nam tử vào loại “tạp gia”. Hoài Nam tử ra đời đến nay đã hơn hai ngàn năm, vẫn lưu truyền với danh nghĩa “tạp gia”. Nay truy tìm về nguyên nhân tư tưởng hỗn tạp trong Hoài Nam tử, đại khái có thể nhận ra mấy điểm:
Một, văn phong Hoài Nam tử phần lớn dùng câu đối ngẫu, phô trương khoe khoang theo kiểu phú đời Hán, chữ dùng lại hoa lệ trùng điệp nhiều màu vẻ. Nhiều khi câu văn rườm rà có ý vị ẩn dụ nhưng vì vậy, có đôi lúc trùng điệp. Đọc Hoài Nam tử dễ có ấn tượng rực rỡ, đồng thời lại có cảm giác bị hình ảnh rực rỡ nọ làm mờ mịt ý nghĩa. Cách hành văn Hoài Nam tử hình như không theo một con đường tư tưởng duy nhất, mà chỉ dựa vào một ý hướng gần gũi nào đó rồi tưởng tượng phóng túng thêm đồng thời đưa vào nhiều kiến thức khác. Có lẽ phương thức truyền đạt và phong cách ngữ ngôn của Hoài Nam tử là một trong nhiều nguyên nhân tạo nên ấn tượng phức tạp.
Kế đó, về tư tưởng, Hoài Nam tử ôm ấp hùng tâm quá lớn, hầu như tác giả muốn đưa vào sách mọi lãnh vực triết học tri thức. Một bộ sách như vậy cần có trật tự về kết cấu. Về mặt này Hoài Nam tử tỏ ra rất yếu. Chính vì vậy, nôi dung càng nhiều, càng tạo cho người đọc cảm giác càng hỗn loạn. Nếu coi Hoài Nam tử như tài liệu tưởng, có thể gọi đây là một kho tàng quý giá, nhưng nếu coi đó là một hệ thống tư tưởng, chắc chắn Hoài Nam tử khó tránh được tên gọi “tạp gia”.
Sau cùng, lập trường tư tưởng của Hoài Nam tử chuyển biến du di không định hình. Lúng túng giữa truy cầu tự do của Đạo gia mà vẫn muốn bảo vệ trật tự Nho gia là nguyên nhân cơ bản dẫn đến rối loạn của Hoài Nam tử. Hoài Nam tử có ý muốn đứng trên lập trường Đạo gia để định hướng cho toàn bộ sách, điều đó rất rõ, nhất là dựa vào tư tưởng truyền thống của Trang Tử để đi tìm tự do. Hoài Nam tử coi giá trị bảo vệ trật tự Nho gia là gông cùm. Tư tưởng Trang Tử vốn nhiều mâu thuẫn khi ông muốn “tiêu dao du” đạt tới cảnh giới “chân nhân” khi vẫn còn ở trần gian hệ lụy. Hoài Nam tử cũng muốn vậy, nhưng với thân phận một “chư hầu vương”, rất cần trách nhiệm trị an đời, làm sao thoát ra khỏi giá trị về trật tự xã hội do nhà Nho khởi xướng. Khối mâu thuẫn, dù “bất đắc dĩ” đi nữa, dẫn tới nhiều lúc Hoài Nam tử ca ngợi tư do như Đạo gia nhưng nhiều lúc muốn điều hợp giữa Nho và Đạo, lập trường tư tưởng cứ lúng túng giữa hai bên là nguyên nhân căn bản tư tưởng hỗn loạn của Hoài Nam tử.
Sách Hoài Nam tử đại khái hoàn thành vào thời Hán Cảnh đế (ở ngôi từ năm 156 – 141 TCN). Hán Vũ đế lên nối ngôi (ở ngôi từ 140 – 87 TCN), khi được vào yết kiến vua mới, Hoài Nam vương dâng bộ sách lên cho cháu mình (tức Hán Vũ đế), vị hoàng đế mới trẻ tuổi, theo truyền thuyết rất thích văn nghệ tất nhiên vui vẻ nhận sách, “yêu sách nhưng cất kỹ” (ái bí chí như sử chép). Thế nhưng, vừa lên ngôi, Hán Vũ đế đã đưa ra “Thiên nhân tam sách” chứng tỏ đế quan tâm nhất là muốn xây dựng và giữ gìn trật tự đại nhất thống, còn vấn đề trọng yếu Hoài Nam tử đặt ra lại là vấn đề tự do, ấy là việc Hán Vũ đế không quan tâm. Xét về tình huống thực tế phát triển tư tưởng đầu đời Hán, thời đại Hán Vũ đế là một bước chuyển biến, trước đây tư tưởng Hoàng Lão Đạo gia chiếm địa vị chủ lưu, sau khi Hán Vũ đế “độc tôn Nho thuật”, tư tưởng Đạo gia dần chuyển xuống thứ yếu, Nho gia trở thành chủ lưu. Phong cách tư tưởng thời đại thay đổi khiến vấn đề quan hệ xung đột giữa tự do và trật tự trong Hoài Nam tử không được chú ý nữa, đấy là nguyên nhân sách Hoài Nam tử tuy được Hán Vũ đế thích nhưng cất kỹ trong bí các.
Suốt thời Tây Hán, không ai chú ý gì đến Hoài Nam tử, có lẽ vì vấn đề Hoài Nam tử đưa ra bị gác lại, hoặc có lẽ bị ảnh hưởng án ngục của Hoài Nam vương, người ta ngại nhắc tới tác phẩm ông. Phải tới đời Đông Hán, Hoài Nam tử mới trở thành sách thông hành với hai bản chú giải của Hứa Thận và Cao Dụ. Cao Dụ từng lớn lời ca ngợi “người có học mà không luận về Hoài Nam tử tức không biết s6u thẳm của đạo lớn đó” (học giả bất luận “Hoài Nam”, tắc bất tri đại đạo chi nhân dã).
Trên đây, chúng tôi khái thuật sơ qua để giới thiệu một phần diện mạo địa vị của Hoài Nam tử trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, sau bài tựa, chúng ta sẽ còn dịp nghiên cứu kỹ hơn về tác phẩm lớn này. Xin nói thêm, riêng ở Việt Nam, điển cố văn học vẫn thường nhắc tới nhiều câu chuyện xuất xứ trong Hoài Nam tử như “mâu thuẫn”, “trăm sông về biển”, “Tái ông mất ngựa” mà chúng ta đã được biết từ lâu.

Như Phong
Gọi tình
Những hẹn hò xưa
Nay không còn nữa
Em đi rồi
Và tôi
Cũng thôi yêu
Còn lại nơi đây
Tia nắng ráng chiều
Hoàng hôn rụng xuống
Bên bờ sông
Kỷ niệm
Những kỷ niệm xưa
Bây giờ
Chết lịm
Gợn sóng trên sông
Reo
Khúc tình buồn
Trăng treo
Góc trời
Trăng buồn ủ rủ
Ta tìm về đây
Gió tạt
Mưa tuôn
Tiếng thông reo gọi suối về nguồn
Tiếng tim ta gọi tình khản cổ
Bên truông…

Mộng về với mưa
Em ơi trời mưa
Mưa mang về cơn gió bấc đầu mùa
Đêm qua gối chăn trăn trở lạnh
Anh nằm gối giấc mộng xưa

Hôm ấy trời mưa
Chung vai
Dưới mái hiên chiều vì mưa bất chợt
Mưa như thủy tinh
Như màu áo em sáng nay vào lớp
Đẹp vô cùng

Mưa bây giờ viễn xứ
Không giống mưa măm nào
Cho em về dối mẹ
Rằng sợ ướt áo…
Nên em ghé vào quán cà phê

Mưa bây giờ
Không còn như những giọt thủy tinh
Mà như những mảnh hồn tan vỡ
Rơi trên tóc anh
Sợi tóc rẩy run theo từng cơn gió bấc
Vật vã từ buổi trăng đầu mùa
Từ buổi yêu em trời đổ cơn mưa…

Nhạn về
gọi tiếng cô đơn
Trăng tàn
Theo cánh nhạn bay
Sương rơi
Trên cánh lá gầy dửng dưng
Cỏ hoa
Vàng tuổi gái xuân
Hồn người lữ khách
Rưng rưng nỗi buồn
Nhạn về
Gọi tiếng
Cô đơn
Khách ngồi say
Vọng quê hương mịt mờ
Xa xăm vọng tiếng ru hờ
Đường về cố quận
Đôi bờ cách ngăn
Thương em
Xưa nhặt vầng trăng
Cài lên tóc rủ
Nhọc nhằn tháng năm
Ta chừ
Tóc ngả màu sương
Mấy thu biền biệt
Dặm trường lãng du.

Phan Xuân Sinh
Sống với thời quá vãng
Lâu quá tôi mới trở lại quê nhà, thấy thiếu vắng một số bạn bè và người thân. Đủ biết tuổi của tụi tôi không còn nhỏ, đã bắt đầu xếp hàng để chờ nghe tên Chúa gọi. Gặp một số bạn bè cũ mà không ngờ rằng tuổi già đến nhanh thế, nhìn thấy một vài đứa như các ông cụ. Như vậy, mình mới thấy được chính mình cũng thế thôi, lẫn thẩn, già cổi, và cuối cùng cũng đi vào con đường mà không ai thoát khỏi, không ai lẩn tránh được. Tôi dự những bữa tiệc bạn bè thiết đãi, cũng như đi uống cà phê buổi sáng. Mặc dù chúng tôi gọi nhau “mi – tau”, nhưng trong tiếng gọi đó nó có vẻ như ngượng ngập. Đúng ra trong cái tuổi của tụi tôi cách xưng hô với nhau cũng khác đi cho phù hợp, lớp con cháu nghe gọi trẻ trung như vậy thì chúng cười chết.
Đà Nẵng. Thành phố nầy là chiếc nôi ấm áp của đời tôi, sinh ra và lớn lên bằng những tình thương yêu đùm bọc bởi những người có tấm lòng rộng lượng. “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi đi trên con đường dài và hẹp…”. Nơi đây, tôi bắt đầu đi học. Lủi thủi một mình với tập vở trong tay, không có mẹ “nắm lấy tay tôi..” như Thanh Tịnh đã diễn tả ngày đầu tiên đến trường. Mẹ tôi đã mất khi tôi chưa đầy một tuổi. Thế nhưng tôi đã lớn lên trong vòng tay của ngoại, các dì và cậu tôi. Những ơn nghĩa mà tôi nghĩ rằng không bao giờ tôi trả hết được. Mớm cơm khi tôi chưa đủ tuổi để ăn, dành cho tôi những chén cơm trắng khi tôi biết nhai trong lúc ngoại, cậu và dì tôi phải trường kỳ ăn độn. Tôi lớn lên bằng thiếu thốn khổ cực, nhưng ngoại tôi vẫn dành cho tôi những miếng ăn ngon nhất, sắm sửa cho tôi những bộ áo quần đẹp nhất. Tôi trở lại căn nhà của ngoại tôi khi xưa, căn nhà đầy ắp những kỷ niệm tuổi ấu thơ. Bây giờ ngoại tôi không còn nữa, nhưng khi bước vào nhà tôi cảm thấy đâu đây bước chân của ngoại, tiếng ngoại gọi tôi và dưới con mắt của ngoại bao giờ tôi vẫn còn bé tí. Tôi đến bàn thờ thắp nhang cho ngoại, nhìn ảnh ngoại bỗng dưng tôi ngậm ngùi hối hận. Ngày ngoại mất tôi không về được, tôi mang trong người một trọng tội với ngoại, nhưng biết làm sao khi mà còn quá nhiều cách trở. Chắc ngoại tôi sẵn sàng tha thứ cho tôi.
Mười lăm năm sau tôi mới trở lại quê nhà, thành phố không còn vóc dáng như ngày xưa. Lớn hơn, đẹp hơn và đông đúc hơn. Liêu (người bạn thân học một lớp còn sót lại, nhưng sau hai tháng trở về Mỹ thì Liêu cũng vội vàng ra đi) hay đến chở tôi đi đây đi đó, thăm người nầy người kia. Tôi cố tìm lại những nơi chốn mà thuở học trò hay lui tới, nhưng tuyệt nhiên không còn dấu vết. Đường Cầu Vồng được san bằng không còn cái dốc như ngày xưa, để tuổi học trò của tụi tôi thuở đó còm lưng trên yên xe vượt dốc. Tôi đi ngang qua đường Trần Bình Trọng (con đường khởi đi từ ngả năm vòng qua sau lưng bệnh viện Đa Khoa), Con đường nầy đã bao lần tôi đứng chờ Sách (người yêu của tôi thuở nào) bây giờ cũng lạ hoắc, tôi không còn nhận ra con hẻm mà tôi đã vào ra nhiều lần. Buổi tối tôi ra bờ sông Hàn ngồi trên ghế đá ngắm nhìn dòng nước trong. Ngày mới lớn tôi thích ra ngồi ở hàng ghế đá đó, có bóng cây mát rượi, có những con thuyền bườm trắng trên sông. Tôi mơ mộng về những nơi khác có cuộc sống tốt hơn, không có cảnh lam lủ như bà con tôi gánh chịu trên quê hương. Thế mà bây giờ tôi đang sống trên đất Mỹ, một đất nước có những cái mà tôi đã ước mong khi còn trẻ. Tôi lại mong trở về sống trên quê hương, trong cái nghèo nàn, cái khó khăn, còn chất chứa cả một tấm lòng mà không tìm thấy bất cứ đâu.
Trong một bữa tiệc tại nhà mợ Tâm. Bất ngờ tôi gặp lại Sanh, người con gái Huế mà trước đây tôi đã quen khi Sanh đang theo học sư phạm ở Huế. Sanh, chồng mới mất. Cách đây 15 năm Sanh và chồng có đến dự bữa tiệc cũng tại nhà mợ Tâm khi tôi ở Mỹ về đợt đầu. Chồng của Sanh cũng là nhà giáo hiền lành, ít nói. Nhìn hai vợ chồng vừa xứng đôi vừa hạnh phúc. Tôi cảm thấy rất vui, hình như chồng của Sanh cũng biết tôi là người quen với Sanh trước đây, nên khi nói chuyện anh ấy có vẻ bẻn lẻn, ngượng ngập. Tội nghiệp, bây giờ cũng trong bữa tiệc tại nhà nầy, chỉ mỗi một mình Sanh đến. Trong nét mặt thoáng một chút buồn. Có lẽ trong những người bạn gái mà tôi gặp lại sau này, Sanh ít thay đổi nhất, có phong độ nhà giáo đàng hoàng và chững chạc. Sau bữa tiệc chúng tôi ngồi lại ăn mứt uống nước trà, nói chuyện đủ thứ. Trong đời sống của Sanh hiện thời rất đạm bạc, đã nghỉ hưu, nhu cầu không nhiều và sống với con gái. Nhanh thật, khi quen nhau tụi tôi còn rất trẻ, mới đó mà bây giờ người nào cũng con cháu đầy đàn.
Người thứ hai tôi gặp lại là người có nhiều kỷ niệm với tôi nhất tại Đà Nẵng, khi đó Sách còn đi học tại trường Bồ Đề. Tôi không biết ai nói với Sách là tôi về thăm quê nhà, nên một buổi tối Sách đến. Mấy chục năm sau chúng tôi mới gặp lại nhau. Ngồi trong nhà, đứa em vào báo cho biết là có một chị bạn của anh đến thăm. Tôi bước ra cửa không nhận ra được Sách. Có lẻ là lâu quá không gặp lại nhau, không ngờ là Sách đến thăm, mấy mươi năm thời gian làm thay đổi nhiều quá. Đứng trước mặt Sách mà tôi không ngờ rằng người đàn bà trước mặt tôi là Sách. Khi Sách cười tôi mới nhận ra. Trong tất cả những người tôi quen biết có lẽ Sách mang nhiều thay đổi nhất. Sách có chồng sớm, từ giả cuộc tình một cách vội vã. Sau một thời gian sống với chồng được hai con thì chồng tử trận trên Pleiku. Khi Sách mang con về Đà Nẵng thì tôi đang sinh sống tại Sài Gòn, cho nên chúng tôi không gặp nhau. Khi tôi có vợ, hai vợ chồng dẫn nhau về Đà Nẵng thì tôi có đến thăm Sách. Vài năm sau tôi nghe tin Sách tái giá, thôi như vậy cũng yên chuyện một đời người. Khi Sách đến thăm tôi cho biết đã ly dị người chồng thứ hai hơn năm năm rồi. Tôi sửng sờ, không ngờ đời sống gia đình của Sách nhiều truân chuyên như vậy. Hèn gì trong vóc dáng khuôn mặt của Sách thay đổi nhiều quá, đến nỗi khi bất chợt gặp lại tôi không nhận ra. Tội nghiệp, đời người đàn bà chỉ có một thời và một lần định đoạt, trượt chân xem như hỏng cả đời. Khi nói chuyện về gia đình, Sách có vẻ cay đắng và u uất. Nhưng trách ai đây, khi mọi chuyện đều do mình định đoạt. Tôi hỏi Sách về con cái thì Sách cho biết hai đứa con của người chồng trước đều có gia đình, có cháu nội cháu ngoại. Còn hai đứa con của người chồng sau chưa lập gia đình nhưng đã ổn định công ăn việc làm.. Một đời người dù có nhiều rắc rối, có nhiều đa đoan, rồi cũng qua đi. Nhưng dù sao cũng cho ta một bài học với đời, một người nào đó đã nói “sống với cái gì, sẽ chết với cái đó”. Sống bằng tiền sẽ chết bởi tiền. Sống bằng danh vọng sẽ chết bởi danh vọng. Sống bằng tình cũng sẽ chết bởi tình. Nhưng trong tất cả cái “chết” đó ta phải chọn lấy cái chết nào dễ thương nhất. Trong lòng ta khi ra đi cảm thấy thanh thản nhất.
Trong thời gian ở Đà Nẵng, tôi muốn gặp lại một người bạn gái mà hơn ba mươi sáu năm tôi chưa hề gặp lại. Đó là Sâm. Tôi quen với Sâm khi tôi còn đi học mà Sâm lúc đó đã ra đời. Mỗi buổi chiều đón Sâm ở sở làm bằng chiếc xe đạp cà tàng, trong lúc Sâm đi xe vélo solex. Tình yêu thời học trò ngớ ngẩn thật, nhưng cũng dễ thương thật. Khi tôi vào lính thì nghe tin Sâm đã có chồng, trong thời gian nầy tôi cũng không bao giờ gặp được. Khi tôi bị thương vào mùa hè 1972, nằm ở Tổng Y Viện Duy Tân thì Sâm đến thăm, lúc đó Sâm đang có bầu. Sâm tới ôm tôi và khóc nức nở. Đó là hình ảnh cuối cùng tôi gặp Sâm lần chót và đó cũng là hình ảnh người đàn bà mà tôi không quên được. Khi tôi về có hỏi thăm Sâm thì người bạn của Sâm cho biết là lâu lắm rồi không gặp Sâm. Hình như Sâm đang sống với gia đình tại Tam Kỳ, và hình như Sâm bây giờ vất vả lắm. Chuyện về Sâm mơ hồ như vậy thì làm sao tôi tìm thăm được, nhất là thời gian ở lại Việt Nam của tôi quá ít ỏi.
Tôi hay tới nhà của Đức, Thê (cả hai vợ chồng đều thân với tôi) cùng ở một xóm. Căn nhà của Đức ngày xưa ở cuối xóm, nhưng bây giờ thành phố mở rộng, làm ngay con đường lớn trước nhà vì vậy căn nhà trở thành có giá. (Ở Việt Nam nhà mặt tiền đường bao giờ cũng có giá trị). Hai đứa chở nhau đi uống café như ngày xưa, thế nhưng bây giờ qua khỏi cái tuổi lê lết các quán café nhạc, ngồi ở mấy quán cốc bên đường lại thấy thích hơn. Vì ở cùng một xóm lại chơi thân với nhau khi còn nhỏ, nên Đức biết hết những người con gái mà tôi quen khi xưa ở Đà Nẵng. Đức có hỏi tôi đã đi thăm ai chưa? Tôi lắc đầu. Đức ngạc nhiên vì tại sao tính tình tôi thay đổi quá vậy. Tôi nói với Đức là mấy chục năm nay không gặp nhau, không biết gia đình họ ra sao mình tới thăm đôi khi gây trở ngại. Những ngày Tết tôi chỉ nằm nhà xem truyền hình và tiếp bà con, bạn bè.
Mồng tám Tết (2008) tôi đi Huế cùng với mấy anh em văn nghệ. Lâu quá tôi mới trở lại Huế nên cũng ngượng ngập mặc dù Huế ít thay đổi, thế nhưng lúc đầu đi trên những con đường mà tôi không thể nào nhớ ra được. Huế đang mưa, cái mưa của Huế dai dẳng và buồn ray rứt. Nhớ lại ngày xưa đứng trước cổng trường Bồ Đề Thành Nội đón Nguyện, hai đứa che nhau mỗi một cái dù đi trong mưa (của một thời lãng mạn). Nhà Nguyện ở ngoài bờ thành đồn Mang Cá lớn. Bây giờ Nguyện đã chết trong một chuyến vượt biên cùng với chồng con trong năm 1985. Khi tôi về đến Sài Gòn thì dì của Nguyện cho biết mẹ của Nguyện cũng chết cách đây vài năm. Như vậy nhà của Nguyện người khác ở, (vì gia đình chỉ có hai mẹ con và hai người đều chết). Sáng hôm sau chúng tôi ra uống café ngoài bờ sông, chính lúc nầy tôi mới nhớ được những con đường tôi đã từng đi qua, những địa danh của Huế mà tôi đã từng đến..
Tôi muốn đi thăm người Dì (chị ruột của má tôi) trước đây tu ở chùa Vạn Phước. Tôi nhờ anh Viêm Tịnh hướng dẫn đường đi. Lần cuối cùng tôi thăm Dì vào năm 1970 (như vậy đã 38 năm rồi), tôi không chắc Dì còn sống. Nếu Dì mất tôi nhờ chùa dẫn tôi đi thăm mộ Dì, để thắp một cây nhang cho Dì. Vị sư Trụ Trì trong chùa cho tôi biết Dì tôi mất năm 2001 và hôm nay chính là ngày giỗ của Dì. Chùa đang làm mâm cơm chay cúng Dì, có những người cháu gọi Dì bằng cô năm nào cũng từ Nghệ An vào cúng Dì, (như vậy những người nầy cũng gọi má tôi bằng cô ruột) mà hồi nào tới giờ tôi chưa hề hay biết. Đây là lần đầu tiên anh em họ hàng gặp nhau trong một trường hợp hy hữu là đúng vào ngày giỗ của Dì. Nếu tôi đi trễ một giờ thì các anh ấy đã lên tàu về lại Nghệ An. Không biết đây có phải là sự linh thiên của Dì đã dẫn dắt anh em chúng tôi gặp nhau, lần đầu tiên tôi mới biết được tông tích bên ngoại của tôi. Ngày xưa mỗi khi đến thăm Dì bao giờ cũng hứa là sẽ dẫn tôi vào nhà thờ họ Ngô ở Thành Nội, để tôi thắp hương cho ông ngoại, thế nhưng không có lần nào đi được. Má tôi mất sớm, Dì chưa cho tôi biết về tông tích bên ngoại nên tôi không biết.
Hồi tôi còn nhỏ, Dì từ Huế vào Đà Nẵng thăm tôi, bao giờ Dì cũng dẫn tôi đi ăn uống rồi sắm sửa áo quần. Có lần Dì nói với tôi là má tôi thuộc con dòng thứ (nghĩa là vợ hai), có sự xích mích trong gia đình, nên bà ngoại dẫn má tôi về quê ngoại sống. Sau đó bà ngoại ra Đà Nẵng buôn bán rồi tục huyền với ông ngoại hai. Cho nên tôi là một nửa dân Huế và một nửa dân Quảng Nam trong người. Dì dặn tôi là không được bắt chước mấy ông Quảng Nam nói xấu Huế, họ nói gì mặc kệ, con mà nói theo họ tức là con chưởi bên ngoại mình, má ở dưới buồn lắm đó. Không biết má tôi có buồn hay không, chứ tôi đôi lúc cũng cà khịa mấy cô bồ gốc Huề của tôi.
Sau nầy tôi hay liên lạc với anh Ngô Hồng Khanh, anh nầy gọi má tôi bằng cô ruột, gia dình anh đang sống ở Nghệ An. Anh cho biết là ngày xưa ông Tổ chúng tôi làm quan ở triều đình nhà Nguyễn, gia phả trong nhà thờ tộc ghi rỏ điều nầy. Nhưng đến đời các cậu tôi thì gia đình chia làm hai phe, một phe tập kết ra Miền Bắc và một phe ở lại Miền Nam, đánh nhau chí chóe. Đến đời anh Khanh và tôi mới kết nối lại được. Anh Khanh bảo với tôi rằng mọi chuyện chính trị chẳng ra làm sao cả, dẹp nó đi. Bây giờ là lúc chúng ta tìm tông tích dòng họ, tìm nhau vun xới lại những đổ vỡ trước đây. Tôi nghĩ, một người lớn lên từ chế độ cộng sản, trưởng thành trong chế độ ấy thế mà còn tìm ra tông tích của dòng họ để kết nối bà con lại với nhau. Một việc làm đáng phục.
Trong chuyến đi Huế đó, cùng đi với tôi có các anh Viêm Tịnh, Phạm Ngọc Lư, Uyên Hà, Hạ Đình Thao (những nhà thơ miền Nam trước năm 75) cũng đến Chùa Vạn Phước với tôi, chứng kiến được cảnh anh em chúng tôi gặp nhau trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Người từ Nghệ An vào, người từ Mỹ về gặp nhau ở Huế ngay trong ngày giỗ đầu năm của Dì tôi mà tôi không hề biết trước, chỉ vô tình tới chùa hỏi thăm về Dì và vô tình gặp nhau như có một đấng vô hình giúp tôi tìm lại được tông tích bên ngoại, mà từ ngày ra đời đến giờ tôi chưa hề nghe ai nói. Tôi cùng anh Khanh ra sau chùa sư nữ thắp hương ông bà ngoại, các cậu dì đã mất. Tôi cũng thấy được nhà chùa đã chăm sóc các ngôi mộ của gia đình ngoại tôi một cách sạch sẽ. Các anh bạn cùng đi cũng công nhận rằng đây là một ngày thiêng liêng nhất đối với tôi, vì mọi sự gặp gỡ như có một sự sắp sếp của bề trên.
Ngày hôm sau trên đường trở về Đà Nẵng, các anh em cùng đi cũng phải công nhận rằng một chuyến đi chơi rất thành công trên mọi mặt. Gặp gỡ được những người làm văn nghệ Huế và được đón tiếp một cách ân cần. Riêng tôi được gặp lại gia đình dòng họ bên ngoại mà tôi tưởng chừng như đã đánh mất từ lâu. Má và Dì tôi chắc vui lắm khi biết anh em chúng tôi gặp nhau sau mấy chục năm không liên lạc được. Mấy chục năm đất nước trong hoàn cảnh chia ly và thù hận. Gia đình nào cũng có những trường hợp đau thương không ít thì nhiều.
Khi trở vào Sài Gòn để chuẩn bị trở qua Mỹ, ngoài một số bạn bè gặp lại, tôi thăm người bạn gái sống ở Bàn Cờ. Mấy chục năm nơi nầy thay đổi nhiều quá, cũng may gặp được đứa em trai của Ngọc Bích cho địa chỉ, nên tôi tìm nhà dễ dàng. Ngọc Bích trước đây là cán sự y tế, hiện giờ nghĩ hưu có hai con và ly dị chồng. (Sao tôi lại gặp mãi cảnh nầy thế nhỉ? Những người bạn gái quen với tôi trước đây đều có trường hợp giống nhau, chồng không chết thì cũng ly dị). Ngọc Bích cũng không nhìn ra tôi, mà tôi cũng không nhìn ra được Ngọc Bích, như vậy đủ biết sự thay đổi khủng khiếp của chúng tôi mà thời gian đã bôi xóa hết. Đứng một hồi mới nhận ra nhau. Cũng như những người khác, kể cho tôi nghe về chuyện gia đình, buồn nhiều hơn vui, bất hạnh nhiều hơn bình an. Ngọc Bích nói với tôi là nhìn anh đủ biết anh chị rất hạnh phúc, không cần phải hỏi về gia đình. Đời sống của Ngọc Bích có vẻ khá giả, gia đình khang trang, sống với vợ chồng đứa con trai và cháu nội.
Vài hôm sau tôi đến thăm Nhơn ở Phú Nhuận. Nhơn không thay đổi mấy, trước đây Nhơn học luật năm cuối, nếu đất nước không thay đổi thì chắc bây giờ Nhơn trở thành bà Luật Sư rồi. Sau 30/4/75 Nhơn làm trưởng phòng kế toán cho một công ty điều hành tàu bè và đã hưu trí được ba năm nay. Nhơn ly dị với chồng hơn hai chục năm nay, ở vậy nuôi con. (Lại thêm một trường hợp gãy cánh giữa đường. Hình như những người quen với tôi đều ở trường hợp giống nhau – ly dị hay chồng chết). Nhà Nhơn ở mặt tiền đường Minh Mạng, Phú Nhuận. Nên Nhơn mở một quán cơm trưa cho những công nhân viên ở các công sở gần đó. Tôi đến vào buổi trưa thấy quán cơm tấp nập. Như vậy cũng mừng là đời sống của mẹ con Nhơn không giàu có nhưng cũng đã ổn định. Người chồng cũ hiện định cư ở Pháp, có về vài lần và đề nghị hai người nối lại để bảo lãnh hai mẹ con qua Pháp. Nhưng Nhơn từ chối, chỉ muốn cho con đi thôi. Hiện thời cháu đang chờ thủ tục bảo lãnh của cha. Nhơn là một người rất có hiếu, anh em đông nhưng Nhơn phải nuôi người cha già lãng trí, tận tụy chăm sóc cha, nên Nhơn rất bận bịu gia đình.
Ở Mỹ, tôi có gặp một cô bạn cũ ở Boston trước đây. Th..lấy chồng rất sớm khi tôi học đệ nhị, những mối tình học trò tưởng chừng nhớ nhớ quên quên, chóng đến chóng đi, chóng yêu chóng ghét, thế nhưng lại để những kỷ niệm khó quên trong đời. Th… khi qua tới Mỹ thì biết chồng mình đã có vợ khác, lỡ khóc, lỡ cười, đành phải chia tay. Tôi gặp Th.. trong một hoàn cảnh thật tội nghiệp. Mỗi ngày phải đi bộ ra trạm xe train để đi làm, trời mùa đông lạnh lẽo, đôi khi phải đội tuyết. Chẳng có ai giúp, các con thì đứa nào cũng có gia đình, phải lo cho gia đình của chúng. Còn mẹ phải tự lo lấy, tiếng Anh thì không biết, chẳng nhờ ai đở đần trong lúc tối lửa tắt đèn.
Tối nằm ngẫm lại những người đàn bà quen với tôi trước đây, tất cả họ đều gặp bất trắc trong cuộc sống. Nguyện đã chết trong chuyến vượt biển. Sách hay Sanh đều bị chồng chết, riêng Sách lại có thêm một lần ly dị với người chồng thứ hai. Th.., Ngọc Bích, Nhơn, ly dị với chồng, hay Sâm là người không bị trắc trở gia đình nhưng lại sống trong nghèo khổ. Tại sao lạ thế? Tại sao họ không được hạnh phúc? Không có một đời sống êm ả ? Tôi không có một lời nguyền rủa nào để họ phải chịu nhận những hình phạt. Lúc ấy xa nhau thú thật tôi có buồn, nhưng rồi mọi chuyện đâu vào đấy. Bao giờ tôi cũng cầu xin ơn trên cho họ được hạnh phúc. Có một điều tôi được an ủi rất nhiều khi gặp lại người cũ, ai đối với tôi cũng vui vẻ chân tình, chứ tôi không nghe một lời oán trách. Ngày đó các cô đi lấy chồng, minh nằm nhà đắp chăn buồn không thể tả (..ngày nhà em pháo nổ, anh cuộn mình trong chăn, như con sâu làm tổ…), đúng thật, tưởng rằng có thể chết đi được. Nhưng rồi qua cơn đau đó, lại vùng dậy và cũng yêu tha thiết người khác, rồi cũng bị đá lăn lóc. Cứ thế tiếp diễn đến khi có vợ. Chấm dứt một thời trăng hoa, ong bướm. Vợ cũng tế nhị không bao giờ hỏi về tình cảm trước đây. Mấy chục năm sống với nhau tôn trọng nhau và cũng tôn trọng đời tư của nhau, mà thiệt tình thì vợ chẳng có tư riêng gì hết. Mười chín tuổi lần đầu tiên gặp được “ý trung nhân”, rồi yêu và sau cùng lấy nhau. Chỉ có tôi cái background lộn xộn, vợ thương tình không đụng tới.
Những người quen biết với tôi từ Đà Nẵng, Huế, hay Sài Gòn đều có những hoàn cảnh giống nhau. Nhìn kỷ trên khuôn mặt mỗi người tôi thấy hàm chứa một nỗi u uất, phiền muộn, thật tội nghiệp. Khi nói chuyện về gia đình họ có vẻ đay nghiến và chán chường, giống như tâm trạng họ nhai một miếng thịt gân guốc, nhai mãi vẫn không tiêu hóa được, đành phải nhả ra mặc dù họ không muốn làm vậy. Bây giờ chúng tôi đã bước sang tuổi già, nhìn cuộc đời không bồng bột như ngày xưa, chúng tôi trân trọng nhau, quý mến nhau. Trong lòng chúng tôi không còn những trách móc, tị hiềm hay oán hận, thù hằn, mà ngược lại chúng tôi thấy xót xa thương cảm về những trường hợp bất trắc như chính mình gặp phải vậy. Và một điều quan trọng chúng tôi trong lòng bao giờ cũng cảm thấy bao dung tha thứ, không cần biết lúc chia tay thuở đó lỗi thuộc về ai. Lỗi về ai, thì cũng đã rồi, đã qua. Tuổi trẻ không tính toán được những ân nghĩa mà chỉ tính toán được những tự ái vị kỹ, vì vậy đã đưa tới những nghịch cảnh mà sau những tháng năm nhìn lại thấy nó thật vô lý.
Dù sao đi nữa khi viết về một thời quá vãng, xin tất cả các bạn một thời là nhân tình của tôi, nhận nơi đây một lời xin lỗi chân thật nói lên tận đáy lòng của mình, dù trước đây sự việc tan vỡ cuộc tình do tôi hay không phải vì tôi. Nhưng ít nhiều trong đó cũng có tôi đã hình thành nên sự việc. Bây giờ ở vào cái tuổi của chúng ta mới nhận ra được giá trị chân thật của tình yêu, thì mọi chuyện nó cũng đã lỡ làng, đã được Thượng Đế an bài không thể thay đổi được. Dù sống thế nào bài học về kinh nghiệm cuộc sống, lý lẽ của trái tim bao giờ cũng dễ thương và đáng trân trọng. Nhân nhìn về những người xưa cũ, bây giờ mình lại nhìn về chính mình. Đời sống vợ chồng cũng giống như chén bát trong chạng, ba hồi cũng đụng nhau làm sao tránh khỏi, có cải vả, có sóng gió, có bão táp nhưng chỉ trong tách trà. Sau những cơn địa chấn nhẹ đó mọi chuyện đâu vào đấy. Bao giờ vợ cũng kính nể chồng, chồng cũng thương yêu vợ, tương kính nhau để sống. Chính vì lẽ đó mà không thể tách rời nhau được. Không ai tài giỏi cả, chỉ ý thức được trách nhiệm và chỉ có nhường nhịn nhau, đó là đinh đoạt mái ấm của gia đình.

Thái Bạch Vân
Yêu mãi
bóng nàng thơ
Sương pha mái tóc kiếp dâu tằm
Ý đẹp lời hay khúc nhả tơ
Cửa sổ vó câu tình vẫn đượm
Lòng sao yêu mãi bóng nàng Thơ

Vẫn vui thi nhạc chẳng ơ thờ
Lưu luyến một đời thỏa ước mơ
Tình tứ vần gieo khơi nhịp địệu
Thời gian dừng bước.. lắng hồn thơ

Tiếng ngâm dào dạt lộng hoang sơ
Nhạc khúc ly tao lượn lững lờ
Bóng nguyệt chập chờn rung đáy nước
Khiến chàng Lý Bạch khéo ngù ngơ

Thuyền tình nhàn nhã… sóng khua bờ
Thơm ngát hương hoa bóng tỏ mờ
Lã lướt cùng ai tiên tử mộng
Lòng sao yêu mãi bóng nàng Thơ!

Lời buồn trên đá
Kỷ niệm nào phôi phai
Lời buồn tô trên đá
Chợt mở bừng xót xa
Cho ngày dài héo hắt

Trời xanh ngả bóng tà
Mây hồng vương sắc xám
Lòng nhỏ giọt mưa sa
Đêm đọa đày thức trắng

Bềnh bồng giữa ta bà
Bến mơ, thuyền trôi nổi
Cõi mộng chợt võ vàng
Nỗi sầu buông thăm thẳm

Ngày chảy dài Tha La*
Trường sơn im trải bóng
Nẽo tình bước lang thang
Nẽo đời du khập khễnh

Đếm dòng thơ chứa chan
Đong tình thơ dấu ái
Vọng tình khúc sang trang
Đêm dài thêm, cô tịch
Buồn réo buồn miên man…
——————————
* Nỗi buồn trên xóm đạo

Tứ tuyệt
Thái Bạch Vân
Hương hạnh phúc

Dòng đời mãi trôi… lặng lẽ trôi
Kỷ niệm nào rồi có pha phôi
Một thoáng bay bay, hương hạnh phúc
Dìu bước chân ta… đến cuối đời.

Chỉ thấy mình em

Giữa đám đông chỉ thấy mình em
Vì răng mà lạ rứa… phải không?!
Bởi thương em đó… thương nhiều lắm
Niềm thương biết nói mấy cho cùng.

Vũ Linh
Đọc Lục Bát
Hoàng Xuân Sơn
Họa sĩ Đinh Cường từ Virginia đến Houston triển lãm tranh lần thứ ba, lần này ngoài anh còn có Họa sĩ Nguyễn đình Thuận đến từ Nam Cali. Cả hai đã để lại cho giới thưởng lãm địa phương những ấn tượng sâu sắc về nghệ thuật sáng tạo và sử dụng màu sắc trong mỗi tác phẩm. Một già một trẻ cùng một trường phái nhưng mỗi tác giả có cách suy nghĩ và màu sắc riêng qua những bức tranh sơn dầu đã trưng bày tại Houston. Tại đây tôi cũng được hân hạnh gặp Hoàng Xuân Sơn và không ngờ anh và tôi có chung một người bạn Đinh Cường. Cái đáng quý ở anh, từ Quebec Canada bay sang để gặp gỡ và hổ trợ bạn bè trong cuộc triểm lãm vì rằng ngoài tài làm thơ, anh còn là một ca sĩ, một nhạc sĩ đã chơi đàn và hát chung với Khánh Ly trong đêm khai mạc phòng tranh tại Viet Art Gallery Houston ngày 19/01/2008.
Buổi đầu gặp gở, trong cái bắt tay tự giới thiệu về mình, tôi cứ mãi ngờ ngợ về cái tên Hoàng Xuân Sơn của anh, hóa ra anh chẳng xa lạ gì, là một trong số “mấy con ngựa” ở Thư Quán Bản thảo mà tôi quen biết và cũng mấy lần đọc thơ anh trên Tạp chí này. Mãi đến lúc cầm tập thơ “Lục bát Hoàng Xuân Sơn” do anh tặng, tôi có hơi ngạc nhiên và nhìn anh thêm một lần nữa. Sau mấy cái chớp mắt, tôi lật vội mấy trang, ngoài động thái lịch sự khi tiếp nhận một tăng phẩm, hơn thế nữa lại là một tặng phẩm chữ nghĩa. Một lẽ khác hay đúng hơn hai chữ “Lục bát” to đùng đứng trước tên Hoàng Xuân Sơn, nó đã làm cho tôi lúng túng và thầm khâm phục sự can đảm của tác giả mà tôi vừa quen biết. Vì rằng hơn năm mươi năm trước, tôi cũng tập tành làm thơ và thể loại tôi cho là khó làm được một bài thơ hay đó là Lục bát. Cho đến thời điểm này, ngoại trừ Nguyễn Du tiên sinh, một số thi sĩ tiền chiến cũng như về sau vẫn có những bài thơ lục bát hay xuất hiện nhưng vượt trội hơn cả, tôi nghĩ chỉ có Nguyễn Bính. Điều này rất có thể chỉ là cảm nhận của riêng tôi và với Hoàng Xuân Sơn tôi cũng chỉ ghi lại cảm nhận của mình sau khi đọc tập thơ do anh tặng chứ không hề làm công việc phê bình.
Nhìn một cách chung chung, văn học nghệ thuật nước ta kể từ sau 1954 cả hai miền đất nước có nhiều biến đổi. Ngoài Bắc xóa bỏ gần như hầu hết giá trị văn học nghệ thuật theo lề lối cổ xưa. Họ chủ truơng văn học theo chiều hướng mới, văn học nghệ thuật nhằm phục vụ cho chế độ, cho con người mà đảng của họ đang nặn ra và hướng tới. Trong khi Miềm Nam cởi mở và tự do hơn, chấp nhận giá trị truyền thống cổ xưa đồng thời cũng sẵn sàng tiếp nhận những nhóm chủ trương đổi mới, sáng tạo trong lảnh vực văn học nghệ thuật, trong đó hội họa và thơ là rõ nét nhất. Cho đến sau 1975 những Văn nghệ sĩ Miền Nam lưu vong tiếp tục làm công việc đó và dường như những năm gần đây trong nước cũng có những biến chuyển đáng kể trong lãnh vực này. Tuy nhiên cho dù trong nước hay hải ngoại đã và đang làm cái công việc đổi mới trong lãnh vực văn hoc nghệ thuật nhưng đa số chủ trương một bài thơ, một bản nhạc và đặc biệt trong lãnh vực hội họa, tác giả sáng tác với cảm xúc, bằng suy nghĩ của riêng mình trong mỗi tác phẩm. Nhà phê bình cũng như những bậc thầy các trường phái, chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của nó nếu không được sự diễn giải của chính tác giả, cho dù mỗi trường phái đều có những qui ước chung để đi vào thế giới của họ. Bởi thế, người thưởng ngoạn tác phẩm nghệ thuật bây giờ, không đơn thuần chỉ nhìn hay sờ mó mà cần vận dụng đến sự suy nghĩ nhiều hơn, óc tưởng tượng phong phú hơn, may ra mới bắt gặp những điều tác giả muốn nói trong tác phẩm.
Trở lại với tập thơ Lục bát Hoàng Xuân Sơn, phần mở đầu tác giả ngỏ:

Ừ! xem sáu tám ngược đời
chữ ngất ngư chữ câu đòi đoạn câu
gọi rằng lục bát nằm lâu
ể mình đứng dậy thành câu thơ rời

Lời ngỏ này chẳng khác gì qui ước để đọc những bài thơ của anh và được tác giả minh họa ngay ở lời ngỏ bằng những “câu thơ rời” hay cũng có thể nói chữ ngất ngư chữ câu đoài đoạn câu:
Ừ! xem
sáu
tám
ngược đời
chữ ngất ngư
chữ
câu đòi đoạn
câu
gọi rằng
lục bát nằm lâu
ể mình đứng dậy
thành
câu thơ
rời
Chúng ta được Hoàng Xuân Sơn trao cho chìa khóa để mở cửa đi vào thơ của anh. Bên cạnh đó, chúng ta còn bắt gặp những cái dấu chấm nữa đời nữa đoạn như:
Cám ơn em, chiếc cổ tròng
vô thân áo. ấm. chút nồng nàn. xưa
cám ơn em vạt trời mưa
nước hắt lưng. trộm. vai đùa cợt. hương
– – – – – – (Cám ơn, trang 67)
Hay như là:
Nghiêm. đi qua đó. mặt buồn
mà trăng sáng rở đêm. khuôn hạ vàng
óng mềm hệ lụy đa đoan
thương vương mấy cõi xanh. toàn vẹn. im
thơ khúc mắc. dấu chấm. ghìm
cơn rung hối hả nghe lìm lịm. trôi
đừng nói. đừng. thêm nặng lời
mặt nghiên qua đó
buồn khơi lạc dòng
– – – – – – – – (Hạ tuyền, trang 108)
Những dấu chấm như thế rải rác trong khắp thơ anh và 141 bài thơ lục bát, không có một dấu chấm nào đuợc sử dụng một cách bình thường cũng như không bài thơ nào có dấu chấm câu. Bên cạnh đó, anh còn dùng ký hiệu thay cho chữ (trang 40, 55 …) và còn trình bày một bài thơ theo một hình thể nào đó (trang 10, 31, 49, 67…) mà chỉ có anh mới giải thích được. Tại sao ư? Tất cả những dòng thơ vặn vẹo, rơi rớt, bất thường này của Hoàng Xuân Sơn đã được một người “chữ nghĩa bề bề” Cao Vị Khanh, tác giả “Lệ từ nét ngang” giải mã trong lời bạt cuối tập thơ.
Chúng ta cứ tạm thời chấp nhận lời giải của Cao Vị Khanh trong nhóm Thư quán Bản thảo, vì anh là người gần gũi nhất với tác giả và có thể hiểu được Hoàng Xuân Sơn (Cùng ở Canada và làm việc chung sở) Tuy nhiên 141 bài thơ trong Lục bát Hoàng Xuân Sơn, ít ra anh cũng còn giữ được 15 bài “y như hồi nào tới giờ”, thế là thế nào đây Hoàng Xuân Sơn và Cao Vị Khanh?
Mọi việc xin hãy tạm để đó. Chúng ta đi xa thêm một chút về Hoàng Xuân Sơn, ngoài việc làm thơ anh còn sử dụng đàn, chơi nhạc cổ điển và hát những bài tình ca của Pháp, Anh…. Từ đó, tại sao chúng ta không nghĩ “những câu thơ rời” là một lối “viết hoà âm” của những anh sành nhạc? Ở đây có thể dành cho nghệ sĩ ngâm, biết đâu mai này nó còn dành cho những bản nhạc được phổ từ thơ của anh!
Thật ra, nếu ta sắp xếp lại những câu thơ rời của 126 bài thơ viết theo lối “Soạn hòa âm” và 15 bài có sẵn thì Lục bát Hoàng Xuân Sơn vẫn “y như hồi nào tới giờ”!
Hình thức Lục bát Hoàng Xuân Sơn là như vậy đó, còn nội dung thì sao?
Như phần nhận định trên, đọc- xem- nghe- nhìn một tác phẩm bây giờ không thể không động não, nếu đơn thuần là “thơ Hoàng Xuân Sơn” thì không có gì để nói. Đằng này chọn “Lục bát” tức là Hoàng Xuân Sơn chọn một thể thơ có nguồn gốc của nó, có những luật lệ riêng của nó. Ngôn ngữ, vần điệu làm cho những câu thơ dễ nhớ, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người nhưng nếu chỉ đơn thuần chỉ có thế nó sẽ không hẳn là một bài thơ lục bát. Cái hay của lục bát là ở chỗ đó, cái hay của Truyện Kiều cũng ở chỗ đó, cái tài tình của Nguyễn Du cũng ở đó. Và nếu ngày xưa, điển tích có một vị trí nào đó để làm nên thể thơ lục bát trong Truyện Kiều thì nay “lập thể, trừu tượng, siêu thực” là những thứ không thể thiếu trong một bài thơ hay một bức tranh của những tác giả hiện đại. Nhưng nếu vận dụng quá đáng hình thức trên, nhiều người cho đó là thơ văn thuộc loại “cõi trên”, chỉ có tác giả và thượng đế may ra mới hiểu được. Truyện Kiều trước đây đã đưa vào chương trình giáo dục ở Miền Nam, điển tích trong truyện đã làm cho người học nó mất ăn mất ngũ trong lúc thi cử. Cái khó của Lục bát là chỗ đó và Lục bát mãi mãi là Lục bát cũng ở đó, cho dù Hitler có lập thêm mấy ngàn lò thiêu thì người Do thái vẫn còn, nước Nhật có phải gánh chịu thêm mấy trái bom nguyên tử thì nước Nhật vẫn của người Nhật. Và cho dù có trải qua bao thế kỷ nữa thì thể thơ lục bát, Truyện Kiều Nguyễn Du vẫn “y như hồi nào tới giờ”!
Hoàng Xuân Sơn có lẽ cũng đã nhận ra lý lẽ này nên dù “thơ khúc mắc, dấu chấm ghìm” nhưng nếu sắp xếp lại nguyên thể, chúng ta vẫn thấy những câu 6-8 mượt mà thân quen dể hiểu và dể nhớ:
Sáng nghe chim nhạn kêu bầy
mới hay biển động mùa cây lá tàn
không chừng mây bão lần sang
níu chân người ở lang thang dặm về
– – – – – (gọi bầy, trang 11)
Lòng anh muốn nói đôi khi
nhìn con nắng hẹn nhớ gì mây bay
đêm trăng đồi hú gọi bầy
sói hoang đồng nội nhớ ngày đi rong
lòng anh cũng muốn khóc ròng
sông xanh quê ngoại nắng hồng ngõ mai
sợi giăng tơ nhện u hoài
con chim sẻ nhỏ cùng thời lớn khôn.
– – – – – – ( tin thơ, trang 46 )
Và bây giờ chúng ta thử lấy một bài thơ viết theo lối “hòa âm” của tác giả, sắp xếp lại theo trật tự của nó:
Buồn buồn cõng chị đi chơi
bế em ra ngõ nhà người nói thơ
hát cho đỡ tủi cơ đồ
trăm câu thân ái ru bờ bụi hoang
đầy thơ cho đựng bát vàng
nghiên trăng nhân loại bình an rót về
vịn em thơ đứng giữa hè
thắp tình chị sang mù mê bụi hồng
(Chị em thơ, trang 52)
Bài thơ chỉ có tám câu nhưng được sắp xếp lại, có ai nói đây không là bài Lục bát hoàn chỉnh với đầy đủ ý nghĩa của nó?
Thơ Hoàng Xuân Sơn chuyên chở tình người, tình bạn, sự rung động trước thiên nhiên và lay quay trong kiếp trầm luân. Tuy có thổn thức, có dâng trào, có nức nở qua những cái dấu chấm đứt đoạn chia lìa, những con chữ rơi rớt nhưng cũng chỉ là những bước fantasy của một điệu nhảy, vừa cổ điển vừa hiện đại của một nghệ sĩ chơi đàn và hiểu biết về âm nhạc.
Trong bất cứ lãnh vực nào sự sáng tạo và đổi mới cũng là điều cần thiết. Riêng lãnh vực Văn học nghệ thuật nước ta cũng đã làm những công việc này từ thế kỷ trước, rõ nét nhất là trong 2 lãnh vực thơ văn và hội họa. Tùy theo quan niệm về nghệ thuật để trả lời cho câu hỏi sự sáng tạo và đổi mới đó đã thuyết phục hay được chấp nhận đến mức độ nào. Nói gì thì nói, một thế kỷ cũng đã qua vẫn chưa có tác phẩm nào thay thế cho Truyện Kiều của Nguyễn Du và thế giới cũng chưa có họa phẩm nào khả dĩ hấp dẫn nhiều người như Mona Lisa của Vinci. Chính vì thế những người làm Văn học nghệ thuật vẫn phải tiếp tục tìm tòi, sáng tạo và đổi mới.
Tóm lại Lục bát Hoàng Xuân Sơn tuy hình thức mới lạ, mang tính sáng tạo và hẳn anh cũng đã hiểu bên cạnh sự sáng tạo bao giờ cũng có sự đào thải, sẵn sàng ngồi chờ. Có lẽ vì thế, không ít thì nhiều anh vẫn giử lại cái truyền thống của Lục bát, một loại Lục bát Hoàng Xuân Sơn với những âm điệu dễ nhớ, lời thơ dễ hiểu hay nói cách khác “vẫn như hồi nào tới giờ”!

Lê Hữu Minh Toán
Tình thơ tuyệt vời
Khuya nghe tiếng thở dài
Ngoài hiên mưa rả rích
Buồn réo buồn chơi vơi
Sầu réo sầu cô tịch

Ta yêu nhau một đời
Đường tình, dây oan trái
Đừng thở than người ơi
Hãy để lòng vương trải

Chuyện tình thơ sáng rỡ
Đẹp tựa ánh trăng soi
Hai vì sao sóng bước
Không còn thấy lẻ loi

Ta ôm choàng hạnh phúc
Đan mười ngón tay mềm
Hồn thơ… Ôi choáng ngợp
Hương nồng, khắn khít thêm

Như loài hoa nở muộn
Giữa đông tàn lẻ loi
Nhánh sông đời gợn sóng
Tình thơ, Ôi tuyệt vời…

Bóng nhớ
Xin đừng bắt bóng
Thả rong giữa ngày
Ai đi trong nắng
Bóng ngã trên tay

Tôi thả nắng tắt
Trên vai em nghiêng
Ngày dài vuột mất
Tình đau muộn phiền

Em giờ đã đi
Có còn quay lại
Tình vẫn đôi khi
Buồn ơi, tê tái

Soi gương giấu mặt
Mờ mịt cõi đêm
Bóng ai chìm khuất
Tôi mỏi mắt tìm

Em về trong mơ
Chập chờn hư huyễn
Tôi mãi đứng chờ
Cuối trời tưởng vọng

Hỏi tội tình chi
Đọa đày bóng nhớ
Thôi biết nói gì
Tình ơi, trăn trở…

tứ tuyệt
lê hữu minh toán
Đưa tiễn

Chuyến xe cuối ngày nhìn nhau câm nín.
Đưa tiễn nhau đi chết tím nửa hồn
Trong mắt em đen võ vàng bịn rịn
Chân bước ngập ngừng trái khổ chon von.

Tuổi nhớ

Khói thuốc giăng mây nhuộm vàng trí nhớ
Trên đỉnh sa mù vất vưởng vay say
Giọt lụy nửa đời đong đưa phiến khổ
Tuổi nhớ chất cao chén đắng vơi đầy
Gió tương tư
Ngắt một nụ buồn căng tròn giấc ngủ
Đếm gió tương tư trên phiến lụa mềm
Một ráng cầu vồng mời em qua dó
Cánh vạc bay rồi em ở đâu em?

th.đoàn thy vân
Hoàng Tường:
NGƯỜI HÁT RONG
TRÊN NHỮNG DẶM DÀI NGHIỆT NGÃ .

Khi buông phím
Mười ngón tay nhỏ máu
Dấu ấn giang hồ
Trên thành gỗ lặng câm.
Và từ đó
Tiếng trầm tiếng bổng
Tiếng nhặt khoan
Gợi nhớ quê nhà.
Anh ở thôn tư
Còn tôi ở phố
Phố thôn, thôn phố một đường thôi.
Người mải mê theo dặm dài ca hát
Lưu xứ ai về thăm xóm tôi…
Khi Hoàng Tường nhận được đoạn thơ dỡ dang này, tự dưng cảm xúc dâng trào và anh định đưa ngay vào nhạc. Thế nhưng, tác giả đoạn thơ trên vốn không phải là nhà thơ chuyên nghiệp chỉ là người mến mộ tiếng hát Hoàng Tường – Lại có ít nhiều ngẫu hứng với thi ca, đã vội vã yêu cầu Hoàng Tường đừng phổ nữa, bởi lẽ, để tìm ra một giai điệu (melody) thích hợp, chắc chắn người ca nhạc sĩ này phải để lắng tâm tư ru mình vào nốt nhạc. Nhưng đoạn thơ nửa vời chưa nói được gì. Hoàng Tường ngậm ngùi chìu ý tác giả. Cho đến nay giây phút cảm hứng kia vẫn còn là nỗi uẩn ức với Hoàng Tường. Cứ như là Yêu người mà người chẳng yêu ta.
Với tôi nói riêng và với những người Việt lưu xứ yêu nhạc, đang tạm cư ở vùng Nam Hoa kỳ này có lẽ không ai là không biết đến Hoàng Tường, người Ca nhạc sĩ đem tuổi đời thách đố với thời gian này là một trong những khuôn mặt được mến mộ
của Nam Hoa kỳ nói riêng và Hải ngoại nói chung. Anh đã có trên dưới 10 Album ca nhạc riêng và chung. Số lượng không nhiều lắm nhưng lại chuyên chở một số lớn chất lượng đến người thưởng ngoạn.
Sáng tác của Hoàng Tường hàm chứa nhiều tâm sự của những người biệt xứ
Dù dưới hình thức nào – Một mối tình quê, đã xa, rất xa – một thời quân ngũ đã quá rã rời – một người mẹ hoài mong con trẻ, một người cha mơ thấy cờ vàng, đàn em nhỏ chỉ còn trong trí nhớ mù khơi… và Hoàng Tường đã khởi đi từ đó, gắn bó vơí những dặm dài âm nhạc nghiệt ngã của riêng mình.
Tự tôi thưởng cho mình một ly rượu ngọt và buông tay trôi theo nhạc Hoàng Tường, trên dòng sông âm vang ấy, lãng đảng với khói sương tôi bắt gặp Hoàng Tường đang xót xa trước một cành hoa héo nhưng lại cũng đang gan góc hùng hồn thách đố vơí những nghịch lý của cuộc đời.
Giai điệu của anh, tiếng hát của anh có một chút gì Duy Khánh, nhưng không là đặc sản địa phương xứ Huế, có chút gì Chế Linh nhưng không là rên rỉ bi ai đến thê thiết rợn người của những bóng ma Chàm trên ngôi tháp cổ, lại có chút gì Nhật Trường nhưng không là điểm trang để mộng thường hóa ảo.
Hoàng Tường là Hoàng Tường, Một tổng hợp tuyệt vời giữa trùng trùng âm điệu để một đàn, một hát một rong chơi . Với chất giọng kim pha thổ nên anh vẫn thường tự mình xoay xở trên những cung bậc khác nhau của thế giới âm thanh vốn vô cùng vô tận. Có những lúc tiếng hát anh cao vút như mũi kiếm chọc thủng trời xanh. Lại có lúc rơi xuống hụt hẫng trong tận cùng đáy vực thâm u. Và nét đặc trưng khó ai có được là giữa cái cực cao và cực thấp đối với anh dường như không biên giới. Tiếng hát anh là ngọn gío thổi đong đưa sóng nhạc, như chiếc đũa thần phù phép khi đưa lên thì ngàn sao lay động và khi hạ xuống thì lặng lẽ như hơi thở nhẹ thoảng hương trầm mời gọi si mê.
Hoàng Tường không thuộc về những người làm nhạc nghệ thuật thuần túy (Art song) thường được hâm mộ ở thính phòng. Lại cũng không là thành viên đơn thuần của âm nhạc quần chúng (Popular song) thường được phổ biến ở nơi công cộng .
Anh là cái gạch nối giữa hai thể loại trên, Có ai đó đã nói rằng, những lúc cao hứng Hoàng Tường chỉ với cây ghi-ta cũ cất lên những nhạc klhúc tiền chiến vốn soạn riêng cho những dàn giao hưởng, chính anh đã đưa hơi thở thính phòng đến với quần chúng và giúp quần chúng cảm nhận, thẩm âm nhạc thính phòng. Hoàng Tường là một kết hợp hài hòa giữa uyên bác và bình dân. Không khoa trương, không hợm hỉnh – lặng lẽ nhưng vô cùng sôi nổi.
Rất tình cờ, tôi gặp Hoàng Tường một sáng mùa Đông bên thềm Câu lạc bộ Bụi Vàng, chủ xướng bởi nhà thơ Lan Cao (hỗn danh là Tống Giang của văn nghệ sĩ lỡ thờ). Ở đây có cái vị thơm riêng của Cà phê thứ thiệt, phảng phất hành lang Thanh thế, góc nhỏ Givral, âm thầm La pagode. Có Paté chaud gợi nhớ bánh mì Bưu Điện Sài gòn, có Jambon thịt nguội đưa cay cho những lưu linh hiền triết bất phùng thời. Ở đây là nơi gặp gỡ của những nghệ sĩ yêu chuộng tự do phóng khoáng, của những hảo hán không được vợ hoan nghênh. Ở đây, có đầy đủ Cầm – kỳ – thi họa. Có những mơ ước thăng hoa và cũng không thiếu những trầm tư thất chí.
Quán Bụi – dĩ nhiên không thể thiếu Hoàng Tường, người nghệ sĩ tài hoa này là một trong những quí khách ít khi có tiền lận lưng và vì thế cuốn sổ ghi nợ của nhà thơ Lan Cao mỗi lúc mỗi dày thêm tình nghĩa .
Hoàng Tường siết tay tôi thật chặt, dù chỉ mới hạnh ngộ lần đầu. Điều gây ấn tượng đậm đà nhất trong tôi là nụ cười – vâng – Hoàng Tường có nụ cười hiền như Bụt và ánh mắt luôn sáng lên rạng rỡ, khác với Hoàng Tường trên sân khấu. Hoàng Tường bằng xương bằng thịt trước mặt tôi là một mẫu người hiền hòa nhất mực, phong thái điềm đạm, tôi có cảm giác như đang đứng trước một nhà mô phạm. Cái chất nghệ sĩ tính của anh chỉ hiện rõ khi anh xoa tay cười cười và lắc lắc mái tóc mềm dài phủ gáy.
Hoàng Tường đặt nhẹ ngón tay trên thành ly bia sủi bọt, lịch lãm như một người sành điệu, anh nhắp từng ngụm nhỏ và từ đó hé ra một góc riêng tư. Hoàng Tường trưởng thành từ một vùng biển miền Trung đầy gío cát, say mê ca hát từ thuở thiếu thời.
Món quà qúi giá nhất trong đời anh là món quà của Bố: Một cây Ghi-ta phần thưởng khi anh thi đậu vào đệ thất. Từ đó, anh không phải lội bộ hằng bốn năm cây số để ra phố chợ họp bạn nghe đàn. Cũng từ đó vuông sân đất nhà anh, có vườn cây Thanh Long bao bọc, đêm đêm khi ánh sáng đèn bật lên ủ ấm trái Thanh Long thì cũng là lúc tiếng đàn, giọng hát của những ca nhạc sĩ tương lai được dịp cất lên-hòa điệu với những làn gió muối từ bãi xa đang khẻ thì thào. Và thính gỉa ngoài những bạn cùng trường còn có cô bạn láng giềng con ông thầy dạy nhạc, lớn hơn anh hai tuổi vẫn thường khép mình bên cửa sổ lắng nghe. Và chính những tiếng vỗ tay tán thưởng của cô bạn ấy đã đẩy anh đến với môi trường sáng tác-tình yêu cũng nở hoa theo từng nốt nhạc. Từ đấy cho đến mãi sau này, trong nhạc anh lúc nào cũng ẩn hiện ít nhiều hình ảnh cô láng giềng dễ thương kia.
Hoàng Tường gật gật đầu, có chút ngậm ngùi và dường như đang nói với chính mình: cho đến nay vẫn thế, cô ấy, con ông thầy dạy nhạc đầu tiên, vẫn còn trong ký ức. Tiếng hát Hoàng Tường đã vươn dài theo những lá Thanh Long để tìm sang bên ấy. Tiếc thay cô bạn láng giềng không bao giờ còn được nghe Hoàng Tường hát nữa- Trên đường vượt thoát tìm tự do cô ấy đã chọn đại dương làm nơi an nghĩ để khỏi rơi vào tay hải khấu,ngọc trầm thủy thưọng lâu rồi. Tôicảm nhận được cái mất mát ngoài ý muốn kia và mối tình dỡ dang (tôi tạm gọi như thế) có lẽ đã tác động không nhỏ vào nội tâm của Hoàng Tường. Do đó khi nghe Hoàng Tường hát lên những nhạc khúc buồn – luôn luôn đọng lại những hạt thủy tinh chứa nhiều trắc ẩn. Nói như thế không có nghĩa là Hoàng Tường chuyên hát nhạc buồn. Ngược lại, như đã nói ở trên, Hoàng Tường là một nghệ sĩ đa dạng, anh không lệ thuộc vào một trường phái nào. Bằng chứng chúng ta có thể lắng nghe những lời tình buồn, lại cũng phấn khởi hào hứng với những nhạc khúc đậm tính chiến đấu. Tuy không rõ ràng thách đố như chủ trương của Phong Trào Hưng Ca, nhưng cũng không thiếu cái hùng khí kiêu hảnh của một cựu quân nhân.
Hoàng Tường luôn chừng mực, dễ mến trong những trang phục giản dị, Cây Ghi –ta ngang tầm tay với, anh thường hát say mê như dồn cả máu tim mình vào ca khúc, Hoàng Tường lại càng thu hút hơn mỗi khi anh xuất hiện trên sân khấu với bộ quân phục thân quen của người lính QLVNCH và anh hát về lính như những ngày nào đi hát ở tiền đồn.
Hoàng Tường, ngoài chất giọng ,tài năng, sáng tác, còn được biết đến như một người hoạt động xã hội không mõi mệt, sự đóng góp của anh cho cộng đồng người Việt hải ngoại không những bằng lời ca tiếng hát không thù lao cho các hội đoàn, cơ quan từ thiện, cơ sở tôn giáo… Mà còn bằng chính những lợi nhuận thu được từ các Album nhạc của anh. Việc làm đầy ý nghĩa và âm thầm ấy chỉ có một số ít người biết tới.
Ngoài đời anh hào phóng, cởi mở bao nhiêu thì trong lãnh vực sáng tác anh rất chọn lọc và cẩn trọng, anh là một trong những nhạc sĩ hiếm hoi thích đưa thơ vào nhạc.
Và vì thế nhạc anh vẫn thường gây ấn tượng cho những người yêu thích thi ca vàø thử hỏi người Việt ta ai mà chẳng tích lủy một số thi ca làm vốn, Hoàng Tường đến và gần gũi với quần chúng từ sở thích trên.
Kẻ viết bài này thực sự không phải là một người sành nhạc, nhưng khởi đi từ những làn điệu thi ca, tôi thực sự mến mộ Hoàng Tường. Tôi cảm ơn quê hương đã nuôi dưỡng Hoàng Tường từ trong gío cát – Cây xương rỗng cuối cùng đã trổ hoa.
Tôi ghi lại những dòng này không có ý đánh bóng tên tuổi của Hoàng Tường. Bởi vì tự anh đã phát sáng – Ghi lại để kỷ niệm một gặp gỡ đầy hạnh phúc giữa xứ người lưu lạc tha phương.
Cám ơn Ca nhạc sĩ Hoàng Tường, người hát rong không mệt mỏi, cám ơn câu lạc bộ Bụi Vàng, cái lữ điếm cuối cùng trước khi xuống thuyền vào Lương Sơn Bạc, Cám ơn nhà thơ Lan cao người chủ nợ đầy hào sảng và cám ơn những ly bia Hoàng Tường trả hộ, đã cho tôi thêm nhiều hứng khởi để làm thơ.
Và như một chia sẻ tâm sự với Hoàng Tường tôi tạm mượn chút ý tình của thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật viết từ Na- Uy xứ lạnh tình nồng, thay cho lời kết:
….. Vì em anh biết yêu đàn / Tơ rung lời gỗ chứa toàn máu say/ Biết ai thương đời ngón tay…
Tôi dừng lại ở đây khi chương trình nhạc yêu cầu vừa phát với những ca khúc trích từ CD mơí nhất của Hoàng Tường: Ta Không Thể Làm Ngơ. Vâng – làm sao làm ngơ được với một ca nhạc sĩ mà tâm huyết đã dành trọn cho phong trào tranh đấu đòi dân chủ và nhân quyền vì thế mỗi một ca khúc là một tin thời sự nóng bỏng.
Nhạc của anh như những trang nhật ký không thể thiếu của người Việt lưu vong.
Bạn tôi ơi! ly rượu vẫn chưa vơi.
th.đoànthyvân

LƯU THÁI DZO
Qua dôi mắt em
Ta giữ trong tim kỷ niệm buồn
Từ em chưa nhạt phấn, phai son
Từ ta, gươm súng còn chung mộng
Thì bỗng Hung Thần cướp miếng ngon.
Thưở đó Trời cho ta vận may:
Hậu phương, tiền tuyến nhớ thương đầy
Mở đường giây nóng trao tình vội
Ngỡ trói chim trời hết lượn bay.

Tình ta chỉ có nợ, không duyên
Nên tuổi so le lẩn bạc tiền
Ngăn cách tình đầu non độ chín
Dù thề hẹn, vẫn dễ chao nghiêng.
Ta giữ trong tim môi mắt em
Nhắc ta thương nhớ mắt môi hiền
Của từng em gái Quê Hương mẹ
Hóa món hàng rong bán lấy tiền

Trang trải nợ nần, chạy áo cơm
Tấc vàng, tấc đất đã không còn
Khi tay phù thủy vươn dài mãi
Tận xóm thôn nghèo, đói, ốm nhom.
Ta giữ trong tim kỷ niệm buồn
Từ em quên bến đợi chiều hôm
Từ ta thôi nhớ duyên tình cũ
Thôi, nhắc nhở nhau nhớ cội nguồn.

Xuân Bích
Đêm vơi
Đêm vơi nhìn lại dấu chân
tật nguyền trên lối di phần cô liêu
những bông hoa tím ban chiều
đủ cho đêm vắng dựng triều kén sâu
bâng khuâng cung thức vực sâu
nghe đêm róc rách bên cầu chơi vơi
tình yêu đơn vốn không lời
người yêu điên vẫn gọi mời khổ đau
giận hờn là chuyện của nhau
niềm vui nước mắt loài sâu ái tình
cô đơn là của một mình
từ trong xa vắng hiện hình vào thơ
hôm qua rồi cũng bây giờ
ngày mai chưa đến vẫn ngờ là đây
gặp nhau là hẹn chia tay
mỗi người một ngả lưu đầy thời gian
mỗi tình yêu một bất an
mỗi người yêu một dối gian cho mình
con tim vờ vĩnh làm thinh
đôi mi trầm cảm nghiêng mình hỏi nhau
bao nhiêu tuổi nhớ trong đầu
từ sau lắng đọng nghe đâu… quên rồi.

Nắng chiều
Nắng trong vườn
nắng cuối sân
nắng chia nửa ngõ đường chiều
và em nghiêng lời nói
con chim bé lẻ giật mình
anh nhìn lặng lẽ
mái đình nghiêng xiêu
chiều đang xuống chậm
dung nhan ngày vong thân
tiếng gió gần
khơi thơm vòng khói nhớ
những ngón tay gầy
vây quanh ly cà phê tuổi vắng
hương đắng trầm
lén pha vào đăm chiêu
một hoài nghi cho câu hỏi
– có phải là tình yêu
trời cali hôm nay vơi nắng
gió se mình trên lối thảo du
hồn thơ viễn xứ
hóa thân thiền
trong cụm đời han dã tượng
của một hoàng hôn quen lối.

Những khoảng sống xưa
vẫn nhớ không lời giải đất cha
những ngày chưa biết nói yêu và…
một đêm hà nội quầng mi mắt
ôm ấu thơ mình đi rất xa

thành phố ru đêm bóng đợi hình
bỗng đâu mù mịt khói đao binh
một lần với huế nhìn thương tích
nhớ bến văn lâu khúc tự tình

vẫn nhớ cho mình khoảng sống xưa
sài gòn hoa lệ nắng mưa mùa
lá me bay nhẹ se đường phố
và những đêm mòn chuyện đón đưa

chung bước quân hành căng mắt sâu
pleiku phố núi lạnh kinh cầu
gió lùa thao thức vào gang thép
trộm gửi linh hồn trong hỏa châu

sóng biển thành nha một tuổi trai
chinh y sờn đọng dấu thương dài
say hồn cát trắng vầng đêm sáng
nhớ những hoàng hôn trên gót hài

nếu phải như từng nghe tiếng hoa
làm sao quên được lối sơn đà
những con đường giốc xanh tình tự
và gió đồi thông nhuốm nắng tà.

Song An Châu
Tình anh vẫn mãi đậm đà
Mong em về lại quê nhà
Tình anh vẫn mãi đậm đà như xưa
Dù rằng sớm nắng chiều mưa
Lòng anh tạc dạ, tình xưa vẫn còn.

Dù em góc núi đầu non
Mong em ngày tháng mõi mòn nhớ nhung
Chừng nào trở lại miền Trung
Nhớ về quê cũ tương phùng anh mong.

Sông Hương nước chảy theo dòng
Giờ đây hết lũ, tiết đông không hàn
Nhưng anh đau xót vô vàn
Thương em xứ lạ có gian nan hề.

Bây chừ nặng gánh sơn khê
Nặng tình phụ mẫu trăm bề lo toan
Mần răng hết nỗi cơ hàn
Đổi đời anh sốc, bàng hoàng lâu nay.

Dù cho mù mịt đường bay
Nhớ về gói trọn tình này nghe em
Trăng khuya đã xế bên thềm
Hương xưa ngày cũ dáng em xuân thì.

Em về tìm lại những gì
Mà em đã mất lúc đi xa nhà
Tình anh vẫn mãi đậm đà
Mong rằng muôn kiếp đôi ta chung đường.

Tình vẫn mãi còn vương
Bên này trời vào Đông
Giọt nắng đã thôi hồng
Đêm về sương giá lạnh
Lòng tôi thấy tróng không.

Tôi buồn như ngây dại
Nhớ ai tháng năm dài
Mong ngày vui tao ngộ
Bên ai cùng đắm say.

Tôi buồn cho đời tôi
Nay mãi ở phương trời
Bao năm hoài chờ đợi
Nhưng người đã xa rồi.

Đã một thời luyến thương
Tình vẫn mãi còn vương
Nay em bên người mới
Tôi… bơ vơ bên đường.

Bây giờ còn nhớ không em
Anh bên này mùa Đông lạnh lẽo
Trời âm u cây héo trơ cành
Anh đang thèm một giọt nắng hanh
Để sưởi ấm lòng anh buồn tẻ.

Anh vẫn nhớ những buổi trưa hè
Tiếng ve sầu kêu lên khe khẻ
Nghe hoang buồn vọng nhớ xa xăm
Nhớ tiếng em giọng nói thâm trầm.

Kề tai anh ngỏ lời tình tự
Như suối ngàn mát rượi lòng anh
Dù nắng trưa héo lá trên cành
Sao anh thấy lòng như tắm mát.

Bờ môi em cất lên tiếng hát
Nghe hồn anh bay vút lên cao
Trái tim anh rung động dạt dào
Ôi! thích quá da em mát rượi.

Tình nồng cháy bờ môi chót lưỡi
Anh thả hồn vào cõi thiên thai
Nghe ái ân như suối chảy dài
Từ ngọn nguồn ra ngoài biển cả.

Phiên khúc buồn
Nếu mai anh chết
em có buồn không?
Nếu mai anh chết
em có thấy trong lòng
mất một người thân vừa rời cõi thế?

Nếu mai anh chết
em có nhỏ đôi dòng lệ
khóc một người vừa cất bước ra đi?

Nếu mai anh chết
anh không ao ước gì
chỉ mong em đừng hờn giận

Vì khi anh sống
trên đời
chưa trọn nghĩa yêu em.

Về hưu
(Đoản văn)

Ngày mong đợi cũng đã đến. Như con ngựa già kéo chiếc xe đời lên dốc. Trên xe chất đầy hành trang “hỉ, nộ, ái, ố” mà cục buồn, thương, giận hờn to tổ bố đã trì kéo chiếc xe đời cũ kỹ, tuổi thọ đã cao, chưa đến đích đã quỵ ngã giữa đường đời đầy chông gai, vạn dậm…

Một kiếp người có là bao, nếu đếm thời gian bằng những phiến lá xanh tươi đầy niềm vui, thương yêu, trìu mến; đằng này những chiếc lá úa mùa thu buồn bã, khô héo càng ngày càng đổ dồn lấp cả những hạnh phúc nhỏ nhen của cuộc đời …nên thời gian kéo dài như vô tận.

Qua bao quanh co, gềnh thác, suối sâu, vực thẳm trên đường đời đầy chông gai, sỏi đá ũng chồn chân mõi gối rồi. Thôi. Xin dừng lại đây. Không phải để ngắm trời mây, non nước… mà để ôn lại nỗi đau, ê chề càng ngày càng lớn dần như chiếc bong bóng được dòng đời bom hơi sắp nổ tung, tàn lụi.

Ở cái móc thời gian gần kề “thất thập cổ lai hi”, chiếc xe cũng long óc, gẫy càng, xẹp bánh…đâu còn muốn tranh đua gì nữa, đâu còn sức lực gì mà rướn tới …
Nhìn lại đoạn đường đi qua…đâu làm được những gì ích lợi cho bản thân, gia đình, tha nhân và đất nước. Những kết quả sau những tháng năm dài nổ lực kéo chiếc xe đời chỉ là hạt cát trên biển buồn sa mạc.

Những cái bắt tay, những vòng ôm thân thiết, đi kèm theo lời nói “goodbye, good luck, congratulation!” của những người đồng nhiệm, đồng sở, khác màu da, không cùng quê hương chỉ thoáng qua như làn gió mát vuốt ve trong buổi trưa hè nắng gắt.

Không như con trâu già bao năm kéo cày trên ruộng đồng thay thế sức người, trả công nuôi dưỡng cho nhà nông và một ngày nào đó còn là một món thực phẩm ngon trong bữa tiệc tùng cho gia chủ.

Tôi, nay như chiếc xe thổ mộ cũ kỹ, hết xài, vứt bên hông cạnh bên xó nhà, không biết ai thấy còn tiện ích lấy để trồng rau, trồng hành, tạo hương vị cho đời trong những bữa cơm nghèo đạm bạc hay không ?

Xin cám ơn đời, cám ơn người đã cho tôi cuộc sống, dù cuộc sống không được an vui, như ý trên cõi đời này. Xin chào cuộc đời, xin chào mọi người. Nay tôi là chiếc lá cô đơn rụng bên đường đời, chờ ngày rã mục ……..

Ngày đầu về hưu
Atlanta ,GA, June 12,

Tiểu Thu
Phượng Yêu
Năm nay Mùng Một Tết rớt vào ngày chúa nhật, hên thiệt. Tuy sống hơn chục năm nơi xứ người xa vạn dậm, ông bà ông vải (có thể) ở hết bên Việt Nam, nhưng bàn thờ không có hương hoa trà quả, trên bàn không có tí mứt sen, mứt bí, bánh chưng, bánh tét, ngày mùng một không dọn được mâm cỗ cúng tổ tiên, Kim sẽ cảm thấy bứt rứt vô cùng! Tuy Tiến đã dặn rằng tháng này tuyết nhiều, đường sá trơn trợt, Kim lại có tật đi mau như ma đuổi, đi chợ một mình, tay xách nách mang rủi té gãy xương thì khổ! Kim dạ dạ cho chồng yên tâm.
Thứ bảy lo ăn sáng cho chồng con xong là nàng lái xe trực chỉ xuống phố Tàu. Chắc nhiều người cũng mang chung tâm trạng với Kim, nên mặc cho tuyết bay mù mịt, người ta vẫn chen lấn nhau nườm nượp trên vĩa hè. Tuy đã khệ nệ mang bốn năm xách đầy ứ, tới trước cửa tiệm Kim Phát, Kim chợt nhớ còn thiếu món hồng khô chưa mua nên bước vào. Tiệm đầy nghẹt khách hàng. Đang dáo dác tìm xem kệ nào có hồng khô, ánh mắt nàng chợt đụng một khuôn mặt quen quen. Linh tính báo động rằng đây không phải là một người quen thường, nên Kim ráng vận dụng trí nhớ…Thiếu phụ trạc bốn lăm, bốn sáu . Người cao dong dỏng. Tuy không son phấn nhưng làn da trắng mịn, mái tóc cắt ngắn ôm trọn khuôn mặt trái soan. Ai có đôi mắt này? Đôi mắt to màu nâu nhạt dưới rèm mi dài và cong như đôi mắt một phụ nữ Âu Châu. Thấy Kim nhìn mình chăm chăm, thiếu phụ mỉm cười, nhướng cặp lông mày, nhìn Kim như thầm hỏi. Nụ cười làm lúm sâu một đồng tiền trên má bà ta. Kim bước tới nắm chặt tay người đàn bà, hỏi dồn dập:
– Chị Phượng. Chị Phượng phải không?
Thiếu phụ cũng nhìn Kim chăm chú rồi reo lên:
– Kim. Trời ơi, không ngờ gặp lại Kim ở đây.
Trong cơn xúc động, hai người mặc kệ những đôi mắt tò mò, cứ ôm nhau nghẹn ngào. Miệng cười mà như mếu! Cuối cùng Kim nói:
– Chị mua đồ xong chưa? Phần em coi như xong, chỉ còn thiếu gói hồng. Xe em đậu ngoài parking. Chị lái xe hay đi bus? Chị Phượng cười:
– Kim biết cái tính thỏ đế của chị mà. Qua đây bốn năm rồi mà mỗi lần đi đâu cũng leo lên xe bus. Hôm nào các cháu rảnh mới nhờ chở đi được.
Mắt Kim sáng lên:
– Vậy hay quá. Bây giờ em đưa chị về đằng nhà em. Chị em mình tâm sự đã đời rồi em sẽ chở chị trả về nhà. Chịu hôn?
Phượng lắc đầu cười:
– Bộ chị không chịu rồi Kim tha hay sao? Cái tánh ngang ba làng cãi không lại của cô tôi còn lạ gì chớ!
Kim cười hì hì :
– Chị hiểu em còn hơn ông Tín! Nếu ổng cũng “hổng thèm” cãi lại em như chị thì khỏe cho em quá chời!!! Đỡ tốn bao nhiêu là nước miếng! Thôi mình đi.
Phượng bật cười:
– Kim cũng như xưa, không thay đổi chút nào… Hai tiếng “như xưa” khiến Kim sửng người.
… Ngày xưa có nghĩa là cách đây cả một phần tư thế kỷ. Cô nhỏ tên Kim theo mẹ lên buôn bán nơi vùng Tây nguyên của miền Trung xa thăm thẳm. Kontum. Một địa danh rất xa lạ đối với nhiều người. Nghe đến tên này, người ta chắc chắn sẽ hình dung một khung cảnh rừng thiêng nước độc, hùm beo lúc nhúc. Dân chúng chắc chắn thuộc loại nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi. Nhưng lạ lắm, từ công chức tới quân nhân, ai đã từng sống qua nơi miền cao nguyên cát trắng này, cũng giữ mãi trong tâm khảm một hình ảnh đẹp, thật đằm thắm, thật thân thương. Kontum được bao bọc bởi những rặng núi hùng vĩ . Có ngọn Ngọc Lĩnh cao nhứt miền Nam Việt Nam. Thác Yaly cao bốn mươi mét, đẹp không thua gì thác Prenn Đàlạt. Muốn vào thị xã phải qua sông Dakbla. Con sông bắt nguồn từ trên núi chảy xuống, lượn vòng quanh như một cánh tay khổng lồ ôm trọn cái thành phố nhỏ bé vào lòng. Mùa hè, hàng phượng vĩ dọc theo bờ sông trổ hoa đỏ rực rỡ, nghiêng mình trên dòng nước biếc. Đám mạ non xanh mơn mởn từ bờ sông chạy tít tắp vào tận chân núi xa xa màu xanh lam. Trên đỉnh thỉnh thoảng vương vài đám mây trắng. Toàn bộ đẹp như một bức tranh tuyệt tác. Nhưng cũng như những người đàn bà đẹp, tính tình thay đổi bất chợt. Mùa mưa, nước trêân núi theo sông đổ xuống ầm ầm. Giòng sông như con rắn lớn điên cuồng, trườn tới đâu cuốn phăng mọi thứ đến đó. Nhà cửa, súc vật, cây cối… May mà thành phố được xây trên cao nên không bị ảnh hưởng, chỉ tội những người ở dọc theo bờ sông. Dân Kontum hiền lành và hiếu khách. Người đủ mọi miền đổ về đây làm ăn. Nhưng phần lớn gốc Bình Định, Huế và Quảng Nam, Quảng Ngãi. Một ít người miền Nam như gia đình Kim, hoặc người Bắc như gia đình bác Đĩnh hàng xóm. Con gái nơi này đẹp không thua các cô gái Đà Lạt. Độ cao của hai miền Cao Nguyên tròm trèm nhau thì không có lý do gì con gái miền này xấu hơn con gái miền kia?(đó chỉ là ý kiến riêng của Kim mà thôi). Bằng chứng là phần lớn các chàng độc thân đổi lên đây, nếu không nhận nơi này làm quê hương (thứ hai), thì lúc đổi đi nơi khác, cũng sẽ có cái đuôi thê nhi đề huề đi theo…
Ba mất sớm lúc Kim mới lên mười. Má theo người anh bà con lên buôn gạo trên này. Lúc đầu anh Thiên trọ học ở Sàigòn và Kim còn ở lại Cao Lãnh với ông bà nội. Khi cơ sở vững chắc má mới đón Kim lên theo. Anh Thiên đậu tú tài. Học luật được một năm, không hạp, nhảy qua văn chương. Một bữa đẹp trời đang cà lơ phất phơ ngoài phố Lê Lợi thì gặp ngay tên bạn nối khố lúc còn ở Trung Học. Hai tên kéo nhau vô Thanh Thế ăn trưa. Tài thuyết phục của ông bạn vàng này chắc thuộc vào hạng thượng thừa, nên chỉ hai tháng sau bà Hậu – má Kim – nhận đượïc bức thơ của cậu quý tử báo tin đã nộp đơn xin đầu quân vào binh chủng không quân. Cậu mộng trở thành một đấng phi công oai hùng, xỏa cánh bay trong bầu trời cao rộng!!! Với chiều cao trên một thước bảy và mảnh bằng tú tài đôi, cậu thấy không có gì làm cản trở cái giấc mộng tang bồng hồ thỉ của mình. Bà Hậu khóc mất ba ngày. Nhưng biết tính bốc đồng của con, bà hy vọng Thiên sẽ nghĩ lại. Nhưng bộ đồ bay đẹp quá, hấp dẫn quá. Mỗi cuối tuần, biết bao cô nàng hãnh diện được cặp tay đi dạo phố với người yêu trong bộ đồ bay bất hủ! Sau cùng bà đành chịu thua…
Kim vào đệ thất trường sơ. Trường rặt con gái. Mấy chị đệ ngũ, đệ tứ, Kim thấy chị nào cũng đẹp. Cuối năm một số các chị lớp đệ tứ theo chồng bỏ cuộc chơi (tỉnh nhỏ nên số đông học trò đều lớn tuổi. Thuở đó con gái mười sáu,mười bảy mà chưa có người rấp ranh bắn sẻ, ông bà già sẽ lo sốt vó!). Ai muốn học cao hơn phải ra Đà Nẵng, Huế hoặc vào Sàigòn, nhiêu khê quá. Thôi thì lên xe bông là thượng sách! Kim lên đệ lục. Vẫn ngổ ngáo như một thằng con trai. Giờ ra chơi cột hai vạt áo dài nhảy lò cò, nhảy dây… Áo quần tét ngược tét xuôi. Bà Hậu la hoài đâm chán cũng mặc kệ.
Thiên ra trường đổi lên phi đoàn đóng tại Pleiku. Hai thành phố cách nhau năm mươi cây số. Không có phi vụ, cuối tuần Thiên lái xe jeep vù về Kontum thăm nhà. Cũng để ăn trả bữa. Cơm câu lạc bộ nhiều hôm nuốt không trôi!!!
Từ khi Thiên khoác áo lính, bà Hậu đâm siêng năng đi chùa. Có tin có lành mà. Cõi âm hay cõi dương thì cũng như nhau. Quỷ Thần cũng như người phàm đều nhận hối lộ tuốt luốt. Cứ siêng năng cúng kiến, quỷ thần sẽ chở che, chuyện dữ hoá lành. Vì vậy cứ tới Rằm, bà cho chở lên chùa Cổ Sơn Môn nào gạo, nước tương, dầu ăn, tàu hủ ky v…v… để chùa nấu cơm chay đãi thiện nam tín nữ.
Rằm tháng giêng quan trọng đặc biệt. May lại đúng vào ngày chúa nhựt. Từ hôm qua bà Hậu đã cho người chở mọi thứ lên chùa. Sáng nay chỉ còn ít nhang đèn, hoa quả. Thiên và tên bạn thân cùng phi đoàn về chơi từ hôm qua, sáng nay phải trở xuống Pleiku trực. Chàng tình nguyện đưa mẹ và em lên chùa trước khi đi. Tới cổng tam quan, Thiên xuống xe dành xách túi trái cây cho mẹ tới trước cửa chùa. Có hai người có lẽ cũng vừa tới trước độ vài phút, đang định bước vào chánh điện, nghe tiếng chào từ giã của Thiên thì quay lại. Nhận ra người quen, bà Hậu đon đả chào:
– Chào bác Tuân. Té ra bác cũng đi chùa bữa nay. Ủa cháu Phượng đây phải không? Bây giờ lớn trổ mã đẹp quá bác nhìn không ra! Cô gái thẹn thùng cúi đầu lí nhí chào bà Hậu. Bà quay qua Thiên giới thiệu:
– Con trai lớn của tôi đó chị. Chào bác đi con.
Thiên cúi đầu chào bà Tuân một cách vô cùng kính cẩn. Vì bên cạnh bà, người thiếu nữ óng ả trong chiếc áo dài tơ tằm màu tím Huế, mái tóc nhung mềm gọn gàng trong chiếc băng đô cùng màu đẹp như một bài thơ!. Ơí cụ Nguyễn Du ơi, cái câu “hoa ghen sắc thắm, tuyết nhường màu da” của cụ trong trường hợp này thiệt là trúng phóc! Mặc cho hai bà mẹ thăm hỏi nhau, cặp mắt Thiên không cách gì rời khỏi được khuôn mặt kiều diễm của người thiếu nữ. Trước đôi mắt cú vọ cứ dán vào mặt mình, cô gái ngượng ngùng lui lại núp sau lưng bà mẹ. Thấy ông anh đứng như bị trời trồng, Kim tức cười kín đáo cấu tay anh một cái:
– Anh Phú đợi anh ngoài xe kìa.
Thiên chợt tỉnh, vội chào mẹ và bà Tuân, không quên nháy mắt với Kim. Tới nửa đường, không kềm nổi, anh chàng quay đầu lại lần nữa để kịp nhìn thấy cái lúm đồng tiền trên má của nàng. Trên đường xuống Pleiku, Phú hỏi gì Thiên chỉ ậm ừ, Phú chán cũng lặng thinh luôn!…
Cuộc tình Thiên – Phượng manh nha từ đó. Kim nhớ như in, chúa nhật sau, vừa về tới nhà là Thiên đã cuống quít gọi:
– Kim đâu rồi. Ra đây anh hỏi cái này chút.
Kim đang đọc truyện trong phòng chạy vội ra:
– Anh Thiên. Có quà cho em hả?
– Từ từ. Giúp anh được chuyện này thì muốn gì cũng có.
Kim hăng hái:
– Được rồi nói đi.
Bỗng dưng giọng Thiên hơi ngập ngừng:
– Nhỏ biết cái cô…gì đó (làm bộ khờ!, tuy đã biết tỏng nàng tên Phượng và đã gọi thầm tên em không biết mấy trăm lần suốt tuần qua…), mặc áo tím mình gặp trên chùa tuần rồi hôn?
Kim gật:
– Chị Phượng học lớp Đệ Tứ trường em và có con em tên Nga học cùng lớp với em. Ờ mà anh hỏi chi vậy?
Thiên hơi lúng túng:
– Ngày mai Kim đưa cái này cho cô Phượng dùm anh được hôn?
Nhỏ dẫy nẩy:
– Trời đất, bộ anh tính cua chị Phượng hả? Thôi đi, nhà mình người Nam, chỉ người Huế…
Thiên cắt ngang, làm mặt nghiêm:
– Trời ơi, anh không ngờ mới nứt mắt mà Kim đã có tánh kỳ thị, phân chia Nam-Trung -Bắc! Kim phải biết chúng ta đều là người Việt Nam.
– Xí, làm như em ngu lắm vậy đó! Tại con Nga nó làm phách một cây. Hở hở là vênh mặt lên, xưng mình là giòng hoàng thất này, hoàng thất nọ! Lớp em ai cũng ghét cay ghét đắng. Thiên nhăn nhó:
– Nga là Nga, Phượng là Phượng. Nhỏ Nga xí xọn nhưng biết đâu cô Phượng hiền? Bữa đó anh thấy mặt cổ hiền khô hà. Thôi ráng giúp anh đi mờ, muốn gì anh cũng chịu. Kim cầm phong thơ màu tím nhạt đưa ngang tầm mắt, thấy đề: Trao về Tôn-Nữ Hoàng-Phượng. Trên góc trái chỉ có mấy chữ tắt N.Q.T. Kim chu mỏ:
– Anh biết hết trơn rồi mà còn giả mù sa mưa, hỏi em này nọ.
Thiên cười hì hì:
– Kim quên cô Phượng có tiếng đẹp nhứt trường Thánh Têrêsa rồi sao? Vừa mới tả cặp mắt cổ thôi là đã có cả đống thằng biết.
Kim gật gù:
– Hèn chi ngày nào tan trường cũng có cả đám con trai sắp hàng ngoài cổng. Thiên nhìn Kim, giọng đầy lo lắng:
– Chết cha. Vậy Kim cần phải giúp anh lẹ lên. Mất Phượng là anh….chêêết!!!
Kim nguýt anh:
– Cải lương!
… Kim nặn đầu nặn óc tìm cách nào đưa thơ cho ổn thỏa… Thứ hai, giờ ra chơi, Kim cầm cuốn Hồn Bướm Mơ Tiên (Rất có ý nghĩa trong trường hợp này!), có kẹp phong thơ của Thiên bên trong, mon men lên lớp Đệ tứ, lấy hết can đảm, tiến tới bàn của Phượng lúc đó đang say sưa đấu láo với cô bạn thân tên Bích, tay đưa cuốn sách miệng nói (thuộc lòng):
– Chị Phượng ơi, em đem chị mượn cuốn sách chị hỏi em hôm trên chùa.
Phượng ngỡ ngàng, nhưng hai tiếng trên chùa gợi lại trong trí nàng hình ảnh của một chàng phi công rất ư là tuấn tú, nên cầm vội cuốn sách, cười thẹn thùng:
– Cám ơn em.
Không đợi Phượng nói thêm, Kim vội vàng rút lui. Ra tới ngoài mới thở phào nhẹ nhõm! Cô nhỏ hồi hộp chờ đợi… Thứ ba, tư, năm rồi thứ sáu, Kim chờ hoài vẫn không thấy bóng dáng Phượng đâu cả. Nhỏ thở dài, thầm lo dùm cho ông anh yêu dấu! Tiếng chuông tan trường càng làm tăng nỗi thất vọng trong lòng Kim . Nghĩ tới bộ mặt chảy dài của ông anh mà lòng Kim buồn rười rượi! Ra gần tới cổng, một bàn tay êm ái đặt lên vai Kim làm cô nhỏ giựt mình quay lại. Phượng đưa trả cuốn sách kèm theo một nụ cười và lời…cám ơn. Nỗi ngạc nhiên làm Kim á khẩu! Phượng đi rồi cô nhỏ mới lật cuốn sách ra coi. Một phong thư cũng màu tím dịu dàng nằm gọn giữa những trang sách. Thoáng cái đời đã trở lại màu hồng… Kim chưa bao giờ chứng kiến một hạnh phúc lớn lao như hôm trao lại cho anh bức thơ của Phượng. Kim tưởng anh mình sắp phát điên vì sướng sướng. Sau khi đưa bức thơ lên môi hôn cả chục lần, anh chàng si tình bèn vô buồng đóng chặt cửa lại. Tới bữa cơm phải kêu năm lần bảy lượt mới chịu ra…Suốt bữa cơm lại còn pha trò lia lịa!
Kim đành đóng vai chim xanh cho hai người. Cũng từ đó bài “Phượng Yêu” bất hủ của nhạc sĩ Phạm Duy bị giọng vịt đực của anh Thiên nghêu ngao suốt ngày:
– Yêu nguời như lá đổ chiều đông, như mây hồng chưa tím, như con giun ngước lên trời…hoặc Yêu người yêu Phượng yêu hoa đầu mùa. Yêu mầu rực rỡ yêu em mù loà (cái này Kim còn hiểu chút chút, chớ khi anh trổi giọng thảm thiết: Yêu Phượng ta chết được ngày mai. Yêu như loài ma quái đi theo ai cuối chân trời…thì Kim cảm thấy bao nhiêu tóc gáy dựng đứng lên hết trơn, bởi con nhỏ trong đời chỉ sợ nhứt là…ma! Nếu có chàng nào cao hứng yêu Kim kiểu này thì chắc chắn con nhỏ chỉ còn có nước vắt giò lên cổ chạy càng xa càng tốt!)
Càng gần gũi với Phượng , Kim càng thấy nàng dễ thương. Khác hẳn con em lố bịch(!), Phượng dịu dàng, tế nhị, đầy lòng vị tha. Càng ngày Kim càng có cảm tình sâu xa với Phượng. Chỉ khổ thân cho Thiên, ngoài những lần đậu xe trước cổng trường khi tan học, trao đổi với Phượng những ánh mắt, nụ cười gần như lén lút cho “đỡ ghiền”, không còn cách nào gặp mặt. Không lẽ đường đột tới nhà nàng? Ông già khó lắm – Phượng viết trong thơ – Tới mà bị ổng mời ra chỗ khác chơi thì mất mặt bầu cua lắm lắm! Nhưng Trời không nỡ phụ lòng người. Một hôm Phượng hớn hở nói với Kim:
– Chúa nhựt này Bích mời chị qua nhà chơi. Nhà Bích bên Phương Hòa, mít đang chín rộ. Kim có đi với chị không?
Kim cười mím chi trả lời:
– Theo em chắc còn có người sẽ xin đi ăn ké với chị em mình nữa đó. Chị cho phép không để em còn báo cho “người ta” hay?
Phượng mắc cỡ đấm Kim thùm thụp.
Sáng Chúa nhựt Kim xách xe đạp chạy tới nhà Phượng, rồi cả ba (tất nhiên phải có con Nga xí xọn!) cùng gò lưng trên con ngựa sắt, thẳng tiến qua làng Phương Hòa. Làng này nằm phía ngoài thành phố. Phải qua cầu Dakbla, rồi theo đường liên tỉnh ngược xuống Pleiku, độ năm cây số thì quẹo phải. Đây là một làng rất trù phú. Toàn nhà gạch mái ngói, có rào bao xung quanh. Nhà nào cũng có vườn cây ăn trái như nhãn, mít, ổi, mãng cầu, cam quít… Chỉ có soài không hạp với phong thổ miền cao nguyên. Lấy giống ngon ngọt tới đâu lúc đem về đây trồng, trái cũng sẽ trở thành chua lè như dấm!
Ba cô đạp xe trên con đường làng rợp bóng mát, nên không thấy mệt chút nào. Trước cổng nhà Ngọc Bích có hai cây lựu, trổ bông đỏ, rực rỡ trên nền lá nhỏ lăn tăn, xanh biếc như màu cẩm thạch. Ngoài hàng ba đã bày sẵn bốn chiếc ghế chung quanh một chiếc bàn gỗ tròn. Trên bàn đã có sẵn bình nước đá chanh và mấy cái ly thủy tinh. Nước đá chanh uống tới đâu mát rượi tới đó. Bốn cô còn đang chuyện trò như bắp rang thì ngoài cổng có tiếng xe dừng lại rồi tắt máy.Tám đôi mắt đồng loạt nhìn về cùng một hướng. Có gương mặt ngạc nhiên thật sự, có gương mặt cố gắng bày tỏ sự ngạc nhiên khi thấy hai chàng trai tuấn tú, trong bộ đồ bay trên chiếc xe jeep bước xuống và từ từ tiến vô sân, nơi các cô đang giải khát. Có tiếng reo vui:
– Anh Thiên. Anh Phú. Sao mấy anh biết tụi em qua đây?
Một giọng khác cũng không kém phần thích thú:
– Ủa Kim. Xấu quá. Đi chơi mà không thèm rủ tụi anh. Kìa cô Phượng. Không ngờ được gặp cô ở đây. Tụi tôi đi kiếm mua vài trái mít nghệ, đem xuống Pleiku làm quà. À xin lỗi các cô, đây là Phú bạn tôi.
Qua giây phút xúc động, Phượng lấy lại bình tĩnh:
– Hân hạnh được biết anh Phú. Đây là Ngọc Bích, bạn thân của tôi. Còn đây là em gái tôi tên Nga. Kim thì chắc khỏi phải giới thiệu…
Mọi người cười xòa.
Ngọc Bích vội vàng chạy vô nhà lấy thêm ly ra mời nước những người khách (không được mời!) mới tới. Thiên mở lời:
– Nhà cô Bích trồng nhiều cây ăn trái quá. Đứng đây mà đã nghe mùi mít chín thơm lừng. Không biết cô có thể nhín cho tụi tôi vài trái được không?
Bích vội vàng trấn an:
– Không sao, không sao. Trước lạ sau quen. Bích đãi mấy anh ăn thỏa thích ở đây, chừng về lấy thêm mới tính tiền. Giờ còn sớm để Bích dẫn mấy người đi xem vườn. Phía sau nhà mới nhiều trái cây. À, Phượng qua đây hà rầm, cứ ngồi đó chơi, không bắt buộc phải đi theo tụi này.
Nói xong Bích còn nheo mắt với Phượng một phát (Ra cái điều em đừng hòng giấu được qua!!) khiến cô nàng mắc cở hai má đỏ hồng. Trái với Phượng, Bích thật sống động và hồn nhiên, lại rất thông minh. Mới đầu Bích còn tưởng hai phe tình cờ gặp nhau, nhưng sau đó, những ánh mắt “không bình thường” họ trao cho nhau làm sao qua mặt nàng cho nổi? Thật ra không phải Phượng cố tình dấu bạn, nàng chỉ ngại chưa có gì chánh thức, cả lớp biết rồi bàn ra tán vào rất phiền. Định bụng sau lần gặp gỡ này sẽ bật mí hết mọi chuyện cho Bích biết. Phú thì khỏi nói. Có điều gì mà Thiên không tâm sự với cu cậu? Bữa nay tình cờ gặp được cô bạn của Phượng, Phú thích lắm. Tuy không đẹp mặn mà như Phượng, nhưng cách ăn nói và nụ cười của Bích rất thu hút. Ở người con gái, sự thông minh duyên dáng đối với chàng quan trọng hơn một sắc đẹp vô hồn. Vì vậy Phú bị Bích lôi cuốn ngay. Anh chàng hồ hởi nắm tay Kim kéo đi theo Bích. Kim cũng không quên nắm tay nhỏ Nga lôi theo. Sợ nhỏ ở lại sẽ làm kỳ đà cản mũi hai kẻ đang cần sự vắng vẻ và yên tĩnh!
Đột nhiên thấy chỉ còn một mình trơ trọi với Thiên, Phượng đâm hoảng, đứng bật dậy định chạy theo đám người kia. Thiên nắm tay Phượng kéo ngồi xuống, nói thật nhẹ nhàng:
– Ngồi lại đây với anh. Bộ anh làm Phượng sợ?
Phượng ngước mắt nhìn Thiên thật nhanh rồi cắn môi:
– Dạ không. Phượng có sợ gì đâu anh.
Trời ơi, cái giọng Huế sao mà nhẹ hẩng như tơ trời, lại du dương thánh thót như tiếng nhạc. Chưa gì mà anh chàng đã có cảm giác như hồn sắp bay lên tận chín từng mây xanh. Phượng làm cử chỉ muốn rút tay lại. Nhưng thay vì buông ra, Thiên đưa bàn tay thon mềm của nàng lên môi hôn nhẹ. Phượng hoảng kinh dòm dáo dác:
– Dị quá anh! Coi chừng người ta thấy.
Nhìn nét mặt hốt hoảng của người mình yêu, Thiên tội nghiệp trả tự do cho bàn tay của nàng. Nhưng khi thấy ánh mắt đam mê của Thiên và nghe chàng thì thầm:- Anh muốn cắn đôi môi ngọt ngào của em thì Phượng đưa vội bàn tay lên che miệng:
– Anh làm em sợ thiệt rồi đó hỉ. Nghỉ chơi với anh…
Thiên hốt hoảng:
– Phượng, Phượng đừng giận anh. Anh yêu Phượng đến phát… điên rồi đó. Không thương mà còn đòi nghỉ chơi với anh. Ác thiệt là ác! Rồi đổi liền qua “ton” khẩn cầu:
– Nói cho anh biết đi. Phượng có thương anh không? Nói đi. Nói đi mà. Nàng nhứt định ngậm tăm. Chàng thúc hối nói đi, một lần thôi mà. Nàng lắc. Chàng đổi chiến thuật:- Bây giờ anh hỏi, có thì em gật, không thì em lắc. Phượng có thương anh chút nào không nè? Nàng mím cặp môi hồng, mắt nhìn xuống bàn, nhè nhẹ gật đầu. Thiên sung sướng quá, quên cả lời hứa, chồm tới, hai tay nâng khuôn mặt yêu dấu, đặt lên đôi đang hé mở một nụ hôn thật nồng nàn. Phượng mắc cỡ, vùng khỏi tay Thiên đi riết ra sau hè. Thiên đứng lại, thở mấy hơi thiệt dài để nén làn sóng xúc cảm đang dâng lên cuồn cuộn trong lòng. Nhưng cái miệng thiệt kỳ, muốn mím lại mà sao nó vẫn cứ tự động toét ra cười. Còn dấu nổi ai?….
Chiều về Thiên nhân danh bà Hậu, mang tới nhà bà Tuân – mạ của Phượng – biếu một trái mít nghệ thiệt lớn, tỏa mùi thơm điếc mũi. Nhận ra con trai bà Hậu, là người vẫn cung cấp thường trực gạo ngon cho gia đình bà từ nhiều năm nay, mạ Phượng vui vẻ nhận ngay. Thấy Thiên ăn nói lễ phép, con nhà đàng hoàng, ông bà Tuân vui vẻ cho phép Thiên thỉnh thoảng ghé chơi. Thiên khôn khéo lấy lòng hai ông bà. Những mẹo vặt xưa như trái đất như khi đấu cờ với ông bố, chơi năm ván thì mình nhường cho ổng ăn bốn. Bà mẹ có nhờ mua thứ gì trong P.X., tuy tốn hơn phân nửa tháng lương cũng ráng vui vẻ mà ngôn rằng:- Dạ, rẻ thôi mà. Bác nhận cho là cháu mừng… lúc nào cũng thành công mỹ mãn! Càng ngày Thiên càng vắng bóng trong những bữa cơm cuối tuần. Một hôm bà Hậu phải cằn nhằn:
– Kỳ hết sức. Lóng này sao vừa thấy bóng thằng Thiên chạy vô nhà, chưa kịp hỏi han gì hết là đã biến mất tiêu!
Kim cười nói ảnh đi chầu mà má.
Bà Hậu không hiểu, hỏi lại:
– Cái gì đi chầu?
– Là ảnh tới đóng đô ở nhà chị Phượng đó mà.
Bà Hậu tròn mắt:
– Phượng con bác Tuân đó hả? Ừ, con nhỏ đẹp thiệt. Xứng đôi với thằng Thiên lắm chớ.
Thấy mẹ vui, Kim đem chuyện Thiên – Phượng kể cho bà nghe. Tối đó bà nhứt định đợi Thiên đi chơi về, kêu ra hỏi. Rồi xúi hai đứa tính tới. Thiên ấp úng thú thật thân mình lo chưa nổi, lấy gì nuôi vợ con? Bà Hậu âu yếm nhìn thằng con trai độc nhứt:
– Miễn hai đứa đồng ý, má lo hết. Tiền của má sau này cũng để cho con của má mà. Con Phượng về làm dâu nhà này, má sẽ ra cho nó cái tiệm. Còn như nó muốn theo con, mỗi tháng má phụ thêm cho tụi bây đủ xài.
Thiên cảm động ôm mẹ hôn cái chụt lên trán:
– Cám ơn má. Con sẽ hỏi ý Phượng rồi cho má hay liền.
Tuần sau, Thiên hớn hở báo cho mẹ hay Phượng đã bằng lòng. Đợi tới hè Phượng học xong rồi làm đám hỏi, đến Noel cưới (tháng này lạnh, đám cưới rất hạp!). Cả bà Hậu và Kim đều vui. Bà vội vàng sắm lễ vật tới thăm ba mạ Phượng. Chỗ quen biết từ lâu nên mọi sự đều dễ dàng. Đôi trai tài gái sắc bơi trong hạnh phúc. Kim không có chị nên thương chị Phượng vô cùng. Cả bà Hậu được Phượng làm con dâu cũng đẹp dạ. Chính bà xin phép ông bà suôi tương lai dẫn Phượng xuống Sài Gòn sắm đồ cưới. Giữa tháng mười hai nên Kim không được tháp tùng. Nhỏ khóc lóc thảm thiết. Sau cùng Phượng hứa, ngoài hai cô phù dâu chính thức bạn của Phượng, Kim và Nga cũng sẽ được mặc áo dài cùng màu để làm phù dâu…phụ. Lúc đó nhỏ mới tạm nguôi ngoai! Một tuần sau Phượng về lại Kontum với một valy đầy ắp. Áo gấm đỏ nổi hoa vàng, khăn vành rây vàng, hài đỏ, áo choàng đăng ten trắng, bó hoa cầm tay với những nụ hồng hàm tiếu bằng lụa… Chiếc kiềng vàng và hai vòng tay chạm long phụng, không kể bộ nữ trang bằng hột xoàn để đeo buổi tối. Bạn bè Phượng cô nào cũng suýt soa, khen nàng tốt số. Tất cả đẵ sẵn sàng… Rồi chỉ còn mười ngày ngắn ngủi. Thiên xin nghỉ phép được một tuần. Thiên thì tươi rói nhưng Phượng ốm đi nhiều vì lo. Nàng đẵ từng nghe nhiều người kể lại, lúc còn tán tỉnh nhau thì cái gì cũng hoàn hảo. Chàng ga lăng hết biết. Ý nàng là ý trời. Lúc nào cũng tỏ ra ta đây rộng rãi, tiền bạc kể sá gì! Nhưng một khi ván đã đóng… xuồng rồi thì mi sẽ biết tay ta. Có chàng còn nóng nảy, áp dụng ngay câu “dạy con dạy thuở còn thơ, dạy vợ dạy thuở bơ vơ mới về” ngay đêm tân hôn. Cô dâu vào phòng trước, đang hồi hộp chờ đợi những phút giây êm ái mà tân lang sẽ mang tới cho cô. Nào ngờ, vừa bước chân vô phòng, chàng đã vội vàng tặng cho cô vợ mới một cặp tát tai nẩy lửa, gọi là ra tay trước để áp đảo tinh thần địch, hầu chiếm thế thượng phong!!! Nàng tá hỏa tam tinh, chỉ còn nước ôm mặt khóc nức nở và đêm đó nhứt định khóa kín động đào, chàng năn nỉ cách gì cũng không chịu! Sáng hôm sau thấy bộ mặt đưa đám của con dâu, bà mẹ bèn lôi ông con trai ra một nơi hỏi cớ sự. Té ra anh chàng khờ này bị đám bạn quân sư quạt mo xúi bậy. Bà chửi cho ông con một trận vuốt mặt không kịp, rồi năn nỉ dùm, cô vợ mới chịu tha cho… Sau đó biết lỗi, anh chàng tự động tụt xuống… hạ cấp (là cấp dưới chớ không phải đồ cà chớn đâu!)
Chúa nhựt này Thiên không về được vì phải bay thế cho một tên bạn đưa vợ đi đẻ. Trong phi đoàn giúp qua giúp lại là thường. Hơn nữa Thiên sắp được nghỉ bay một tuần cho đám cưới. Trước khi lên máy bay, Thiên còn dặn Phú:
– Cậu nhớ o bế bộ đồ veste cho cẩn thận. Làm sao cho xứng đôi với cô dâu phụ Ngọc Bích đó thì làm. Sau đám cưới tụi này, tới phiên hai người lo đi là vừa.
Phú cười toe:
– Yên chí đi. Bộ đồ vía tớ đã bỏ hấp tẩy nỉ sẹt rồi. Tuần tới lấy.
Thiên cho máy bay cất cánh, đảo một vòng trên không trung rồi từ từ biến dạng trong bầu trời xanh thẳm. Bỗng dưng Phú thấy trong dạ dâng lên một cảm giác bồi hồi khó tả. Chàng nghĩ chắc tại bức thư nhà vừa nhận được sáng nay báo tin bà cụ đau nên trong lòng cứ bồn chồn, lo lắng. Chàng lẩm bẩm cầu Trời cho mẹ đừng có chuyện gì.
… Tin phi vụ của Thiên bị mất liên lạc đến trong lúc Bà Hậu và Kim đang dùng cơm tối. Trọng trách này là một cực hình cho Phú, nhưng chàng là bạn thân nhứt của Thiên trong phi đoàn. Không thể giao cho ai khác. Vừa thấy cái dáng ủ rũ và cặp mắt đỏ hoe của Phú, bà Hậu hỏi liền:
– Thằng Thiên?
Phú trả lời nhẹ như hơi thở, mắt không dám nhìn bà:
– Dạ. Mọi người đang nổ lực tìm…
Phú nói chưa dứt câu, Bà Hậu đã ngã nhào xuống nền gạch bất tỉnh. Kim vừa đỡ mẹ vừa khóc nức nở. Phú tiếp tay Kim khiêng bà Hậu lên giường, vừa hối chị người làm đi lấy khăn nhúng nước thiệt lạnh đắp mặt cho bà tỉnh lại. Lần đầu thấy mẹ xỉu nên Kim bở vía. Chỉ biết khóc rồi kêu mẹ ơi mẹ hỡi, đừng chết bỏ con. Nhưng lúc bà Hậu tỉnh lại mới là kinh thiên động địa! Bà đập đầu bôm bốp vô tường, miệng gào tên Thiên đến khản cổ. Lúc thấy bà mệt quá thiếp đi, Phú nói với Kim chàng còn phải tới nhà Phượng báo tin rồi sẽ trở lại. Cũng như bà Hậu, vừa thấy bộ mặt như đưa đám của Phú là Phượng đoán có chuyện chẳng lành. Thấy Phú nuốt nước miếng mấy lần mà vẫn không mở lời được, Phượng hỏi:
– Anh Thiên có chuyện gì phải không?
Phú trả lời, mắt không dám rời Phượng:
– Sáng nay Thiên đi oanh kích miệt ba biên giới. Nhiệm vụ đã hoàn tất, nhưng sau đó Đài Chỉ Huy mất liên lạc với tụi nó luôn.
Giọng Phượng lạc đi:
– Vậy có nghĩa là…
Phú buồn rầu gật đầu. Đã có chuẩn bị trước nên vừa thấy Phượng chới với sắp ngã xuống là Phú nhào lại đỡ liền, miệng kêu Nga ơi Nga. Chị Phượng xỉu rồi. Mọi người hớt hải chạy ra. Khi nghe báo Thiên mất tích, cả bà Tuân lẫn Hoàng Nga đều khóc ầm lên. Nhứt là bà Tuân khi nghĩ đến cái đám cưới sắp sửa tới. Sao con gái bà đẹp như hoa như ngọc mà số phận hẩm hiu làm vậy?!.
Đám tang Thiên diễn ra trong một bầu không khí cực kỳ thương tâm. Bên này Kim và Phú dìu bà Hậu. Bên kia Bích và Nga không dám rời Phượng nửa bước. Bà Hậu một hai đòi nhảy xuống mộ chết chung với con. Kim và Phú phải ghì chặt lại. Phượng đặt bó hoa cô dâu lên quan tài trước khi lấp đất. Trước tình cảnh của hai người, ai cũng phải mủi lòng rơi lệ!
Từ đó bà Hậu sống mà cũng như chết. Ăn, ngủ như một người máy. Bỏ lún luôn tiệm gạo, may mà có người quản lý thân tín quán xuyến mọi việc.
Phượng ốm o gầy mòn như một con mắm. Mọi sinh thú trên đời hình như đã đội nón vĩnh viễn ra đi! Trên môi hiếm hoi lắm mới có một nụ cười. Mà cũng chỉ là một nụ cười gượng gạo. Ông bà Tuân thấy con gái như vậy cũng rầu thúi ruột.
Một tháng sau đám tang, bà Tuân đưa Phượng đến xin trả lại chiếc nhẫn đính hôn và đồ cưới bà Hậu đẵ sắm cho Phượng. Bà Hậu nói Phượng cứ giữ lại tất cả. Thiên mất đi, giờ bà xin được coi Phượng như con gái nuôi. Mạ Phượng cảm động nhận lời liền. Hai nhà vẫn giao hảo thân tình như xưa. Kim mất anh, càng gắn bó với Phượng… Rồi thời gian cũng hàn gắn tất cả (trừ trái tim của một người mẹ mất con). Phượng đã lấy lại phong độ cũ. Nhưng nét hồn nhiên đã biến mất trên gương mặt và đôi mắt lúc nào cũng man mác buồn…
Hai năm sau Kim mất luôn chị Phượng. Tất cả cũng tại cái con nhỏ xí xọn Hoàng Nga. Đau gì không đau lại nhè sưng ruột dư!? Dĩ nhiên phải đem nó vào nhà thương mổ cấp tốc. Cái anh chàng Bác sĩ hôm sau ghé qua phòng tái khám cho nó. Nhưng bịnh nhân không lo khám, cặp mắt lại cứ dán chặt vào chị Phượng. Bỗng dưng Kim có ác cảm ngay với ông ta. Rồi ngày nào cũng canh lúc chị đến thăm nhỏ Nga là ông ta xuất hiện để… tái khám. Khám bịnh nhân qua loa cho có lệ, sau đó bắt chuyện nói không dứt với chị Phượng. Kim về cằn nhằn với mẹ, bà Hậu rầy, nói Thiên với Phượng có duyên mà không nợ, mình đâu có thể ích kỷ bắt Phượng ở vậy hoài. Năm nay Phượng đã tròm trèm hai mươi, con gái ngoài hai mươi tuổi khó lấy chồng. Kim thấy mẹ có lý, nhưng vẫn không vui.
Một tuần sau nhỏ Nga về nhà. Bác sĩ Lộc tới tận nhà chị Phượng, lấy cớ tới xem bịnh nhân có “vấn đề” gì không?( theo Kim chính ổng mới có vấn đề!). Ba mạ chị Phượng rất cảm kích trước sự tận tâm (quá lố) của ông bác sĩ giàu lòng thương người (đẹp) này. Một buổi tối Kim tới nhà định rủ chị với nhỏ Nga đi ăn chè ngoài hàng keo. Qua khỏi cái sân gạch, Kim bước lên thềm nhà. Đèn nơi phòng khách sáng trưng, Kim tò mò nhìn qua cửa sổ. Một cảnh tượng làm cô nhỏ muốn đứng tim: bác sĩ Lộc đang cầm bàn tay của chị Phượng, miệng thì thầm những gì không nghe rõ. Phượng cúi đầu, mái tóc dài xõa một bên che hết khuôn mặt nên Kim không thấy phản ứng trên gương mặt của chị. Nhưng không giật tay lại tức là bằng lòng rồi còn nghi ngờ gì nữa? Cô nhỏ buồn rầu quay về nhà. Bác sĩ Lộc càng năng tới thăm Phượng bao nhiêu, Kim càng ít tới bấy nhiêu. Nghe nhắc tới tên “hắn” thôi là Kim đã cau mày, tỏ vẻ khó chịu. Phượng tinh ý đoán ra liền nên một hôm rủ Kim vô phòng. Thấy tấm ảnh Thiên mặc bộ đồ bay, đứng bên cạnh chiếc F17, miệng cười tươi, đẹp như một tài tử ci nê vẫn còn để trên bàn phấn, Kim nói mỉa:
– Không ngờ chị còn để hình anh Thiên ở đây!
Phượng ngồi xuống cạnh Kim, nhẹ nhàng cầm hai bàn tay cô nhỏ, dịu dàng nói:
– Kim đừng hiểu lầm là chị đã quên anh Thiên. Anh vẫn sống mãi trong lòng chị. Nhưng xin em thông cảm mà thương cho chị. Chắc gì sau này chị có thể gặp được người tốt và thật lòng yêu chị như anh Lộc? Dù biết chuyện anh Thiên với chị ngày xưa, anh vẫn chấp nhận. Anh có một tấm lòng thật rộng lượng. Anh thương và muốn thành hôn với chị đó. Kim xem, anh Lộc đâu phải là người xấu.
Kim cúi đầu không nói gì. Chị Phượng bóp nhẹ tay Kim, giọng tha thiết:
– Kim nói đi. Kim nói là không giận chị đi.
Kim gật đầu mà hai hàng nước mắt chảy dài. Phượng mừng quá ôm chặt Kim, mặt cũng đầm đìa nước mắt:
– Cám ơn Kim. Cám ơn Kim đã hiểu cho chị.
Hôm sau Phượng tới thăm bà Hậu. Hai người cũng giọt ngắn giọt dài. Lúc Phượng về, bà Hậu nói với Kim:
– Má thiệt tình mừng cho con Phượng.
Đám cưới Lộc – Phượng được tổ chức hai tháng sau đó. Hai người theo ba má Lộc về Rạch Giá cho Phượng ra mắt bà con bên chồng. Cuối cùng rồi chị Phượng cũng yên ấm bên cạnh người chồng hiền lành, chân chỉ. Năm sau chị theo chồng về luôn xứ Rạch Giá xa xăm. Thỉnh thoảng mới ẵm con về Kontum thăm gia đình. Lấy chồng ba năm chị cho ra đời hai nhóc tì kháu khỉnh. Nhìn thằng cu Cường giỡn với Kim, bà Hậu không khỏi đau lòng nhớ tới Thiên… và những đứa cháu nội mà bà không bao giờ có được! Kim lấy xong mảnh bằng Trung Học thì quyết định ở nhà phụ mẹ buôn bán. Nàng không nỡ đi học xa bỏ mẹ lại trơ trọi một mình.
Một ngày đẹp trời, Phú tới thăm bà Hậu và Kim. Không đi một mình mà có dẫn theo một chàng Bắc kỳ! Cái chàng Bắc Kỳ tên Tín này gặp cô nhỏ Kim thì bị… choáng váng, hết biết đường về!! Thấy con gái càng ngày càng “lậm” anh chàng Tiến, bà Hậu tỏ ý lo ngại. Thứ nhứt Tiến là phi công, thứ hai chàng là người Bắc. Bà Hậu nghe nói người Bắc khó. Kim nũng nịu nói với mẹ:
– Bộ phi công nào cũng bị rớt máy bay hết sao má? Tới giờ này anh Phú còn y nguyên mà. Má hổng thấy hằng ngày biết bao nhiêu người chết vì tai nạn xe cộ nè, bịnh tật nè, tự tử nè… Còn ảnh người Bắc má đừng lo lắm. Con gái má “giỏi” lắm mà.
Bà Hậu lắc đầu chào thua cô con gái cưng. Thông cảm hoàn cảnh của Kim, nên Tín bằng lòng để vợ ở lại Kontum. Tín dưới Pleiku đi đi về về, Kim cũng thường xuống thăm chồng. Cho tới khi Tián đổi về Biên Hòa, Kim phải đành xa mẹ. Bà Hậu nhớ con định sang lại tiệm rồi về Biên Hòa kiếm chuyện khác làm ăn. Chưa kịp thì mùa hè đỏ lửa ập tới. Bà theo giòng người tị nạn chạy xuống Pleiku, theo ngả Phú Bổn về Saìgòn. Nhưng Kim không bao giờ gặp lại mẹ. Bà đã gởi thân xác đâu đó trên con đường mòn đầy kinh hoàng này. Kim khóc tới bịnh luôn. Lâu lâu Lộc đưa vợ con từ Sóc Trăng lên Sàigòn chơi. Chỉ dịp đó Kim mới gặp lại chị Phượng. Chị em đưa nhau đi ăn hàng, đi mua sắm quần áo tưng bừng. Chị Phượng càng ngày càng đẹp. Chị được chồng tưng tiu như một viên ngọc quý. Anh Lộc lúc nào cũng chỉ cười cười, cặp mắt nhìn vợ tràn đầy âu yếm.
1975. Kim gạt nước mắt ẵm con lên máy bay trực thăng, Tín lái ra biển rồi đậu xuống một chiến hạm, thuộc Đệ thất hạm đội Mỹ. Họ đưa người tị nạn qua Philippine, rồi sau hai tuần lễ trên đảo Guam, gia đình nhỏ bé của Kim sang định cư tại Montréal cho tới bây giờ. Kim mất liên lạc với chị Phượng, vì lúc ra đi ngoài cái túi đựng mấy bộ quần áo và vài hộp sữa bột Esma cho con, Kim bỏ lại hết!
Tín qua đây ráng học cũng lấy được mảnh bằng Kế Toán, hiện làm cho một công ty lớn. Kim học nghề uốn tóc, mở tiệm tại nhà. Vợ chồng con cái sống khá sung túc. Không hiểu bữa nay may mắn làm sao lại gặp được Phượng dưới phố Tàu.
Hai chị em lên xe về nhà Kim. Trên đường đi, Phượng kể: năm 75, như bao nhiêu gia đình Nam kỳ khác, Lộc không chịu đi ngay. Hậu quả là phải khăn gói đi học tập như bao nhiêu người khác. Một hôm đi chặt cây, Lộc vô ý bị cây ngã đè gẫy hết một chân. Không chết là may đó em ơi. Nhưng bây giờ anh đi cà nhắc. Hai năm sau được thả về lại Rạch Giá, anh mở phòng mạch chui cũng đủ sống. Cái số rủi cứ theo hoài, anh là Bác Sĩ nên họ để ý kỹ, vượt biên lần nào cũng bị bắt lại. Sau cùng anh chị chán thôi luôn. Cách đây bảy năm, em trai anh du học bên này từ trước 75 làm bảo lãnh. Ba năm sau anh chị và hai cháu mới qua được. Nhưng ở dưới thành phố Québéc, lên trên này được hơn năm nay thôi. Anh Lộc mặc cảm cái chân nên cũng không muốn liên lạc với bạn bè. Em dâu anh Lộc là đầm nên chị cũng khó nói chuyện. Bữa nay gặp Kim chị mừng quá. Nói xong chị cười mà cặp mắt rưng rưng! Kim nói:
– Ngày mai anh chị và hai cháu tới nhà em ăn Tết. Năm nay phải ăn Tết lớn để mừng ngày đoàn tụ của chị em mình.
Về tới nhà, cho xe vô garage xong, Kim vừa xách mấy túi đồ vô bếp, vừa kêu ong óng:
– Anh Tín ơi, xuống đây coi em dẫn ai về đây nè.
Tín từ trên lầu đi xuống vừa nói:
– Miễn không phải ông Tây đen là được!
Nhưng vừa nhìn thấy người đứng cạnh Kim, Tiến reo lên:
– Chị Phượng. Không phải tôi nằm mơ chứ?
Kim cười :
– Mơ đâu mà mơ. Chị Phượng bằng xương bằng thịt chăm phần chăm đó.
Rồi quay qua Phượng, Kim giục:
– Chị phôn ngay cho anh Lộc một tiếng đi.
Phượng cầm phôn, quay số nhà. Khi nghe tiếng Lộc alô bên kia đầu dây, Phượng nói, giọng đầy ấp niềm vui:
– Anh hả? Em đây. Ngày mai mùng một, có người mời tụi mình ăn Tết lớn đó. Anh đoán ra ai không nè?
Tất nhiên Lộc làm sao đoán được. Phượng cười rộn ràng:
– Là Kim. Em vừa gặp Kim dưới phố Tàu và bây giờ em đang ở nhà Kim. Độ hai tiếng nữa Kim sẽ đưa em về Phượng gác phôn. Tín nói:
– Nào bây giờ mình bày cái gì ra ăn để mừng chị Phượng trước. Kim nguýt chồng:
– Lúc nào cũng không quên được cái bao tử!
Tín cười ha hả:
– Có thực mới vực được đạo mà em… Huống chi bữa nay là chiều ba mươi Tết. Phải không chị Phượng?

Lan Cao
CON VỀ

Khóc mãi cũng thế thôi
Buồn hoài thì cũng vậy
Giận hờn chắc hẳn mất khôn
Uống say bọt đắng tỉnh hồn được không?

Nhớ tháng tư cuồng phong
Căn nhà yêu sụp đổ
Cha buồn đau khổ công lao
Mẹ bươi đêm kiếm nắng vào thủy tinh.

Ba mươi năm hòa bình
Thêm đau hồn cuộc chiến
Ta nhìn tóc chảy trắng gương
Nhà chưa dựng lại quê hương tuổi chiều.

Ba mươi năm rồi nhỉ
Rừng thay lá bao lần
Cháu con khôn lớn thành thân
Mẹ cha rong ruổi nào quên nợ nhà.

Con ơi trả nợ dùm cha
Trở về xây lại căn nhà yêu xưa.

vũ tiến lập
hoa nguyệt quế
một lần này tôi về giữa tóc phai
nhìn hành lang dài tựa những song chim đậu
và đời sống vô tình những chiếc xe qua
cuối nẻo con đường
bóng cây vừa ngã đổ
trời nhuộm đẫm dần chất ngọt
trăng dựng sáng lấp lánh mặt hồ
đôi mắt giật mình dưới đáy sông
đi bộ dọc con đường về đồi cao
ngân nga lời gió hát
mây trôi ngược vùng đất cũ
cúi đầu nhìn bóng bước
lữ khách trời bao la
ở bóng nguyệt
đong đầy hơi thở rực vàng
mầu nắng son
với trời xuân chất ngất
trăng nào cũng vàng tơ
và em hoa nguyệt quế
Chân dung đen
tơi đứng ở đầu giĩ
lịng ngĩng tìm chân dung
một người chưa về tới
muộn màng mây kín đêm
lây lất một nỗi nhớ
bật tiếng hờ bâng khuâng
con chim nào lạc cánh
bay vút vào hư khơng
buồn ơm tình bước đến
qua hết một dẫy rừng
qua hết một hành lang
ơi trăng sao huyền hoặc
ơ mơng lung vơ vàn
ngây ngất mầu thiên thu
mơi ngậm cành cỏ uá
ca khúc đời hơm nay
giĩ hát từ mơi người
cứ ngỡ cịn chiêm bao
trăng gọi hồn trên áo
ngược giịng say một đêm.

Tuấn Trường
TƯƠNG PHÙNG

Tặng Anh Anh Vân nhân ngày trở lại
Houston 06-17-2009

Mấy thuở hàn huyên bên chén nhạt
Rượu qua môi sao bỗng ngọt chân tình
Mới hay trong cuộc nhân sinh
Tóc phơi sương bạc nhưng tình vẫn xanh.

Này các anh,
Hãy cùng nhau cạn chén tương phùng
Rằng ta,
Chưa uống đã say
Đất trời, vạn vật lăn quay
Mừng ngày hội ngộ,
Cạn chén,
Nâng ly,
Say đi,
Say đi cho cạn biển hồ
Ngày sau ai biết bao giờ gặp nhau.

Mấy thuở ta cùng nâng chén ngọt
Chí tang bồng chưa thỏa cũng đà vui
Dẫu cho đất lấp mặt người
Ta đi để lại tiếng cười Thơ Văn.

Diễm Nghi
t u y . x a . m à . g ầ n
“…Tôi hổ thẹn mười năm viết bài thơ kể lể
Một góc tâm tình gửi Huế yêu thương”
(Xuân Tâm)

Ngay từ nhỏ, tôi đã có cảm giác xúc động khi đọc thơ của thi sĩ Xuân Tâm.

Lúc đó tôi chưa xa Huế mà đã thấy nao nao trong lòng. Bây chừ, không phải mười năm như người thi si ấy mà đã trên hai mươi năm. Ngẫm lại hai câu thơ kia, thêm thấm thía cõi lòng.
Huế để lại trong ký ức tôi những tà áo dài thướt tha bay rập rờn như đàn bướm trắng, Huế tự bao giờ là nguồn cảm xúc vô tận trong hồn thi nhân. Nhớ mãi những đêm gió mát, ánh trăng rọi xuống mặt nước lặng lờ trên dòng sông. Huế có bóng Mạ thướt tha trong tà áo dài mỗi khi bước ra khỏi nhà, những câu hò, lời ru con ngọt như mía lau như câu ca dao “Mẹ già như chuối ba hương Như xôi nếp mật, như đường mía lau”. Huế trong tôi là những lời răn dạy, tư tưởng “cổ kính” của Mạ, bàn tay khéo léo của Ba, tất cả gắn liền với dòng đời trôi nổi của tôi. Mỗi câu nói đều phảng phất chất Huế, gắn bó tâm tình Huế vừa đậm đà, vừa thiết tha, chắc chiu nuôi dưỡng tâm hồn tôi từ thủa còn nằm trong nôi.
Hoàn cảnh thời gian và không gian đưa tôi xa Huế cả một bến bờ đại dương. Ba Mạ tôi là nhịp cầu nối liền tôi với Huế, riêng Mạ là người ảnh hưởng tôi nhiều nhất. Tôi là con út trong một gia đình đông anh em. Dĩ nhiên, tôi được Ba Mạ “cưng như trứng, hứng như hoa”. Rứa mà, tôi vẫn thường bị những đòn mắng yêu của Mạ. Ở đây, cuộc sống xoay vần với thời gian. Đi, đứng, nằm, ngồi, cái gì, việc gì cũng vội vàng. Mỗi lần thấy tôi hối hả bước ra cửa, Mạ thường la rầy: “Chưa đi đã chạy là người vô duyên”. Thích chí điều gì tôi cười thoải mái, cười ngoặt ngoẻo liền bị Mạ la: “Con gái chi mô, chưa nói đã cười”. Tôi nũng nịu lại: “Mạ!! Mạ làm như hồi xưa rứa. Bên ni có thì giờ mô mà yểu điệu!”
Chưa hết, mỗi khi đói bụng, tôi ăn thoải mái, nhai hả hê theo kiểu “hưởng thụ”, Mạ rầy: “Con gái ăn chi mà nghe to rứa”. Đôi lúc tôi cũng phản ứng lại: “Mạ! con không thích làm thục nữ mô. Chi khó rứa?”. Phản ứng này thường làm Mạ tôi phì cười. Mà đúng thật, Mạ tôi vốn khó từ từng lời nói cho đến cách ăn mặc. Mạ khuyên tôi để tóc dài để cho Mạ ngắm. Mạ muốn là con gái Huế phải có mái tóc dài, ăn nói phải nhỏ nhẹ, không hấp tấp.
Hồi nhỏ, tôi quen thói được cưng chiều. Ăn nói lộp bộp, hốp tốp nên bị Mạ rầy: “Ăn nên đọi, nói nên lời. Người lớn đang nói, con nít không được nói hớt”. Bạn bè tôi ai cũng biết Mạ tôi khó lắm. Lâu lâu chúng ném tôi câu: “Mần O gái Huế răng khổ rứa!”. Thoạt đầu tôi phản ứng lại bằng những câu giải thích vu vơ, nhưng riết rồi cũng quen. Tôi thường nghe Mạ nói: “Người Huế rứa đó, trong nhà dù không còn một hột gạo, nhưng đi ra ngoài phải khăn áo chỉnh tề”. Câu đó thường làm tôi cười vì cái điệu “khăn áo chỉnh tề” đó đã làm cho Ba tôi một thời ngẫn ngơ vì áo tím của Mạ. Tôi nghe Ba tôi kể lại: “Mạ mi hồi xưa tóc dài đen mượt, bận áo dài luạ đẹp lắm”. Thì ra, Ba tôi đã say mê “dáng Huế” ấỵ.
Mạ tôi như rứa và tôi thương tất cả về Mạ. Mạ là Huế và tôi tìm thấy Huế trong Mạ.
Huế trong tôi là tất cả hương vị, của dĩa bánh bột lọc thơm ngon, tô bún bò Huế cay xé lưỡi và muối ruốc, muối sả trong mùa đông giá rét. Mỗi lần đi xa về, tôi thấy bàn thờ ôn mệ được trang trí rất trang trọng qua bàn tay khéo léo của Ba. Bức liễng, câu đối gợi niềm nhớ quê da diết được mang qua từ nhà, sặc sỡ hoa văn. Một người bạn nói nhỏ với tôi: “Nói thiệt em đừng buồn nghe. Ba em trang trí bàn thờ gì mà hoa hoè quá, giống bàn thờ hát bội”. Tôi không nhịn được cười khi nghe chữ “hát bội”. Anh bạn kia đâu biết đó là tượng trưncủa nghi lễ, của lòng thánh kính đối với người đã qua đời.

Tôi thương nhớ Huế. Tôi ôm ấp Huế vào lòng như ôm ấp hình bóng tình nhân. Rứa đó, Huế tuy xa mà gần trong tâm tưởng, tôi vì vậy không bao giờ xa Huế. Bây chừ, Huế buồn. Huế ảm đạm, chơ vơ sau những thăng trầm biến động, nhưng Huế vẫn ấp ủ bao nhiêu hoài vọng trong lòng những người con xa Huế. Huế ơi, chờ đó mai mốt tôi về!

Huế: Một Trời Thương Nhớ
Trong tâm trí, em vẫn hoài ghi nhớ
Mắt u buồn, bẽn lẽn, dáng thư sinh
Vẻ trầm tư, thanh thoát, nét thông minh
Của thi nhân, người con yêu xứ Huế

Anh gợi trong em, một trời thương nhớ
Quê xa vời, u uẩn đất Thần Kinh
Bao năm rồi theo vận nước điêu linh
Miền thơ ấu bừng lên vùng ký ức

Em nhớ lắm, mùi hương thơm của đất
Khói lam chiều vương mái ngói lưa thưa
Giọng hò lơi khoan nhặt giữa ban trưa
Vang vọng mãi, ngân xa đồi Vọng Cảnh

Xé nỗi nhớ chia ra thành trăm mảnh
Ðưa vào thơ, xoa dịu những cô liêu
Hoàng Thành xưa chừ phế phủ xanh rêu
Thời vang bóng soi nghiêng thềm ảo ảnh

Huế bây chừ còn buồn lắm không anh?
Sông An Cựu nước vẫn trong hay đục
Chiều Ðông Ba bước chân người chen chúc
Hương Giang-đò, khua con nước lao xao

Em bên ni, lòng chợt nhớ biết bao
Ru năm tháng mỏi mong ngày trở lại
Biết răng anh, kỷ niệm còn xa mãi
Ðêm dật dờ, lục kiếm thoáng hương xưa!

Vĩnh Tuấn
Thu về
Đường hôm nay cây bỗng vàng lá úa
Rặng liễu gầy nhỏ lệ ở ven sông
Thì ra mùa thu đã về lặng lẽ
Rất âm thầm vàng áo lụa bên song

Nhớ hôm xưa thu về ôi quyến rũ
Hàng cúc vàng nở rộ đón chân em
Ai rót rượu mà hồn say chất ngất
Chút hương bay mà xao xuyến tâm hồn

Nơi xứ người gởi về em chút nắng
Chút bụi mờ phủ lấp tấm thân anh
Anh nhớ lắm dòng sông trôi tĩnh lặng
Ngọn lúa dậy thì chúm chím môi hôn

Hãy gởi cho anh thu vàng quê mẹ
Em hiền hòa tóc lộng lá me bay
Gởi cho anh mảnh trăng xưa hiền dịu
Lặng hồn anh theo từng bước thu gầy.

Phố biển Qui Nhơn
Qui Nhơn phố biển thật gần
Áo em khép mở rộng vòng nhân gian
Ta qua phố biển tần ngần
Tim ngây ngất dại một lần không quên
Gặp em chưa kịp hỏi tên
Để tương tư mãi nỗi buồn gió trăng
Ai qua phố biển một lần
Cũng thương em
Nhớ
Bâng khuâng cõi tình.

Trọng Đạt
Sợi Tóc
(Những đoản thiên
cuối cùng của Thạch Lam)

Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Vinh sinh năm 1910 tại Hà Nội, là người con thứ sáu trong gia đình Nguyễn Tường. Đến năm 14 tuổi mới đậu bằng cao đẳng tiểu học, ông phải khai tăng một tuổi để đủ tuổi thi thành chung và đổi tên là Nguyễn Tường Lân. Ông vào học Albert Sarraut, đậu tú tài phần thứ nhất rồi thôi học ra làm báo Phong Hóa, Ngày Nay với các anh ông như Nhất Linh, Hoàng Đạo trong Tự Lực văn đoàn. Ông bị bệnh lao mất tháng 6 năm 1942 trong cảnh nghèo nàn tại một ngôi nhà tranh làng Yên Phụ cạnh Hồ Tây.
Vì mất sớm nên sự nghiệp văn chương của Thạch Lam về số lượng rất khiêm tốn, tuy nhiên vì giá trị nghệ thuật của nó rất cao nên ông vẫn được coi như một nhà văn lớn trong nền văn chương Việt Nam cận đại. Các tác phẩm gồm.
1-Ngày Mới, tiểu thuyết 1937
2-Gió Đầu Mùa, tập truyện ngắn 1937.
3-Nắng Trong Vườn, tập truyện ngắn 1938.
4-Theo Giòng, nghị luận văn chương, 1941.
5-Sợi Tóc, tập truyện ngắn, 1942.
6-Hà Nội 36 Phố Phường, tùy bút, 1943.
Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng xã hội thường mô tả đời sống của những người nghèo nàn cùng khổ bằng những nét chân thực đầy tình thương yêu nhân loại, ông thiên về bi kịch hơn Khái Hưng, Nhất Linh trong Tự Lực văn đoàn, tác phẩm của ông có giá trị cao về nhân bản được viết ra như một chút tình thương dành cho những kẻ lầm than cơ cực. Ông khâm phục và chịu ảnh hưởng Dostoievsky rất nhiều trong kỹ thuật mô tả tâm lý nhân vật, chú trọng về mặt hướng nội. Thạch lam cũng là nhà văn thuộc trường phái lãng mạn như các bậc đàn anh trong văn đoàn tuy nhiên các truyện tình của ông khác với các nhà văn kia ở tính chân thật, ngây thơ, thi vị.
Ông Phạm Thế Ngũ nhận xét về Thạch Lam như sau.
“Trong văn học mới nước ta các nhà phê bình thường đồng ý là Thạch Lam- cây bút Tự Lực đã đưa thể đoản thiên đến độ nghệ thuật cao hơn cả. Trong ba tập đoản thiên của ông mà ta xét trên ta đều thấy nhiều đặc sắc nghệ thuật”
Hoặc.
“Nhưng dù sao không ai phủ nhận được ông đã đưa đoản thiên Việt Nam đến một trình độ nghệ thuật rất cao. Tác giả Nhà văn hiện đại cũng công nhận những truyện trong Sợi Tóc là những đoản thiên hay nhất trong văn chương Việt nam”
Thật vậy, Thạch Lam là người chuyên về trước tác truyện ngắn và đã thành công nhiều trong thể loại văn chương này
Sợi Tóc là tập truyện ngắn giá trị và nổi tiếng của Thạch Lam do nhà xuất bản Đời Nay, Hà Nội ấn hành năm 1942, toàn bộ gồm năm truyện vỏn vẹn chừng năm sáu chục trang giấy nhưng nội dung thật là súc tích và vô cùng hiện thực, những đề tài khác biệt nhau như đóa hoa ngũ sắc rực rỡ cùng thể hiện một nghệ thuật tuyệt vời. Chúng tôi xin phân ra làm ba đề tài chính : Tâm lý: Sợi Tóc; Bi kịch: Cô Hàng Xén, Tối Ba Mươi; Tình cảm : Dưới Bóng Hoàng Lan , Tình Xưa và đề cập giới hạn bốn truyện chọn lọc : Sợi Tóc , Cô Hàng Xén , Tối Ba Mươi, Dưới Bóng Hoàng Lan.

SỢI TÓC

Một truyện ngắn chừng mười trang giấy thể hiện cái thiên tài hiếm có của Thạch Lam trong kỹ thuật mô tả tâm lý con người, có dư luận phê bình cho rằng Sợi Tóc có thể coi như ngang hàng với các đoản thiên giá trị trên văn đàn thế giới. Đó là truyện một anh chàng bị cám dỗ vì số tiền lớn của người anh họ, định lấy cắp nhưng rồi lưỡng lự đổi ý.
Thành có người anh họ rất giầu nhưng ngốc nghếch, Bân rất phục Thành là người sành đời, thạo ăn chơi, mỗi khi đi mua đồ đều hỏi Thành. Một hôm Bân rủ Thành đi mua đồng hồ, lúc hắn trả tiền Thành nhìn cái ví phồng và biết là nhiều tiền lắm, chàng thấy rõ cả những giấy trăm còn mới tinh, mua xong Bân rủ Thành đi ăn tiệm.
Bân cùng một cô nhân tình vào buồng nằm, hắn đem theo cả cái áo tây có ví tiền. Khi ấy Thành chán nản muốn bỏ về, chàng với lấy cái áo tây trên mắc thì ra là áo của Bân có ví tiền dầy cộm, Bân đã lấy nhầm áo của chàng vào buồng. Bân và các em đều muốn giữ Thành ở lại cho vui.
Khi ấy trong trí Thành rối bời cả lên vì nghĩ đến cái ví tiền , chàng định mở ví lấy vài trăm rồi đổi lấy áo của Bân vắt ở đầu giường hắn. Thành hút một điếu thuốc phiện rồi thờ thẫn nghĩ ngợi, chàng cho rằng Bân sẽ không biết chàng lấy mà nghi cho nhân tình của hắn.
Nhưng khi cho tay vào ví, Thành lại đắn đo suy nghĩ đờ đẫn cả người, tự nhiên chàng trả áo cho Bân và bảo hắn đếm tiền chi kỹ. Cuối cùng sau một cuộc giằng co, sự cám dỗ tội lỗi đã bị lương tâm đè nén, ranh giới hai bên chỉ là một sợi tóc.
Đây là một đoản thiên tâm lý sâu sắc nhất của Thạch Lam, của nền văn chương Việt Nam, xứng đáng được xếp ngang hàng với những truyện hay trên văn đàn thế giới. Ngòi bút thần sầu củaThạch Lam đã phô diễn được quá đầy đủ về bản chất con người, về cái biên giới mong manh như sợi tóc giữa thiện và ác, giữa lương tâm và tội lỗi. Cám dỗ bắt đầu xuất hiện khi Thành thấy ví của Bân lúc hắn trả tiền ngoái phố:
“Thoáng nhìn qua, tôi cũng biết ví nhiều tiền lắm: ngoài số tiền bạc lẻ hắn mang ra trả, tôi còn thấy gấp ở ngăn trên đến năm sáu cái giấy bạc một trăm nữa. Những giấy bạc mới màu còn tươi nguyên”
Và khi Thành lấy áo định ra về, cám dỗ lại tiến thêm một bước nữa:
“Vừa nói tôi vừa với cái áo tây của tôi treo trên mắc. Bỗng nhiên có cái gì chuyển mạnh qua tim tôi: tay tôi yên hẳn lại; tôi vừa mới nhận ra rằng cái áo tôi đương cầm không phải là cái áo của tôi. Thì ra lúc mang áo vào giường nằm, Bân đã mang nhầm áo. Hai chúng tôi cùng mặc một thứ hàng len giống màu, như vậy dễ lẫn lắm. Tôi ghé nhìn vào trong áo thấy cái ví tiền ở túi thò ra ngoài một tí. Cái ví tiền… mấy tờ giấy bạc”
Bằng lối diễn tả vô cùng khéo léo, Thạch Lam cho chúng ta thấy rõ những bước chân xâm lấn ghê gớm của cám dỗ:
“Những lời đối đáp ấy cứ tự nhiên buột miệng ra, tôi không để ý đến. Trước mắt tôi, mấy tờ giấy bạc một trăm gấp trong ngăn ví hiện ra rất rõ rệt. Lấy mấy tờ, độ hai tờ – tại sao lại hai? Tôi không biết – tôi cứ việc điềm nhiên với lấy áo, mở ví rút ra hai tờ. Rồi chọn lúc mọi người vô ý … tôi đổi lấy áo của tôi… thế là xong và gọn…
… dễ dàng quá, mà không còn sợ cái gì cả”
Bằng một nghệ thuật vô cùng hiện thực ông cũng cho ta thấy sự rối bời trong tâm trạng con người vì sự giằng co tranh chấp giữa lương tâm và tội lỗi.
“Lan để tay nhẹ nhàng lên người tôi, lẳng lơ đưa mắt hỏi. Tôi giả vờ cười không đáp, rồi soay người nằm ngửa, nhìn lên trần nhà.Trong người bứt rứt không yên”
Hoặc như:
“Tâm hồn tôi lúc bấy giờ thế nào tôi không biết rõ. Tôi đứng lên, ngồi xuống như một cái máy. Tôi chỉ thấy băn khoăn bứt rứt… và thời gian qua… tôi cảm thấy đi qua tâm hồn tôi từ bên này sang bên kia… như thế không biết bao nhiêu lâu…”
Và sau khi đã trấn áp được cám dỗ tội lỗi, Thành lại ngẩn ngơ một chút tiếc thương, thiện ác vẫn còn vẩn vơ trong trí.
“- Áo anh này , đây là áo của tôi…
… Anh đếm lại tiền đi và để cẩn thận vào trong ấy…
Tôi bước một bước lùi ra cửa. Thế là hết bây giờ không sao đụng đến cái ví được nữa. Tôi bần thần ngẩn ngơ”
Thậm chí đến lúc Thành lên xe về nhà, tâm trí rối mù, chàng ngẩn ngơ như người mất hồn, vẫn còn chút tiếc rẻ ngấm ngầm , dù chàng đã tỉnh táo rồi, cám dỗ vẫn còn vương vấn trong lòng.
“Tất cả những cái đó bây giờ xa quá. Tâm trí tôi giãn ra, như một cây tre uốn cong trở lại cái thẳng thắn lúc thường. Tôi cảm thấy một cái thú khoái lạc kỳ dị khe khẽ và thầm lặng rung động trong người, có lẽ là cái khoái lạc bị cám dỗ, mà cũng có lẽ cái khoái lạc đã đè nén được sự cám dỗ. Và một mối tiếc ngấm ngầm, tôi không tự thú cho tôi biết và cũng cố ý không nghĩ đến, khiến cho cái cảm giác ấy của tâm hồn tôi thêm một vẻ rờn rợn và sâu sắc”
Người đọc tưởng như mình đang chơi vơi giữa thực và mộng, giữa cái thú của cám dỗ và khoái lạc của lương tâm, lý trí đã trấn áp được cám dỗ. Song vẫn chưa hết, đến khi Thành đã tỉnh táo, đã lên xe về nhà mà cám dỗ vẫn còn vương vấn như một sự tiếc nhớ vu vơ. Thạch Lam đã dẫn chúng ta đi sâu vào tận đáy tâm hồn con người để ta chứng kiến được cái biên giới mong manh giữa thiện, ác, giữa ăn cắp hay không ăn cắp, cái địa giới chỉ mỏng manh như một sợi tóc.

CÔ HÀNG XÉN

Đây là một truyện ngắn nổi tiếng của Thạch Lam đã được nhiều người hâm mộ, ca ngợi tấm lòng hy sinh của người phụ nữ Việt Nam và cũng là một bi kịch cuộc đời không lối thoát.
Tâm gánh hàng từ chợ băng qua cánh đồng về làng, băng qua sân đình rồi về đến nhà, chia bánh kẹo cho các em. Cô được mẹ già và các em âu yếm săn sóc. Từ ngày gia đình sa sút, ông Tú mắt kém thôi dạy học, cô buôn bán tần tảo để nuôi mẹ và các em.
Tâm là người con gái xinh đẹp nổi tiếng cả một vùng, thời gia đình còn sung túc cô đã được cắp sách đi học, nhưng nay rời bỏ quyển sách để bước chân vào cuộc đời tần tảo hy sinh, không bao giờ nghĩ đến cuộc đời riêng của mình.
Những ngày phiên chợ, cậu giáo Bài trường làng thường hay lại mua hàng và để ý đến Tâm, khi lên giường ngủ cô cũng có lúc nhớ tới cậu giáo. Vụ gặt xong, cậu giáo nhờ người mối lái đến hỏi Tâm. Bà Tú gọi Tâm vào buồng nói chuyện ấy, cô muốn ở nhà buôn bán trông nom gia đình, thương con bà mẹ bảo cô phải đi lấy chồng.
Đám cưới cử hành trước tết, ngày về nhà chồng Tâm từ biệt các em. Về nhà chồng mấy hôm nàng lại sốc vác gánh hàng ra chợ. Nhà chồng nàng cũng nghèo, cậu giáo lương dăm bẩy đồng, nàng vừa phải gánh vác giang sơn nhà chồng lại lo cho các em ăn học. Em Lân lên học trường tỉnh, tốn kém hơn. Bà Tú nhắn người bảo nàng gửi tiền thêm, nàng lo quá: mẹ chồng, cậu giáo thường đay nghiến vì nàng không còn tiền đưa.
Hai năm sau Tâm đẻ con trai, nàng đã già đi nhiều, không còn đẹp như xưa. Tâm về nhà thăm cụ tú, các em. Lân xin một chục bạc, Tâm hốt hoảng vì chồng đã thôi dậy, nàng phải lo gánh vác bên nhà chồng. Lân giận dỗi, nàng đành phải lấy tiền đưa cho em rồi lo âu không biết lấy gì bù vào chỗ ấy. Cuộc đời nàng đen tối, khó nhọc như không bao giờ dứt.
Khác với Khái Hưng, Nhất Linh thường phơi bầy những sai lầm của nền luân lý cổ, ở đây Thạch Lam có khuynh hướng ca ngợi gia đình nền nếp nho phong, những cái hay cái đẹp còn rơi rớt lại của một nền văn minh tinh thần đã vang bóng một thời.
Hình ảnh cô Tâm gánh hàng xén ra chợ nuôi mẹ, nuôi các em ăn học để sau này đỗ đạt đi làm trên tỉnh giúp thầy mẹ già, không nghĩ đến cuộc đời riêng của mình tiêu biểu cho những cái đẹp tuyệt vời của nền nếp xã hội thời ấy.
“Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quí của mình. Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà”
Nàng cũng là thể hiện của sự chịu khó nhọc nhằn của những người phụ nữ Việt Nam đảm đang.
“Sáng sớm hôm sau, trong gió bấc lạnh, Tâm đã mở cổng gánh hàng lên chợ. Sương trắng còn đầy ở các ngõ trong làng . . .
…. tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức, như tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ một mình cô. Trong lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em”
Tâm chỉ nghĩ đến sự hy sinh cho cha mẹ, cho các em không nỡ bỏ nhà đi lấy chồng, bà Tú thương con buộc nàng phải xuất giá. Cô hàng xén xinh đẹp nổi tiếng cả một vùng ngày càng dấn thân vào cuộc đời khó nhọc, một tấn bi kịch không lối thoát. Về nhà chồng được mấy ngày nàng phải quẩy gánh hàng đi bán ngay, cậu giáo Bài lương chẳng bao nhiêu, Tâm lại phải è cổ gánh vác giang sơn nhà chồng:
“Bây giờ gánh hàng đã trở nên quá nặng trên đôi vai nhỏ bé. Chiếc đòn càng cong xuống và rền rĩ. Ngoài giang sơn nhà chồng nàng phải gánh vác, Tâm lại lo sao kiếm được đủ tiền để gửi thêm cho các em ăn học. Trong sương muối sớm, xót và giá lạnh, nàng đã phải bước ra ngõ và đi chợ rồi… Đời nàng lại đi như trước, chẳng khác gì. Những ngày khó nhọc và cố sức lại kế tiếp nhau”
Thật là bất ngờ, một cô gái nết na xinh đẹp, nổi tiếng cả một vùng ngày càng dấn thân vào cuộc đời gian khổ. Đó là thân phận một người phụ nữ một cổ hai chòng, cuộc đời nàng chỉ toàn là hy sinh gánh vác: Mọi chi tiêu trong gia đình chỉ trông vào nàng: Bà Tú nhắn người bảo Tâm gửi thêm cho em, nàng phải đưa dấu vì mẹ chồng vàcậu giáo Bài đã bắt đầu nghi ngờ và đay nghiến nàng.
Nàng đã già đi, nhan sắc phai tàn, đâu còn là cô hàng xén xinh đẹp nổi tiếng cả một vùng, tre già măng mọc, nàng nay đã hết thời, đã có những cô gái khác mới lớn tươi tắn và rưc rỡ . . Tác giả cũng ngụ ý về số mệnh con người.
“Tâm lại nghĩ đến ngày trước kia, hình như đã lâu lắm, nàng còn là cô hàng xén má hồng, môi đỏ e lệ cúi mặt dưới cái nhìn âu yếm của cậu giáo Bài nho nhã và đứng đắn trong tấm áo lương. Thời ấy bây giờ đâu? Chị Liên may mắn đã lấy được chồng giầu, lên buôn bán trên tỉnh . Chị ấy vẫn trẻ đẹp như xưa. Tâm khẽ thở dài: bây giờ các chị em bạn cũ không còn ai ở lại để cùng chia sẻ những nỗi khó nhọc với nàng”
Tác phẩm như để ca ngợi tấm lòng hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam nhưng chủ đề chính là bi kịch về thân phận con người, về những cuộc đời gian khổ đáng thương điển hình là cô hàng xén .
“Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện ra trước mắt, tối tăm và dầy đặc. Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối”
Cô Hàng Xén, một trong những đoản thiên hay nhất của nền văn chương Việt Nam đã cho ta thấy giá trị hiện thực tuyệt vời trong nghệ thuật tả chân của Thạch Lam. Một tác phẩm văn chương nhỏ bé đã làm sống lại cả một xã hội còn đượm những giá trị hy sinh cao đẹp, di sản của một nền văn minh tinh thần nay còn đâu? chúng ta không khỏi bùi ngùi cho thân phận bi đát của con người và cảm thấy nuối tiếc cho những giá trị cao cả tuyệt vời của nền văn minh tinh thần ấy nay đã bị chôn vùi dưới lớp cát bụi của thời gian.

TỐI BA MƯƠI

Một truyện ngắn đặc sắc, cảm động đầy nước mắt về thân phận của những người cùng mạt tận đáy xã hội.
Liên và Huệ, hai chị em họ, bỏ nhà đã bẩy tám năm nay sống đời giang hồ trụy lạc. Liên mua đồ cúng giao thừa về khi Hậu còn đang ngủ. Họ dở các gói thức ăn ra, nào lạp xưởng, bánh chưng, dò lụa.
Huệ rớm nước mắt nhớ tới thời thơ ấu, nàng mặc áo mới ngày mồng một tết… nghĩ đến đấy tâm hồn nàng bỗng u ám nặng trĩu.
Họ bầy đồ cúng lên bàn: đĩa cam quít, bánh chưng, lạp xưởng rồi cắm hương lên tường cúng. Người bồi nhà chứa chào các cô về ăn tết, chỉ còn lại hai chị em trong căn nhà hoang vắng. Mùi hương tỏa ra khiến họ nhớ đến những ngày cúng giỗ ở nhà xa xưa.
Liên đứng trước bàn thờ một lúc rồi khóc nấc lên. Hai chị em tủi thân ôm nhau khóc trong tiếng pháo giao thừa nổ vang.
Đây là tấn bi kịch cuộc đời tội lỗi đáng thương của hai cô gái như đã bị xã hội bỏ quên trong khi mọi người đang tưng bừng đón giao thừa, đón những ngày thiêng liêng, vui tuơi nhất của một năm.
“Nàng nhìn quanh căn phòng bẩn thỉu. Dưới ánh ngọn đèn mờ, lỏng chỏng các đồ đạc quen thuộc; cái giường Hồng Kông cũ đồng han và rỉ sạm, cái bàn ghỗ ẩm ướt ở góc tường, hai cái ghế long chân. Liên nghĩ đến sự trơ trọi của đời mình. Tết đến nơi rồi. Tết đến thăm nàng ở đây, trong căn buồng nhà săm này cũng như đến những nơi thơm tho đầm ấm’’
Hai chị em họ xa nhà từ bao lâu nay; một người mẹ chết , cha lấy vợ khác không biết ở đâu, người kia còn cha mẹ nhưng không dám về, họ cô đơn trơ trọi đón xuân trong căn phòng lạnh lẽo này và trạnh lòng nghĩ đến thân phận hẩm hiu của mình.
“Cái vắng lạnh như mênh mông ra tận đâu đâu, ở khắp cả các phố Hà Nội đêm nay, Huệ tưởng đến những căn nhà ấm cúng và sáng đèn, then cửa cài chặt, mọi người trong nhà đang tấp nập sửa soạn đón năm mới trong sự thân mật của gia đình. Chỉ có hai chị em nàng xa cửa xa nhà”
Ở Thạch Lam ta thấy một sự hiện thực chua chát và tàn nhẫn, thật không còn gì cay đắng hơn.
“-Có gạo đây. Nhưng đổ vào cái gì bây giờ?
Hai chị em nhìn quanh gian buồng nghĩ ngợi, Liên bỗng reo lên.
– Đổ vào cái cốc này. Phải đấy, rất là…
Nàng im bặt dừng lại. Hình ảnh ô uế vừa đến trí nàng. Cái cốc bẩn ở góc tường, mà cả đến khách làng chơi cũng không thèm dùng đến, nàng định dùng làm bát hương cúng tổ tiên”
Sống trong một vũng bùn nhơ bẩn, họ tiếc thương quãng đời trong sạch đã mất đi mà không sao lấy lại được, tâm lý chung những kẻ đã mất quá khứ tươi đẹp của mình.
“Huệ nhắm mắt lại. Vì trông mưa bụi bay hay vì nàng khóc thật? Hình như có chút nước mắt vừa rớm ở mi nàng. Huệ chớp khẽ rồi nhớ đến cuộc đời mình, lúc trẻ thơ, lúc còn con gái ở nhà quê, một buổi sáng mồng một tết – Nàng không nhớ rõ năm nào, nhưng đã lâu lắm rồi thì phải – nàng mặc áo mới đứng trên thềm nhìn mấy bông hoa đào nở ở trước vườn”
Hoặc như:
“Khói hương lên thẳng rồi tỏa ra mùi thơm ngát đem lại cho hai nàng kỷ niệm những ngày cúng giỗ ở nhà, khi hai chị em còn là những cô gái trong sạch và ngây thơ”
Hai con chim lạc loài trơ trọi, lạc lõng giữa đêm giao thừa tưng bừng rộn rã khiến ta tưởng như họ là nạn nhân của cuộc đời, của xã hội và thấy xót xa cho cái thân phận cô đơn lạnh lẽo ấy đã bị đời khinh thị rẻ rúng.
“Nàng bỗng nấc lên rung động cả hai vai, rồi gục xuống ghế, tay ấp mặt. Những giọt nước mắt nóng chảy tràn mí mắt nàng không giữ được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh mông tràn ngập cả người, một nỗi thương tiếc vô hạn; tất cả thân thế nàng lướt qua trước mắt với những ước mong tuổi trẻ, những thất vọng chán chường.
Huệ nhìn Liên rồi nhẹ nhàng đến gần, buồn rầu vỗ vai bạn:
-Liên khóc làm gì nữa buồn lắm.
Tiếng nàng cũng cảm động nghẹn ngào. Dưới bàn tay thân mật của bạn, Liên càng nức nở. Hai chị em giờ này cảm thấy trơ trọi quá. Liên ngửng mặt lên nhìn Huệ, cố gượng một nụ cười héo hắt:
-Chị cũng khóc đấy ư?
Huệ gục xuống vai bạn không trả lời. Nước mắt cũng ứ lên rồi lặng lẽ trào ra má. Nàng quàng tay ôm hết sức chặt lấy Liên”
Tấn bi kịch đầy nước mắt cuộc đời hai người con gái đáng thương lỡ sa chân xuống hố sâu tội lỗi, ngụp lặn trong bể khổ mênh mông, một tác phẩm tuy ngắn ngủi nhưng cũng chan chứa tình thương yêu đồng loại.

DƯỚI BÓNG HOÀNG LAN

Thanh nghỉ làm về quê thăm bà, bà cụ già tóc bạc phơ chống gậy mừng rỡ lại đón cháu, chàng rửa mặt. Thanh vắng nhà đã gần hai năm, cảnh vẫn y như cũ, bà chàng vẫn tóc bạc phơ, hiền từ. Căn nhà, thửa vườn là nơi mát mẻ hiền lành, bà vẫn đợi cháu trong tình thương trìu mến.
Chàng nằm nghỉ trên giường nhìn ra ngoài khung cửa sổ thấy cây hoàng lan cao vút, mùi hương thơm thoang thoảng đưa vào. Chàng cảm động vì bà yêu cháu quá.
Nga, cô gái hàng xóm thấy chàng về sang chơi, bà chàng mời cô ăn cơm. Cơm nước xong Thanh dắt nàng đi thăm vườn, chàng thấy tóc nàng thơm như hoa hoàng lan . Thanh và Nga vít cành hái hoa.
Hôm sau Thanh lên tỉnh, chàng gửi lời chào Nga và biết rằng nàng vẫn nhớ mong chàng như trước.
Đây là một áng văn tao nhã tuyệt vời chưa từng thấy trong nền văn chương Việt Nam, một thế giới vô cùng thi vị thanh tao đầy những hương thơm của hoa hoàng lan, thiên lý.
Một truyện tình cảm thật đơn sơ nhưng đậm đà, một tình cảm khác lạ, tình bà cháu dịu dàng trìu mến .
“Thanh bước xuống dưới giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi bà chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc ở ngoài vườn vào. Thanh cảm động và mừng rỡ chạy lại gần.
-Cháu đã về đấy ư?
Bà cụ thôi nhai trầu, đôi mắt hiền từ dưới làn tóc trắng đưa lên nhìn cháu, âu yếm và mến thương.
-Đi vào trong nhà không nắng cháu.
Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ chống gậy còng. Tuy vậy chàng cảm thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ”
Thanh vắng nhà gần hai năm nay, chàng làm việc trên tỉnh và mong đến ngày nghỉ để tìm lại tình thương trìu mến của bà già mái tóc bạc phơ:
“Căn nhà với thửa vườn này đối với chàng như một nơi mát mẻ và hiền lành, ở đấy bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để yêu mến chàng”
Hoặc như.
“Nghe tiếng bà đi vào, Thanh vừa nằm yên giả vờ ngủ. Bà lại gần săn sóc buông màn…
…. Chàng cảm động gần ứa nước mắt. Bà yêu thương cháu quá, giờ chỉ có mình cháu với mình bà”
Chàng về quê cũng như để tìm lại tình cảm ngây thơ, trong trắng với cô em hàng xóm mà chàng đôi lúc tưởng như em ruột mình.
“Thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng và nụ cười tươi nở, nàng lại nhìn Thanh, một chút thôi, nhưng biết bao âu yếm.
Ngoài vười, trời vẫn nắng. Giàn thiên lý pha xanh một bên tá áo trắng của Nga. Những búp hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám lá. Gạch mát và phủ rêu khiến Thanh nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga ngày nào đi trên đó. Hai bàn chân nhỏ, lấm tấm cát, để dấu tự ngoài ao trở về”
Khác với không khí lãng mạn trong các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng. Tình yêu của Thạch Lam ở đây thanh cao, chân thực và thơm tho như mùi hoa hoàng lan thoang thoảng đâu đây, nó vừa là tình yêu, tình hàng xóm, tình anh em và tình người.
“Bữa ăn xong, Thanh với Nga trở lại thân mật như khi còn nhỏ. Thanh dắt nàng đi xem vườn; cây hoàng lan cao vút, cành lá rủ xuống như chào đón hai người. Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng hương thơm như có giắt hoàng lan. Nhưng hoa lan chưa rụng, vẫn còn tươi xanh ở trên cành. Nga bảo Thanh.
-Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá.
Thanh chẳng biết nói gì, chàng vít một cành lan xuống giữ ở trong tay Nga để tìm hoa, rồi nhẹ nhàng buông ra cho cành lại cong lên. Nắng soi vào hai người, nhưng dưới chân, đất vẫn mát như xưa”
Dưới Bóng Hoàng Lan không phải một mối tình lãng mạn tha thiết, nhưng một tình yêu ngây thơ, trong trắng, chất phác, hồn nhiên trong cảnh thanh cao, thơm ngát của thôn quê khiến ta mơ mơ màng màng như lạc vào cõi thần tiên.
“Đêm ấy, một bà, một cháu với một cô láng giềng chuyện trò dưới bóng đèn mãi tới khuya. Khi trăng lên, qua vườn Thanh tiễn Nga ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sương. Mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió mát. Không lưỡng lự, Thanh cầm lấy tay Nga để yên trong tay mình. Nga cũng đứng yên lặng. Lúc lâu Nga rút tay khẽ nói .
-Thôi em về!”
Căn nhà miền quê, thơm tho xinh đẹp tràn trề tình cảm là nơi Thanh trở về nghỉ ngơi sau thời gian làm việc để hưởng những ngày tươi đẹp.
Dưới Bóng Hoàng Lan, đoản thiên thanh tao và trang nhã nhất của Tự lực Văn Đoàn, của nền văn chương Việt Nam.
Tác giả Nhà Văn Hiện Đại đã dành cho tập truyện ngắn Sợi Tóc một địa vị rất cao trong văn chương Việt Nam, và cho tới nay chúng thấy hình như ít có tác phẩm nào sánh kịp. Các đề tài khác biệt nhau: xã hội, bi kịch, tình cảm y như đóa hoa ngũ sắc rực rỡ đã thể hiện cái thiên tài hiếm có của Thạch Lam, từ thanh cao cho đến ô trọc đều đã được ông diễn đạt một cách phong phú, sâu sắc. Nghệ thuật Thạch Lam mang nhiều ý nghĩa thâm sâu và sáng sủa, có lúc thật dễ thương, ngọt ngào tràn đầy tình cảm dạt dào, có lúc thật phũ phàng tàn nhẫn.

Trọng Đạt

Hết Trầm Hương 1